United States Pacific Fleet and Pacific Ocean Areas
Tổng chỉ huy Đô đốc Chester W. Nimitz, USN, Commander in Chief
Lực lượng hàng không mẫu hạm xung kích
Đề đốc Frank Jack Fletcher, USN
Lực lượng đặc nhiệm 17 (TF 17)
Đề đốc Frank Jack Fletcher, USN
Đội đặc nhiệm 17.5 (TG 17.5)
Hàng không mẫu hạm
USS Yorktown (CV-5) - Hạm trưởng Elliot Buckmaster, USN
USS Yorktown Không lực Lt. Comdr. Oscar Pederson, USN
Biên đội máy bay tiêm kích 3 (VF-3) Lt. Comdr. John S. Thatch, USN
25 Grumman F4F-4 (Wildcat)
Biên đội máy bay ném bom 3 (VB-3) Lt. Comdr. Maxwell F. Leslie, USN
18 Douglas SBD-3 (Dauntless)
Biên đội trinh sát 3 (VS-3) Lt. Wallace C. Short Jr., USN
19 Douglas SBD-3 (Dauntless)
Biên đội máy bay phóng ngư lôi 3 (VT-3) Lt. Comdr. Lance E. Massey, USN
13 Douglas TBD-1 (Devastator)
Đội đặc nhiệm 17.2 (TG 17.2)
Tuần dương hạm
Đề đốc William W. Smith, USN
USS Astoria (CA-34)
USS Portland (CA-33)
Đội đặc nhiệm 17.4 (TG 17.4)
Khu trục hạm hộ tống
Hạm trưởng Gilbert C. Hoover, USN
Chỉ huy liên đội 2
USS Hammann (DD-412).
USS Hughes (DD-410)
USS Morris (DD-417)
USS Anderson (DD-411)
USS Russell (DD-414)
USS Gwin (DD-433)
Lực lượng đăc nhiệm 16 (TF 16)
Đề đốc Raymond A. Spruance, USN
Đội đăc nhiệm 16.5 (TG 16.5)
Hàng không mẫu hạm
USS Enterprise (CV-6)
Hạm trưởng George D. Murray, USN
USS Enterprise Không lực - Lt. Comdr. Clarence W. McClusky, USN
Biên đội tiêm kích 6 (VF-6) Lt. James S. Gray, USN
27 Grumman F4F-4 (Wildcat)
Biên đội ném bom 6(VB-6) Lt. Richard H. Best, USN
19 Douglas SBD-2 and SBD-3 (Dauntless)
Biên đội trinh sát (VS-6) Lt. Wilmer E. Gallaher, USN
19 Douglas SBD-2 and SBD-3 (Dauntless)
Biên đội máy bay phóng lôi 6 (VT-6) Lt. Comdr. Eugene E. Lindsey, USN
14 Douglas TBD-1 (Devastator)
USS Hornet (CV-8)
Hạm trưởng Marc A. Mitscher, USN
USS Hornet Không lực - Lt. Comdr. Stanhope C. Ring, USN
Biên đội tiêm kích 8 (VF-8) Lt. Comdr. Samuel G. Mitchell, USN
27 Grumman F4F-4 (Wildcat)
Biên đội ném bom 8 (VB-8) Lt. Comdr. Robert R. Johnson, USN
19 Douglas SBD-2 and SBD-3 (Dauntless)
Biên đội trinh sát 8 (VS-8) Lt. Comdr. Walter F. Rodee, USN
18 Douglas SBD-1, SBD-2, and SBD-3 (Dauntless)
Biên đội máy bay phóng lôi 8 (VT-8) Lt. Comdr. John C. Waldron, USN
15 Douglas TBD-1 (Devastator)
Đội đăc nhiệm 16.2 (TG 16.2)
Đội tuần dương hạm
Đề đốc Thomas C. Kinkaid, USN, hải đội 6
USS New Orleans (CA-32)
USS Minneapolis (CA-36)
USS Vincennes (CA-44)
USS Northampton (CA-26)
USS Pensacola (CA-24)
USS Atlanta (CL-51)
Đội đặc nhiệm 16.4 (TG 16.4)
Hải đội khu trục hạm hộ tống
Hạm trưởng Alexander R. Early, USN, Liên đội 1
USS Phelps (DD-360)
USS Worden (DD-352)
USS Monaghan (DD-354)
USS Aylwin (DD-355)
Liên đội khu trục hạm 6
Hạm trưởng Edward P. Sauer, USN
USS Balch (DD-363)
USS Conyngham (DD-371)
USS Benham (DD-397)
USS Ellet (DD-398)
USS Maury (DD-401)
Đội tầu dầu
USS Cimarron (AO-22)
USS Platte (AO-24)
USS Dewey (DD-349)
USS Monssen (DD-436)
Tầu ngầm
Đề đốc Robert H. English, USN
Chỉ huy hại đội tầu ngầm của hạm đội TBD
Đội đặc nhiệm 7.1 (TG 7.1)
Tuần tra Midway
USS Tambor (SS-198)
USS Cachalot (SS-170)
USS Flying Fish (SS-229)
USS Tambor (SS-198)
USS Trout (SS-202)
USS Grayling (SS-209)
USS Nautilus (SS-168)
USS Grouper (SS-214)
USS Dolphin (SS-169)
USS Gato (SS-212)
USS Cuttlefish (SS-171)
USS Gudgeon (SS-211)
USS Grenadier (SS-210)
Đội đặc nhiệm 7.2 (TG 7.2)
USS Narwhal (SS-167)
USS Plunger (SS-179)
USS Trigger (SS-237)
Đội đặc nhiệm 7.3 (TG 7.3)
Tuần tra phía Bắc Oahu
USS Tarpon (SS-175)
USS Pike (SS-173)
USS Finback (SS-230)
USS Growler (SS-215)
Căn cứ không quân Midway
Chỉ huy capt. Cyril T. Simard, USN
Phi đội tuần tra độc lập 1 (Patwing 1 Det)
Comdr. Massie Hughes, USN
Phi đội tuần tra độc lập 2 (Patwing 2 Det)
Lt. Comdr. Robert Brixner, USN
32 Consolidated PBY-5 and PBY-5A (Catalina)
Chi đội máy bay phóng lôi 8 (VT-8 Det)
Lt. Langdon K. Fieberling, USN
6 Grumman TBF (Avenger)
Đội máy bay bờ biển 22 (MAG 22)
với 2 phi đội
Lt. Col. Ira L. Kimes, USMC
Phi đội tiêm kích 221 (VMF-221)
Maj. Floyd B. Parks, USMC
Capt. Kirk Armistead, USMC
20 Brewster F2A-3 (Buffalo)
7 Grumman F4F-3 (Wildcat)
Phi đội ném bom và trinh sát 241 (VMSB-241)
Maj. Lofton R. Henderson, USMC
Maj. Benjamin W. Norris, USMC
Capt. Marshall A. Tyler, USMC
11 Vought SB2U-3 (Vindicator)
16 Douglas SBD-2 (Dauntless)
Biệt đội không quân số 17
Major General Willis P. Hale, USA
Capt. James F. Collins, USA
4 Martin B-26 (Marauder)
Lt. Col. Walter C. Sweeney Jr., USA
13 Lockheed B-17 (Flying Fortress)
Maj. G.A. Blakey, USA
6 Lockheed B-17 (Flying Fortress)
Lực lượng phòng thủ Midway
Capt. Cyril T. Simard, USN
Tiểu đoàn lính thủy số 6
Col. Harold D. Shannon, USMC
Hải đội tầu phóng lôi 1 (MBTRON 1)
Lt. Clinton McKellar Jr., USN
Midway Island
PT-20
PT-21
PT-22
PT-24
PT-25
PT-26
PT-27
PT-28
Kure Island
PT-29
PT-30
Also 4 small Patrol Craft.
Lực lượng triển khai dọc các bãi ngầm và đảo của Hawaii
Vỉa cát ngầm French Frigate
USS Thornton (AVD-11)
USS Ballard (AVD-10)
USS Clark (DD-361)
USS Kaloli (AOG-13)
Bãi ngầm Pearl and Hermes
USS Crystal (PY-25)
USS Vireo (ATO-144)
Lisianski, Gardner Pinnacles, Laysan and Necker
4 YPs (converted tuna boats)
Đơn vị tiếp liệu
Comdr. Harry R. Thurber, USN
USS Guadalupe
USS Blue (DD-387)
USS Ralph Talbot (DD-390)
Trận hải chiến quan trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại
map
Khoảng 2h40, ngày 3/6/1942, quân Nhật tấn công cảng Dutch, nằm ở điểm cuối cùng của Alaska. Không có đơn vị lớn nào ở đây, và căn cứ bị hư hại nặng. Một máy bay Zero của Nhật bị hư hại trong cuộc không kích đã rơi xuống một hòn đảo nhỏ không xa cảng Dutch. Viên phi công thiệt mạng, nhưng máy bay thì chỉ bị hư hại nhẹ. Tàu ngầm Nhật không thể xác định vị trí máy bay rơi, nhưng người Mỹ thì có, và họ đã khám phá ra nhiều điều từ chiếc Zero này. Cách đó hàng trăm km về phía nam, những phi công ở căn cứ Midway cũng bắt đầu thức dậy. Những phi cơ trinh sát cất cánh đi làm nhiệm vụ. Vào khoảng 9h sáng, lực lượng đổ bộ của chuẩn đô đốc Tanaka Raizo bị phát hiện. Một số máy bay từ Midway cất cánh và tấn công đội tàu này, nhưng không gây nhiều thiệt hại.
Những tàu sân bay Mỹ tiếp tục giữ nguyên vị trí ở phía bắc Midway, chờ đợi kẻ thù xuất hiện. Đô đốc Fletcher đưa chiếc Yorktown lại gần Midway hơn. Trận chiến lớn đang tới gần.
Ngày 4/6/1942, trên đảo Midway, lúc 2h30 sáng, những đội bay bắt đầu thức giấc. Chỉ 15 phút sau, những đồng nghiệp bên kia chiếc tuyến của họ cũng đã sẵn sàng. Những phi công và nhân viên không lực thuộc Hạm đội hàng không số 1 bắt đầu tập trung trên boong tàu, chuẩn bị cho đợt không kích Midway.
4h30, những máy bay đầu tiên cất cánh khỏi sàn tàu sân bay, 108 chiếc từ 4 tàu sân bay cỡ lớn: Akagi (kỳ hạm), Kaga, Soryo, và Hiryu. Trước đó nửa giờ, các máy bay trinh sát của Nhật cũng được phóng đi, nhưng số lượng rất ít.
Gần 6h, tín hiệu về các máy bay Nhật bắt đầu hiện lên trên màn hình radar. Midway phóng đi tất cả các máy bay hiện có. Gồm 27 tiêm kích cơ do thiếu tá Floyd Parks chỉ huy, 6 máy bay phóng lôi, 4 máy bay ném bom hạng trung, 11 máy bay ném bom bổ nhào, 19 chiếc B-17, cùng 48 máy bay khác.
B - 17
Lúc 06:20, các máy bay Nhật ném bom và phá hoại nặng nề căn cứ quân sự của Mỹ ở Midway. Các phi công chiến đấu ở căn cứ Midway đa phần sử dụng những chiếc máy bay đã lỗi thời Brewster F2A (tên của người Anh là Buffalo), để bảo vệ Midway. Phi đội của Thiếu tá Parks không thể ngăn chặn tốp ném bom của Nhật vì gặp những chiếc Zero đi hộ tống. 15 tiêm kích cơ Mỹ bị bắn hạ, 7 chiếc bị hư hỏng và họ không thể bảo vệ Midway khỏi cuộc oanh tạc, nhiệm vụ đó giờ đây trông cậy vào các lực lượng phòng không mặt đất. Lực lượng phòng không Mỹ rất chính xác và dày đặc, làm thiệt hại nhiều máy bay Nhật. Tổng số thiệt hại của phía Nhật trên vùng trời Midway là 15 chiếc, cùng khoảng 32 chiếc nữa bị hư hại. Phía Nhật đã ném bom phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng trên đảo, nhưng không thể ném bom bất cứ phi cơ nào vì người Mỹ đã kịp cho cất cánh toàn bộ.
Cháy kho xăng trên đảo Miđway
Thiệt hại do máy bay Nhật
Thậm chí ngay trước khi Midway bị tấn công, đô đốc Nagumo cũng đã gặp bất lợi khi vị trí của họ bị máy bay Mỹ phát hiện. Vào khoảng 5h53, thông tin này đã đến được với tàu Enterprise, Yorktown và Trân Châu Cảng.
B-26
Vì đã cất cánh trước lúc người Nhật tấn công, những máy bay ném bom tầm xa của Mỹ ở Midway đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào hạm đội tàu sân bay Nhật. Lúc 7h sáng, đợt tấn công của phía Mỹ vào các tàu sân bay Nhật bắt đầu. Tham gia lực lượng này chủ yếu là các máy bay cất cánh từ Midway và một số máy bay phóng lôi từ tàu sân bay Hornet (gồm sáu chiếc TBF Avenger trong lần tấn công đầu tiên, và 4 chiếc B-26 Marauders.) Họ bị những chiếc Zero của Nhật bao vây, bị hoả lực phòng không từ hạm đội Nhật bủa vây. Nhiều chiếc bị bắn rơi và hạm đội của Nagumo hầu như vô sự. Trong 6 chiết máy bay phóng lôi, chỉ có 1 chiếc trở về tàu được
Enterprise lúc 7 h 25 phút
Nagumo quan sát cuộc tấn công đầu tiên của quân Mỹ từ đài chỉ huy mà không mấy ấn tượng. dù vậy, nó cũng khiến ông tin rằng cần phải ném bom Midway thêm một lần nữa. Nagumo, theo đúng chiến thuật thường lệ của tàu sân bay Nhật lúc ấy, vẫn giữ một nửa lực lượng của mình để dự phòng. Chúng gồm hai phi đội một đội gồm những máy bay chống tàu ngầm và máy bay thả thủy lôi. Một đội được trang bị các thủy lôi để tấn công tàu nếu như phát hiện được vị trí của các tầu chiến Mỹ. Như một kết quả của những cuộc tấn công vào Midway, cũng như sự đề nghị quan tâm tới nhu cầu tung ra một cuộc tấn công mới của những chỉ huy, Đô đốc Nagumo ra lệnh các máy bay dự trữ của ông lắp đặt bomb thông thường để tấn công các mục tiêu mặt đất lúc 07:15. Việc tái trang bị vũ khí mất 30 phút
. Nhưng cùng lúc đó, đô đốc Spruance, sau khi nhận được tin tức từ máy bay trinh sát, đã cho hạm đội của mình tiến về phía kẻ thù để giảm khoảng cách. Vào lúc khoảng 7h, khi mà các máy bay Nhật bắt đầu rời khỏi vùng trời Midway thì phía Mỹ tính toán rằng nếu họ phóng các máy bay của mình ngay bây giờ, họ có thể tấn công tàu sân bay Nhật khi mà những máy bay đang được lắp vũ khí trên boong, một tình thế rất hiểm nghèo cho phía Nhật. Vì vậy, cả Enterprise và Yorktown bắt đầu phóng đi các máy bay của mình, từ khoảng 7h đến 7h55. Chuẩn đô đốc Mitscher sẽ chỉ huy chiếc Hornet tác chiến độc lập.
Lúc 7h30, máy bay trinh sát báo cho Nagumo biết rằng có khoảng 10 tàu chiến đang ở khu vực gần đó. Mặc dù khá lo lắng về sự hiện diện này, Nagumo vẫn tin rằng không lực từ đảo Midway vẫn là mối đe dọa lớn nhất, vì vậy, việc lắp bom vẫn được tiếp tục.
Lúc 07:40 một máy bay trinh sát từ tuần dương hạm Tone ra tín hiệu thấy một lực lượng hải quân khá lớn của Mỹ ở phía đông. Nagumo nhanh chóng thu hồi lệnh tái trang bị vũ khí, và yêu cầu máy bay trinh sát xác định rõ vị trí lực lượng tấn công Mỹ.
Nagumo đang ở tình thế lúng túng. Đô đốc hậu quân Tamon Yamaguchi, chỉ huy Sư đoàn tàu sân bay số 2 (Hiryu và Soryu), đánh tín hiệu cho Nagumo rằng ông lưu ý nên tấn công ngay với các lực lượng sẵn có trong tay. Nagumo có lẽ có một cơ hội để tung ra một cuộc tấn công ngay lập tức từ một số hay toàn bộ lực lượng dự trữ của ông để tấn công các tàu Mỹ. Nhưng ông phải hành động nhanh chóng, vì lực lượng tấn công Midway của ông sẽ quay lại ngay lập tức. Chúng đã cạn nhiên liệu, và mang theo những người thương binh, và cần phải hạ cánh nhanh chóng. Việc bố trí xuất kích cho các máy bay của ông mất ít nhất 30-45 phút. Hơn nữa vì phải xuất kích ngay ông sẽ khiến một số máy bay dự trữ phải lâm trận mà không được lắp vũ khí thích hợp. Học thuyết tàu sân bay của Nhật thường thích lập thành một đội tấn công đầy đủ, và vì thiếu một sự xác định chắc chắn lực lượng Mỹ có các tàu sân bay hay không, phản ứng của Nagumo rất cẩn trọng. Và Nagumo đã đưa ra một quyết định tai họa là chờ lực lượng tấn công ban đầu của ông hạ cánh, sau đó mới tung ra lực lượng dự bị tấn công (lúc ấy sẽ được trang bị vũ khí thích hợp)
Sự yếu kém của trinh sát đã làm hại Nagumo khi mà phải mất 1 tiếng sau, họ mới xác định được những tàu chiến đó là tàu sân bay. Lúc đó là 8h20, Nagumo lo lắng thật sự, ông không còn nhiều thời gian. Vì vậy, lệnh mới được ban ra, người ta gỡ bom khỏi máy bay và thay thế nó bằng ngư lôi. Chính dưới áp lực thời gian và sự thay đổi liên tục như vậy, bom sau khi được gỡ ra đã không được chuyển vào khoang chứa mà vẫn để trên boong. Và đó là một sai lầm chết người của phía Nhật, những tàu sân bay của họ đang dần trở thành một thùng thuốc súng nổi.
TBD
Cùng lúc, người Mỹ đã phóng không lực hải quân của họ tấn công hải quân Nhật Bản. Đô Đốc Fletcher, chỉ huy toàn cục từ tàu sân bay Yorktown với các báo cáo do thám từ sáng sớm hôm đó, ra lệnh cho Spruance tấn công Nhật vào lúc thích hợp nhất. Spruance bắt đầu cuộc tấn công lúc 7g00. Fletcher sau khi kết thúc các cuộc do thám cẩn thận cũng cho lực lượng của mình tấn công vào 8g00. Tuy vậy có một số điểm, kế hoạch tác chiến của Mỹ không hợp lý bằng đối thủ của họ. Các phi đội của Mỹ tấn công không đồng nhất. Điều này giảm bớt hiểu quả của các đợt tấn công và đẩy thương vong của Mỹ lên cao. Các máy bay Mỹ chia làm 2 nhóm tấn công, nhóm 1 do thiếu tá Henderson chỉ huy với 18 chiếc chiếc phóng lôi SBD 2, nhóm 2 dưới quyền của thiếu tá B.W.Norris với 12 chiếc SBU. Khá nhiều phi công trong 2 nhóm mới gia nhập chỉ 1 tuần trước và họ cũng có rất ít thời gian và cơ hội bay tập. Chỉ 3 người là khá có kinh nghiệm với những chiếc SBD
SBD Dauntless
Hornet
Gray người sống sót duy nhất, các chú có thể thấy 7 lá cờ Nhật trên than máy bay, chính là thành tích của phi công, gray là người ngồi ngoài máy bay
9h17, Nagumo chuyển hướng sang những tàu sân bay Mỹ. Nhưng chỉ 1 phút sau, ông thấy mình đang đối mặt với một tốp máy bay phóng lôi của đối phương. Đó là những máy bay thuộc liên đội VT-8 từ chiếc Hornet, tuy vậy những máy bay cũ kĩ nặng nề này không phải là đối thủ của Zero, 15 chiếc máy bay ko 1 chiếc nào trở về tầu mẹ được. Chỉ có 1 phi công trong đội máy bay đó sống sót, thiếu úy George Gay. (Ngày 31/8/1995, một phi đội máy bay đã rải một phần tro hài cốt của Gay xuống nơi mà những bạn đồng chí của ông đã hy sinh).
Ngay sau đó là VT-6 từ Enterprise. Họ đến ngay trước mặt tàu sân bay Nhật và chiếc Kaga được chọn là mục tiêu. Pháo phòng không trên tàu cùng những chiếc Zero kháng cự dữ dội. 10 chiếc máy bay phóng lôi Mỹ bị hạ, bao gồm cả chiếc của sĩ quan chỉ huy Lindsey. Chỉ có 4 chiếc trở về được tầu mẹ.
Chỉ hơn một phút sau, chiếc Akagi thấy một tốp máy bay nữa tới, liên đội VT-3 từ Yorktown, đơn vị duy nhất có tiêm kích cơ đi theo hộ tống. Đơn vị này xuất kích lúc 8 h 45, được yểm hộ bởi 10 chiếc F4F Nhưng một lần nữa, họ không thể chống chọi lại những chiếc Zero. Máy bay Mỹ cố tập trung tấn công chiếc Hiryu, không thành công. Người Nhật phóng lên 25 chiếc tiêm kích, với sự yểm hộ rất mạnh của hệ thống phòng không. Phần lớn máy bay Mỹ ko có cơ hội phóng ngư lôi. Chỉ có 2 chiếc máy bay phóng lôi có thể trở về tàu mẹ.
Tuy vậy, với sự hy sinh của hai phi đội, người Mỹ một cách gián tiếp đạt được hai hệ quả quan trọng. Thứ nhất, họ giữ Nhật bên ngoài thế cân bằng, có tác dụng làm chậm quá trình chuẩn bị của người Nhật ngăn cản họ do thám phát hiện được mục tiêu của mình để tấn công. Thứ hai, VT-8 và VT-6 đã kéo các lực lượng không lực phòng thủ của Nhật ra khỏi vị trí bảo vệ, làm xáo trộn đội hình tiêm kích cơ bảo vệ hạm đội.
TBF
Sự xuất hiện của VT-3 lúc 10g00 đã nhanh chóng kéo các lực lượng chính của Nhật về phía Đông Nam.
Lợi dụng lúc VT-3 đang thu hút sự chú ý của Hạm đội Nhật, hai đơn vị riêng rẽ máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ tiếp cận Hạm đội Nhật từ hướng Đông Bắc và Tây Nam. Hai đơn vị này với may mắn quyết đoán đã tiếp cận được vị trí thuận lợi bên trên để tấn công Hạm đội Nhật. Các máy bay tấn công của Nhật chất đầy vũ khí và xăng trên boong các tàu sân bay trở thành mục tiêu của các phi đội Mỹ. Lúc ấy trên các hàng không mẫu hạm Nhật đang là lúc tiếp nhiên liệu. Đây chính là thời điểm các tàu sân bay dễ bị nguy hiểm nhất
Mọi chuyện thay đổi vào khoảng 10h25, 3 liên đội máy bay ném bom bổ nhào SBD từ tàu Enterprise và Yorktown xuất hiện. Chúng do thiếu tá Cluskey chỉ huy. Khi bay đến vị trí mà hạm đội Nhật được báo cáo lần cuối, Cluskey không nhìn thấy gì cả. Trong lúc nhiên liệu đã gần cạn thì ông bỗng nhìn thấy vệt sóng dài từ một khu trục hạm Nhật, chiếc Arashii, đang có nhiệm vụ rải mìn chống tàu ngầm. Phi đoàn máy bay Mỹ quyết định bám theo chiếc Arashii, và chẳng mấy chốc, Hạm đội hàng không số 1 đã trong tầm mắt. Những biện pháp vận động để né tránh trong những đợt tấn công trước đã khiến đội hình hạm đội Nhật xáo trộn, và làm giảm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng. Cluskey chia đội của mình làm hai. VB-6, mỗi chiếc thuộc phi đội này được trang bị 1 quả bom 500 kg, sẽ tấn công chiếc Akagi, còn VS-6, mỗi chiếc mang theo 2 bom 50 kg, và 1 bom 250 kg, tấn công Kaga.
Người Nhật không có ấn tượng mạnh về những chiếc máy bay ném bom này, những đợt tấn công thất bại của người Mỹ trước đó khiến họ chủ quan. Nhưng người Nhật quên rằng những con tàu khổng lồ của họ đang là những thùng thuốc nổ, với những quả bom nằm la liệt trên boong, những chiếc máy bay gắn đầy đạn dược và đang được tiếp xăng đậu đầy chật trên sàn tàu. Mỗi Cluskey kéo mũi máy bay xuống, tạo một góc 70 độ, hướng thẳng vào chiếc Kaga. Mặc dù quả bom của ông đã trận mục tiêu, nhưng một đồng đội phía sau đã thả bom trúng ngay vào một chiếc máy bay đang đậu ở phần đuôi đường băng, khiến sàn tàu bốc cháy. Ngay sau đó, một quả bom khác xuyên qua thang nâng ở phía trước, phát nổ ngay giữa những chiếc máy bay đang được tiếp xăng và vũ trang trong khoang chứa máy bay. Sức nổ của nó làm vỡ tung những cửa sổ trên đài chỉ huy. Quả bom thứ ba kích nổ một chiếc xe bồn đậu ngay trước đài chỉ huy. Vụ nổ tiếp sau đó giết chết thuyền trưởng cùng các sĩ quan chỉ huy. Con tàu hoàn toàn mất điều khiển. Ngọn lửa bùng lên không thể kiểm soát nổi. Đến 17h, lệnh bỏ tàu được ban ra.
lúc 5h 30 thoát được 3 trái
7 h 30 ăn khoảng 9 chín, trúng kho chứa bom hoặc kho chứa xăng, nn gây chìm tầu, chìm hẳn lúc 16h 25
Chiếc Akagi cũng trong tình cảnh tương tự. Quả bom đầu tiên đánh trúng thang nâng giữa, kích nổ số đạn dược chưa được cất. Quả thứ hai đánh vào những máy bay đang được vũ trang, kích nổ toàn bộ số đạn dược gắn trên chúng. Boong tàu Akagi chìm trong một loạt vụ nổ liên hoàn. Động cơ tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Đô đốc Nagumo rời chỉ huy sở đang bốc cháy của mình lúc 10h46, lệnh bỏ tàu được ban bố. Thuyền trưởng Aoki là người cuối cùng rời tàu, lúc 3h sáng ngày 5/6.
#1 quả 1 nổ cách 10 m
#2 quả 2 trúng đài chỉ huy
#3 quả 3 trúng đường băng, gây ra nổ lớn
trên một nửa nước Nhật, giống như nước Đức sau chiến tranh
3 phát thế là xong đời 1 em, chìm lúc 2 h
Trong số 33 chiếc SBD tham chiến lần này, 18 chiếc đã không thể trở về, tuy nhiên khá nhiều chiếc bị rơi chủ yếu là do hết xăng
đợt tấn công đầu
xong phim
Cùng lúc 2 chiếc mẫu hạm của Nhật ở phía tây bị tấn công, thì ở phía Đông, mẫu hạm Soryu cũng bị những chiếc máy bay của tầu Yorktown tấn công, liên đội VB 3 ( gồm 17 chiếc máy bay ném bom trinh sát, mỗi chiếc mang theo 1 trái bom 500 kg). Nó cũng là 1 phần thuộc biên đội máy bay tấn công của tầu Yorktown, và đã phát hiện ra tầu địch lúc 10 h. Lúc 10 h 25 VB 3 được lệnh tấn công. Từ độ cao 14.500 bộ, những chiếc máy bay bổ nhào xuống chiếc mẫu hạm.
Chiếc mẫu hạm quay về hướng Nam và cố gắng phóng những chiếc máy bay của mình. Nhưng ggay khi chiếc máy đầu tiên của Nhật cất cánh, thì những loạt bom đã đánh trúng chiếc mẫu hạm. Chiếc Soryu bị trúng 3 đòn chí tử, rải đều từ mũi tàu đến đuôi tàu, phá huỷ hầu như toàn bộ thang nâng, máy bay, bom đạn. Ngọn lửa dữ dội đến mức cánh cửa thép ở khoang chứa phải tan chảy. Con tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Thuyền trưởng Yanagimoto tự vẫn. Khoảng 19h20, con tàu chìm hoàn toàn.
Lúc này, phía Nhật chỉ còn duy nhất một tàu sân bay có thể hoạt động, là chiếc Hiryu. 8 h 15, những chiếc thủy phi cơ của Nhật phát hiện ra Yorktown, vào khoảng 11h, Hiryu phái đi 18 chiếc máy bay ném bom, hộ tống bởi 6 tiêm kích cơ, để trả thù. Lúc 11 h 30, Yorktown cũng phóng đi 10 chiếc máy bay trinh sát, mỗi chiếc mang theo 1 quả bom 500 kg để tìm chiếc mẫu hạm cuối cùng của người Nhật.Vào khoảng giữa trưa, những máy bay Nhật tiến sát chiếc Yorktown, lúc này cũng đã phát hiện người Nhật qua radar (một kỹ thuật mới mà Nhật chưa có). Do đó, đội phi cơ tiêm kích của Mỹ kịp bay lên và chặn đánh, bắn rơi hầu hết máy bay ném bom Nhật. Nhưng vẫn có 7 chiếc thoát qua được.
Và chiếc Yorktown bị trúng 3 quả bom, 5 lò hơi ngừng hoạt động, và vận tốc con tàu cũng giảm xuống mức chỉ khoảng 6 hải lý/h. Nhưng thủy thủ đoàn của Yorktown cũng đã kịp sửa chữa và phục hồi vận tốc con tàu ở mức 20 hải lý/h. Máy bay có thể hạ cánh, và tốp tiêm kích cơ thứ hai kịp xuất phát. Nhưng chiếc Hiryu cũng phái đi một đội thứ hai, gồm 10 máy bay phóng lôi và 6 tiêm kích cơ. Thuyền trưởng chiếc Yorktown, Buskmaster đã từng tránh thành công tất cả các ngư lôi trong trận chiến biển San Hô, nhưng lần này, chiếc Yorktown bị trúng 2 quả ngư lôi.
Yorktown bị tấn công
Yorktown bị nghiêng
Rời tàu
Con tàu càng ngày càng bị nghiêng, buộc Buckmaster phải ra lệnh bỏ tàu, vào khoảng 15h. Loạt thủy lôi đó cũng đánh chìm khu trục hạm USS Hammann là chiến hạm được lệnh ở lại với Yorktown
Thiếu úy S.Adams
Nhưng người Mỹ mới là những người có tiếng nói cuối cùng trong ngày này. Từ trên chiếc Enterprise, 24 máy bay ném bom, 14 chiếc được chuyển từ Yorktown sang, cất cánh tấn công chiếc Hiryu. Lúc 14h30, trong khi Yorktown đang bị tấn công, thiếu úy S.Adams thong báo đã phát hiện địch: 1 mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm, 3 tuần dương hạng nặng và 3 chiếc khu trục hạm. Mẫu hạm cuối cùng của người Nhật đã bị phát hiện. 13 máy bay ném bom tấn công Hiryu khi những phi công của nó đang ăn, 11 chiếc khác tấn công những thiết giáp hạm hộ tống. Hiryu bị trúng liên tiếp 4 quả bom.
Boong tàu hoàn toàn bị phá huỷ, khoang chứa máy bay chìm trong biển lửa. Nhưng phần dưới con tàu vẫn chưa bị ảnh hưởng, và nó vẫn có thể lao đi với vận tốc 30 hải lý/h. Lúc 16h 3 phút Enterprise cũng phóng đi 16 chiếc máy bay ném bom. Lúc 16h 50 biên đội của Enterprise đã phát hiện lực lượng địch, ở xa họ về phía Bắc 3 cột khói bốc lên từ 3 chiếc mẫu hạm bị đánh chìm lúc trước. 6 chiếc zero lên nghinh chiến, và bắn rơi 3 chiếc máy bay ném bom. Nhưng 6 chiếc đã đánh trúng Hiryu, những chiếc máy bay ném bom khác tấn công những chiếc tàu còn lại. Ngọn lửa cũng nhanh chóng lan xuống dưới, khiến động cơ ngừng hoạt động. Thủy thủ đoàn rời tàu vào khoảng 3h15 sáng hôm sau, 5/6.
Trong khi cả 4 chiếc tàu sân bay của Nhật hoàn toàn bị đánh chìm, thì chiếc Yorktown dường như vẫn còn có thể được cứu. Đô đốc Fletcher phái một đội tàu cứu hộ đến kéo Yorktown về Trân Châu Cảng, thuyền trưởng Buckmaster cùng một thủy thủ nhỏ cũng đã quay trở lại tàu. Nhưng một chiếc tàu ngầm Nhật, chiếc I-168 đã lọt qua được vành đai bảo vệ gồm 4 khu trục hạm để đánh đắm chiếc Yorktown cùng một tàu hộ tống, chiếc Hammann vào chiều ngày 6/5.
Ngày 5/6/1942
Đô đốc Yamamoto, trong một nỗ lực cuối cùng để tìm kiếm một điều gì đó, đã ra lệnh pháo kích Midway. Nhiệm vụ này được giao cho đô đốc Kurita, chỉ huy hải đội tuần dương hạm mới nhất và nhanh nhất Nhật Bản. Nhưng vào lúc 0h sáng ngày 5/6, Yamamoto rút lại lệnh của mình. Khi đang trên đường quay về, Kurita phát hiện một tàu ngầm Mỹ USS Tambor, ông ra lệnh tất cả các tàu rẽ ngoặt một góc 45 độ để tránh. Trong quá trình vận động, 2 tuần dương hạm hạng nặng Mogami và Mikuma va chạm với nhau, khiến chúng không thể đi nhanh được.
Mogami
Sang ngày 6, máy bay từ Enterprise và Hornet phát hiện ra 2 chiếc này và tấn công dồn dập. Chiếc Mikuma bị đánh chìm, còn Mogami bị hỏng nặng.
Kết quả
Trận chiến Midway đã kết thúc, thiệt hại cho phía Nhật hết sức nặng nề. 4 tàu sân bay hạng nặng, 1 tuần dương hạm, 272 máy bay, 100 phi công, 3400 thủy thủ, 3 thuyền trưởng hàng không mẫu hạm đầy kinh nghiệm cùng một đô đốc, bí mật của loại máy bay Zero. Số phi công Nhật thiệt mạng tương đương với số mà nước Nhật có thể đào tạo trong 1 năm.
Thiệt hại về người của Nhật
Akagi:
Warrant officers and above 8
Petty officers and men 213
Total 221
Kaga:
Captain, officers, and men 800
Hiryu:
ComDiv, captain, warrant officers, and above 29
Petty officers and men 387
Total 416
Soryu:
Captain, warrant officers, and above 35
Petty officers and men 683
Total 718
Thiệt hại của quân Mỹ
Hàng không mẫu hạm Yorktown và khu trục hạm Hammann bị đắm
150 máy bay bị rơi hoặc hư hại đến mức không sửa chữa được
92 sĩ quan v à 215 binh sĩ
Việc khám phá ra bí mật của chiếc Zero cho phép người Mỹ chế tạo thành công chiếc F6F Hellcat, mà chỉ 1 năm sau đã bắt đầu chấm dứt sự thống trị trên không của người Nhật.. Chỉ còn hai hàng không mẫu hạm là Zuikaku và Shokaku có thể huy động cho các hoạt động tấn công. Các mẫu hạm còn lại là Ryūjō, Junyo và Hiyo đều là mẫu hạm nhẹ với đường băng nhỏ, chúng khó có khả năng sống sót như các hàng không mẫu hạm. Thất bại nặng nề của người Nhật xảy ra sau nửa năm khai chiến với Hoa Kỳ. Khoảng thời gian này là gần như chính xác với dự đoán của Đô đốc Isoroku Yamamoto về quãng thời gian nước Nhật có ưu thế trước khi người Mỹ giành quyền chủ động.
Yorktown
Với Hải quân Hoa Kỳ bây giờ đủ lực lượng áp đảo đối phương trong phương diện về hàng không mẩu hạm và đang vươn móng vuốt của nó về phía trước, Hoa Kỳ bắt đầu có thể vào thế công kích lần đầu tiên trong cuộc chiến. Sau đó không lâu Hoa Kỳ xâm chiếm Guadalcanal, mở đầu cuộc chiến quần thảo hao mòn tại Quần đảo Solomon và cuối cùng đánh tan hải quân và các đơn vị không quân thiện chiến của Nhật
Ảnh hưởng của cuộc chiến
Đánh giá ảnh hưởng của cuộc chiến đòi hỏi phân tích thật cẩn trọng. Mặc dù trận Midway thường được gọi là "bước ngoặt của chiến trường Thái Bình Dương", rõ ràng là Hoa Kỳ chưa thể thắng cuộc chiến Thái Bình Dương trong một đêm. Hải quân Nhật Bản tiếp tục chiến đấu gan lì, và phải mất nhiều tháng trước khi Hoa Kỳ xoay trở từ trạng thái cân bằng hải lực sang trạng thái chiếm ưu thế. Cho dù không có sự khác biệt to lớn về lực lượng giữa hai bên tham chiến, đặt giả thiết là Hoa Kỳ đã thua trận chiến này, Nhật Bản cuối cùng vẫn sẽ thua Hoa Kỳ trên mặt trận Thái Bình Dương. Như thế, Midway không phải là trận chiến "quyết định" trong cùng ý nghĩa như Trận Salamis hay Trận Trafalgar. Tuy nhiên, chiến thắng ở Midway đưa Hoa Kỳ vào thế chủ động, gây thiệt hại nặng cho lực lượng Nhật khiến nó không thể hồi phục lại được và rút ngắn chiến tranh Thái Bình Dương.
Chỉ hai tháng sau trận Midway, nhận ra sự bất ổn của phía Nhật, người Mỹ tấn công Guadalcanal. (Nếu không có thắng lợi ở Midway, người Mỹ không thể sớm tấn công như thế hoặc có thì cũng không thành công như đã đạt được ở Guadalcanal). Bảo đảm đươc tuyến hậu cần đi tới Australia và Ấn Độ Dương trong thời gian đó, cùng với việc tiêu hao lực lượng Nhật trong chiến dịch Guadalcanal, đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình chiến tranh. Tác động của việc này đến rút ngắn thời gian cuộc chiến thì vẫn còn bàn cãi, mặc dù lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Thái Bình Dương đã khiến nền kinh tế Nhật Bản đi đến chỗ đình trệ vào tháng Giêng năm 1945.
Trong khi trận Midway chưa chứng tỏ là không quân của Hải quân Nhật hoàn toàn bị tiêu diệt, nó lại là một đòn chí tử. Chương trình huấn luyện phi công của Nhật trước chiến tranh đào tạo ra các phi công với phẩm chất rất cao nhưng với số lượng ít. Nhóm nhỏ các phi công tài giỏi này là những chiến binh dày dạn trong chiến đấu. Tại Midway, Nhật Bản mất rất nhiều các phi công thiện chiến chỉ trong một ngày mà chương trình huấn luyện đào tạo trong một năm. Trong các trận chiến sau này quanh Guadalcanal vào cuối năm 1942 như Trận Đông Solomons và Trận Santa Cruz không quân của Hải quân Nhật không gượng dậy được bởi bị tiêu hao cho dù tổn thất của hai bên là khá tương đương. Các nhà hoạch định chiến lược của Nhật đã sai lầm trong dự đoán một cuộc chiến tranh lâu dài và không ngừng nghỉ. Kết quả là nước Nhật đã không bổ sung, bù đắp đủ cho những thiệt hại về tàu bè, phi công và thủy thủ. Mặt dù chương trình huấn luyện của Nhật trong chiến tranh có đào tạo phi công nhưng họ không được huấn luyện thích đáng khi chiến tranh tiếp diễn, và sự mất cân đối này trở nên tồi tệ hơn khi các máy bay chiến đấu thế hệ sau của Hoa Kỳ tỏ rõ ưu việt trước máy bay của Nhật Bản. Khoảng giữa năm 1943, những thiệt hại ở Midway và quần đảo Solomons đã làm kiệt quệ lực lượng không quân của hạm đội Nhật. Tệ hơn nữa, thói quen của quân đội Nhật là vẫn giữ các phi công điêu luyện ở lại chiến đấu đã làm suy yếu năng lực huấn luyện đội ngũ phi công mới. Trái lại, Hải quân Mỹ điều các phi công xuất sắc của họ trở về các căn cứ huấn luyện để truyền thụ, nhân rộng các kỹ năng đánh bại người Nhật
Sự hủy hoại bốn hàng không mẫu hạm của hạm đội Nhật Bản là một tổn thất không thể thay thế được. Nước Nhật đã không thể bổ sung đủ 4 chiếc khác mãi cho đến đầu năm 1945. Trong khoảng thời gian đó, Hải quân Hoa Kỳ đã cho vào phục vụ hàng chục mẫu hạm lớn và nhỏ và vô số mẫu hạm hộ tống. Như vậy, Midway đã gây thiệt hại lâu dài cho lực lượng tấn công của Hải quân Nhật Bản, và rút ngắn khoảng thời gian mà lực lượng hải quân Nhật có thể chiến đấu trong những điều kiện có lợi. Việc mất năng lực chiến đấu ở giai đoạn sống còn này là một tai họa cho Đế quốc Nhật Bản. Họ đã có thể tiến hành những chiến dịch quy mô hơn và có lẽ là thành công hơn, để chống lại những chiến dịch phản công của Hoa Kỳ.
Tầm quan trọng của Trận Midway cũng có thể được đánh giá bằng cách nghiên cứu ngược lại thực tế rằng các mẫu hạm của Hoa Kỳ bị tiêu diệt, dù đây chỉ là chuyện giả thiết. Bằng phân tích thì thấy rõ là sự bại trận của Hoa Kỳ tại Midway đã có thể kéo dài cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Nó làm chậm sự khởi đầu của chiến cuộc hao mòn toàn diện mà cần thiết như cách duy nhất để đem cường quốc công nghiệp hóa hiện đại như Nhật Bản chịu quỳ dưới chân mình. Với chỉ hai hàng không mẫu hạm còn khả năng chiến đấu (chiếc Saratoga và Wasp), nước Mỹ buộc phải ở thế phòng ngự chiến lược cho đến cuối năm 1942. Người Nhật có thể tiếp tục tiến đến New Hebrides (sát Australia) và cắt đứt liên hệ của Hoa Kỳ với Australia, đồng thời hoàn tất việc xâm chiếm New Guinea. Hơn thế nữa, một thất bại nặng nề ở Midway có thể dẫn đến việc cách chức những tướng lĩnh quan trọng như Nimitz và Spruance. Các chiến dịch tấn công trên Thái Bình Dương sẽ bị trì hoãn đến cuối năm 1943, khi các mẫu hạm thế hệ Essex và Independence có mặt với số lượng thích đáng.
Cũng giả thiết như thế, nếu Hoa Kỳ thua trận, việc phân phối lại những nguồn nhân lực và vật chất cho hải và không quân Hoa Kỳ có thể bị trì hoãn trong các cuộc hành quân đổ bộ tại Bắc Phi, Địa Trung Hải, và có thể là Normandy. Một cuộc chiến lâu hơn ở Thái Bình Dương cũng nêu lên câu hỏi về vai trò của Liên Xô trong việc buộc Nhật đầu hàng, và không biết là sau đó Liên Xô có hiện diện