A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 106: Đông tiến
Bên trong đại trướng yên lặng như tờ. Cứ thế mà tính ra, thì mấy viên đại tướng chinh nam của Bắc Mạc, liên quan đến nguyên soái Trần Khởi, hóa ra đều từng là bại tướng dưới tay của Mạch Tuệ! Chu Chí Nhẫn, Chu lão tướng quân đứng nghiêm trang trước án trong tư thế mắt nhòm mũi, mũi nhòm mồm, hoàn toàn rơi vào trạng thái của một lão tăng nhập định, trầm mặc không nói năng gì. Trần Khởi cụp mắt xuống, che khuất thần sắc trong ánh mắt. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh thì vẫn không thay đổi, khóe môi khẽ nhếch lên. Chỉ có Thôi Diễn khuôn mặt trắng bệch lộ ra vẻ vô cùng giận dữ.
Thanh âm của tiểu hoàng đế có chút âm lãnh vang lên, phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch trong trướng: “Hay cho một gã Mạch Tuệ!”
Đây có thể coi như một lời kết án không?
Khá khen cho ý niệm quá mức mạnh mẽ của tiểu hoàng đế, khiến cho A Mạch dù đã đi về hướng đông, cách rất xa thành Thái Hưng, hiện đang đứng ở điểm cao quan sát đại quân hạ trại, cũng cảm nhận được mà không khỏi hắt xì một cái thật to. Phía sau, cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận thúc ngựa vài bước chạy lên. Anh ta đã thay trang phục thân binh, lông mày có vẻ dày lên không ít, trên mặt cũng xuất hiện râu quai nón, vừa nhìn thấy liền có cảm giác như đã biến thành người khác, chỉ có ánh mắt kia là vẫn trong trẻo như trước, giọng điệu mang theo vài phần mỉa mai, tựa tiếu phi tiếu liếc nhìn A Mạch, hỏi: “Thế nào? Mạch tướng quân bị trúng phong hàn sao?”
A Mạch biết anh ta đối với việc lừa giết Vệ Hưng còn có chút oán khí, cũng không muốn cùng anh ta so đo, chỉ quay đầu nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Những ngày này thời tiết hay thay đổi, chúng ta lại hành quân ngày đêm, trong quân sợ là cũng có không ít người bị phong hàn, ngươi đi thông báo với Lý Thiếu Hướng, bảo anh ta làm canh sinh khương[1], không phân biệt là quan hay binh, mỗi người đều nên uống một ít.”
[1]. Sinh khương: tên một vị thuốc họ gừng có công dụng trị cảm lạnh.
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch căn bản không để ý tới mình, trong lòng lại khó chịu, trên mặt liền ra vẻ kinh ngạc, hỏi: “Sao thế? Mạch tướng quân ngay cả sinh khương cũng cướp sao?”
Lời này vừa nói ra liền chọc cho Trương Sĩ Cường tức giận trợn mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, song A Mạch vẫn không hề bực mình, chỉ bảo Trương Sĩ Cường: “Mau đi đi.” Trương Sĩ Cường lườm Lâm Mẫn Thận một cái rồi lĩnh mệnh mà đi. A Mạch lại cho thân binh bên cạnh đều lui xuống, lúc này mới quay lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên hỏi: “Vệ Hưng là ai giết?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, theo bản năng trả lời: “Không phải ngươi bày kế dụ ông ta ra để giết sao?”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Vệ Hưng một thân công phu vang danh khắp từ nam ra bắc, những tướng lãnh binh sĩ bình thường khác đâu thể nào là địch thủ của ông ta?”
Lâm Mẫn Thận hiểu ám chỉ trong lời nói của A Mạch, lạnh mặt nói: “Không sai, là ta giết. Mặc dù ngươi bày kế khiến vết thương cũ của anh ta vỡ toác ra, nhưng kẻ ra sát chiêu cuối cùng là ta.”
Sắc mặt A Mạch thay đổi, lạnh lùng nói: “Nếu người là do ngươi giết, vậy thì ngươi cũng không nên nói quá nhiều những lời rắm thối như vậy?”
Lâm Mẫn Thận bị lời lẽ thô tụng của A Mạch chặn ngang họng, liền nhìn A Mạch trân trối: “Ngươi, ngươi…”
A Mạch nói tiếp: “Vệ Hưng võ công cao cường, cho dù vết thương cũ bị vỡ, nội lực bị hao tổn, nhưng nếu ngươi niệm tình xưa nghĩa cũ không chịu động thủ, thì ta có thể làm gì được ông ta? Ngươi đã xuống tay giết ông ta, giờ có nói cái gì cũng đã muộn rồi, cứ cau cau có có chẳng qua là muốn tìm cho mình một lý do để rũ bỏ trách nhiệm, khiến cho thâm tâm mình được thoải mái một chút mà thôi.” Nói đến đó, thần sắc của A Mạch bỗng trở nên lạnh lùng, ánh mắt như phủ một tầng sương lạnh,“Giết chính là giết, vì quyền thế cũng được, mà vì danh lợi cũng thế, có gan thừa nhận cũng coi như có can đảm. Tốt xấu gì cũng là một nam nhân, đừng có hơi một chút lại làm những việc khiến người ta phải coi thường!”
Một hơi lôi hết tâm tư trong lòng Lâm Mẫn Thận ra, khiến anh ta á khẩu không trả lời được, nghẹn hơn nửa ngày mới không cam lòng tranh cãi: “Nhưng ngươi rõ ràng có thể lưu tánh mạng ông ta lại, hơn nữa cho dù giết ông ta là bất đắc dĩ, vì sao còn hắt thêm bát nước bẩn lên người ông ta? Ông ta dung túng cho binh lính cướp phá khi nào? Chẳng qua chính ngươi muốn nhân cơ hội này đánh cướp vật tư quân lương thì có! Còn giả mù sa mưa dán thông báo an dân, thế tại sao không thấy ngươi đem tiền tài trả lại cho dân chúng?”
Lông mày A Mạch khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Vệ Hưng làm ảnh hưởng đến danh tiếng mấy vạn tướng sĩ quân Giang Bắc, vì sao ta không thể giết anh ta? Ta không đánh cướp quân tư, thì ai có thể đem tới cho ta? Về phần vì sao ta phải đem tội danh này đổ lên đầu Vệ Hưng, chẳng lẽ thân là công tử của Lâm tể tướng mà ngươi lại không biết duyên cớ bên trong hay sao?” A Mạch cười xùy một tiếng, chế nhạo: “Việc này, vốn dĩ Lâm tể tướng thành thục hơn người khác rất nhiều, Lâm công tử lẽ nào lại chưa từng thấy qua? Chẳng lẽ Lâm tể tướng vẫn nuôi ngươi như nuôi con gái mà nhốt ở trong nhà sao?”
Lâm Mẫn Thận bị A Mạch dùng lời nói chèn ép mà đỏ bừng cả mặt, rốt cuộc không còn giữ được dáng vẻ cà lơ phất phơ nữa, chỉ thẳng vào A Mạch giận dữ nói: “Ngươi! Ngươi…”
A Mạch cười lạnh nói tiếp: “Ta làm sao? Ta chưa bao giờ tự nhận mình là bậc đại thánh nhân Bi Thiên Mẫn Nhân[2], cũng không nghĩ sẽ làm đại anh hùng Nghĩa Bạc Vân Thiên[3], cho nên ngươi không được chỉ trích ta, nói cho cùng thì ngươi chẳng có tư cách này, Lâm gia nếu thật sự là trung thần lương tướng, thì hiện giờ Lâm Mẫn Thận ngươi cũng sẽ không có mặt ở đây!”
[2]. Bi thiên mẫn nhân: Bi, tức là chữ bi trong từ bi, “bi thiên mẫn nhân” tức là cảm thán thời đại bấp bênh, thương xót đời người thống khổ.
[3]. Nghĩa bạc vân thiên: có tình có nghĩa.
Lâm Mẫn Thận vẫn chưa từ bỏ ý định bài bác liền nói: “Hiện nay hoàng đế chính là kẻ giết huynh đoạt quyền, Lâm gia ta nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống, như thế có gì là sai?”
A Mạch cười khẩy nói: “Lâm gia nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống? Vậy thì phải làm sớm hơn từ vài chục năm trước kia? Ngươi cho là ta không biết sao? Tề Cảnh mặc dù không phải ngồi lên ngôi vị hoàng đế một cách chính thống, nhưng trong lòng lại rất nặng hai chữ “Chính thống” này. Thái tử trời sinh thông minh, tính tình lại quá mức trung hậu, Tề Cảnh sợ thái tử sau này không khống chế được những lão thần quyền cao chức trọng, trước thuận tiện giúp Nhị hoàng tử Tề Mẫn mài đao, một mặt quan sát mũi dao nhọn của thái tử, thuận tiện thanh trừ những thần tử có dị tâm. Lâm tể tướng là kẻ cáo già như thế nào, chẳng lẽ lại không nhìn thấu tâm can của đế vương, vì thế liền làm ra một bộ dạng thần tử thuần túy vô hại, căn bản không can dự vào chuyện tranh đấu của các hoàng tử. Đáng tiếc, hoàng đế cũng chẳng phải là kẻ lương thiện, nên vẫn quyết tâm phải ra tay trước, thay thái tử diệt trừ cây đại thụ là Lâm tể tướng này, cho nên mấy năm qua luôn tỉa bỏ cành lá của Lâm tể tướng, chờ đến khi chỉ còn lại một thân cây trơ trụi, để cho tân đế sau khi đăng cơ sẽ đạp đổ thân cây đó để lập uy. Mặc dù Lâm gia hiện giờ nhìn vào thì phong quang sáng lạn, kỳ thật sớm đã là gan thỏ trước miệng cọp rồi…”
Lâm Mẫn Thận nói không nên lời, kinh ngạc nhìn A Mạch, như thể không còn nhận ra nàng là ai nữa.
Loại người như Lâm Mẫn Thận được gọi là đệ tử thế gia, mặc dù trên mặt đối với ai cũng đều thân thiện, nhưng trong lòng thật ra lại rất xem thường người khác, A Mạch một phen nói tuột hết tâm can của anh ta ra, khiến anh ta khó tránh khỏi chấn động đến nỗi nhất thời thất thố. A Mạch khinh thường cười cười, lại nói tiếp: “Nếu không Lâm tể tướng vốn là kẻ dưới một người trên vạn nhân, vì sao lại phải chạy đi phù trợ một thái tử mồ côi từ trong bụng mẹ, giữ gìn chính thống cái gì! Ta nói vậy đúng hay sai, Lâm công tử? Ta không thích sự nhiễu loạn ở Thịnh Đô nhưng không có nghĩa là ta không nhìn thấu sự nhiễu loạn đó! Lâm công tử, A Mạch ta nói có chỗ nào sai không?”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt một hồi lâu, lúc này mới chậm rãi nói: “Có một chỗ ngươi nói sai rồi…”
A Mạch nhướng mày: “Vậy à?”
Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Lâm tướng công tử đã chết theo Vệ Hưng rồi, trước mặt ngươi không phải là Lâm công tử, mà chính là thân binh của Mạch tướng quân tên là Mục Bạch mà thôi.”
A Mạch đanh mặt, lạnh giọng nói: “Ngươi còn nhớ thân phận của mình là tốt rồi!”
Nói xong cũng không buồn để ý đến Lâm Mẫn Thận nữa mà giục ngựa chạy về chân núi nơi đại quân hạ trại.
Lâm Mẫn Thận nhất thời không có phản ứng gì, thần sắc phức tạp nhìn theo bóng dáng A Mạch. Sau biến cố ở thành Thái Hưng, anh ta đã cải trang trà trộn vào trong đội thân binh của A Mạch, mới đầu còn sợ bị người khác nhận ra thân phận, rồi lại thấy A Mạch chẳng cố kỵ chút nào mà sai khiến mình khiến anh ta càng cảm thấy kỳ quái, sau suy nghĩ cẩn thận lại liền thông suốt. Từ lúc còn ở trong núi Ô Lan, khi đó các doanh phân tán khắp nơi, anh ta và tướng lĩnh các doanh tiếp xúc không nhiều lắm. Sau lại trải qua vài trận chiến, nhiều tướng lãnh đã hy sinh, những người còn sống sót cũng không nhiều, quen biết anh ta lại càng ít. Hơn nữa, sau biến cố tại Thái Hưng, A Mạch đã tiêu diệt hết tâm phúc của Vệ Hưng, nên những kẻ có thể nhận ra Lâm Mẫn Thận lại càng không có mấy. Nếu có, cũng đều là tâm phúc của A Mạch.
Tham quân Lâm Mẫn Thận sớm đã chết ở trong thành Thái Hưng, kẻ hiện giờ còn sống chẳng qua là tên thân binh Mục Bạch mà thôi! Lâm Mẫn Thận chậm rãi lắc lắc đầu, thong thả cưỡi ngựa đi về hướng doanh trại.
Trong quân đã bắt đầu nổi lửa thổi cơm, binh lính tuy bận rộn nhưng cũng không hề bối rối, chỉ trong chốc lát đã ngửi thấy mùi cơm chín. Trước lúc xảy ra biến cố ở Thái Hưng, A Mạch đã âm thầm phái người giả làm thương lái đi về hướng Thanh Châu thu mua tích trữ lương thảo ở các trấn dọc đường! Bởi vậy lần này, quân Giang Bắc không có xe chở đồ lương thảo, quân nhu đi cùng, lại hành quân ngày đêm, tốc độ cực nhanh, hiện nay đã tiến vào vùng trung du phía đông Tương Châu. Nơi này cách Thái Hưng rất xa, lại có địa hình thuận lợi, kỵ binh Bắc Mạc truy kích theo lại bị Trương Sinh dẫn kỵ binh quấy nhiễu, hiện giờ cũng chỉ có thể nhìn theo bóng lưng của quân Giang Bắc mà than thở.
Lâm Mẫn Thận không khỏi than nhẹ một tiếng, A Mạch người này tâm tư kín đáo, lắm mưu nhiều kế, thật không giống với nữ nhân, thực không thể xem nhẹ nàng.
Giữa tháng chín, quân Giang Bắc thoát khỏi sự truy đuổi của truy binh Bắc Mạc mà vượt trước đến phía tây thành Thanh Châu, quân Bắc Mạc do Thường Tu An làm chủ tướng vốn trú quân ở ngoài thành Thanh Châu, do sớm nhận được chiến báo[4] của Trần Khởi, nên đã cho quân mai phục cách thành Thanh Châu bốn mươi dặm về hướng tây để ngăn chặn quân Giang Bắc. Ai ngờ quân Thanh Châu vốn từ lâu đóng cửa ở trong thành như gấu ngủ đông đột nhiên lại theo sát sau lưng, cùng quân Giang Bắc giáp kích trước, sau khiến quân của Thường Tu An đại bại, sau đó, quân Giang Bắc lại không chút hoang mang mà tiến thẳng vào thành Thanh Châu, khiến kỵ binh Bắc Mạc dù đuổi sát tới nơi cũng chỉ có thể đứng ngó ở ngoài cổng thành.
[4]. Chiến báo: chiến nghĩa là chiếu đấu, chiến tranh; báo nghĩa là thông báo.
Thành Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, phía sau cắt ngang qua dãy Thái Hành khoảng một trăm dặm là khe núi Phi Long. Vách núi hai bên cao chót vót, một con đường nhỏ hẹp xuyên qua hơn trăm dặm. Người xưa cho rằng: chiếm cứ Phi Long, chèn ép cổ họng phía sau, tiến sát đến Ký, Lỗ, nhất định thắng. Theo khe núi phía đông có thể tấn công Ký Châu, theo phía nam vượt qua sông Uyển có thể tấn công Nghi thành, theo phía tây có thể uy hiếp Tân Dã, Dự Châu, đúng là một cửa ải quân sự hiểm yếu, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.
Quân Giang Bắc đã vào Thanh Châu, Bắc Mạc dù có mấy vạn kỵ binh cũng chỉ có thể nhìn tòa thành mà than thở. Thường Ngọc Tông truy kích thẳng một đường đến đây, nhìn thành Thanh Châu không nhịn được mà chửi ầm lên, nhưng mắng chửi một hồi cũng cảm thấy thật vô vị, đành mang theo ba ngàn quân tiên phong phẫn nộ mà quay về. Đợi bại binh của Thường Tu An quay trở về, Thường Ngọc Thanh tự mình giúp thúc phụ Thường Tu An thu thập tàn quân. Ba chú cháu Thường gia tề tụ trong trướng, thúc thúc Thường Tu An kích động thiếu chút nữa ngay cả nước mắt cũng rớt xuống, hai bàn tay nắm chặt lại, thầm nghĩ hai tiểu tử các ngươi mà đến muộn thêm chút nữa, thì cái mạng già của thúc thúc này có lẽ đã bỏ lại tại đây.
Thường Ngọc Tông vẫn vì chuyện mình thiếu chút nữa đuổi theo quân Giang Bắc mà canh cánh trong lòng, Thường Ngọc Thanh liếc mắt nhìn anh ta, cười nhạo nói: “Ta sớm đã nói là không cho ngươi truy đuổi, nếu quân Giang Bắc đã dám quay lại thu dọn chiến trường thì sợ gì sự truy đuổi của ngươi, coi như mọi chuyện đã định rồi, ngươi có đuổi theo cũng không kịp!”
Thường Ngọc Tông cúi đầu không nói gì, chỉ có Thường Tu An tức giận tiếp lời: “Thất nhi, ngươi cùng quân Giang Bắc giao chiến đã nhiều, ngươi nói cho tam thúc nghe, quân Giang Bắc rốt cuộc là loại quân gì? Ngươi xem, bọn chúng thu dọn chiến trường so với dùng chổi sắt quét còn sạch hơn! Đừng nói đến khí giới mà chúng ta vất vả chế tạo đều bị đoạt đi, mà ngay cả áo giáp trên người những tướng sĩ chết trận của ta chúng cũng cởi sạch! Thế này, thế này, thế này hóa ra còn không bằng cả thổ phỉ!”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 107: Thanh Châu
Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”
“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.
A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”
Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”
A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”
“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”
Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.
Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.
A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”
A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”
Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.
Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”
Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”
A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”
Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”
A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”
Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”
A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”
Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”
Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”
Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”
Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”
A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”
“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.
A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”
Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”
A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”
Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”
Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”
Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.
Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”
Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.
Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”
Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”
Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”
Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”
Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”
Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.
Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”
Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”
Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”
Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”
Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”
Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.
Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”
Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”
Uông Thị cũng l phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”
Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”
Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”
Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu[1] đều làm bộ như không thấy, không biết.”
[1]. Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.
Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”
Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”
Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”
Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”
Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”
Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”
Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”
Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”
Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”
“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”
Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”
Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”
Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 108: Tình thế
Cuối tháng chín, trước áp lực của Bắc Mạc, Nam Hạ tuyên bố quân Giang Bắc là quân phản loạn, song cũng không xuất binh chinh phạt. Đối diện với sự chất vấn, khiển trách của sứ thần Bắc Mạc, viên quan Nam Hạ hai tay buông xuôi vô lực, vẻ mặt bất đắc dĩ nói: Trời thì ban mưa xuống, con gái lớn thì phải lấy chồng, đây đều là những việc mà triều định không thể quản được! Quân Giang Bắc không nghe lời muốn tạo phản, chúng ta cũng không có biện pháp, đúng không? Thanh Châu nếu đã giao cho các ngươi, các ngươi cứ tự mình đi đánh là được, chẳng phải các ngươi còn mấy vạn binh ở Võ An sao? Có Sát tướng Thường Ngọc Thanh ở đó nữa mà, thế thì làm gì có thành nào mà không hạ được a!
Sứ giả Bắc Mạc bị những lời vô sỉ của viên quan Nam Hạ này làm cho tức giận đến nỗi gân xanh nổi đầy mặt, hận không thể tiến lên túm lấy anh ta đánh cho một trận rồi nói sau. Chẳng qua làm công việc của sứ thần này, kiêng kị nhất chính là cùng người khác động thủ, vì thế chỉ có thể cố gắng nén lại, đem tình hình trình tấu lên triều đình Bắc Mạc.
Đợi đến khi đám người Thường Ngọc Thanh ở Võ An biết được tin này thì đã là tháng mười, Thường Ngọc Tông còn chưa nói gì, Thường Tu An thân là trưởng bối lớn tuổi nhất đã vùng đứng dậy mắng: “Bà nội nó! Lũ mọi rợ Nam hạ này không phải muốn đùa giỡn chúng ta sao, nói là đem Thanh Châu giao cho chúng ta, hiện giờ lại bị phản quân của anh ta chiếm mất, lại còn bảo chúng ta phải tự mình đi đánh, thế thì còn ký hòa ước cái *** chó gì nữa! Mọi rợ Nam Hạ, các ngươi cứ chờ đấy, chờ lão tử đánh hạ Thanh Châu, chẳng lẽ không thuận đường thu thập luôn Ký Châu hay sao!”
Thấy tam thúc kích động như thế, Thường Ngọc Tông ngược lại không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Chẳng lẽ quân Giang Bắc đến Thanh Châu thật sự là do triều đình Nam Hạ đã sớm thương lượng trước rồi sao?”
Thường Tu An và Thường Ngọc Tông đều thấy khó hiểu. Thường Ngọc Thanh thấy hai người bọn họ đều có vẻ mặt nghi nghi hoặc hoặc, đành phải giải thích: “Nếu bọn họ đã sớm thương lượng tốt, thì Thương Dịch Chi sau khi hồi triều sẽ không bị chèn ép, quấy nhiễu như vậy.”
Thường Ngọc Thanh nói không sai, sau khi Thương Dịch Chi trở về liền bị hoàng đế Tề Cảnh hoài nghi, nên vẫn chưa được tin dùng. Lâm tể tướng lại dâng một tấu Chương chỉ đích danh Thương Dịch Chi đã âm thầm dung túng binh lính mưu phản, khiến Thương Dịch Chi vừa về đến Thịnh Đô đã bị đặt vào cảnh đầu sóng ngọn gió.
Đầu tiên, quân Giang Bắc vốn xem như do Thương Dịch Chi thành lập, mặc dù Thương Dịch Chi đã thoát ly quân Giang Bắc, nhưng khó tránh khỏi có ngàn vạn mối dây liên hệ. Thứ đến, nếu do Vệ Hưng mang binh tạo phản thì cũng thôi, nhưng đằng này lại do Mạch Tuệ một đao giết chết Vệ Hưng rồi dấy binh tạo phản, rõ ràng là không chịu thừa nhận Vệ Hưng là nguyên soái. Lại nữa, phản quân Giang Bắc sau khi ra khỏi Thái Hưng đi đâu chẳng đi, mà lại thẳng tiến đến Thanh Châu, mà tướng Tiết Võ thủ thành Thanh Châu cũng lại mở rộng cửa thành đón quân Giang Bắc tiến vào. Thanh Châu là nơi nào? Chính là nơi Thương Dịch Chi coi giữ trước đây nha!
Cái khác tạm thời không nói đến, chỉ với ba điểm này, Tề Cảnh không thể không đem lòng nghi ngờ quân Giang Bắc làm phản có sự sai khiến của Thương Dịch Chi. Chỉ có một điều khiến cho ông ta không thể nghĩ ra được là vì sao Thương Dịch Chi phải làm như vậy? Đã làm như vậy rồi sao còn trở lại Thịnh Đô?
Tề Cảnh nhất thời cũng có chút nghi hoặc, chẳng qua ông ta còn chưa làm gì Thương Dịch Chi, thì mẫu thân của Thương Dịch Chi là Thịnh Hoa Trưởng công chúa đã động thủ trước, trực tiếp mang Thương Dịch Chi vào cung yết kiến, đợi gặp Tề Cảnh, Trưởng công chúa vốn là người yểu điệu mảnh mai, chỉ một cái tát liền đem con quỳ gối xuống trước mặt Tề Cảnh, sau đó khóc sướt mướt hướng về phía Tề Cảnh cầu xin: “Hoàng Thượng thay ta quản tiểu súc sinh này đi.”
Tề Cảnh thấy Trưởng công chúa đột nhiên vừa đến đây đã như vậy, đành phải hỏi là đã xảy ra chuyện gì, Trưởng công chúa lúc này mới vừa khóc vừa kể nói: “Quân Giang Bắc đến Thanh Châu đúng là do tiểu súc sinh này cho chủ ý, còn viết thư cho Tiết Võ ở Thanh Châu, để anh ta mở cửa thành cho quân Giang Bắc vào.”
Tề Cảnh lông mày nhíu chặt, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, lạnh giọng hỏi: “Việc này là thật sao?”
Thương Dịch Chi quỳ thẳng tắp, vẻ mặt quật cường, ngẩng đầu nhìn Tề Cảnh, cao giọng đáp: “Thát tử bức chúng ta ngay cả Thanh, Ký châu cũng phải cắt, trong lòng thần thật sự rất khó chịu, vừa lúc Vệ Hưng lén tìm thần hỏi việc nghị hoà, thần hỏi anh ta vài câu. Vệ Hưng cũng hận thát tử thấu xương, chúng thần tính toán nửa ngày liền nghĩ ra một cách, đó là giả đem Thanh Châu cấp cho thát tử để thỏa mãn lòng tham của chúng, đợi sau khi hòa ước ký kết xong, quân Giang Bắc giả kháng chỉ không tuân theo hiệu lệnh, tạo phản ở Thái Hưng, sau đó chiếm cứ Thanh Châu cùng thát tử giằng co. Đến lúc đó triều đình chối phắt đi rằng không có mối liên hệ với quân Giang Bắc. Vậy nên, thần đã viết một phong thư cho Tiết Võ giao cho Vệ Hưng.”
“Vậy vì sao lại giết Vệ Hưng?” Tề Cảnh hỏi, sắc mặt mặc dù bình thản, nhưng thanh âm lại lạnh đến thấu xương.
Thương Dịch Chi cúi đầu, thấp giọng đáp: “Thần cũng không biết, quân Giang Bắc làm phản ra khỏi Thái Hưng vốn do thần và Vệ Hưng hai người cùng hợp mưu, chẳng may khi rơi vào mắt người khác lại thành đại tội mưu phản nên hai chúng thần không dám để cho người khác biết, vì vậy thương nghị chờ thần quay về Thịnh Đô sẽ mật tấu lên Hoàng Thượng, ai ngờ vừa về đến Thịnh Đô lại nghe được tin Vệ Hưng bị Mạch Tuệ giết chết, thần lập tức tỉnh mộng, lại nhớ đến phong thư thần viết cho Tiết Võ, vội vàng phái người đến Thanh Châu truyền tin, ai ngờ vẫn chậm hơn Mạch Tuệ một bước.”
Tề Cảnh sau một lúc lâu không hề động tĩnh, chỉ yên lặng đánh giá Thương Dịch Chi. Trưởng công chúa vốn vẫn im lặng, bỗng dùng khăn che miệng khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Hoàng Thượng, ta đời này chỉ có duy nhất một đứa con là hắn, khó tránh khỏi có chút nuông chiều, không ngờ tên tiểu súc sinh này lại gây ra tội lỗi ngập trời như vậy. Chẳng những đã chết Vệ Hưng, mà ngay cả con trai duy nhất của Lâm Hiền cũng bị Mạch Tuệ giết, Lâm Hiền vốn không vừa mắt tiểu súc sinh này rồi, nếu biết, tất sẽ muốn bắt hắn phải đền mạng. Hơn nữa tiểu súc sinh lại phạm phải tội tru di cửu tộc, chỉ thương cho Thương lão tử cả đời vì nước, cuối cùng lại bị tiểu súc sinh này liên lụy.”
Tề Cảnh không khỏi nhíu mày, khiển trách: “Thương tướng quân bình định phản quân Vân Tây, càng vất vả công lao lại càng lớn, sao lại liên lụy đến hắn ta!”
Trưởng công chúa càng cảm thấy ủy khuất, không khỏi khóc nói: “Hoàng Thượng, cũng đều tại người và phụ hoàng, lúc trước ta không muốn gả cho Thương Duy là một quân nhân, các người lại cứ muốn ta phải lấy hắn, nếu lúc ấy người ta lấy là một Trạng Nguyên, thì đâu thể sinh ra một tiểu súc sinh lúc nào cũng muốn đấu tranh đến thành tính như thế này!”
Tề Cảnh bị Trưởng công chúa càn quấy khiến cho dở khóc dở cười, đành phải quát lớn: “Thế này mà cũng nói được sao, ngươi làm như mình vẫn là tiểu cô nương không bằng!”
Trưởng công chúa dùng khăn lau lệ nghẹn ngào không nói. Thương Dịch Chi lại đột nhiên lên tiếng: “Hoàng Thượng, thần và Tiết Võ vẫn liên lạc với nhau, để thần cho anh ta biết tình hình thực tế, rồi kêu anh ta phản Mạch Tuệ quy thuận triều đình được không?”
“Không thể!” Tề Cảnh chắp tay sau lưng đi qua đi lại đi giữa hai người, cuối cùng dừng lại nhìn chằm chằm Thương Dịch Chi nói: “Việc này tuy ngươi có chút lỗ mãng, nhưng cũngà một lòng vì nước. Trẫm biết ngươi rất khổ tâm, việc này về sau không được nhắc lại, nếu không, trẫm cũng chẳng có cách nào bảo hộ cho ngươi.”
“Nhưng Thanh Châu thì làm sao bây giờ?” Thương Dịch Chi không khỏi hỏi.
Tề Cảnh cẩn thận cân nhắc, trầm giọng đáp: “Trước cứ để cho quân Giang Bắc chiếm cũng tốt.”
Trưởng công chúa thấy Tề Cảnh không hề truy cứu việc này thì nhất thời mừng rỡ, vội vàng dắt Thương Dịch Chi tạ ơn, cam đoan sau khi trở về sẽ quản giáo con mình cẩn thận. Nỗi nghi ngờ trong lòng Tề Cảnh đối với Thương Dịch Chi đã hết, thầm nghĩ mình đã nắm được nhược điểm mưu đồ phản nghịch của Thương Dịch Chi ở trong tay, nên những kiêng kị đối với Thương Duy ở Vân Tây xa xôi cũng bớt đi ít nhiều.
Chưa đầy mấy ngày sau, Trưởng công chúa lại vào cung, lần này đến là vì cầu thân cho Thương Dịch Chi, không phải là người nào khác, mà chính là công chúa do đương kim hoàng hậu sinh ra. Tề Cảnh đầu tiên là ngẩn người, sau đó thì tảng đá vốn đè nặng trong lòng trong suốt hơn hai mươi năm rốt cuộc rơi xuống đất. Chưa từng nghĩ đến Trưởng công chúa cửa trước vừa rời đi, cửa sau hoàng hậu đã cầu kiến, không nói hai lời liền quỳ xuống trước mặt Tề Cảnh, sống chết không chịu đem nữ nhi gả cho Thương tiểu Hầu gia phong lưu thành tánh kia.
Vì thế, Trưởng công chúa và hoàng hậu, cảnh đấu tranh giữa chị dâu, em chồng chính thức kéo màn che, điều này khiến cho Tề Cảnh rất đau đầu, trái phải cân nhắc hồi lâu, cuối cùng vì không chịu nổi việc hoàng hậu cả ngày ở trước mặt mình khóc sướt mướt, đành phải cự tuyệt lời cầu hôn của Trưởng công chúa. Đồng thời, để trấn an Thương gia, mà không buồn để ý đến sự phản đối của Lâm tể tướng, lệnh cho Thương Duy làm đại nguyên soái của đại quân ở Vân Tây, đồng thời lệnh cho cháu ngoại của Lâm tể tướng là Giang Hùng làm phó soái để kiềm chế, lệnh cho Thương Duy và Giang Hùng cùng hợp lực bình định Vân Tây.
Thịnh Đô khí thế đấu tranh ngất trời, đồng thời, trong thành Thanh Châu một tình thế mới cũng dần dần được hình thành. Quân Giang Bắc cùng quân Thanh Châu kết hợp và tổ chức lại rất thuận lợi, A Mạch tự phong là tướng quân quân Giang Bắc, phong Tiết Võ làm tả phó tướng quân Giang Bắc, nguyên thống lĩnh bộ binh quân Giang Bắc là tướng Mạc Hải làm hữu phó tướng quân, nguyên giáo úy kỵ binh quân Giang Bắc là Trương Sinh phong làm thống lĩnh kỵ binh, nguyên giáo úy bộ binh thất doanh quân Giang Bắc, Vương Thất, thăng làm thống lĩnh bộ binh, chưởng quản lương thảo quân nhu Lý Thiếu Hướng phong làm quan quân nhu. Ngoại trừ mấy người này, bất luận chư tướng trong quân Giang Bắc đi theo A Mạch tiến vào Thanh Châu hay là thủ hạ của Tiết Võ, nguyên thủ thành Thanh Châu, đều căn cứ theo năng lực mà an bài thích đáng.
Trong quân trên dưới đều rất vừa lòng, trong thành Thanh Châu là một mảnh hài hòa.
Ngày mười lăm tháng mười, thời tiết rất đẹp. Trên con đường phía tây thành Thanh Châu có một chiếc xe la chạy vội vã, người đánh xe là một hán tử mặt đen chừng hơn ba mươi tuổi, một thân vải thô đen gọn gàng, một tay cầm cương, một tay cầm roi, ngồi ở trước xe, thỉnh thoảng lại vung roi thúc giục con la trước xe, khiến cỗ xe chạy như bay lên phía trước.
Xe la đến dưới thành Thanh Châu, trên tường thành, thủ binh nhô đầu ra lớn tiếng quát hỏi “Người vừa đến là kẻ nào?”, hán tử mặt đen lúc này mới dừng xe la lại, chưa vội trả lời câu hỏi của thủ binh, mà nhảy xuống xe, hướng vào bên trong nói: “Tiên sinh, đã đến rồi.”
Người bên trong cũng không nói chuyện, sau một lúc lâu, từ trong thùng xe có một cánh tay vén tấm màn phía trước xe lên, tinh tế đánh giá hai chữ “Thanh Châu” bút lực mạnh mẽ trên cổng thành, qua một lúc mới có chút không xác định giống như hỏi: “Đã đến rồi?”
Hán tử mặt đen hán tử, gật đầu nói: “Đến rồi, tiên sinh.”
Trên tường thành, binh lính thấy người phía dưới không lên tiếng trả lời, liền giương cung tên nhắm vào hán tử mặt đen, kêu lên: “Nếu không nói ta sẽ bắn!”
Hán tử mặt đen nghe xong lời này cũng chẳng buồn đến ý, chỉ ngẩng đầu liếc mắt một cái lên tường thành, hỏi người trong xe: “Tiên sinh, có nên nói rõ thân phận để vào thành không?”
Người bên trong xe cân nhắc một lát rồi đáp: “Không cần, cứ nói tới tìm A Mạch đi.”
Hán tử mặt đen cung kính vâng lời, buông màn xe xuống, xoay người nói với binh lính trên tường thành: “Ta tới tìm Mạch Tuệ, Mạch tướng quân.”
Thủ binh trên tường thành vừa nghe nói là đến tìm Mạch tướng quân, liền vội vàng thu cung tên, phái người đi gọi tướng đang trực cổng thành đến. Trong chốc lát, thân ảnh Trương Sinh đã xuất hiện ở phía trên tường thành. Anh ta chỉ liếc mắt nhìn xe la dưới thành một cái, trên mặt liền lộ ra thần sắc vừa mừng vừa sợ, vội vàng kêu thân binh bên người đi báo tin cho A Mạch, còn mình lại bước nhanh xuống dưới thành.
Cầu treo ngoài cổng thành chậm rãi thả xuống, Trương Sinh từ trong thành đi ra, cung kính chào người trong xe: “Tiên sinh.”
Người trong xe thản nhiên đáp lời.
Trương Sinh cười nói: “Tiên sinh cuối cùng cũng đã đến, Mạch đại nhân đợi tiên sinh đã lâu.” Nói xong, hướng về phía hán tử mặt đen gật gật đầu xem như chào hỏi, lại nhận lấy dây cương từ trong tay anh ta, vừa vội vàng đánh xe hướng vào trong thành, vừa tiếp tục nói chuyện với người trong xe: “Mạch đại nhân tính toán tiên sinh mấy ngày nay sẽ đến, nên đã chờ ở cổng thành mấy ngày rồi, nhưng hôm nay có việc quân quan trọng phải chủ trì, nên mới rời đi, mạt tướng đã cho người đi thông tri với Mạch đại nhân, chỉ lát nữa Mạch đại nhân sẽ tới đón tiên sinh.”
Vừa dứt lời, trên ngã tư đường đã vang lên tiếng vó ngựa, A Mạch mang theo vài tên thân vệ từ xa phi đến. A Mạch phóng ngựa trước nhất, phi như bay đến trước xe la mới vội vàng kéo cương ngựa lại, rồi từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất chạy đến bên xe la, vén màn xe lên, hướng vào bên trong kêu lên: “Từ tiên sinh!”
Trong xe, Từ Tĩnh khó nén nổi vẻ mỏi mệt, biểu hiện cũng có chút bất đắc dĩ, theo thói quen lại đưa tay vuốt chòm râu trên cằm, nói với A Mạch: “A Mạch, ngươi chẳng gì cũng đã là người tối cao trong quân, tại sao lại không thấy một chút trầm ổn của đại tướng quân!”
A Mạch cười gượng hai tiếng, ánh mắt trong suốt nhìn Từ Tĩnh, đáp: “Chẳng phải nhìn thấy tiên sinh mà cao hứng quá đó sao!” Nói xong xoay người phân phó mọi người về thành phủ, tự mình lại chui vào bên trong xe, ngồi xếp bằng đối diện Từ Tĩnh, hỏi: “Tiên sinh đi đường có thuận lợi không?”
Từ Tĩnh đưa đôi mắt trắng dã nhìn nàng, âm dương quái khí đáp: “Thuận lợi! Tất nhiên là thuận lợi rồi! Có Hắc Diện đi theo, ta có thể không thuận lợi được sao? Ta ngày hai mươi sáu tháng chín ra khỏi Ô Lan, hôm nay đã chạy tới đây, chưa dám trì hoãn dù chỉ một ngày, còn có thể thuận lợi như thế nào nữa? Nếu thuận lợi hơn chút nữa, mấy cái xương già của lão phu có lẽ đã rơi ở dọc đường rồi!”
A Mạch nhếch miệng cười, giải vây thay Hắc Diện nói: “Hắc Diện tính tình vốn nóng nảy, tiên sinh chớ nên trách anh ta, đều là ta không phải.”
Từ Tĩnh hắc hắc cười lạnh hai tiếng, nói: “Ta biết đều là ngươi không phải, ngươi kêu Hắc Diện đưa ta trở về, còn bày đặt mĩ danh là để bảo vệ ta, sợ là trong bụng cũng sẽ không nghĩ tốt như vậy!”
A Mạch vội vàng cười nói: “Sao có thể! Sao có thể! Kêu Hắc Diện đi đón tiên sinh đúng thật là vì sự an toàn của tiên sinh. Tiên sinh cũng không phải không biết, anh ta là người có võ nghệ tốt nhất ở trong doanh ta đấy.”
Từ Tĩnh bĩu môi, hiển nhiên không tin.
A Mạch lại cười tiếp rồi nói: “Đương nhiên, cũng có một chút tính toán riêng.” Nàng lúc ấy phái Hắc Diện đi đón Từ Tĩnh, ngoại trừ bảo đảm an toàn cho Từ Tĩnh, còn lại chủ yếu là lo Hắc Diện người này vốn luôn luôn không quá phục nàng, ở trong doanh sợ là không dễ khống chế, chi bằng lệnh cho anh ta đi theo Từ Tĩnh để bảo vệ.
Từ Tĩnh thấy A Mạch thản nhiên thừa nhận, nếu tiếp tục so đo với nàng cũng không hay, đành phải đảo cặp mắt trắng dã coi như bỏ qua việc này.
A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta như thế liền biết việc này xem như đã trôi chảy, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tiên sinh thấy thành Thanh Châu này thế nào?”
Ai ngờ Từ Tĩnh phản ứng lại có phần lãnh đạm, chỉ khẽ gật đầu, đáp lấy lệ: “Thành cao thế hiểm, dễ thủ khó công.”
A Mạch cười cười, nói: “Chẳng lẽ không phải như thế, đâu thể nơi nào cũng có núi Thái Hành làm cánh cửa bảo vệ, phía sau còn yểm trợ được cho cả hai vùng Ký Châu và Sơn Đông nữa.”
Từ Tĩnh giương mắt nhìn A Mạch, đột nhiên hỏi: “Ngươi cũng biết Thường Ngọc Thanh đang trú quân ở Võ An?”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 109: Khốn cảnh
A Mạch không khỏi ngẩn người, lặng đi một lúc mới đáp: “Biết.”
Từ Tĩnh lại hỏi: “Võ An cách Thanh Châu bao xa?”
“Chưa đến hai trăm dặm.”
Từ Tĩnh sắc mặt hơi trầm xuống: “Nếu biết chưa đến hai trăm dặm, vì sao còn dung túng cho anh ta đến lúc này?”
A Mạch giải thích nói: “Quân Giang Bắc mới đến Thanh Châu, căn cơ chưa ổn định, phía sau, Tiếu Dực lại chưa tỏ rõ thái độ có phải bằng hữu hay không, nên ta không dám tùy tiện xuất binh. Hơn nữa trong tay Thường Ngọc Thanh cùng lắm cũng chỉ có khoảng ba, bốn vạn binh, phần lớn lại là kỵ binh, không có ưu thế công thành, nên khó có thể uy hiếp Thanh Châu. Chi bằng trước mắt không cần để ý tới anh ta, nhân cơ hội này cứ chỉnh đốn lại Thanh Châu cho ổn định vững chắc đã.”
Từ Tĩnh dùng khí thế bức người nói: “Ngươi cẩn thận chặt chẽ chỉ cầu yên ổn, lại quên mất Thường Ngọc Thanh là người như thế nào rồi sao! Hổ sói sát bên sườn, mà vẫn yên tâm say ngủ! Thường Ngọc Thanh tuy trẻ tuổi nhưng lại có thể leo lên hàng ngũ danh tướng Bắc Mạc, cái tên ‘Sát tướng’ đâu phải vô duyên cớ mà có. Vì sao anh ta phải trú quân ở một thành nhỏ như Võ An? Ngươi có từng nghĩ tới nguyên nhân chưa?”
A Mạch nhất thời trầm mặc, tất nhiên nàng đã từng nghĩ tới nguyên nhân vì sao Thường Ngọc Thanh lại đem đại quân đóng ở thành Võ An, Võ An chính là nơi mà quân Thanh Châu khi xuất quân về hướng tây bắc chắc chắn phải đi qua, Thường Ngọc Thanh đóng quân ở nơi này, chẳng những có thể đợi viện binh, lại có thể đề phòng quân Giang Bắc đánh lén, lại có thể khống chế việc quân Giang Bắc tiến quân theo hướng tây bắc, ngoại trừ ba điều này, chẳng lẽ anh ta còn có ý đồ khác sao?
Từ Tĩnh hừ lạnh một tiếng, nói thêm: “Nếu Thường Ngọc Thanh dung túng binh lính ở Võ An đánh cướp, giết chóc dân chúng những quận huyện xung quanh, khiến dân chúng hoảng loạn chạy trốn, sau đó lại phái kỵ binh đuổi lưu dân về hướng Thanh Châu, lùa dân chúng công thành, ngươi sẽ làm thế nào? Có dùng tên bắn chết dân chúng công thành để bảo đảm an toàn cho Thanh Châu hay không?”
“Không thể!” A Mạch theo bản năng đáp.
“Không thể?” Từ Tĩnh cười lạnh, chế nhạo nói: “Vậy ngươi muốn liều mạng hy sinh quân đội, mạo hiểm việc thành có thể bị phá để cho dân chúng vào thành sao?”
A Mạch chau mày, mím môi không nói. Không cần Từ Tĩnh phải giảng giải, nàng cũng biết tuyệt đối không thể cho dân chúng vào thành, bởi vì trong đó chắc chắn sẽ có gian tế của thát tử, hoặc chúng sẽ đoạt cổng thành, hoặc sẽ vào trong thành làm nội ứng, khi đó thành Thanh Châu khó có thể giữ được.
Từ Tĩnh nhìn A Mạch chằm chằm, lại tiếp tục ép hỏi: “Vừa không dám cho dân chúng vào thành, lại không muốn bắn chết dân chúng, vậy ngươi phải làm thế nào? Theo sát phía sau dân chúng là gót sắt của kỵ binh thát tử, đừng nói ngươi không bắn chết dân chúng, chỉ cần ngươi nhất thời hơi do dự, bắn chậm một chút, thát tử đã có thể vọt tới dưới thành, cung thủ trên tường thành của ngươi còn có tác dụng gì nữa không? Còn nữa, một khi dân chúng đến gần sông đào bảo vệ thành, ngươi giết hay không giết? Nếu giết, đó đều là dân chúng Nam Hạ, thậm chí còn có những người có quan hệ họ hàng với quan quân giữ thành của ngươi, họ đều bị thát tử chĩa đao kề sát phía sau mà buộc phải chạy đến đây, nếu giết, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí. Nhưng nếu không giết, một khi bọn họ chạy đến chật kín như nêm, khí giới công thành của thát tử cũng được đẩy đến, cổng thành của ngươi có thể phòng thủ kiên cố được nữa không?”
A Mạch biến sắc mặt, trên người đã đã toát ra một thân mồ hôi lạnh. Lùa dân chúng công thành thật sự là một độc kế. Bất kể là giết hay không giết, đều ảnh hưởng rất lớn đến sĩ khí của quân sĩ thủ thành. Giết, sẽ gây hao tổn vật tư thủ thành, cũng như thể lực cùng sĩ khí của binh lính. Không giết, thát tử sẽ thoải mái công thành.
Từ Tĩnh dựa lưng vào thùng xe, ngửa đầu thở dài, thản nhiên nói: “Thường Ngọc Thanh là người có năng lực tiềm tàng, nhiều ngày rồi mà vẫn bất động như thế tất nhiên là có dự tính, nếu như lão phu không đoán sai, giờ phút này anh ta đang tăng cường chế tạo binh khí công thành.”
A Mạch nghe xong lại càng kinh hãi, nàng và Thường Ngọc Thanh quen biết đã lâu, vài lần gặp nhau mặc dù đều là tranh đấu đến ngươi chết ta sống, nhưng trong suy nghĩ đã mơ hồ nhận định người này tuy không phải là chính nhân quân tử, nhưng cũng không thể là kẻ âm hiểm đê tiện, đúng là bản thân đã quên mất anh ta còn có tên là “Sát tướng”, quên mất “Sự tích” anh ta từng chôn sống hơn sáu vạn hàng binh!
Từ Tĩnh lâu không nghe thấy A Mạch có động tĩnh gì, biết nàng đã đem những lời của mình lọt vào trong tai, cũng không nói nhiều lời, chỉ dựa vào thùng xe nhắm mắt dưỡng thần, cho A Mạch có thời gian tự mình cân nhắc cho thông suốt. Ngoài xe, Trương Sinh cùng Hắc Diện mơ hồ nghe được đối thoại giữa Từ Tĩnh và A Mạch, hai người nhìn nhau, đều rơi vào im lặng.
Đoàn người lặng lẽ đi tới thành phủ, vốn hôm nay là ngày quân nghị, các tướng lĩnh tề tụ thật chỉnh tề, bọn Lý Thiếu Hướng, Vương Thất đã sớm chờ ở ngoài cửa, thấy xe la trở về, tất cả đều vây quanh lại, đón A Mạch và Từ Tĩnh vào trong phủ. Từ Tĩnh đơn giản chỉ cùng mọi người chạm mặt, rồi nói thẳng ra rằng thân thể mỏi mệt nên muốn đi nghỉ trước. A Mạch sớm đã cho người chuẩn bị phòng cho ông ta, nghe vậy liền sai Trương Sĩ Cường đưa Từ Tĩnh đi nghỉ, còn mình tiếp tục chủ trì hội nghị quân sự mỗi tuần một lần.
Quân Giang Bắc ngụ tại Thanh Châu đã hơn một tháng, việc kết hợp và tổ chức lại cũng đã hoàn thành, trong thành, biên chế của binh lính tác chiến đã có bốn vạn bảy ngàn sáu trăm năm mươi sáu người, trong đó kỵ binh có bốn ngàn năm trăm ba mươi mốt người. Cái khác tạm thời không nói, chỉ riêng chuyện xuất lương thảo mỗi ngày thôi đã phải chi phí rất lớn rồi. Mặc dù bạc được thưởng từ Thái Hưng khá nhiều, nhưng cũng không thể lo nổi chi phí sinh hoạt cho bốn vạn người, mỗi khi nhắc tới việc này, quân nhu quan Lý Thiếu Hướng lại giống như vừa ăn phải hoàng liên[1], hé miệng là có thể phun ra mật vàng bất cứ lúc nào.
[1]. Hoàng liên: một vị thuốc trong Đông y, rễ to bằng đầu đũa, khúc khuỷu, ít rễ con nhiều, nhánh như bàn chân gà, ngoài vàng sẫm, trong vàng tươi, vị rất đắng.
Thanh Châu là vùng đất nghèo, trước đây đều phải dựa vào sự cung dưỡng của Ký Châu mà tồn tại, hiện giờ bề ngoài Thanh Châu và Ký Châu đã thành thế đối địch, tuy Tiếu Dực thủ thành Ký Châu vẫn chưa tiến hành phong tỏa kinh tế đối với Thanh Châu nhưng cũng không tiếp tục cung cấp tiền, lương cho Thanh Châu nữa.
“Xem tình thế này, chi bằng chúng ta phải nhanh chóng hạ Ký Châu thôi.” Hữu phó tướng quân Giang Bắc đương nhiệm Mạc Hải đề nghị.
Tiết Vũ lắc đầu, nói: “Võ An còn có đại quân của thát tử, chúng ta vốn giơ cao lá cờ chống lại thát tử, giờ chưa thấy khai chiến với thát tử, lại đi đánh người trong nhà trước, e là sẽ ảnh hưởng không tốt đến danh tiếng.”
Mạc Hải vốn xuất thân từ quân Dự Châu, là một người cao lớn thô kệch, tính tình cũng rất ngay thẳng, nghe Tiết Vũ nói như thế liền phản bác: “Tiết tướng quân quên là chúng ta đã làm phản rồi sao? Chẳng lẽ vì thanh danh mà để cho mọi người chết đói? Cả mấy vạn người như vậy, miệng ăn núi lở, không lấy Ký Châu thì làm sao bây giờ? Thái Hành không thể so với Ô Lan được, cái gì cũng không có, thì lấy gì để nuôi quân?”
Nghe Mạc Hải nói như vậy, sắc mặt Tiết Vũ liền có chút không tốt, anh ta sinh ra và lớn lên ở Thái Hành, tất nhiên không thích nghe người khác nói xấu Thái Hành nửa câu, mặc dù Thái Hành đúng là nơi đất bạc dân nghèo.
Vương Thất nhìn thấy Tiết Vũ không vui, sợ Mạc Hải tiếp tục đắc tội với người ta, vội vang cười nói: “Ngẫm lại có lẽ sẽ nghĩ ra biện pháp, nhớ ngày đó mới vào Ô Lan, mọi người lúc đó chẳng phải đều sợ trong núi không có gì nuôi quân đó thôi, nhưng kết quả thì sao, quân Giang Bắc chúng ta không chỉ nuôi được, mà còn lớn mạnh lên không ít còn gì!”
A Mạch đưa mắt nhìn Tiết Vũ, dò hỏi: “Tiết tướng quân, trước đây binh lính giữ thành Thanh Châu cũng có hai vạn người, ngoại trừ lương thảo do triều đình cấp, còn có nguồn cung cấp nào khác nữa không?”
Tiết Vũ lắc đầu nói: “Chỉ trông vào lương thảo do triều đình cấp mà miễn cưỡng nuôi quân, Thanh Châu vốn đã nổi danh là vùng đất nghèo, nên trong triều có rất nhiều người không nguyện đến đây làm quan.”
A Mạch cười, nàng biết Thanh Châu nghèo, chỉ có điều nhìn phủ đệ của các tướng lãnh trong thành này lại chẳng có vẻ khốn cùng như Tiết Vũ nói, vì thế lại hỏi: “Những người đến đây thì sao? Cũng không thể để cho họ ngay cả người nhà cũng không nuôi nổi!”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ nói: “Thanh Châu là nơi tận cùng, triều đình cấp bổng lộc lại thiếu, nếu chỉ duy nhất một người đến thì không nói làm gì, nhưng nếu mang theo gia quyến đến thì đúng là không nuôi nổi. Về sau lại có một vị tướng thủ thành nghĩ ra một cách, đó là phân cho họ mỗi người một đỉnh núi Thái Hành, thu hoạch sản vật sẵn có đem về dùng trong gia đình.” Anh ta nói xong nhìn về phía đám người Vương Thất và Lý Thiếu Hướng, nói: “Nhị vị đã từng từ thành Thanh Châu ra ngoài, hẳn là vẫn còn nhớ rõ chứ?”
Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, đây là chuyện giữ kín trong quân đội Thanh Châu, nói là phân cho đỉnh núi, kỳ thật chính là bị các tướng lĩnh cao cấp này chiếm lấy, sau đó sai sử binh lính đi canh tác thay bọn họ. Hai người bọn họ đều là mới phát đạt sau khi gia nhập quân Giang Bắc, ở Thanh Châu cũng không ít lần lên “Đỉnh núi” khổ lao. Hiện giờ Tiết Vũ điểm danh đến hai người, bọn họ bất giác đều có chút xấu hổ.
Lý Thiếu Hướng con mắt vòng vo xoay chuyển, cười nói: “Trước kia đúng thật là có nghe đến.”
Vương Thất nói thẳng: “Nhớ, ta còn lên núi ở lại mấy ngày. Nếu nhớ không lầm, vườn đào trên núi Phi Hà là của nhà Tiết tướng quân?”
Mặt Tiết Vũ đỏ hồng lên, có chút không được tự nhiên, ứng phó nói: “Chuyện trong nhà đều do nội tử để ý, ta cũng không quá quan tâm.”
Trương Sinh nhìn thấy Tiết Vũ không được tự nhiên, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tình hình ở đây với trên núi Ô Lan không giống nhau, liệu có thể đem các doanh tản vào trong núi được không?”
Người khác còn chưa mở miệng, Lý Thiếu Hướng cũng đã liên tục lắc đầu, phản đối: “Không được, vùng núi này rất hoang sơ, khí hậu lại khô hạn, chỉ trông chờ vào chút cao lương, sản lượng lại không cao. Những hộ nông gia trên núi ăn còn không đủ no, nên kể cả có tiền cũng không thể mua được lương thực.”
Không thiếu chư tướng trong quân là người Thanh Châu, tất nhiên cũng biết đó đều là tình hình thực tế, đều gật đầu công nhận, nhất tề nhìn về phía A Mạch, chờ chủ ý của nàng. A Mạch vẫn trầm mặc, vừa rồi khi Trương Sinh nói đem các doanh phân tán vào trong núi khiến trong lòng A Mạch vừa động, cũng nhân việc nuôi quân mà nghĩ ra cách giải quyết một vần đề nan giải.
Mọi người thấy A Mạch trầm mặc không nói, cũng theo nhau mà trở nên im lặng, nhưng đợi đến nửa ngày vẫn không thấy A Mạch có phản ứng gì, trong lòng đều không khỏi cảm thấy kỳ quái. Vương Thất nhìn thoáng qua Lý Thiếu Hướng ở bên cạnh, dùng khuỷu tay khẽ huých anh ta, hướng về phía A Mạch bĩu môi. Lý Thiếu Hướng đối với động tác nhỏ của Vương Thất làm như không thấy, chỉ khẽ đằng hắng trong họng, đang định mở miệng, thì Trương Sinh đã lên tiếng gọi A Mạch trước: “Mạch đại nhân, ngài nói đi? Trong núi này không đủ sản vật và lương thực nuôi quân, Ký Châu mặc dù trù phú, nhưng chúng ta có nhờ cậy được hay không vẫn còn rất khó nói, dù sao chúng ta cũng phải nghĩ ra biện pháp mới được.”
A Mạch giờ phút này đã là phục hồi lại tinh thần, Trương Sinh nói lại vô cùng rõ ràng, A Mạch hiểu được ý tốt của Trương Sinh, trước hướng anh ta khẽ cười rồi mới hỏi chư tướng: “Mọi người nghĩ thế nào?”
Lý Thiếu Hướng chần chờ một chút rồi nói: “Nếu không, ta cho người đi tìm vài ngọn núi thu hoạch ít sản vật tự nhiên đi?”
A Mạch cười nói: “Khai hoang trồng trọt cũng là một cách, chỉ có điều ít nhất phải hai năm mới nhìn thấy kết quả, không phải giải pháp trước mắt. Ngươi trước cứ cho người tìm, cũng là làm một việc tốt cho dân chúng Thanh Châu.”
Lý Thiếu Hướng gật đầu nói phải.
A Mạch còn nói thêm: “Nhất định phải giải quyết vấn đề ăn mặc, biện pháp tốt nhất chính là lấy từ vùng đất Ký Châu trù phú, chỉ có điều hiện tại có quân đội thát tử ở Võ An, chúng ta không có cách nào khác để xoay sở, cũng không thể làm ra cảnh nồi da nấu thịt mà biến người nhà thành kẻ địch được.”
Tiết Vũ nghe xong lời ấy vội vàng gật đầu, nói: “Đúng là như thế.”
A Mạch nói tiếp: “Cho nên, tốt nhất là Tiếu tướng quân ở Ký Châu có thể chủ động đưa lương, tiền cho chúng ta là tốt nhất.” Thấy trên mặt chư tướng đều lộ vẻ khó hiểu, A Mạch cười cười, lại nói với Tiết Vũ: “Việc này phải phiền Tiết tướng quân tự mình đi Ký Châu một chuyến, nói quân Giang Bắc chúng ta không đủ lương thảo, trước mắt tính phải bỏ Thanh Châu, xin Tiếu tướng quân tạm thời cho quân ta mượn tạm vài quận huyện để làm chỗ trốn tránh.”
Tiết Vũ nghe đến đây biết A Mạch muốn mình đi lừa đảo, mặc dù không hoàn toàn tán thành, nhưng cũng khó mà nói khác, đành phải trầm giọng lĩnh mệnh.
Đợi cho quân nghị chấm dứt, sắc trời đã tối. Tiết Vũ theo mọi người rời khỏi phòng nghị sự, cố ý đi chậm vài bước tụt lại phía sau mọi người, vụng trộm kéo Lý Thiếu Hướng lại, thấp giọng dò hỏi: “Lý tướng quân, không biết vị Từ tiên sinh mà lúc trước mọi người ra khỏi phủ nghênh đón là người phương nào?”
Lý Thiếu Hướng giơ ngón tay cái về phía Tiết Vũ, đáp: “Đó là người lắm mưu nhiều kế nhất quân Giang Bắc ta, vốn là quân sư bên cạnh Thương soái, Từ Tĩnh, Từ tiên sinh.”
Tiết Vũ có chút kinh ngạc, nói: “Quân sư của Thương soái? Nhưng sao lại có vẻ rất thân thiết với Mạch đại nhân vậy?”
Lý Thiếu Hướng thần bí cười cười: “Bởi vì Từ tiên sinh là thúc trượng của Mạch đại nhân!”
“Thúc trượng?” Tiết Vũ không khỏi kinh ngạc,“Mạch đại nhân đúng là đã có thê tử rồi sao?”
Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc, hỏi: “Thấy không giống người có thê tử phải không?”
Tiết Vũ theo bản năng lắc lắc đầu, trong lòng đột nhiên cảm thấy vô cùng may mắn, may là thê tử chưa tìm bà mối đem muội tử nhà mình gả cho Mạch đại nhân, nếu không, người khác còn không hiểu tại sao mình lại đem muội muội gả cho thủ trưởng làm thiếp? Đang nghĩ ngợi, chợt nghe Lý Thiếu Hướng hô: “Mạch đại nhân”, Tiết Vũ vừa đưa mắt nhìn lên, thấy A Mạch mang theo thân vệ từ trước mặt đi tới, vội vàng cất tiếng chào: “Mạch đại nhân.”
A Mạch cười cười, nói với Tiết Vũ: “Đúng lúc Tiết tướng quân còn chưa đi, vừa rồi có câu quên chưa nói với tướng quân, khi nào Tiết tướng quân đi Ký Châu, nhất định phải nói rõ với Tiếu tướng quân rằng quân Giang Bắc chúng ta đúng là bất đắc dĩ mới dùng đến hạ sách này, chỉ mong Tiếu tướng quân niệm tình dân chúng Thanh Châu, quân Giang Bắc ta thật không đành lòng bỏ dân chúng Thanh Châu lại cho thát tử giết hại.”
Tiết Vũ và Lý Thiếu Hướng đều ngẩn ra, tên thân vệ phía sau A Mạch lại phì cười thành tiếng. A Mạch quay đầu liếc nhìn anh ta một cái, anh ta vội vàng nghiêm mặt cúi đầu xuống.
Tiết Vũ bị tiếng cười của tên thị vệ kia làm cho bừng tỉnh, vội vàng đồng ý nói: “Thuộc hạ hiểu rồi.”
A Mạch lại hàn huyên cùng anh ta vài câu, rồi mang theo tên thị vệ kia xoay người rời đi.
Tiết Vũ vẫn ngây ngốc đứng nguyên tại chỗ, Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc vỗ vai anh ta, nói: “Không phải buồn, dù sao ngươi và Tiếu lão tướng quân cũng không phải người ngoài, ta bảo thật, ngươi đi thì cứ việc nói thẳng: Ngài cấp lương thảo cho chúng ta đi, nếu cho, chúng ta nhất định nhớ kỹ ơn của ngài. Còn không cho? Tốt lắm, đừng trách chúng ta da mặt quá dày, cũng chỉ có thể mang theo dân chúng Thanh Châu đến chỗ ngài tìm nơi nương náu, ngài mau chuẩn bị phòng ở cho chúng ta đi!”
Tiết Vũ chớp chớp ánh mắt nhìn Lý Thiếu Hướng mà cảm thấy vô cùng choáng váng.
Lại nói A Mạch mang theo tên thân vệ kia rời đi, cũng không về chỗ ở của mình, mà đi vòng đến chỗ của Từ Tĩnh. Trong phòng Từ Tĩnh đã sáng đèn, Trương Sĩ Cường đang chỉ huy hai tiểu binh khiêng một thùng nước nóng lớn, đưa mắt lên thấy A Mạch đang lại gần, vội vàng bảo hai tiểu binh đưa thùng nước ra ngoài, còn mình thì bước nhanh ra nghênh đón, kêu lên: “Đại nhân.”
A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, hỏi anh ta: “Tiên sinh không ngủ sao?”
Trương Sĩ Cường lắc đầu nói: “Tiên sinh nói rong ruổi trên đường cả người rất khó chịu, cho nên nhất định phải tắm rửa, cũng vừa thu dọn xong.”
Trong phòng, Từ Tĩnh đã nghe được A Mạch và Trương Sĩ Cường nói chuyện, liền cất giọng hỏi: “Là A Mạch sao?”
A Mạch vội vàng cao giọng đáp: “Tiên sinh, là ta, A Mạch.”
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NĂM: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lí
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
...:::...
Chương 110: Quân sư
Rèm cửa được vén lên, Từ Tĩnh đã thay xong một thân quần áo sạch sẽ từ trong phòng chậm rãi bước ra, nhìn A Mạch hỏi: “Hội nghị quân sự xong rồi sao?”
A Mạch vội nói: “Đã xong rồi, ta đến đây thăm tiên sinh, phải chăng đã quấy rầy tiên sinh nghỉ ngơi?”
Từ Tĩnh không trả lời, tầm mắt dừng lại trên người tên thân vệ sau lưng A Mạch, từ lúc ông ta vào thành đã phát hiện thấy tên thân vệ này vẫn không rời khỏi A Mạch nửa bước, không khỏi hỏi A Mạch: “Ai vậy? Sao lúc nào cũng như cái đuôi bám sau lưng ngươi thế?”
A Mạch còn chưa trả lời, tên thân vệ kia đã tranh lời nói trước: “Từ tiên sinh, tại hạ họ Mục[1] .”
“Họ Mộc[2]?” Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu.
[1, 2]. Mục và Mộc: đều có nghĩa là gỗ.
Thân vệ này chính là Mục Bạch, một cái tên giả của Lâm Mẫn Thận, anh ta thấy Từ Tĩnh hỏi, thản nhiên cười, đáp: “Đúng vậy, tại hạ là Mục Bạch, đối với Từ tiên sinh…” Không để cho Lâm Mẫn Thận kịp nói hết lời, Từ Tĩnh liền ngắt lời nói: “Hai cây[3] thành rừng?”
[3]- Hai cây thành rừng: nguyên văn “Song mục thành lâm”, ý nói thân phận thật của Mục Bạch không phải là họ Mục mà là họ Lâm.
Lâm Mẫn Thận ngẩn người, lập tức liền hiểu ra, ánh mắt lộ vẻ khâm phục, khen: “Đúng vậy, Từ tiên sinh quả nhiên lợi hại.”
Từ Tĩnh nhíu mày, tức giận nói: “Ngươi không sợ người khác biết ngươi là ai sao?” Nói xong lại quay đầu giáo huấn A Mạch: “Sao ngươi lại thu nhận con chim công này bên người thế?”
Lâm Mẫn Thận nhất thời lúng túng, trêm mặt hết đỏ lại trắng, Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh cũng cười xì một tiếng. A Mạch nhịn cười, đáp: “Là do Thương soái an bài, ta cũng chẳng có cách nào.”
Từ Tĩnh lại nhìn nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên nói: “Đổi lại đi!”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt, lại nghe Từ Tĩnh nói tiếp: “Đừng gọi là Mục Bạch, đổi thành Bạch Mục[4] tốt hơn.”
[4]. Bạch Mục: gỗ rỗng.
Lâm Mẫn Thận nổi giận nói: “Từ tiên sinh sao lại nói thế, uổng cho tại hạ từ lâu ngưỡng mộ tiên sinh…”
“Mục Bạch!” A Mạch lên tiếng ngăn Lâm Mẫn Thận lại: “Không được làm càn!”
Lâm Mẫn Thận mặt đỏ đỏ phừng phừng vẫn muốn nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh đã xoay người sang nói với A Mạch: “Ngươi theo ta đi dạo quanh đây đi.” Lâm Mẫn Thận thấy Từ Tĩnh coi khinh mình như thế, trong lòng lại tức giận, muốn vượt lên phía trước Từ Tĩnh để tranh luận phải trái. Nhưng Trương Sĩ Cường đã vội vàng túm anh ta lại, kéo ra ngoài sân: “Đại nhân và Từ tiên sinh có việc muốn nói, ngươi và ta ra ngoài vườn canh gác.”
Lâm Mẫn Thận bị Trương Sĩ Cường lôi ra khỏi cửa, A Mạch thong thả đi bộ cùng Từ Tĩnh dọc theo con đường mòn trong vườn, cười khuyên nhủ: “Tiên sinh cần gì phải bực bội với anh ta như vậy.”
Từ Tĩnh im lặng một lát, đột nhiên nói: “Anh ta không nên như vậy, dùng người thì không nên nghi ngờ, người đã nghi ngờ thì không nên dùng, làm như vậy trái lại thật là tầm thường.”
A Mạch sửng sốt, lập tức liền hiểu được “anh ta” mà Từ Tĩnh nhắc đến là chỉ Thương Dịch Chi. A Mạch lặng đi một lúc rồi nói: “Võ công của Lâm Mẫn Thận rất tốt.” Thấy Từ Tĩnh quay lại nhìn mình, A Mạch thản nhiên cười cười, giải thích: “Anh ta cũng là có ý tốt, có chuyện này chắc tiên sinh chưa biết, khi ta ở Thái Hưng c bị thương một lần, thiếu chút nữa thì mất mạng. Anh ta đầu tư trên người ta nhiều lắm, sợ chưa kịp thu hồi vốn thì ta đã bị kẻ khác giết mất, thế nên mới đặc biệt để Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh để bảo vệ ta.”
Từ Tĩnh quan sát A Mạch một khắc, nở nụ cười, nói: “Xem ra ngươi đã thông suốt rồi, so với ngươi, lão phu trái lại đã thấp kém hơn rồi.”
A Mạch vội nói: “Tiên sinh đừng nói như vậy, tiên sinh đối với A Mạch chính là thầy tốt bạn hiền, nếu không có tiên sinh, A Mạch sao có ngày hôm nay.”
Từ Tĩnh nhìn một cách xem thường, không khách khí nói: “Ngươi đừng vuốt mông ngựa ta, trong lòng ta và ngươi đều hiểu, chúng ta cùng nhau kết hợp lại là vì nhu cầu, ngươi không nhận ân tình của ta, ta cũng chẳng thiếu ân tình của ngươi.”
A Mạch cười cười: “A Mạch biết.”
Từ Tĩnh vuốt râu, nói trắng ra: “Biết là tốt, cho nên về sau hãy thu hồi cái sự khôn vặt của ngươi lại, lão phu không cần cái này. Hơn nữa, ngươi giờ đã là người giữ vị trí cao nhất ở trong quân, không cần phải nhìn vẻ mặt của người khác để sống nữa, phải cứng rắn lên, chỉ cần ngươi có thể đánh thắng trận, người khác tự nhiên sẽ phải kính trọng ngươi, sợ ngươi.”
A Mạch biết Từ Tĩnh có ý tốt, trong lòng không khỏi có chút cảm kích, lại theo thói quen ôm quyền vái một cái, cung kính nói: “Đa tạ tiên sinh dạy bảo.”
Từ Tĩnh thấy vậy lại nhướn mắt nhìn một cách xem thường, rồi chép miệng lắc lắc đầu, không chịu nói tiếp nữa. A Mạch thấy thế không khỏi cười khổ, nàng vốn phải sống như vậy trong một thời gian rất lâu rồi, nhất thời muốn sửa cũng không phải chuyện dễ.
Từ Tĩnh hỏi: “Ngươi tới tìm lão phu có việc gì?”
A Mạch suy nghĩ, nói: “Vẫn là việc Thường Ngọc Thanh ở Võ An, ta đã cẩn thận suy nghĩ rồi, cảm thấy hiện giờ vẫn chưa phải thời cơ tốt để chủ động tấn công. Hơn nữa, hiện giờ quân Giang Bắc cũng vừa bại trận chưa kịp hồi phục.”
Từ Tĩnh nghe vậy liền dừng cước bộ, xoay người nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra đối sách rồi sao?”
Khuôn mặt A Mạch trở nên kiên nghị, trầm giọng đáp: “Thuận theo tình thế, gặp dịp thì biến hóa. Vả lại phải xem động tác của Thường Ngọc Thanh như thế nào, nếu vẫn lùa dân chúng đến công thành, thì sẽ tương kế tựu kế dụ anh ta vào thành rồi tiêu diệt.”
“Vậy dân chúng thì sao?” Từ Tĩnh hỏi.
A Mạch mím chặt môi, đáp: “Dân chúng nếu có thể cứu liền cứu, không thể cứu thì dùng làm mồi nhử.”
Từ Tĩnh lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi hiện tại mới chân chính là một tướng quân.”
A Mạch cười khổ nói: “Tiên sinh đừng nói móc ta.”
“Không, không phải nói móc, mà là khen ngươi!” Từ Tĩnh nghiêm mặt nói: “Từ xưa đến nay không có tướng quân nào được lưu danh vì có tấm lòng từ bi nhân ái, câu nhân từ không thể cầm quân chính là ý này, nếu ngươi chỉ lo nhân ái đối với dân chúng ở dưới thành thì sẽ bất nhân với dân chúng trong thành và quân giữ thành, một khi thành bị phá, tất cả đều sẽ bị tàn sát.”
A Mạch thản nhiên cười.
Từ Tĩnh ngồi xuống một tảng đá, lại tiếp tục theo câu chuyện vừa rồi mà hỏi: “Nếu Thường Ngọc Thanh lùa dân chúng đến sông đào bảo vệ thành thì sao?”
A Mạch ngồi xuống đối diện với Từ Tĩnh, không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh mà nói: “Tiên sinh, ta muốn lấy một bộ phận tinh nhuệ từ kỵ binh dùng làm đội du kích, còn lại sắp xếp cho các bộ binh doanh.”
Hiện nay cơ cấu trong quân chính là lấy đội làm đơn vị chiến thuật cơ bản, một đội có một trăm người, quản lý mười ngũ, trên đội là doanh, trên doanh là quân đoàn. Trong đó, bộ binh, kỵ binh là doanh độc lập, không có quan hệ quản lý trực tiếp. Trong bộ binh doanh mặc dù cũng có kỵ binh, nhưng số lượng rất nhỏ, phần lớn làm thân vệ cho các tướng lĩnh hoặc làm thám báo trong doanh.
Từ Tĩnh bỗng nhiên phát sinh hứng thú, lại dùng tay khẽ vuốt râu, hỏi: “Nói thử một chút nghe xem, ngươi có ý tưởng gì?”
A Mạch nói: “Một số kỵ binh vì không có chiến mã tốt nên không thể dùng trong chiến đấu, chi bằng phối hợp với bộ binh doanh, thứ nhất, có thể đảm nhiệm làm lính liên lạc cho các tướng lĩnh, hoặc dùng để vận tải đồ quân nhu. Thứ hai, có thể làm một đội độc lập, dùng để tiến hành trinh sát và chiếm lĩnh một số vị trí trọng yếu trong trận địa, hoặc khi quân địch lộ vẻ hỗn loạn, bố trí thành đội hình chiến đấu ở mặt sau bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng quân bộ binh, có thể lợi dụng thời cơ có lợi mà truy đuổi quân địch.”
Từ Tĩnh nghe xong, trong mắt lập tức lóe tinh quang, tay vẫn không ngừng vuốt râu, đột nhiên hỏi: “Nếu là đại binh tác chiến, thì kỵ binh dùng như thế nào?”
A Mạch ngượng ngùng cười, đáp: “Nhất thời còn chưa nghĩ đến, chỉ nghĩ dù sao những kỵ binh đó nếu giao chiến trực diện cùng thiết kỵ thát tử thì sẽ gặp nguy hiểm, chi bằng lưu lại để dùng vào việc khác có ích hơn.”
Trên mặt Từ Tĩnh lộ ra vẻ suy ngẫm, tự mình nghiên cứu, khảo xét, qua một lúc lâu mới vừa cười vừa hỏi: “Vậy ngươi muốn thả kỵ binh tinh nhuệ ra ngoài để làm gì? Đề phòng Thường Ngọc Thanh công thành sao?”
A Mạch đáp: “Đúng vậy, chỉ cần một sư du kích tinh nhuệ bên ngoài, cho dù Thường Ngọc Thanh có công thành, chúng ta cũng chiếm được phần thắng nhiều hơn.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, lại hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đi rồi, hiện giờ ai thống lĩnh kỵ binh?”
“Trương Sinh.” A Mạch đáp.
Từ Tĩnh nghe vậy thì kinh ngạc nhìn A Mạch.
A Mạch bất đắc dĩ cười, nói: “Đã nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, ta tin anh ta.”
Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nói: “Vậy ngươi cần thương lượng trước với anh ta về việc thay đổi này, dù sao chủ yếu vẫn là điều động kỵ binh.”
A Mạch gật đầu đáp: “Ta ngày mai sẽ đi.”
Sáng sớm hôm sau, A Mạch đến giáo trường kỵ binh doanh tìm Trương Sinh, ai ngờ còn chưa nhìn thấy Trương Sinh đâu, lại đã thấy Vương Thất và Lý Thiếu Hướng ở góc giáo trường xa xa phía trước. Lý Thiếu Hướng đang giơ hai tay ngăn cản Vương Thất, giống như hai người đang tranh luận chuyện gì đó.
A Mạch thấy lạ, liền đi lại gần nghe, chợt thấy Lý Thiếu Hướng nói: “Không được, không được, Vương Thất ngươi không được quấy phá lung tung!”
Vương Thất trên người dính đầy bụi, vừa đẩy mạnh Lý Thiếu Hướng, vừa chửi bậy nói: “Ngươi giữ lại con súc sinh này mới là quấy phá lung tung, lãng phí lương thảo chưa nói, lại còn cả ngày coi hắn như đại gia mà cho người đến hầu hạ, ôi giời! Ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn cái bộ dạng của nó xem! Đúng là chủ làm sao, tớ làm vậy!”
Vương Thất kêu lên chỉ về phía sau Lý Thiếu Hướng, A Mạch nhìn theo hướng đó, thấy trên giáo trường không có ai, nhưng tại bãi cỏ, phía trên cọc gỗ có buộc một thần tuấn chiến mã hung hãn lông màu trắng, bờm dựng đứng, vẻ mặt hiên ngang. A Mạch nhíu mày nhìn kỹ, càng nhìn càng cảm thấy con ngựa này rất quen, trong giây lát chợt nhớ ra đây đúng là con ngựa mà Thường Ngọc Thanh vẫn thường cưỡi, hình như có tên là “Chiếu Dạ Bạch”.
Lý Thiếu Hướng trong lúc vô tình nhìn thấy A Mạch, liền thở phảo nhẹ nhõm, vội vàng kéo Vương Thất lại, kêu lên: “Đại nhân, ngài mau phân xử giúp chúng ta đi.”
Thì ra A Mạch không nhớ lầm, chiến mã này quả nhiên chính là con Chiếu Dạ Bạch, trong đại chiến tại sông Tử Nha, Thường Ngọc Thanh đã lưu lại bên bờ sông. Lần đại c đó, Thường Ngọc Thanh trúng kế bị vây hãm, liền kéo theo A Mạch nhảy xuống sông trốn thoát, để lại con ngựa mình cưỡi trên bờ sông, sau trận chiến liền bị Lý Thiếu Hướng coi như bảo bối “nhặt được” mà đem về, cất giấu lén lút mang đến Thanh Châu.
Mấy ngày trước đây, Vương Thất tới tìm Lý Thiếu Hướng để lấy chiến mã, vừa lúc trông thấy con Chiếu Dạ Bạch này, thấy nó là thần tuấn, liền chẳng nói qua với Lý Thiếu Hướng lời nào đã nhảy lên cưỡi. Ai ngờ Chiếu Dạ Bạch tính tình rất quái. Ngươi nói nó ôn hòa nhu thuận, nhưng nó lại không chịu để cho ngươi khống chế, bất kể là ai nhảy lên lưng nó để cưỡi đều bị nó hất ngã. Nhưng nếu ngươi nói nó là con ngựa trái tính trái nết, thì ai cho nó lương thảo nó đều ăn, đúng là một con ngựa không có khí tiết.
Nói ngắn gọn, thì con Chiếu Dạ Bạch chính là một con ngựa vô lại. Vương Thất mấy lần thử thuần phục con ngựa này đều không thành, tức giận đến nỗi chỉ muốn giết ngay con tuấn mã này cho hả giận, nhưng Lý Thiếu Hướng thì đâu thể để cho anh ta làm thế được, vì thế hai người liền bắt đầu tranh cãi.
A Mạch nghe xong liền đưa mắt nhìn Chiếu Dạ Bạch bên sân kia đang vươn cổ ngẩng cao đầu, trong đầu đột nhiên hiện lên khuôn mặt của Thường Ngọc Thanh, cũng một vẻ kiêu ngạo, hiên ngang như vậy…
Lý Thiếu Hướng vẫn còn đang lải nhải: “Đại nhân, ngài nói một con thần tuấn như vậy, chẳng lẽ lại không có cá tính hay sao? Vương Thất tự mình không thuần phục được, nên mới đòi giết nó cho hả giận, ngài nói anh ta đây có phải là quấy phá lung tung hay không?”
Vương Thất lại tức giận: “Ngươi nuôi nó mấy tháng, có thấy ngươi thuần phục nó đâu, nếu không thể thuần phục thì còn lưu nó lại làm gì? Không bằng giết đi cho rảnh nợ!”
Lý Thiếu Hướng nghe xong tất nhiên lại cãi lại, hai người ngươi một câu, ta một câu, đứng cãi nhau trước mặt A Mạch, cuối cùng nhất tề hỏi A Mạch: “Đại nhân, ngài nói xem phải làm thế nào?”