H.G. Wells ra đời năm 1866 trong một gia đình nghèo khó và nhiều tai họa. Bằng trí thông minh hiếm có và chí phấn đấu mãnh liệt, mặc dù phải bận rộn vật lộn với miếng ăn ngay trong thời niên thiếu, ông vẫn đạt những bước tiến đều trên con đường học vấn. Được đại học Royal College of Science, Kensington, cấp học bổng, ông là một sinh viên ưu tú của khoa học gia nổi tiếng T.H. Huxleỵ Ra trường với ngành động vật học, ông có dự tính trở thành một giáo sự Không ngờ năm 21 tuổi, một tai nạn trên sân túc cầu phá hư một chiếc thận; ông phải nằm liệt giường một thời gian dài; con đường dạy học đành bỏ dở. Hoàn cảnh thiếu may mắn đó bắt buộc ông phải ứng biến, và tình cờ bước vào sự nghiệp văn chương.
Kiến thức khoa học có sẵn cộng với óc tưởng tượng vô cùng phong phú trở thành tài sản quý báu, Wells thành công rất sớm với những truyện ngắn, xã luận, và tranh khôi hài đăng báo. "The Time Machine" là truyện dài đầu tay của ông, xuất hiện từng kỳ trên mặt báo rồi được in thành sách năm 1985. Độc giả khắp nơi thấy ngay dấu hiệu của một thiên tài, và Wells nổi tiếng nhanh chóng khắp thế giới.
Trong vòng năm mươi năm, H.G. Wells cho ra đời một số lượng kinh hồn là 150 tác phẩm. Ông viết nhiều loại, nhưng thành công nhất vẫn là khoa học giả tưởng, mà ngoài "The Time Machine" còn phải kể đến "War of the Worlds" (chiến tranh liên hành tinh), "The Invisible Man" (người vô hình), "The Island of Doctor Moreau" (hòn đảo của bác sĩ Moreau).
Ông mất năm 1946 giữa lúc uy tín đang suy sụp trầm trọng vì xuất bản quá nhiều tác phẩm tầm thường - nằm ngoài sở trường khoa học giả tưởng của ông - trong hơn 20 năm liền. Nhưng gần đây phong trào đọc H.G. Wells đã mạnh mẽ trở lại. Người ta khám phá rằng trong khoảng 20 tác phẩm có lẽ sẽ tồn tại vĩnh viễn với thời gian, Wells không những chỉ chứng tỏ tài nghệ văn chương mà còn có viễn quan chính xác. Những suy tưởng của ông về con người, về thế giới, về vũ trụ không còn là giả tưởng xa xôi nữa, mà càng lúc càng phản ảnh trung thực đời sống đầy bất trắc và hoang mang của chúng ta.
Kẻ vượt thời gian (gọi hắn như vậy cho dễ nhớ) đang cố giải thích một chuyện thật lạ và khó tin. Mắt hắn rực lên nét hăng hái, và khuôn mặt thường xanh xao của hắn hồng hào, sống động. Ngọn lửa trong lò sưởi bập bùng, ánh sáng từ ngọn đèn phản chiếu lấp lánh vào những đốm bọt nhỏ li ti đang sủi chạy trong các ly rượu. Những chiếc ghế, do hắn phát minh, không chỉ là vật thụ động bị ngồi lên mà đang liên tục vuốt ve, tạo sự dễ chịu cho mọi người. Tất cả tạo thành cái không khí thoải mái sau bữa ăn tối, khi mà ý tưởng được giải phóng khỏi mọi sự kềm hãm, tha hồ bay nhảy tự do.
Trong khi chúng tôi ngồi lười biếng thán phục thái độ chân thành của một người nhiều tưởng tượng (tối thiểu chúng tôi nghĩ thế lúc ấy), hắn vừa trỏ ngón tay út mảnh khảnh về phía trước để nhấn mạnh vấn đề, vừa liên tục nói say sưa:
"Qúy vị phải nghe tôi thật kỹ. Tôi sẽ đi ngược lại một hoặc hai điều mà ai cũng xem là đương nhiên đúng. Môn hình học mà họ dạy quý vị trong trường, chẳng hạn, đã được đặt trên nền tảng sai lầm."
"Anh bắt đầu kiểu này thì có khác gì làm khó chúng tôi?" Filby, một chàng tóc hung hay lý sự, đặt vấn đề.
"Tôi không đòi quý vị phải công nhận bất cứ một điều gì mà không giải thích rõ ràng. Rồi quý vị sẽ công nhận đủ những điều tôi mong muốn. Hẳn quý vị đã biết một đường thẳng toán học, mà theo định nghĩa là không có bề dày, không thể nào hiện hữu trên đời. Họ dạy quý vị như thế phải không? Mặt phẳng toán học nữa. Tất cả chỉ là quan niệm trừu tượng."
"Đúng thế!" Nhà tâm lý học nhìn nhận.
"Như vậy, vì chỉ có chiều dài, chiều rộng, chiều cao, một khối thể cũng không thể nào hiện hữu được."
"Tôi phản đối," Filby nói. "Dĩ nhiên một khối đặc có thể hiện hữu. Tất cả những vật thể có thật... "
"Hầu hết chúng ta đều nghĩ thế. Nhưng khoan đã. Có thể nào một khối thể hiện hữu tức thời hay không?"
"Tôi không hiểu anh nói gì," Filby nói.
"Có thể nào một khối thể, không tồn tại trong bất cứ một khoảnh khắc ngắn ngủi nào, hiện hữu được không?"
Filby bắt đầu trầm tự "Rõ ràng," kẻ vượt thời gian tiếp, "mỗi vật thể đều phải có bốn chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều LÂU nữa. Nhưng vì một lý do thực tế đặc biệt mà tôi sẽ giải thích, chúng ta đã quên mất điều ấy. Ba chiều kia thường được gọi là ba mặt phẳng không gian, còn chiều thứ tư chính là THỜI GIAN. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng đặt ra một sự phân biệt sai lầm giữa ba chiều không gian và chiều thời gian, vì ý thức của chúng ta thường di chuyển bất định về đúng một phía của chiều thời gian từ lúc khởi đầu cho đến đoạn cuối cuộc đời."
"Điều này," một thanh niên vừa lên tiếng vừa cố châm lại điếu xì gà bằng ngọn lửa trong chiếc đèn để bàn, "điều này... thật là rõ lắm."
"Đáng ngạc nhiên là chẳng ai để ý đến điều ấy," kẻ vượt thời gian tiếp, nét vui trên mặt tăng lên một chút. "Đây chính là chiều thứ tư, mặc dù nhiều người từng nhắc tới chiều thứ tư không biết là họ muốn nói đến nó. Chiều thứ tư là một cách nhìn thời gian. Không có sự khác biệt nào giữa chiều thời gian và ba chiều không gian, trừ một điều là ý thức của chúng ta di chuyển theo nó. Nhưng một số người ngây thơ đã nghĩ sai về chiều thứ tự Chắc quý vị đều biết rõ quan điểm của họ?"
"Tôi chưa biết," ông thị trưởng nói.
"Rất đơn giản. Không gian, theo các nhà toán học, được xem là có ba chiều gọi là chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Ba chiều ấy có thể được xác định bằng ba mặt phẳng thẳng góc với nhau. Nhưng một số triết gia đặt câu hỏi "Tại sao ba mặt phẳng, tại sao không thể có một mặt phẳng khác thẳng góc với cả ba mặt phẳng kiả" và họ cố tạo dựng khoa hình học bốn chiều. Giáo sư Simon Newcomb đã trình bày quan điểm này trước hội toán học New York mới khoảng hơn tháng trước đây. Qúy vị đều biết rằng trên một mặt phẳng (chỉ có hai chiều) chúng ta có thể biểu diễn một vật thể ba chiều mà không làm mất bất cứ đặc tính nào của nó. Tương tự, họ nghĩ rằng với ba chiều, họ có thể biểu diễn các vật thể có bốn chiều, nếu họ nắm vững mọi quy luật cần thiết."
"Tôi cũng nghĩ vậy," ông thị trưởng lẩm bẩm. Đôi lông mày nhíu lại, ông chìm vào cõi suy tư, cặp môi ông di động như người đang lập đi lập lại một câu thần chú. "Phải, giờ tôi đã hiểu rồi," ông thốt lên sau một lúc lâu, với một nét vui mừng không lấy gì làm rõ ràng, chắc chắn.
"Được. Tôi không ngại cho quý vị biết rằng tôi đã nghiên cứu khoa hình học bốn chiều từ khá lâu nay, và đã khám phá ra một số kết quả khá lạ lùng. Thí dụ, đây là tấm hình của một người phái nam lúc tám tuổi, tấm này lúc 15 tuổi, tấm này 17 tuổi, tấm kia 23 tuổi, v.v... Tất cả đều có thể gọi là những "thời đồ", hình biểu diễn ba chiều của một sinh vật bốn chiều, cố định và không thể biến đổi.
"Giới khoa học," kẻ vượt thời gian ngưng nói một chút để chúng tôi có đủ thời giờ ghi nhận, rồi tiếp, "biết rất rõ thời gian chỉ là một loại không gian. Đây là một biểu đồ quen thuộc, biểu đồ thời tiết. Đường mà tôi đang chỉ biểu diễn những thay đổi của hàn thử biểu. Hôm qua ở mức độ cao, tối qua thấp hơn, rồi sáng nay lại tăng lên dần đến đây. Mức thủy ngân làm sao đi theo đường biểu diễn này nếu chỉ có ba chiều không gian quen thuộc? Nhưng hiển nhiên nó đã vẽ đường này, và đường này, vì vậy, phải được kết luận là đường của chiều thời gian."
"Nhưng," ông bác sĩ nói, mắt đăm đăm nhìn một khối than đá trong lò sưởi," nếu thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian, tại sao, và tại sao từ trước đến nay vẫn thế, nó được coi là một chiều khác? Tại sao chúng ta không thể di chuyển trong thời gian như trong ba chiều kia của không gian?"
Kẻ vượt thời gian mỉm cười. "Ông có chắc chúng ta có thể di chuyển tự do trong không gian không? Chúng ta có thể đi về phía trái, phía phải, phía trước, phía sau, và con người đã luôn luôn làm thế. Nhưng chiều lên xuống thì sao? Chúng ta bị ngăn cản bởi sức hút trái đất kia mà."
"Không hẳn," ông bác sĩ nói. "Có khinh khí cầu."
"Nhưng trước thời của khinh khí cầu, trừ những chuyện nhảy lên nhảy xuống và sự khác biệt chiều cao của mặt đất, con người không có tự do di chuyển theo chiều thẳng đứng."
"Nhưng họ vẫn có thể di chuyển lên xuống chút ít, như anh đã nói."
"Xuống, xuống dễ hơn lên rất nhiều."
"Nhưng anh không thể di chuyển trong thời gian một chút nào hết, anh không thể thoát khỏi giây phút hiện tại."
"Thưa ông bác sĩ thân kính, đó chính là điểm sai lầm của ông. Đó chính là điểm sai lầm của cả thế giới. Chúng ta luôn luôn rời xa hiện tại. Những thực thể tâm thức của chúng ta, vốn không có hình thể và khối lượng, di chuyển trên chiều thời gian bằng vận tốc đều từ lúc nằm nôi xuống đến mộ phần. Y hệt như trường hợp đi xuống thấp nếu chúng ta bắt đầu sự hiện hữu ở một nơi trên cao hơn mặt đất 50 dặm.
"Điều khó khăn là," nhà tâm lý học ngắt lời. "Anh có thể di chuyển qua lại trong cả ba chiều của không gian, nhưng không thể làm tương tự với thời gian."
"Đó chính là nguyên nhân dẫn đến phát minh lớn của tôi. Nhưng ông đã lầm khi nói rằng chúng ta không thể di chuyển trong thời gian. Thí dụ, khi tôi hồi tưởng lại từng chi tiết của một việc đã qua có nghĩa là tôi trở lại phút giây xảy ra việc đó: trạng thái lúc ấy của tôi thường được gọi là đãng trí. Dĩ nhiên, cũng như một anh mọi hoặc một con thú nhảy cao lên khỏi mặt đất rồi tức thì rơi xuống, tôi không thể lưu lại ở phút giây quá khứ, mà sẽ bị kéo về hiện tại. Nhưng chú ý rằng trong thí dụ tôi vừa đưa ra, một người văn minh hơn một anh mọi ở chỗ là người ấy có thể dùng khinh khí cầu để bay lên ngược chiều hút của trái đất. Đã thế, tại sao chúng ta - những người văn minh - không có quyền hy vọng sẽ có một lúc, chúng ta có thể dừng lại hoặc đi nhanh hơn theo chiều thời gian; và ngay cả quay đầu lại, đi ngược chiều thời gian nữa?
"Chuyện này," Filby xen vào, "tất cả chỉ là... "
"Tại sao không được?" Kẻ vượt thời gian hỏi.
"Trái với lý lẽ," Filby nói.
"Lý lẽ nào?" Kẻ vượt thời gian hỏi.
"Anh có thể dùng lập luận để chứng minh rằng màu đen là màu trắng," Filby đáp, "nhưng anh sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được tôi."
"Có lẽ không," kẻ vượt thời gian nhìn nhận. "Nhưng chắc quý vị đã bắt đầu hiểu mục đích cuộc nghiên cứu của tôi về hình học bốn chiều. Từ lâu tôi đã có khái niệm mơ hồ về một cái máy... "
"Để vượt thời gian!" Chàng thanh niên thốt lên.
"Di chuyển trong thời gian, theo bất cứ chiều nào." Filby phá lên cười.
"Nhưng những điều tôi nói đều có thí nghiệm chứng minh." Kẻ vượt thời gian nói.
"Nếu làm được như anh nói thì rất tiện lợi cho các sử gia," nhà tâm lý học nhận xét. "Họ có thể lùi lại thời gian để kiểm chứng những gì đã được ghi lại về trận Hastings chẳng hạn!"
"Ông không nghĩ làm như vậy là gây ra khó dễ à?" Ông bác sĩ nói. "Tổ tiên chúng ta chắc không thích những kẻ hay kể chuyện sai đâu."
"Mình có thể nghe tiếng Hy Lạp ngay từ miệng Homer hoặc Plato," người thanh niên nói.
"Nếu vậy người ta sẽ không để yên anh đâu. Các học giả Đức đã cải tiến tiếng Hy Lạp rất nhiều."
"Và rồi còn tương lai nữa," người thanh niên lại nói. "Thử nghĩ xem! Chúng ta có thể đầu tư hết cả gia sản, để tiền lời tự sinh ra, rồi tới sớm để mà hưởng thụ!"
"Khám phá một xã hội," tôi nói, "xây dựng hoàn toàn trên nền tảng cộng sản."
"Nghe như một thuyết hoang đường!" nhà tâm lý học trở lại vấn đề.
"Phải, chính tôi đã từng nghĩ thế," kẻ vượt thời gian trả lời, "vì vậy tôi chưa bao giờ nói chuyện này với người khác, cho tới khi... "
"Có thí nghiệm chứng minh!" Tôi thốt lên. "Anh sẽ chứng minh những điều anh nói thật sao?"
"Chứng minh, chứng minh!" Filby kêu thành tiếng. Hắn có vẻ hết chịu đựng nổi những lời giải thích của kẻ vượt thời gian.
"Hãy cho chúng tôi nhìn tận mắt thí nghiệm của anh," nhà tâm lý học yêu cầu, "mặc dù, như anh biết, chúng tôi thấy khó tin lắm."
Kẻ vượt thời gian mỉm cười đảo nhìn hết chúng tôi. Rồi, trong khi vẫn giữ nụ cười nhẹ, với hai tay đút sâu trong túi quần, hắn bước chậm ra khỏi phòng. Chúng tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp của hắn kéo dài trên hành lang dẫn tới phòng thí nghiệm.
Nhà tâm lý học nhìn chúng tôi. "Không biết hắn định làm gì đây?"
"Một trò ảo thuật nào đó," ông bác sĩ nói, và Filby cố tranh thủ thời gian, kể vội cho chúng tôi nghe về một ảo thuật gia mà hắn đã chứng kiến ở Burslem; nhưng nhần nhập đề chưa xong thì kẻ vượt thời gian đã trở lại, Filby đành bỏ dở câu chuyện.
Trong tay kẻ vượt thời gian là một vật chói ánh kim loại, không lớn hơn chiếc đồng hồ để bàn bao nhiêu và có vẻ như đã được chế tạo một cách tỉ mỉ. Có phần làm bằng ngà, có phần bằng pha lê trong suốt. Đến đây tôi phải đi vào chi tiết vì những gì xảy ra sau đó - trừ trường hợp quý vị đã chấp nhận những lời giải thích của kẻ vượt thời gian, không kể - thật là vô cùng khó tưởng tượng. Hắn kéo một trong những chiếc bàn ngũ giác nhỏ xếp đầy phòng đến trước lò sưởi, hai chân bàn kê trên tấm thảm trước lò. Hắn đặt "chiếc máy" trên bàn rồi mang một chiếc ghế đến ngồi xuống. Trên bàn chỉ có thêm một ngọn đèn chiếu lung linh vào chiếc máy, nhưng xung quanh cũng có khoảng trên mười ngọn nến đặt ở những nơi khác nhau, nên phòng khá sáng. Tôi ngồi trên một chiếc ghế bành thấp mà tôi kéo tới trước để ở giữa kẻ vượt thời gian và chiếc lò sưởi. Filby ngồi sau lưng hắn, ngang tầm nên có thề nhìn xéo qua vai thấy rõ mọi chuyện. Ông bác sĩ và ông thị trưởng ở bên phải, nhà tâm lý học ở bên trái, và đứng sau nhà tâm lý học là người thanh niên. Tất cả chúng tôi đều chú tâm quan sát. Thật khó mà tin là có bất cứ trò ảo thuật nào, dù biểu diễn khéo léo đến đâu chăng nữa, qua mắt nổi chúng tôi.
Kẻ vượt thời gian nhìn chúng tôi rồi nhìn chiếc máy. "Anh còn chờ gì?" nhà tâm lý học hỏi.
"Chiếc máy này," kẻ vượt thời gian nói. Tay hắn chống lên bàn, hai bàn tay nắm vào nhau ở phía trên chiếc máy, "chỉ là một vật thí nghiệm sơ khởi. Thực ý của tôi là làm một chiếc máy thật, để đi lại trong thời gian. Chắc quý vị thấy hình thù của chiếc máy hơi kỳ lạ, và cái thanh ngang này có một vẻ quái đản, như thể nó không có thật." Hắn chỉ trỏ. "Lại nữa, đây là một chiếc cần nhỏ màu trắng, và đây là một chiếc cần khác."
Ông bác sĩ rồi ghế đứng dậy nhìn chiếc máy. "Thật là công phu," ông nói.
"Tôi mất hai năm để làm nó đấy," kẻ vượt thời gian tức thì đáp lại. Và, trong khi chúng tôi cùng đứng dậy, cố nhìn chiếc máy thật gần như ông bác sĩ, hắn nói, "Tôi muốn quý vị hiểu rằng cái cần này, nếu ấn xuống, sẽ đưa chiếc máy về tương lai, và cái cần kia chiều ngược lại. Cái yên này là chỗ ngồi của kẻ vượt thời gian. Tôi sẽ ấn cái cần này, và chiếc máy sẽ bắt đầu cuộc hành trình. Nó sẽ đi đến tương lai rồi biến mất. Hãy nhìn nó cho kỹ, và chiếc bàn nữa, để biết chắc đây không phải là một trò ảo thuật. Tôi không muốn mất chiếc máy mà bị coi là một thằng láo khoét."
Một phút lặng lẽ trôi quạ Hình như nhà tâm lý học muốn nói với tôi một điều gì đó nhưng lại đổi ý. Kẻ vượt thời gian đặt ngón tay vào chiếc cần. "Không," hắn đột nhiên nói. "Ông cho tôi nhờ." Hắn quay sang, nắm tay nhà tâm lý học và bảo ông ta chìa ngón trỏ ra. Nhà tâm lý học trở thành người đưa chiếc máy vào cuộc hành trình vô định của nó. Tất cả chúng tôi chứng kiến chiếc cần di chuyển. Tôi chắc chắn là không có trò lừa đảo nào hết. Một luồng gió thổi, ngọn lửa trong chiếc đèn để trên bàn nhảy múa, và đột nhiên chiếc máy nhỏ quay tròn, trở thành mờ ảo như một bóng ma, trong vài giây có lẽ, như một cuộn hình ảnh chập chờn hỗn độn của màu thau bóng và màu ngà trắng; và rồi nó không còn nữa - biến mất! Trên bàn chỉ còn chiếc đèn đứng chơ vơ.
Chúng tôi im lặng đến cả phút đồng hồ, rồi Filby kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc.
Nhà tâm lý học như bừng tỉnh, vội đưa mắt nhìn dưới chiếc bàn. Kẻ vượt thời gian cười lên vui vẻ. "Ông còn chờ gì?" Hắn cố ý nhắc lại lời của nhà tâm lý học lúc nãy. Rồi hắn đứng lên, đến kệ lấy keo thuốc lá và nhồi thuốc vào píp, lưng quay về phía chúng tôi.
Chúng tôi nhìn nhau. "Cho tôi hỏi," ông bác sĩ nói, "anh có đùa với chúng tôi không đấy? Anh thực sự tin là chiếc máy đó đã đi vượt thời gian?"
"Dĩ nhiên," kẻ vượt thời gian trả lời trong khi cúi người để đốt một đoạn giấy mồi. Rồi hắn quay lại, châm píp, nhìn thẳng vào mặt nhà tâm lý học. (Nhà tâm lý học muốn chứng tỏ mình vẫn bình tĩnh cũng tự châm một điếu xì gà, nhưng lại quên cắt đầu thuốc ra trước.) "Đặc biệt hơn nữa. Tôi có một chiếc máy lớn sắp hoàn thành, ở trong kia" - hắn muốn nói tới phòng thí nghiệm - "và khi làm xong chiếc máy ấy, tôi muốn tự mình làm một cuộc du hành."
"Anh muốn nói rằng chiếc máy hồi nãy đã đi đến tương lai?" Filby hỏi.
"Tương lai hay quá khứ - tôi không biết chắc."
Sau một giây phút, nhà tâm lý học nảy ra một kết luận. "Nếu nó đã đi đến bất cứ đâu thì chắc chắn là nó phải đi về quá khứ," ông nói.
"Tại sao?" Kẻ vượt thời gian hỏi.
"Vì tôi giả sử là nó không hề di chuyển trong không gian. Nếu nó đi về tương lai thì nó phải ở trước mắt chúng ta ngay tại lúc này, vì nó phải đi qua thời điểm hiện tại của chúng tạ"
"Nhưng," tôi nói, "nếu nó đi về quá khứ chúng ta phải thấy nó khi mới bước vào phòng này; và thứ năm tuần trước khi chúng ta cũng có mặt ở đây; và thứ năm tuần trước nữa, tuần trước nữa, vân vân!"
"Rất có lý," ông thị trưởng nhận xét. với một cung cách vô tư, ông quay sang kẻ vượt thời gian, chờ lời giải thích.
"Không đúng chút nào cả," kẻ vượt thời gian lên tiếng, và hắn nói với nhà tâm lý học: "Ông thử nghĩ đi. Ông có thể giải thích điều này được mà. Hình ảnh dưới mức cảm nhận, hình ảnh bị tan loãng... "
"Dĩ nhiên," nhà tâm lý học đáp, rồi trấn an chúng tôi. "Đó là một điểm tâm lý đơn giản. Đúng ra tôi đã phải nghĩ ra. Nó giản dị, và nó giải thích được mọi nghịch lý một cách toàn vẹn. Chúng ta không thể thấy chiếc máy hồi nãy, hoặc cảm nhận sự hiện diện của nó, cũng như trường hợp chiếc căm trong một bánh xe quay nhanh hoặc một viên đạn bay trong không khí. Nếu nó đi trong thời gian năm mươi hoặc một trăm lần nhanh hơn chúng ta, nếu nó trải qua một phút trong khi chúng ta trải qua một giây, cái cảm tưởng tạo thành dĩ nhiên sẽ chỉ là một phần năm mươi hoặc một phần trăm của trường hợp nó không di chuyển trong thời gian. Chỉ đơn giản như thế." Ông quơ tay vào chỗ để chiếc máy lúc nãy." Qúy vị thấy chứ?" Ông vừa nói vừa cười.
Chúng tôi ngồi nhìn chăm chăm vào mặt bàn thật lâu; rồi kẻ vượt thời gian hỏi chúng tôi nghĩ gì về tất cả những việc đã xảy ra.
"Tất cả đều có vẻ rất hợp lý trong đêm nay," ông bác sĩ nói; "nhưng phải đợi đến ngày mai đã. Hãy đợi sự thức tỉnh của đầu óc sẽ đến vào buổi sáng."
"Qúy vị có muốn thấy chiếc máy vượt thời gian không?" Kẻ vượt thời gian hỏi. Và tức thì, với chiếc đèn trên tay, hắn dẫn chúng tôi dọc theo chiếc hành lang dài lạnh lẽo dẫn tời phòng thí nghiệm. Tôi nhớ mồn một ánh đèn lung linh, hình dáng kỳ dị của đầu hắn in trên tường, bóng hắn nhảy múa theo từng nhịp đi. Tôi nhớ chúng tôi lẽo đẽo theo hắn, lòng đầy hoang mang nhưng chưa tin tưởng, và tôi nhớ phòng thí nghiệm ấy, nơi chúng tôi nhìn thấy bản phóng lớn của chiếc máy nhỏ đã biến mất trước mắt chúng tôi. Có phần bạch kim, phần ngà, phần chắc chắn phải là do đá được mài hoặc cưa ra mà thành. Chiếc máy đại khái hoàn tất, nhưng có những thanh pha lê làm chưa xong nằm trên bàn cạnh một số biểu đồ. Tôi cầm một thanh lên để nhìn cho kỹ. Hình như là thạch anh.
"Thật không," ông bác sĩ hỏi, "Tất cả là thật? Hay đây chỉ là một trò đùa - như con ma mà anh dọa chúng tôi giáng sinh năm ngoái?"
"Với chiếc máy này," kẻ vượt thời gian nói, tay giơ chiếc đèn lên cao, "tôi có ý định khám phá những bí mật của thời gian. Điều ấy rõ ràng với quý vị chứ? Tôi chưa bao giờ nghiêm trang hơn bây giờ cả."
Chúng tôi chẳng ai biết nên nghĩ gì cho phải.
Tôi gặp ánh mắt của Filby qua vai ông bác sĩ. Hắn nháy làm dấu với tôi, nhưng đó là dấu của một vẻ nghiêm trọng rõ rệt.
Lúc ấy có lẽ chẳng ai trong chúng tôi tin vào chiếc máy. Lý do chính là người chế tạo ra nó. Kẻ vượt thời gian thuộc loại người quá khôn ngoan nên trở thành đáng nghi ngờ. Bạn không bao giờ có cảm tưởng đã biết những điều cần biết về hắn; đằng sau vẻ thành thật, bạn luôn luôn có cảm giác như hắn ẩn dấu, che đậy một điều khó dự phòng, hoặc một trò quỷ quái, chờ đúng lúc bất ngờ mới tung ra. Nếu thay vì kẻ vượt thời gian mà là Filby, có lẽ chúng tôi đỡ nghi hơn. Vì chúng tôi hiểu con người của Filby - đúng hơn phải nói ngay cả anh chặt thịt heo ngoài chợ cũng hiểu Filbỵ Ngược lại, kẻ vượt thời gian luôn luôn có một nét kỳ quái; chúng tôi không thể tin hắn được. Mọi việc đều trở thành quá dễ dàng trong tay hắn. Những đặc tính được coi là đơn giản ở người khác, nếu hắn có cũng bị coi là phức tạp. Ngay cả những người nể vì kẻ vượt thời gian cũng không dám đoán hắn sẽ làm gì; như thể có sự hiểu ngầm rằng nếu đặt danh dự vào việc tin tưởng hắn cũng chẳng khác nào gửi đồ sứ dễ bể ở một trường dạy con nít mẫu giáo.
Vì vậy chúng tôi chẳng nói gì nhiều về chuyện vượt thời gian giữa thứ năm tuần đó và thứ năm tuần sau; mặc dù chắc chắn trong đầu óc mỗi người đều ngập đầy những suy nghĩ: chuyện vượt thời gian có trái khoa học không, nếu không trái khoa học thì có chắc thực hiện được không? Mà nếu đã về quá khứ, thấy rõ sự thật, thì phải làm gì về những đoạn viết sai trong lịch sử? Riêng tôi bị ám ảnh thật nhiều bởi trò "ảo thuật" của hắn. Tôi nhớ tôi có bàn chuyện này với ông bác sĩ vào thứ sáu lúc gặp nhau ở Linnaean. Ông nói là đã tận mắt chứng kiến một trò tương tự Ở Tubingen. Theo ông, mấu chốt là lúc ngọn nến bị thổi tắt. Nhưng ông không giải thích nổi trò ấy được làm như thế nào.
Thứ năm tuần kế tiếp tôi lại đến Richmond - hình như tôi là một trong những người khách thường trực nhất của kẻ vượt thời gian. Hơi trễ giờ, đến nơi tôi đã thấy bốn năm người ngồi sẵn ở phòng khách. Ông bác sĩ đứng cạnh lò sưởi, một tay cầm một mảnh giấy, tay kia cầm đồng hồ. Tôi nhìn quanh tìm kẻ vượt thời gian.
"Bảy giờ rưỡi rồi," ông bác sĩ nói, "chắc mình dùng bữa trước đị"
"Hắn đâu?" tôi hỏi.
"Anh mới tới phải không? Lạ lắm. Hắn có chuyện kẹt. Hắn có viết trong mảnh giấy này, nhờ tôi mời mọi người dùng bữa lúc bảy giờ nếu không thếa mặt hắn. Hắn nói sẽ giải thích tất cả khi trở lại."
"Để đồ ăn nguội hết thì thật uổng," anh chủ một tờ báo khá sáng giá trong địa phương lên tiếng. Nghe vậy, ông bác sĩ liền bấm chuông làm hiệu cho dọn thức ăn ra.
Trong những người có mặt tuần trước, lần này chỉ thấy ba người là tôi, nhà tâm lý học, và ông bác sĩ. Những khuôn mặt kia gồm có Blank, anh chủ báo mà tôi đã nhắc đến, một ký giả, và một ký giả khác - một người im lặng, nhút nhát để râu quai nón - mà tôi không quen biết; và nếu tôi nhớ không lầm, hình như ông ta không hề mở miệng một lần nào suốt đêm đó. Chúng tôi vừa ăn vừa đoán mò về lý do vắng mặt của chủ nhà, mà tôi nửa đùa nửa thật nói là chắc còn bận vượt thời gian. Anh chủ báo nghe vậy sinh thắc mắc, nhà tâm lý học bèn giải thích đại khái cho anh nghe về cái "thuyết nghịch lý và trò ảo thuật đầy sáng tạo" mà chúng tôi mục kích tuần trước. Trong khi ông còn đang giải thích thì cánh cửa hành lang mở ra một cách chậm chạp và lặng lẽ. "Chào!" Tôi nói. "Cuối cùng anh đã về!" Cánh cửa mở rộng hơn, kẻ vượt thời gian đứng trước mắt chúng tôi. Tôi chấm dứt câu nói bằng một tiếng kêu kinh ngạc.
"Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra cho anh vậy?" Ông bác sĩ thốt lên. Ông là người thứ hai nhìn thấy hắn. Mọi người không hẹn mà cùng quay về phía cánh cửa.
Kẻ vượt thời gian ở trong một tình trạng thê thảm. Chiếc áo khoác bám bụi dơ bẩn, tay áo dính bê bết màu xanh. Tóc hắn rối bù, tôi có cảm tưởng đã bạc hẳn đi - không hiểu vì bụi bám hay vì thực sự thay màu. Mặt hắn xanh như tàu lá. Cằm hắn có một vết đứt chưa lành hẳn. Nét mặt hắn khốn khổ và mệt mỏi, như đã trải qua những đau đớn ghê gớm. Hắn đứng phân vân ở ngưỡng cửa một chút, như bị chói mắt bởi ánh đèn. Rồi hắn bước vào, khập khiễng như một kẻ bụi đời bị bệnh đau chân. Chúng tôi im lặng nhìn, chờ đợi hắn lên tiếng.
Nhưng hắn không nói, chỉ tiến tới bàn như một người đang bị cơn đau hành hạ. Tay hắn với chai rượi vang. Anh chủ báo liền đổ champagne vào đầy một chiếc ly, đẩy về phía hắn. Hắn uống cạn, rượu hình như giúp hắn phần nào bình phục: vì hắn bắt đầu nhìn quanh, trên môi hiện ra bóng dáng của nụ cười quái dị quen thuộc.
"Anh đã làm chuyện gì vậy?" Ông bác sĩ hỏi. Kẻ vượt thời gian hình như không nghe thấy. "Xin lỗi đã làm phiền quý vị," hắn nói bằng một giọng không mấy thông suốt. "Tôi không sao cả." Hắn ngừng lại, đưa ly ra đòi thêm rượu, và tức thì uống cạn. "Ngon thật", hắn nhận xét. Mắt hắn sáng hơn lên, và một chút sinh khí trở lại trên đôi gò má. Mắt hắn đảo qua chúng tôi như muốn tỏ một sự biểu đồng tình thiếu hăng hái. hắn đi vòng quanh căn phòng, rồi lại nói, như vẫn cố tìm một cách phát biểu thích hợp. "Tôi phải đi tắm và thay quần áo, rồi tôi sẽ xuống đây giải thích mọi chuyện... Nhớ để lại cho tôi một chút thịt cừu. Tôi thèm thịt lắm rồi."
Hắn nhìn xéo qua anh chủ báo, một người khách hiếm khi gặp, và hỏi thăm sức khỏe. Anh chủ báo đặt một câu hỏi. "Tôi có thể nói với ông," hắn trả lời, "là ngay bây giờ tôi chưa được bình thường lắm. Nhưng cho tôi một phút, tất cả sẽ đều tốt đẹp."
Hắn đặt ly xuống đi về phía cửa. Tôi lại chú ý đến dáng khập khiễng của hắn, những bước chân đi như vật nặng kéo lê trên sàn. Từ chỗ đứng, tôi nhìn thấy hai bàn chân hắn. Hai bàn chân không mang giày, chỉ có một đôi vớ rách rưới lấm tấm máu. Cánh cửa đã đóng lại sau lưng hắn mà nửa hồn tôi còn như muốn tìm theo những bước chân, rồi tôi nhớ lại là hắn vốn ghét sự chú ý quá đáng của người khác. Đầu óc tôi rối như mớ bòng bong đến cả phút đồng hồ. Rồi tôi nghe anh chủ báo nói: "Thái độ kỳ lạ của một khoa học gia tên tuổi." Câu nói nghe như tít của một bài báo đã đánh thức tôi trở lại với cõi thật của chiếc bàn ăn sáng sủa trước mặt.
"Trò gì vậy?" anh ký giả hỏi. "Hắn chơi trò kịch sĩ tài tử à? Tôi thật không hiểu." Tôi bắt gặp ánh mắt của nhà tâm lý học, và đọc thấy ý nghĩ của tôi trên mặt ông tạ Tôi nghĩ về kẻ vượt thời gian đang khập khiễng đau đớn trên lầu. Tôi cho rằng tôi là người duy nhất để ý đến tình trạng bất bình thường của đôi chân hắn.
Người thứ nhất hoàn toàn hồi tỉnh là ông bác sĩ. Ông rung chuông gọi một đĩa đồ ăn nóng - kẻ vượt thời gian không thích đầy tớ đứng hầu bàn trong bữa ăn. Thấy thế, anh chủ báo vừa hít hà vừa quay qua cầm dao nỉa lên; ông ký giả im lặng tức khắc làm theo. Bữa ăn tiếp tục. Những câu nói tiếp đó pha đầy sửng sốt xen vào với sự ngạc nhiên; và rồi anh chủ báo không còn dằn nổi tò mò nữa. "Bộ anh bạn của chúng ta thình lình đánh mất cái lợi tức khiêm nhượng của hắn rồi sao? Hay là hắn tự nhiên lên cơn sảng?" Anh hỏi. "Tôi chắc chuyện này phải dính tới cái máy vượt thời gian," tôi nói, và tiếp câu chuyện nhà tâm lý học kể dở dang lúc nãy. Những người khách mới rõ ràng là không tin. Anh chủ báo phản ứng. "Hắn đã vượt thời gian à? Người ta đâu thể nào dính bụi đầy áo vì cuộn mình trong đống đất của sự nghịch lý, phải không quý vị?" Rồi, cơn hứng nổi lên, anh xoay qua chuyện đùa cợt. "Bộ người tương lai không có bàn chải phủi bụi quần áo sao?" Anh ký giả cũng không tin một chút nào. Anh hùa theo, lấy câu chuyện để đùa bỡn, Họ thuộc lớp nhà báo tân thời, những người trẻ, vui vẻ, khônhg biết nể nang gì cả. "Đặc phái viên của chúng tôi loan tin trong ngày mốt rằng... " anh ký giả đang nói, đúng ra là đang hét lớn, giữa chừng thì kẻ vượt thời gian trở lại. Hắn mặc một bộ đồ đêm bình thường, và tất cả những nét đổi thay khiến tôi sửng sốt lúc nãy đã hoàn toàn biến mất, còn chăng là nét thê thảm trên khuôn mặt hắn mà thôi.
Anh chủ báo đùa: "Mấy tay này nói với tôi là anh đã vượt thời gian tới giữa tuần tới! Nói cho chúng tôi biết về cô bé Rosebery đi, được không? Muốn đòi gì anh cứ cho biết, rồi mình tính với nhau."
Kẻ vượt thời gian im lặng đến chiếc ghế đã dành sẵn cho hắn. Ngồi xuống rồi, hắn nở nụ cười nhẹ quen thuộc. "Thịt cừu của tôi đâu?" hắn nói. "Lại được ghim nỉa vào thịt quả là một hạnh phúc!"
"Kể chuyện đi chứ!" anh chủ báo giục.
"Không chuyện trò gì cả!" kẻ vượt thời gian đáp. "Tôi muốn ăn cái đã. Tôi không nói một chữ nào hết cho đến khi bơm đủ protein vào mạch máu. Cám ơn. Xin cho một chút muối."
"Vậy thì một chữ thôi," tôi yêu cầu. "Anh vừa đi vượt thời gian phải không?"
"Phải," kẻ vượt thời gian vừa trả lời vừa gật đầu, trong khi miệng vẫn còn đầy thức ăn.
"Tôi trả một shilling mỗi dòng cho người nào ghi lại từng chữ," anh chủ báo nói. Kẻ vượt thời gian đẩy cái ly về phía người im lặng, và ra dấy bằng cách gõ nhẹ móng tay vào thành lỵ Người im lặng đang chăm chăm nhìn thấy vậy vội vàng cuống quýt rót rượu vào đầy ly cho hắn. Những phút kế tiếp của bữa ăn không thoải mái chút nào. Phần tôi, những câu hỏi cứ đột ngột muốn trào ra miệng, và tôi dám chắc những người khác cũng thế. Anh phóng viên cố phá tan bầu không khí nặng nề bằng cách kể vài câu chuyện về Hettie Potter. Kẻ vượt thời gian chăm chú ăn. Hắn ăn khỏe như một kẻ bụi đời đói khát. Ông bác sĩ châm một điếu thuốc, nhíu mày trầm tư quan sát kẻ vượt thời gian. Người im lặng càng tỏ ra lúng túng, ông ta uống champangne từng ngụm lớn hết ly này sang ly khác rõ ràng chỉ vì bối rối.
Cuối cùng, kẻ vượt thời gian đẩy chiếc đĩa qua một bên và đảo mắt nhìn chúng tôi. "Chắc tôi phải yêu cầu quý vị tha lỗi," hắn nói. "Chỉ vì tôi đói quá. Tôi đã trải qua những giờ phút kỳ lạ ngoài sức tưởng tượng." Hắn với tay lấy một điếu xì gà và cắt đầu thuốc ra. "Chúng ta hãy qua phòng hút thuốc. Câu chuyện quá dài, kể bên cạnh những chiếc đĩa đầy dầu mỡ không hợp." Vừa đi vừa rung chuông báo hiệu cho đầy tớ biết bữa ăn đã chấm dứt, hắn dẫn chúng tôi sang phòng bên cạnh.
"Anh đã nói cho Blank, Dash, và Chose biết về chiếc máy?" hắn hỏi tôi, nhắc đến tên ba người khách mới, trong khi tựa lưng trên chiếc ghế xoay.
"Nhưng câu chuyện chỉ là một nghịch lý," anh chủ báo nói.
"Tôi không thể tranh luận với ai tối naỵ Tôi rất sẵn sàng kể cho quý vị nghe mọi chuyện, nhưng tôi không thể tranh luận. Tôi sẽ," hắn tiếp, "kể cho quý vị nghe về những chuyện đã xảy đến cho tôi, nhưng quý vị phải hứa là sẽ dằn lòng không ngắt lời tôi mới được. Tôi muốn kể chuyện. Muốn kinh khủng. Gần như toàn thể câu chuyện sẽ giống như những lời nói dối. Chẳng sao! Tất cả là sự thật - từng chữ một, chỉ đơn giản như thế. Bốn giờ chiều nay tôi có mặt trong phòng thí nghiệm, và từ lúc ấy... tôi đã trải qua tám ngày... những ngày mà chưa một người nào khác từng sống! Tôi gần như hoàn toàn kiệt lực, nhưng tôi không thể ngủ cho đến khi tôi kể hết mọi chuyện cho quý vị nghe. Rồi tôi sẽ yên tâm nghỉ ngơi. Nhưng không được ngắt lời! Đồng ý chứ?"
"Đồng ý," anh chủ báo nói, và chúng tôi phụ họa, "đồng ý."
Thế là kẻ vượt thời gian bắt đầu câu chuyện của hắn, chính là những điều mà tôi sắp viết ra đây. Ở đoạn đầu câu chuyện, hắn tựa lưng vào ghế, kể lể như một người mệt mỏi. Sau một lát, hắn trở nên sống động. Tôi biết thật rõ là với giới hạn của bút mực và với khả năng ngôn ngữ thiếu sót của tôi, thật không thể nào diễn tả sức lôi cuốn của câu chuyện đến nơi đến chốn. Tôi đoán là bạn sẽ đọc với mọi sự chú tâm; nhưng bạn không được thấy khuôn mặt trắng nhợt đầy nét chân thành của người kể lung linh dưới ánh sáng của ngọn đèn nhỏ, bạn cũng không được nghe những biến đổi trong giọng nói của hắn. Bạn không thể thấy những biểu lộ trên nét mặt hắn phù hợp với diễn biến của câu chuyện như thế nào! Chúng tôi, những người nghe đều ở trong bóng tối, vì những ngọn nến trong phòng không hề được thắp lên. Chỉ có khuôn mặt của anh phóng viên và khoảng chân từ đầu gối trở xuống của người im lặng là được ánh đèn chiếu tới. Lúc đầu thỉnh thoảng chúng tôi còn quay sang nhìn nhau. Một lúc sau chúng tôi không nhìn nhau nữa, tất cả mọi đôi mắt đều dán vào khuôn mặt của kẻ vượt thời gian.
"Tuần trước, một số trong quý vị đã nghe tôi trình bày nguyên tắc của chiếc máy thời gian và đã thấy nó - Ở tình trạng chưa hoàn tất - trong phòng làm việc của tôi. Bây giờ nó vẫn đang ở đó, trầy sướt chút đỉnh sau chuyến đi. Một cái cần bằng ngà bị nứt, và một cái lườn đồng bị cong; nhưng những bộ phận khác vẫn còn hoàn hảo.
"Tôi cứ tưởng có thể hoàn thành chiếc máy vào thứ sáu tuần trước, nhưng rồi tôi khám phá một thanh bạch kim bị ngắn đúng hai phân rưỡi, buộc lòng phải làm thanh khác, thành thử sáng hôm nay mới xong. Đúng mười giờ sáng, chiếc máy bắt đầu cuộc đời của nó. Tôi kiểm soát lại một lần cuối, vặn chắc những đinh ốc, nhỏ thêm một giọt nhớt vào chỗ nối cái cần thạch anh. Rồi tôi ngồi vào máy. Chắc những kẻ tự tử trong phút giây kề súng vào đầu mình cũng mang tâm trạng y hệt như tôi lúc ấy. Một tay tôi đặt trên cần số, tay kia đặt trên cần thắng. Người tôi đảo lộn vì cái cảm giác như người nằm mơ thấy mình rớt vào hố thẳm. Nhìn quanh, tôi vẫn thấy căn phòng thí nghiệm, tất cả y hệt như cũ. Có chuyện gì xảy ra chưa? Trong thoáng giây sau đó, tôi tưởng khả năng suy luận đã đánh lừa tôi. Nhưng rồi tôi nhìn lên đồng hồ. Ngay trước khi tôi kéo cần số, nó chỉ mười giờ hơn một phút gì đó, bấy giờ nó đã chỉ ba giờ rưỡi.
"Tôi thở mạnh, nghiến răng, nắm cần số bằng cả hai tay, ấn mạnh xuống. Phòng thí nghiệm mờ đi rồi tối sầm lại. Bà Watchett vào phòng rồi ra bằng cánh cửa dẫn tới sau vườn. Hình như bà không hề thấy tôi. Tôi ước lượng muốn đi qua căn phòng bà phải mất khoảng một phút, nhưng tôi lại thấy bà bắn ngang nhanh như một chiếc hỏa tiễn. Tôi ấn cần số xuống mức tận cùng. Đêm đến như người ta tắt một ngọn đèn, và trong chớp mắt đã là buổi sáng. Căn phòng thí nghiệm càng lúc càng trở thành mờ nhạt. Đêm hôm sau mang màu đen tới, rồi ngày, rồi lại đêm, lại ngày thay đổi mỗi lúc một nhanh. Những tiếng lùng bùng vang trong tai tôi như từng đợt sóng, đầu óc tôi tràn ngập một cảm giác khủng hoảng lạ lùng.
"Tôi e tôi không thể diễn tả trọn vẹn những cảm giác kỳ dị mà tôi trải qua trong lúc vượt thời gian. Khó chịu kinh khủng. Tôi có cảm giác bất lực của một người bị phóng nhanh về bóng tối phía trước. Tôi cũng có cảm giác của một người biết trước là nếu không ngừng lại sẽ bị chạm vào một cái gì đó mà tan xác. Vận tốc càng tăng, đêm nối theo ngày như nhịp vỗ của một đôi cánh đen. Nét mờ nhạt của căn phòng thí nghiệm hình như rời xa tôi. Tôi thấy mặt trời từ dưới phóng lên cao mỗi phút, mỗi phút đánh dấu một ngày. Tôi đoán căn phòng thí nghiệm đã bị phá huỷ và tôi đã ra ngoài không khí. Tôi có cảm giác thoáng qua như thấy những tấm ván được dùng làm sàn cho thợ hồ xây cất, nhưng vì đang đi quá nhanh nên không thể nhận rõ bất cứ vật gì. Con ốc sên chậm chạp nhất cũng trở thành quá nhanh đối với tôi. Mắt tôi như không còn chịu nổi sự biến đổi chớp nhoáng giữa bóng tối và ánh sáng.
"Rồi trong những khoảng tối ẩn hiện, tôi thấy mặt trăng xoay chuyển nhanh chóng từ khuyết đến tròn, và bóng mờ của những ngôi sao xoay vần trên bầu trời. Vận tốc vẫn gia tăng, sự biến đổi giữa ngày đêm đã hoà thành một màu xám liên tục; bầu trời biến ra một màu xanh đậm huy hoàng, loại màu óng ánh của những buổi chiều đẹp sắp chuyển qua đêm tối; mặt trời trở thành một lằn lửa cong rực rỡ đứng yên trên không trung; mặt trăng như một lằn khác, nhạt hơn và xoay động nhiều hơn. Tôi không thấy những vì sao nữa, ngoại trừ thỉnh thoảng có một khoảng sáng lập loè lẫn vào giữa vùng xanh thẵm.
"Khung cảnh mờ ảo như có phủ sương. Tôi vẫn ở trên sườn của chiếc đồi này, đỉnh của nó ở phía trên tôi nhạt nhòa sắc xám. Tôi thấy cây cối mọc và thay đổi như những đợt hơi nước, vàng, rồi xanh; cỏ trồi lên, lan tràn, rồi chết. Tôi thấy những tòa nhà khổng lồ vươn cao, mờ và đẹp, rồi biến tan như mộng. Mặt địa cầu hình như biến đổi - chảy tan dưới mắt tôi. Chiếc kim chỉ vận tốc quay càng lúc càng nhanh hơn. Tôi thấy đường cung mặt trời thụt lên thụt xuống, từ vị trí này đến vị trí kia*, và từ đó tôi biết cứ mỗi phút tôi vượt khoảng một năm; mỗi phút tuyết phủ xuống địa cầu, tan biến, rồi nhường chỗ cho màu xanh tươi ngắn ngủi của mùa xuân.
"Những cảm giác khó chịu lúc đầu bớt gay gắt rồi gom nhập vào nhau thành một khoái lạc điên cuồng. Chiếc máy thỉnh thoảng lắc qua lắc lại, tôi biết thế mà không hiểu lý dọ Nhưng đầu óc tôi không còn tỉnh táo đề bận tâm đến điều ấy. Với một sự điên dại tăng dần, tôi phóng tới tương lai không do dự. Đã có lúc tôi toan ngừng lại; nhưng rồi một loạt cảm giác của tò mò pha lẫn sợ hãi liên tục tràn lên, ngự trị tôi hoàn toàn. Thế là tôi cứ đi tới trước.
"Tôi nghĩ đến biết bao nhiêu bước tiến lạ kỳ của nhân loại, bao nhiêu phát kiến tuyệt vời so với nền văn minh sơ khai hiện tại mà tôi không thể nào nhận biết rõ ràng qua hình ảnh của cái thế giới mờ ảo, khó phân định, đang hiện ra rồi biến đi vun vút. Tôi thấy những công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ hơn bất cư dinh thự lâu đài nào của chúng ta, mọc lên chung quanh; vậy mà chỉ mong manh như sương khói. Tôi thấy một màu xanh tươi đẹp tràn phủ lên đồi, lưu lại đó, không bị gián đoạn bởi mùa đông tuyết giá. Mặc dù tâm thần đang hỗn loạn, tôi thấy trái đất thật đẹp đẽ. Và tôi nghĩ đến việc dừng lại.
"Nhưng nếu có bất cứ vật gì chiếm cùng khoảng không gian với tôi hoặc với chiếc máy thì thật là vô cùng nguy hiểm. Một khi tôi còn đi thật nhanh trong thời gian thì chẳng sao hết; vì tôi chỉ như một làn hơi luồn lách dễ dàng qua những kẻ hở của mọi vật thể. Nhưng ngừng lại có nghĩa là mỗi một phân tử trong thân thể tôi sẽ va chạm vào bất cứ vật gì chiếm cùng chỗ với nó. Rất có thể sự va chạm đó sẽ khiến mọi nguyên tử nổ tung, đưa tôi và chiếc máy thời gian về một cõi nào không biết. Khi chế tạo chiếc máy, tôi từng nhiều lần nghĩ đến điều này, và đã vui vẻ chấp nhận tất cả mọi hậu quả tàn khốc như đòi hỏi liều lĩnh phải có của đời sống. Nhưng lúc đối diện với thực tế, tôi thấy mình không còn nhìn sự việc vui vẻ như thế nữa.
"Sự kỳ lạ tột cùng của mọi diễn biến, độ rung, lắc của chiếc máy, và nhất là cảm giác của một người bị rơi càng lúc càng nhanh vào khoảng trốn vô tận khiến hệ thống thần kinh của tôi nhộn nhạo. Tôi nhủ: "Có lẽ mình chẳng thể nào ngừng lại." Nhưng bất ngờ, như một gã điên nóng nảy, tôi chồm tay kéo lút cần thắng. Tức thì chiếc máy thời gian lật úp, ném văng tôi ra ngoài không khí.
"Có tiếng sấm vang vào tai tôi. Hình như tôi chới với một lúc. Quanh tôi một trận mưa đá đang đổ xuống loạn cuồng; rồi tôi nhận ra mình đang ngồi trước chiếc máy thời gian lật úp. Vạn vật như vẫn còn mang màu xám, nhưng những tiếng ù trong tai tôi đã tan biến. Tôi nhìn quanh. Chỗ tôi đang ngồi hình như là một thảm cỏ trong một khu vườn, với nhiều bụi cây trường thanh bao quanh. Những đóa hoa tím nhạt và đậm rơi đầy trong cơn mưa đá. Những cục nước đá chạm vào chiếc máy thời gian, bật lên tung toé nhưng một cụm mây nhỏ, rồi rớt xuống chạy dài trên đất như những làn khói ngắn. Chỉ trong nháy mắt, tôi đã ướt như chuột lột. "Hay nhỉ", tôi thốt lên, "bạc đãi một người vượt thời gian vô tận để đến đây."
"Nghĩ mình để bị ướt như vậy thật là dại, tôi đứng dậy, nhìn quanh. Một hình thù khổng lồ, hình như được đúc bằng đá trắng, hiện ra mờ mờ trong làn mưa sau những bụi trường thanh trải dài liên tiếp. Đó là tất cả những gì tôi thấy.
"Thật khó diễn tả cảm giác của tôi lúc ấy. Khi lớp mưa đá mỏng dần, tôi thấy cái khối màu trắng rõ hơn. Quả thực khổng lồ, vì ngọn cây bạch thụ bên cạnh chỉ chấm tới hai phần ba của nó. Đó là một khối cẩm thạch, giống như các khối hình sư tử có cánh vĩ đại của sa mạc Trung Đông, nhưng đôi cánh thay vì xếp thẳng đứng lại xoè ra tạo thành dáng điệu như đang bay bổng. Những bậc thềm hình như bằng đồng thau, với hoen đồng xanh lướt phủ đầy. Đôi mắt vô hồn của con sư tử đá như đang nhìn tôi, và như có nét cười trên đôi môi nó. Nó đã bị tàn phá bởi thời gian, và cho tôi một cảm giác của sự bệnh hoạn. Tôi đứng nhìn nó, nửa phút, mà cũng có thể là nửa giờ đồng hồ. Nó như lùi lại, tiến lên tùy theo lớp mưa đá dày hơn hay mỏng bớt. Cuối cùng tôi quay mặt đi phía khác; trận mưa đá đã chỉ còn những hạt nhỏ li ti, không gian sáng lên hứa hẹn sự xuất hiện của mặt trời.
"Tôi lại nhìn về phía con sư tử đá khổng lồ, và đột nhiên thấy chuyến đi của mình thật quá liều lĩnh. Việc gì sẽ xảy ra khi màn mưa đá mờ ảo kia hoàn toàn biến mất? Có chuyện gì không thể xảy ra cho loài người? Biết đâu sự tàn bạo đã trở thành tình cảm bình thường? Biết đâu con người đã mất hẳn nhân tính, trở thành một loài vô cảm xúc, với những khả năng cực kỳ ghê gớm? Biết đâu tôi sẽ bị coi như một con thú hoang của một thời quá khứ, với nét tương tự về hình dáng càng gây thêm sự bực tức khó chịu, một con vật dơ bẩn cần bị giết ngay lập tức?
"Nhờ cơn mưa giảm bớt, tôi bắt đầu nhìn thấy những kiến trúc đồ sộ khác - những tòa nhà khổng lồ với ban công phức tạp và cột vút cao, bao quanh bởi cây cối phủ kín ngọn đồi. Tôi đâm ra hoảng hốt. Vội vàng, tôi chạy đến chiếc máy thời gian, cố tìm cách lật nó trở lại về vị trí đúng. Lúc ấy, ánh mặt trời tràn ra. Màn mưa bị kéo sang một bên, rồi tan biến như mảnh áo sau cùng của một bóng mạ Trên đầu tôi là bầu trời xanh của một ngày mùa hạ, vài thoáng mây nâu mờ chạy vào cõi hư vộ Những tòa nhà khổng lồ hiện rõ quanh tôi, lấp lánh dưới ánh mặt trời vì những giọt mưa đọng lại, và nổi bật trên nền trắng tạo thành bởi những hột mưa đá chưa kịp tan còn nằm trên mặt đất. Tôi thấy mình như kẻ trần truồng trong một thế giới xa lạ. Tôi có cảm tưởng như một con chim nhỏ đang bay, biết rằng phía trên cao có con ưng sắp nhào xuống chụp lấy mình. Cơn sợ hãi biến thành khủng hoảng, tôi thở vội lấy hơi, nghiến răng cố ghì chiếc máy thời gian, không những chỉ với hai bàn tay, mà với cả cổ tay, đầu gối. Không cưỡng nổi cố gắng tuyệt vọng của tôi, nó lật lại, đụng mạnh vào cằm khiến tôi đau điếng. Một tay đặt trên chỗ ngồi, tay kia trên cần số, tôi vừa thở dốc vừa lính quính cố leo lên chiếc máy.
"Nhưng vừa biết rằng mình có thể trốn thoát, sự can đảm liền trở lại với tôi. Tôi lại nhìn, lần này tò mò nhiều hơn là sợ hãi, cái thế giới của một tương lai xa xôi. Qua khung cửa sổ tròn trên cao một tròa nhà gần đó, tôi thấy một nhóm người trong y phục mềm mại đắt tiền. Họ cũng đã thấy tôi, và tất cả đều quay mặt ra nhìn.
"Rồi tôi nghe tiếng người đến gần. Qua những bụi cây gần tòa nhà sư tử trắng, tôi thấy đầu và vai của những người đang chạy. Từ con đường nhỏ dẫn tới thảm cỏ, người đầu tiên của tương lại xuất hiện trước mắt tôi. Hắn rất nhỏ con - có lẽ khoảng một thước hai (4 feet), mặc loại y phục mềm một mảnh có đeo thắt lưng (từ đây tôi sẽ gọi là nhất y cho gọn). Chân hắn đeo một loại như guốc hoặc sandals, ngoài ra để trần từ đầu gối trở xuống, và đầu hắn không đội nón. Nhìn hắn tôi chợt để ý là không khí xung quanh thật nóng.
"Hắn cho tôi cảm tưởng của một người thật đẹp trai, dịu dàng, nhưng vô cùng yếu đuối. Nét mặt hồng của hắn khiến tôi nghĩ tới cái đẹp của những người bị bệnh lao - cái đẹp cuồng nộ mà chúng ta từng nghe nhiều lần. Nhìn hắn, tôi đột nhiên sinh ra tự tin. Thế là tôi buông tay ra khỏi chiếc máy thời gian.
"Chúng tôi, tôi và con người yếu ớt của tương lai, đứng đối diện nhau trong khoảnh khắc. Hắn đến bên tôi và cười phá lên. Sự vắng mặt của những dấu hiệu chứng tỏ hắn sợ hãi ngay lập tức làm tôi ngạc nhiên. Rồi hắn quay qua hai người kia và nói với họ bằng một giọng lạ lùng nhưng rất ngọt và uyển chuyển.
"Có những người khác đi tới, và đây là một nhóm khoảng bảy hay tám người mảnh khảnh vây quanh tôi. Một người trong bọn lên tiếng hỏi. Tôi sực nhớ ra rằng tiếng nói của mình quá khàn và trầm, cho nên tôi lắc đầu và chỉ vào tai mình, lắc đầu lần nữa. Người đó tiến tới một bước, rụt rè, và sờ tay tôi. Rồi tôi cảm thấy những xúc tua mềm mại nhỏ xíu trên lưng và vai. Họ muốn biết chắc rằng tôi có thật. Không hề có một chút gì thù địch trong những cử động của họ. Quả thật, có cái gì đó trong những con người nhỏ bé đẹp đẽ này toát ra sự tự tin - sự nhã nhặn duyên dáng, nét ngây thơ hiển nhiên của trẻ con. Và bên cạnh đó, họ rất yếu đuối, đến nỗi tôi tưởng tượng một mình tôi có thể nhấc bổng một tá người như họ trong trò chơi ky chín con (ninepins). Nhưng tôi chỉ làm một cử chỉ đe dọa khi thấy những bàn tay hồng hào rờ rẫm chiếc máy thời gian. Tôi nghĩ đến một nguy hiểm mà tôi hầu như quên bẵng cho đến giờ và hấp tấp vươn đến những thanh ngang của chiếc máy, tháo những cái đòn bẩy nhỏ xíu dùng để khởi động nó, và mừng rỡ bỏ chúng vào túi trước khi quá muộn. Rồi tôi quay lại, suy nghĩ làm cách nào để chuyện trò với họ.
"Nhìn gần hơn, tôi thấy vài nét sâu xa riêng biệt trong vẻ đẹp kiểu Dresden-china của họ. Tóc, uốn cong một cách đều đặn, đuôi tóc ở cổ và gò má để nhọn; không một gợi ý thêm bớt về khuôn mặt, dù là đường nét mờ nhạt nhất, lỗ tai của họ đặc biệt nhỏ. Chiếc miệng cũng nhỏ với đôi môi mỏng đỏ thắm và chiếc cằm nhọn be bé. Đôi mắt lớn, dịu dàng; và - có lẽ là tính tự cao tự đại của tôi - tôi cho rằng hiển nhiên có một sự kém hấp dẫn nơi họ, không như tôi hằng mong muốn.
"Họ không tỏ vẻ muốn trò chuyện với tôi, chỉ đứng chung quanh tôi mỉm cười và thì thầm trao đổi với nhau những âm thanh nhẹ nhàng. Tôi bắt đầu cuộc nói chuyện. Tôi chỉ vào chiếc máy thời gian và tôi. Rồi do dự tìm cách diễn tả thời gian trong một chốc, tôi chỉ lên mặt trời. Ngay lập tức một người nhỏ bé xinh đẹp trong y phục kẻ ô vuông tím và trắng làm theo điệu bộ của tôi và làm tôi hết sức ngạc nhiên bằng cách bắt chước tiếng sấm.
"Trong chốc lát, tôi sửng sốt, mặc dù ngụ ý trong dáng điệu của hắn ta vừa đủ rõ. Câu hỏi đến trong trí tôi một cách đột ngột: những người này ngớ ngẩn chăng? Qúy vị có lẽ khó hiểu câu hỏi chấn động tôi cỡ nào. Thấy đấy, tôi luôn luôn mong đợi rằng những người của năm tám trăm ngàn và hai ngàn lẻ sẽ là phi thường về mặt kiến thức, nghệ thuật, tất cả... Rồi một người trong bọn đột nhiên hỏi tôi một câu cho thấy trí thông minh của anh ta ở vào mức độ của một đứa trẻ lên năm - anh ta hỏi tôi, có thật tôi đến từ mặt trời trong một cơn bão! Việc này làm lung lay sự đánh giá mà tôi đã dựa trên những bộ áo quần của họ, những cánh tay mảnh dẻ, và những đặc điểm yếu đuối. Một cơn thất vọng chạy ngang qua đầu tôi. Thoáng chốc, tôi có cảm tưởng tôi đã chế tạo chiếc máy thời gian trong sự vô ích.
"Tôi cúi đầu, chỉ lên mặt trời, và tặng lại một tiếng vỗ tay vang như sấm, khiến họ giật mình. Tất cả bọn họ lui lại một bước và cúi chào. Rồi một người vừa cười vừa tiến về phía tôi, mang theo một chuỗi những bông hoa tuyệt đẹp mà tôi chưa hề thấy, choàng lên cổ tôi.* Sáng kiến này được ngay một tràng pháo tay tán thưởng. Mọi người chạy đôn chạy đáo tìm hoa, phủ lên đầy cổ, rồi che cả mặt tôi đến nỗi muốn nghẹt thở. Qúy vị không chứng kiến tận mắt nên không thể tưởng tượng những bông hoa của tương lai đẹp tuyệt vời thế nào. Một người lên tiếng, hình như đề nghị với đồng bọn là nên chưng bày món đồ chơi (tức là tôi) ở một nơi gần đó, tôi đoán thế vì họ dẫn tôi ngang qua tòa nhà sư tử trắng mà tôi đã nói đến nhiều lần lúc nãy. Đôi mắt của con sư tử đá khổng lồ như theo dõi, và tôi có cảm tưởng nó đang cười trên sự ngạc nhiên của tôi. Chúng tôi tới trước một tòa nhà xây bằng đá đã bị xoi mòn. Vừa đi tôi vừa nhớ lại niềm tin mãnh liệt của mình trước đây về một thế giới tương lai nghiêm trang và trí thức mà không khỏi tức cười.
"Cửa chính thật lớn, và những phần khác của tòa nhà cũng vĩ đại tương tự. Theo lẽ tự nhiên, tôi nghĩ nhiều nhất đến đám người càng lúc càng tụ về đông đảo, đến những bí mật đang dần hé mở. Nhìn từ tầm cao quá đầu đám người thấp bé, ấn tượng chung chung của tôi về thế giới của họ là một khoảng mênh mông đầy những bụi cây và bông hoa đẹp đẽ, một khu vườn bỏ quên nhưng lại không có dấu vết nào của loài cỏ dại! Tôi thấy những đọt dài, trên là những đóa hoa trắng lạ lùng, đường kính có lẽ đo tới 3 tấc, nở rộ khắp nơi, xen vào giữa những bụi cây đủ loại. Nhưng, như tôi đã nói, tôi không quan sát thật kỹ. Chiếc máy thời gian vẫn còn ở ngoài đồng trống, cạnh những bụi trường thanh.
"Vòng cung trên cánh cửa được chạm trổ tỉ mỉ. Dĩ nhiên tôi không xem kỹ những vết chạm, nhưng tôi nghĩ tôi thấy chúng có nét Phoenician khi đi ngang quạ Điều khiến tôi chú ý là những vết này đều rất cũ, và bị tàn phá bởi thời gian. Tôi gặp thêm vài người mặc nhất y rực rỡ, họ nhập bọn với chúng tôi và cùng đi vào trong. Trong bộ quần áo sậm của thế kỷ 19, tôi như một hình ảnh thô kệch, người phủ đầy hoa, giữa những bộ nhất y đủ màu tươi mát, những tay chân người trắng như bông, và những đợt nói cười vang vang như sóng.
"Qua cánh cửa lớn là một căn phòng vĩ đại giới hạn bởi những bức tường nâu. Trần ở trên cao nên ánh nắng bên ngoài không chiếu tới, nhưng nhờ những khung cửa sổ - có khung trống, có khung được lắp những mảnh kiếng màu giảm nắng - mà căn phòng có một ánh sáng dịu. Sàn được tạo thành bởi những khối khổng lồ của một thứ kim loại trắng nào đó (không phải mảnh, hoặc miếng, mà là khối). Sàn đã cũ lắm, chắc đã trải qua nhiều thế hệ, vì tôi thấy rõ những đường lõm sâu ở những lối nhiều người đi lại. Xếp thẳng góc với lối đi là những chiếc bàn làm bằng những khối đá mài, cao khoảng 3 tấc khỏi mặt sàn, trên có trái cây xếp thành đống. Một vài loại trái cây nhìn giống như dâu và cam, nhưng hầu hết tôi chưa từng thấy bao giờ.
"Giữa những chiếc bàn có những chiếc nệm xếp rải rác. Đám người hướng dẫn tôi ngồi xuống nệm và ra dấu cho tôi làm theo. Không thể thức rườm rà, họ bắt đầu ăn trái cây, ném vỏ, cọng, hột v.v... vào những lỗ hổng tròn ở thành bàn. Tôi làm theo họ không ngại ngùng, vì tôi đã rất đói và khát. Vừa ăn, tôi vừa đảo mắt quan sát căn phòng.
"Điều khiến tôi chú ý nhất là sự điêu tàn của nó. Những tấm kính giảm nắng ở cửa số - trang trí bằng các nét kỷ hà đơn giản - đã bị vỡ ở nhiều nơi, những tấm vải mành treo bên dưới phủ bụi dầy cộm, và tôi cũng thấy ngay là chiếc bàn đá gần tôi đã bị bể một góc. Tuy vậy, hình ảnh tổng quát vẫn là sang trọng và hùng vĩ.
"Tôi ước lượng số người đang ăn trong phòng có lẽ tới hai trăm. Ai cũng cố tìm cách đến gần để quan sát tôi cho kỹ. Tất cả đều mặc cùng một loại y phục, làm bằng một thứ giống như lụa, có vẻ mềm nhưng bền chắc.
"Trái cây là đồ ăn duy nhất của họ. Những con người tương lai này là dân ăn chaỵ vì vậy trong thời gian ở với họ, dù có khi thèm thịt, tôi cũng phải tập dần thói ăn trái cây. Sau tôi khám phá rằng ngựa, trâu, bò, heo, cừu, chó đều đã tuyệt chủng. Nhưng trái cây của họ cũng rất ngon. Một loại, hình như bao giờ cũng có trong thời gian tôi ở đó, có hình ba góc, cùi bên trong như bột, thì thật tuyệt, tôi luôn luôn chọn làm món ăn chính. Lúc đầu, sự hiện diện của những trái cây và những bông hoa đã khiến tôi vô cùng thắc mắc, mãi sau này tôi mới hiểu ra.
"Qúy vị vừa nghe về bữa ăn trái cây của tôi trong tương lai xa tít. Hơi no rồi, tôi quyết định tìm cách học ngôn ngữ của những người bạn mới. Hiển nhiên đó là việc kế tiếp phải làm. Tên các loại trái cây có vẻ như một cách bắt đầu hợp lý. Tôi cầm một trái lên, cố làm dấu hỏi tên bằng miệng cũng như bằng taỵ Thoạt đầu, họ chỉ đáp lại tôi bằng những cái nhìn ngạc nhiên hoặc những tràng cười bất tận, nhưng rồi cũng có một người hiểu ý, lập đi lập lại một chữ cho tôi bắt chước. Họ mất khá nhiều thời giờ bàn thảo, giải thích cho nhau; và khi tôi cố gắng lặp lại một cách không mấy chính xác âm thanh líu lo vừa được dạy, họ lại phá lên cười. Không sao! Với sự tự tin của một ông thầy giáo giữa đám học trò nhỏ, tôi cứ tiếp tục. Một lát sau tôi biết một số danh từ, rồi một số đại danh từ, và ngay cả động từ "ăn". Nhưng tôi phải tốn rất nhiều công phu, và chẳng mấy chốc những người bạn nhỏ bé của tôi đã tỏ vẻ chán, không muốn dạy tôi nữa. Tôi chỉ còn cách để họ dạy mỗi lần một chút. "Một chút" ở đây phải hiểu là vô cùng ít ỏi, vì chẳng bao lâu sau tôi khám phá ra rằng những người bạn nhỏ bé mới quen của tôi là những người lười biếng nhất và mau mệt mỏi nhất mà tôi từng biết.
"Cũng chẳng bao lâu sau, tôi khám phá rằng họ chẳng hề chú tâm tới một chuyện gì cả. Họ có thể đến gần tôi, kêu lên những tiếng ngạc nhiên như trẻ con gặp vật lạ, nhưng cũng như trẻ con, họ tức thì bỏ rơi tôi để đi tìm món đồ chơi khác. Bữa ăn và cuộc đàm thoại đầu tiên chấm dứt, tôi nhìn quanh, những người trong đám đông gặp tôi ở ngoài vườn và dẫn tôi vào đây đã biến đâu mất. Mà quả thật là lạ, vì chính tôi cũng quên những người mới gặp một cách mau chóng. Cơn đói vừa hết, tôi bước ra ngoài ánh nắng. Tôi lại gặp thêm nhiều nhóm người của tương lai, nói chung họ đều bước theo tôi một quãng, đùa cợt tíu tít với nhau về tôi, và sau khi cười nói và tỏ vài thái độ thân thiện, họ lại bỏ đi để mặc tôi muốn làm gì thì làm.
"Sự bình lặng của hoàng hôn đã bắt đầu phủ lên mặt đất, khung cảnh quanh tôi được soi bởi ánh nắng vẫn còn ấm áp của mặt trời sắp lặn. Phải mất khá lâu tôi mới bắt đầu quen với những đổi thaỵ Tất cả đều khác lạ với những gì tôi quen thuộc, ngay cả những bông hoa. Tòa nhà lớn mà tôi được dẫn vào lúc nãy nằm trên sườn đồng bằng thoai thoải của một dòng sông rộng, nhưng dòng Thames đã đổi chỗ, khoảng một dặm từ vị trí hiện tại của nó. Tôi quyết định đi lên một đỉnh đồi cách nơi đang đứng khoảng một dặm rưỡi vì từ đó tôi có thể nhìn xa để biết rõ hơn cái hành tinh của chúng ta ở năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một. Về con số dài dằng dặc đó, cũng nên nói là tôi đọc nó từ đồng hồ chỉ năm của chiếc máy thời gian.
"Vừa đi tôi vừa cố tìm những dấu hiệp giúp tôi giải thích sự huy hoàng đã hoá điêu tàn. Vì khung cảnh quả là điêu tàn thật. Từ chân đồi đi lên một chút chẳng hạn là một đống đá nối với nhau bằng những khối nhôm, những bức tường thẳng đứng kết nối phức tạp như mê cung, những chồng vật liệu nằm ngổn ngang, bị thời gian soi mòn, làm cho rỉ sét, xen lẫn vào đó là những bụi cây dại thuộc họ xếp tầng - có thể là cây tầm ma - nhưng lá xen lẫn ánh nâu thật đẹp và hoàn toàn không có gai sắc. Chắc chắn đây là tàn tích của một công trình kiến trúc vĩ đại và công phu, dựng lên để làm gì thì tôi không thể biết. Chính nơi đó số mạng sau này đã dẫn dắt để tôi có một kinh nghiệm lạ kỳ - chỉ là bước đầu của một khám phá còn lạ kỳ hơn nữa - mà lát nữa tôi sẽ kể khi đến lúc.
"Nhìn từ một mô đất mà tôi chọn làm chỗ tạm nghỉ, đột nhiên tôi nhận ra là xung quanh không hề có một ngôi nhà nào cả. Hình như loại nhà riêng, và có thể cả hệ thống gia đình nữa, đã biến mất. Đây đó giữa khoảng xanh mênh mông là những tòa chung cư vĩ đại giống như dinh thự, lâu đài; nhưng những căn nhà nhỏ, những túp lều con quen thuộc của đời sống người Anh chúng ta, đều không còn nữa.
"Cộng sản." Tôi lẩm bẩm với chính mình.
"Vừa nghĩ đến đó, óc tôi lại nảy thêm một điều nữa. Tôi nhìn năm sáu người theo sau tôi. Đột nhiên tôi nhận ra y phục của họ đều được may cùng một kiểu, những khuôn mặt không râu đều tương tự, và ngay cả nét mềm mại như con gái của họ cũng tương tự nhau. Thật lạ kỳ, vì trước đó tôi chưa hề để ý đến sự tương tự này. Nhưng trong chuyến đi này của tôi, có gì mà không lạ kỳ đâu? Bấy giờ, tôi nhìn ra sự thật. Y phục, cũng như tất cả mọi sự khác biệt khác giữa hai phái, đều đã trở thành giống nhau ở những con người tương lai. Ngay cả những đứa trẻ, dưới mắt tôi, chỉ là những hình thu nhỏ của cha mẹ chúng. Dựa theo đó, tôi đoán những đứa trẻ ở tương lai phát triển rất sớm, tối thiểu về thể xác; và sau này tôi tìm ra nhiều bằng cớ chứng minh đó là một lời đoán đúng.
"Nhìn thấy lối sống dễ dãi và hoàn cảnh an toàn mà những người tương lai được hưởng, tôi cho rằng sự tương tự giữa hai phái là một kết quả đoán được. Vì sự mạnh mẽ của phái nam, sự dịu dàng của phái nữ, hệ thống gia đình, và sự khác biệt về nhiệm vụ giữa hai phái chỉ là một hiện tượng bắt buộc cho nhu cầu sống còn của thời đại bạo lực. Khi dân số đã quân bình và đông đảo, việc sinh đẻ nhiều không còn là may mắn mà trở thành một hiểm họa cho tập thể. Khi bạo lực ít xảy ra và khi những đứa bé sơ sinh được bảo đảm an toàn, người ta sẽ bớt cần - thực ra, sẽ không cần nữa - sự đùm bọc của gia đình, và sự phân nhiệm của hai phái nhắm vào việc bảo vệ và nuôi dưỡng những đứa bé sơ sinh sẽ biến mất. Tiến trình này đã tỏ một số dấu hiệu ngay trong thời đại của chúng ta; ở tương lai, nó được hoàn thành. Cần nhắc cho quý vị rõ, những điều vừa kể chỉ là sự ước đoán của tôi lúc đó. Sau này tôi mới bật ngửa vì sự thật lại hoàn toàn khác hẳn.
"Trong khi suy nghĩ, một vật đập vào mắt tôi. Nó có hình như một cái giếng đẹp, bên trên có mái hình vòng cung. Tôi lờ mờ liên tưởng đến sự kỳ lạ của những cái giếng vẫn còn hiện hữu, rồi lại tiếp tục dòng suy nghĩ. Đường đi lên đồi không có dinh thự nào cả, và sức đi bộ của tôi hẳn nhiên vượt xa những người tương lai. Thế là tôi chỉ còn lại một mình. Một cảm giác kỳ lạ của thôi thúc tự do cũng như ý muốn thám hiểm đẩy tôi dần lên đỉnh đồi.
"Trên đó tôi thấy một chiếc ghế làm bằng một thứ kim loại màu vàng mà tôi không biết tên, hai chỗ để tay được đúc và mài dũa thành hình con sư điểu. Ghế đã cũ lắm rồi. Chỗ này chỗ kia đã biến thành hồng vì rỉ sét, phân nửa thì rêu mềm phủ kín. Tôi ngồi xuống quan sát cảnh mặt trời lặn trên thế giới của chúng ta sau ngày dài đó. Khung cảnh dịu và đẹp chẳng thua gì bất cứ cảnh nào tôi từng được thấy. Mặt trời vừa lặn hẳn, phương tây lung linh một màu vàng tươi pha lẫn những lằn tím và đỏ. Phía dưới là thung lũng ở giữa dòng Thames nằm như một khúc thép dài đang cháy bỏng. Qúy vị đã nghe về những dinh thự khổng lồ rải rác khắp nơi trong vùng đất mông mênh đầy cây cỏ, bị tàn phá cũng có, vẫn còn người ở cũng có. Đó đây những công trình kiến trúc màu trắng bạc nổi lên trong khu vườn hoang của trái đất, những đường xây thẳng đứng, những mái vòm cong, những đài cao bằng đá khắc hình thú vật. Không có hàng rào, không có dấu hiệu của tài sản riêng tư, của những thửa ruộng có người canh tác; toàn thể địa cầu đã biến thành một khu vườn vĩ đại.
"Vừa quan sát, tôi vừa suy đoán về những điều nhìn thấy. Và buổi chiều chiều hôm đó đại khái tôi nghĩ thế này: (về sau tôi vỡ lẽ là tôi chỉ đúng phân nửa, chính xác hơn phải nói tôi chỉ mới thoáng thấy một mặt nhỏ của sự thật)
"Tôi cho rằng tôi đã chứng kiến giai đoạn suy tàn của loài người. Màu ráng đỏ của bầu trời trong buổi hoàng hôn khiến tôi liên tưởng đến buổi hoàng hôn của nhân loại. Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ đến các kết quả kỳ dị của những nỗ lực xã hội đang được thực hiện bởi chúng tạ Nhưng, nếu suy cho kỹ, thì tất cả đều hợp lý. Sức mạnh là kết quả của nhu cầu sống còn; sự an toàn tạo cơ hội cho sự yếu đuối. Những công lao được bỏ ra để tăng điều kiện sống - một tiến trình tất yếu của con người văn minh giúp cho đời sống càng lúc càng an toàn - đã tiến dần đến tột đỉnh. Loài người đoàn kết tranh đấu với thiên nhiên, đạt hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Những điều chỉ là mơ mộng ở hiện tại đã trở thành kế hoạch được hoàn thành mỹ mãn. Và những gì tôi thấy chính là kết quả của những chiến thắng đó!
"Các ngành vệ sinh học và nông học của thời chúng ta vẫn còn ở trình độ sơ khai. Khoa học chỉ mới thành công trong việc ngăn ngừa và tiêu diệt một số nhỏ các bệnh tật, nhưng, ngay cả như thế, nó vẫn tiến một cách vững vàng và quyết liệt. Với khoa nông lâm súc, khi diệt một loài cây cỏ dại chúng ta đồng thời trồng lên nhiều loại cây cỏ tốt đẹp, để chúng đấu tranh với nhau mà sống còn. Những loại cây cỏ, thú vật mà chúng ta thích được cải tiến (và con số của chúng thật ít) bằng khoa gây giống. Hôm nay là một loại trái đào mới hơn và ngon hơn, ngày mai là một loại nho không có hột, ngày mốt là một loại hoa lớn hơn và tươi mát hơn, một ngày khác nữa là những giống gia súc mới dễ nuôi hơn. Những bước cải tiến xảy ra dần dần, vì chúng ta chỉ hiểu một cách lờ mờ những điều muốn nhắm tới, vì kiến thức của chúng ta rất giới hạn, và vì thiên nhiên rất nhút nhát và chậm chạp trong bàn tay của chúng tạ Một tương lai nào đó, tất cả sẽ được tổ chức quy củ hơn, để kết quả đạt được còn tốt đẹp hơn nữa. Như dòng nước vẫn cứ trôi mặc cho sự cản ngăn của những vùng rốn xoáy. Cả thế giới sẽ trở thành thông minh, học thức, và có tinh thần hợp tác cao độ. Vận tốc của các chuyển biến sẽ xảy ra càng lúc càng nhanh, dẫn đến sự khuất phục thiên nhiên một cách hoàn toàn. Cuối cùng, một cách khôn ngoan và thận trọng, chúng ta sẽ chọn một tình trạng quân bình giữa động vật và thực vật sao cho những đòi hỏi của chúng ta được tuyệt đối thỏa mãn.
"Những bước điều chỉnh này, theo tôi, đã được thực hiện, và được thực hiện trong mọi lúc của thời gian, trong suốt khoảng thời gian mà chiếc máy của tôi đã vượt quạ Trên không hết hẳn ruồi muỗi, dưới đất cỏ dại và nấm dại không còn; chỉ có trái cây, những bông hoa tươi đẹp, và những cánh bướm muôn màu bay lượn. Phương thuốc ngừa bệnh lý tưởng đã được tìm thấy. Bệnh tật hoàn toàn biến mất. (Tôi không thấy bất cứ dấu hiệu nào của một bệnh hay lây trong suốt thời gian ở tương lai.) Và tôi cần thêm rằng những thay đổi này có ảnh hưởng lớn đến ngay cả diễn trình hủy hoại của các sinh vật.
"Một kết quả nữa là sự chiến thắng của đời sống xã hội. Tôi thấy nhân loại ở trong những dinh thự nguy nga, mặc những y phục lộng lẫy, vậy mà không ai làm việc gì cả. Không có dấu hiệu gì của nỗ lực đấu tranh, xã hội cũng như kinh tế. Hàng quán, quảng cáo, xe cộ, tất cả những thứ liên quan đến thương mại được coi là một phần căn bản của đời sống chúng ta, đều đã tan biến. Và trong buổi chiều vàng đó, ý tưởng của một thiên đường xã hội đã đến với tôi một cách tự nhiên. Tôi đoán là vấn đề dân số đã được giải quyết, và tổng số nhân loại không tăng thêm nữa.
"Nhưng với điều kiện sống thay đổi, tất nhiên con người cũng phải thay đổi cho thích hợp. Và nếu môn vạn vật không sai từ nền tảng thì nguyên nhân gì dẫn đến sự thông minh và cần cù của loài người? Hoàn cảnh khó khăn và ước muốn tự do là lý do khiến những người tích cực, có sức mạnh, và khôn ngoan tồn tại trong khi những kẻ yếu bị tiêu diệt; đó chính là lý do tại sao sự trung thành, sự tự chế, kiên nhẫn, và khả năng quyết định được ca tụng. Hệ thống gia đình và những tình cảm từ đó sinh ra, tính ghen tuông tàn khốc, sự dịu dàng với những đứa trẻ sơ sinh, sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái, tất cả đều từ nhu cầu bảo vệ những sinh vật đồng chủng còn non nớt mà ra. Nhưng trong cái tương lai mà tôi gặp có mối nguy hiểm nào đâu? Trong hoàn cảnh đó, khuynh hướng chống lại những ghen tuông giữa vợ chồng, những tình mẫu tử cuồng nhiệt, cũng như tất cả mọi loại tình cảm khác sẽ phát triển lớn mạnh. Bởi tất cả những tình cảm đó không còn cần thiết nữa, chỉ còn là đầu mối gây ra những khó chịu, man rợ, bất hòa trong một đời sống tiến bộ vui tươi.
"Tôi nghĩ đến vóc dáng yếu đuối và sự thiếu thông minh của những người tương lai, đến những tàn tích đầy dẫy xung quanh, và càng chắc chắn hơn nữa rằng con người đã hoàn toàn chiến thắng thiên nhiên. Vì sau trận đánh là sự im lặng. Con người đã mạnh mẽ, hăng hái, thông minh, và đã xử dụng năng lực của mình để đổi thay điều kiện sống của họ. Đã đến lúc xảy ra những phản ứng của sự đổi thay đó.
"Trong hoàn cảnh mới, tuyệt đối thoải mái và tuyệt đối an toàn, cái năng lực phải phát tiết mà chúng ta gọi là sức mạnh giờ trở thành sự yếu đuối. Ngay trong thời của chúng ta, một số khuynh hướng và ý muốn rất cần thiết cho sự sống còn ở thuở xa xưa đã trở thành lý do khiến người ta thất bại. Tính liều mạng và thích đánh nhau, chẳng hạn, không những ít khi làm lợi mà nhiều khi còn biến thành trở ngại cho con người văn minh. Sức mạnh, trí não cũng như thể xác, chẳng còn chỗ đứng nào nữa khi đã có sự an toàn tuyệt đối. Tôi đoán thế giới của tương lai đã trải qua một giai đoạn rất dài không bị đe dọa bởi chiến tranh cũng như tội ác cá nhân, không bị đe dọa bởi thú dữ, không có bệnh ngặt nghèo đòi hỏi sức mạnh để sống còn, và không có nhu cầu lao động. Trong một đời sống như vậy, kẻ mà chúng ta gọi là yếu cũng thích ứng y hệt như kẻ mạnh, nên không thể gọi họ là "yếu" nữa. Mà thực ra họ mới là kẻ thích hợp hơn, vì kẻ mạnh sẽ bị hành hạ bởi cái năng lực không có chỗ phát tiết. Hẳn nhiên nét đẹp tuyệt vời của những dinh thự hùng vĩ mà tôi thấy chính là tàn tích sau cùng của cái năng lực đã mất mục đích ấy, trước khi nhân loại hòa mình vĩnh viễn vào đời sống mới - đoạn kết của chiến thắng, và khởi điểm của nền hòa bình sau cùng. Đây là số phận đương nhiên của năng lực sau khi đã có sự an toàn; nó phát tiết qua nghệ thuật, tình dục, tiếp tục bằng sự mệt mỏi, bế tắc, và kết thúc bằng sự suy tàn.
"Ngay cả khuynh hướng nghệ thuật cũng đã gần như chết hẳn trong cái tương lai tôi đến. Người ta khoác hoa lên mình, nhảy múa, ca hát dưới ánh mặt trời: đó là tất cả những gì còn sót lại và không gì hơn nữa. Nhưng rồi sẽ đến một lúc ngay cả những hành động vu vơ như vậy cũng chấm dứt, nhường chỗ cho một trạng thái thụ động đầy hạnh phúc. Sự sắc bén của loài người có được là nhờ hòn đá mài kết tạo từ hai yếu tố khổ đau và cần thiết. Ở tương lai tôi thấy cuối cùng hòn đá mài đó đã bị đập tan!
"Tôi đứng đó trong bóng đêm càng lúc càng dày đặc, cho rằng với những lập luận đơn giản vừa kể, tôi đã nắm vững vấn đề của thế giới, hiểu trọn vẹn cái bí mật của giống người rất dễ thương này. Có thể phương pháp giới hạn dân số của họ quá hiệu nghiệm, nên dân số thế giới thay vì đứng yên đã giảm sút. Giả thuyết này giải thích được sự hoang phế của nhiều công trình kiến trúc mà tôi đã thấy. Lập luận của tôi thật đơn giản, và thật hữu lý, như tất cả mọi lý thuyết sai lầm.