Dân tộc già nua và tốt đẹp của chúng tôi được tròn bảy tuổi trong thể chế cộng hoà thì lớn thêm ra với một lãnh thổ nhỏ. Pondicherry gia nhập Liên minh Ấn Độ ngày 1 tháng 11 năm 1954. Thành tựu dân sự này dẫn đến một thành tựu dân sự khác. Một phần đất của vuờn bách thảo Pondicherry được chính quyền khoanh riêng ra, tạo một cơ hội làm ăn mới, lại không phải trả thuế thổ trạch, và thế là, như một phép lạ, Ấn Độ lại có một vuờn bách thú mới toanh, thiết kế và quản lý theo những nguyên tắc sinh học lành mạnh và hiện đại nhất.
Đó là một vuờn bách thú khổng lồ không biết là bao nhiêu diện tích đất, đến nỗi phải có hẳn một đường tầu hỏa để cho người xem đi cho hết, mặc dù khi lớn lên tôi cũng thấy nó cứ nhỏ dần, kể cả đoàn tàu. Giờ thì nó nhỏ đến độ nằm vừa xoẳn trong đầu tôi. Hãy mường tuợng một vùng nóng ẩm tràn ngập ánh nắng và rực rỡ màu sắc. Hoa nở liên miên, ào ạt. Cây cao bụi thấp, và dây leo xoắn xuýt đủ các loại, nếu không có các bảng tên rõ ràng gắn dưới gốc chúng thì chẳng ai có thể biết được chúng là cây gì.
Có những chiếc ghế dài. Trên những chiếc ghế dài ấy ta thấy những người nằm ngủ duỗi dài, hoặc những cặp trai gái, những đôi trẻ măng vẫn còn thẹn thò đầu mày cuối mắt và giật mình khi tay chạm phải tay. Bất thình lình trong đám cây cao mảnh dẻ trước mắt, ta nhận ra một cặp hươu cao cổ đang nhìn ta chăm chú. Chưa hết, chỉ ngay sau đấy thôi, ta giật nảy mình vì những tiếng kêu váng óc của một đàn khỉ bất thần ở đâu ào tới, quện lẫn với những âm thanh lảnh lót đinh tai của các loài chim gì nữa chẳng biết. Ta đến chỗ soát vé, lơ đãng trả một món tiền nhỏ, rồi đi tiếp. Ta thấy một bức tuờng thấp. Có thể thấy gì sau dãy tường lè tè ấy? Chẳng nhẽ lại là chuồng tê giác? Ấy thế mà là chuồng tê giác thật, hai con tê giác Ấn Độ hùng vỉ trong một hố đất nông. Khi ta quay sang bên thì thấy ngay một con voi, đã lù lù ở đó từ bao giờ nhưng vì to quá mà ta không nhìn ra. Rồi thì ta nhận ra những con hà mã đang bập bềnh ngay dưới ao. Càng nhìn càng thấy. Hết cảnh này đến cảnh khác. Ta thực đang ở vuờn bách thú có cái tên Zootown [1].
Truớc khi dọn đến Pondicherry, cha tôi quản lý một khách sạn lớn ở Madras. Lòng ưa thích động vật khiến ông chuyển qua nghề vuờn thú. Một bước quá độ tự nhiên, ta có thể nghĩ vậy. Nhưng cũng không hẳn thế. Về nhiều phương diện, cai quản một vuờn thú là cơn ác mộng của một người quản lý khách sạn. Này nhé: Khách trọ không bao giờ rời phòng đi đâu cả, chúng đòi hỏi không phải chỉ một nơi trú chân, mà thực sự là nơi ăn chốn ở hẳn hoi, chúng lại luôn luôn có khách đến thăm, lắm bọn rât ồn ào và bừa bãi. Muốn dọn chuồng cho chúng, ta phải chờ lúc chúng quá bộ ra ngoài bao lơn, rồi lại phải chờ cho chúng chán cảnh ngoài bao lơn, quay vào buồng rồi thì mới lại quét dọn bao lơn cho chúng được. Phải dọn dẹp liên miên, vì khách trọ đứa nào cũng bẩn thỉu như bọn nghiện rượu cả. Khác nào cũng đòi hỏi một chế độ ăn uống riêng, suốt ngày kêu ca là phục vụ chậm, và tuyệt đối không bao giờ cho tiền boa. Nói thật tình, nhiều khách trọ còn là bọn bệnh hoạn tình dục, hoặc bị nhịn quá mà thỉnh thoảng lại lên những cơn động cỡn điên cuồng, hoặc công khai bậy bạ khiến những cuộc mây mưa đá lở đất long không khuôn phép gì hết và cả những vụ loạn luân công khai ầm ĩ. Có ai làm khách sạn mà muốn có những loại khách như thế không chứ? Vườn bách thú Pondicherry là nguồn vui thú và cũng là nguồn đau đầu của ông Santosh Patel, người sáng lập, chủ sở hữu, giám đốc, ông chủ của năm mươi ba người làm công, và là cha tôi.
Với tôi, nó là chốn địa đàng. Tôi chỉ có những ký ức đáng yêu của quãng đời lớn lên trong vuờn bách thú đó. Tôi sống cuộc sống của một ông hoàng. Có đứa con trai nào của một vị vương giả nào có được một sân chơi mênh mông và xum xuê như thế? Lâu đài nào mà có được một bầy thú nuôi trong nhà như thế? Suốt thời niên thiếu, bầy sư tử đã là những chiếc đồng hồ báo thức của tôi. Chẳng cần đến những đồng hồ Thụy Sĩ làm gì. Sáng nào cũng thế, khi bầy sư tử cất tiến gầm vang dội của chúng, ấy là đã đến 5 rưỡi 6 giờ rồi. Bữa điểm tâm diễn ra trong những tiếng kêu lảnh lót và kéo dài của bầy khỉ to mồm, các loài yểng, sáo và lũ vẹt Moluccan. Tiễn tôi đi học không phải chỉ có ánh mắt dịu hiền của mẹ, mà còn có những cái nhìn lưu luyến của bọn rái cá mắt sáng như sao, con bò rừng Châu Mỹ khổng lồ, và đám khỉ độc đang vuơn vai duỗi chân và ngáp ngắn ngáp dài. Tôi phải trông chừng khi chạy qua dưới đám cây của bầy chim công vì chúng rất hay thích phóng uế xuống người tôi. Tốt nhất là chạy qua dưới rặng cây của bọn dơi rừng vì giờ đó sẽ chỉ có tiếng chí chóe chói tai của chúng mà thôi. Trên đường ra tôi có thể dừng lại chỗ nuôi các loài trên cạn để ngắm những con ếch như đuợc tráng men xanh biếc, hoặc vàng với xanh nước biển sẫm, hoặc nâu với xanh lá cây nhạt. Cũng có khi bọn chim ở đó khiến tôi phải để mắt đến chúng: những con hồng hạc màu hồng rực, đàn thiên nga đen, bầy đà điểu một mào, hoặc những con chim nhỏ hơn như bọn bồ câu lông bạc, những con tình điểu có bộ mặt giống như trái đào tơ, hoặc đàn vẹt to mồm có những đám lông màu da cam trước ngực. Rất ít khi thấy đám voi, hổ báo, gấu hoặc hải cẩu dậy vào giờ sáng sớm đó, nhưng khi bọn khỉ đầu chó, vuợn bạc má, vuợn đít đỏ, huơu nai, huơu cao cổ và các con lama [2] là những bọn dậy sớm. Sáng nào cũng vậy, tôi buớc ra khỏi cổng chính với một ấn tượng cuối cùng vừa bình dị vừa không thể nào quên. Đó có thể là hình ảnh bầy rùa xếp lên nhau thành một kim tự tháp, cái mõm óng ánh của một con khỉ đầu chó, dáng im lìm oai vệ của một con hươu cao cổ, cái miệng béo mỡ và vàng óng đang há ra của một con hà mã, một con vẹt macaw đang dùng mỏ và chân từng buớc leo lên hàng rào, tiếng chép miệng lanh lảnh của một con lạc đà. Tất cả những hình ảnh và ấn tuợng ấy kéo qua tâm trí tôi thật nhanh chóng. Chỉ lúc từ trường trở về, tôi mới có thời gian khám phá từ từ những cảm giác khi được một chú voi hít ngửi khắp người một cách thân thiện như thể muốn xin một vài củ lạc có thể có trong túi tôi, hoặc khi một chú khỉ độc vần vò tìm chấy trên đầu tôi, kết thúc bằng một tiếng thở dài khi chẳng thấy món gì chén đuợc. Giá mà tôi có thể truyền đạt được cái hoàn hảo của một con hải cẩu truờn mình xuống nước hoặc của một con khỉ nhện tung người đu từ chỗ này sang chỗ kia, hoặc chỉ đơn thuần là cái vẻ quay đầu của một con sư tử. Ngôn ngữ không thể truyền đạt nổi những cái đó. Tốt hơn cả là khi nào người ta muốn cảm lại đuợc sự hoàn hảo ấy, ta hãy tưởng tượng lại đúng những cảnh đó ở trong đầu.
Trong vườn thú cũng như ngoài thiên nhiên, thời gian tốt đẹp nhất để thăm viếng là bình minh và chiều tà. Đó là lúc hầu hết các loài vật trở nên sinh động nhất. Chúng động cựa và rời nơi ẩn nấp của mình để rón rén đến những mép nuớc. Chúng khoe lông khoe cánh. Chúng hát những khúc hát riêng của mình. Chúng tìm đến nhau và cử hành các nghi lễ của giống loài. Phần thưởng cho những ai biết ngắm nhìn và lắng nghe thật lớn lao. Tôi đã có những giờ phút triền miên không thể đếm được chỉ để im lặng chứng kiến những biểu hiện phong phú và đẹp đẽ cực kỳ của sự sống đã đem phúc lành cho hành tinh của chúng ta. Đó là một cái gì thật tươi sáng, vang dội, kỳ bí và tinh tế khiến cho các giác quan của ta phải tê dại.
Tôi đã nghe nhiều chuyện phi lý về các vườn thú, cũng nhiều như các chuyện phi lý về Thượng đế và các tôn giáo. Những người có thiện chí nhưng bị thông tin sai lầm tưởng rằng các loài vật hoang dã ngoài thiên nhiên sống rất “hạnh phúc” bởi vì chúng đuợc “tự do”. Khi nói vậy, họ thường nghĩ đến một con thú to lớn và đẹp, ví dụ như sư tử hoặc loài báo cheetah (đời sống của một con sơn duơng hoặc một con thú ăn kiến mõm dài thì có ai muờng tuợng làm gì). Họ tưởng tuợng cảnh con thú hoang dã đó đang thả bộ sau khi đã ăn hết con mồi vừa ngoan ngoãn chấp nhận số phận bị ăn thịt của mình, hoặc đang chạy nhịp nhàng trong tư thế luyện tập để giữ cho cơ thể thon thả sau một bữa ăn quá đà. Họ tuởng tuợng như con thú ấy coi sóc bầy con của nó một cách dịu dàng đầy tự hào, cả gia đình đang cùng nằm trên những cành cây và thoả mãn ngắm nhìn cảnh mặt trời đang lặn. Cuộc sống của loài vật hoang dã thật giản dị, cao thuợng và đầy ý nghĩa, họ tuởng tuợng vậy. Thế rồi những con vật ấy bị bọn người xấu bắt nhốt vào những chuồng lồng nhỏ xíu. “Hạnh phúc” của chúng bị tiêu tan. Chúng khao khát “tự do” và tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Bị chối bỏ “tự do” quá lâu, chúng trở thành như những cái bóng của chính mình, tinh thần chúng bị bẻ gẫy. Một số người đã tuởng tượng thế.
Thực tế không phải vậy.
Các loài thú hoang dã có một đời sống khắc nghiệt để sinh tồn trong một kỷ cương xã hội không khoan nhuợng và một môi truờng trong đó nguồn sợ hãi thì nhiều mà nguồn thức ăn thì ít, và chúng phải luôn luôn bảo vệ lãnh địa của mình, suốt đời chịu cảnh rỉa rói của các loài ký sinh. Tự do có nghĩa gì trong hoàn cảnh ấy? Thực tế các loài thú hoang dã không hề đuợc tự do trong không gian, thời gian, và cả trong các quan hệ giữa chúng với nhau. Lý thuyết mà nói, một con vật có thể bỏ bầy đàn mà đi, phớt lờ tất cả những lề thói xã hội và những cương toả vốn có của giống loài. Nhưng chuyện đó hiếm hơn cả khi ta so với chính chúng ta, ví dụ như chuyện một người chủ tiệm chẳng hạn, với tất cả những ràng buộc bình thuờng- với gia đình, bạn bè, xã hội - tự nhiên bỏ tất cả để ra đi với vài đồng bạc lẻ trong túi và bộ quần áo trên người. Nếu một con người, là loài vật thông minh và mạnh dạn nhất, còn không muốn lang thang làm lữ thứ, làm kẻ lạ mặt trong thiên hạ để chẳng có ai mong ai đợi, thì một con thú hoang dã muốn thế làm gì, nhất là khi ta nghĩ rằng loài vật bao giờ cũng bảo thủ hơn nhiều so với loài người. Quả thật loài vật bảo thủ, còn có thể nói là phản động nữa. Chỉ một thay đổi nhỏ xíu thôi cũng khiến chúng lo sợ rồi. Chúng chỉ mong mọi thứ cứ y nguyên như thế, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Những điều ngạc nhiên trong các quan hệ về không gian của chúng. Một con vật chiếm cái chỗ ở của nó, cho dù trong vuờn thú hay ngoài hoang dã, cũng giống như một quân cờ chiếm cái chỗ của mình trên bàn cờ, nghĩa là rất trọng đại. Vị trí của con tướng trên bàn cờ ra sao, thì chỗ ở đó của một con thằn lằn, một con gấu hoặc một con huơu cũng như vậy, không hề có tí tự do lựa chọn nào trong việc này. Cả quân cờ và con vật đều bị ràng buộc bởi tình thế và mục đích. Trong hoang dã, các con vật đi theo những đuờng nhất định vì những lý do bắt buộc, mùa này qua mùa khác. Trong vườn thú, nếu một con vật không có chỗ bình thường của nó, với dáng điệu mà nó vẫn có vào giờ đó, thì tức là đã có chuyện. Có thể chỉ là những phản ứng của con vật đối với một thay đổi rất nhỏ trong môi truờng. Một đoạn ống nuớc cuộn tròn bị quên ở ngoài kia khiến cho con vật lo sợ. Một vũng nước vừa đọng làm cho nó không yên. Cái bóng của một cái thang. Nhưng cũng có thể là một nguyên nhân gì khác nghiêm trọng hơn. Mà sợ nhất đối với một người chủ vuờn thú đó có thể thực sự là một “triệu chứng”, phải kiểm tra phân con vật ngay, phải hỏi kĩ người chăm sóc con vật đó về mọi chi tiết, phải mời bác sĩ thú y. Tất cả những cái này chỉ vì một con cò không thấy đứng ở chỗ nó vẫn thường đứng!
Nhưng gượm đã, hãy cho phép tôi tiếp tục đề cập đến chỉ một khía cạnh của vấn đề mà ta đang bàn bạc.
Nếu như ta vào một nhà nọ, phá cửa trước, rồi đuổi mọi người trong nhà ra ngoài phố và nói “Đi đi! Các người đuợc tự do! Tự do như chim trời! Đi! Đi!” - Liệu họ có nhảy nhót vui mừng hay không? Làm gì mà có chuyện đó. Chim chóc đâu có tự do. Những người mà ta vừa giải phóng ấy sẽ cự lại “Các người có quyền gì mà đuổi chúng ta? Đây là nhà ta. Ta sỡ hữu nó. Ta đã sống ở đây bao nhiêu năm rồi. Ta sẽ gọi cảnh sát. Chúng mày là đồ lưu manh!”
Chúng ta chẳng có câu, “Chẳng đâu bằng ở nhà mình” đấy ư? Đó cũng chính là cảm thức của loài vật. Chúng có ý thức sâu sắc về lãnh thổ. Lãnh thổ là chìa khóa để hiểu các hành vi của chúng. Chỉ có một lãnh thổ quen thuộc mới cho phép chúng đáp ứng được hai đòi hỏi thường trực của cuộc đời hoang dã: né tránh kẻ thù và kiếm được thức ăn nước uống. Một khuôn viên vườn thú lành mạnh về sinh học - cho dù đó là một cái chuồng, một cái hố, một hòn đảo nhân tạo, một bãi thả, một hồ nước - cũng là một lãnh thổ, chỉ khác về kích thước và sự gần cận với lãnh thổ của loài người. Việc nó rất nhỏ so với hoang dã cũng chẳng có ý nghĩa gì. Các lãnh thổ trong hoang dã rộng lớn không phải do thị hiếu mà là vì bắt buộc. Trong một vườn thú, ta làm cho các con vật điều mà ta làm cho chính chúng ta ở nhà: ta đem vào trong một không gian nhỏ hẹp những thứ nằm rải rác ở khắp thế giới hoang dã. Ngày xưa với chúng ta chẳng hạn, cái hang thì ở đây, dòng sông thì ở đàng kia, chỗ săn bắn thì phải đi hàng dặm, nơi rình mồi ở gần đó, rừng dâu thì lại ở một nơi khác - mà nơi nào cũng đầy rẫy sư tử, rắn rết, kiến, đỉa và lá độc - còn bây giờ thì con sông chảy luôn qua vòi nước có thể với ta là đến và ta có thể tắm rửa ngay cạnh chỗ nằm ngủ, ăn ngay nơi nấu nướng, có thể rào kín tất cả bằng một bức tường bảo vệ, giữ lãnh thổ của ta sạch sẽ và ấm áp. Mỗi ngôi nhà là một lãnh thổ thu nhỏ trong đó các nhu cầu cơ bản của ta được thỏa mãn an toàn và gần gụi. Một khuôn viên trong vườn thú lành mạnh cũng là một ngôi nhà như thế đối với con vật ở trong đó (nhưng không có những thứ như là lò sưởi chẳng hạn). Tìm thấy trong đấy tất cả những gì nó cần - một nơi để canh chừng, một chỗ để nghỉ, để ăn, uống, tắm, chải chuốt... - và thấy không còn cần phải săn mồi nữa vì thức ăn ngày nào cũng có, con vật sẽ chiếm lĩnh một không gian mới trong hoang dã, thăm dò và đánh dấu không gian ấy theo cách thường làm của giống loài mình, chẳng hạn như đánh dấu bằng nước giải. Một khi cái nghi lễ dọn vào đó đã xong và con vật đã ở yên, nó sẽ không cảm thấy như một kẻ thuê nhà hồi hộp, càng không như một tù nhân, mà như một chủ nhà hẳn hoi, và nó sẽ hành xử như hệt khi nó ở ngoài hoang dã, nghĩa là sẽ bảo vệ cái lãnh thổ ấy của nó cho đến cùng nếu bị xâm phạm. Chủ quan mà nói, một khuôn viên như thế không tốt hơn mà cũng chẳng tồi hơn so với một lãnh thổ của con vật ngoài hoang dã. Chừng nào còn đáp ứng được các nhu cầu của con vật, thì một lãnh thổ, hoang dã hay nhân tạo, chỉ đơn thuần là một thực tế, không phải đánh giá gì hết, cũng như những chấm đen trên da con báo mà thôi. Ta cũng có thể lý luận rằng nếu một con vật có thể lựa chọn bằng trí khôn, nó nhất định sẽ chọn cuộc sống trong vườn thú, vì cái khác biệt chính giữa một vườn thú và thế giới hoang dã là vườn thú thì vừa không có ký sinh và kẻ thù lại vừa thừa thãi thức ăn, còn ngoài hoang dã thì ngược lại. Cứ thử nghĩ mà xem. Thà được ở khách sạn Ritz với các dịch vụ không mất tiền và tha hồ gọi bác sĩ còn hơn lang thang không nhà và chẳng có ma nào để mắt đến mình. Nhưng các con vật thì không có khả năng phân biệt được như thế. Trong những hạn chế của bản chất mình, chúng thỏa mãn với những gì chúng có mà thôi.
Một vườn thú tốt là một chung cư được tổ chức chu đáo: nơi mà con vật bảo chúng ta Đừng có vào! bằng dấu hiệu nước giải hoặc bài tiết khác, thì chúng ta cũng bảo Đừng có ra! bằng các loại rào chắn của chúng ta. Trong điều kiện như vậy của một nền ngoại giao hoà bình, tất cả các con vật đều hài lòng và chúng ta có thể yên tâm nhìn ngắm lẫn nhau.
Có rất nhiều những câu chuyện trong sách vở về các con vật có thể trốn chạy khỏi vườn thú mà lại không trốn, hoặc trốn rồi lại quay trở về. Có trường hợp một con khỉ độc, cửa chuồng của nó người ta quên không khóa và để mở toang. Con khỉ lo lắng đến nỗi kêu gào thảm thiết và bắt đầu lấy tay đập cánh cửa ầm ầm, cho đến khi người coi chuồng, được 1 khách thăm gọi, vội chạy đến khóa cửa chuồng lại cho nó. Một đàn hươu sao trong 1 vườn thú châu Âu kéo nhau ra khỏi khi trại vì cửa rào không đóng. Những người khách làm cho chúng hoảng sợ chạy vào 1 khu rừng gần đó. Trong khu rừng cũng có hươu sao sống và có thể nuôi dưỡng được đàn hươu này. Thế mà đàn hươu vườn thú lại nhanh chóng tìm đường về trại của mình. Trong một vườn thú khác, một người làm công đang đi đến chỗ làm của mình vào lúc sáng sớm, vác theo các tấm gỗ, thì thình lình thấy 1 con gấu từ đám sương mù buổi sớm bước ra và đi thẳng về phía anh ta. Người ấy vất các tấm gỗ xuống và ù té chạy trốn. Lập tức người ta bổ đi tìm con gấu xổng chuồng. Ho thấy nó đã lại ở trong chuồng, thì ra nó leo ra leo vào nhờ một cành cây mới gẫy. Chắc là tiếng các tấm gỗ rơi xuống đất đã làm con gấu sợ và vội quay lại chỗ ở của nó.
Nhưng tôi không dám khăng khăng đâu. Tôi không định bảo vệ các vườn thú đâu. Nếu muốn thì ta cứ việc đóng cửa tất tật chúng lại (và hy vọng là các loài vật hoang dã có thể sống sót trong những gì còn lại của thiên nhiên ngày nay). Tôi biết rằng các vườn thú không còn là niềm vui của con người nữa. Tôn giáo cũng đang đối mặt với vấn đề này. Có những ảo tưởng nhất định về tự do đang giết chết cả hai.
Vườn thú Pondicherry không còn nữa. Người ta đã lấp hết các hố nuôi, tháo dỡ hết các chuồng trại. Giờ đây, tôi chỉ thám hiểm nó tại một nơi duy nhất còn lại là ký ức của tôi mà thôi.
HCái tên tôi chưa phải là kết cục của câu chuyện về cái tên tôi. Khi tên ta là Bob, không ai phải hỏi cái tên ấy viết thế nào. Nhưng với cái tên Piscine Molitor Patel thì là chuyện khác.
Nhiều người tưởng đó là P. Singh [1] và nghĩ tôi là người Sikh, và họ lấy làm lạ sao tôi không đội khăn cuốn lên đầu.
Khi còn học Đại học tôi có đến Montreal Một lần với mấy người bạn. Có một đêm đến lượt tôi phải đặt mua pizza. Tôi đã phát chán mỗi lần nghe giọng Pháp trên dây nói quát hỏi tên tôi là gì, nên khi người bán hàng hỏi: “Thưa ông cho biết tính danh”, tôi nói “I am who I am”. [2] Nửa tiếng sau người ta mang hai cái pizza đến cho ông “Ian Hoolihan”.
Sự thực là những người ta gặp có thể thay đổi cuộc đời ta, nhiều khi sâu sắc đến mức ta trở thành một người khác hẳn, kể cả chính cái tên của ta. Cứ xem thì thấy: Simon trở thành thánh Peter, ông thánh Matthew thì còn có tên là Levi, Nathaniel cũng là Bartholomew, Judas, không phải Iscariot, sau này còn lấy tên là Thaddeus, Simeon thì đội tên Niger, Saul thì thành ra Paul. [3]
Tên lính La Mã của tôi đứng trong sân trường một sáng nọ khi tôi 12 tuổi [4]. Tôi vừa mới đến. Hắn thấy tôi và một tia sáng thiên tài ma quỷ chợt lóe lên trong cái trí não đần độn của hắn. Hắn giơ tay chỉ vào tôi và hét lên: “Này là thằng Pissing Patel!” [5]
Trong giây lát mọi người đều cười váng lên. Người ta chỉ thôi cười khi đã xếp hàng vào lớp. Tôi đi cuối hàng, vòng gai nhọn thít trên đầu. [6]
Chẳng ai lạ gì tính tàn ác của trẻ con. Nào tôi có trêu chọc gì chúng, có làm cái gì khiến chúng phải để ý đến tôi đâu, mà sao khắp sân trường chỗ nào tôi cũng nghe thấy chúng hò hét, nào là “Thằng Pissing đây rồi, tao phải đi đây, rồi “Mày đang đứng úp mặt vào tường thế kia, có phải mày là thằng Pissing không hở?”, đại loại thế. Tôi chỉ biết rùm người một chỗ, hoặc phải tảng lờ như không nghe thấy gì. Những tiếng hò hét ấy rồi cũng qua đi, nhưng nỗi đau đọng lại, như mùi khai của bãi nước đái đã khô.
Rồi đến lượt các thầy giáo. Chắc tại trời nóng quá. Càng về chiều, bài địa lý buổi sáng còn chắc gọn như ốc đảo bắt đầu nhão dài ra như sa mạc Thar; bài lịch sử, sinh động là thế lúc mở đầu nay cũng thành khô nẻ và bốc bụi; bài học toán, lúc đầu chính xác là thế, nay thành be bét lầy lội. trong cơn mệt mỏi buổi chiều, khi họ mãi dùng khăn tay lau mồ hôi trán và gáy, các thầy quên cả cái âm hưởng đầy nước mắt trong cái tên của tôi, và bắt đầu vô tình xuyên tạc nó thậm tệ. Tôi có thể nghe thấy sự thay đổi trong cách phát âm có những uốn éo hầu như không nghe thấy được của họ. Tưởng chừng như lưỡi các thầy là các chiến binh đang phải cầm cương các cỗ chiến xa do bầy ngựa hoang kéo. Họ có thể phát âm rõ cái âm tiết đầu, âm “Pit”, nhưng rồi vì nóng nực gia tăng, họ không kiểm soát được lũ ngựa sùi bọt mép kia và không thể kiềm cương để chúng leo lên cái âm tiết thứ hai, âm “Xin”. Thế là họ đâm nhào xuống âm “Xinh”, và thế là hết. Mỗi lần tôi giơ tay xin phát biểu, họ sẽ bảo “Nào, mời em Pit-xinh”. Phần lớn họ cũng chẳng biết vừa gọi tôi là gì nữa. Sau một lúc không thấy tôi nói năng gì, họ sẽ ném vào tôi một cái nhìn mệt mỏi. Và nhiều khi, như thể kiệt sức vì nóng nực, cả lớp cũng chẳng có phản ứng gì. Không ai cười, chẳng ai thì thào trêu ngươi gì hết. Thế mà tôi vẫn luôn luôn nghe thấy một cái gì đó như một lời miệt thị.
Năm cuối cùng ở trường Saint Joseph, tôi cảm thấy như mình là nhà tiên tri Mohammad đang bị hành hạ ở thành Mecca, cầu cho Ngài được yên nghỉ. Nhưng cũng giống như việc Ngài chuẩn bị trốn về vùng Medina, chuyến du hành sẽ trở thành sự khởi đầu của thời đại Hồi giáo, tôi cũng chuẩn bị cho cuộc trốn chạy của mình và khởi đầu một giai đọan mới cho cuộc đời tôi.
Học xong ở trường Saint Joseph, tôi vào trường Petit Seminaire, trường trung học tư thục dùng tiếng Anh tốt nhất ở Pondicherry. Ravi đang học ở đó, và như số phận của tất cả các đứa em trai khác, tôi phải chịu cực hình của việc noi theo dấu chân của một ông anh nổi tiếng. Ravi là một nhà thể thao của thế hệ anh tại Petit Seminaire, một tay bowler [7] đáng sợ và một tay bóng chày khiếp đảm, giữ chân thủ quân của đội tuyển bóng chày hay nhất thành phố. Việc tôi là một tay bơi cừ khôi chẳng gây được tiếng tăm gì hết. Hình như có một thứ quy luật là sống ở biển thì người ta nghi ngờ những ai biết bơi, cũng như sống ở núi thì người ta nghi ngờ những ai biết trèo. Nhưng tôi không tính đến việc trốn chạy bằng một cái tên nào khác với “Pit-xinh”, thậm chí đội tên “Em thằng Ravi” cũng xong. Tôi có một kế hoạch hay hơn thế.
Và tôi triển khai nó ngay ngày đầu ở trường, ngay trong tiết học đầu tiên. Ngồi quanh tôi là những học sinh khác cũng từ Saint Joseph đến. Tiết học bắt đầu như tất cả các tiết học mới khác, nghĩa là bằng việc điểm danh. Chúng tôi lần lượt xướng tên mình tại chỗ.
“Ganapathy Kumar”. Ganapathy Kumar nói.
“Vipin Nath”. Vipin Nath nói.
“Shamshool Hudha”. Shamshool Hudha nói.
“Peter Dharmaraj”. Peter Dharmaraj nói.
Mỗi cái tên xướng lên là một cái đánh dấu vào danh sách, kéo theo một cái nhìn chòng chọc của ông thầy. Tôi hồi hộp khủng khiếp.
“Ajith Giadson”. Ajith Giadson nói, cách tôi bốn bàn...
“Sampath Saroja”. Sampath Saroja nói, cách ba bàn...
“Stanley Kumar”. Stanley Kumar nói, còn có hai bàn...
“Sylvester Naveen”. Sylvester Naveen nói, ngay trước mặt tôi.
Rồi đến lượt tôi. Đã đến lúc giết quỷ Satan. Medina hỡi, ta đến đây rồi.
Tôi đứng dậy và bước vội lên bảng đen. Trước khi ông thầy kịp mở miệng, tôi đã nhặt cục phấn và vừa nói vừa viết:
Tên tôi là
Piscine Molitor Patel
Thường gọi là
tôi gạch đít hai lần hai chữ đầu tiên của tên tôi
Pi Patel
Để cho chắc ăn, tôi viết thêm:
Pi = 3,14
rồi tôi vẽ một vòng tròn to tướng, chia một nhát thành hai phần với một đường kính thẳng băng, để nhắc đến bài hình học cơ bản.
Cả lớp im phăng phắc. Ông thầy dán mắt lên bảng. Tôi nín thở, rồi ông nói: “Được rồi, Pi, em ngồi xuống. Lần sau phải xin phép trước khi lên bảng”.
“Thưa thầy, vâng ạ”.
Ông đánh dấu tên tôi. Rồi đưa mắt đến thằng tiếp theo.
“Mansoor Ahamad”. Mansoor Ahamad nói.
Tôi thoát rồi.
“Gautham Selvaraj”. Gautham Selvaraj nói.
Tôi thở được rồi.
“Arun Annaji”. Arun Annaji nói.
Một sự khởi đầu mới đã đến.
Tôi làm lại cái trò ấy với tất cả các thầy giáo. Lặp đi lặp lại là điều quan trọng trong việc huấn luyện không những với súc vật mà cả với con người. Xen giữa hai thằng học sinh mang những cái tên tầm thường, tôi chạy ào lên bảng và bốc lửa, có khi còn nghe thấy cả tiếng phấn ken két trên bảng, với những chi tiết của cuộc tái sinh cho chính mình. Đến nỗi sau một vài lần như thế, bọn trẻ bắt đầu vào hùa như hát theo sự chỉ huy của tôi, và tiếng chúng vang lên cao trào khi tôi gạch đít cái nốt chính, và tên tôi được hát lên đẹp đẽ chẳng kém gì niềm vinh hạnh cho bất kỳ một nhà chỉ huy đồng ca nào khác. Một vài thằng còn theo sát tôi, khẩn trương, “Ba! Phẩy! Một! Bốn!” trong lúc tôi viết con số ấy, và tôi kết thúc bài ca của mình bằng một nét chém chia đôi vòng tròn, mạnh mẽ đến nỗi vụn phấn bay ra tứ tung.
Ngày hôm đó, khi tôi giơ tay xin phát biểu, và tôi không bỏ sót một cơ hội nào để làm việc đó, các thầy đã cho phép tôi được nói với một âm tiết duy nhất vang lên như âm nhạc trong tai tôi. Kể cả lũ quỷ sứ từ Saint Joseph sang. Sự thực là, cái tên ấy sống rồi. Và hiện tượng này đã khích lệ các thành viên khác của dân tộc thông minh chúng tôi: chẳng mấy chốc, một thằng tên là Omprakash đã tự gọi mình là Omega, một thằng khác bắt đầu đội tên Upsilon, rồi tiếp theo đó là một thằng Gamma, một Lambda và một Delta. Nhưng tôi đã là người đầu tiên và là người Hy Lạp kiên trì nhất ở Petit Seminaire. Thậm chí ông anh tôi, thủ quân đội bóng chày, ông thánh địa phương, cũng tán thưởng tôi. Ravi kéo tôi ra một chỗ:
“Này, tao nghe mày mới có tên hiệu gì đó hả?”
Tôi lặng im. Bởi vì hễ phải nghe một lời giễu cợt thì kiểu gì cũng chẳng ngăn chặn nó được. Không thể chạy đi đâu được.
“Tao không biết là mày thích màu vàng đến thế”.
Màu vàng? Tôi nhìn quanh. Lạy trời đừng ai nghe thấy, nhất là bọn tay sai của Ravi. “Ravi, anh định nói gì cơ?” Tôi thì thầm.
“Không sao, chú em. Tên gì thì cũng hơn là Pit-xinh. Kể cả Lemon Pie”. [8]
Chậm rãi quay gót, Ravi mỉm cười và nói: “Mày hơi đỏ mặt rồi đấy”.
Nhưng không gây sự gì khác.
Và thế là, trong cái con chữ Hy Lạp trông giống như một cái lều có mái tôn ấy, trong cái con số phi lý, không nắm bắt được, mà các nhà khoa học dùng để tìm hiểu vũ trụ ấy, tôi đã tìm thấy nơi ẩn nấp của mình.
[1] Piscine nghĩa là bể bơi trong tiếng Pháp, và phát âm là “pít-xin”. Nhưng nhiều người nghe thành “pi-xinh” (P. Singh), là tên một họ phổ biến của người Sikh tại Ấn Độ. Rắc rối nhất là khi người ta gọi nhân vật của chúng ta là “pít-xinh”, âm của chữ pissing trong tiếng Anh, nghĩa là “đang đi đái, đi tiểu tiện”.
[2] “I am who I am” - Tôi là cái thằng tôi, phát âm là “ai-em-hu-ai-em”, và người bán hàng nghĩ đây là âm thanh của tên “Ian Hoolihan” cũng có âm thanh tương tự. Montreal là vùng dân cư Cananda nói tiếng Pháp, nên việc nghe nhầm các âm thanh trong tiếng Anh là rất dễ xảy ra.
[3] Tất cả những tên này là của các môn đồ của Chúa Jesus, lúc chưa đi theo Jesus thì có một tên, khi đã thành môn đồ thì được đặt tên khác, rồi khi hiển thánh thì lại có tên khác nữa.
[4] Nhân vật của chúng ta có ý ví mình với Jesus một cách hài hước. Jesus bị lính La Mã bắt và đưa đi đóng đanh câu rút với một cái biển đề giễu cợt “tên này là vua của dân Do Thái đây”.
[5] Cũng như thể là “Này là thằng Patel đái dầm”, hoặc “Patel đang tè”, chữ pissing nghĩ là “đang đái”.
[6] Jesus bị lính La Mã đội lên đầu một vòng gai nhọn, giễu cợt là “mũ triều thiên” của “Vua Do Thái”. Câu này ám chỉ Patel cảm thấy đau đớn cũng như đội vòng gai nhọn của Jesus.
[7] Bowler: môn bóng lăn trong nhà rất phổ biến ở Âu Mỹ.
[8] Lemon Pie, có nghĩa là một món bánh nướng có chanh yên. Lemon là quả chanh có màu vàng. Chữ p trong tiếng Anh thường đọc là “pai”. Ravi có lẽ nghe gà hóa cuốc và tưởng rằng em mình đã có biệt hiệu như vậy. Chương này có ý vị đặc biệt đvới người nói tiếng Anh, hy vọng cách dịch này không để mất mát nhiều những ẩn ý tôn giáo và hài hước của nguyên tác.
Anh là một người nấu ăn giỏi. Căn nhà luôn sưởi ấm quá mức của anh lúc nào cũng sực nức mùi thức ăn hấp dẫn. Giá để gia vị của anh trông giống như tủ thuốc của một nhà bào chế. Khi anh mở tủ lạnh hoặc chạn thức ăn, có nhiều nhãn hiệu mà tôi không hiểu gì cả, thậm chí không biết chúng là tiếng nước nào. Anh nấu các món Âu Mỹ cũng thành thạo như các món Ấn Độ. Anh làm cho tôi món mì ống pho-mát ngon và tinh tế chưa từng thấy. Món bánh tráng kẹp nhân rau chay anh làm có thể là nỗi ghen tị của cả xứ Mexico.
Tôi còn để ý thấy một điều: chạn thức ăn của anh đầy ắp. Ngăn nào, khoang nào cũng chất hàng núi các loại hộp và gói giấy. Một kho lương thực có thể sống qua cuộc phong tỏa Leningrad.
Tôi có cái may được học một số thầy giáo giỏi trong thủa thiếu thời, những người này, cả đàn ông và đàn bà, đã thâm nhập vào cái đầu tôi và đánh lên một que diêm. Một trong số họ là ông Satish Kumar, thầy dạy môn sinh học ở trường Petit Seminaire và là một người cộng sản tích cực luôn hy vọng Tamil Nadu sẽ thôi bầu các minh tinh màn bạc lên nắm chính quyền và theo gương xứ Kerala. Ông có bề ngoài rất đặc biệt. Đỉnh đầu ông hói và nhọn lại có những ngấn sệ dưới cằm rất kỳ, rồi đôi vai hẹp chạy xuôi xuống cái bụng khổng lồ như cái chân núi, chỉ tội là quả núi ấy lại lơ lửng trên không, vì cái bụng phệ đột ngột biến mất theo chiều ngang vào hai cái ống quần. Điều bí ẩn đối với tôi là không biết đôi chân khẳng khiu ấy chống đỡ cái khối nặng thân hình ông bằng cách gì, nhưng chúng đỡ được, mặc dù đôi lúc chúng chuyển động rất lạ, như thể hai đầu gối ông cứ cong ra cong vào theo các hướng khác nhau. Cơ thể ông cấu tạo theo kỷ hà học: trông ông như hai tam giác, cái nhỏ cái to, thăng bằng trên hai đường kẻ song song. Nhưng sinh động, còn sần sùi là đằng khác, với những túm lông đen tua tủa đâm ra từ hai lỗ tai. Và thân thiện. Nụ cười ông dường như chiếm hết đáy của cái đầu hình tam giác.
Ông Kumar là người vô thần nhiệt thành đầu tiên mà tôi từng biết. Tôi phát hiện điều này không phải trong lớp học mà là ở vườn thú. Ông ta là vị khách thường xuyên, là người đọc kỹ hết các bảng mô tả và khâm phục tất cả các con vật mà ông đã thấy. Với ông, con vật nào cũng là một chiến thắng của logic và cơ giới, và thiên nhiên nói chung là một minh họa tuyệt hảo của khoa học. Trong tai ông, khi một con vật cảm thấy động lực giao phối, nó nói Gregor Mendel, nhắc đến vị cha đẻ của ngành di truyền học, còn khi đến lúc khoe lông khoe sức của mình thì là Charle Darwin, cha đẻ của thuyết chọn lọc tự nhiên, và những gì mà chúng ta coi là những tiếng hí, gầm, rú, rít, khịt, hót, hét... thì với ông là những âm hưởng của các ngoại ngữ thật sự. Khi ông Kumar đến thăm vườn thú, đó là để bắt mạch vũ trụ, và trí khôn thăm dò của ông luôn luôn khẳng định với ông rằng mọi vật có trật tự, rằng mọi vật là trật tự. Ông rời vườn thú với cảm giác được tươi mới trở lại một cách khoa học.
Lần đầu tiên tôi thấy khuôn hình tam giác của ông đang thao thao bất tuyệt về vườn thú, tôi không dám đến gần ông. Tôi ưa thích ông trong tư cách một thầy giáo bao nhiêu thì tôi cũng e dè ông như thần dân đối với quan phụ mẫu bấy nhiêu. Quả thật tôi có sợ ông chút ít. Tôi quan sát ông từ xa. Ông đã vừa đi đến chỗ hố nuôi tê giác. Hai con tê giác Ấn Độ là trung tâm thu hút khách đến xem nhờ có lũ dê. Tê giác là loài vật cần có giao tiếp xã hội. Khi chúng tôi có được Peak, một con tê giác đực còn non, nó có biểu hiện buồn chán vì bị cách ly và ngày càng bỏ ăn. Trong khi chưa tìm được một con tê giác cái, cha tôi muốn áp dụng một biện pháp tức thời và nghĩ đến việc thử xem Peak có chịu sống chung với một bầy dê hay không. Nếu nó chịu, chúng tôi sẽ cứu được một con vật quý. Còn không thì cũng chỉ mất một vài con dê. Thật tuyệt vời. Peak và bầy dê không rời nhau nửa bước, ngay cả khi có Summit về sống cùng. Lúc bấy ngờ, khi cặp tê giác tắm dười nước thì bầy dê đứng xung quanh mép hồ, còn khi dê ăn ở góc của chúng, Peak và Summit đứng ngay cạnh như thể canh gác cho bạn. Dân chúng đi xem rất khoái cảnh chung sống này.
Ông Kumar ngẩng lên và thấy tôi. Ông mỉm cười, một tay vịn hàng rào, tay kia vẫy tôi lại gần.
“Chào Pi”, ông nói.
“Chào thầy ạ. Thầy đến thăm vườn thú thế này thật tốt quá”.
“Tôi vẫn thường đến mà. Có thể nói đây là ngôi đền của tôi. Thật là thú vị kìa...” Ông đang nói về đám tê giác và dê. “Nếu chúng ta có các nhà chính trị như những con dê và tê giác kia, đất nước sẽ đỡ linh tinh lắm. Không may là chúng ta lại có một ngài thủ tướng có đủ hết bộ giáp trụ của tê giác nhưng thiếu hết những ý thức tốt đẹp của nó”.
Tôi có biết gì nhiều về chính trị đâu. Cha với mẹ tôi luôn luôn phàn nàn về bà Gandhi, nhưng chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với tôi. Bà Gandhi sống mãi tận miền Bắc, đâu có ở trong vườn thú mà cũng chẳng ở Pondicherry. Dù sao tôi thấy mình cũng phải nói cái gì đó.
“Tôn giáo sẽ cứu chúng ta”, tôi nói. Từ khi tôi có trí nhớ, tôn giáo đã rất gần gụi trong tôi.
“Tôn giáo?” Ông Kumar cười ngoác miệng. “Tôi không tin vào tôn giáo. Tôn giáo là tăm tối”.
Tăm tối? Thật khó hiểu. Tôi nghĩ không thể thế được. Tôn giáo là ánh sáng. Liệu ông ta có đang thử tôi không đây? Liệu ông có đang nói “Tôn giáo là tăm tối” theo kiểu đôi khi ông nói ở trên lớp, ví dụ như “Các loài có vú đẻ trứng”, chỉ cốt để xem có ai bẻ lại không mà thôi.
“Không có lý do gì để đi quá cách giải thích của khoa học và không có lý lẽ lành mạnh nào để tin vào bất kỳ cái gì ngoài những trải nghiệm giác quan của chúng ta. Chỉ cần một đầu óc sáng sủa một chút, một ý thức quan sát các chi tiết và một chút hiểu biết khoa học cũng đủ lột trần tôn giáo như một thứ dị đoan vô bổ. Không, làm gì có Thượng đế”.
Có đúng là ông ấy nói vậy không? Hay là tôi đang nhớ lại những lời của các nhân vật vô thần khác về sau này? Dù sao những lời ấy cũng là một cái đó. Trước đấy, tôi chưa bao giờ nghe những thứ tương tự như thế.
“Tai sạo phải chịu đựng tăm tối. Mọi vật đều ở ngay đây, rõ ràng, chỉ cần ta nhìn cho cẩn thận”.
Ông chỉ con Peak. Ấy, dù tôi vẫn rất khâm phục Peak, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một con tê giác cũng là một cái bóng đèn sáng.
Ông nói tiếp: “Có người nói Thượng đế đã chết trong thời chia cắt đất nước ta hồi 1947. Ông ấy cũng có thể đã chết trong chiến tranh nằm 1971. Hoặc qua đời ngay hôm qua thôi trong một trại mồ côi ở Pondicherry này. Đấy là những gì người ta nói, Pi ạ. Khi tôi bằng tuổi em, tôi sống trên giường, mắc bệnh bại liệt. Ngày nào tôi cũng hỏi, Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế chẳng bao giờ đến. Không phải Thượng đế cứu sống tôi, mà là y học. Lý trí là nhà tiên tri của tôi và nó bảo tôi rằng khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, là chúng ta chết. Là hết. Nếu chiếc đồng hồ không chạy tốt, phải chữa nó ngay. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chiếm hữu được các công cụ sản xuất và sẽ có công lý trên trái đất này”.
Điều đó hơi quá đối với tôi. Giọng nói thì vừa phải - có tình và can đảm - nhưng các chi tiết có vẻ nhợt nhạt. Tôi lặng thinh. Không phải vì sợ phật lòng ông Kumar. Điều tôi sợ hơn là trong một vài lời thôi ông có thể sẽ phá hủy hết những gì tôi đã yêu. Nhỡ những lời ông nói lại khiến cho tôi mắc bệnh bại liệt thì sao nào? Căn bệnh đó hẳn phải khủng khiếp lắm vì nó có thể giết chết cả Thượng đế trong lòng một con người.
Ông bước đi, khập khà khập khiễng trên mặt biển hoang dại vốn chỉ là mặt đất yên ổn dưới chân. “Đừng quên bài kiểm tra ngày thứ Ba nhé. Học cho tốt, 3.14 nhé!”
“Vâng, thưa thầy Kumar”.
Ông trở thành thầy giáo tôi ưa thích nhất ở Petit Semiraire và là lý do khiến tôi theo học ngành động vật học Toronto. Tôi cảm thấy có mối thân tình với ông. Đó là cái đầu mối tiên khởi cho tôi hiểu rằng những người vô thần là anh chị em có một niềm tin khác của tôi, rằng mỗi lời họ nó đều là những lời nói của niềm tin. Cũng như tôi, họ đi đến tận cùng trên đôi chân của lý trí - rồi cất bước nhảy theo lòng tin.
Tôi phải trung thực về chuyện này. Những người vô thần không làm tôi khó chịu, mà là những kẻ hoài nghi. Tính hoài nghi cũng có công dụng, nhưng cho một lúc thôi. Chúng ta ai cũng phải qua chỗ Đồi Sọ [1]. Nếu Đấng Christ còn phải chơi với hoài nghi, thì chúng ta tất cũng đều phải vậy. Nếu Đấng Christ đã phải qua một đêm cầu nguyện khẩn thiết trong đau khổ, nếu Người đã kêu lên trên thập giá: Cha ơi, Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con?, thì tất nhiên chúng ta ai cũng có quyền nghi hoặc. Nhưng chúng ta phải bước tới. Lấy hoài nghi làm triết lý sống ở đời thì cũng như lấy sự bất động làm phương tiện giao thông vậy.
Trong nghề nghiệp chúng tôi thường nói rằng con vật nguy hiểm nhất trong một vườn thú là người. Theo nghĩa rộng. Chúng tôi hàm ý rằng tính cách ăn thịt lẫn nhau quá đáng của giống loài chúng ta đã biến toàn thể hành tinh này thành một con mồi của loài người. Theo nghĩa cụ thể, chúng tôi muốn chỉ những người vẫn cho rái cá ăn lưỡi câu, cho gấu ăn dao cạo, cho voi ăn táo có đinh nhọn ở trong, và cho tất cả các con vật khác ăn đủ các loại đồ vật: bút bi, cặp giấy, đinh gim, dây cao su, lược, thìa cà phê, móng ngựa, thủy tinh vụn, nhẫn, trâm cài đầu và các đồ trang sức khác (không phải chỉ có các thứ đồ nhựa rẻ tiền đâu, mà cả nhẫn cưới bằng vàng nữa kia), rồi thì ống uống nước, dao dĩa nhựa, bóng ping pong, bóng tennis, vân vân và vân vân. Danh sách khai tử của các con vật trong vườn thú vì bị cho ăn các đồ vật như thế bao gồm khỉ đột, bò rừng, cò, vạc, đà điểu, hải cẩu, hải sư, hổ báo, gấu, lạc đà, voi, khỉ và hầu hết các loài hưu nai, chuột bọ và chim chóc. Trong giới quản lý vườn thú, cái chết của Goliath là một câu chuyện ai cũng biết. Đó là một con hải cẩu đực, một con vật lớn, đẹp, nặng hơn hai tấn, minh tinh của một vườn thú Châu Âu nơi nó trú ngụ, được tất cả khách thăm yêu mến, nó ăn một chai bia vỡ.
Sự độc ác còn tích cực và trực tiếp hơn thế nữa. Có rất nhiều các tường trình về hiện tượng tra tấn và hành hạ các con vật trong vườn thú: một con vật mỏ hình giầy chết vì choáng sau khi mỏ nó bị người ta dùng búa đập dập nát; một con hưu thuần lộc bị người ta dùng dao lột bộ râu, kéo theo cả một dẻo da thịt (con thuần lộc này sáu tháng sau khi bị đầu độc mà chết); một con khỉ thò tay ra nhận hột lạc người ta nhử cho thì bị gãy ngang cánh tay đó; một con hưu có sừng bị người ta dùng cưa mà cưa mất; một con ngựa vằn bị đâm bằng kiếm và còn biết bao chuyện tấn công các con vật bằng ba-toong, cán ô, cặp tóc. Kim đan, kéo và đủ các thứ khác, thường với mục đích muốn móc mắt con vật hoặc làm bị thương bộ phận sinh dục của chúng. Súc vật thường xuyên bị đánh thuốc độc. Và còn những chuyện ghê tởm, kỳ dị khác nữa: bọn dâm vật cưỡng hiếp khỉ, ngựa non, chim, một kẻ cuồng tín cắt đầu một con rắn, một kẻ điên tìm mọi cắt để đái vào mồm một con hươu bắc cực.
Chúng tôi tương đối may mắn, ở Pondicherry. Chỗ chúng tôi không có những người mắc chứng sadic như ở bên Châu Âu và Châu Mỹ. Tuy nhiên con điêu thử lông vàng của chúng tôi biến mất tăm. Cha tôi nghi nó bị ai đó bắt ăn thịt. Nhiều chim trĩ, công, vẹt bị người ta vặt lông. Chúng tôi tóm được một người mang dao đang trèo vào trại nuôi hươu; người ấy nói ông ta muốn trừng phạt tên Ravana độc ác (là nhân vật trong trường ca Ramayana, biến thành con hươu để bắt cóc Sita, nàng hầu của Rama). Một người khác thì bị bắt quả tang khi đang bắt trộm một con rắn hổ mang. Ông ta là một người thổi kèn rắn vừa chết mất con hổ mang của mình. Cả hai đều được cứu thoát: con hổ mang thì khỏi bị cuộc sống nô lệ và thứ nhạc tồi tệ kia, còn người ấy thì khỏi toi mạng vì hổ mang cắn. Chúng tôi còn phải đối phó với những người ném đá thường muốn khiêu khích cho súc vật phải động cựa lên. Và chúng tôi còn có một bà động phụ phu nhân mà áo dài lụa bị một con sư tử ngoạm phải. Bà ta bị quay như một con quay yo-yo, thà thoát y còn hơn chết. Mà nào có phải tai nạn cho cam. Bà ấy đã thò cả cánh tay vào chuồng sư tử và vẫy vẫy tà áo dài trước mặt mãnh sư, không biết để làm gì. Bà ấy không sao hết. Rất nhiều các ông lao đến giúp bà. Với cha tôi bà ấy bảo “Ai đời sư tử mà lại thích ăn váy áo cơ chứ? Thì tôi cứ tưởng chúng chỉ là loài ăn thịt”. Rắc rối tồi tệ nhất là đám khách hay thích cho súc vật thức ăn. Mặc dù sự cảnh giác của chúng tôi bác sĩ Atal của vườn, có thể dùng con số của những con vật bị mắc bệnh tiêu hóa để minh họa những ngày bận rộn của ông tại vườn thú, ông gọi chung tất cả các loại bệnh tiêu hóa này là một từ riêng của ông - “Tidbit it is”- mà phần lớn là do quá nhiều Carbonhydrad và đường. Đôi khi chúng tôi ước rằng họ chỉ dùng đường thôi thì đỡ. Người ta tưởng các con vật có thể ăn bất cứ thứ gì mà không ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng. Đâu phải thế. Một con culi của chúng tôi bị ốm nặng với chứng viêm ruột chảy máu sau khi ăn một con cá thiu do một người nhét cho, mà người này nhất định tin rằng ông ta chỉ làm tốt với con vật mà thôi.
Ngay sau quầy bán vé, cha tôi cho kẽ một dòng chữ sơn đỏ trên tường: “Đố quý vị biết con vật nào trong vườn thú nguy hiểm nhất?” một mũi tên chỉ về một tấm rèm nhỏ. Đã có biết bao bàn tay tò mò kéo tấm rèm đó, đến nỗi chúng tôi thường xuyên phải thay cái mới. Đằng sau nó là một tấm gương.
Nhưng tôi đã phải vất vả mới biết được rằng có một con vật nữa còn nguy hiểm hơn cả chúng ta, một con vật cực kỳ phổ biến, lục địa nào cũng có, địa bàn cư trú nào cũng có: đó là con vật Animalus amthropomorphicus, con vật mà chỉ có mắt người mới nhìn thấy, chúng ta ai cũng gặp một con này, có khi còn sở hữu một con là đằng khác. Nó là một con vật “xinh xắn”, “đáng yêu”, “vui vẻ”, “thân thiết”. Chúng rình rập trong tất cả các cửa hàng đồ chơi vườn thú của trẻ em. Biết bao chuyện về chúng cơ chứ. Chúng là đồ trang sức lủng lẳng trên cổ các con vật “đồi trụy”, “xấu xa”, “khát máu” đã xui khiến nên các cơn khùng của lũ điên mà tôi vừa kể ở trên, lũ người muốn làm hài lòng chúng bằng ba-toong và cán ô. Trong cả hai trường hợp, chúng ta nhìn vào một con vật và thấy một tấm gương. Tâm lý bệnh hoạn luôn muốn đặt mình vào trung tâm của mọi vật là một ngón thuốc độc chết người không những của các nhà thần học mà của cả những nhà động vật học nữa.
Tôi đã học được bài học rằng một con vật là một con vật, cơ bản và thực tế là khác hẳn chúng ta, những hai lần: một lần với cha tôi, và một lần với Richard Parker.
Đó là một buổi sáng Chủ Nhật. Tôi đang tha thẩn chơi một mình thì cha tôi gọi.
“Các con, hãy ra đây”.
Có chuyện gì rồi. Giọng nói của cha làm reo một cái chuông báo động tí tẹo trong đầu tôi. Tôi vội kiểm điểm lại lương tâm. Không có gì cả. Chắc hẳn phải là Ravi thôi. Không biết Ravi có chuyện gì đây. Tôi bước vào phòng khách. Mẹ ở đó. Không bình thường chút nào. Việc kỷ luật con cái, cũng giống như việc chăm sóc súc vật, thường chỉ là việc của cha. Ravi vào cuối cùng, mặt đầy vẻ tội lỗi.
“Ravi, Piscine, cha có một bài học rất quan trọng cho các con hôm nay”.
“Ôi, có thực cần thiết không mình?” Mẹ nói. Mặt mẹ ửng đỏ.
Tôi nuốt nước bọt. Nếu mẹ, thường bình tĩnh và thản nhiên là thế, mà bây giờ có vẻ lo lắng đến độ bực bội thế kia, thì có nghĩa là có chuyện gì nghiêm trọng thật rồi. Tôi và Ravi lén nhìn nhau.
“Có. Rất cần”. Cha nói, có vẻ khó chịu. “Bài học này có thể sẽ cứu mạng sống của chúng”.
Cứu mạng sống của chúng tôi! Cái chuông báo động trong đầu tôi không còn bé tí tẹo nữa, nó trở thành quả chuông khổng lồ, giống như quả chuông của ngôi nhà thơ Tâm Thiêng của Giáo hội Jesus mà chúng tôi vẫn nghe thấy, không xa vườn thú là mấy.
Mẹ vẫn chưa chịu: “Piscine? Nó mới lên tám”.
“Nó là đứa mà tôi lo lắng nhiều nhất”.
“Con vô tội!” Tôi òa lên. “Lỗi ở anh Ravi hết, gì cũng là lỗi của anh ấy hết ạ!”
“Cái gì?” Ravi kêu. “Con có làm cái gì sai trái đâu cơ chứ”. Rồi anh nhìn tôi hằn học.
“Lặng im nào!” Cha tôi nói, giơ tay lên. Cha đang nhìn thẳng vào mẹ. “Gita, em đã thấy Piscine rồi đấy. Nó đang tuổi với bọn nhóc suốt ngày loăng quăng và thọc mũi vào khắp mọi nơi”.
Tôi ư? Một thằng loăng quăng? Một thằng thọc mũi vào khắp mọi nơi? Đâu có phải thế? Không phải thế! Mẹ ơi, hãy bảo vệ con đi mẹ, tôi khẩn khoản trong lòng. Nhưng mẹ chỉ thở dài và gật đầu, dấu hiệu cho thấy cái việc khủng khiếp kia sẽ được thi hành.
“Đi theo cha”.
Chúng tôi đi như một bọn tử tù ra pháp trường.
Chúng tôi ra khỏi nhà, bước qua cổng, vào vườn thú. Hãy còn sớm và vườn thú còn chưa mở cửa cho công chúng vào.
Những người coi thú và làm vườn đang làm các công việc của họ. Tôi thấy Sitaram, người trông nom bọn khỉ độc, người tôi có cảm tình nhất. Anh đang dừng tay đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Chúng tôi đi qua khu chuồng chim, gấu, khỉ độc, khỉ con, tê giác, voi, hươu cao cổ. Chúng tôi đến chỗ hổ, sư tử và báo hoa. Bubu, người chăm sóc chúng, đang chờ ở đó. Chúng tôi đi vòng xuống con đường quanh chuồng, và anh mở khóa cánh cửa dẫn vào chuồng, nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa hào nước. Chúng tôi bước vào. Đó là một cái hang xi-măng rộng và tối, hình tròn, nóng và ẩm, sặc mùi nước đái hổ. Khắp xung quanh là những chuồng lớn ngăn với nhau bởi những song sắt to vật sơn xanh lá cây. Một luồng ánh sáng vàng vọt lọt xuống từ những ổ cửa trên trần. Qua các lối ra của chuồng, chúng tôi có thể nhìn thấy cây cối trên đảo, tràn ngập ánh mặt trời. Các ngăn chuồng rỗng không - trừ một ngăn: Mashisha, con hổ Bengal đầu đàn của chúng tôi, một con vật dài rộng và to lớn, nặng gần hai tạ rưỡi, đang bị nhốt trong chuồng. Đúng lúc chúng tôi bước vào, nó đứng dựa vào các chấn song và bắt đầu gầm gừ rất sâu trong cổ, cặp tai nó ép sát vào đầu và đôi mắt tròn xoe dán chặt vào Babu. Tiếng gầm gừ của nó to và vang đến nỗi tưởng như làm cả khu chuồng rung lên. Đầu gối tôi bắt đầu run. Tôi nép vào mẹ. Mẹ cũng run. Ngay cha tôi cũng có vẻ đang trấn tĩnh lại. Chỉ có Babu vẫn tỉnh bơ như không trước tiếng gầm và cái nhìn xoáy vào anh ta như lưỡi khoan. Anh đã được thử thách để tin tưởng vào các chấn song sắt. Mashisha bắt đầu đi đi lại lại trong giới hạn của căn chuồng.
Cha quay sang chúng tôi. “Con vật gì đây?” Cha quát để át được tiếng gầm gừ của Mashisha.
“Dạ, con hổ ạ,” Ravi và tôi đồng thanh, ngoan ngoãn chỉ ra điều hiển nhiên không thể nhầm lẫn.
“Hổ có nguy hiểm không?”
“Thưa cha có ạ, hổ nguy hiểm ạ”.
“Hổ rất nguy hiểm”, cha hét lên. “Cha muốn các con hiểu rằng không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được chạm đến một con hổ, vuốt ve một con hổ, thò tay qua song sắt chuồng hổ, và ngay cả đến gần một cái chuồng hổ. Đã rõ chưa? Ravi?”
Ravi gật đầu lia lịa.
“Piscine?”
Tôi gật đầu còn lia lịa hơn.
Cha nhìn tôi chằm chặp.
Tôi gật đầu mạnh đến nỗi lấy làm ngạc nhiên sao chưa bị gẫy cổ và rơi đầu xuống sàn lúc đó.
Tôi muốn có vài lời tự bạch rằng, mặc dù tôi có thể đã nhân cách hóa các con vật đến mức chúng có thể nói trôi chảy được tiếng Anh, với đám chim trĩ than phiền bằng giọng quý phái Anh chính hiệu rằng trà của chúng nguội quá, và bọn khỉ đầu chó bàn bạc kế hoạch chạy trốn sau khi cướp nhà băng bằng giọng găng-tơ Mỹ đặc sệt, nhưng tôi lúc nào cũng tỉnh táo và ý thức được rằng đó chỉ là những huyễn hoặc mà thôi. Tôi hoàn toàn cố tình khoác cho những con vật hoang dã những bộ cánh hiền lành của trí tưởng tượng. Song tôi không bao giờ mụ mị đến hoang tưởng về bản chất thực của chúng. Cái mũi thọc mạch của tôi tỉnh táo hơn thế. Không hiểu sao mà cha tôi lại nghĩ rằng đứa con út của ông lại có thể ngứa ngáy đến mức bước chân vào chuồng một con thú dữ ăn thịt được kia chứ. Nhưng cho dù nỗi lo lạ lùng ấy của cha có nguồn gốc ở đâu đi nữa – mà cha là người cả lo - rõ ràng là ông đã quyết tâm phải trừ bỏ mối này trong buổi sáng hôm đó.
“Để cha cho các con thấy loài hổ nguy hiểm đến mức nào”, cha tiếp tục nói. “Cha muốn các con ghi nhớ bài học này suốt đời”.
Cha quay sang gật đầu với Babu. Babu đi ra. Mashisha đưa mắt nhìn theo anh ta và không chịu rời khỏi đầu của mà Babu vừa đi qua. Vài giây sau, Babu trở lại, vác theo một con dê đã trói hết chân vào với nhau. Mẹ ôm lấy tôi từ phía sau. Tiếng gầm gừ của Mashisha biến thành một tiếng tru ầm ào sâu tít bên trong cổ.
Babu mở khóa, mở cửa, bứơc vào, khép và khóa cửa một ngăn chuồng ngay cạnh chuồng Mashisha. Hai ngăn cách nhau bằng các sập cửa và các chấn song. Mashisha lập tức bám vào hàng chấn song đó, cào cấu chúng. Nó bắt đầu thêm vào tiếng gầm gừ kéo dài những tiếng hộc mạnh mẽ như có thuốc nổ. Babu đặt con bê xuống sàn; hai bên sườn con vật phập phồng dữ dội, lưỡi nó thè lè khỏi mồm, và mắt nó trợn ngược. Babu cởi trói cho con dê. Nó đứng lên. Babu ra khỏi chuồng cũng thận trọng như khi vào. Ngăn chuồng đó có hai mức sàn, một mức ngang với chỗ chúng tôi đang đứng, một mức nữa ở phía sau, cao hơn độ một thước, dẫn ra phía ngoài đảo. Con dê lập cập trèo lên sàn trên. Mashisha, không để ý gì đến Babu nữa, chuyển động trong căn chuồng của nó theo bước đi của con dê trong một dáng điệu uyển chuyển như nước chảy. Nó phủ phục và nằm im, cái đuôi đung đưa chậm rãi là dấu hiệu căng thẳng duy nhất.
Babu bước lên chỗ cái cửa sập ngăn giữa hai căn chuồng và bắt đầu kéo nó lên. Biết là sắp được thỏa mãn, Mashisha im phăng phắc. Tôi nghe thấy hai thứ vào giây phút đó: cha nói: “Đừng bao giờ quên bài học này” trong khi ông nhìn lên một cách nghiêm nghị; và tiếng kêu be be của con dê. Chắc nó đã kêu lảnh lót như vậy ngay từ đầu, chỉ có điều đến lúc ấy tôi mới nghe thấy.
Tôi thấy bàn tay mẹ áp chặt lên chỗ tim tôi đang đập thình thịch.
Cái cửa sập kêu rít lên mấy tiếng. Mashisha không tự chủ được nữa – trông có vẻ như sắp nổ tung qua các chấn song sắt. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên ở nguyên tại chỗ, gần chỗ con mồi nhất nhưng lại không thể với được tới, hay là chuyển xuống sàn dưới, xa con mồi hơn nhưng lại gần cái cửa sập hơn. Nó vươn người lại và bắt đầu gầm gừ.
Con dê bắt đầu nhảy. Nó nhảy cao lạ lùng. Tôi không ngờ dê lại có thể nhảy cao đến thế. Song phía sau căn chuồng là một bức tường xi măng cao và nhẵn nhụi.
Thình lình, cánh cửa sập nhẹ nhàng trượt lên. Rồi yên lặng trở lại, chỉ nghe tiếng con dê kêu và tiếng móng chân nó gõ liên hồi xuống sàn.
Một dòng thác màu đen và da cam chảy ào từ căn chuồng nay sang căn chuồng kia.
Bình thường, người ta không cho hổ báo ăn một ngày mỗi tuần, để mô phỏng theo điểu kiện sống của chúng ngoài hoang dã. Về sau chúng tôi được biết là cha đã ra lệnh bỏ đói Mashisha trong ba ngày liền.
Không biết là tôi có nhìn thấy máu trước khi nhào vào lòng mẹ hay là tôi đã vẽ ra máu trong ký ức mình sau này bằng những nét bút lông to bè. Nhưng mà tôi nghe thấy. Đủ hãi hùng để thổi tắt ngấm những tia sáng của sự sống chỉ biết ăn chay ra khỏi linh hồn tôi. Mẹ lập cập ôm lùa chúng tôi ra khỏi đó. Chúng tôi sợ phát cuồng. Mẹ tức giận thật sự.
“Sao anh có thể thế được, anh Santosh? Chúng nó chỉ là trẻ con! Anh đã làm chúng sợ hãi đến hết đời!”
Giọng mẹ nóng giận và run rẩy. Tôi thấy cả nước mắt đọng trong mắt mẹ. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
“Gita, con chim nhỏ của anh, cũng là vì chúng mà thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Piscine thò tay qua chấn song chuồng hổ một ngày nào đó để vuốt ve bộ lông da cam đẹp đẽ kia? Thà mất con dê còn hơn, phải không nào?”
Giọng cha êm, gần như thì thầm. Trông cha rất căng thẳng. Cha chưa khi nào gọi mẹ là “con chim nhỏ của anh” trước mặt chúng tôi.
Anh em tôi quấn chặt lấy mẹ. Cha ôm lấy chúng tôi. Nhưng bài học chưa hết, mặc dù phần sau có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Cha dẫn chúng tôi tới chỗ sư tử và báo.
“Có một người mất trí ở Australia có võ karate đến hắc đai. Hắn ta muốn chứng tỏ sức mạnh của mình với sư tử. Hắn thua. Thậm tệ. Người ta chỉ tìm thấy một nửa thi thể của hắn vào sáng hôm sau”.
“Vâng, thưa cha”.
Đến bọn gấu Hymalaya và gấu cu li.
“Chỉ một nhát cào của các con vật củ mỉ cù mì kia cũng đủ ruột gan các con lòi đầy mặt đất”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn hà mã.
“Với cái mõm mềm mại và mỡ màng kia, chúng sẽ nghiền nát thân thể các con thành một đống bầy nhầy. Lên cạn, chúng chạy còn nhanh hơn các con”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn linh cẩu.
“Những bộ hàm khỏe nhất trong thiên nhiên. Đừng tưởng chúng hèn nhát hoặc chỉ biết ăn thịt chim chóc. Chúng không nhát và không ăn thịt chim! Chúng sẽ ăn ngay các con khi các con vẫn còn sống hẳn hoi”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn khỉ độc.
“Khỏe bằng mười người. Chúng bẻ xương các con như bẻ que. Cha biết vài con đã từng được nuôi chơi trong nhà và các con đã từng đùa rỡn với chúng khi chúng còn bé. Nhưng bây giờ chúng đã lớn, hoang dại và khó lường”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn đà điểu.
“Trông xơ xác và ngốc nghếch, phải không nào? Hãy nghe đây: chúng là một trong những loài vậy nguy hiểm nhất trong vườn thú. Chỉ một cú đá của chúng thôi là đủ bẻ gẫy xương sống xương sườn của con rồi”.
“Vâng, thưa cha”.
Bon hươu sao.
“Thật xinh đẹp, phải không nào? Nếu các con đực cảm thấy cần thiết, nó sẽ tấn công các con và những nhánh sừng ngắn ngủi kia sẽ xuyên thủng các con như dao găm vậy”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn lạc đà Arập.
“Một miếng đớp của nó thôi là các con đi toi mảng thịt xương rồi”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn thiên nga đen.
“Với những cái mỏ kia, chúng sẽ bổ vỡ sọ các con. Và sẽ bẻ chân tay các con bằng những đôi cánh của chúng”.
“Vâng, thưa cha”.
Bọn chim lau nhau.
“Chúng sẽ cắt đứt ngón tay của các con bằng mỏ nhọn như thể tay các con là bơ vậy”.
“Vâng, thưa cha”.
Lũ voi.
“Con vật nguy hiểm nhất tất cả. Trong vườn thú voi là con vật đã giết chết nhiều người làm và khách tham quan nhất. Một con voi non sẽ có thể xé rời chân tay và giày xéo thân thể các con thành bẹp gí. Đó là số phận của một người làm trong một vườn thú bên châu Âu, đã dám trèo vào chuồng voi qua một cửa sổ. Một con voi chín chắn hơn, bình tĩnh hơn, sẽ nghiền nát các con vào tường hoặc ngồi lên các con. Nghe thì buồn cười đấy - những hãy nghĩ mà xem!”
“Vâng, thưa cha”.
“Còn nhiều các con chúng ta không thể đến được. Đừng tưởng chúng vô hại. Sinh vật nào cũng biết tự vệ, không kể to nhỏ. Con vật nào cũng dữ tợn và nguy hiểm cả. Nó có thể không giết chết các con, nhưng chắc chắn sẽ làm các con thương tổn. Nó sẽ cào cấu, cắn xé và các con chỉ việc đợi đó để bị nhiễm trùng, sưng tấy và đầy mủ, rồi thì sốt cao và mười ngày trong bệnh viện”.
“Vâng, thưa cha”.
Chúng tôi đến chỗ bọn chuột khoang, loài vật duy nhất bị cha tôi ra lệnh bỏ đói cùng với Mashisha. Chúng không được ăn bữa tối hôm trước. Cha mở khoá chuồng. Ông lấy ra một túi đồ ăn trong túi quần và dốc hết xuống sàn.
“Các con thấy những con chuột khoang này chứ?”
“Vâng, thưa cha”.
Các chú chuột run rẩy vì mệt khi chúng hối hả gậm nhấm những hạt ngô.
“Này, này...” Cha cúi xuống bế một con lên tay. “Chúng không nguy hiểm đâu”. Đám chuột chảy tản ra ngay lập tức.
Cha cười. Ông đưa cho tôi con chuột khoang đang còn kêu lí nhí. Ông đã chuẩn bị cho bài học kết thúc một cách nhẹ nhàng.
Con chuột khoang căng thẳng nép mình trong cánh tay tôi. Một con còn non. Tôi bước đến chuồng và thận trọng đặt nó xuống sàn. Nó chạy vụt đến bên mẹ nó. Lý do duy nhất khiến những con chuột khoang này không gây nguy hiểm – nghĩa là không gây đổ máu bằng răng và móng của chúng – là chúng thực sự đã đựơc thuần hóa. Nếu không, túm một con chuột khoang hoang dã bằng đôi bàn tay trần sẽ giống như túm một con dao đằng lưỡi.
Bài học kết thúc. Ravi và tôi nín lặng và né tránh cha suốt một tuần. Mẹ cũng lờ cha đi. Khi tôi đi qua chỗ bọn tê giác, tôi tưởng tượng rằng chúng đang cúi đầu buồn bã vì đã mất một trong số những bạn bè thân thiết của chúng.
Nhưng biết làm sao được khi ta yêu quý cha? Cuộc sống cứ tiếp tục và ta đừng có mà chạm đến hổ. Chỉ trừ có chuyện là tôi đã trót đổ tội vu vơ cho anh Ravi sáng hôm đó và bây giờ thì coi như đã chết rồi. Trong nhiều năm sau, khi Ravi muốn khủng bố tôi, anh sẽ rít lên khe khẽ vào tận tai tôi, “Hãy cứ đợi cho đến khi chỉ còn mày với tao. Mày sẽ là con dê tiếp theo đấy!”