Thiên Hạ Kiêu Hùng Tác Giả: Cao Nguyệt
-----oo0oo-----
Quyển 1: Dương gia hữu nam sơ trưởng thành
Chương 18: Bách Chiến Công
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn: Mê Truyện
Đây là trận đấu thực tế đầu tiên của Dương Nguyên Khánh kể từ khi học võ. Trong lòng hắn cũng căng thẳng, không dám có mảy may khinh thường và lơ là, thể hiện hết sức nhuần nhuyễn tất cả võ công mà hắn đã học. Hắn tránh thế đao của Lưu Cư Sĩ, phóng một đao tấn công ngay vào bụng dưới gã.
Lưu Cư Sĩ có nằm mơ cũng không thể tưởng được, đối phương có thể chuyển từ thế thủ sang công nhanh như vậy. Gã muốn lui về phía sau đã không kịp, muốn dùng đao để tránh, nhưng sức đã tung ra lại nhất thời không lấy lại được. Trong nháy mắt, đao của đối phương đã đến bụng dưới mình, xong rồi, gã nhắm mắt chờ chết.
Chỉ nghe “Xoạc”' một tiếng, chợt thấy lạnh bụng, quần lại tụt xuống trong phút chốc. Lưu Cư Sĩ vội vàng kéo quần, cổ chợt thấy lạnh, đao của đối phương đã đến cổ gã.
Trong lòng gã chợt khiếp sợ, đây là đao pháp gì lại chỉ chém đến thắt lưng mà không chạm đến người. Gã mới biết võ nghệ của mình còn kém xa người thiếu niên này.
- Muốn giết cứ giết, ông đây sẽ không nhíu mày!
Lưu Cư Sĩ vẫn mạnh miệng, trước mặt rất đông thuộc hạ, gã không thể để bị mất mặt.
- Ngươi thua rồi!
Nguyên Khánh lạnh lùng nói một câu, thu lại đao xong, quay lưng bước đi. Lưu Cư Sĩ tuy rằng trên tay vẫn còn đao, nhưng dũng khí thì không còn, trơ mắt nhìn Nguyên Khánh đi xa.
Một gã thuộc hạ chạy lên, nói nhỏ:
- Chi bằng chúng ta cùng lao lên, kết liễu thằng nhóc này luôn!
Lưu Cư Sĩ lắc đầu:
- Tên thiếu niên này rất quái dị, lai lịch không rõ, đừng có nhiều chuyện, chúng ta đi!
Gã kéo quần quay người lên ngựa, dẫn theo một đám thuộc hạ thúc ngựa lao đi. Khi kẻ đi sau cùng cầm cây gậy trúc đi qua Nguyên Khánh, hắn chỉ thẳng đao vào y:
- Để quần áo của ta lại!
Kẻ đi sau cùng sợ đến mức ném cả gậy trúc cho Nguyên Khánh, rút vội roi da, hoảng sợ quất ngựa chạy trốn.
Nguyên Khánh mặc quần áo vào, lúc này mới “Phi” một tiếng căm tức với bóng dáng sắp tan biến dần của chúng:
- Còn nói sẽ đền ông đây mười bộ quần áo, nói chuyện thối như ***!
Lúc này Trương Tu Đà thúc ngựa đi từ trong rừng ra, trên gương mặt lạnh như băng lộ ra một nét cười hiếm thấy. Ông ta rất hài lòng với phương pháp của Nguyên Khánh, có dũng có mưu, đây mới là phong thái của một đại tướng.
Nguyên Khánh trong lòng có chút quái lạ, hôm nay không phải là ngày bọn họ hẹn luyện công, tại sao sư phụ lại đến đây. Hắn liền bước lên trước thi lễ:
- Đồ đệ bái kiến sư phụ!
Trương Tu Đà gật đầu, lại hỏi hắn:
- Con có mang theo cung tên của mình không?
- Dạ thưa sư phụ, đồ đệ thường luyện tên vào buổi chiều và buổi tối, buổi sáng không mang theo.
Trương Tu Đà lấy từ trong túi bên thân ngựa ra một chiếc cung khảm sừng màu đen đưa cho hắn:
- Đây là cung bát đấu, là kỵ cung, con thử xem đi!
Loại cung hiện nay Nguyên Khánh đang dùng là cung ngũ đấu, đã thuộc loại cung tên tiêu chuẩn của quân đội, tầm bắn có thể đạt tới sáu mươi bước. Hắn tuy rằng mới tám tuổi, nhưng vóc dáng đã như một thiếu niên mười hai tuổi, có thể sử dụng được.
Cung tên nhất thạch là chỉ sức mạnh vào khoảng sáu mươi cân, các loại cung dưới ngũ đấu là cung thường, từ ngũ đấu đến nhất thạch là cung thượng hạng, trên nhất thạch là cung siêu hạng.
Trong dân gian cấm dùng nỏ thế nên cung được sử dụng tương đối phổ biến, cũng không bị hạn chế gì, Trương gia tam lang, Lý gia tứ lang đều rất hài lòng với cung tên.
Nhưng trong quân đội Tùy Đường, cung đa phần đều là các kỵ binh sử dụng, bộ binh tuy rằng cũng dùng bộ cung nhưng đa phần là dùng nỏ. Vì khi cưỡi ngựa dùng cung thì lực kéo cần dùng nhiều hơn rất nhiều so với khi kéo cung trên mặt đất cho nên kỵ binh đa phần đều yêu cầu người cao to lực lưỡng, thường là sử dụng cung ngũ đấu, còn các đại tướng võ nghệ dũng mãnh đều dùng loại cung nhất thạch.
Một số mãnh tướng bậc nhất thiên hạ còn có thể dùng loại cung nhị thạch, thậm chí tam thạch. Trong Tùy Đường diễn nghĩa Hùng Khoát Hải vào kinh dâng cung trong dịp tết Nguyên Tiêu chính là dâng một chiếc cung tam thạch. Tần Quỳnh đứng trên mặt đất mới có thể kéo được một nửa, chứng tỏ khi cưỡi ngựa Tần Quỳnh chỉ có thể dùng nhất thạch cung, còn Vũ Văn Thành Đô lại có thể kéo hết cung khi đang cưỡi ngựa, chứng tỏ Vũ Văn Thành Đô ít nhất cũng dùng cung tam thạch.
Trương Tu Đà dùng là loại cung mạnh ngũ đấu nhị thạch, sức một trăm năm mươi cân. Ông ta đã cảm nhận được rằng sức lực của Nguyên Khánh đã có sự đột phá, hôm nay đặc biệt có ý chuẩn bị cho hắn một chiếc kỵ cung bát đấu, chủ yếu là xét đến việc Nguyên Khánh đã nên luyện kỹ thuật cưỡi ngựa bắn cung.
- Thử xem thế nào, nếu có thể sử dụng thì nó thuộc về s!
Ông ta đưa một mũi tên cho Nguyên Khánh. Nguyên Khánh nhận lấy chiếc kỵ cung nặng trình trịch. Kỵ cung nhỏ hơn một chút so với bộ cung, về cảm giác thì phần trên cung hơi dài hơn, phần dưới cung tròn và ngắn, đấy là để đề phòng khi bắn cung sẽ ảnh hưởng đến chiến mã, nhưng khi chế tạo thì phức tạp hơn, vừa ngắn vừa nhỏ mà dẻo dai mạnh mẽ, nó yêu cầu kỵ binh sử dụng cách bắn nhanh.
Một chiếc kỵ cung thượng hạng phải đến bốn năm mới có thể hoàn thành, giá của nó vô cùng cao, mà trên thị trường cũng khó lòng mua được.
Đầu tiên Nguyên Khánh lấy ra một chiếc quyết gắn vào ngón cái. Hắn phát hiện ra tên cũng nhỏ và ngắn hơn tên của bộ cung một chút, hơn nữa lông ở đằng sau cũng được chỉnh sửa riêng, vô cùng gọn ghẽ.
Lắp tên vào dây, tên ở bên phải cung, mắt ngắm vào bên trái cung, kéo chầm chậm dây cung.
- Không đúng.
Trương Tu Đà lập tức phát hiện ra lỗi sai của hắn. Nguyên Khánh vẫn dùng cách bắn của bộ cung, Trương Tu Đà lớn tiếng quát:
- Thế như truy phong, mắt như tia điện, kéo căng dây cung, bắn tên nhanh chóng…
Trong lòng Nguyên Khánh nghiêm nghị, kéo căng dây cung thật mạnh, ánh mắt như luồng điện quét về phía trước, gần như không hề dừng lại, khi tên chạm vào ngón tay, một mũi tên Điêu Linh bắn đi nhanh như tia chớp: “Cạch” một tiếng, vào đúng một thân cây nhỏ ngoài tám mươi bước. Nguyên Khánh không kìm nổi thầm khen ngợi mình một tiếng, hắn đã khổ luyện ba năm, thành tích rất khá.
Kỵ cung có phần nhỏ hơn nhưng sức mạnh lại lớn hơn, sức mạnh của hai cánh tay thường thì không thể giữ lâu, giương cung lên thì phải bắn ngay, cho nên yêu cầu thị lực và kỹ thuật bắn cung đều cực kỳ cao.
Trái lái, bộ cung có phần mềm hơn, nhằm bảo toàn sức mạnh, thường thì đều là cung lớn, có thể kéo từ từ rồi ngắm, hơn nữa là dùng tên loại lớn, bắn theo góc ngắm chiều cao, không giống như kỵ cung là tầm bắn đường thẳng. Trong thời đại Tùy Đường, bộ cung phần nhiều là dùng để thủ thành, hoặc là luyện võ trong dân gian.
Nguyên Khánh trước đó vẫn là luyện bộ cung. Bộ cung là cơ sở của kỵ cung, luyện thành thạo bộ cung rồi mới luyện đến kỵ cung, sẽ có hiệu quả công ít thành quả cao. Tuy rằng như thế chậm hơn so với việc trực tiếp lên ngựa luyện kỵ cung, nhưng cơ sở rất vững chắc, cũng có thể học được kỹ thuật bắn cung ở trình độ cao hơn.
Nguyên Khánh cũng không ngờ lần đầu tiên mình bắn kỵ cung đã có thể trúng mục tiêu chỉ với một mũi tên, không khỏi có chút đắc ý.
Trương Tu Đà nhìn ra vẻ đắc ý trong mắt hắn, cười lạnh một tiếng, xoay người lên ngựa, lấy từ thân ngựa chiếc cung mạnh loại ngũ đấu nhị thạch của mình, lại rút ra tám mũi tên ngậm trong miệng, một cây cung, hai mũi tên bắn đồng thời, lại vặn người đổi thành tay phải giữ cung, là hai mũi tên bắn cùng lúc về phía sau, rồi lại nằm thẳng hướng về bên phải bắn hai mũi, nằm thẳng hướng về bên trái bắn hai mũi.
Gần như là trong chớp mắt, trong vòng một trăm bước, tám cây nhỏ ở bốn phương tám hướng đều bị bắn trúng cùng một lúc, đuôi mũi tên vẫn còn rung bần bật.
Nguyên Khánh cúi đầu xấu hổ, hắn biết là sư phụ đang dạy bảo mình về thói tự mãn. Hắn còn kém rất xa! Bắn tên chuẩn xác là yêu cầu cơ bản của người bắn, các cung thủ bình thường đều có thể làm được, mấu chốt là sức mạnh, khoảng cách, kỹ thuật, tốc độ, đó mới là tố chất của cao thủ bắn cung.
Thầy trò hai người bọn họ tuy rằng chưa bao giờ nói nhiều nhưng trong lòng đều có thể hiểu được. Trương Tu Đà thu cung lại nói:
- Thời gian cũng đủ rồi, chúng ta quay về!
…
Hôm nay Trương Tu Đà không bắt hắn chạy bộ mà là cưỡi ngựa cho hắn đi cùng.
- Nguyên Khánh, sau mộ trận chiến gay go, con cảm thấy hiện nay mình thiếu nhất là gì?
Trương Tu Đà vừa thúc ngựa đi, vừa thản nhiên hỏi hắn.
Nguyên Khánh tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ một lát:
- Sư phụ, con thấy mình thiếu nhất là kinh nghiệm trong thực tế chiến đấu.
Trương Tu Đà thấy hắn thông minh khác thường, gật đầu, trong mắt lộ ra ý tán dương. Ông ta chậm rãi nói với Nguyên Khánh:
- Con nói rất đúng. Có lẽ ta chưa từng nói với con, kiểu kỹ nghệ này của ta rất khó luyện thành, Trương gia ta ba trăm năm qua người luyện võ không dưới trăm người, nhưng tổng cộng chỉ có ba người có bước đột phá ở Trệ Cố Kỳ, ta, cha ta và ông nội, ta hy vọng con là người thứ tư.
- Tại sao ạ?
Nguyên Khánh có chút khó hiểu hỏi:
- Chẳng lẽ là không đủ tố chất?
Trương Tu Đà lắc đầu:
- Tuy rằng có liên quan rất lớn tới tố chất nhưng cũng không phải là nguyên nhân duy nhất, cũng không phải bởi vì khổ công luyện tập, mỗi người Trương gia đều rất khổ công, mà là không có điều kiện.
Nguyên Khánh không tiếp lời, nghe ông ta nói tiếp.
- Loại công pháp này của ta có một đặc điểm, cũng là khuyết điểm chí mạng, chính là giai đoạn nhập môn tiến bộ nhanh chóng khác thường, cái gọi là dục tốc tắc bất đạt không sai một chút nào. Giai đoạn trước quá nhanh, cơ sở không vững, đến sau giai đoạn Trệ Cố Kỳ sẽ rất khó đột phá, tuy rằng có thể tính là cao thủ, nhưng không thành được mãnh tướng, ba trăm năm qua vẫn không tìm thấy được người tài. Sau này ông nội ta mười hai tuổi tòng quân, chiến đấu hàng trăm trận nơi sa trường, khi mười sáu tuổi mới phá vỡ được Trệ Cố Kỳ, ông ấy đến lúc này mới hiểu được, bước đột phá trong công pháp của Trương gia chúng ta mấu chốt ngay ở chiến đấu, tích lũy kinh nghiệm thực tế chiến đấu, cho nên ông ấy đổi tên công pháp Trúc Cơ thành Bách Chiến Công. Khả năng thiên phú cùng với thực tế chiến đấu liền có thể đột phá.
Nguyên Khánh cảm thấy kiểu đột phá này dường như giống như khai thông hai mạch Nhâm Đốc trong tiểu thuyết võ hiệp, trong lòng hắn vô cùng hiếu kỳ:
- Sư phụ, sau khi đột phá Trệ Cố Kỳ sẽ có thể tiến bộ lớn như thế nào?
- Đương nhiên là có bước tiến bộ vượt bậc, cảm nhận trực tiếp nhất chính là sức mạnh và tốc độ tăng gấp bội. Ví dụ như con có thể kéo cung nhị thạch, có thể sử dụng đại đao nặng sáu mươi cân, không giống như hiện nay người chỉ có thể dùng đao mười lăm cân, còn có cả thể lực dồi dao, có thể đánh trận dài không mệt mỏi. Có thể kết hợp sức mạnh, tốc độ và thể lực, con có thể đánh bại cả ngàn người, đó chính là mãnh tướng.
- Vậy còn chiêu thức võ công mà sư phụ dạy cho con?
Dương Nguyên Khánh hỏi với vẻ khó hiểu:
- Chẳng lẽ chúng không quan trọng sao?
Trương Tu Đà khẽ mỉm cười:
- Sau này ra chiến trường, con sẽ gặp phải hai phương thức tác chiến. Một loại là đấu đơn thương độc mã giữa các võ tướng, loại này cần đao pháp tinh diệu, giống như mười ba thế trong đao pháp mà ta đã dạy cho con. Thật ra sự tinh diệu trong đao pháp Trương thị là ở chỗ khả năng sử dụng, con có thể cùng lúc sử dụng với các loại binh khí khác, sau này có cơ hội con có thể thử.
Trương Tu Đà ngừng một chút, thấy Nguyên Khánh có thể hiểu được lời của mình, ông ta lại cười nói:
- Còn một loại phương thức tác chiến khác chính là hỗn chiến với quy mô lớn, giống như con bị mấy nghìn người vây khốn, con phải giết được lớp lớp vòng vây, bốn phương tám hướng đều có binh khí đánh tới. Lúc này, chiêu thức tinh diệu đã không còn quan trọng, quan trọng là sức mạnh, tốc độ và thể lực, còn có thị lực và thính lực của con. Trong quân loạn, con có thể nghe thấy tiếng dây cung, khi vô số binh khí cùng lúc chém giết về phía con, thị lực của con có thể phân biệt rõ ràng.
Dương Nguyên Khánh lẳng lặng gật đầu, hắn hiểu rồi, giống như trận huyết chiến của Triệu Vân ở Trường Bản, anh ta không chỉ phải chém giết với đại tướng, mà càng phải phá vây từ giữa đám binh lính của quân Tào. Đấy quả thật không phải việc mà người bình thường có thể làm được.
Sở dĩ Trương Tu Đà nói với Nguyên Khánh như vậy, là hy vọng hắn có thể sớm tòng quân. Đây là tâm nguyện của ông ta, đồ đệ của ông ta chỉ có ở trong quân đội mới có thể tỏa sáng bốn phương.
Hôm nay có vẻ Trương Tu Đà nói rất nhiều, ông ta liếc nhìn Nguyên Khánh, lại thản nhiên nói:
- Ta xem con luyện đao dưới nước, đã rất khó có thể đột phá tiếp, liền biết con đã vào giai đoạn Trệ Cố Kỳ, cho nên con phải thay đổi phương thức rèn luyện một chút.
- Nhưng thưa sư phụ, hôm qua con đã dùng đao bảy mươi lăm cân.
Nguyên Khánh có chút không phục mà biện bạch.
- Đó là do người ép buộc mà thành, chứ không phải là tự nhiên có được, ngược lại rất dễ bị thương, không thể sự dụng.
Trương Tu Đà đương nhiên không tán thành cách nghĩ của hắn, ông ta rút ra một tấm lệnh bài đưa cho hắn:
- Từ ngày mai trở đi, con đổi tên thành Lý Nguyên Khánh, ban ngày đều đến doanh trại quân đội tả vệ luyện cưỡi ngựa bắn cung, thời gian là hai năm.
Nguyên Khánh mừng rỡ, luyện tập cưỡi ngựa bắn cung đúng là ước mơ tha thiết của hắn, hắn nhận lấy tấm thẻ đồng, chỉ thấy mặt trên có khắc bốn chữ: “Tả vệ tuần”. Hắn biết đây là sự sắp xếp của ông nội.
Hắn cất tấm lệnh bài bằng đồng đi, lúc này mới phát hiện bọn họ đã ra đến ngoài cửa Minh Đức. Thường thì bọn họ đều chia tay ở đây, Nguyên Khánh vào thành, doanh trại quân đội của Trương Tu Đà ở ngoài thành.
Lúc này trong mắt Trương Tu Đà có chút buồn bã, ông ta cúi đầu thở dài một tiếng:
- Nguyên Khánh, ta mời con đi uống chén rượu! Coi như chén từ biệt của thầy trò chúng ta.
Mọi người vào vào đây ủng hộ để truyện ra nhanh hơn nào
Đã có 4 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Goncopius
Thiên Hạ Kiêu Hùng Tác Giả: Cao Nguyệt
-----oo0oo-----
Quyển 1: Dương gia hữu nam sơ trưởng thành
Chương 19: Uống rượu ly biệt
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn: Mê Truyện
Nguyên Khánh chấn động, vội la lên:
- Sư phụ, người không dạy con sao?
Trương Tu Đà cười khổ một tiếng:
- Không phải là ta không muốn dạy con, mà ta phải xuất chinh, khoảng chừng ít nhất hai năm cũng chưa về, cho nên sau này con chỉ có thể tự mình luyện công thôi.
Nguyên Khánh im lặng, tướng lĩnh triều Tùy này vì quân công mà thưởng thăng chức, tuy rằng Trương Tu Đà có võ công, nhưng tổ phụ lại không có cách nào đề bạt Trương Tu Đà. Nguyên Khánh cũng biết, Trương Tu Đà mong muốn được tác chiến đã lâu, rốt cuộc đã có cơ hội cho Trương Tu Đà lập công, đương nhiên hắn làm sao có thể ngăn cản Trương Tu Đà được.
Hắn gật gật đầu:
- Vậy sư phụ đi tác chiến nơi nào?
Trương Tu Đà tuy rằng ít nói, hơn nữa lại vô cùng nghiêm khắc, nhưng cũng không chứng tỏ là không thích Nguyên Khánh, mà ngược lại, Trương Tu Đà vô cùng thích Nguyên Khánh, thậm chí còn đem đao pháp bí mật của Trương gia truyền thụ cho hắn.
Nguyên Khánh tuy là cháu của Tướng quốc, nhưng lại không hề kiêu ngạo, áo cơm thô lậu, ngay cả người bình thường cũng không bằng, Trương Tu Đà biết là bởi vì nguyên do Nguyên Khánh là con riêng. Trương Tu Đà tuyệt đối không để ý, ông ta để ý chỉ bởi vì Nguyên Khánh thiên tư bẩm dị, huấn luyện khắc khổ, hơn nữa tâm tính chín chắn, đã hoàn toàn không phải là đứa trẻ tám tuổi, có đôi khi ông ta thậm chí coi Nguyên Khánh như bằng hữu của mình.
Thực ra Trương Tu Đà biết, người Nam Cương di tạo phản không ngừng, lần này mình xuất chinh, chỉ sợ cũng sẽ không thể quay về được, ông ta thật sự ly biệt với Nguyên Khánh. Cũng may Nguyên Khánh đã qua khóa nhập môn, sau này chỉ cần cố gắng tích lũy nâng cao trình độ dần dần, có thể có đột phá hay không, còn phải xem tạo hóa của hắn.
Nguyên Khánh đã hoàn toàn nắm giữ phương pháp luyện công, lại nghiêm khắc tự hạn chế, cũng không cần có ông ta ở bên cạnh chỉ đạo, hôm nay ông ta còn phải dặn dò một chút, sau này sẽ không có chuyện gì nữa.
Trương Tu Đà chỉ một tửu quán nhỏ bên cạnh, nói: - Chúng ta ra đằng kia nói chuyện.
Bọn họ đến gần tửu quán thì xuống ngựa, một gã tiểu nhị đến đón:
- Quân gia, vào quán uống chén rượu!
Trương Tu Đà ném dây cương cho y:
- Cho loại cỏ khô thượng đẳng và nước sạch!
- Vâng.
Tiểu nhị tiếp nhận dây cương đi đến hậu viện.
Trương Tu Đà dẫn Nguyên Khánh tiến vào tửu quán nhỏ, tìm một vị trí yên tĩnh ngồi xuống, hắn quay đầu lại căn dặn chưởng quầy:
- Mang hai bầu rượu, năm cân thịt dê đến đây!
Trương Tu Đà lúc này mới nói với Nguyên Khánh:
- Người rợ Côn châu tạo phản, Thánh Thượng ngày hôm qua đã hạ chỉ phong Sử Đại tướng quân (tức là Sử Vạn Tuế) làm Nam Ninh Châu hành quân tổng quản, đến chinh phạt di nhân, ta cũng phải theo quân xuất chinh, ngày mai là xuất phát.
Lúc này, một gã tiểu nhị đưa tới hai bầu rượu, Nguyên Khánh rót cho Trương Tu Đà cốc rượu đầy rồi nâng chén kính hắn:
- Con chúc sư phụ đại hiển thần uy, lập công hiển hách, sớm được phong ấm. thê tử
Trương Tu Đà cười ha hả, uống một hơi cạn sạch, lại lấy trong người ra một túi đan dược lớn và một hộp thuốc, đưa cho Nguyên Khánh:
- Đây có chút đan dược có thể để cho con sử dụng ba tháng, sau ba tháng con phải tự mình phối chế, ta đem phương thuốc cho con, con xem xong phải xé bỏ phương thuốc ngay.
Nói đến đây, ông ta nhìn thẳng vào Nguyên Khánh nghiêm khắc nói:
- Con phải nhớ kỹ, phối phương đan dược là tuyệt kỹ bí truyền của Trương gia ta, con chỉ có thể tự mình phối chế, quyết không được phép truyền ra ngoài.
Nguyên Khánh tiếp nhận phương thuốc đọc ba lần, nhớ thật kỹ, rồi đem nó xé thành nhiều mảnh, ngâm trong rượu:
- Đồ nhi nhớ kỹ, tuyệt không truyền ra ngoài!
Sắc mặt Trương Tu Đà ôn hòa trở lại, lại nói với Nguyên Khánh:
- Cái gọi là học vô bờ bến, con phải kiên trì không ngừng, quan trọng hơn là học tập tập sở trường người khác. Ta tuy là sư phụ của con, nhưng chúng ta học võ Trương gia cũng không chủ trương một thầy duy nhất. Ta trước sau bái ba sư phụ, bao gồm binh pháp của ta, chính là sở học Sử Vạn Tuế tướng quân. Con phải bái nhiều danh sư, khiêm tốn thỉnh giáo, cuối cùng mới có thể học đến trình độ rộng lớn.
Nguyên Khánh yên lặng gật gật đầu, hắn lại rót cho Trương Tu Đà chén rượu, lại tò mò hỏi:
- Sư phụ, không biết võ công thiên hạ xếp hạng như nào? Con nghe nói thiên hạ sắp xếp mười sáu nhánh hảo hán, đúng không?
Điều này Nguyên Khánh vẫn luôn muốn hỏi, mười sáu thứ tự hảo hán trên Tùy mạt diễn nghĩa rốt cuộc có hay không. Tuy nói là tiểu thuyết, nhưng tiểu thuyết cũng từ dã sử mà đến, dã sử cũng sẽ ghi chép một ít mà trong chính sử không có, giả như một số chuyện kỳ dị, chính sự sẽ không ghi chép. Từ sau khi hắn học võ, liền cảm thấy trong diễn nghĩa có vài thứ không phải là bịa đặt, mà toàn bộ có một ít đến từ đó.
Trương Tu Đà nâng chén rượu lên cười nói:
- Văn vô thứ nhất, võ vô thứ hai, tranh cường háo thắng là thiên tính quân nhân. Hạ Nhược Bật và Hàn Cầm Hổ tranh công, mà không chỉ có tranh công, mà còn tranh xếp hạng võ tướng, người trong thiên hạ đều biết.
Nguyên Khánh mừng rỡ, vội vàng truy hỏi:
- Chẳng lẽ thực sự xếp hạng!
- Xếp hạng chính thức, thì dù là Thánh Thượng khâm định xếp hạng cũng không có, nhưng trong quân đội có ý kiến về bảng xếp hạng mười vị tướng quân.
- Vậy ai sẽ là hảo hán đứng thứ nhất?
Nguyên Khánh đương nhiên biết không phải là Lý Nguyên Bá, Lý Nguyên Bá còn chưa sinh ra! Hẳn là khai Tùy chín lão là phiên bản thời kỳ đầu rồi.
Trương Tu Đà lắc đầu cười nói:
- Không gọi hảo hán, thiên hạ đệ nhất là Đại tướng quân tướng quốc Cao Quýnh.
- Cao Quýnh?
Nguyên Khánh ngây ngẩn cả người, Cao Quýnh không là quan văn sao? Sao lại là hảo hán đứng thứ nhất được chứ, ngẫm nghĩ một chút, hắn hiểu, không phải là xếp hạng bởi vũ lực, mà là bởi danh vọng và tài năng quân sự để xếp hạng, vẫn còn một chút tư tưởng trọng danh vọng Ngụy Tấn tồn tại, Cao Quýnh văn võ toàn tài, lại là Thừa tướng, xếp thứ nhất cũng là điều bình thường.
- Vậy đứng thứ hai?
- Thứ hai chính là tổ phụ con Dương Tố, thứ ba là Vũ Văn Thuật, thứ tư là Hàn Cẩm Hổ, thứ năm là Hạ Nhược Bật, thứ sáu là Vu Trọng Văn, thứ bảy là Ngu Khánh Tắc, thứ tám là Hạ Lâu Tử Can, thứ chín là Lương Duệ, thứ mười là Sử Vạn Tuế, đây là bảng xếp hạng mười Đại tướng do quân đội công nhận.
Trong đó gần một nửa đều là những người mà Nguyên Khánh chưa từng nghe qua, trong đầu hắn nghĩ đến đám người là Ngũ Kiến Chương, Định Ngạn Bình, Dương Lâm, Khâu Thụy, chín lão khai Tùy này đã chạy đi đâu mất rồi?
Thật ra hắn cũng biết, diễn nghĩa không phải như lịch sử, so với Ngư Câu La trong chín lão khai Tùy, sư phụ Vũ Văn Thành Đô lại không phải là người có công khai quốc, mà chỉ là dũng tướng võ công cái thế, giống như Hạo Sơn Vương Dương Lâm, căn bản là không có người này, Vũ Văn Thuật là phụ thân của đệ nhất "gian thần" Vũ Văn Hóa Cập, lại không biết ông ta có hay không có đứa cháu trai Vũ Văn Thành Đô này?
Trong đầu hắn đang nghĩ lung tung, Trương Tu Đà lại thở dài nói:
- Giang Sơn sinh ra nhiều người tài, Hàn Cầm Hổ, Lương Duệ đều đã chết, những người khác đều đã già, một một tướng lĩnh quân đội đều hy vọng mình có thể được xếp trong bảng mười tướng quân.
- Vậy sư phụ có muốn không?
Trương Tu Đà bưng chén rượu cười mà không nói, hắn sao lại không muốn chứ?
Đúng lúc này, bên ngoài tửu quán truyền đến tiếng trống, lập tức tiếng kèn vang lên, ngay sau đó là tiếng vó ngựa hỗn loạn, tiếng ngựa hí, bên ngoài vô cùng náo nhiệt, mọi người trong tửu quán ngơ ngác nhìn nhau, không biết xảy ra chuyện gì?
Một gã tiểu nhị chạy trốn hô to:
- Là Đột Lợi Khả Hãn của Đột Quyết đến đây!
Khách rượu đều chạy tới cửa xem náo nhiệt, Trương Tu Đà nghe nói là Đột Lợi Khả Hãn, sắc mặt khẽ biến đổi, đứng lên bước nhanh đi đến phía trước cửa sổ, Nguyên Khánh cũng đuổi theo, nhìn ra ngoài cửa sổ.
Chỉ thấy trước cửa Minh Đức xa xa, mấy ngàn kỵ binh quân Tùy hộ vệ một đội bởi mấy trăm kỵ sĩ Đột Quyết tạo thành hàng ngũ đang chờ vào thành, kỵ sĩ Đột Quyết tay cầm bạch kỳ, trên đầu đội mũ Thoát Hồn, trên người có hai mảnh giáp, sau lưng có cung tiễn, thắt lưng đeo chiến đao, trên ngựa treo trường mâu, vô cùng uy phong lẫm lẫm.
Trương Tu Đà hạ giọng giải thích với giải thích:
- Kỵ binh Đột Quyết thường chỉ có thị vệ Khả Hãn mới mặc áo giáp, cung thủ bình thường thì không có áo giáp, chỉ có thể mặc bì giáp.
Hắn lại chỉ vào một gã nam tử Đột Quyết hơn ba mươi tuổi khoác áo khoác dài:
- Con nhìn người kia, đó là Đột Lợi Khả Hãn, là cháu trai của Đột Quyết đại Khả Hãn Sa Bát Lược, tên là Nhiễm Can, hắn chỉ là một trong các Khả Hãn của Đột Quyết.
Thị lực Nguyên Khánh rất sắc bén, hắn thấy người nam tử Đột Quyết khoác áo dài kia, thấy vẻ ngoài hắn ta hơn ba mươi tuổi, mặt rộng nhiều râu, vẻ mặt lộ vẻ hân hoan, liền nhướn mày:
- Đột Quyết rốt cuộc có mấy Khả Hãn?
Trương Tu Đà cười lạnh một tiếng:
- Nhiều lắm! Sau khi Mộc Can Khả Hãn chết, Sa Bát Lược kế vị Đại Khả Hãn, nhưng Đạt Đầu Khả Hãn phía Tây không thừa nhận, Đột Quyết liền hoàn toàn phân chia làm Đột Quyết Đông Tây. Phía Đông có hai Khả Hãn, Đô Lam và tên Đột Lợi này. Tây Khả Hãn thật ra cũng có hai người, một là Đạt Đầu, một là A Ba Khả Hãn. Những Khả Hãn này tự chém giết lẫn nhau, triều Tùy chúng ta ngư ông đắc lợi. Đột Lợi Khả Hãn này là người có thế lực yếu nhất, nghe nói Thánh Thượng chuẩn bị gả công chúa An Nghĩa cho hắn ta, còn sử dụng lễ nghi tối cao.
Nguyên Khánh trầm ngâm một chút, đột nhiên hỏi:
- Đô Lam và Đột Lợi là là Đại Khả Hãn?
Trương Tu Đà nhanh chóng liếc Nguyên Khánh một cái, hắn không tin Nguyên Khánh có thể hiểu được ảo diệu trong đó, liền nói:
- Đô Lam là con trai của Đại Khả Hãn Sa Bát Lược tiền nhiệm, hắn ta kế thừa chức vị Đại Khả Hãn.
- Vậy Thánh Thượng lại gả công chúa An Nghĩa cho Đột Lợi, mà không gả cho Đại Khả Hãn, rõ ràng là châm ngòi cho hai Khả Hãn phía Đông mâu thuẫn hay sao?
Khách rượu xung quanh đều kinh ngạc nhìn về phía Nguyên Khánh, hắn thiếu niên bé nhỏ này không ngờ lại thấu hiểu như thế, Trương Tu Đà gật đầu tán thưởng:
- Con nói vô cùng chính xác, bên trong Đột Quyết sẽ rất nhanh bùng nổ chiến tranh.
Hắn lại khẽ thở dài một tiếng, trong mắt lộ vẻ tiếc nuối:
- Xem ra, quân đội Đại Tùy ta cũng sắp sửa phải Bắc chinh rồi.
Ghi chú: Đột Lợi Khả Hãn vào kinh cưới An Nghĩa công chúa xác nhận là tháng bảy, trong này thì sớm trước nửa năm.
Mọi người vào vào đây ủng hộ để truyện ra nhanh hơn nào
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Goncopius
Thiên Hạ Kiêu Hùng Tác Giả: Cao Nguyệt
-----oo0oo-----
Quyển 1: Dương gia hữu nam sơ trưởng thành
Chương 20: Ban đêm đột nhập võ phòng
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn: Mê Truyện
Mấy ngày nay Nguyên Khánh rất mực lo lắng sao lời ít tiền thế, không chỉ có là muốn giúp thím đỡ lo âu, hơn nữa đan dược của hắn chỉ có thể dùng ba tháng, sau ba tháng phải đích thân phối chế nhưng loại dược này đều vô cùng quý báu. Không kiếm được tiền hắn làm sao phối chế cho được, hắn dự định tìm tổ phụ Dương Tố để vay tiền, ngoại trừ tổ phụ Dương Tố, trong gia tộc này có ai để ý tới hắn đâu chứ? Nhưng lòng tự trong khiến cho hắn không mở miệng được, hắn phải tự lực cánh sinh thôi.
Hắn nghĩ tới việc làm một ít phát minh sáng tạo, nhưng ngẫm lại cũng không thực tế chút nào, một mặt bản thân hắn sẽ không làm được, về mặt khác hắn dù sao cũng mới tám tuổi, hơn nữa bối cảnh xã hội khác biệt, người triều Tùy có thể chấp nhận hậu thế gì đó không còn là một chuyện.
Có lẽ tốt nhất là dựa vào võ nghệ của hắn để đi kiếm tiền vậy, Nguyên Khánh đã nghĩ đến một cách, hắn chuẩn bị đợi khi thời tiết ấm lên một chút sẽ bắt tay vào làm.
Nguyên Khánh vừa mới đi vào viện môn, ánh mắt sắc sảo của Nữu Nữu nhìn thấy cung khảm sừng đen tuyền trên lưng Nguyên Khánh, hai mắt lập tức sáng lên:
- Nguyên Khánh ca ca, cung của ai vậy?
- Đương nhiên là sư phụ tặng ta cây cung mới, cây cung cũ kia ta dùng không thuận tay nữa, tặng cho muội.
Nguyên Khánh gỡ cung đen xuống, kéo dây cung một chút, chỉ nghe "phật" một tiếng rõ ràng, lực đạo rất mạnh, hắn vô cùng thích.
- Hay quá!
Nữu Nữu lập tức vui sướng nhảy lên, chạy vào trong phòng Nguyên Khánh, cô bé đã sớm muốn có một cây cung rồi, nhưng giá cả của cung vô cùng đắt, một cây cung rẻ nhất cũng phải hơn ba mươi xâu tiền, bọn họ mua không nổi.
Năm Khai Hoàng thứ mười lăm, hoàng đế Dương Kiên hạ chỉ thiên hạ cất hết vũ khí, không cho phép dân gian vụng trộm đúc, tuy rằng trên chợ cũng có bán binh khí, nhưng đều là những binh khí của nhà nước, kinh doanh độc quyền, giá cả vô cùng đắt, loại người bần hàn như bọn họ thì không thể nào mua nổi.
Thẩm Thu Nương từ trong nhà bếp đi ra, cười nói:
- Còn chưa đói à? Thấy dáng vẻ của con, hẳn là đã ăn cơm cùng với sư phụ rồi, còn muốn ăn thêm chút gì không?
- Thím, không cần, cháu no rồi.
Nguyên Khánh lại gãi đầu nói:
- Thím, ngày mai sư phụ phải xuất chinh rồi, có thể một hai năm không về, sau này cháu sẽ tự luyện công.
- Tự cháu luyện công có được không?
Thẩm Thu Nương lo lắng hỏi.
- Không thành vấn đề!
Nguyên Khánh vỗ ngực:
- Sau này có thời gian cháu sẽ giúp thím vài việc, thím, giờ còn đi làm bài tập trước.
Nguyên Khánh cầm cung khảm sừng quay về phòng mình. Thẩm Thu Nương nhìn hắn, từ bé đích thân mình nuôi nấng, nhớ lại năm năm trước lần đầu tiên nhìn thấy tiểu tử đó, giờ đã cao như này rồi. Trong lòng nàng tràn ngập niềm vui, nhà nghèo thì trẻ em sớm biết việc nhà, câu nói này thật không sai chút nào.
Trong phòng, Nữu Nữu đã từ trên giường tháo cây cung cũ của Nguyên Khánh xuống, đây là một cây cung ngũ đấu, cô bé dùng hết sức của mình mới có thể miễn cưỡng kéo được, thấy Nguyên Khánh đi vào, liền không dằn lòng được nói:
- Nguyên Khánh ca ca, chúng ta ra ngoài luyện tên đi!
- Viết chữ xong thì đi, Nữu Nữu à, bài tập của muội đã làm xong chưa?
- Muội đã làm xong sớm rồi.
Nữu Nữu chớp chớp mắt, cười hì hì nói:
- Hay là muội giúp huynh làm, chúng ta nhanh lên một chút.
Nguyên Khánh len lén liếc mắt về phía nhà bếp, thím còn đang bận rộn không để ý tới họ, hắn liền gật đầu, nói nhỏ:
- Cũng được, muội giúp huynh viết chữ, phải sử dụng nét chữ của huynh, huynh học thuộc bài là xong.
- Yên tâm đi! Chữ của huynh muội đã sớm bắt chước rồi.
Bé gái cầm tập chữ của Nguyên Khánh nhanh như chớp quay về phòng mình, Nguyên Khánh lại ngồi xuống, mở "Binh Pháp Tôn Tẫn" chuẩn bị đọc thuộc lòng, điều này thật ra là an bài của Trương Tu Đà, do Thẩm Thu Nương phụ trách giám sát hắn, vô cùng nghiêm khắc.
Phòng của Nguyên Khánh rất nhỏ, cũng tương đương khoảng bảy tám mét vuông, có một chiếc giường, đầu giường có một chiếc rương bằng gỗ lim cũ, đó cũng là bàn học của hắn, còn có một tấm gỗ mà Thẩm Thu Nương giúp hắn đóng thành một giá sách, trên đó có hơn năm mươi quyển sách, đều là sách chính tay Thẩm Thu Nương chép, nàng nghĩ sách rất có lợi cho trẻ nhỏ, vì vậy chép ra nhiều quyền.
Sắc trời tối dần, Nữu Nữu len lén chui vào, đem bài tập đã viết xong chữ kín đáo đưa cho hắn:
- Nguyên Khánh ca ca, huynh thuộc bài chưa?
Nguyên Khánh gật đầu:
- Rồi, thím đang làm gì?
- Nương đang chép sách, chúng ta đi luyện bắn tên đi.
Nguyên Khánh lắc đầu:
- Tên ở đâu?
Nữu Nữu ngẩn ra, đúng vậy! Nguyên Khánh tổng cộng chỉ có ba mũi tên, phân thế nào đây? Một mũi tên sẽ phải là hai mươi tiền, bọn họ mua không nổi, cô bé không chịu:
- Nếu không, muội dùng một mũi tên, huynh dùng hai mũi tên.
Nguyên Khánh lắc đầu, ba mũi tên này là tên bộ cung, hiện giờ hắn cần là tên kỵ cung, Trương Tu Đà chỉ cho hắn cung, nhưng không cho hắn mũi tên, hắn liền cười nói:
- Tối nay chúng ta không luyện tên, huynh đưa muội đi đến một nơi.
- Nơi nào?
- Đừng hỏi, cứ đi theo ta là được.
Nguyên Khánh mang theo cô bé đi vào trong viện, gọi một tiếng:
- Thím, cháu làm bài tập xong rồi, cháu đưa Nữu Nữu đi ra ngoài chơi.
- Đừng đi xa nhé, trở về sớm đấy!
- Vâng.
Hai người chạy ra sân, chạy ra ngoài đường đi về hướng đông, rất nhanh thì tới bên ngoài tường của võ đường Dương Gia. Nữu Nữu có vẻ hiểu, vui sướng nói:
- Nguyên Khánh đại ca, chúng ta định vào trong luyện bắn tên à?
Nguyên Khánh gõ đầu Nữu Nữu một cái:
- Ngốc ạ, chúng ta không mang theo cung, cái gì mà bắn tên chứ? Muội đừng hỏi gì cả, đi theo ta!
Nguyên Khánh giống như khỉ con, nhẹ nhàng từ dưới trèo lên cây, vươn người lên trên bờ tường, Nữu Nữu cũng nhẹ như yến, so với Nguyên Khánh còn nhanh hơn, hai người nhẹ nhàng nhảy vào trong luyện võ đường, hai bóng người nhỏ bé một trước một sau chạy đến luyện võ đường xa xa.
Lúc này trời đã tối hẳn, đại môn luyện võ đường đóng chặt, bên trong tối đen, không có một ai. Nguyên Khánh sớm biết ở đây vào buổi tối không có ai, cửa đại môn chỉ có hai gia đinh trông cửa, nhưng lại cách đại môn luyện võ đường hơn năm mươi bước, hơn nữa bọn họ lại ở phía luyện võ đường, gia đinh trông cửa căn bản là không nhìn thấy họ.
Nguyên Khánh rút ra một thanh dao nhỏ, "cạch" một tiếng, đã nạy được một cánh cửa sổ ra, hắn nhẹ nhàng nhảy vào, Nữu Nữu không biết hắn định làm gì, cũng theo hắn đi vào.
Nguyên Khánh từ năm tuổi thì đối với bên trong luyện võ đường rõ như lòng bàn tay, bên trong luyện võ đường trống trải rộng lớn, đủ để chứa bốn năm trăm người cùng luyện võ.
Phía tây luyện võ đường có ba gian phòng, một gian để thay đổi võ phục, một gian để nghỉ ngơi, còn một gian là phòng binh khí, mục tiêu của Nguyên Khánh chính là phòng binh khí, nhưng phòng binh khí lại ở chính giữa, không có cửa sổ, chỉ có một cánh cửa ra vào bên trong đại đường.
Trên cửa chỉ dùng vòng khóa cửa bằng sắt để khóa, kéo mạnh ra thì cánh cửa để lộ ra một khe hở chừng nửa thước, người lớn không thể chui vào được, Nguyên Khánh vóc người cao khỏe, cũng vào không được, nhưng bé gái thân thể mềm nhẹ thì có thể chui vào, đây chính là nguyên nhân Nguyên Khánh dẫn Nữu Nữu tới đây.
- Nữu Nữu, vào đi!
Hắn thì thầm ra lệnh.
Nữu Nữu bỗng nhiên hiểu rõ ý của Nguyên Khánh, Nữu Nữu sợ đến mức bịt miệng lại, là Nguyên Khánh muốn cô bé đi trộm đồ!
Nữu Nữu sợ đến mức mặt trắng bệch:
- Không được! Nương mà biết sẽ đánh chết muội, cũng sẽ đánh chết huynh.
- Trời ơi! Muội ngốc quá, chúng ta không ăn trộm đao kiếm, muội chỉ giúp ta tìm trong góc tường hai lọ tên mới là được.
- Nhưng, Nương mà hỏi thì làm sao?
- Thím có hỏi, ta sẽ nói là sư phụ tặng, hơn nữa sư phụ cũng đi đánh giặc rồi, thím không đi tìm để kiểm chứng đâu, muội đi nhanh đi.
- Vậy...sư phụ huynh có thể tặng huynh một thanh kiếm nữa chứ?
Trong mắt Nữu Nữu lộ vẻ khát vọng, cô bé chỉ sử dụng kiếm trúc để học võ, thường mơ mình có được một thanh kiếm thật sự, nhưng bọn họ là không mua nổi, một thanh kiếm ít nhất phải hai mươi xâu tiền.
Nguyên Khánh nhẹ nhàng nhéo mũi Nữu Nữu, cười nói:
- Có thể! Đi chọn một thanh kiếm muội thích đi.
Trong mắt Nữu Nữu ánh lên ý cười lém lỉnh, chậm rãi chui vào phòng vũ khí, trước tiên là vào góc tường lấy hai bình đựng tên mới đi ra, rồi lại tìm kiếm thanh kiếm nửa buổi, cuối cùng cũng tìm được một thành việt nữ kiếm mềm mại, bèn chui ra.
- Chúng ta đi!
Hai đứa trẻ lặng lẽ biến mất bên trong đại đường tối đen. Bởi vì vũ khí trong phòng binh khí đều là đồ dùng của chung, không ai để ý gì cả, tận đến một tháng sau mới có người phát hiện ra thiếu một cây kiếm, còn về phần thiếu hai bình đựng tên mới thì lại không hề có ai phát hiện ra.
Chủ yếu là về phía Thẩm Thu Nương, Nguyên Khánh một mực nói là do Trương Tu Đà sắp chia tay tặng cho hắn, thanh kiếm kia cũng là Trương Tu Đà tặng Nữu Nữu làm lễ vật chia tay, hợp tình hợp lý, Thẩm Thu Nương đương nhiên là tin.
Trong phòng, Nguyên Khánh đem một mũi tên ra tỉ mỉ kiểm tra, một bình đựng ba mươi mũi tên, hai bình sáu mươi mũi tên, đều là cung tên tiêu chuẩn của quân đội, ba bó tên, đều là loại tốt nhất, chế tạo tinh xảo, cũng chưa từng sử dụng qua. Có hai bình tên này, hắn có thể đi kiếm tiền rồi.
Tuy nhiên, hắn còn phải đợi băng tuyết tan đi đã.
Mọi người vào vào đây ủng hộ để truyện ra nhanh hơn nào
Đã có 4 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Goncopius
Thiên Hạ Kiêu Hùng Tác Giả: Cao Nguyệt
-----oo0oo-----
Quyển 1: Dương gia hữu nam sơ trưởng thành
Chương 21: Bắc Nguyên mưu sinh
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn: Mê Truyện
Một tháng sau… Buổi sáng hôm ấy Nguyên Khánh ở ao Khúc Giang luyện công xong liền chạy về phía Bắc Sơn. Hắn định săn bắn để kiếm tiền, ý định này nảy lên sau khi hắn bắn chết một con chó dại. Bắt chó phải nhìn vào chủ, nếu như không có gì phạm vào kiêng kị của thôn quê, vừa có thể luyện tài săn bắn lại có thể kiếm tiền thì có gì phải ngại mà không làm chứ?
Hơn nữa món ăn dân dã bán cho các quán rượu đều rất được giá, hắn nhớ có người bắn được một con dê núi mà bán được những 3 xâu tiền. Tuy là gần ao Khúc Giang cũng có rừng, nhưng vì gần với nhà dân quá nên rất ít dã thú, cùng lắm chỉ có vài con chim rừng, vịt rừng, thỏ rừng các loại, chẳng đáng bao nhiêu tiền.
Còn Thành Bắc ở sau lưng hoàng cung, nơi đó đất rừng rậm rạp, thâm sơn cùng cốc hiểm trở rất ít người lui tới nên thường có dã thú. Nơi này lại ở gần hoàng cung nên bình thường cấm người qua lại và cấm luôn cả săn bắn, vì thế cho nên dã thú rất nhiều.
Khi mùa thu đến thì các hoàng thân quốc thích đều đến đó tổ chức săn bắn, nơi đó còn có sông Bá nên ngỗng trời rất nhiều, tuy nhiên ngỗng trời bán không được giá lắm, thường chỉ bán được 10 tiền.
Nửa canh giờ sau Nguyên Khánh đi tới thành Bắc, địa thế của thành Đại Hưng là hướng Đông Nam cao phía Tây Bắc thấp. Phù sa của sông Bá, sông Sản và sông Quyết bồi đắp lên tạo thành một vùng bình nguyên, thành Đại Hưng được xây dựng trên nền vùng đồng bằng này.
Nhưng ở hướng Đông Bắc Long Thủ Nguyên mới là chỗ cao nhất của thành Đại Hưng, mười mấy năm sau ở đây bắt đầu xây dựng cung Đại Minh, hiện tại nơi này còn là vùng đất hoang sơ. Nhưng nếu như tiếp tục đi khoảng 30 dặm về phía Tây Bắc , nơi đó là thành Trường An của tộc Hán, đương nhiên là có người sinh sống.
Cho nên địa điểm săn bắt tốt nhất chính là ở phía Đông Bắc Long Thủ Nguyên và Bắc Long Thủ Nguyên. Nơi này sát Tây Nội Uyển, mà trong Tây Nội Uyển thì thường xuyên có kỵ binh tuần tra, không cho người tiến vào, còn vùng này thuộc ngoại vi Tây Nội Uyển, cũng không được phép săn bắn.
Cách hoàng cung không xa có một con đường, trên đường có binh lính tuần tra không cho phép người qua lại. Nguyên Khánh lại chọn đường vách núi, đi vào trong rừng theo một hướng khác. Ngoài binh lính tuần tra ở trên đường thì trong rừng sâu chẳng có ai, đến người đi kiếm củi cũng không có.
Thật ra thì vùng này đã cấm người vào săn bắt hay đốn củi, mỗi đường ra vào rừng đều có binh lính canh gác, gần phía hoàng cung còn có quân đội tuần tra canh phòng nghiêm ngặt. Đặc biệt nếu Nguyên Khánh mang theo binh lính có khi còn bị cho là thích khách, nếu để lính tuần tra phát hiện không khéo mất mạng như chơi, vô cùng nguy hiểm.
Tuy là có chút mạo hiểm nhưng tiền lời rất cao. Vùng này có nhiều dã thú là các món ăn ưa thích của người dân thôn quê, đúng là nơi tuyệt vời để săn bắn. Nếu lá gan lớn một chút lẻn vào khu vườn ở phía Tây hoàng cung thì có thể kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Nguyên Khánh có nghe được lúc người của họ Dương nói chuyện rằng người có gan lớn đột nhập vào Tây Nội Uyển săn bắn thú quý lấy da và lông, nếu bị bắt nhẹ thì phải vào tù chịu cực hình, nặng thì mất mạng như chơi. Nhưng nếu như săn bắn được thì sẽ thu về một món lời to, Tây Nội Uyển nuôi dưỡng toàn thú quý, da và lông vô cùng đáng giá.
Nguyên Khánh đi vào một vùng khá yên tĩnh trong thung lũng, hắn mặc một chiếc áo vải màu lam, chân xỏ một đôi giày cũ, đầu quấn khăn, lưng giắt hai con dao ngắn, sau lưng là một bình đựng tên, tay cầm một cái cung dài màu đen. Tuy rằng quần áo thô kệch nhưng nhìn hắn rất oai phong mạnh mẽ, nhẹ nhàng bước đi.
Hai bên thung lũng đều là rừng rậm rạp, bây giờ là tháng Hai đầu Xuân, vạn vật sinh sôi nảy nở, cành lá phát lộc non, cỏ cũng biến thành một màu xanh mướt. Từng đàn chim bay qua đỉnh đầu kêu lên ríu rít. Đúng là tràn đầy sức sống!
Sau lưng hắn vài dặm chính là Tây Nội Uyển, về cơ bản thì chẳng khác gì với núi rừng ở bên ngoài, chỉ có vài cột mốc đánh dấu. Tây Nội Uyển thật ra cũng là rừng rậm nguyên sinh vây quanh, ở giữa có chỗ để tập cưỡi ngựa. Toàn bộ Tây Nội Uyển chỉ dài khoảng mười mấy dặm, rộng vài dặm, bên trong có khoảng vài nghìn binh lính.
Đi qua Tây Nội Uyển có thể thấy tường thành cao lớn, phía sau tường thành mờ mờ ẩn hiện cung điện nguy nga, nơi đó là hoàng cung của đất nước Đại Tùy. Hắn thậm chí còn nhìn thấy cả một tòa cổng thành hùng vĩ của hoàng cung, đó chính là Huyền Vũ Môn, sự kiện Huyền Vũ Môn trong lịch sử chính là bùng phát ở nơi này.
Nguyên Khánh đang mơ hồ suy nghĩ thì đột nhiên có một bóng đen lớn xẹt qua đầu hắn. Nguyên Khánh rất tinh mắt, liếc mắt một cái đã nhận ra đây là giống trĩ núi đực, lông đuôi dài vô cùng diễm lệ. Tháng trước hắn và Nữu Nữu đi dạo đêm nguyên tiêu, một chiếc lông của trĩ núi đực đã bán mười tiền.
Nguyên Khánh thấy hình như không còn là một con trĩ núi nữa mà có một xâu tiền đang bay lơ lửng trên không trung, hắn bây giờ vô cùng thèm khát tiền, hô một tiếng liền đuổi theo.
Ba năm luyện Trúc Cơ đã khiến cho hắn vượt xa người thường, hắn bỏ đôi giày bố chạy chân trần, thân hình nhanh như chớp chỉ một loáng đã đuổi kịp con Trĩ núi cách đó hơn 30 bước. Con trĩ núi cũng cảm nhận được nguy hiểm liền muốn bay vào rừng rậm. Nguyên Khánh đã giơ cung lên buông dây ra, tên lao như bắn cắm thẳng vào con Trĩ núi, nó rên rỉ một tiếng rồi rơi xuống từ trên không.
Nguyên Khánh mừng rỡ, hắn tiến đến sườn núi tìm được con mồi ở trong bụi rậm. Con Trĩ núi đã chết, máu chảy dọc mũi tên, Nguyên Khánh liền cầm lấy thân tên nhấc con chim lên, ước chừng nặng 2-3 cân, lông vũ rất dài và đẹp vô cùng. Hắn nhẩm đếm có đúng 15 cái lông tuyệt đẹp.
Thật ra vào mùa thu lông chim Trĩ mới là tốt nhất, bây giờ mới là đầu xuân nên còn hơi kém một chút. Tuy nhiên vật này vô cùng quý hiếm nên số lông chim này bán 1 xâu tiền nhất định là không có vấn đề gì.
Nguyên Khánh vui như mở cờ trong bụng, đây là con mồi đầu tiên của hắn, cũng là bữa trưa của hắn. Hắn bỏ tên đút lại vào ống rồi tiến về hướng thung lũng. Vượt qua vùng thung lũng này là đến sông Bá rồi.
Băng tuyết trên sông Bá đã tan, dòng nước cuồn cuộn chậm rãi chảy theo sườn núi, hai bên bờ sông đều là rừng nguyên sinh. Nửa canh giờ sau Nguyên Khánh đang ngồi nghỉ ở bờ sông chậm rãi tỉnh lại, hắn cảm thấy cả người lại tràn trề sức lực như thể vẫn chưa dùng hết sức. Nhưng bụng hắn lúc này lại sôi lên vì đói.
Vừa quay đầu lại thấy đống lửa bên cạnh đã tắt. Hắn vui mừng gạt tro phủi phủi, đào một cái hố nhỏ trên mặt đất khô cứng lôi bọc bùn đất nướng ra dùng dao gõ nhẹ, bùn đất bong ra lộ ra miếng thịt nướng nóng hổi bên trong, thơm nức cả mũi.
Cách làm “Gà ăn mày” này Nguyên Khánh đã đọc ở trong sách, lần đầu ăn thử không ngờ cũng rất ngon. Điều duy nhất mà hắn không biết đó là không cần phải nhổ lông, sau khi nướng chín lông sẽ tự bị thiêu trụi, thế là hắn hì hục mãi để nhổ được hết lông.
Nguyên Khánh rắc vài hạt muối lên, hắn đã thèm nhỏ dãi, nâng miếng thịt lên hắn vừa gặm vừa nhìn bó lông chim ở bên cạnh đang bay bay. Hắn lẩm bẩm cười nói:
- Không tồi mà, vừa được ăn, vừa kiếm được tiền, lại còn có thể luyện săn bắn, ngày tháng như thế này thật là tuyệt!
Nhưng vừa gặm được hai miếng thì đột nhiên hắn quăng con trĩ đi, xoay người rút đao ra cầm chặt trên tay. Hắn cảm nhận được một hơi thở vô cùng nguy hiểm…
Cách khoảng 50 bước có một cái gì đó đang tiến lại gần phía hắn, hắn nghe rõ ràng đó là tiếng của một con vật 4 chân, chắc chắn không phải là người. Hắn giắt lại dao vào thắt lưng rồi cầm cung tên lên hướng đến chung quanh tìm kiếm. Thị lực của hắn khác hẳn người thường, dù là một sự biến hóa nhỏ nhất cũng không thể qua khỏi mắt hắn.
Đột nhiên ánh mắt của hắn dừng lại, ở một gốc cây cách đó khoảng 30 bước chân ánh mắt của hắn chạm phải một ánh mắt vô cùng hung ác ở phía đối diện.
Mọi người vào vào đây ủng hộ để truyện ra nhanh hơn nào
Đã có 4 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Goncopius
Thiên Hạ Kiêu Hùng Tác Giả: Cao Nguyệt
-----oo0oo-----
Quyển 1: Dương gia hữu nam sơ trưởng thành
Chương 22: Thu hoạch lớn
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn: Mê Truyện
Lúc này trên cây quế cao lớn kia ẩn nấp một con báo gấm hung hãn.
Nó lẳng lặng nằm ngang ở một nhành cây chìa ra ngoài, chân duỗi ra thân mình áp sát vào cây mềm mại như rắn, đặc biệt cặp móng vuốt sắc nhọn ở hai chân trước lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị lao xuống, đôi móng vuốt sắc bám chặt vào vỏ cây, ánh mắt hung hăng nhìn thẳng về phía Nguyên Khánh cách đó mấy chục bước.
Đây là một con báo gấm đực trưởng thành ở Tây Nội Uyển, bây giờ đang là thời kỳ động đực, nó tranh giành thất bại nên bị các con báo gấm khác ở Tây Nội Uyển đuổi ra. Nó đã coi như vùng này là địa bàn của nó, bình thường chỉ có ban đêm hoặc rạng sáng nó mới đi ra, nhưng Nguyên Khánh nướng chim trĩ khiến mùi thơm bay đến hấp dẫn nó.
Nguyên Khánh từng giết chết một con chó rừng hung ác một cách rất nhẹ nhàng nhanh gọn, bởi vì đó là một con chó, cho dù hung ác đến đâu đi chăng nữa thì trong suy nghĩ của Nguyên Khánh đó cũng chỉ là một con chó. Mà trước mặt hắn bây giờ là một con báo dài hơn năm thước, ước chừng nặng khoảng 150-160kg.
Nguyên Khánh bất giác lùi về phía sau hai bước, tim đập thình thịch, cực kì căng thẳng. Lần này là đối đầu với báo gấm, liệu hắn có thắng nổi không? Chẳng may mà không địch nổi thì hắn sẽ bị nó xé xác.
“ Bình tĩnh! Tỉnh lại nào!”
Hắn tự nói nhỏ an ủi mình, cho dù sức lực không bằng nó nhưng trí lực đương nhiên là hơn nó. Nguyên Khánh nhanh chóng nghĩ sách lược để giết hạ con báo, chỉ trong nháy mắt hắn đã nghĩ đến 3 sách lược.
Nguyên Khánh rút một mũi tên từ sau lưng, chậm rãi giương cung lên rồi thả dây cung nhắm bắn vào ngay đầu con báo cách đó vài chục bước.
Đồng tử của con báo gấm co lại kịch liệt, co lại thành một đường nhìn chằm chằm vào mũi tên của Nguyên Khánh, lóe lên một ánh mắt vô cùng hung tợn. Báo gấm bình thường không chủ động tấn công bao giờ trừ phi nó bị con người tấn công trước. Tuy rằng Nguyên Khánh xâm nhập địa bàn của nó nhưng nếu Nguyên Khánh rời khỏi đây kịp lúc thì chưa chắc nó đã tấn công, nó hiện tại chỉ là theo dõi, theo dõi và tấn công chỉ cách nhau một khoảng vô cùng ngắn.
Cái khoảng cách này chính là sự do dự, nó còn đang bị sự do dự vây bủa, nhưng chính sự do dự này khiến con báo gấm bị thiệt nặng.
Một mũi tên dài nhanh như tia chớp bay tới, uy lực vô cùng mạnh mẽ, báo gấm giật mình định né tránh,nhưng mũi tên quá nhanh nên tuy khi nó xoay đầu thì mũi tên không trúng trán nó mà cắm thẳng vào mắt. Phập một cái, mũi tên dài đã trúng mắt trái của nó, máu chảy ròng ròng.
Lập tức một tiếng kêu long trời lở đất vọng lên vang khắp núi rừng khiến cho chim chóc kinh hãi, dã tính của con báo gấm phát tác nhảy khỏi cây quế liều lĩnh xông về phía Nguyên Khánh mà vồ, nó hận kẻ đã xâm nhập địa bàn của nó, nó phải xé nát hắn.
Mũi tên thứ hai của Nguyên Khánh vù vù bay tới nhắm vào mắt phải của nó, nhưng lần này báo gấm đã chuẩn bị trước nên nó vung đầu thoát khỏi mũi tên rồi nhảy xuống phi về phía Nguyên Khánh.
Nguyên Khánh vứt bỏ cung dài rút con dao ngắn ra phi thẳng về hướng nó, dao bay nhanh như chớp, đây là chiêu thứ nhất tên là “Phách Sơn” trong mười ba dao pháp của Tu Đà, cực kì đơn giản nhưng thu hấp thụ được tinh hoa của Phách Hoa Sơn, bởi vì cách khống chế lực đao kì dị nên khiến mắt đối thủ sinh ra một loại ảo giác hình như lưỡi dao đi không nhanh, có thể từ từ trốn tránh hoặc ngăn cản. Nhưng trên thực tế khi đối thủ còn chưa kịp phản ứng lại thì lưỡi dao đã cắm trên mặt rồi.
Nhưng đang bị thương một mắt lòng tràn đầy phẫn nộ nên chiêu này dường như không có hiệu quả với con báo, nó phản ứng rất nhanh, lắc đầu tránh được mũi dao bay tới, loáng cái đã đến trước mặt Nguyên Khánh giơ chân trước về phía bả vai hắn, móng vuốt trắng như tuyết giơ ra nhắm vào hướng uyết hầu của Nguyên Khánh.
Ba năm khổ luyện Trúc Cơ của Nguyên Khánh ở thời khắc này đã thể hiện vô cùng nhuần nhuyễn, sự mềm dẻo của thân thể hắn vượt xa người bình thường, không đợi đến lúc móng vuốt của con báo gấm hạ xuống vai mình thân thể của hắn đã bật về phía sau như một cành liễu. Thân thể hắn cong lại thành nửa vòng tròn khiến báo gấm vồ hụt, đồng thời lúc đó chân trái hắn đá mạnh về phía trước, trúng vào con báo.
Con báo gấm đau quá hét lớn một tiếng, không kịp ứng phó nên bị một đá ngã lăn ra rơi tõm xuống sông. Mà một cước này khiến tâm trạng của Nguyên Khánh thay đổi, hắn có thể đối phó được với con báo này, con báo này không còn là con dã thú có thể đe dọa đến tính mạng của hắn nữa mà bây giờ đã trở thành mấy trăm xâu tiền nặng trịch.
Dương tứ gia đã từng nói một tấm da báo ít nhất là 300 xâu tiền, 300 xâu tiền đủ để gia đình hắn sống trong 5 năm.
Hắn gần như nhảy xuống nước theo con báo gấm, đây chính là sách lược thứ hai của hắn. Đánh nhau dưới nước, tuy là báo gấm biết bơi nhưng nó không phải là cá nên sẽ không có khả năng chiến đấu dưới nước với hắn.
Một người một báo rơi xuống giữa sông, người can đảm nhưng báo đã sợ hãi. Ngày hôm qua báo gấm vừa bị đồng loại đánh bại, hôm nay lại bị con người đả thương, hai lần bị công kích khiến cho uy lực của nó nhanh chóng biến mất. Nó cũng ý thức được đối thủ của mình không phải là người tầm thường nên vừa xuống nước nó vội bơi về phía bờ bên kia định chạy trốn.
Nhưng chưa bơi được một trượng thì cái đuôi của nó đã bị Nguyên Khánh bắt lấy túm chặt, báo gấm thẹn quá hóa giận quay đầu lại táp mạnh một cái.
Chính vào thời khắc Nguyên Khánh làm con báo quay đầu lại này hắn liền lặn xuống nước. Giống như trăm ngàn lần luyện dao dưới nước khác hắn hướng con dao rất mềm mại đâm thẳng vào trái tim báo. Hắn dùng chướng dao, phía trước bén nhọn, một nhát dao đã chọc thủng trái tim báo gấm.
Báo gấm rít gào giãy dụa trong nước, dần dần thân mình nó bất động, máu chảy đỏ cả nước sông...
Khi Nguyên Khánh tha được con báo nặng hơn 160kg lên bờ thì hắn mệt quá phải thở hồng hộc, 15 cái lông chim trĩ núi vẫn phất phới ở đó, nhưng lúc này trong mắt Nguyên Khánh bọn chúng chỉ nhẹ như lông tơ.
... .
Một canh giờ sau, một thiếu niên dáng người khoảng 12 tuổi khiêng một con báo lớn dài hơn 5 thước, nặng hơn 160kg ra đến đầu đường chợ Đô Hội khiến toàn bộ chợ náo động, vô số người bủa đến xem.
Chờ Đô Hội là chợ phía Đông Đường triều, còn chợ phía Tây Đường triều là chợ Lợi Nhân, chợ Đô Hội phần lớn là bán các mặt hàng xa xỉ như tơ lụa ngọc ngà châu báu vàng bạc.. cái gì cũng có cả, chủ yếu là để bán cho các vương tôn quý tộc. Còn chợ Lợi Nhân chỉ bán đồ bình thường như trà gạo dầu muối… là các sản phẩm thiết yếu của cuộc sống.
Con báo gấm này đương nhiên Nguyên Khánh cũng có thể mang ra chợ Lợi Nhân bán, nhưng hắn không muốn bị các thương nhân bóc lột, hắn muốn xem ở chợ Đô Hội có gặp được vì vương tôn quý tộc nào không, nhất định sẽ không bán dưới 300 xâu tiền.
Các thương nhân cùng với khách hàng ở chợ phía đông đã vây quanh hắn đến 3 lớp người, phải đến mấy trăm người, phần lớn là do hiếu kì, nhưng cũng có người có ý định mua.
- Tiểu lang, ở đâu bắt được con báo này?
Có người hiểu chuyện hỏi.
Nguyên Khánh đương nhiên không dám nói là ở thành Bắc, nơi đó là Tây Nội Uyển, con báo này chỉ có thể do hoàng gia nuôi dưỡng. Săn bắn ở Tây Nội Uyển nếu bị tố giác thì cũng sẽ bị bắt.
Hoàng đế Dương Kiên vừa mới hạ chỉ, người trộm 1 tiền cũng là đạo tặc, hắn trộm nguyên một con báo của hoàng gia chẳng phải là tội bị chém đầu rồi sao?
- À, là săn được ở núi Chung Nam.
Núi Chung Nam chính là Tần Lĩnh, ở Tần Lĩnh có thể săn báo tự do không bị ai nói gì, có điều mọi người không tin là cậu thiếu niên nhỏ bé này có thể săn được con báo lớn như thế, nên lập tức ồn ào dị luận.
Lúc này một ông chủ cửa hàng chen đến, gã là chủ cửa hàng Bách Bảo Trai, họ Ngô. Gã đánh giá con báo gấm này, chỉ có mắt trái bị thương, không ảnh hưởng gì đến da lông cả, chỉ bị đâm một nhát chí mạng vào tim. Nói cách khác đây là một tấm da báo không hề sứt mẻ, vô cùng hoàn mĩ, rất hiếm thấy.
Ánh mắt gã sáng lên hỏi Nguyên Khánh:
- Tiểu lang, con báo này bán cho ta giá 300 xâu tiền có được không?
Bên cạnh có người ồn ào:
- Ông chủ Ngô, cửa hàng của ông là cửa hàng châu báu, lấy da báo làm gì?
- Đi! Đi! Đừng phá đám, ta treo ở trước nhà không được sao?
Nguyên Khánh lắc đầu:
- 300 xâu không bán!
Tuy rằng Dương tứ gia có nói một tấm da báo có thể bán 300 xâu tiền, nhưng tấm da này của hắn hoàn mỹ không tì vết, nhất định không chỉ có giá 300, lại con thịt của con báo nữa, rồi xương báo cũng có thể nấu cao làm thuốc. Sao hắn có thể đồng ý được.
Hôm qua ông chủ Ngô đi đến dinh phủ của Hạ Nhược Bật đưa châu báu, vô tình nghe được quản gia của Hạ phủ nói thân mẫu của Hạ Nhược Bật tháng sau tổ chức đại thọ 70, Hạ Nhược Bật muốn dâng lên một tấm da hổ hoặc da báo hảo hạng để làm lễ vật mừng thọ, bảo gã phải để ý giúp, nếu như tìm được hàng tốt có thể mua với giá 12 lượng vàng.
Cho nên ông chủ Ngô liếc mắt một cái liền vừa ý ngay tấm da báo này, không hề sứt mẻ chút nào.
Thật ra 300 xâu là giá của da báo hoa, vùng Tần Lĩnh có rất nhiều, nhưng báo gấm lớn thì lại vô cùng ít, con báo mà Nguyên Khánh đánh được này là báo gấm quý được nuôi thả ở Tây Nội Uyển của hoàng gia, là một con báo trưởng thành dũng mãnh, đương nhiên là hiếm thấy. Loại da báo này trên thị trường ít nhất là 5-600 xâu tiền, lại còn xương báo quý hiếm cũng được giá tương tự.
Chỉ có điều gã thấy Nguyên Khánh còn nhỏ tuổi nên muốn ép giá để mua được giá thấp.
- Vậy 350 xâu tiền, tính cả xương thịt báo, vậy được rồi chứ?
Nguyên Khánh giới hạn giá thấp nhất là 400 xâu tiền, đúng lúc đang định báo giá thì phía xa xa có người hô to:
- Những người phía trước mau tránh ra, không được cản đường!
Mọi người vào vào đây ủng hộ để truyện ra nhanh hơn nào
Đã có 4 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của Goncopius