Thế là một sự kiêu hãnh và thỏa mãn lớn, cộng và nhiều lý do khác, khiến Gađacđô rất tự hào về mình. Khi nói chuyện với anh, hầu tước Đờ Môraima, một ông cụ hiền hậu, không kiểu cách, rất biết ơn anh đã cứu cháu gái mình nên tỏ ra tử tế thân mật. Còn anh chàng matađo, tự kiêu về diễm phúc bí mật mà Đônha Xôn ban cho, tự coi mình hầu như người trong gia đình và đối xử với hầu tước một cách tôn kính gần như con đối với cha.
Nhà đại quý tộc kia, ăn mặc như một ông lão nhà quê, thật là một loại người - ngựa thần thoại mặc quần áo picađo và cầm một cây garôcha. Ông là một nhân vật hiển hách có thể đeo huân chương đầy ngực, ra vào hoàng cung với một bộ quần áo thêu chằng chịt và một cái chìa khóa vàng khâu trong tà áo. Tổ tiên xa xôi nhất của ông đã theo vua tới Xêvilơ đánh đuổi người Môrơ. Để thưởng công hãn mã, vua đã cho các ngài những đất đai rộng mênh mông chiếm của kẻ thua trận, ngày nay chỉ còn sót lại những đồng bằng rộng lớn có những con bò mộng của hầu tước đang gặm cỏ. Những tổ tiên gần hơn của hầu tước, bạn và cố vấn của nhiều vị vua, trong cuộc sống xa hoa ở cung đình đã phá tan phần lớn sản nghiệp của mình. Bản thân hầu tước tính tình hiền hậu, hòa nhã, sinh hoạt giản dị như một nông dân nhưng vẫn giữ được cái vẻ thế phiệt của dòng dõi quý tộc. Về phần Gađacđô, trong thâm tâm, anh không thể không tự hào nghĩ rằng, nói cho cùng, nhân vật ấy đã trở thành chú vợ của anh và họ của "thằng bé thợ giầy" xưa kia có phần nào dính dáng với một dòng họ hiển hách.
Lối sống của Gađacđô và những thói quen của anh matađo thay đổi hẳn. Hầu như không bao giờ anh bước chân vào những quán cà phê mà những người hâm mộ đấu bò hay lui tới nữa. Cố nhiên họ là những người lương thiện, nhưng chỉ là những người dân loàng xoàng, chủ hiệu nhỏ, thợ thuyền trở thành chủ xưởng, thầy cò thầy ký nhì nhằng, hoặc những người vô công rồi nghề sống được một cách kỳ lạ nhờ những công việc xoay xở bí mật, không có nghề nghiệp gì rõ rệt ngoài việc nói chuyện bò mộng cả.
Gađacđô đi qua cửa các quán cà phê ấy, chào những người hâm mộ anh, còn họ thì giơ tay đáp lại và rủ anh vào.
- Tôi sẽ trở lại, anh nói.
Nhưng anh không trở lại, mà bước vào một câu lạc bộ quý phái cùng ở phố Rắn. Ở câu lạc bộ này, có những người hầu mặc quần chẽn cộc, một lối trang trí gôtích đồ sộ và những bộ đồ ăn bằng bạc để trên bàn. Chính Đông Hôxê đã giới thiệu anh đến đó và anh được thu nhận như một ngoại lệ vì anh là một đấu sĩ "trông được", nghĩa là ăn mặc sang và vì mọi người biết rằng hầu tước Đờ Môraima rất yêu anh. Hơn nữa, Gađacđô với cái tinh ranh của một đứa lưu manh cũ, biết cách làm cho bọn thanh niên hào nhoáng và vô học ở đây mến mình.
- Anh ta là một người học rộng, các hội viên của câu lạc bộ này nói với vẻ nghiêm trang.
Thực ra về mặt học thức, anh cũng chỉ hiểu biết đúng như họ.
Anh con trai của bà Aoguxtiax không thể không cảm thấy hãnh diện mỗi khi bước vào câu lạc bộ, giữa hai hàng đầy tớ, xếp hàng như lính ở hai bên lối đi và được một người giữ cửa bệ vệ như một vị thẩm phán, cổ quàng một sợi dây bạc, chạy tới cất mũ và can cho mình. Giao du với một nhóm người thanh lịch như vậy quả là thích. Những thanh niên ấy, ngồi trên những chiếc ghế cao như trong một vở kịch lãng mạn, hết nói chuyện bò mộng đến chuyện đàn bà và kể rất chính xác cho nhau nghe những vụ quyết đấu xẩy ra ở Tây Ban Nha vì họ đều là những người chi li về vấn đề danh dự và bắt buộc phải dũng cảm. Tại câu lạc bộ, có một phòng tập đánh kiếm và cũng có hẳn một phòng đánh bạc mở liên tục từ quá trưa hôm trước đến mờ sáng hôm sau.
Gađacđô hay đánh bạc. Đó là cách tốt nhất để thắt chặt tình thân trong giới đó. Anh đánh và thua với cái không may của một người may ở các mặt khác. Cái rủi của anh là một đề tài khoe khoang cho các hội viên câu lạc bộ.
- Tối qua, Gađacđô lại vừa bị giần một trận, họ vênh vang nói. Cậu ta thua ít nhất tới mười một nghìn đồng.
Khả năng chịu thua bạc kỳ lạ của anh và vẻ thản nhiên của anh lúc trả tiền làm cho các bạn mới của anh kính nể vì họ coi anh là trụ cột vững chắc nhất của sòng bạc câu lạc bộ.
Chẳng bao lâu Gađacđô mê đến mức có khi anh quên cả bà đại phu nhân của anh. Đánh bạc với những người thuộc tầng lớp thượng lưu nhất ở Xêvilơ thì còn gì thích hơn! Còn gì bằng được những thanh niên quý tộc đối xử một cách bình đẳng, nhờ tình anh em nẩy sinh từ chỗ vay mượn tiền và cùng hồi hộp như nhau.
Các bạn của người ủy quyền hỏi ông ta về những số tiền thua bạc của Gađacđô. Gađacđô sắp sạt nghiệp rồi, họ nói. Tất cả tiền nong anh ấy kiếm được nhờ những con bò bị chiếu bạc ngốn hết! Nhưng Đông Hôxê mỉm cười khinh khỉnh:
- Năm nay chúng tôi có nhiều hợp đồng hơn tất cả mọi năm. Tiền chúng tôi kiếm được không biết làm gì cho hết. Vậy cứ để cậu ấy giải trí. Chính vì thế mà cậu ấy làm việc, mỗi người có tật nhỏ của mình... Người số một trên thế giới đấy!...
Đông Hôxê coi việc thiên hạ thán phục thái độ tỉnh khô của Gađacđô khi thua bạc như một đại thắng lợi mới cho thần tượng của ông. Một matađo không thể giống như mọi người tính toán cò kè từng xu. Chưa kể Gađacđô muốn kiếm ra bao nhiêu tiền cũng được.
Từ khi Gađacđô bắt đầu lối sống mới, anh thấy chỉ vào câu lạc bộ trên đây cũng chưa đủ. Nhiều buổi chiều, anh tới cả Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm. Câu lạc bộ này là một thứ nguyên lão nghị viện của môn đấu bò. Các đấu sĩ vào đấy rất khó khăn, vì thế các vị nguyên lão nghị viện khả kính tha hồ tỏ bày ý kiến. Vào mùa xuân và mùa hè. Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm họp trong phòng ngoài hoặc trên hè của ngôi nhà và các vị ngồi trong những ghế bành bằng cói chờ các bức điện về các cuộc đấu. Họ không tin vào nhận định của báo chí, vả lại họ cần biết tin trước khi báo ra. Lúc chập tối, các bức điện tới tay các vị từ khắp nơi trên đất Tây Ban Nha có cuộc đấu. Sau khi đọc điện với một vẻ nghiêm trang tôn giáo, các vị bắt đầu tranh luận và đặt giả thiết dựa trên những luận cứ vắn tắt của bức điện. Các vị làm việc đó một cách kiêu hãnh như làm một chức năng tôn giáo trang nghiêm. Chức năng của các vị là ngồi yên tĩnh hóng mát trước cửa, biết một cách chính xác không vì lợi ích riêng mà thổi phồng những gì vừa xảy ra chiều hôm đó ở đấu trường Binbao hoặc đấu trường Valăngxơ, biết người matađo nào được thưởng tai bò, người nào bị khán giả huýt sáo, trong lúc đồng bào của họ vẫn còn mù tịt một cách thảm hại, đành phải đi dạo ngoài phố để chờ đến lúc các báo phát hành. Khi có "chuyện vải sơn" tức là có điện báo tin một đấu sĩ cùng tỉnh với họ bị thương nặng, thì sự xúc động và tình đoàn kết của xứ Ăngđaludi khiến những vị nguyên lão nghị viện đạo mạo kia bớt kiêu kỳ đến mức thông báo cái tin bí mật quan trọng ấy cho một người bạn gặp ở ngoài phố. Lập tức tin đó lan đi tất cả các quán cà phê lân cận và không ai nghi ngờ tin đó cả vì nó nằm trong một bức điện mà Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm nhận được!... Do một sự ưu đãi không thể tưởng tượng, Gađacđô dần dần được nhận vào trong nhóm đó. Một hôm, anh đến Câu lạc bộ viện cớ để gặp người ủy quyền của mình và cuối cùng anh được ngồi cùng các vị hội viên mặc dầu trong số này có nhiều người không yêu anh vì họ đã chọn một matađo khác làm matađo của họ rồi.
Lối trang trí bên trong Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm, theo lời Đông Hôxê, là một lối trang trí "có tính cách riêng": tường cao bọc men xứ Môrơ, sạch bóng và treo những tờ áp-phích lộng lẫy quảng cáo những trận đấu bò hồi trước; đầu nhồi rơm của những con bò nổi tiếng vì đã làm chết nhiều ngựa hoặc làm bị thương một matađo danh tiếng; áo choàng diễu hành và kiếm của nhiều đấu sĩ tặng lúc cắt bỏ món tóc côlêta.
Những đầy tớ ở Câu lạc bộ mặc lễ phục hầu những ông chủ mặc quần áo nông dân, hoặc có khi chỉ mặc sơ mi trong những buổi chiều hè nóng nực. Trong tuần lễ Thánh, khi nhiều nhà hâm mộ đấu bò tiếng tăm từ khắp nơi trong nước tới dự buổi chiêu đãi họ, thì những người hầu ở Câu lạc bộ mặc chế phục màu đỏ và vàng, quần cộc chẽn, bộ tóc giả trắng toát. Ăn mặc như người hầu trong cung vua, họ bưng những khay ăn rượu manđanila đến tận tay những nhà quý phái giàu sụ mà một số lớn đã thủ tiêu cái ca-vát rồi. Buổi chiều, khi hầu tước Đờ Môraima, ông trùm của Câu lạc bộ tới, mọi người kéo ghế bành ngồi thẳng đuỗn xung quanh ông. Còn nhà nuôi bò cừ khôi kia thì ngồi trên một cái ghế cao hơn ghế mọi người, y như một thứ ngai vàng từ đó ông chủ trì cuộc nói chuyện. Bắt đầu các vị bao giờ cũng nói về thời tiết. Đa số các vị là chủ trại nuôi bò và địa chủ lớn, luôn luôn lo lắng về những nhu cầu của ruộng đất và về sự thay đổi thời tiết. Hầu tước trình bày những nhận xét của ông dựa trên kinh nghiệm ông thu thập được qua những cuộc đi ngựa liên miên trong đồng bằng Ăngđaluđi, một đồng bằng hoang vu, bát ngát thẳng cánh cò bay, trông như một cái biển cây cỏ trên đó những con bò mộng, giống như những con cá mập đang ngủ, có vẻ lượn lờ chầm chậm giữa những làn sóng cỏ. Hạn hán, một thiên tai đáng sợ đối với đồng bằng đó, là một đề tài bàn tán kéo dài mấy tối liền cho các vị hội viên Câu lạc bộ. Sau nhiều tuần lễ mong đợi, khi trời trở thành u ám và để rớt vài giọt mưa, các vị đại quý tộc nông thôn đó mỉm cười vui sướng. Trông thấy những giọt mưa to và ấm rơi lộp độp xuống mặt hè, hầu tước Đờ Môraima nói:
- Tạ ơn Chúa! Mỗi giọt mưa này đáng giá một đồng đuarô đấy!
Khi thời tiết không làm bận tâm, các hội viên Câu lạc bộ rất hay trò chuyện với nhau về gia súc và nhất là về bò mộng mà các vị nói đến một cách trìu mến, dường như giữa các vị và con vật kia có một thứ quan hệ họ hàng. Các nhà chăn nuôi rất nể ý kiến của hầu tước Đờ Môraima, vì ông giầu hơn nên có uy tín lớn. Những người hâm mộ đấu bò bình thường ít khi ra khỏi thành phố Xêvilơ, khâm phục ông khéo sản xuất được những con bò hung dữ: "Ông ấy biết nhiều thật...!". Về phần hầu tước Đờ Môraima, mỗi khi ông nói tới cuộc sống cô quạnh mà việc chăn nuôi đòi hỏi, ông tỏ ra hết sức thấm thía cái vĩ đại của vai trò của mình. Sau khi thử tính hung dữ của mười con bê, phải có đến tám chín con chỉ có thể dùng làm bò thịt. Chỉ một hai con tỏ ra can đảm trước cây garôcha và dám đương đầu với mũi sắt đó. Chúng được coi là bò đấu, được nhốt riêng để chăm sóc cẩn thận. Cẩn thận thật đấy!...
- Ta không nên xem một trại nuôi bò mộng hoang dại như một việc kinh doanh, hầu tước tuyên bố. Đó là một trò xa xỉ tốn kém. Chúng ta bán mỗi con bò mộng có đắt hơn bò thịt bốn năm lần thật đấy, nhưng giá thành của nó lại rất cao!
Ta phải trông nom các con vật ấy bất kể giờ giấc, xem xét thức ăn và nước uống của chúng, chuyển chúng từ nơi này qua nơi khác tùy theo thời tiết thay đổi. Nuôi mỗi con tốn hơn nuôi cả một gia đình! Và cuối cùng, nếu con nào đúng quy cách, ta còn phải trông nom thật kỹ cho đến phút cuối cùng để nó xứng đáng khi ra đấu trường và làm vinh dự cho cái huy hiệu lủng lẳng trên cổ nó. Ở một số đấu trường, hầu tước đã đi đến chỗ đánh nhau với chủ đấu trường và nhà đương cục, vì ông nhất quyết không chịu trao bò của ông cho họ với lý do là đội nhạc ngồi ngay ở trên chuồng bò khiến tiếng nhạc gây hoang mang cho những con vật cao quý ấy và làm cho chúng nó kém can đảm và kém cương quyết khi ra đấu.
- Nó cũng như người! ông nói với vẻ trìu mến xúc động. Chỉ có cái là nó không biết nói!
Rồi ông kể chuyện con Lôbitô, một con cabextơrô già mà ông sẽ không bao giờ bán, dù người ta có đem cả thành phố Xêvilơ lẫn cái tháp Giranđa để trả cho ông. Mỗi khi ông phóng ngựa qua cánh đồng cỏ mênh mông tới chỗ trông thấy đàn bò trong đó có cái của báu kia, ông chỉ cần kêu lên một tiếng "Lôbitô" là con vật chú ý ngay. Lập tức nó rời các con bạn, chạy lại chỗ chủ nó, bằng cái mõm hiền lành làm ướt đôi ủng của ông khi ông đang ngồi trên lưng ngựa; tuy thế nó lại là một con vật có sức mạnh ghê gớm khiến mọi con bò mộng đều kiềng nó. Ông xuống ngựa, rút ở trong đẫy ra một miếng sôcôla cho con Lôbitô ăn. Con vật biết ơn ông bèn lúc lắc cái đầu có cặp sừng to tướng.
Sau đó hầu tước vịn tay vào cổ nó, yên ổn bước đi giữa đàn bò mộng xôn xao, lo ngại và sợ hãi vì thấy người lạ. Ông không lo gì cả, vì con Lôbitô đi bên cạnh như một con chó lấy thân nó che cho chủ và nhìn tứ phía để làm cho những con bạn ghê gớm của nó phải kiềng nể. Nếu có con nào táo gan lại gần đánh hơi người lạ mặt thì lập tức gặp cặp sừng đe dọa của con Lôbitô; hoặc, nếu có những con vụng về do nặng nề đứng ngáng lối đi, con Lôbitô vươn cái đầu vũ trang của nó ra và bắt bọn kia phải nhường chỗ.
Khi hầu tước thuật lại những thành tích của một số con vật từ trại ông xuất ra, sự hào hứng và âu yếm làm cho ông xúc động đến nỗi cái mép cạo nhẵn nhụi và chòm râu bạc của ông rung lên.
- Bò mộng, quả là con vật cao quý nhất đời! Ông nói. Nếu con người ta mà giống nó thì mọi việc trên đời sẽ tốt đẹp hơn. Ví dụ con Côrônen mà các vị trông thấy ảnh ở chỗ kia. Các vị còn nhớ báu vật đó không?
Ông lấy tay chỉ một bức ảnh chụp cỡ lớn, đóng khung rất kịch sự, trong có hình của ông mặc quần áo dân miền núi, trẻ hơn bây giờ nhiều ở giữa mấy em bé gái mặc toàn đồ trắng. Họ ngồi giữa một cánh đồng cỏ, trên một khối đen đen có hai cái sừng nhô lên. Cái ghế dài mờ mờ, nom không rõ ấy chính là con Côrônen. Nó to kếch xù và hay gây gổ với những con bò cùng đàn, trái lại nó rất mến và vâng lời ông chủ nó và các người trong gia đình ông. Nó giống những con chó giữ nhà, hung dữ với người lạ nhưng để trẻ con trong nhà kéo đuôi, kéo tai và làm đủ trò ma quái chỉ gừ gừ một cách hiền lành. Các em bé gái ngồi trên con Côrônen là con của hầu tước. Con Côrônen hít hít những cái áo dài nhỏ của các em. Các em lúc đầu còn sợ hãi bám lấy chân bố thế mà sau dám gãi mõm con vật với sự bạo dạn đột ngột của tuổi thơ.
Một hôm, sau nhiều lần ngần ngại, hầu tước quyết định bán con Côrônen cho đấu trường Pămpơlunơ và đi dự cuộc đấu! Chao ôi! Sau này, mỗi khi hầu tước thuật lại chuyện xảy ra hôm đó, hai mắt ông lại đẫm lệ! Suốt đời chưa bao giờ ông thấy một con bò mộng nào xử sự như con Côrônen. Nó hiên ngang bước vào bãi đấu và đứng đàng hoàng ở chính giữa, chói mắt dưới ánh mặt trời vì mới ở trong chuồng tối tăm ra, ngạc nhiên trước tiếng lao xao của hàng vạn con người sau khi ở trong khu nhốt im ắng. Nhưng một picađo vừa mới làm sướt bướu cổ của nó, nó làm toàn thể đấu trường sôi lên vì cơn tức giận hào hùng của nó.
Trước mặt nó lúc bấy giờ chẳng còn người, còn ngựa, còn cái gì hết! Trong khoảng khắc nó quật ngã tất cả các con ngựa, hất tung lên trời các chú picađo.
Các đấu sĩ chạy lung tung, bãi đấu hỗn loạn như khi người ta đóng dấu sắt ở đó. Công chúng yêu cầu đưa ngựa khác vào và con Côrônen chờ địch thủ lại gần mới cho một đòn. Hễ bị khiêu khích là nó xông đến, tấn công một cách anh hùng làm cho mọi người khâm phục nó sát đất.
Khi kèn trống nổi lên, báo hiệu giai đoạn hạ sát đã đến, mặc dù bị tới mười bốn mũi giáo và toàn bộ banđêri cắm vào cổ, nó vẫn hùng dũng như vừa mới ở đồng cỏ ra. Thế là...
Bao giờ kể đến đây nhà chăn nuôi cũng phải dừng lại để sửa giọng run rẩy cho rắn rỏi lại.
Thế là hầu tước Đờ Môraima lúc đó đang ngồi trong một ghế lô, không biết làm thế nào chạy được đến sau hàng rào, giữa bọn lao công đang cuống quít. Ông tới bên người matađo đang từ từ chuẩn bị mulêta như muốn hoãn giây phút phải đương đầu với một địch thủ đáng gờm đến thế. "Côrônen!", hầu tước vừa kêu vừa cúi xuống lấy tay đập đập mạnh vào ván hàng rào. Con vật lúc đó đang đứng yên tại chỗ, nhưng nghe thấy tiếng kêu nhắc nó nhớ lại cái miền đất xa xôi mà nó sẽ không bao giờ trở lại nữa, nó ngửng phắt đầu lên. "Côrônen!", hầu tước lại kêu lên. Con vật ngoảnh đầu lại, trông thấy người vừa gọi nó ở hàng rào, thế là nó phóng một mạch đến chỗ ông. Nhưng chạy được nửa đường thì nó ngừng chạy và nhẹ nhàng bước tiếp cho đến khi sừng nó chạm vào hai cánh tay giơ ra về phía nó. Ức của nó thấm máu tươi đang chảy ròng ròng từ những lỗ thủng trên bướu cổ. Da nó bị rách nhiều chỗ để lộ những bắp thịt xanh lơ.
"Côrônen, con ơi!", hầu tước nói. Con bò hình như hiểu biểu hiện âu yếm đó, nó nghển mõm lên, rãi của nó làm ướt bộ râu bạc của nhà chăn nuôi, đôi mắt sáng của nó hằn những tia máu có vẻ nói: "Tại sao ông lại đem con đến đây!". Thế là hầu tước chẳng còn biết mình làm gì nữa, cúi xuống hôn liên tiếp vào hai lỗ mũi con vật hãy còn ướt sũng hơi thở căm tức!
"Đừng giết nó!" một người tốt bụng kêu to trên khán đài. Và hình như lời nói đó diễn tả tình cảm chung của khán giả, nên mọi người ồ lên từ khắp nơi trong khi hàng nghìn cái khăn tay vẫy phấp phới trên các bậc ngồi, như một đàn chim bồ câu bay lượn.
"Đừng giết nó!". Lúc đó công chúng xúc động, chẳng kể gì đến thú vui của mình nữa, ghét người đấu sĩ xuất sắc và vẻ anh hùng vô tích sự của anh, khâm phục sự dũng cảm của con vật và nhận thấy rằng trong biết bao nhiêu sinh vật có lý trí kia thì đại diện cho sự cao quý và tình nghĩa chính là con vật tội nghiệp.
- Tôi đem nó về, hầu tước cảm động kết luận. Tôi hoàn lại cho ông giám đốc đấu trường hai nghìn đồng pêxêta. Nếu cần đem cả gia tài của tôi để trả chắc tôi cũng sẽ làm. Sau một tháng nghỉ ngơi ở trong đồng cỏ, con Côrônen hồi phục, ngay vết tích ở trên bướu cổ cũng không còn. Tôi hy vọng con vật hào hiệp đó sống đến già, nhưng ở trên thế gian này những ai tốt nhất thường ít gặp may nhất! Một con bò mộng hiểm độc, không dám nhìn thẳng vào mặt nó, đã húc chết nó một cách phản phúc.
Hầu tước Đờ Môraima và những nhà chăn nuôi khác chuyển nhanh chóng từ chuyện thương yêu bò mộng sang chuyện kiêu hãnh về tính hung dữ của nó. Các vị nói một cách khinh bỉ về những ai ghét đấu bò, về những ai lên giọng chống nghệ thuật đấu bò với danh nghĩa bảo vệ súc vật. Các vị nói: "Đó là những cái điên rồ của những người ngoại quốc! Những cái sai lầm của người ngu dốt nhìn con vật chỉ thấy cặp sừng và nhầm lẫn con bò thịt với con bò đấu! Bò mộng Tây Ban Nha là một con vật hung dữ, uy dũng nhất đời...". Và các vị kể lại những cuộc đánh nhau giữa bò mộng và dã thú lớn, bao giờ con vật dân tộc cũng thắng lợi vẻ vang.
Hầu tước cười khi nhớ đến một con bò khác của ông. Một đấu trường định tổ chức một cuộc đấu của một con bò mộng với một con sư tử và một con hổ. Hầu tước đưa tới con Barabax, một con bò mộng có tật mà ông đã phải tách khỏi các con khác ở đồng cỏ, vì nó hay húc chúng và làm chết một số...
- Và chính mắt tôi đã trông thấy tình hình diễn ra như thế này, hầu tước kể. Con Barabax bị nhốt trong một cái cũi sắt to, đặt ở chính giữa bãi đấu. Đầu tiên người ta thả một con sư tử vào. Con thú dữ đáng nguyền rủa đó biết rằng con bò mộng không tinh quái bèn nhảy ngay lên mông nó và lấy vuốt và răng cấu xé nó. Con Barabax tức giận, lồng lên để hất con sư tử xuống, đặt con sư tử vào tầm húc của sừng mình. Nó lồng lộn một lúc thì nó lẳng được con sư tử xuống trước mặt nó và nó móc sừng vào. Thế rồi!... Ôi chà chà, thưa các vị, con sư tử chẳng khác nào quả bóng trong một trận đấu bóng chuyền!... Trong một lúc lâu, con bò cứ hất nó từ sừng này qua sừng kia, lắc nó như lắc một con rối rồi cuối cùng, với vẻ khinh bỉ, lẳng nó vào một xó khiến con thú dữ mà người ta gọi là chúa tể của các giống vật, nằm co dúm và bất động như một con mèo bị đánh. Hồi thứ hai còn nhanh hơn cả hồi đầu khi con hổ vừa mới xuất hiện trong chuồng, con Barabax lập tức húc nó, tung nó lên trời rồi sau khi làm cho nó nhảy nhót ra trò, cũng quẳng nó vào một xó như con sư tử. Sau đó con Barabax quá ưa đùa nhả, đi đi lại lại rồi ị ngay trên mình hai con ác thú. Các câu chuyện trên đây bao giờ cũng làm cho các hội viên Câu lạc bộ Bốn mươi lăm cười vang. Trong tiếng cười vui vẻ pha lẫn cả lòng kiêu hãnh về đất nước mình, dường như giá trị của gia súc Tây Ban Nha cũng chứng minh sự ưu việt của quốc gia này so với tất cả các quốc gia khác trên thế giới.
Trong khi đó, gia đình Gađacđo ở tại trại Rinhcônađa. Bà Aoguxtiax, sau những ngày nghèo khổ sống trong những căn nhà tồi tàn tại Xêvilơ rất yêu cuộc sống thôn dã. Cacmen cũng thích ở nông thôn. Tính hay lam hay làm của chị khiến chị trông nom cẩn thận công việc của các đầy tớ. Chị thưởng thức cái thú có vườn, có đất rộng rãi. Hơn nữa, các con của bác thợ yên ngựa, những đứa cháu lấp chỗ trống do sự không sinh nở tạo ra ở quanh chị đang cần có không khí ruộng đồng. Về phần anh matađo, khi bảo vợ và mẹ về trại ở, anh hứa rằng ít lâu sau anh cũng sẽ về đó với họ. Nhưng anh viện đủ mọi lý do để lần chần, và anh sống ở nhà anh trong thành phố một mình với người hầu là Garabatô. Cuộc sống độc thân ấy giúp anh được hoàn toàn tự do đi lại với Đônha Xôn.
Cùng cưỡi những con ngựa nhanh nhẹn và ăn mặc như trong ngày hội thử bò dạo trước, Gađacđô và Đônha Xôn đi xem bò ở những đồng cỏ gần Xêvilơ hoặc "thử" những con bò non trong các trại của hầu tước Đờ Môraima, khi thì đi riêng, khi thì có cả Đông Hôxê đi theo để tránh tiếng. Đônha Xôn rất mê nguy hiểm, mỗi khi được đâm garôcha nàng mừng quýnh lên và nhiều khi con vật không chạy trốn lại quay lại tấn công nàng khiến Gađacđô phải chạy tới cứu.
Nhiều lần khác, khi có tin sắp có một cuộc "cho bò vào cũi" để các đấu trường tổ chức những trận đấu đặc biệt kết thúc mùa đấu vụ đông, hai người bèn đi ra ga Anhpamê.
Đônha Xôn tò mò ngắm kỹ nơi trung tâm xuất khẩu quan trọng nhất của công nghiệp bò mộng. Ở đấy, có những sân rộng thênh thang nằm sát đường xe lửa và những thùng gỗ kếch xù màu xám với hai cửa mở đóng bằng rãnh soi xếp thành hàng mấy chục cái trên bánh xe để chở lên đường, nghĩa là chờ những trận đấu mùa hè. Những thùng đó đã đi khắp bán đảo, mang theo những con bò mộng hoang dại tới những thành phố xa xôi nhất, rồi lại trở về rỗng không để lấy những con khác. Mưu mẹo của người nghĩ ra và tài khéo của những kẻ trong nghề khiến những con vật hung dữ quen sống tự do ngoài đồng nội trở thành dễ bảo y như một hàng hóa thông thường.
Những con bò định chở bằng xe lửa bị thúc chạy thật nhanh đến địa điểm quy định dọc theo một con đường rộng thênh thang và bụi bặm, giữa hai hàng rào dây thép gai. Chúng từ những cánh đồng cỏ xa xôi tới và khi đến gần Anhpamê, người ta bắt chúng chạy như điên để dễ lừa chúng.
Đi đầu là những người chăn bò phóng ngựa như bay, cây giáo đặt trên vai, rồi đến những con cabextơrô khôn ngoan chạy theo để bảo vệ họ bằng những cặp sừng kếch xù. Sau đó là những con bò chiến hung dữ bị đưa tới chỗ chết, được "bao bọc" cẩn thận", nghĩa là vây quanh chúng có những con bò nuôi dạy thuần thục ngăn chúng không thể rời khỏi đường đi, và những người chăn bò khỏe mạnh tay cầm súng cao su sẵn sàng bắn đá trăm phát trăm trúng vào sừng của con nào định bỏ đàn.
Tới sân ga, những người cưỡi ngựa đi đầu tách ra dừng lại ở ngoài còn tất cả đàn bò, như một cơn mưa bụi bặm, xen lẫn tiếng chân chạy, tiếng rống và tiếng nhạc bò, lao ầm ầm vào trong sân; người ta vội vàng đóng cửa sau khi con bò cuối cùng chạy qua. Những con cabextơrô có nhiều kinh nghiệm và biết nghe lời người chăn bò lập tức tránh sang hai bên ngay sau khi vượt khỏi cửa để cho đàn bò mộng chạy sau chúng lọt qua không bị cản.
Một số người ngồi trên bờ tường hoặc đứng trên ban công, hò hét hoặc vẫy mũ dạ kích đàn bò mộng. Chúng chạy qua cái sân thứ nhất mà không hề biết rằng chúng đã bị cầm tù, vẫn tưởng mình có thể tự do phóng mãi như ở giữa cánh đồng. Rồi chúng dừng lại, ngạc nhiên ngơ ngẩn thấy trong sân thứ hai có một bức tường chắn ở trước mặt và cửa sau lưng chúng đã đóng.
Khi đó việc "đóng cũi" bắt đầu. Người ta vung vẫy những mảnh vải, hò hét và đâm garôcha để đưa từng con vào một hành lang ở giữa để cái thùng vận chuyển với hai cửa ngỏ. Cái thùng này giống một đường hầm nhỏ, ở đầu đằng kia người ta trông thấy một khoảng trống - một cái sân khác đầy cỏ mọc - và những con cabextơrô đang bình yên gặm cỏ. Con bò mộng bị hình ảnh của cánh đồng cỏ lôi cuốn. Nó chậm chạp đi vào hành lang như đánh hơi sự nguy hiểm. Nó ngần ngại đặt chân lên cái cầu gỗ bắc chênh chếch để lối vào thùng đặt trên bánh xe khỏi cao quá. Nó nghi ngờ con đường hầm nhỏ mà nó phải đi qua; nhưng những người đứng trên ban công cứ đét mãi vào đít nó bắt nó phải bước tiếp. Nó trông thấy hai hàng người cúi rạp trên các bao lơn huýt sáo và vỗ tay để thúc giục nó. Từ trên mái thùng mấy bác thợ mộc đang nấp để chờ làm sập cánh cửa, một lá cờ đỏ rủ xuống, uốn lượn trong cái khuôn cửa sáng ngời hình chữ nhật. Bị quấy phá, bị hò hét và bị mảnh vải đỏ rực múa may trước mắt như thách thức, đồng thời trông thấy nhiều con bò khác đang bình yên gặm cỏ ở cuối lối đi đáng ngại, cuối cùng nó quyết định: nó lao mình để vượt qua đường hầm nhỏ, làm rung mạnh cầu ván ở dưới chân. Nhưng nó vừa bước vào trong cái thùng là cửa trước mặt sập xuống đồng thời cửa sau cũng đóng lại rất nhanh khiến nó không kịp lùi. những bản lề vững chắc rít lên, bóng tối và im lặng bao phủ con vật bị nhốt trong thùng chật hẹp khiến nó chỉ có thể nằm gập bốn chân. Từ một cái cửa sạp ở trên mái, người ta ném hàng vốc rạ xuống cho nó. Người ta đẩy phòng giam lưu động có bánh xe ấy ra xe lửa. Rồi người ta đặt một cái thùng khác vào trong hành lang và việc đánh lừa diễn lại cho đến khi tất cả các con bò đều được "đóng gói" để gửi đi.
Vốn mê say "màu sắc địa phương", Đônha Xôn khâm phục phương pháp cho vào cũi này của nền đại công nghiệp nước nhà và rất muốn bắt chước những người dẫn bò. Nàng yêu đồng ruộng và nơi khoáng đãng. Trong tâm hồn của nàng xao xuyến cảm tình đối với cuộc sống của mục đồng, vì chúng ta ai chẳng mang sẵn tình cảm đó trong lòng như một di sản thừa hưởng của các tổ tiên xa xôi, vào cái thời con người chưa biết khai thác lòng đất nên phải sống dựa vào các đàn gia súc. Làm mục đồng, làm mục đồng để chăn một loại gia súc hoang dại, đó là cái nghề thú vị nhất và anh hùng nhất trong con mắt của Đônha Xôn. Điều đó không khỏi làm cho Gađacđô hơi ngạc nhiên đôi chút vì anh đã bắt đầu tỉnh giấc mê say ban đầu. Đôi khi anh tự hỏi không biết tất cả các phu nhân quý tộc có giống Đônha Xôn hay không. Anh chẳng hiểu gì về những cái thích lạ lùng của người phụ nữ ấy, vì tính khí thất thường của nàng. Anh không dám xưng hô anh em với nàng. Không bao giờ nàng mời mọc anh trước công chúng bằng lời ăn tiếng nói thân thiết như vậy. Một hôm, anh vừa mới ngập ngừng "anh anh em em" thì lập tức cặp mắt màu vàng óng của nàng lộ vẻ ngạc nhiên ghê gớm đến nỗi anh thẹn đỏ mặt và từ đó không bao giờ nói như thế nữa. Còn nàng, nàng giống như các ông bạn đại quí tộc của anh, chỉ xưng hô thân mật với anh vào lúc chỉ có hai người mà thôi. Những khi nàng cần viết cho anh mấy chữ, ví dụ để báo tin nàng sắp vắng nhà và anh không nên đến thì nàng gọi anh bằng "ông" và chỉ dù những câu nói lịch thiệp lạnh nhạt như cách nói của người trên đối với kẻ dưới.
- Tức mình với cô ả này thật! Gađacđô lẩm bẩm bực bội. Nó làm như xưa nay nó chỉ quan hệ với những thằng vô lại giở thư của nó cho mọi người xem. Nó sợ mình à? Hay là nó tưởng rằng người matađo không biết phong nhã đối với phụ nữ.
Ngoài lòng tự ái đó, Gađacđô còn có một lý do cụ thể hơn để cáu kỉnh và buồn phiền. Bây giờ, nhiều khi đến nhà nàng, anh thấy mấy người đầy tớ cao lớn ăn mặc như ông hoàng cản anh lại và lạnh lùng dằn từng tiếng nói với anh: "Phu nhân không tiếp khách được. Phu nhân đi vắng rồi". Nhưng Gađacđô đoán rằng đó chỉ là lời nói dối và anh có linh cảm rằng Đônha Xôn đang có mặt trong một phòng cạnh đấy, bên kia cánh cửa. Chắc hẳn nàng đã chán anh và chính vì thế thế mà đột nhiên, vào giờ viếng thăm thường lệ, nàng đã ra lệnh cho đầy tớ không cho anh vào.
- Lửa tình đã tắt! - anh chàng matađo thở dài rút lui - Mình sẽ không lại nữa. Rõ ràng con bé này không thích mình nữa.
Gia đình Gađacđô trở về thành phố để dự hội hè trong Tuần lễ thánh. Anh sẽ phải tham gia những trận đấu tổ chức trong dịp lễ Phục sinh. Đã nhiều lần, hoặc từ Mađrit, hoặc từ nhiều nơi khác, khi ở đấu trường ra anh matađo đã đánh điện cho cả Đônha Xôn lẫn Cacmen: "Không có gì mới". Nhưng đây là lần đầu tiên, anh sắp đấu trước mắt người phụ nữ đại quí tộc kia kể từ khi anh biết nàng, vì thế anh lo ngại, kém tự tin. Hơn nữa chẳng bao giờ đấu ở Xêvilơ mà anh không hồi hộp ít nhiều. Tại một đấu trường nào khác trên đất Tây Ban Nha, anh có thể chấp nhận một thất bại vì lẽ còn lâu anh mới trở lại nơi đó; nhưng ở nơi chôn rau cắt rốn, nơi anh có nhiều kẻ thù lợi hại nhất, không lẽ...
- Mọi người sẽ xem cậu có xuất sắc không đấy, ông Ủy quyền của anh nói. Cậu nên nhớ rằng mọi người sẽ theo dõi cậu. Tôi nghĩ cậu vẫn là người số một trên thế giới!...
Ngày thứ bảy Sáng danh Thiên Chúa, lúc đêm đã khuya, người ta tiến hành việc enxierô những con bò sắp đem đấu. Đônha Xôn muốn tham gia công việc đó với tư cách người vác giáo, một công việc thú vị ở chỗ thực hiện trong đêm tối. Đó là việc dẫn bò từ đồng cỏ Tablađa đến chuồng của nó ở đấu trường. Mặc dầu Gađacđô rất muốn đi cùng người yêu, cuối cùng anh phải để nàng đi một mình, vì Đông Hôxê nhất quyết phản đối với lý do là anh phải nghỉ ngơi để hôm sau ra đấu trường được tỉnh táo, khỏe mạnh.
Lúc nửa đêm, con đường từ đồng cỏ đến đấu trường nhộn nhịp như hội chợ. Trong các biệt thự, qua những cửa sổ sáng đèn, người ta thấy những bóng người ôm nhau khiêu vũ trong tiếng dương cầm. Ở các quán ăn, cửa mở rộng hắt xuống mặt đất những hình vuông đỏ chói và từ trong phòng vang lên tiếng cười, tiếng la, tiếng hòa âm của đàn ghi ta, tiếng cốc va chạm lanh canh làm người ta có thể đoán rằng rượu đang rót tràn trề.
Vào khoảng một giờ sáng, một kỵ sĩ xuất hiện cho ngựa đi nước kiệu nhỏ trên đường cái. Đó là "người báo hiệu", một người chăn bò cục mịch, anh ta dừng lại ở trước các quán ăn và các biệt thự có ánh đèn, thông báo mười lăm phút nữa thì đàn bò sẽ đi qua, vì vậy mọi người phải tắt đèn và im lặng hoàn toàn. Thông báo đó, phải đi nhân danh ngày hội dân tộc, được mọi người tuân hành nhanh chóng hơn cả lệnh của nhà cầm quyền. Mọi nhà tối om, không còn ai phân biệt được màu vôi trắng của nó với khối đen xì của cây cối. Không nói một tiếng, mọi người tụ tập sau các cổng sắt, sau các hàng rào và các bức rèm, xúc động như đang chờ đón một cái gì khác thường lắm. Trên các lối đi bên bờ sông, hễ tiếng hô của người báo tin bay tới đâu là đèn khí tắt đến đó.
Từ lúc này, khắp nơi im lặng hoàn toàn. Các vì sao lấp lánh ở trên ngọn cây, còn ở sát mặt đất tai người có thể nghe thấu một tiếng động yếu ớt, một sự đụng cựa nhè nhẹ, như vô vàn côn trùng chén nhau trong bóng tối. Những khán giả vô hình có vẻ sốt ruột chờ đợi.
Cuối cùng, ở đằng xa nổi lên tiếng nhạc ngựa, nhạc bò nghiêm trang, nó to lên rất nhanh rồi thành ầm ĩ hòa vào tiếng lồng chạy hỗn độn làm rung chuyển mặt đất. Đầu tiên, vài kỵ sĩ, trông to lớn dị thường trong đêm tối, phóng qua rất nhanh, cây giáo cầm chúc xuống đất. Đó là mấy người chăn bò. Tiếp đến một nhóm người vác giáo không chuyên nghiệp trong đó có Đônha Xôn. Cuộc phóng ngựa ban đêm tối làm nàng hồi hộp vì nếu con ngựa trượt chân là người cưỡi nó chết bẹp ngay dưới móng chân rắn như đá của đàn bò hoang dại đang chạy tới phía sau với tốc độ điên cuồng. Rồi đến một trận mưa đá cuội rào rào làm mặt đường bụi mù; những con bò mộng chạy qua như hình ảnh một cơn ác mộng; những quái vật xuất hiện trong đêm tối ấy là những khối thịt khổng lồ run rẩy, nặng nhưng nhanh, thở phì phò và rống kinh khủng, húc sừng vào bóng tối, vừa sợ hãi vừa tức giận vì bị tiếng la hét của những người có bò chạy bộ theo sau và tiếng vó ngựa của những kỵ sĩ chặn hậu lấy giáo chọc phá chúng.
Cơn lốc nặng nè ầm ĩ ấy lướt qua trong một phút. Sau đó, không còn có gì để xem nữa. Công chúng thỏa mãn về cảnh tượng vừa diễn ra rất nhanh, rời khỏi nơi ẩn nấp và nhiều người hào hứng chạy theo đàn bò, hy vọng đến kịp để xem chúng vào chuồng.
Tới đấu trường, các kỵ sĩ tránh sang một bên, để chỗ cho bò qua. Những con bò mộng, đang trên đà chạy và đã quen đi theo với những con cabextơrô, bèn chui vào hành lang làm bằng hai dãy hàng rào dẫn tới khu chuồng bò.
Những người cầm garôcha không chuyên nghiệp rất khoái về kết quả của việc enxierô đêm nay. Không có con nào rẽ ngang gây phiền phức cho những người cầm giáo và coi bò. Đó là những con vật thuộc giống tốt nhất trong trại của hầu tước. Ngày mai, nếu các matađo biết giữ danh dự cho nghệ thuật của họ, khán giả sẽ được xem những cái tuyệt vời. Các kỵ sĩ và các người đi bộ ra về tin rằng sẽ có những trận đấu xuất sắc và khu đấu trường trở thành vắng lặng hoàn toàn trong khi các con bò mộng nằm yên trong chuồng ngủ giấc cuối cùng của đời chúng nó.
Sáng hôm sau, Gađacđô dậy sớm. Một nỗi lo ngại làm cho anh ngủ không yên và hay mê hoảng. Trời ơi! sao người ta lại yêu cầu anh đấu ở Xêvilơ nhỉ. Ở những nơi khác, anh sống trong những ngày độc thân trong một căn phòng khách sạn, có thể tạm thời quên gia đình: vì cái phòng trọ ấy "không nói lên cái gì cả", không chứa một vật gì thân thiết đối với anh. Trái lại, khi mặc bộ quần áo đấu ngay tại phòng ngủ ở nhà mình, con mắt anh nhìn vào đâu cũng thấy những vật nhắc tới Cacmen. Đi tới nơi nguy hiểm lúc bước ra khỏi nhà này, cái nhà mà chính anh đã cho xây, cái nhà chứa tất cả những gì quý nhất đối với anh, điều đó làm cho anh ngơ ngẩn lo lắng y như anh sắp đi đấu lần đầu tiên trong đời. Tâm tư anh cảm thấy nặng nề khi anh bước xuống cái sân vắng ngắt, sau lúc Garabatô đã giúp anh mặc bộ quần áo diễu hành. Các cháu bé của anh đến bên anh, nhút nhát vì thấy những vật trang trí lộng lẫy trên bộ quần áo của cậu: chúng sờ tay vào với vẻ kính phục, không dám cất tiếng. Anhcacnaxiông hôn anh với vẻ mặt hoảng hốt dường như anh đi đến cõi chết, mẹ anh trốn vào trong một gian phòng tối, bà không muốn trông thấy anh và lo lắng đến phát ốm. Còn Cacmen thì tỏ ra can đảm hơn nhưng mặt chị tái nhợt, chị mím chặt môi, chớp chớp hàng mi một cách bồn chồn, mặc dầu chị cố làm ra vẻ bình tĩnh. Gađacđô vừa mới bước ra phòng ngoài, chị đã đưa khăn tay lên thấm nước mắt, người run bần bật, thở dài và khóc nức nở, trong khi bác Anhcacnaxiông và các phụ nữ khác cuống quýt xúm quanh chị và dìu đỡ chị lúc này gần như ngất đi.
- Khổ quá! Gađacđô nói - Mình sẽ không đời nào đấu ở Xêvilơ, nếu không phải vì mình muốn mua vui cho những người đồng hương và làm cho những kẻ trâng tráo chỉ trích mình không dám bảo mình sợ khán giả xứ mình!
Vì thế cho nên hôm đó Gađacđô dậy thật sớm, đi ra đi vào khắp nơi trong nhà, miệng ngậm điếu thuốc lá, vươn vai để xem đôi cánh tay khỏe của mình còn nhanh nhẹn hay không. Anh vào bếp rót một cốc rượu cađala và thấy bà Aoguxtiax ở đó. Mẹ anh vốn tính luôn tay luôn chân mặc dầu đã có tuổi và bụng phệ, đang lăng xăng quanh bếp lò, trông coi mấy chị đầy tớ, cắt đặt một cách nhanh nhẹn và hiền từ mọi công việc trong nhà. Rồi anh bước ra cái sân mát mẻ, sáng sủa. Trong lồng son, những con chim nhẩy nhót và hót líu lo trong bầu không khí thanh bình của buổi sáng. Ánh nắng tràn ngập những phiến cẩm thạch lát và rắc vàng lên những cây cảnh xanh tươi trồng quanh bể nước phun lên cái bồn nước có những con cá vàng lấy miệng tròn tròn nhỏ xíu nhả tăm.
Tại đây, Gađacđô trông thấy một người đàn bà mặc đồ tang, quỳ dưới đất cạnh một xô nước và cọ sân bằng một cái giẻ ướt làm cho màu cẩm thạch của các hòn gạch nổi hẳn lên. Bác ta ngẩng đầu lên:
- Xin chào ông Huan! Bác với với vẻ thân mến thường thấy của dân chúng đối với thần tượng của họ. Và, bác nhìn anh một cách khâm phục với con mắt duy nhất còn lại của bác. Gađacđô không trả lời, quay ngoắt vào trong bếp và gọi bà Aoguxtiax:
- Mẹ ơi, người đàn bà nào thế mẹ, cái mụ chột tóc hung đang cọ sân ấy.
- Con muốn là ai cơ chứ hả con? Bác ta rất thật thà. Người vẫn cọ thuê cho nhà ta bị ốm, mẹ thấy bác này túng bấn, nhà lại đông miệng ăn nên mẹ cho gọi đến để thay người kia.
Nhưng Gađacđô vẫn lo ngại, ánh mắt anh lộ vẻ bối rối sợ hãi. "Khổ thật! - anh lẩm bẩm - mình đấu ở Xêvilơ thế mà người đầu tiên mình chạm trán lại là một mụ chột! Cái trò này chỉ xảy ra với mình anh thôi. Gặp như vậy thật là điềm xấu nhất hạng. Hay là người ta mong cho anh chết?".
Bà mẹ tội nghiệp mất vía khi thấy con trai đoán gở và hết sức bực dọc, bèn tìm cách trấn tĩnh anh:
- Bác ấy đời nào lại nghĩ như vậy! Bác ấy cần kiếm hai mươi xu cho con cái. Mình nên có lòng tốt và tạ ơn Chúa đã thương mình thoát cảnh nghèo đói như bác...
Bà Aoguxtiax liên hệ đến những năm túng thiếu đã qua làm cho Gađacđô thông cảm với hành động từ thiện của mẹ hơn và yên tâm được một chút. Thôi được ! Thôi được ! Mụ chột cứ ở lại. Nếu xảy ra chuyện gì cũng là do ý Chúa!...
Gađacđô lại đi qua sân, quay lưng lại để khỏi trông thấy người đàn bà gieo tai họa, và anh trốn vào phòng làm việc sát phòng ngoài.
Phòng làm việc này có những bức tường trắng tinh phủ một lớp gạch men Môrơ đến ngang đầu người và treo nhiều tờ áp phích về đấu bò in nhiều màu trên lụa. Những bằng khen của các hội thiện mang những tên hoa mỹ đập vào mắt người xem và nhắc tới những trận đấu làm phúc không lấy thù lao của Gađacđô. Vô số chân dung của người matađo "bậc thầy", cái thì chụp đứng, cái thì chụp ngồi, đang vung áo choàng hoặc đang chuẩn bị hạ bò mộng, chứng tỏ rằng các báo đã ghi lại rất kỹ diện mạo và nhiều tư thế khác nhau của bậc vĩ nhân. Ở phía trên cửa ra vào, treo bức chân dung của Cacmen chùm khăn choàng trắng làm nổi bật cặp mắt nhung và mái tóc huyền gài mấy bông cẩm chướng đỏ thắm.
Đối diện với cửa ra vào, ở phía trên cái ghế bành kê sát bàn giấy, một cái đầu bò mộng đen thui và to tướng, với đôi mắt bằng thủy tinh, hai lỗ mũi quang dầu bóng nhẫy, một vệt lông trắng trên trán, cặp sừng kếch sù nhọn hoắt, màu trắng ngà ở dưới cuống nhưng sẫm dần cho đến khi thấy đen như mực ở trên đỉnh có vẻ chủ tọa những vật dùng để trang hoàng gian phòng. Khi chú picađo Pôtagiê ngắm nghía cặp vũ khí đáng sợ ấy của con vật, thế nào chú cũng phải nêu lên một hình ảnh nên thơ theo kiểu của chú: "Cặp sừng choãng đến mức con sáo hót ở đỉnh sừng bên này mà ta không nghe thấy tiếng nó ở đỉnh sừng bên kia". Gađacđô ngồi xuống gần một cái bàn lịch sự la liệt đồ đồng đen chỉ hơi không nghiêm chỉnh ở chỗ nó bị một lớp bụi phủ từ lâu ngày. Trên cái bàn giấy vĩ đại này có hai con ngựa bằng kim loại dùng để trang trí và một lọ mực cạn. Vài quản bút sang trọng, nắp hình đầu chó, không có ngòi. Không bao giờ vĩ nhân của chúng ta cần viết. Đông Hôxê mang đến câu lạc bộ ở phố Rắn cho anh những tờ hợp đồng và những giấy tờ chuyên môn khác đã thảo sẵn. Và ngay trong lúc ấy, anh ra một cái bàn nhỏ viết rất chậm chạp chữ ký rắc rối của anh.
Ở bên trái phòng kê một cái tủ sách to bằng gỗ sồi có cửa kính bao giờ cũng đóng để lộ hàng dẫy sách khổ to, gáy bóng loáng trông rất đáng kính nể. Khi Đông Hôxê bắt đầu gọi người matađo của mình là "người matađo của từng lớp quý tộc", Gađacđô hiểu rằng anh phải học để xứng đáng với danh hiệu ấy, để các bạn bè quyền quý của anh khỏi cười anh dốt nát như nhiều đấu sĩ khác. Vì thế một hôm anh đã vào hiệu sách và kiên quyết ra lệnh:
- Ông đem đến cho tôi năm nghìn đồng bạc sách nhé!
Ông chủ hiệu sách ngẩn ngơ tưởng mình nghe nhầm.
- Đúng thế đấy, năm nghìn đồng bạc sách, ông nghe rõ chưa? Gađacđô hăng hái nhắc lại. Những sách khổ to ấy nhé và đóng gáy mạ vàng cho tôi.
Gađacđô khoái chí thấy tủ sách của mình ra vẻ lắm. Khi ở câu lạc bộ có người nói đến điều gì mà anh không biết, anh mỉm cười làm bộ tỏ tường và tự nhủ:
"Điều đó chắc chắn có trong tủ sách nhà mình".
Một buổi chiều, nhân lúc thấy trong người hơi khó chịu và rỗi rãi, anh bèn mở tủ sách và kính cẩn lôi ra một cuốn sách dày cộp nhất. Nhưng ngay từ những dòng đầu anh đành bỏ không đọc nữa và quay ra lật các trang như một em bé thích xem ảnh. Nào sư tử, nào voi, nào ngựa có bờm bù xù và mắt nẩy lửa, nào lừa vằn mình có vệt dài nhiều màu và đều đặn như kẻ bằng com-pa... "Chết! Con vật khốn nạn!". Anh vừa trông thấy những cái vòng sặc sỡ trên mình một con rắn. Nó là con vật gở! Anh matađo bất giác gập ngón tay giữa và ngón tay đeo nhẫn của bàn tay phải lại, giương ngón trỏ và ngón út lên thành hình hai cái sừng, để đuổi tà ma; rồi anh run cầm cập đặt trả quyển sách vào ngăn và lẩm bẩn hai ba lần mấy tiếng "Thằn lằn! Thằn lằn!" để xua tan cái ảnh hưởng xấu xa của cuộc chạm trán này.
Sáng hôm nay, khi bước chân vào phòng giấy, anh càng lo ngại. Không biết tại sao anh lại đi ngắm nghía cái đầu bò, khiến cái kỷ niệm nặng nề nhất trong cuộc đời đấu sĩ của anh lại hiện ra trong ký ức. Con bò ấy làm anh vất vả biết bao ở đấu trường Xaragôxơ! Khôn ngoan như người, nó đứng im, đôi mắt tinh quái chờ cho người matađo đến gần, và không để cho mảnh vải đỏ đánh lừa, nó chỉ nhè húc vào người. Nó lắc đầu tránh gạt những nhát kiếm, làm cho người matađo không làm sao đâm trúng đích.
Người xem sốt ruột, huýt sáo chửi rủa. Khi con bò chuyển chỗ, anh lẽo đẽo chạy theo nó từ bờ bên này của bãi đấu sang bờ bên kia, biết chắc rằng, nếu anh liều lĩnh tấn công nó diện đối diện, thì chính anh sẽ chết. Cuối cùng, người mệt lử và đẫm mồ hôi, anh thừa một dịp tốt đâm liều một nhát kiếm gian trá vào cổ nó làm cho công chúng phẫn nộ, ném vỏ chai và cam quýt vào người anh. Kỷ niệm ấy làm anh xấu hổ. Nó dấm dớ hiện ra trong ký ức vào giờ này là điềm gở, khác nào việc gặp mụ chột hoặc trông thấy rắn.
Anh ăn một mình và ít như mọi lần vì anh phải đi đấu lúc quá trưa.
Đến lúc anh mặc quần áo thì các phụ nữ trong nhà biến sạch. Chao ôi! Họ ghét cay ghét đắng bộ quần áo lộng lẫy gói kỹ trong bao vải - cái đồ nghề sang trọng tạo ra hạnh phúc của gia đình! Bao giờ thấy mẹ và vợ bỏ trốn, Gađacđô cũng ngẩn ngơ bối rối, vì anh đoán ra ngay nguyên nhân mặc dầu họ làm ra vẻ vô tư lự.
- Sao mẹ và em lại làm như người ta sắp đưa tôi đi treo cổ như thế? Anh nói. Đừng có lo! Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu!
Những ngày Gađacđô đấu ở Xêvilơ là những ngày khủng khiếp nhất đối với gia đình anh. Khi anh đấu ở một nơi xa, ở một đấu trường khác, gia đình anh đành nhẫn nhục chờ bức điện buổi chiều. Nhưng bây giờ sự nguy hiểm ở gần gũi nên gia đình chốc chốc lại muốn biết tin. Bác thợ yên ngựa - ăn mặc như một nhà tư sản với bộ com-lê bằng dạ mỏng, mượt về màu sáng, mũ phớt - chủ động đề nghị với mấy người phụ nữ rằng bác sẽ cho họ biết tình hình ở bãi đấu, tuy bác rất tức cậu em vợ bất lịch sự không dành cho bác một chỗ ngồi trên chiếc xe ngựa chở đội đến đấu trường. "Hễ Gađacđô hạ sát xong con bò nào, bác nói, là tôi sẽ cho một thằng bé về nhà báo tin ngay".
Cuộc đấu bò hôm nay là một thành công rực rỡ của Gađacđô. Khi vào đấu trường, nghe thấy công chúng hoan hô, anh tưởng như mình vừa mới lớn hẳn lên. Anh quen thuộc cái bãi đấu mà anh đang đi ở trên: ở đây, anh cảm thấy như đang ở nhà. Mặt đất của bãi cũng ảnh hưởng đôi chút đến đầu óc mê tín của anh. Người matađo nhớ đến những đấu trường rộng mênh mông ở Valăngxơ và Barxơlon trải cát màu sẫm, đến đấu trường lớn ở Mađrit trải cát màu đỏ. Còn đấu trường Xêvilơ thì nó không giống một đấu trường nào cả: cát của nó lấy từ lòng sông Goađankivia, màu vàng rực như hoàng thổ tán nhỏ. Khi có con ngựa nào bị húc thủng bụng và tóe máu lên mặt cát như một bình hũ nước đột nhiên thủng đáy, người ta không khỏi liên tưởng đến màu những lá quốc kỳ đang phấp phới xung quanh đấu trường.
Cuộc đấu nào cũng làm anh bồn chồn lo lắng và kiến trúc của trường đấu tác động vào trí tưởng tượng của anh. Phần lớn các đấu trường đều xây dựng cách đây không lâu, cái thì theo kiểu Rôman, cái thì theo kiểu Môrơ, nhạt như những ngôi nhà thờ tân tạp trống rỗng và lạnh lùng. Trái lại, đấu trường Xêvilơ giống một thánh đường chứa toàn những kỷ niệm và tiếp thu sinh khí của nhiều thế hệ đã tiếp xúc với nó. Cửa lớn của nó rất nguy nga, xây từ thế kỷ mà nam giới còn mang bộ tóc giả rắc phấn; bãi đấu của nó còn phảng phất bóng dáng của nhiều vị anh hùng đã từng dẫm chân lên mảnh đất này. Cũng tại đấu trường này, người ta đã được thưởng thức tài nghệ của những người có vinh dự sáng tạo ra những ngón đòn hiểm hóc, những đấu sĩ bậc thầy đã làm cho nghệ thuật đấu bò tiến những bước dài, những nhà vô địch vững vàng của trường phái Rôngđa có phong cách nghiêm chỉnh và ung dung, những matađo ưu tú, thân hình thanh mảnh và lanh lẹn của trường phái Xêvilơ mà tài khéo và cách di chuyển cực kỳ lanh lẹn đã từng làm cho khán giả khâm phục sát đất. Và cũng tại nơi đây, chiều nay, chính anh, say sưa trước những tràng vỗ tay, ánh nắng và tiếng lao xao của công chúng, trước hình bóng của một tấm khăn quàng trắng và một chiếc yếm xanh cúi xuống bao lơn của một ghế lô, chính anh sẽ tỏ ra cho nhân dân nước anh biết anh có thể dũng cảm tới mức nào.
Quả thật, anh đã trội hơn mọi ngày. Chưa bao giờ những khán giả mê thích anh thấy anh đấu đẹp như hôm nay. Mỗi lần anh làm một động tác tài tình, người ủy quyền của anh lại đứng dậy thét bảo những người kẻ phản đối vô hình:
- Các ngươi có dám chê anh ấy điểm gì không nào?... Người số một trên thế giới đấy!...
Tới con bò mộng thứ hai mà Gađacđô phải hạ sát, Người Quốc dân theo lệnh của anh dụ con vật bằng những động tác múa áo choàng khéo léo để nó đến sát phía dưới ghế lô có chiếc yếm xanh và tấm khăn quàng trắng! Đó là Đônha Xôn ngồi cạnh hầu tước Đờ Môraima và hai cô con gái của ông.
Gađacđô tiến lại gần hàng rào, tay cầm thanh kiếm và khăn mulêta, trong khi khán giả theo dõi anh từng bước. Khi đến trước lô, anh dừng lại, cất mũ đấu, tuyên bố tặng con bò cho người cháu gái của hầu tước. Thấy thế nhiều khán giả mỉm cười hóm hỉnh.
Sau nghi thức Brinđix ấy, Gađacđô quay người lại, ném chiếc mũ qua vai, đứng chờ con bò đang được các pêông dụ đến.
Trong một khoảng đất rất hẹp, tìm được cách ngăn giữ con bò không ra khỏi đó, Gađacđô thực hiện nhiệm vụ của mình. Anh muốn hạ sát con bò trước mặt Đônha Xôn, anh muốn nàng thấy rõ anh lúc anh khinh thường nguy hiểm. Mỗi động tác múa mulêta của anh lại làm cho công chúng vỗ tay nhiệt liệt và kêu lên lo sợ. Sừng bò sượt qua ngực anh, con bò tấn công anh dữ dội nhưng hình như anh không thể nào bị chảy máu. Đột nhiên, anh dướn thẳng người, lưỡi kiếm chĩa ra phía trước rồi lao người vào con bò nhanh đến nỗi khán giả không có thời giờ thét lên để tỏ ý kiến và khuyên can anh.
Trong một lúc người và vật dính chặt lấy nhau. Rồi khi người gỡ được mình ra, khán giả thấy con vật chạy loạng choạng rống lên, lưỡi thè lè với cái cán đỏ lòm của thanh kiếm chỉ hơi thò ra ở phía trên cái cổ đầy máu của nó. Một phút sau, con bò ngã gục. Công chúng bật dậy như bị sức đẩy của một lò xo rất mạnh, vỗ tay và hò reo như sấm. Không, trên đời này không có ai dũng cảm bằng Gađacđô! Không bao giờ anh biết sợ! Không bao giờ!...
Người matađo tiến lại trước hàng ghế lô, cúi chào hai tay dang rộng cầm thanh kiếm và mulêta, trong khi Đônha Xôn vốn kiêu kỳ biết bao thế mà bây giờ vỗ lia lịa đôi bàn tay đeo găng trắng.
Một vật nhỏ chuyển qua tay khán giả từ trên ghế lô xuống tận hàng rào. Đó là một chiếc khăn tay của phụ nữ, chiếc khăn mà Đônha Xôn mới cầm trong tay, đó là một ô vuông xinh xắn bằng vải mịn thơm nức và viền đăng ten luồn qua một cái nhẫn kim cương của nàng tặng cho anh matađo để cảm ơn anh đã dâng nàng con bò trong Brinđix.
Tặng phẩm này làm tiếng hoan hô lại vang dậy một lần nữa. Trước đây khán giả chú ý đến người matađo thì bây giờ họ chăm chú nhìn Đônha Xôn và ca ngợi nhan sắc của nàng bằng những tiếng hò reo ầm ĩ theo lối lịch sự không câu nệ của dân xứ Ănđaludi đối với phụ nữ.
Rồi một mẩu nhỏ hình tam giác lông lá và hãy còn nóng chuyển qua tay nhiều người từ hàng rào lên đến tận lô. Đó là cái tai của con bò mà matađo tặng Đônha Xôn để kỷ niệm việc anh giết con bò tặng nàng.
Vài ngày sau trận đấu đáng ghi nhớ đó, Đônha Xôn rời Xêvilơ ra nước ngoài. Vị phu nhân cao quý đó đã chấm dứt mối tình không thể đem lại cho nàng những cảm giác mới mẻ nào nữa, bèn bỏ rơi thẳng cánh Gađacđô. Nàng cũng không thèm trả lời những bức thư của anh chàng matađo tỏ bày bằng lời lẽ vụng về và hơi buồn cười nỗi thất tình thành thật của anh.
Số phận trớ trêu khiến đúng vào lúc người tình ngông đời cắt đứt quan hệ tội lỗi với anh thì người vợ chính thức của anh nổi giận về sự bội bạc của chồng chị. Sự yên ổn trong gia đình anh bị rối loạn một cách đau đớn. Cho đến nay, tuy mấy bà hàng xóm láng giềng hay nói bóng gió, Cacmen vẫn im lặng. Nhưng đến khi cuộc ngoại tình phơi ra trước mặt mọi người giữa đấu trường, thì sự xỉ nhục thành ghê gớm quá khiến chị không thể nào nhịn được nữa.
Một hôm chị cho mời Người Quốc dân đến nói chuyện. Chị tiếp bác banđêridiêrô trong phòng làm việc của chồng. Ở đấy chỉ có hai người, không sợ bị bà Aoguxtiax bất chợt quấy rầy. Lúc đó Gađacđô đang ở Câu lạc bộ phố Rắn. Từ vài tuần nay, anh năng lui tới đấy vì anh sợ chạm trán với vợ, và vì nhóm người hay ầm ĩ ở đây giúp anh quên những ý nghĩ đen tối. Người Quốc dân ngồi xuống đi văng, cúi đầu, tay cầm mũ, không dám nhìn vợ của đội trưởng. Chị Cacmen trông thật tội nghiệp! Mắt quầng đen tỏ ra khóc nhiều, hai má nâu nâu và cái mũi nhỏ xinh của chị hơi đỏ, chứng tỏ là bị khăn tay chà xát mãi vào. Sau một lúc im lặng nặng nề, chị cất giọng xúc động:
- Xêbatchiêng, bác phải nói hết sự thật cho tôi biết. Bác là một người trung thực. Bác là bạn tốt nhất của nhà tôi...
Bác banđêridiêrô gật đầu đồng ý. Nhưng bác rất e ngại câu hỏi sắp đi theo mấy lời giáo đầu trịnh trọng đó. Chị Cacmen muốn bác cho chị biết gì đây?
- Giữa Đônha Xôn và Huan có chuyện gì? Biết đã trông thấy những gì? Bác đoán ra sao?
Chao ôi! Cái bác Người Quốc dân mới tốt bụng chứ! Bác vội vớ lấy cây sào mà Cácmen cho bác để khuyên can chị mà không phải muối mặt nói dối:
- Tôi đã trông thấy gì à? Nhưng mà không, tôi chẳng thấy cái gì xấu bao giờ...
Bác nói tiếp, giơ tay lên một cách nghiêm trang:
- Tôi xin lấy danh dự của bố tôi ra mà thề với chị. Tôi xin viện những tư tưởng của tôi mà thề!...
Bác không ngại thề độc bằng cách viện những tư tưởng rất thiêng liêng đối với bác, vì thực sự bác có trông thấy gì đâu và vì không trông thấy gì nên bác tha hồ tin rằng không hề xảy ra cái gì xấu cả.
- Còn tôi đoán ra sao ư, bác tiếp tục. Tôi đoán rằng hai người chỉ là bạn. Thiên hạ hay bàn tán, nói xấu đặt ra đủ mọi thứ chuyện. Chị Cacmen, xin chị đừng lo lắng, xin chị vui lên, sống thoải mái. Ở trên đời không có gì hơn thế đâu?
Nhưng Cacmen lại tấn công một lần nữa:
- Bác Xêbatchiêng, thế bác cho tôi là rồ dại à? Từ khi anh ấy mê cái bà lớn kia... (tôi nghĩ gọi như vậy cũng được thôi), tôi đã đoán ra tất cả. Cái ngày anh ấy tặng con bò cho bà ta và nhận của bà ta cái nhẫn kim cương, tôi hiểu ngay rằng có vấn đề giữa hai người, có những lúc tôi muốn giật lại cái nhẫn đó và dí nó dưới gót chân! Vả lại, đã từ lâu hai người có biết giữ gìn gì nữa đâu: họ đi dạo chơi với nhau như vợ chồng trước mắt thiên hạ, và cùng cưỡi ngựa đến hết hội chợ này đến hội chợ khác như những người gitanô. Thấy Cacmen sắp khóc òa, Người Quốc dân nghĩ cần phải ngắt lời chị:
- Chị ơi, tội nghiệp chị, sao chị lại đi tin những lời vu khống ấy? Chị không thấy đó là những điều bịa đặt của những kẻ thù của anh ấy, của những người ghen tị anh ấy hay sao?
- Không ! Tôi biết con người anh Huan. Bác tưởng đây là lần đầu à? Người làm sao bào hao làm vậy, không thể khác được. Tôi nguyền rủa cái nghề chết tiệt làm cho con người thành điên thành dại kia!... Chúng tôi lấy nhau được hai năm thì anh ấy tằng tịu với một đứa con gái bán hàng ở chợ, một con bán thịt. Tôi rất đau khổ khi biết chuyện, nhưng tôi không nói một lời. Đến bây giờ anh ấy vẫn tưởng là tôi không biết gì cả... Sau đứa ấy đến bao nhiêu đứa khác! Gái nhảy ở tiệm cà phê ca vũ này, gái chơi ở tiệm rượu này, cả nhà thổ nữa có hàng tá! Tôi không nói cốt là để cho gia đình yên ắng. Nhưng bây giờ thì khác: người đàn bà này không giống bọn kia. Anh Huan rối ruột rối gan vì mê con người ấy. Anh ấy đắm đuối vì anh ấy hãnh diện có một bà lớn đại quý tộc yêu mình. Chao ôi! Sao mà tôi ghê tởm anh ấy thế!... Bây giờ họa hoằn chúng tôi mới nói với nhau một câu, dường như chúng tôi là người dưng nước lã không quen biết gì nhau cả. Tôi, tôi ngủ ở trên gác một mình. Còn anh ấy ngủ ở phòng dưới, trong cái phòng nhìn ra sân. Trước kia, tôi bỏ qua cho anh ấy tất cả mọi chuyện: đó là những thói xấu cố hữu của nghề nghiệp, người đấu sĩ có tính điên cứ tưởng là phụ nữ nào cũng mê mình. Nhưng bây giờ tôi không thể nào chịu nổi anh ấy nữa : anh ấy làm tôi ghê sợ.
Cacmen nói rất hăng, cặp mắt lóng lánh căm hờn.
- Chao ôi! Người đàn bà này đã làm cho anh ấy thay đổi hẳn! Anh ấy không còn như xưa nữa. Bây giờ anh ấy chỉ thích đàn đúm với bọn thanh niên con nhà giàu hay tán gái. Những người dân khu phố này và tất cả những người nghèo hèn ở Xêvilơ trước đây là bạn của anh ấy, giúp đỡ anh ấy lúc mới vào nghề, bây giờ anh ấy không thèm ngó đến họ nữa, anh ấy tránh họ một cách kinh khủng. Còn họ thì họ đã bắt đầu phàn nàn về anh ấy và sẽ có ngày họ la ó anh ấy ngay giữa đấu trường để trừng phạt thái độ vô ơn của anh ấy... Còn nữa. Đồng tiền vào nhà này như nước chảy, không biết là bao nhiêu. Bản thân anh Huan cũng không biết mình có những gì. Nhưng tôi thì tôi biết rõ lắm. Muốn bọn bạn mới tiếp đón thân thiết, anh ấy đánh bạc rất to và thua nhiều thành ra đồng tiền vào lỗ hà ra lỗ hổng. Tôi không trách anh ấy điều đó, vì dù sao tiền bạc đều do anh ấy kiếm ra; nhưng hiện nay anh ấy đã phải vay của Đông Hôxê để chi tiêu cho những việc cần thiết ở trại của nhà, và nếu mới rồi anh ấy mua được mấy mảnh vườn trồng ô liu để làm cho dinh cơ của nhà được tròn trặn, chính là nhờ vay tiền của người khác. Hầu hết tiền nong mà anh ấy sẽ lĩnh được trong mùa đấu sắp tới đã bị các món nợ ngốn trước cả rồi. Thế ngộ xảy ra một tai họa thì sao? Nếu anh ấy bắt buộc bị giải nghệ thì sao?... Anh ấy đã muốn tôi thay đổi những thói quen của tôi, cũng như anh ấy đã thay đổi những thói quen của anh ấy. Tôi biết rõ nguyên nhân là sau khi gặp Đônha Xôn của Ngài, lúc về nhà thấy mẹ Ngài và vợ Ngài ăn mặc lôi thôi, khăn quàng và áo mặc trong nhà giống những thứ của mọi phụ nữ vùng này, thì Ngài cho là xấu. Chính Ngài đã bắt tôi phải đội những chiếc mũ đem từ Mađrit về, những chiếc mũ rất xấu không hợp với tôi, tôi biết thế, làm cho tôi trông như con khỉ làm trò! Thực ra quấn cái khăn quàng duyên dáng biết bao nhiêu. Cũng chính anh ấy đã muốn mua chiếc xe quái ác, cái xe hơi ngồi lên là tôi rất sợ và hôi như qủy! Tại sao lại phải làm những cái điên rồ ấy nhỉ? Tại vì lúc nào anh ấy cũng nghĩ đến người kia, tại vì anh ấy muốn tôi giống người kia, tại vì anh ấy xấu hổ về tôi!...
Người Quốc dân phản đối rất dữ: À không! Cái đó không đúng đâu! Anh Huan anh ấy tốt, anh ấy làm như vậy chỉ vì yêu gia đình, anh ấy muốn gia đình lịch sự và có đầy đủ tiện nghi. Chị Cacmen, chị muốn bảo anh ấy như thế nào cũng được. Nhưng xin chị tin lời tôi, anh ấy đáng được chị độ lượng hơn. Biết bao nhiêu phụ nữ nhìn chị mà ghen đến chết. Là vợ người matađo can đảm nhất, được tiêu tiền như rác, có một tòa nhà tuyệt diệu và hoàn toàn là bà chủ tay hòm chìa khóa ở nhà mình vì anh ấy để cho chị cai quản tất cả, chẳng lẽ những cái đó không đáng kể vào đâu cả sao?
Mắt Cacmen đẫm lệ, chị đưa khăn tay lên lau và nói:
- Chao ôi! Thà tôi chỉ là vợ một anh thợ giày! Tôi sẽ sung sướng biết bao, nếu anh Huan không chọn cái nghề đấu bò ghê sợ kia mà cứ tiếp tục học nghề đóng giày. Bọn con gái đẹp sẽ không tìm cách cướp anh ấy của tôi, anh ấy sẽ hoàn toàn của tôi. Có thể chúng tôi gặp những lúc khó khăn túng thiếu, nhưng ngày chủ nhật đến, chúng tôi có thể cùng nhau về nông thôn hưởng cái thú khoác vai nhau dạo bước dưới một giàn hoa. Trái lại, những con bò mộng ghê gớm làm tôi rất sợ! Không, sống như thế này không phải là sống!... Bác nói rằng tôi tiền của như nước. Đúng thế. Nhưng bác Xêbatchiêng ạ, bác nên biết rằng, đối với tôi, tiền bạc giống như một thứ thuốc độc, nó càng tuôn vào nhà chúng tôi bao nhiêu, thì tôi càng khổ bấy nhiêu. Thiên hạ ghen với tôi, tưởng rằng tôi có hạnh phúc tột đột, còn tôi thì tôi nhìn bằng con mắt thèm thuồng những người phụ nữ nghèo mà tôi thấy có đứa con nhỏ để bế ẵm trong tay, cười đùa với nó và quên đi cảnh nghèo khổ!... Chao ôi! Giá mà tôi có được một đứa con! Chính vì không có con nên tôi mới khổ như thế này. Tình hình sẽ thay đổi hẳn nếu anh Huan trông thấy ở nhà một đứa bé là con của anh ấy...
Thế là Cacmen khóc sướt mướt làm những giọt nước mắt ràn rụa trong những nếp khăn tay và trên hai má nóng bừng của chị. Đó là nỗi đau khổ của một người phụ nữ không sinh nở, đêm ngày ao ước hạnh phúc của các bà mẹ. Đó là sự thất vọng của một người vợ khi thấy chồng xa lánh mình, giả vờ gán tình trạng bị hắt hủi cho nhiều nguyên nhân nhưng trong thâm tâm thì đổ tội chủ yếu cho việc mình không có con.
Bác banđêridiêrô kinh hoàng về cuộc nói chuyện với Cacmen cho nên ra khỏi nhà bác lập tức đi tìm đội trưởng mà bác thấy ở hiên ngoài của Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm.
- Anh Huan, bác nói, tôi vừa nói chuyện với chị ấy. Tình hình gay đấy! Chị ấy biết hết rồi. Anh phải cố làm cho chị ấy nguôi đi và đối xử tốt với chị ấy! Tội nghiệp chị ấy! Anh làm cho chị ấy đau khổ là có tội đấy! Anh phải coi chừng! Chị ấy là người có bản lĩnh, nếu chị ấy giận thật sự thì anh sẽ lôi thôi với chị ấy đấy...
Thất vọng về việc người đàn bà có uy quyền rất lớn đối với thể xác và tâm trí anh đã bỏ rơi anh và rất lo là đã tự mình phá vỡ hạnh phúc gia đình mà khó lòng hàn gắn được, Gađacđô không biết trả lời Người Quốc dân như thế nào, cứ gãi đầu hoài. Rồi thấy bác banđêridiêrô nằn nì khuyên anh quên hẳn phu nhân đại quý tộc kia và làm lành với Cacmen, anh kêu to:
- Trời ơi là trời! Tôi không thể chịu được nữa rồi! Lạy Chúa cho đến chủ nhật sắp tới một con bò húc trúng tôi thế là xong tất! Sống thế này thì thà chết đi như vậy cho rồi!
Suốt tuần lễ ấy, anh hầu như lúc nào cũng vắng nhà. Anh sợ cặp lông mày nhíu lại và sự im lặng của Cacmen. Anh còn sợ chị cất tiếng nói hơn.
Tuy nhiên, người anh rể Angtôniô, thừa dịp gia đình lục đục, đã đem bầu đoàn thê tử đến ở nhà Gađacđô. Viện cớ việc làm ăn của bác không chạy, bác bỏ nghề đóng yên ngựa để cùng vợ con ăn bám hẳn vào người matađo, bác thản nhiên chờ cậu em vợ, nhờ quen biết lắm nơi quyền quý, tìm cho mình một công việc gì đó nhàn hạ mà lại kiếm được nhiều tiền.
Chủ nhật sau đó, Gađacđô phải đấu trận cuối cùng trong mùa. Sáng hôm đó trôi qua mà anh không bị những nỗi sợ hãi vẩn vơ lo âu thường lệ ám ảnh. Anh vui vẻ mặc quần áo, thần kinh bị kích thích mạnh làm cho gân cốt của anh thêm rắn rỏi. Đấu tại đấu trường Xêvilơ trải cát vàng óng khiến mười hai nghìn người xem kinh ngạc trước phong độ trang nhã và sự táo bạo của mình, quả là sung sướng! Chỉ có nghệ thuật này mới chôn xác cái nghệ thuật duy nhất mang vinh quang và tiền của đến. Tất cả những cái khác - gia đình, nhân tình nhân ngãi - đều chỉ làm cuộc sống thành phức tạp và phiền muộn. Chà! Chốc nữa ta sẽ đâm những nhát kiếm tuyệt đẹp đấy! Anh cảm thấy mạnh như hộ pháp. Anh mong sớm được trút lên đầu mấy con bò mộng bao nỗi tức giận chất chứa trong lòng do sự bất hòa trong gia đình và cuộc bỏ đi khinh mạn của Đônha Xôn.
Khi chiếc xe ngựa tới cửa, Gađacđô, khác mọi lần, bước qua sân không để ý đến sự xao xuyến của các phụ nữ trong gia đình. Cacmen không xuất hiện. Nhưng người anh rể của anh có mặt, hãnh diện ngắm bộ com-lê mới mà bác đã chớp của Gađacđô và cho sửa lại rất vừa với người bác.
- Trông anh bảnh hơn cả Rôgiê đê Flo đấy! Gađacđô nói đùa bác. Nào mời anh lên xe để tôi đưa anh đến đấu trường.
Bác thợ yên ngựa rất hãnh diện và khoái chí sắp được mọi người trong phố xá Xêvilơ thấy mình ở giữa đội đấu mang áo khoác lụa thêu kim tuyến dày cộp, bèn ngồi xuống cạnh vĩ nhân.
Khán đài chật ních. Cuộc đấu này thu hút rất nhiều người xem, không những chỉ có dân thành phố mà nông dân ở các làng bên cũng kéo đến ngồi kín mít các bậc bị nắng soi.
Ngay từ phút đầu, Gađacđô hoạt động sôi nổi. Anh rời xa hàng rào, tiến lại trước con bò, chọc nó bằng những đường múa áo choàng, trong khi đó các picađo chờ lúc con vật xông vào mấy con ngựa ốm cà khổ của họ.
Công chúng tỏ ra ít có thiện cảm với người matađo. Họ vẫn vỗ tay khen anh như mọi lần, nhưng tiếng vỗ tay chỉ rầm rộ và kéo dài ở phía khán đài không bị nắng soi, ở những bậc ngồi có những mũ màu nhạt đều đặn, nhưng nó rất thưa thớt ở phía khán đài bị nắng chiếu, ở nơi trong đám khán giả ồn ào và mặc áo đội mũ đủ màu sắc linh tinh, có nhiều người bị cháy nắng đã cởi áo ngoài chỉ còn mặc có sơ mi trần. Gađacđô hiểu tình hình khó khăn. Nếu anh chỉ không may một chút, một nửa đấu trường sẽ đứng dậy la ó anh để trừng phạt anh đã vô ơn với những người đã nâng đỡ những bước đi đầu tiên trong nghề của anh.
Như thường lệ, Gađacđô can đảm xông vào giữa cặp sừng, nhưng mũi kiếm của anh bị một cái xương cản lại.
Những người xem thuộc phe anh vỗ tay: nhát kiếm đã đâm trúng, nếu nó không thọc sâu được, đó không phải là lỗi của anh.
Một lần nữa, Gađacđô lấy tư thế để giết con bò. Nhưng nhát kiếm lại đâm đúng vào chỗ cũ, con bò lồng lộn làm thanh kiếm văng ra cách nó một quãng. Anh matađo bèn giật thanh kiếm khác trong tay Garabatô và trở lại trước mặt con vật đang đứng sững trên bốn cẳng để chờ anh, cổ chảy máu, mõm sùi bọt, mũi cúi gần chạm mặt đất.
Gađacđô giơ cái mulêta ra trước mắt con bò, bình tĩnh dùng mũi kiếm gạt ra phía sau những cây banđêri rũ xuống giữa cặp sừng. Anh muốn thực hiện một đòn đêcabenlô. Sau khi đưa mũi kiếm về phía đỉnh sọ con vật để tìm điểm chính xác, anh thình lình ấn thanh kiếm xuống. Con bò rùng mình đau đớn, nhưng nó vẫn đứng vững và lắc mạnh đầu làm thanh kiếm bật ra.
Một số khán giả càu nhàu, có kẻ huýt sáo.
- Khổ thật! Gađacđô lẩm bẩm. Tại sao bọn họ bất công với mình như vậy.
Lại một lần nữa, Gađacđô ấn thanh kiếm và cuối cùng anh chọc trúng tủy sống. Con bò ngã gục xuống như bị sét đánh.
Về phía khán đài không bị nắng soi, người xem vỗ tay khen do tinh thần giai cấp, nhưng về phía bị ánh nắng, tiếng huýt sáo và chửi rủa vang lên.
Gađacđô quay lưng về phía những người chửi rủa, giơ mulêta và kiếm chào những người ủng hộ anh.
Tiếng la ó của đám lê dân làm anh điên tiết, nắm chặt quả đấm.
- Chúng nó còn muốn gì nữa? Con bò đâu có để yên cho mình làm được hơn thế! Một âm mưu của những kẻ thù mình đặt ra đây.
Và anh đứng rất lâu gần hàng rào, khinh khỉnh nhìn các đồng nghiệp, trong thâm tâm lên án họ âm mưu hại anh.
Đến khi anh lại cầm những dụng cụ để hạ sát con bò thứ hai, anh ra lệnh cho Người Quốc dân và một người pêông khác dùng áo choàng dụ nó về phía các bậc ngồi của đám dân thường. Anh hiểu công chúng. Anh biết rằng anh phải nịnh những "công dân của ánh mặt trời", đám người hỗn loạn đáng sợ thường đem vào đấu trường những sự thù hằn có tính cách xã hội, nhưng lại dễ chuyển từ huýt sáo sang vỗ tay, một khi có biểu hiện coi trọng nho nhỏ làm cho họ hãnh diện.
Các chú pêông múa áo choàng quanh mình con bò, cố sức dụ nó đến chói nắng. Những khán giả thường dân thấy vậy tỏ vẻ ngạc nhiên và vui thích. Thế là màn kịch hạ sát sắp diễn ra, không xa họ như thường lệ để bọn nhà giàu ngồi trong bóng mát tiện xem, mà là ở phía những người vô sản, ngay trước mặt họ.
Con bò, sau khi đứng trơ trọi một lúc, xông vào xác một con ngựa, húc vào sườn con vật đã bị thủng toác sừng dùng sừng nhấc nó lên khỏi mặt đất như một mảnh giẻ rách, làm tung tóe ruột gan *** đái của nó ra khắp chung quanh. Rồi cái xác con ngựa lại rơi xuống rúm lại và con bò bỏ đi loanh quanh. Chẳng bao lâu bò ta lại quay lại hít ồ ồ xác con ngựa và một lần nữa luồn cặp sừng vào trong cái bụng vỡ toác của nó. Khán giả cười vang khi thấy con bò bướng bỉnh, ngu xuẩn cố tìm sự sống trong một cơ thể chết rồi.
- Cố lên, con ạ! Đồ khỉ gió! Hăng thế! Tiếp tục đi để chúng tao xem!...
Bỗng nhiên công chúng không chú ý đến con bò đang trong cơn điên nữa mà quay sang nhìn người matađo đang bước vội vã qua bãi đấu, ngực ưỡn, một tay cầm mulêta quấn quanh cái cán, một tay vung vẩy thanh kiếm như một cái can nhẹ. Toàn thể khán giả ở phía có ánh nắng hoan hô.
- Anh chiếm được lòng họ rồi! Người Quốc dân, lúc ấy đã đến đứng gần con bò với áo choàng sẵn sàng, nói với Gađacđo.
Quần chúng vỗ tay, gọi người matađo:
- Lại đây!... Lại đây!...
Để không bỏ sót chi tiết nào của trận đấu, ai cũng muốn con bò bị giết ngay trước chỗ ngồi của mình.
Gađacđô ngập ngừng trước những tiếng gọi trái ngược nhau của hàng vạn con người. Một chân đặt trên thềm hàng rào, anh tìm địa điểm lợi nhất để hạ sát con vật. Tốt nhất là đưa nó ra xa hơn một chút. Anh matađo cảm thấy không thoải mái vì xác con ngựa có các bộ phận vương vãi, che mất cả một phần bãi đấu. Lựa chọn xong, anh ném chiếc mũ đấu lên khán đài, lập tức hàng trăm bàn tay chìa ra xúm xít để nắm lấy vật báu của anh gửi.
Gađacđô ra hiệu cho Người Quốc dân múa áo choàng để chuẩn bị cho anh giết con bò. Rồi anh căng rộng cái mulêta. Con vật thở phì phì xông lại, chui qua dưới mảnh vải đỏ.
- Hoan hô! Công chúng gào lên, lại yêu mến thần tượng cũ và sẵn sàng hoan nghênh mọi động tác của anh.
Gađacđô tiếp tục đấu trong tiếng hoan hô của đám bình dân. Được xem anh đấu gần họ, họ gào to khuyên anh nên thận trọng.
- Cẩn thận đấy... Con bò hãy còn nguyên vẹn đấy! Đừng đứng giữa nó và hàng rào! Phải dành chỗ rút lui đấy.
Một số người khác, hăng hái hơn, lại khuyên anh nên táo bạo:
- Chơi cho nó một cú xuất sắc của anh đi!... Vèo!... Cho nó một nhát là anh bỏ nó vào túi được đấy!
Nhưng con bò quá to và quá đa nghi nên không dễ "bỏ vào túi được". Bị kích thích sau khi đứng gần xác con ngựa, nó có vẻ muốn quay lại chỗ đó, dường như mùi hôi thối của cái bụng toang hoác làm nó say sưa. Quay cuồng một lúc, con bò bị cái mulêta múa may làm cho mệt, bèn đứng yên một chỗ.
Xác con ngựa nằm sau lưng người matađo. Anh ở vào một cái thế không thuận lợi; nhưng đã nhiều lần anh ở trong tình thế khó khăn hơn mà vẫn thành công. Anh muốn lợi dụng lúc con bò dừng lại. Công chúng khuyến khích anh. Trong số khán giả đứng cạnh hàng rào thứ hai, người cúi về đằng trước để xem không sót tý gì phút quyết định của trận đấu, anh nhận ra nhiều người thuộc tầng lớp dưới, là những người gần đây tỏ ý lạnh nhạt với anh nhưng bây giờ hình như lại sẵn sàng hoan hô vì cảm động trước thái độ kính nể quần chúng của anh.
Anh bèn lấy tư thế để đâm, nâng thanh kiếm lên ngang tầm mắt. Nhưng đột nhiên anh cảm thấy mặt đất như rung chuyển, người anh bị bắn ra xa, cả đấu trường như sụp xuống, bầu trời tối sầm lại và một trận cuồng phong kinh khủng gầm rú trong bóng tối. Thân thể anh rung động từ đầu đến chân một cách đau đớn, đầu óc vo vo như sắp nổ vỡ, một sự kinh hãi ghê gớm bóp chặt lấy tim, anh có cảm tưởng rơi vào một vực sâu thăm thẳm, tan thân nát xác. Quả vậy, đúng lúc anh xông lên đâm thì con bò đã bất ngờ lao tới người anh.
Sự va chạm mạnh đến nỗi người diện bộ quần áo vàng lụa lăn long lóc xuống đất và biến mất giữa bốn chân của con quái vật đang phóng như bay. Sừng nó không xuyên thủng người anh, nhưng toàn bộ cặp sừng đã va vào người anh và quật anh ngã gục như bị giáng một chùy mạnh kinh khủng.
Nhìn trước mặt nó chỉ còn con ngựa chết, con bò lại định xông vào húc cái xác ấy; nhưng nó cảm thấy bị vướng chân; thế là nó khinh cái xác con ngựa mà thích tấn công con rối lóng lánh nằm gục trên cát, lấy sừng nâng lên, lắc đi lắc lại trong vài giây rồi lẳng sang một bên. Sau đó, nó định lao một lần thứ ba vào người đấu sĩ đã ngất đi.
Công chúng kinh ngạc trước diễn biến quá nhanh chóng của trận đấu, không thốt được tiếng nào, tim như bị thắt. Con vật chắc chắn sẽ giết chết người đấu sĩ. Và có lẽ anh ta đã chết rồi.
Bỗng nhiên, một tiếng thét thoát ra từ cổ họng mọi người, xé tan bầu không khí im lặng. Một chiếc áo choàng vừa mới hiện ra giữa con bò và nạn nhân. Cái áo đó có thể nói là dán chặt vào mõm con vật bằng hai cánh tay cứng cáp cố che lấy mắt nó. Đó là Người Quốc dân, với tinh thần tận tụy tuyệt vọng, đã xông vào con quái vật, quyết hy sinh tính mệnh để cứu đội trưởng.
Ngạc nhiên về vật chướng ngại mới này, con bò quay lưng về phía người nằm gục dưới đất và tấn công Người Quốc dân. Bị hãm giữa cặp sừng, bác vừa vung vẩy cái áo choàng không biết làm thế nào để thoát thân, nhưng rất sung sướng vì dù sao cũng kéo được con vật hung dữ ra xa Gađacđô.
Công chúng rất quan tâm đến tình tiết mới của trận đấu, hầu như quên hẳn anh matađo. Mọi người hò hét dường như những tiếng kêu có thể giúp đỡ người banđêridiêrô can đảm. Nhiều phụ nữ khóc nức nở, ngoảnh đầu nhìn chỗ khác, vặn vẹo bàn tay. Cuối cùng, đúng vào lúc con bò cúi đầu húc, Người Quốc dân may mắn nhẩy tránh được sang một bên, còn con bò phóng như điên theo đà của nó vẫn giữ chếc áo choàng rách tan trên sừng.
Công chúng xúc động vỗ tay như sấm. Vốn hay thay đổi như chong chóng, họ hoan hô Người Quốc dân và hầu như chẳng chú ý gì đến cái hình người vô tri vô giác mà bốn người khênh khỏi bãi đấu, đầu lắc lư, giữa đám đấu sĩ và nhân viên đấu trường.
Suốt buổi chiều hôm đó, ở Xêvilơ thiên hạ chỉ bàn tán về vết thương của Gađacđô, nặng nhất trong đời anh. Nhiều tờ báo đã phát hành số đặc biệt và tin về vụ này đánh đi khắp Tây Ban Nha kèm theo những lời bình luận phong phú đã gây xôn xao chẳng khác gì tin một chính khách bị mưu sát.
Trong phố Rắn, trí tưởng tượng của người xứ Ăngđaludi tha hồ hoạt động. Theo một số người này thì Gađacđô vừa mới chết: chắc chắn là như vậy vì tin này của một người được trông thấy anh nằm trên giường trạm xá, mặt trắng bệch như tờ giấy, cây thánh giá đặt trong hai bàn tay. Theo một số người khác, anh còn thở, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ chết hẳn: gan ruột anh đã lòi tuốt ra ngoài, kể cả tim, thận, nghĩa là tất cả, con bò đã biến người anh thành một cái sàng lỗ chỗ.
Thực tế, tình trạng của Gađacđô khá gay go: một chân bị gẫy, một cánh tay bị sừng húc trúng, bốn chân tay đều xây xát. Tuy thế, anh đã hồi tỉnh khá nhanh và vào khoảng chín giờ tối, người ta đã có thể đem anh về nhà.
Anh nằm trên cáng ra khỏi đấu trường. Đi hộ tống anh, có các thầy thuốc, anh em đồng đội hãy còn mặc áo diễu hành, một số hội viên Câu lạ bộ Bốn Mươi Lăm và nhiều người thuộc tầng lớp bình dân. Xúc động trước tai họa, những nhà quý tộc vui lòng sát cánh với những người mê đấu bò rách rưới. Ai nấy im lặng bước đi, trang nghiêm ủ rũ và kinh hoàng dường như Tổ quốc sắp mất một người con làm vinh dự cho mình.
Quang cảnh khi về đến nhà mới thật đau đớn! Khắp sân vang những tiếng kêu khóc não nuột. Ở ngoài phố, các bà hàng xóm vào bạn hữu của gia đình tưởng Gađacđô đã chết, gào thét và rứt đầu rứt tóc. Khi cái cáng đã khuất sau cánh cửa, nhiều người vẫn còn quanh quẩn trên đường để nhìn các cửa sổ, bàn tán xôn xao và cố đoán tình hình ở sau bức tường.
Nạn nhân được đặt lên giường một cách hết sức cẩn thận. Khắp người anh quấn vải và băng vấy máu, nồng nặc mùi thuốc sát trùng. Bộ quần áo đấu của anh chỉ còn lại một chiếc tất màu hồng. Quần áo lót của anh bị thủng nhiều chỗ, còn nhiều chỗ khác thì bị kéo cắt. Nạm tóc côlêta rũ xuống cổ xổ ra và rối tung. Mặt anh trắng bệch như tờ giấy.
Nạn nhân cảm thấy một bàn tay chạm vào tay mình bèn hé mắt. Anh trông thấy Cacmen, mặt cũng trắng bệch chẳng kém gì anh, đôi mắt khô khốc, cặp môi nhợt nhạt, và anh hơi mỉm cười với chị.
Tiếp đó anh ra hiệu, Người Quốc dân cúi xuống, cố nghe tiếng thì thào rất nhỏ thoát ra từ đôi môi xám ngoét mất máu của anh. Rồi bác vội vàng chạy xuống dưới nhà nói với ông ủy quyền:
- Anh Huan muốn ta đánh điện ngay cho bác sĩ Ruix.
- Đánh rồi, ông ủy quyền trả lời vui vẻ thấy mình đã đi trước ý muốn của Gađacđô. Bác sĩ đang trên đường đến đây. Sáng mai thì tới.
Những thầy thuốc đã làm việc băng bó đầu tiên cho Gađacđô đỡ bi quan hơn trước. Gađacđô có thể khỏi vì thể chất của anh rất cường tráng. Đáng sợ nhất là sự chấn thương, cái va húc có thể làm gục tại chỗ một người bình thường, nhưng anh chỉ ngất đi không lâu rồi lại hồi tỉnh. Còn các vết thương thực sự thì xem ra không nguy hiểm lắm. Vết thương ở cánh tay chắc chắn không nghiêm trọng, cùng lắm thì cánh tay sẽ mất linh hoạt mà thôi. Vết thương ở chân đáng lo ngại hơn, có lẽ Gađacđô sẽ thành thọt.
"Thọt!" Tiếng đó đập mạnh vào tâm trí của Đông Hôxê cho đến lúc này vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh. Người matađo của ông không còn khả năng đấu bò nữa à?
- Không ! Không ! Không thể như thế được ! Huan sống mà không đấu bò là chuyện vô lý. Lấy ai ra thay anh ấy? Không, tôi xin nói là không thể như thế được... Người số một trên thế giới kia mà!... Thế mà các vị muốn người ấy không đấu nữa à?
Hai ngày sau, bác sĩ Ruix đáp xe lửa tốc hành từ Mađrit tới. Tươi cười trong bộ râu bạc ngả màu vàng bẩn, ông không mang theo hành lý, ăn mặc lôi thôi lốc thốc như thường lệ, cái áo gilê không cài khuy, cái bụng Di Lặc lắc lư trên đôi chân ngắn ngủn. Ông nhận được bức điện sau khi đi xem một trận nôvidiađa được tổ chức để giới thiệu một "cậu bé" ở Lát Văngtét - một trò hề làm cho ông rất buồn cười. Sau một đêm mất ngủ trên xe lửa, nghĩ đến trò khỉ đó, ông vẫn còn cười nôn ruột, dường như ông đã quên mục đích của chuyến đi này.
Khi ông bước vào phòng Gađacđô, anh mở mắt ra và một nụ cười hy vọng làm bộ mặt anh sáng lên.
- Can đảm lên con ạ! Bác sĩ bảo anh. Tai nạn này chưa làm con chết được đâu! Đúng là con còn may đấy!
Ông khám nạn nhân rất kỹ. Dĩ nhiên anh bị thương nặng nhưng bác sĩ Ruix đã chứng kiến nhiều trường hợp người đấu sĩ khỏi dễ dàng tuy bề ngoài có vẻ rất nặng. Cho nên bao giờ ông cũng tin rằng nạn nhân sẽ lành một cách kỳ lạ, dường như sừng bò tạo ra vết thương đồng thời chứa một chất thuốc hiệu nghiệm.
- Khi đấu sĩ không chết ngay tại đấu trường, bác sĩ nói quả quyết, chúng ta có thể nói rằng anh ta sẽ khỏi. Chỉ cần kiên trì thôi.
Trong ba ngày liên tiếp, Gađacđô chịu đựng những cuộc giải phẫu rất đau đớn: bác sĩ phải lấy ra khỏi chân anh những mảnh xương ống gẫy vụn. Thỏa mãn về bàn tay khéo léo của mình, ông vui vẻ kêu lên:
- Ai bảo rằng cậu sẽ không đấu được nữa? Cậu cứ tin tôi, cậu còn đấu được và công chúng chưa hết hoan hô cậu đâu...
Da tái nhợt, người gầy, sút hẳn đi vì quá đau, Gađacđô nằm dài trên giường bệnh, hầu như không còn đủ sức để đòi uống nước. Bác sĩ cấm mẹ anh vào phòng, vì sợ bà cụ không cầm được nước mắt khi thấy con trai bà bất giác rên rỉ lúc thay băng. Còn Cácmen nhẹ nhàng bước vào phòng, mắt nhìn xuống, đến ngồi bên giường rất lâu, e lệ, không nói một lời, lúc nào cũng sẵn sàng săn sóc hầu hạ một cách im lặng. Tai nạn đã làm chị quên những tội lỗi của người chồng phụ bạc và, trong lúc đau khổ, chị chất phác tự trách mình là nguyên nhân của tai họa. Phải rồi, chị nghĩ chị đã cư xử quá nghiệt ngã với chồng. Nếu anh không bình tĩnh được như mọi lần trước con bò mộng, chính vì chị đã làm anh bối rối và tức giận bởi những cơn ghen điên rồ của chị. Giá như ở trong phòng chỉ có một mình chị với chồng, có lẽ chị đã quỳ xuống để xin lỗi anh.
Ngay sau khi Huan bắt đầu đỡ, bác sĩ cho phép vài người bạn vào thăm để cho anh khuây khỏa. Thế là các nhà hâm mộ đấu bò danh tiếng nhất của thành phố Xêvilơ bắt đầu diễu hành bên giường bệnh. Khói thuốc lá quyện vào mùi hôi của thuốc vàng. Trên bàn, những chai thuốc và gói bông băng nằm cạnh những cái khay đầy cốc và chai rượu thết khách.
Một hôm Gađacđô đòi hút xì-gà.
- Tạ ơn Chúa! Bác sĩ Ruix kêu lên. Con khỏi rồi đấy con ạ!... Người nào hút được thuốc lá thì không ốm nữa...
Bắt đầu từ hôm ấy, phòng của người dưỡng bệnh lúc nào cũng đông nghịt, chẳng khác một phòng khách chuyện trò bàn tán liên miên suốt ngày. Dĩ nhiên, khách khứa hầu như chỉ nói chuyện bò chuyện đấu.
Làm sao có thể nói chuyện khác được, khi Đông Hôxê có mặt ở đấy! Người ta điểm mặt tất cả các matađo của nước Tây Ban Nha, ca tụng những ưu điểm và phê phán những nhược điểm của họ, người ta ước tính họ kiếm được bao nhiêu tiền, người ta tuyên bố rằng Gađacđô là vô địch và sẽ vẫn là vô địch.
- Người số một trên thế giới! Ông ủy quyền bao giờ cũng nói thêm như vậy.
Bác sĩ Ruix thường đấu khẩu với Người Quốc dân khi bác ta trong cơn say mê chính trị, hỏi bác sĩ rằng sắp có cách mạng chưa.
- Cái đó thì cần gì cho cậu! Bác sĩ vặn lại. Điều duy nhất mà cậu nên quan tâm là hiểu rõ các con bò, đừng để nó ngoắc phải và cắm banđêri càng nhiều lần càng tốt để nuôi sống gia đình.
Người Quốc dân trả miếng sau khi bị bác sĩ Ruix nói xỏ về nghề đấu sĩ của bác. Bác không phải là một công dân như mọi người khác hay sao? Bác không phải là một cử tri mà nhiều chính khách phải cầu khẩn lá phiếu trong các cuộc bầu cử hay sao?
- Tôi nghĩ tôi hoàn toàn có quyền có ý kiến của tôi! Tôi có chân trong ban chấp hành của đảng tôi. Nghề nghiệp của tôi thấp hèn và phản động, tôi chẳng lạ gì. Nhưng có phải vì thế mà tôi không được phép có những nguyên tắc của tôi hay sao? Đâu có phải lỗi của tôi nếu vua Fernăngđô VII đóng cửa trường đại học và mở trường đấu bò ở Xêvilơ làm cho cái nghề nuôi sống tôi thành khôi hài và ghê tởm. Đả đảo bọn bạo chúa, bác sĩ ạ!
Người Quốc dân biết lịch sử của nước Tây Ban Nha về mặt liên quan đến nghệ thuật đấu bò; bác ghét Xombrêrêrô(Xombrêrêrô: nghĩa đen là người thợ mũ, biệt danh của matađo Angtôniô Ruix sinh năm 1738 ở Xêvilơ) và nhiều đấu sĩ khác ủng hộ nền quân chủ chuyên chế bao nhiêu thì bác khâm phục người matađo biên ngang Huan Lêông(Huan Lêông: matađo sinh ở Xêvilơ vào cuối thế kỷ XVIII) bấy nhiêu. Tuy sống dưới thời chuyên chế, ông này vẫn khinh bỉ thái độ quỵ luỵ của dân chúng và đến đấu trường trong bộ quần áo màu đen vì hồi đó người ta gọi những người có tư tưởng tự do là "Nhóm Đen" đến nỗi nhiều khi ở đấu trường ra, ông phải vượt qua nhiều bọn người chửi rủa và đe dọa ông. Theo lời Người Quốc dân, môn đấu bò là tàn tích của thời quá khứ, là một trò chơi dã man; tuy nhiên nó vẫn có những vĩ nhân của nó cũng đáng kính phục như những vĩ nhân khác.
- Căn cứ vào đâu mà cậu bảo nghệ thuật ấy phản động, bác sĩ Ruix đáp. Cậu có một trái tim vàng, Người Quốc dân ạ, và những ý định của cậu tốt đẹp nhất thế giới, nhưng không phải vì thế mà cậu không ngu dốt. Cho nên để xử sự cho đúng, cậu nên biết rằng đấu bò là một sự tiến bộ, cậu nghe rõ chứ? Tôi nói là một sự tiến bộ, một sự dịu đi của phong hóa, một trò giải trí bớt độc ác so với những cảnh tượng mà nhân dân ta yêu thích trước đó.
Thế là bác sĩ Ruix, tay cầm cốc rượu, bắt đầu nói, nói mãi, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại để uống một ngụm.
- Bảo rằng môn đấu bò xuất hiện từ thời thượng cổ nếu không phải là sai lầm nghiêm trọng thì cũng là nói dối trắng trợn. Quả là hồi xưa, ở Tây Ban Nha, người ta giết bò để mua vui cho thiên hạ, nhưng nghệ thuật đấu bò như người ta thực hành ngày nay thì mới tương đối gần đây thôi. Xít dùng giáo để đấu bò, cái đó rõ rồi(Theo chuyện kể, người kỵ sĩ đầu tiên vào đấu trường trên lưng ngựa để đấu bò là Đông Rôđêrigô Điax Đê Bivarê, thường được gọi là Xit Cămpêađôrê. Ông có nhiều người bắt chước, nhất là dưới thời các vị vua Môrơ cuối cùng ở Grơnađơ và đặc biệt là dưới triều đại Bôadin). Các kỵ sĩ Môrơ và Thiên chúa giáo quần nhau với bò mộng trong những cuộc thao diễn ngựa, tôi đồng ý với cậu. Nhưng hồi đó chưa có đấu sĩ chuyên nghiệp và người ta chẳng hoài công làm cho con bò được chết một cách cao thượng theo quy tắc của một nghệ thuật đấu.
Một khi bắt đầu nói, bác sĩ không dừng lại nữa và những bài diễn thuyết của ông, uyên bác đậm đà, làm sống lại những kỷ niệm xa xưa nhất về những trận đấu đã trở thành hội hè dân tộc Tây Ban Nha. Hồi ấy, trò chơi này chỉ tổ chức vào những dịp rất hiếm, ví dụ nhân dịp vua lập hoàng hậu, ký hòa ước hoặc vào lúc khánh thành một nhà nguyện trong một nhà thờ chính tòa. Các lãnh chúa phải tham dự mặc đồ lụa là lộng lẫy, cưỡi ngựa chiến tiến vào vòng đấu, dùng thương hoặc giáo để đấu bò trước mặt các vị phu nhân. Nếu các ngài bị bò húc ngã ngựa, các ngài rút kiếm ra rồi với sự giúp sức của bọn đầy tớ, các ngài giết con bò bằng cách đâm lung tung, không theo phương pháp nào cả. Trong các ngày hội của dân chúng, họ xông vào bãi đấu cùng tấn công con vật cho đến lúc nó gục dưới những nhát dao găm.
- Tất cả những cái đó, bác sĩ kết luận, không phải là những trận đấu bò thực sự. Đó là những cuộc săn thú dữ. Vả lại, nhân dân hồi đó có nhiều trò giải trí khác cho nên người ta không cần hoàn thiện trò đó. Chính tôn giáo cung cấp những cảnh tượng được người ta thích nhất hồi đó: những cảnh tượng dễ làm người ta xót xa, run sợ và ngoài ra còn được khoan dung. Những cuộc thiêu sống người thích thú hơn nhiều so với những trò giết thú vật. Hồi ấy những ngày hội dân tộc đều do Pháp đình tôn giáo chịu trách nhiệm tổ chức.
Nhưng đến một ngày kia, bác sĩ tiếp tục với một nụ cười hóm hỉnh, Pháp đình tôn giáo suy yếu. Ở đời này cái gì mà chẳng có lúc qua đi. Nó chết già trước khi có những đạo luật cách mạng xóa bỏ nó. Phong tục biến đổi và các giàn hỏa thiêu, với những bài thuyết về đạo đức, những áo thầy tu trùm kín mặt và những việc chối đạo đi theo một cách khôi hài, không được người ta ưa nữa. Vả lại thời kỳ có những cuộc chiến tranh lớn ở Châu Âu đã kết thúc. Cả ở Hà Lan lẫn ở Ý không còn đánh nhau nữa. Những người phiêu lưu không lên tàu để đi chinh phục Châu Mỹ nữa. Người ta thấy cần có một cái nắp hơi bảo hiểm cho tính hung tợn của công chúng đã quen xem những cảnh đẫm máu. Thế là vào khoảng giữa thế kỷ XVII, lúc nước Tây Ban Nha lại chui vào cái vỏ của mình, nghệ thuật đấu bò ra đời. Những người, nếu ở vào thế kỷ trước, có thể là lính tráng ở Flăngđrơ hoặc thực dân quân sự ở những nơi hoang vu của Châu Mỹ, bây giờ trở thành những người giết bò mộng. Để giải trí cho nhân dân đang buồn tẻ, người ta xây những đấu trường thường xuyên, lập những đội đấu chuyên nghiệp, đặt cho các cuộc đấu những quy tắc cố định và nhân dân thấy cái đó rất hợp ý mình! Ở đấu trường, kế tục các hiệp sĩ là những người thứ dân đem cái việc liều mạng mình để kiếm tiền làm thành nghề nghiệp và quần chúng trở thành người chủ tuyệt đối của bãi đấu dân chủ hóa. Cháu chắt của những người đã dự với lòng hào hứng mộ đạo những cuộc nướng chả kẻ tà đạo và người Giudên, rất thích xem những trận đấu ồn ào giữa người và bò mộng, những trận đấu mà người đấu ít khi thành nạn nhân. Cậu bảo như vậy không phải là một sự tiến bộ à?
Bác sĩ Ruix nhấn mạnh vào ý kiến của ông:
- Đó là một sự tiến bộ không ai chối cãi được! Chính vì thế mà một người có tư tưởng cách mạng trong mọi vấn đề như tôi xin thú nhận không xấu hổ rằng tôi mê đấu bò. Tôi đồng ý rằng đấu bò là dã man. Nhưng những dân tộc tự cho mình là văn minh không có những thú vui khác cũng dã man chẳng kém hay sao? Có phải chỉ ở Tây Ban Nha nhân dân mới thích những cảnh tượng chết chóc đâu? Những cuộc đua ngựa vô ích tổ chức ở Anh, ở Pháp và ở khắp nơi hàng năm chẳng để lại trên đường đua nhiều người chết hơn cả trên bãi đấu bò của chúng ta hay sao? Lại còn những cuộc đi săn đuổi, những cuộc chọi gà, những cuộc đấu quyền Anh và tất cả những môn thể thao hung bạo làm bẹp mũi, gẫy chân, vỡ sọ phải đâu là những trò giải trí vô hại? Nói tóm lại, mỗi dân tộc có những trò chơi dữ tợn của mình. Và biết đâu chúng ta chẳng cần một chút hung bạo để xua đi cái buồn tẻ của cuộc sống quá êm ả, để đánh thức những nghị lực cường tráng trong cơ thể ươn hèn của chúng ta ? Biết bao người anh dũng và tài khéo, tuân thủ những quy tắc khôn ngoan không ai chối cãi được, chọi với những con vật to lớn hung dữ và giết chúng giữa thanh thiên bạch nhật, dưới bầu trời nóng như lửa, trước mặt công chúng ăn mặc muôn màu nghìn sắc hoan hô. Cái đó tất nhiên là một cảnh tượng đẫm máu nhưng cũng là một cảnh tượng tuyệt đẹp.
Nửa tháng sau, bác sĩ Ruix tuyên bố ông sắp trở về Mađrit. Ông nói với Gađacđô:
- Từ nay cậu không cần đến tôi nữa, nhưng cậu phải cẩn thận. Cậu nên về nông thôn nghỉ ngơi một dạo. Thể chất cậu rất vững chắc, chỉ vài tháng nữa là cậu khỏi hẳn thôi.
Chừng nào người bị thương còn bị những cơn sốt giày vò và những cơn ác mộng ám ảnh ban đêm thì anh không nghĩ đến Đônha Xôn. Nhưng khi sức khỏe hồi phục, anh liền nhớ tới mối tình cũ. Một buổi sáng, anh hỏi Đông Hôxê rằng tình nương của anh có hỏi thăm anh không?
- Tất nhiên là có, ông ủy quyền đáp. Hai ba ngày sau khi xảy ra tai nạn, tôi nhận được một bức điện đánh từ Nixơ trong đó nàng hỏi thăm cậu và tôi đã trả lời ngay rồi.
- Thế sau đó?
- Sau đó... tôi không nhận được gì nữa... Chắc nàng biết tin qua các báo vẫn đăng các báo cáo của bác sĩ về tình hình sức khỏe của cậu. Là vì người ta nói đến cậu ở khắp Châu Âu!... Vả lại, cậu không nên bận tâm về chuyện tình ái lăng nhăng nữa. Cái chính bây giờ là cậu phải hồi phục sức khỏe và lại đấu. Từ nay đến mùa xuân sang năm là cậu phải khỏe lại hoàn hoàn. Tôi hỏi thật: cậu có còn muốn đấu nữa không?
- Tôi mà không muốn đấu nữa à? Và chính ông, Đông Hôxê ạ, lại hỏi tôi điều đó hay sao? Muốn chứ! Muốn chứ! Mùa đông này tôi sẽ nghỉ ở trại nhà và đến mùa xuân sang năm tôi sẽ đấu với tất cả các con bò của người ta dẫn đến cho tôi. Ông có thể ký cho tôi một hợp đồng đấu trong dịp lễ Phục sinh.
- Thế thì hay quá! Cậu nên nghe tôi: bây giờ cậu nên quên đàn bà đi để nghĩ đến công việc. Vinh quang trước, lợi lộc sau, rồi nếu cậu muốn đàn bà thì cậu sẽ tha hồ có.
Không biết có phải thái độ lạnh nhạt rõ ràng của Đônha Xôn đã xúc phạm quá mạnh đến lòng tự trọng của Gađacđô hay là những ngày dài dằng dặc mà anh phải nằm bất động trên giường, chân bó bột trong khi vợ anh âu yếm ngồi bên cạnh trông nom anh đã làm anh nghĩ lại cách cư xử của anh và cảm thấy hối hận về những lỗi lầm đã mắc? Có điều chắc chắn là từ hôm đó anh không nói về Đônha Xôn với người ủy quyền của anh nữa.
Trước khi gia đình về ở trại Rinhcônađa, bà Aoguxtiax muốn con trai mình đến lễ trước tượng Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy. Đó là lời cầu khẩn của bà ngay từ hôm bà thấy người ta cáng Gađacđô về nhà, tái xanh như xác chết. Từ đó, đã bao lần, bà vừa khóc vừa cầu nguyện Nữ vương Thiên Đàng Đầy Ơn Phúc có cặp mi dài và hai gò má nâu. Đã bao lần bà van vỉ Đức Bà che chở cho Huan, đứa con trai tội nghiệp của bà.
Thánh lễ diễn ra trong một buổi sáng đẹp trời. Mặc dầu hôm đó là ngày làm việc, nhà thờ Xăng Gin treo đèn kết hoa, chật ních những người khá giả nhất ở những phố xung quanh. Đó là những bà chủ gia đình béo tốt có cặp mắt hạt huyền, cái cổ to, mặc đồ lụa đen với chiếc áo cánh và chiếc váy căng trên da thịt phì nộn với chiếc khăn quàng đăng ten bao quanh khuôn mặt tai tái. Đó là những người thợ cạo mặt nhẵn nhụi, bận com-lê mới và đội mũ tròn, với chiếc áo gilê có sợi dây vàng to vắt ngang. Ăn mày kéo đến hàng đàn như trong đám cưới, vây quanh cửa nhà thờ. Những bà hàng xóm lắm chuyện, đầu để trần, tay bế con, xô đẩy nhau trong khi sốt ruột chờ đoàn người tới. Trong thánh lễ long trọng sắp cử hành có dàn nhạc và hát chầu đi kèm, các linh mục sẽ hát kinh tạ ơn vui tươi để tạ ơn Chúa đã cứu Huan Gađacđô.
Cuối cùng, đoàn người xuất hiện và lách qua đám đông. Đi đầu là bà mẹ và vợ của người matađo, mặc áo dài bằng lụa đen dầy sột soạt. Đi giữa những người bà con và hàng xóm, bà Aoguxtiax và Cacmen mỉm cười qua tấm khăn quàng bằng đăng ten. Tiếp đến Gađacđô có một dây dài đấu sĩ và bạn bè đi hộ tống, ai nấy mặc quần áo màu sáng, đeo dây chuyền và nhẫn lấp lánh, đội mũ phớt màu trắng tương phản với những màu tối của quần áo đám phụ nữ.
Anh matađo có vẻ nghiêm trang. Anh là một người công giáo thành thực. Anh ít nghĩ đến Đức Chúa Trời, và khi gặp chuyện trắc trở, anh nói báng bổ như một người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng hôm nay thì khác! Đây là chuyện tạ ơn Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy. Vì thế anh bước vào nhà thờ với thái độ ăn năn, mọi người khác cũng làm như anh chỉ trừ Người Quốc dân cứ đứng ngoài nhà thờ trong quảng trường.
- Tôi là một người tự do tư tưởng, bác nghĩ là đúng lúc để tuyên bố như thế với mấy người bạn. Tôi tôn trọng mọi tín ngưỡng, nhưng cái người ta đang làm trong kia, theo tôi là... vớ vẩn. Tôi không có ý định thất lễ với Đức Bà Đồng Trinh và phủ nhận phần công lao của Bà. Nhưng chỗ chúng ta tôi xin nói thật, nếu hôm đó tôi không tới nhanh để kéo con bò ra chỗ khác khi anh Huan nằm dưới đất, thì tôi xin hỏi anh ta bây giờ đã ra sao rồi?
Qua các cửa mở, lọt ra tận sân trước ngôi nhà thờ tiếng rền rĩ của các nhạc cụ, tiếng người hát một giai điệu êm êm say đắm hòa vào mùi hương hoa thơm ngát. Các đấu sĩ và các người hâm mộ đấu bò tụ tập trước nhà thờ hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Thỉnh thoảng lại có vài người tách ra chuồn đến tiệm rượu gần nhất.
Khi đoàn người từ trong nhà thờ bước ra, đám ăn mày đẩy nhau, hích nhau để hứng lấy những đồng xu vứt từng vốc. Anh matađo rạng rỡ và lộng lẫy, đưa cánh tay đỡ Cacmen bước đi còn chị thì cảm động run người, mắt nhìn xuống, một giọt lệ đọng trên mi mắt. Đó là giọt lệ hạnh phúc, chị tưởng như mình đang làm lễ cưới lần thứ hai.
Sau khi cùng vợ nghỉ ở trại Rinhcônađa suốt mùa thu và mùa đông, Gađacđô trở về Xêvilơ vào cuối tháng ba, vì anh có hợp đồng đấu trong dịp lễ Phục Sinh.
Cảnh nông thôn, không khí khoáng đãng, những buổi tập luyện thân thể đã làm cho sức khỏe của anh phục hồi hoàn toàn. Không những anh không đi khập khiễng nữa mà anh còn cho rằng chân anh đã nhanh nhẹn mạnh mẽ bằng khi xưa. Sau một cuộc đi bộ dài hoặc đi săn suốt ngày, anh chỉ hơi thấy tê tê trong khuỷu chân. Nhưng công việc của người matađo trên bãi đấu chỉ lâu khoảng vài phút vả lại những cảm giác khó chịu nho nhỏ đó nhất định ít lâu nữa sẽ hết, cũng như nhiều cái khó chịu nghiêm trọng hơn nhiều. Đôi lúc ở trong phòng một mình, anh đứng ưỡn ngực trước gương soi, làm bộ điệu của người đâm bò. Phập!... Con bò vô hình gục xuống bãi cát tưởng tượng và người matađo mỉm cười vui vẻ nghĩ tới sự thất vọng của những kẻ thù cứ hí hửng được thấy cảnh suy tàn của anh. Anh nóng ruột muốn mau tới ngày lại đến đấu trường để thấy công chúng chào đón nhiệt liệt bù vào những ngày chữa vết thương.
Bước vào tuần lễ Thánh, Gađacđô làm một việc khiến mẹ anh rất vui.
Mấy năm trước, với tư cách là một tín đồ của Nhà thờ Chúa Jêzu Toàn Năng, anh đi dự đám rước của giáo xứ Xăng Lôrăngđô trong bộ quần áo cổ truyền: áo chùm đen có mũ nhọn cao và mặt nạ chỉ để hở hai con mắt. Hội đoàn thánh Xăng Lôrăngđô là một hội đoàn quý phái mà Gađacđô đã gia nhập khi thấy mình đang tiến nhanh trên đường sự nghiệp. Từ đó anh khinh rẻ những hội đoàn thánh của quần chúng trong đó lòng mộ đạo không tách rời tật say bét nhè và nhiều chuyện đáng chê cười khác.
Anh nói một cách thích thú và kiêu hãnh về tính chất nghiêm chỉnh của hội sùng đạo ấy. Mọi cái đều quy định tỉ mỉ, có kỷ luật khắt khe y như trong quân ngũ. Đêm thứ năm Thánh, khi chuông đồng hồ điểm hai giờ, các cánh cửa nhà thờ Xăng Lôrăngđơ mở toang ra và đám đông đang chen nhau ở sân trước tối om bỗng thấy bên trong nhà thờ đèn nến sáng như ban ngày hiện ra với toàn hội đoàn xếp hàng rất ngay ngắn.
Những người bịt mặt, im lặng bi ai, chỉ còn sinh động ở cái ánh mắt ló qua hai lỗ mặt nạ từ từ bước theo hàng đôi, tay cầm một cây nến to, chú ý giữ một khoảng cách rộng từ hàng này sang hàng khác để những chiếc đuôi áo rất dài kéo lê trên mặt đường. Những bóng ma bí mật đó có thể là những lãnh chúa lớn vì mộ đạo từ đời ông cha nên đến tham gia cuộc diễu hành ban đêm này. Nhiều vệ binh của thành phố đi hộ tống họ để trông nom cho họ khỏi bị trêu quẫy, vì trong công chúng có những kẻ say rượu mà các hội viên thì buộc phải im lặng nếu không sẽ phạm trọng tội. Đôi khi vệ binh canh phòng sao nhãng, thế là có kẻ vô đạo say rượu xông đến bên một hội viên rồi vừa đi vừa thì thầm vào tai hội viên ấy những lời thóa mạ ghê sợ, xúc phạm lung tung và thô bỉ người che mặt đi rước lẫn cả gia đình người ấy. Thoạt đầu người đeo bộ mặt nạ thiêng liêng im lặng, đau khổ, nuốt hận, dâng những lời thóa mạ mình lên Chúa Jêzu Toàn Năng, nhưng cuối cùng không nhịn được nữa, người ấy chẳng nói chẳng rằng giơ cao cây nến đập thẳng cánh một trận cho đứa mất dậy đám phá rối sự mặc niệm tôn nghiêm của cuộc lễ.
Mỗi giáo xứ ở Xêvilơ đưa ra hai paxô một cái về Chúa Jêzu, một cái về Đức Bà. Trong đám rước, khi những người khiêng paxô cần nghỉ và những cái bệ nặng mang tượng thánh và đèn đóm dừng lại thì một tiếng còi nhỏ nổi lên khiến những người đeo mặt nạ cũng dừng lại từng đôi, người nọ quay mặt vào người kia. Chống cây nến lên bàn chân của mình, họ nhìn công chúng bằng những con mắt sáng long lanh trong lỗ mặt nạ tối om: họ là những nhân vật kỳ dị dường như vừa mới từ một giàn hỏa thiêu nào đó thoát về, những bóng ma mà đuôi áo đen hình như vẫn còn gieo rắc mùi hương trầm và mùi giàn hỏa. Ở trên những cái mũi nhọn đó phất phơ những lá cờ của hội đoàn thánh - những mảnh nhung vuông màu đen riềm vàng có thêu hàng chữ la mã S.P.Q.R. để ghi nhớ vai trò của viên toàn quyền xứ Giuđêa trong vụ kết án tàn bạo Người Công Chính.
Cái paxô của Chúa Jêzu Toàn Năng được dựng trên một cái bệ bằng kim loại, bốn xung quanh treo màn nhung đen rủ xuống tận mặt đất che khuất hai mươi người khiêng gần trần truồng và vã mồ hôi dưới gánh nặng. Ở các góc của paxô có bốn nhóm đèn với những thiên thần vàng chóe, còn ở giữa paxô là hình Chúa Jêzu, đầu đội mũ gai, gục người dưới cây thập giá - một Chúa Jêzu bi thảm, đau đớn, đẫm máu với đôi mắt đẫm lệ, bộ mặt bệch như xác chết, nhưng mặc một chiếc áo dài rộng bằng nhung thêu hoa đặc xít bằng kim tuyến, đến nỗi chỉ hơi thấy nó loáng thoáng như một đường trang trí uốn lượn kiểu Ả Rập giữa những hình thêu chằng chịt rất phức tạp. Trông thấy tượng Chúa này hàng trăm con người than thở...
- Lạy Chúa tôi! Các bà già lầm rầm cầu khấn, mắt đăm đăm nhìn như bị thôi miên. Lạy Chúa Jêzu Toàn Năng, xin Chúa đừng quên chúng con!
Khi cái paxô dừng lại, người dân xứ Ăngđaludi vốn hay diễn tả mọi trạng thái tâm hồn mình bằng thơ ca, bèn chào tượng thánh bằng những tiếng hát ríu rít như chim và những lời than khóc vô tận. Một cô gái rẽ đám đông, len đến hàng đầu, dâng lên Chúa Jêzu một bài thơ mỗi đoạn có ba câu ca ngợi "bức tượng thần thánh nhất" mà Mactinê Môngtanê, nhà điêu khắc trứ đanh đã tạc ra. Những người bịt mặt lắng nghe, không cử động cho đến khi người cầm trịch khiêng paxô thấy thời gian nghỉ đã đủ bèn gõ vào cái khánh bằng bạc treo ở phía trước bệ.
- Dô ta nào! Một ! Hai! Ba!
Thế là tượng Chúa Jêzu Toàn Năng, sau khi lúc lắc vài cái, nâng cao dần dần trong khi chân của những người khiêng vô hình bắt đầu chuyển động ở sát mặt đất như chân con cuốn chiếu.
Rồi đến tượng Đức Mẹ Bẩy Sự che tán nhung, xung quanh tràn ngập ánh sáng. Một cái mũ triều thiên bằng vàng rung rinh trên trán Người, cái đuôi áo choàng của Người dài đến mấy thước trải rộng ra ở phía sau paxô trên một thứ gọng gỗ làm nó phồng lên và lộ rõ vẻ lộng lẫy của những đường thêu tuyệt diệu, kỳ công nghệ thuật và kiên nhẫn của cả một thế hệ. Ánh lửa lung linh của những cây nến bưng trong tay những người bịt mặt hắt vào tấm áo choàng tôn quý, làm cho áo lấp la lấp lánh.
Sau tượng Đức Bà Đồng Trinh đến một đám phụ nữ chen chúc nhau, thân thể lấp trong bóng tối nhưng khuôn mặt nhuộm màu đỏ tím trong ánh lửa của ngọn nến cầm tay. Đó là những bà già quàng khăn, đi chân đất, những cô gái bận chiếc váy dài trắng sau này sẽ dùng làm áo liệm cho mình; những người nghèo tàn phế nặng nhọc tha cái bụng bệnh tật trương phềnh, cả một dòng người đau khổ nhờ ơn đức của Chúa Jêzu và của Mẹ Rất Thánh của Người mà thoát chết, bây giờ đi theo hình ảnh các Người để thực hiện lời cầu khẩn.
Đám rước của hội đoàn thánh, sau khi đi qua các phố và dừng lại nhiều lần để hát những bài Thánh vịnh, cuối cùng tới nhà thờ chính tòa mở cửa suốt đêm và tiến vào lòng ngôi điện cao rộng khác thường. Ánh nến chiếu sáng những chấn cột to lớn bọc nhung màu đỏ xẫm có những sọc vàng, nhưng ở tít trên cao nó không thể xua tan bóng tối rủ xuống các vòm. Những người bịt mặt, giống những con sâu đen có đầu nhọn, dường như bò sát mặt đất trong ánh lửa đỏ ngầu trong khi bóng đêm tiếp tục bao phủ phía trên của tòa nhà. Sau khi vượt qua cung thánh, họ lại ra ngoài nhà thờ dưới ánh sao mờ và tiếp tục cuộc diễu hành cho đến sáng.
Mặc dầu rất quyến luyến hội đoàn thánh quý phái này và Chúa Jêzu Toàn Năng, Gađacđô quyết định năm nay sẽ tham dự đám rước bình dân của nhà thờ Đức Bà Đáng Trông Cậy.
- Con nghĩ thế là phải, Huan ạ, bà Aoguxtiax đáp khi anh bày tỏ ý định với bà. Tốt nhất là ai nấy đi với người cùng giai cấp với mình. Mẹ không can con lui tới chỗ ông to bà lớn. Nhưng con cũng phải đối xử như thế nào với giáo xứ Macarêna chứ! Vả lại những người nghèo đã hết sức tốt với con khi con mới bước vào nghề, đến nay họ bắt đầu nghĩ rằng con khinh họ; có cả những người chẳng e dè gì, đã nói xấu con nữa... Than ôi! Anh matađo biết điều ấy quá rõ! Đã nhiều lần công chúng bình dân tỏ ý giận anh. Họ chỉ trích nghiêm khắc anh quan hệ mật thiết với giới thượng lưu và bỏ rơi thẳng cánh những người khâm phục anh khi xưa, những người đã giúp anh nổi cơ đồ vì ca ngợi anh rất sớm.
Do đó, anh trông thấy cấp bách phải lấy lại cảm tình của tầng lớp dưới bằng cách tham gia đám rước của khu phố anh trước mắt mọi người. Cho nên ba bốn ngày trước khi có đám rước, anh đã chú ý thông báo bí mật ý đồ của anh cho những hội viên có uy tín nhất của hội thánh Macarêna.
- Xin các bạn giữ bí mật cho, anh nói. Đây chỉ là một việc sùng kính nên tôi không muốn người ngoài nói đến. Tất cả sự mong muốn của tôi là tỏ lòng biết ơn Đức Bà đã cứu sống tôi khi tôi bị thương.
Bí mật ấy được giữ kín đến nỗi ngày hôm sau nó đã thành đề tài chuyện trò trong tất cả các hàng thợ cạo, các hàng thực phẩm.
- A! Năm nay ta phải ngắm Đức Bà Macarêna mới được, thiên hạ kết luận sau khi bàn tán không ngớt về quyết định của người matađo. Bà Aoguxtiax sẽ phủ đầy hoa lên paxô và Huan sẽ đem hết đồ trang sức của mình đeo lên người Đức Bà. Nhiều của lắm đấy! Quả vậy Gađacđô tập trung tất cả đồ trang sức của gia đình anh để trang điểm cho tượng Đức Bà Macarêna. Đức Bà sẽ đeo đôi hoa tai của Cacmen mua tại Mađrit bằng tiền thu nhập của nhiều trận đấu và sợi dây chuyền kép bằng vàng của Gađacđô, trên sợi dây đó sẽ treo tất cả các nhẫn và các khuy áo to bằng kim cương anh thường dùng để trang điểm yếm ngực sơ mi của anh khi anh ra phố.
- Lạy Chúa tôi! Đức Bà của chúng ta sắp diện biết chừng nào! Mấy bà hàng xóm nói. Một nửa thành phố Xêvilơ sẽ ghen đến phát điên! Chính ông Huan lo liệu mọi việc trang điểm.
Khi người ngoài hỏi Gađacđô về chuyện này, anh mỉm cười nhũn nhặn và trả lời rằng lúc nào anh cũng rất sùng kính Đức Bà Macarêna. Đó là Đức Bà của khu phố anh sinh ra, hơn nữa bố anh lúc sinh thời không bao giờ quên tham gia đám rước ấy, ăn mặc như một chiến sĩ. Đó là một vinh dự cho gia đình anh.
Bản thân anh, nếu địa vị cho phép, sẽ vui sướng đội cái mũ lính và cầm cái giáo noi theo biết bao người khác thuộc dòng họ Gađacđô, tổ tiên anh, hiện đã mục xương dưới đất.
Tiếng tăm về phương diện tôn giáo làm anh hãnh diện, đồng thời gây lo âu cho anh. Anh vui thích thấy tất cả dân cùng phố biết ý định của anh, nhưng anh sợ tin đó lan ra các nơi khác trong thành phố. Với lòng ích kỷ ngây thơ của anh, anh muốn được Đức Bà Đồng Trinh che chở phòng khi gặp tai nạn, nhưng anh sợ miệng tiếng của bạn hữu hay đi lại các quán cà phê và các câu lạc bộ ở phố Rắn. Anh tự nhủ:
"Nếu họ nhận ra mình, họ sẽ cười mình. Thật là phiền. Quan hệ tốt với tất cả mọi người, đó là điều mình mong muốn...".
- Buổi chiều thứ năm tuần Thánh, Gađacđô đi với Cacmen đến nhà thờ chính tòa để nghe hát kinh xin Chúa thương xót. Lòng nhà thờ với những vòm múi nhọn cao vút, đèn đóm không có gì ngoài mấy ngọn nến thắp ở sát các cây cột, chiếu sáng yếu ớt vừa đủ để dân chúng khỏi phải bước mò. Còn những người giàu có sợ sự tiếp xúc thô bạo của đám dân đen và bị xô đẩy nguy hiểm thì đã lẩn vào sau rào sắt của những nhà nguyện ở hai bên, khiến họ trông như những con vật trong cũi.
Ban đồng ca cũng bị chìm trong bóng tối, mặc dầu có nhiều điểm sáng nho nhỏ nhấp nháy như một đàn đom đóm bên những người đánh đàn và những người hát lễ. Trong cảnh tối tăm bí mật đáng sợ ấy, bài Miđêrêrê của Exlava tỏa ra những giai điệu mang phong cách Ý: một bản Miđêrêrê nhí nhảnh duyên dáng như tiếng đập cánh của những đàn bồ câu với nhiều vẻ tình ca giống những dạ khúc ái ân hoặc những bài hát tiếp giọng của tửu đồ.
Khi ca sĩ giọng cao ngừng lại và những tiếng ngân cuối cùng của anh gọi tên thành phố giết Chúa Jêzu
- "Jêzudalem! Jêzudalem!" đã tan đi dưới vòm nhà thờ, công chúng bèn giải tán để mau ra tung tăng ngoài phố. Còn Gađacđô thì vội vàng về nhà để mặc bộ quần áo người Nadarét. Bà Aoguxtiax đã chuẩn bị bộ quần áo đó một cách kỹ càng và trìu mến, việc đó làm bà trở lại tuổi thanh xuân. Bà nghĩ đến ông chồng tội nghiệp cứ đến hôm đó là đóng bộ đồ chiến sĩ và từ nhà đi ra, giáo vác vai, đến tận sáng hôm sau mới trở về, mũ bẹp, quần bẩn, sau không biết bao nhiêu lần cùng các chiến hữu dừng chân ở tất cả các tiệm rượu của thành phố Xêvilơ.
Anh matađo trang điểm tỉ mỉ như phụ nữ. Anh mặc bộ quần áo người Nadarét cẩn thận chẳng kém gì mặc chiến phục để ra đấu trường. Anh mặc chiếc áo dài bằng xa tanh trắng, sửa lại chiếc áo thụng có mũ bịt mặt bằng nhung đen chụp xuống như mặt nạ và chổng chóp nhọn lên trời. Chiếc áo ấy dài tới đầu gối theo kiểu áo tế, thêu tinh vi và sặc sỡ ở bên trái ngực cái huy hiệu của hội đoàn thánh. Rồi anh xỏ tay vào đôi găng trắng, cầm cây gậy chống dài, biểu trưng của hàng giáo phẩm. Đó là một cái gậy bọc nhung màu ngọc xanh trên đầu có núm bạc và đai đế cũng bằng bạc.
Đồng hồ điểm mười hai giờ đêm lúc anh chàng ăn mặc oai vệ và mang mũ bịt mặt đi đến nhà thờ Xăng Gin qua phố xá đông nghịt. Khi sắp tới nhà thờ, anh gặp đại đội người Juđêa, nghĩa là những người ăn bận đồ quân sự, những chiến binh dữ tợn nóng lòng được thấy dân chúng khiếp phục kỷ luật nhà binh của mình, đang đứng chờ đám rước khởi hành bằng cách dậm chân tại chỗ theo nhịp trống cải nện liên hồi. Những người này - cả già lẫn trẻ - đều có bộ mặt lồng trong cái quai mũ chiến bằng sắt, thân thể bó chặt trong áo chẽn màu cặn rượu vang, đùi vế sỏ trong đôi tất bông màu hồng nhạt, bàn chân đi dép cao, lưng thắt thanh dao La Mã, và bắt chước những binh sĩ hiện đại, họ đeo giáo lên vai bằng một sợi dây dùng làm quai đeo súng. Ở đầu hàng, phất phơ một lá cờ thêu biểu hiện của Nguyên lão nghị viện thời cổ. Chỉ huy đạo quân nhỏ ấy là một ông ăn mặc hào nhoáng nhún nhẩy ở đầu hàng quân, gươm tuốt trần.
"Đời hay thật! Gađacđô cười thầm lẩm bẩm. Tối nay sẽ chẳng ai để ý đến mình đâu, thiên hạ sẽ chỉ ngắm thằng cha công tử bột này thôi".
Đó là đại úy Sivô, một người gitanô mới từ Pari đến sáng nay để chỉ huy đại đội của ông ta. Không đời nào ông chịu vắng mạt ở đây hôm nay. Vì nếu thế ông sẽ phải từ bỏ cái danh vị đại úy mà ông kiêu hãnh ghi trên các áp phích miudich hôn tại Pari, trong đó các cô con gái ông và cả ông nữa hát múa. Các cô ấy lanh lẹn như những con tắc kè, có đôi mắt to, màu da hơi nâu, vóc người thanh mảnh, cử động duyên dáng làm đàn ông phải quay mặt nhìn. Cô lớn nhất đã may mắn bỏ nhà trốn đi với một ông hoàng Nga và trong một thời gian báo chí ở khu phố ăn chơi của thủ đô Pari đã đăng nhiều bài viết về nỗi thất vọng của người sĩ quan giỏi giang của quân đội Tây Ban Nha kia, của. một ông Đôn Kihôtê quyết tâm tiêu diệt những kẻ có tội để báo thù việc xúc phạm đến danh dự của ông. Không những thế, một rạp hát đã dựng một vở ca kịch vui ngắn lấy việc dụ dỗ cô gái gitanô làm đề tài, kèm theo có nhiều điệu múa của đấu sĩ bò mộng, nhiều bài đồng ca của thầy tu và nhiều trò khác pha màu sắc địa phương ấm ớ. Nhưng chẳng bao lâu đại úy Sivô đành dàn xếp với anh con rể không chính thức và sau khi bỏ túi một món tiền bồi thường hậu hĩ, ông tiếp tục cho mấy cô con út múa hát, trong lúc chờ đợi một tay người Nga khác. Hàm đại úy của ông làm cho người người Pháp ngẩn ngơ, vì họ biết rõ đất nước Tây Ban Nha. Trời ơi! Cái nước Tây Ban Nha này xuống dốc hoàn toàn rồi! Nó không trả lương cho những người anh dũng bảo vệ nó, khiến những người thế gia vọng tộc phải phô bày con gái của mình trên sân khấu.
Năm nào cũng vậy, cứ sắp đến Tuần lễ Thánh, là đại úy Sivô lại từ biệt mấy cô con gái với lời lẽ của một người cha không cho phép nói đùa:
- Ba đi đây, các con ạ. Các con phải ngoan nhé! Ăn mặc đứng đắn và sinh hoạt ngay thẳng nhé! Đại đội của ba đang chờ ba. Ba phải có mặt ở nhiệm sở của ba.
Ông đi một lèo từ Pari đến Xêvilơ, kiêu hãnh vì ông bảo tồn truyền thống của tổ tiên xưa kia đều làm đại úy đại đội người Juđên và ông còn làm rạng rỡ thêm truyền thống vinh quang đó. Ông đã có lần trúng Xổ số quốc gia một vạn đồng pêxêta và ông dùng tất cả món tiền đó để mua một bộ quân phục xứng đáng với cấp bậc của ông. Những phụ nữ hay kháo chuyện ở khu phố ông chạy tới xem tận nơi cái áo dài nhà binh thêu kim tuyến lóa mắt, cái áo giáp ngực bằng kim khí màu nâu, cái mũ thép lòa xòa một mớ lông trắng phản chiếu rất rõ ánh nến của đám rước. Thật là thứ quần áo ngông cuồng và huy hoàng của người da Đỏ, một bộ rất sang hiện ra trong giấc mơ của một người Arôcăng say rượu. Họ sờ cái váy nhung, nức nở khen những hình trang trí thêu trên đó, nào đinh, nào búa, nào gai nghĩa là tất cả những dụng cụ hành hình Chúa Jêzu. Cả đôi ủng cũng đính đầy cườm và ngọc giả. Mỗi bước ông đi đều làm cho những thứ trang sức ngộ nghĩnh đó lấp la lấp lánh.
Đến lúc khởi hành, ông đại úy với vẻ mặt hùng dũng, quay người về phía các chiến sĩ của mình, nhìn thẳng vào họ bằng con mắt diều hâu:
- Chú ý! Ông thét lên. Cấm ngặt ra khỏi hàng ngũ! Phải chấp hành kỷ luật!. .. Bước đều, bước ! Một! Hai!
Tiếng trống trận nổi lên, và đại đội chuyển mình, cứng nhắc, trang nghiêm, thấm nhuần chức trách nặng nề của mình. Nhưng than ôi! Ở mỗi phố đều có mấy tiệm rượu và trước mỗi tiệm lại có những anh bạn vui nhộn đã nốc cạn không biết bao nhiêu ly rượu để tự giải sầu về cái chết vì đạo của Chúa. Vừa thoáng thấy ông đại úy đường bệ, những bợm rượu mộ đạo liền chào ông và giơ tay lên từ xa thứ nước có mùi thơm và màu hổ phách. Ông đại úy muốn giấu cơn bối rối và tránh sự cám dỗ bèn nhìn đi nơi khác, lấy tư thế uy nghi. Chao ôi! Giá lúc này ông không phải làm nhiệm vụ nhỉ! Một người bạn táo bạo nhất bèn vượt ngang lòng đường cái, chạy đến giơ cốc rượu đầy trước mũi ông, nhưng người chỉ huy không ai có thể mua chuộc được ngả người về phía sau và giơ mũi giáo về phía kẻ cám dỗ. Không, không, năm nay sẽ không phải như mọi năm trước mà thiên hạ thấy các chiến binh loạn xạ ngay sau khi khởi hành đâu!... Nhưng mà trời nóng thật, ông đại úy quyết định nhận cốc rượu thứ nhất, rồi đến cốc thứ hai, rồi lại một cốc nữa; các binh sĩ của ông bắt chước ông và chẳng bao lâu đại đội bị đánh tan tác để lại hàng đám tàn binh lếch tha lếch thếch trên đường.
Đám rước đi chậm chạp như thường lệ, cứ đến mỗi ngã tư lại dừng lại hàng giờ.
Đi đầu là paxô "Bản án Chúa Jêzu". Đó là một cái bục di động, mang đầy hình người : Philatô ngồi trên ngai, những vệ binh đội mũ cắm lông và áo dài quân sự mỗi cái một màu. Chúa Jêzu tội nghiệp sắp sửa bị đưa đi hành hình, đầu đội mũ gai, mặc một chiếc áo nhung tím thêu chi chít và trên đầu có ba chùm tia vàng tượng trưng cho sự tỏa sáng của đấng thần thánh. Dù trang trí lộng lẫy như vậy, paxô đó hầu như không gợi được sự tò mò của quần chúng. Paxô mà họ muốn xem là paxô khác, paxô của Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy có phép lạ tức là paxô của Đức Bà Macarêna.
Khi tượng Đức Bà với cặp mắt hồng và hai mi mắt dài rước ra khỏi cửa nhà thờ Xăng Gin, dưới một cái tàn nhung rung rinh theo bước chân của những người khênh vô hình, công chúng đứng đông nghịt trên quảng trường nhỏ hoan hô rầm rĩ. Chao ôi! Nữ vương
Thiên đàng mới xinh đẹp làm sao! Xinh đẹp không bao giờ già!
Chiếc áo khoác lông lẫy, rộng lùng thùng, thêu kim tuyến dày cộp thành hình những mắt lưới, xòa xuống phía sau paxô như cái đuôi khép lại của một con công to lớn dị thường. Cặp mắt thủy tinh óng ánh, dường như rưng rưng nước mắt để trả lời tiếng chào nhiệt liệt của các tín đồ. Trên khắp bức tượng hàng nghìn đồ nữ trang nạm ngọc lấp lánh tạo thành một chiếc áo thứ hai rực rỡ muôn màu nghìn sắc. Cổ Đức Bà đeo những chuỗi hạt trai, những dây chuyền vàng xuyên qua hàng trăm cái nhẫn. Mặt trước áo dài và áo choàng của Người chi chít những đồng hồ vàng, những hoa tai bằng ngọc bích hoặc bằng những viên kim cương to như hòn cuội. Các tín đồ đã đem đồ tư trang của mình làm đẹp cho Đức Bà và trong cái đêm đau khổ có tính chất tôn giáo này, các phụ nữ kiêu hãnh giơ cho thiên hạ xem những ngón tay không còn nhẫn của mình.
Gađacđô, mặt bịt kín, tay cầm chiếc can có núm bạc, đi trước paxô này cùng các vị chức sắc của hội đoàn thánh. Nhiều người bịt mặt khác mang cái kèn đồng buộc mảnh vải xanh viền vàng, thỉnh thoảng lại đưa lên môi qua lỗ mặt nạ miệng sáo của nhạc cụ có tiếng kêu ai oán phá tan bầu không khí nặng nề. Đó là một loại âm nhạc làm sởn tóc gáy nhưng không hề gợn buồn trong tâm trí, và đám rước dần dần mất vẻ trang nghiêm.
Những người dân phố, con chiên của Đức Bà Macarêna, bước lộn xộn quanh tượng thánh. Đó là những người chủ hiệu nhỏ ở phố Fêria, những thợ thuyền sống trong những ngõ hẻm quanh nhà thờ Xăng Gin, những người trồng rau ở gần bệnh viện Năm Vết Thương hoặc dọc con đường Đông thánh Phanxicô. Những người đó đi với vợ đầu tóc rối bù, tay dắt đàn con lít nhít cho đến tận sáng.
Những thanh niên ngoại ô, đội mũ phớt mới, vòng tóc chải mượt và nhọn quấn trên thái dương vừa đi vừa khua gậy làm như Đức Bà xinh đẹp bị kẻ vô đạo nào thất lễ và cần có bàn tay bảo vệ của họ. Họ ca tụng ầm ĩ quyền làm cho phép lạ hạng nhất của bà thánh bảo trợ của họ bằng những tiếng hò hét tỏ rõ cái vô ý thức của người say rượu và cái nhẹ dạ bẩm sinh của người ngây ngô.
- Hoan hô Đức Bà Macarêna! Hoan hô Đức Bà Đồng Trinh đệ nhất thế giới! Hoan hô Đức Bà ăn đứt mọi Đức Bà khác!
Đám rước đi độ năm mươi bước lại phải dừng. Trước hầu hết mọi nhà, thiên hạ nhoài mình ra ngoài cửa sổ yêu cầu tượng thánh dừng lại để họ ngắm nghía cho thỏa thích. Những người chủ tiệm rượu xoắn xuýt nhất để đòi ân huệ đó, họ gọi to những vị chức sắc của hội đoàn thánh.
- Xin các ngài dừng lại ít phút thôi. Ở đây chúng tôi có một người hát lễ muốn dâng lên Đức Bà một bài ca câu một.
Người hát tiến lên, hai chân lắc lư, phải có một người bạn đỡ, bắt đầu anh đã ho, rồi mở máy phát ra bằng giọng rượu lè nhè một bài hát lễ mà những tiếng ngân, tiếng luyện giọng làm cho người nghe không thể hiểu rõ lời nào. Người ngoài chỉ có thể đoán rằng anh ca ngợi Đức Mẹ và khi anh ngân nga mấy tiếng đó, giọng anh run lên vì kính yêu.
Nhà đơn ca chưa hát đến đoạn giữa của bài ca dài dòng, một tiếng hát thứ hai đã cất lên ở gần đó, rồi một tiếng hát thứ ba cùng nhiều tiếng nữa, y như trong một cuộc thi hát. Thế là phố xá tràn ngập những người hát tài ba, người thì cho thấy qua giọng khàn khàn rằng phổi mình đã bị rám, người thì hát như thét vào tai, xé toạc bầu không khí bằng những tiếng rít lanh lảnh. Phần đông là những người mộ đạo quá thành tâm, họ không muốn tự phô bày cho nên đứng lẩn trong đám đông. Nhưng có vài "nghệ sĩ" tự mãn về cổ họng phong phú và phong cách thanh lịch của mình và không thể dằn lòng trước ý muốn ra trước công chúng cho nên đã đứng ngay trước mặt Đức Bà ở giữa lòng đường. Trong khi đó trống cái trống con tiếp tục gõ, kèn tiếp tục phát ra những nốt kinh khủng và trong mớ âm thanh hỗn độn đinh tai nhức óc của ca sĩ và nhạc cụ ấy, không người hát lễ nào thèm để ý đến người khác, cứ kéo một mạch đến hết bài của mình, không bao giờ ngập ngừng bối rối, tiếp tục ngân nga dường như không có ai bên cạnh hoặc không còn cảm giác nào ngoài sự ngất ngây mộ đạo của bản thân.
Khi các tiếng hát chấm dứt, người nghe phấn khởi thét lên những tiếng hoan hô nhiều khi thô tục. Những người cuồng tín nhất ném mũ vào tượng Đức Bà y như vào người một cô gái xinh đẹp, rồi rượu lại tuôn vào các cốc ngay dưới chân tượng. Đó có phải là lòng mộ đạo thần bí của đám bình dân mộng tưởng đối với Đức Bà Đồng Trinh không? Hay đó là một đám hội ngoại giáo đi hộ tống Người qua các phố? Thật khó mà biết rõ.
Đi trước paxô là một thanh niên khỏe mạnh, mặc áo dài tím, đầu quấn gai, dẫm chân không lên những hòn đá xanh trong các ngõ hẻm, vai vác một cây thập giá to lớn gấp đôi người anh. Mới thoáng thấy anh, các phụ nữ liền rền rĩ tỏ ý thương xót! Tội nghiệp anh thanh niên. Anh làm việc xám hối một cách mộ đạo thật! Quả là anh treo gương đạo đức cho mọi người sau khi làm mọi người phẫn nộ về hành động phạm thượng của mình! Nhưng đây chính là lỗi ở rượu làm con người mất ý thức.
Cách đây ba năm, buổi sáng ngày Thứ Sáu Thánh, đúng lúc Đức Bà Macarêna trở về nhà thờ, anh thanh niên này vốn tính nết ngoan ngoãn nhưng chén chú chén anh với các bạn từ chiều hôm trước, đã bảo dừng paxô ở Quảng trường Chợ, trước một tiệm rượu, để anh hát một bài dâng lên Đức Bà Đồng Trinh, rồi phát cơn mê sảng tôn giáo, anh cất tiếng tán tỉnh Đức Mẹ và cuối cùng để ca ngợi Đức Mẹ như thể ca ngợi người yêu, anh ném vào Đức Mẹ vật anh đang cầm trong tay mà có lẽ anh tưởng là chiếc mũ của anh. Chẳng may đó là một cốc rượu, nó đập vào mặt thánh và vỡ tan ra từng mảnh. Sau đó, anh bị đưa vào nhà tù, anh khóc sướt mướt, thanh minh rằng mình rất kính trọng Đức Bà Macarêna nhưng bị ma men ám ảnh, anh lo ngay ngáy có thể bị đi đày trong nhiều năm về tội phạm thượng. Anh tỏ ý ăn năn đến nỗi những người công phẫn với anh nhất, cuối cùng cũng can thiệp giúp anh. Vụ của anh đã được giàn xếp với điều kiện là anh hứa treo gương ăn năn cho những kẻ có tội bằng cách làm công khai một hành động xám hối đặc biệt. Vì thế mà hôm nay anh vác cây thập giá to tướng làm dập nát vai anh. Khi anh muốn đổi vai, nhiều người tốt bụng chạy lại giúp anh một tay để nâng cái gánh nặng lên.
Lúc paxô còn đang ở trong phố Fêria, đầu đám rước đã đi tới trung tâm thành phố Xêvilơ. Đã đến lúc tiền đội của đám rước cần thực hiện một cuộc vận động chiến lược tinh khôn để mau mau chiếm phố Cămpana, giành cho mình lối vào phố Rắn trước khi một hội đoàn thánh khác chiếm mất con đường này. Một khi làm chủ lối vào, đám rước Macarêna có thể lần chần hàng giờ trong phố xá trong khi các đám khác cứ việc dẫm chân tại chỗ chờ đợi chán chê ở đằng sau.
Phố Rắn, với những ngọn đèn điện treo bằng dây cáp ở giữa lòng đường, những quán cà phê và những cửa hiệu sáng trưng, những dãy ghế đặt trên hai bên hè, những ban công chật ních người xem đang cười đùa, phố Rắn phô bày ra quang cảnh của một chợ phiên vui nhộn. Ở bốn phía, những người hàng rong rao bán bánh kẹo và đồ giải khát, từ cửa các quán ăn xông ra mùi thơm ngon của những món xào rán, trong các tửu quán rượu vang rót tràn trề. Không có gì chứng tỏ rằng lúc đó đã ba giờ sáng. Có nhiều gia đình đến đây đầy đủ từ hôm qua, ngẩn ngơ ngắm những tượng thánh kéo đi một dãy dài, nào là các Đức Mẹ Đồng Trinh mặc áo choàng lộng lẫy, nào là các Chúa Cứu Thế đầu đội vành vàng mình mặc gấm vóc, cả một thế giới hình tượng dơ dẫn mà các khuôn mặt hốc hác hoặc rớm máu tương phản một cách hết sức kỳ dị với những quần áo lịch sự hết chỗ nói và lộng lẫy quá quắt!
Trong cuộc diễu hành dài vô tận, kế tiếp nhau những paxô của Sắc lệnh Thánh, của Chúa Nêtô Thầm lặng, của Chúa Jêzu trong Thung lũng, của Chúa Jêzu Ba lần ngã, của Đức Bà Thương khó, của Đức Bà Khóc lóc, của Đức Bà Ba Cần thiết, của Chúa Chết lành với những đoàn hộ tống sặc sỡ gồm những người Nadarét mặc quần áo đen, trắng, đỏ, xanh, lơ, tím, ai nấy đều bịt mặt chỉ còn để lộ hai con mắt.
Sau khi vượt qua phố Fêria chật hẹp một cách khó khăn và đổ vào quảng trường Xăng Frăngxixcô, gần những khán đài dựng trước Tòa Thị Sảnh, các paxô nặng nề quay nửa vòng khiến những tượng thánh nhìn thẳng vào khán đài, rồi những người khiêng quỳ xuống làm cho các bức tượng cúi chào những vị khách quý nước ngoài và những vị trong hoàng gia đến dự đám hội.
Những người phục vụ đám rước đi gần các paxô lếch thếch bưng vò nước. Paxô vừa dừng lại, tức thời một góc màn mở hé và hai chục người hiện ra, mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ rừ vì mệt nhọc, thân thể gần như trần truồng, đầu quấn khăn. Đó là những galơgô, những phu khiêng khỏe mạnh. Bất kể người khiêng gốc ở đâu đều được gọi bằng cái tên địa danh đó, dường như những người dân Xêvilơ muốn nói ý rằng họ không thể làm một công việc kéo dài và nặng nhọc quá như vậy. Những phu khiêng paxô uống ừng ực nước chứa trong vò và nếu có một tiệm rượu ở gần đấy, họ nổi loạn đòi người phụ trách paxô phải có rượu vang cho họ.
Đoàn diễu hành huy hoàng rước những giá treo cổ di động, những bộ mặt trắng bệch như xác chết và những bộ cánh lộng lẫy kia kéo dài suốt đêm, phù phiếm , vui nhộn và kệch cỡm. Các kèn đồng tha hồ gào thét những âm thanh khủng khiếp để khóc than nỗi bất bình ghê gớm nhất, việc hành hình ô nhục một vị Chúa Trời, các ca sĩ tha hồ hát những bài thánh vịnh sầu thảm về tấn bi kịch Gôngôta, các chiến binh và những đao phủ hung ác tha hồ dậm chân bình bịch xuống mặt đường, đêm xuân tươi đẹp quá, các chậu hoa đặt hàng dẫy sau các hàng rào sắt và trên các ban công tỏa hương ngát quá, chị hằng hiện ra giữa các mái nhà, trên tấm nệm mây rót ánh sáng thanh khiết và dịu dàng quá cho nên con người không thể nào nghĩ đến cái chết được. Thiên nhiên không dự đám tang đó, con sông chảy thì thầm như ca hát một bản tình ca, những cây gồi đu đưa chòm lá thanh mảnh một cách mềm mại thản nhiên, những vườn cam tỏa hương quyến rũ gợi tình xuân, tháp Giranđa vươn lên trời sao cái bóng ma màu xanh của nó; và đám người yêu đời kia hồn nhiên mượn việc kỷ niệm Chúa bị đóng đinh làm cớ cho một cuộc vui chơi kéo dài và chẳng đạo tí nào.
Ở cửa một tiệm cà phê, Người Quốc dân cùng toàn thể gia đình ngồi ngắm Đức Bà Macarêna và luôn miệng nói với vẻ khinh bỉ: "Một sự mê tín của những người lạc hậu!". Nhưng bác vẫn làm theo phong tục và giống mọi người khác, tới phố Rắn đêm nay.
Bác banđêridiêrô nhận ra chủ mình nhờ vóc người đẹp đẽ và vẻ thanh lịch của anh matađo trong bộ quần áo quan tòa tôn giáo.
- Anh Huan, bác kêu to gọi anh, anh bảo dừng paxô lại. Trong quán cà phê có mấy bà ngoại quốc muốn xem paxô thật thỏa thích đấy.
Cái bệ thánh dừng lại. Kèn đồng chơi một bản nhạc lôi cuốn thường làm khán giả vui nhộn trong các đấu trường. Bỗng nhiên những người phu vô hình khiêng paxô cùng nhau bắt đầu giơ một chân lên, rồi giơ đến chân bên kia, đi một bước múa làm cho chiếc paxô đảo đồng rất mạnh đẩy công chúng dạt vào tường. Đức Bà với tất cả mớ tư trang hoa hoét và chiếc tán đồ sộ của mình, Đức Bà Đồng Trinh cũng múa theo nhịp kèn vui nhộn ấy. Những con chiên của Đức Bà Macarêna hãnh diện về cái ảo thuật này mà họ đã phải tập luyện công phu.
Người xem vỗ tay rầm rĩ:
- Tất cả thành phố Xêvilơ đến đây mà xem! Đẹp nhất! Hội đoàn Xăng Gin muôn năm!
Sau đó đám rước lại hùng dũng kéo đi. Đến mờ sáng, khi mặt trời bắt đầu làm nhạt ánh đèn nến làm long lanh những giọt nước mắt và mồ hôi trên mặt các tượng thánh, làm lấp lóe các tư trang và những đồ trang trí bằng vàng ngọc, đám rước vẫn còn ở xa nhà thờ giáo xứ, phải đến trưa mới tới được. Và tất cả đám người đi rước - những dân Nadarét đã trút bỏ mặt nạ, những chiến binh trông như lính bại trận bỏ chạy, những tín đồ có bộ mặt phì nộn đỏ rực và đôi chân xiêu xiêu - tất cả đám người ấy trông như vừa đi quấy phá trong một đám hội giả trang trở về.
Trời vừa tảng sáng, Gađacđô liền rời khỏi đám rước. Đi hộ tống Đức Bà Macarêna suốt đêm cũng đủ rồi và anh hy vọng Đức Bà sẽ ghi nhớ công lao ấy cho anh. Vả lại, anh thấy ở lại đến cùng thì gay go, phiền phức. Giữa ban ngày ban mặt mà đeo mặt nạ thì buồn cười thật, hơn nữa nếu thiên hạ trông thấy một người matađo đi với một bọn say rượu thì bất tiện biết chừng nào.
Suốt ngày Thứ Bảy Thánh, bạn hữu đến thăm Gađacđô đông vô kể. Họ tươi cười nói:
- Thế là mọi người lại sắp được xem cậu đấu. Giới hâm mộ đấu bò chú ý đến cậu lắm. Thế sức khỏe cậu ra sao rồi?
- Cậu sắp đấu cừ không chê được ! Đông Hôxê ngắt lời, tin tưởng nhiệt liệt. Cậu lại sắp bỏ bò vào túi!... Đến ngày đấu, cuộc khởi hành ra đấu trường của Gađacđô nặng nề hơn bao giờ hết. Cacmen cố bình tĩnh và còn định giúp chồng mặc quần áo đấu. Nhưng dù làm bộ vô tư lự và vui vẻ, chị vẫn đoán được rằng một mối lo âu âm thầm đang dày vò tâm trí chồng. Tuy bề ngoài làm ra vẻ bình thản, Gađacđô không tự tin như trước nữa : anh không chắc chân tay anh vẫn còn lanh lẹn, cứng rắn.
Khi Gađacđô bước xuống sân, đầu đội mũ đấu, vai khoác áo choàng, bà Aoguxtiax ôm chặt lấy cổ anh khóc nức nở. Bà không nói một lời nhưng những tiếng thở dài sườn sượt đủ chứng tỏ bà lo âu biết ngần nào. Đấu bò lần đầu tiên sau cơn tai họa ngay tại nơi đã bị thương ghê gớm chẳng phải là quá liều lĩnh hay sao? Lòng mê tín của người phụ nữ bình dân chống lại sự liều lĩnh dại dột như thế. Chao ôi! Biết bao giờ Gađacđô mới chịu giải nghệ? Anh chưa kiếm được khá tiền hay sao?
Nhưng Angtôniô can thiệp vào, với uy thế của người cố vấn trong gia đình:
- Thôi, mẹ ơi, có gì mà mẹ phải sầu não như vậy? Chẳng qua là một trận đấu như mọi trận khác mà thôi. Khóc lóc làm rối trí Huan lúc cậu ấy đi ra bãi phỏng có ích gì?
Cacmen tiễn chồng tới tận cửa. Chị muốn nêu gương can đảm cho chồng:
- May mắn nhé! Chị vừa cười vừa nói.
Nhưng chiếc xe chở anh đi, có một lũ oắt con chạy theo, vừa mới rẽ ở góc phố, chị liền trở về phòng mình, thắp nến trước bàn thờ Đức Mẹ Đồng Trinh Đáng Trông Cậy, quỳ xuống vừa cầu vừa khóc.
Tiếng hoan hô và tiếng vỗ tay rầm rĩ đón chào cuộc diễu hành của các đội đấu. Ai nấy hoan nghênh nhiệt liệt người matađo suýt chết và bây giờ lại hiên ngang kiên cường như cũ trở về đấu trường biểu diễn hiến nhân dân tài nghệ khéo léo và lòng dũng cảm của mình.
Khi Gađacđô sắp phải đấu với con bò thứ nhất, công chúng lại vỗ tay hoan hô như sấm. Ở các lô, những phụ nữ quàng khăn trắng giơ ống nhòm ngắm anh. Ngay cả các kẻ thù của anh cũng bị một luồng không khí thiện cảm không sao cưỡng lại được lôi cuốn. Tội nghiệp anh chàng! Anh đã đau khổ biết chừng nào! Toàn thể khán giả yêu mến anh. Chưa bao giờ công chúng lại ủng hộ anh hoàn toàn như thế này. Đứng trước ông chủ tịch cuộc đấu, Gađacđô cất mũ để làm thủ tục brindix.
- Hoan hô! Hoan hô! Tiếng hoan nghênh lần theo bước chân anh đi về phía con bò, rồi ngừng bặt khi anh đã tới sát con vật. Mọi người im lặng chờ đợi.
Chiếc mulêta cầm tay, anh lấy tư thế đứng trước con vật, không phải như xưa kia anh xòe miếng vải đỏ ngay trước mõm nó mà bây giờ cách xa nó một quãng. Trên khán đài người ta tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng không ai nói gì.
Anh dậm chân mấy lần để khiêu khích con thú. Cuối cùng, nó tấn công một cách lờ phờ, chui qua dưới cái mulêta. Nhưng người matađo đã nhẩy tránh sang một bên với một vẻ hấp tấp lộ liễu. Thấy thế nhiều khán giả nhìn nhau: "Thế nghĩa là thế nào nhỉ?". Gađacđô trông thấy Người Quốc dân đứng gần anh và xa thêm vài bước là một chú pêông khác của đội anh. Nhưng anh không thét bảo họ: "Mọi người tránh ra xa!" như trước nữa.
Trên khán đài có tiếng ồn ào cãi cọ dữ dội. Những khán giả thuộc phe Gađacđô thấy cần giải thích hộ thần tượng của mình:
- Anh ấy chưa khỏi hẳn các vết thương! Lẽ ra anh ấy chưa nên đấu. Cái chân khổ sở ấy, các ông không thấy à?...
Hai người pêông giúp Gađacđô múa mulêta. Con bò lồng lộn hoa mắt về những tấm áo đỏ, hễ nó tấn công là bị một áo choàng kéo nó ra xa người matađo.
Muốn sớm thoát khỏi tình trạng khó chịu đó, Gađacđô đứng nghiêng người, thanh kiếm giơ cao và nhẩy bổ vào con vật. Lưỡi kiếm chỉ cắm vào người con vật một phần ba chiều dài của nó nên rung rinh như muốn bật ra. Đáng lẽ ấn mạnh lưỡi kiếm cho ngập tận chuôi, Gađacđô đã vội vã nhẩy ra ngoài tầm húc của con vật.
- Nhát kiếm đâm đúng chỗ quá! Những người vốn mê Gađacđô vỗ tay rầm rĩ và kêu lên như vậy, định lấy cái tiếng ầm ĩ thay cho số lượng người. Đúng là như vậy!
Những người am hiểu mỉm cười thương hại. Anh chàng này sắp mất ưu điểm duy nhất của anh ta là can đảm. Họ đã trông thấy rõ tình hình diễn ra như thế nào: lúc thanh kiếm chạm vào con bò, anh matađo đã bất giác co tay lại và quay đầu đi chỗ khác, anh đã sợ nên không dám nhìn thẳng vào sự nguy hiểm. Thanh kiếm rơi xuống đất. Gađacđô lấy một thanh khác rồi trở lại bên con bò vẫn có mấy pêông đi kèm. Nhát kiếm thứ hai cũng không may mắn gì hơn nhát kiếm thứ nhất: một nửa lưỡi kiếm nằm ngoài u vai con vật. Trên khán đài người xem bắt đầu chỉ trích:
Cậu ấy không ấn mạnh! Sừng bò làm cậu ấy mất vía!
Gađacđô dang rộng hai tay, ý nói rằng con bò đã bị một nhát đích đáng và sớm muộn nó sẽ gục. Nhưng rồi nó cứ ngoan cố đứng mãi, lắc lư cái đầu.
Người Quốc dân bèn quấy nó, bắt nó chạy, tìm mọi dịp đập mạnh áo choàng của bác lên cổ nó để thanh kiếm vào sâu thêm. Khán giả đoán biết ý định của bác, nên chửi rủa bác thậm tệ. Về phía khán đài bị nắng soi, công chúng hoa gậy, ném cam và vỏ chai vào bãi đấu. Nhưng bác Xêbatchiêng tốt bụng cứ giả câm giả điếc chịu đựng những lời thóa mạ và những vật ném đó, tiếp tục đuổi theo con bò, trong lòng sung sướng thấy mình làm tròn bổn phận và cứu bạn.
Ít lâu sau, con bò nôn ra một đống máu tươi và từ từ gập chân lại, tuy vậy nó vẫn ngẩng cao đầu, có vẻ sẵn sàng lại đứng dậy tấn công. Thấy thế, Người Quốc dân bèn lén lút tì vào thanh kiếm làm cho nó ngập đến tận chuôi. Chẳng may, khán giả trông thấy trò man trá đó, họ tức giận dậm chân đập tay và la ó rầm rĩ:
- Thằng kẻ cướp! Thằng giết người!
Khán giả tỏ vẻ thương hại con bò dường như cho rằng nó không đáng chết, họ giơ nắm tay, căm hờn dọa Người Quốc dân y như bác ta vừa phạm tội giết người trước mắt họ.
Tuy nhiên, Gađacđô vẫn tiến lại trước mặt ông chủ tịch cuộc đấu để chào, trong khi những người xem thuộc phe anh viện trường hợp giảm khinh để thanh minh cho anh.
- Anh ấy không gặp may, họ nói hơi lúng túng. Con bò này ác ôn thật!
Cho đến lúc phải vào đấu với con bò thứ hai, Gađacđô đứng im một chỗ gần hàng rào, trong trí miên man những ý nghĩ đen tối. Anh muốn tin vào ảo tưởng nhưng vô hiệu, anh đành tự nhủ rằng anh không còn được như xưa nữa rồi. Bây giờ, bò mộng có vẻ to lớn hơn, dai dẳng hơn đối với anh. Những con bò ngày trước gục dưới lưỡi kiếm của anh một cách dễ dàng kỳ diệu, những con bò ngày nay hình như sống dai gấp đôi và bướng bỉnh không chịu chết. Lại còn cái này nữa: khi đâm kiếm, cánh tay anh hình như ngắn hơn trước. Xưa kia cánh tay ấy, nhanh như chớp, vươn trúng u vai con vật, ngày nay đó là một cuộc hành trình dài vô tận qua một khoảng không gian trong đó thanh kiếm chẳng chạm vào cái gì hết. Chân anh cũng biến đổi. Bây giờ nó ít vâng lệnh anh, có thể nói là nó có hành động riêng, độc lập với những phần còn lại của cơ thể anh. Anh tha hồ ra lệnh cho nó phải bình tĩnh và vững chắc, nhưng hình như nó có mắt, nó nhận ra sự nguy hiểm cho nên con vật vừa mới cựa mình là nó nhảy ngay sang một bên với một sức bật không sao kìm hãm được.
Để cho nhận định đó bớt bi thảm, Gađacđô đổ lỗi cho khán giả làm anh tức giận khi thấy mình yếu đi và thất bại nhục nhã. Bọn họ muốn gì đây? Muốn mình chết để mua vui cho họ à? Rõ ràng anh không cần chứng minh rằng anh can đảm: vết tích của sự dũng cảm điên cuồng nằm ở khắp người anh, khắc sâu vào da thịt anh! Anh đã trông thấy bộ mặt trơ xương của Thần Chết ở ngay trước mắt, và chính vì thế mà anh hiểu giá trị của sự sống hơn bất cứ một ai.
"Các người tưởng rằng ta sẽ hy sinh tính mệnh cho các người đấy hẳn!...", anh vừa lầu bầu vừa nhìn trộm công chúng.
Khi con bò thứ hai xuất hiện trên bãi đấu, Gađacđô đã lấy lại bình tĩnh, anh quyết tâm làm tròn nghiệp vụ nhưng hết sức cố gắng để mình không bị thương. Anh bước về phía con vật với thái độ hiên ngang của những ngày oai hùng và hét thật to:
- Mọi người tránh ra xa!...
Công chúng xôn xao lên với vẻ bằng lòng. Anh ấy đã nói: "Mọi người tránh xa ra!". Vậy anh ấy sắp thi thố một ngón đặc sắc của anh ấy hồi trước. Nhưng người Quốc dân với óc sáng suốt của người pêông già đời từng quen những cái huênh hoang của các matađo, hiểu sự dối trá kệch cỡm của lệnh đó, cho nên bác vẫn tiếp tục đi theo đội trưởng với chiếc áo choàng vắt trên tay.
Gađacđô xòe cái mulêta ở cách con bò một quãng và với một vẻ sợ sệt trông rõ, anh bắt đầu làm các động tác bằng mulêta có sự giúp sức của Người Quốc dân. Có một lúc, anh chậm nâng cao cái mulêta lên một chút, con bò làm ra vẻ định xông vào nhưng thực ra nó vẫn đứng yên. Tuy vậy. Gađacđô thủ thế quá ư cẩn thận và nhầm về bộ điệu của con vật, bèn nhảy lùi lại. Đó là trốn chạy trước một con bò không tấn công. Bước nhảy lùi vô vị của anh làm cho khán giả cười ồ, có kẻ gào lên với giọng chế giễu: ra nó vẫn đứng yên. Tuy vậy. Gađacđô thủ thế quá ư cẩn thận và nhầm về bộ điệu của con vật, bèn nhảy lùi lại. Đó là trốn chạy trước một con bò không tấn công. Bước nhảy lùi vô vị của anh làm cho khán giả cười ồ, có kẻ gào lên với giọng chế giễu:
- Trốn mau đi! Không thì nó chộp được đấy!
Một người khác giả giọng phụ nữ cũng kêu một cách hài hước:
- Anh yêu ơi, tội nghiệp anh quá!
Gađacđô giận tái mặt, anh trút cơn thịnh nộ lên đầu con bò đã làm cho anh bị nhục ngay tại đấu trường Xêvilơ. Bước lại gần từ phía bên sườn nó, anh lén lút đâm nó một nhát kiếm nghiêng khiến con vật gục xuống như một con bò ở lò sát sinh. Một số khán giả vỗ tay chẳng hiểu vì sao, một số khác huýt sáo, còn phần đông im lặng.
Ở đấu trường ra về, Gađacđô có thể nhận thấy sự lạnh nhạt của công chúng. Họ đi gần anh không một tiếng hoan hô. Đây là lần đầu tiên nếm mùi thất bại cay chua. Ngay các banđêridiêrô của anh cũng cau mày im lặng như những binh sĩ vừa thua trận.
Buổi tối hôm có trận đấu bất hạnh đó, Gađacđô vừa tức bực với người ngoài vừa tức bực với bản thân, rất thèm giải trí và lãng quên, bèn nhận lời một số thanh niên trong câu lạc bộ của anh đến Quán Eritana để trác táng. Họ ăn tối ở đấy với ba cô gái giang hồ nổi tiếng Pari đến Xêvilơ nhân dịp hội hè của Tuần lễ Thánh. Các ả tò mò muốn gặp tận mặt người đấu sĩ mà các ả đã nhiều lần được ngắm ảnh trên họa báo và bao diêm.
Phần thú vị nhất của buổi ăn chơi diễn ra ở phòng ăn chính của Quán Eritana. Đó là một phòng ở giữa vườn, trang trí theo kiểu Môrơ muốn dùng những cái tầm thường rẻ tiền để bắt chước vẻ lộng lẫy của cung điện Alămbra. Địa điểm đó hết được sử dụng cho những bữa tiệc chính trị lại được sử dụng cho những cuộc ăn chơi ngông cuồng. Ở đó, người ta chạm cốc mừng sự phục hưng của tổ quốc, người ta nhảy những bản tăng gô lả lơi trong tiếng ghi ta rên rỉ, tiếng chai vỡ loảng xoảng, tiếng kêu khe khẽ của những cô gái bị ôm hôn trong góc phòng.
Gađacđô được mấy cô gái giang hồ tiếp đón gần bằng một vị thần. Các ả chỉ để ý đến anh, tranh nhau vinh dự được ngồi cạnh anh, nhìn anh chằm chặp bằng con mắt yêu đương. Nhan sắc của mấy ả đã hơi tàn, nhưng có phấn son gỡ lại. Bất giác anh matađo so sánh các ả với người kia, người mà anh chưa thể quên hẳn, người đã làm anh đắm đuối vì mớ tóc vàng, vì dáng thanh lịch vô song trong cách ăn mặc, vì vẻ tươi tắn khỏe mạnh của da thịt thơm nức và khêu gợi. Mọi người ăn uống ngấu nghiến theo thói quen của những bữa tiệc đêm: khách ăn quyết chí làm đủ mọi thứ quá mức mong say cho mau để được thẫn thờ vui vẻ. Đến nửa đêm thì ai nấy đã bí tỉ. Mấy ả tấn công Gađacđô bằng những lời ngưỡng mộ táo bạo, hôn lấy hôn để lên gáy, lên cổ anh. Nhưng anh, không động đậy, cứ ngủ gà không kể gì đến những cặp môi mơn trớn và những bàn tay khiêu khích. Anh say một cách đáng buồn đến nỗi chẳng bao lâu các ả bực mình và cụt hứng không đoái hoài đến anh nữa.
Vào khoảng ba giờ sáng, đang lúc anh nằm gục trên một cái ghế dài say như chết, một thanh niên lại gần, lay vai anh và đề nghị đưa anh về nhà. Cơn gió đêm ngoài đường vẫn không làm anh tỉnh rượu. Khi người bạn để anh lại một mình ở đầu phố của anh, anh lảo đảo bước về nhà. Đến gần cửa thì anh dừng lại khoanh tay tựa trán vào tường dường như đầu óc anh quá nặng nề. Anh đã quên hoàn toàn bữa tiệc, các bạn và mấy ả phấn son, và do một sự đổi ý bất thình lình mà cơn say thường hay gây ra, toàn bộ tâm trí anh đặt cả vào chuyện đấu bò.
Hoan hô! Đông Hôxê nói đúng quá! Chính anh Gađacđô, là người số một trên thế giới. Được rồi! Các kẻ thù của anh sẽ ghen tức nổ ruột khi nào anh lại xuất hiện ở đấu trường. Việc xảy ra hôm nay chỉ là một việc rủi ro không đáng kể như Người Quốc dân thường nói: "Ca sĩ giỏi nhất nào lại chẳng có lúc hát sai hay sao?". Câu cách ngôn đó anh thường nghe thấy ở miệng những vị lão thành khả kính của môn đấu bò trong những buổi thất bại làm anh cảm thấy rất thèm hát. Anh bèn cất giọng lè nhè hát mấy câu của anh sáng tác ra để tự ca tụng:
"Đúng thế, Huan Gađacđô là một hiệp sĩ, một hiệp sĩ, Hiệp sĩ hơn cả Đức Chúa Trời!".
Rồi vì hứng thơ không giúp anh tìm ra tứ nào mới nữa, anh bèn hát đi hát lại đến hai mươi lượt hai câu đó, làm cho một con chó ở đâu không biết sủa vang lên trong đêm tối để hưởng ứng. Anh cứ hát mãi đến nỗi cuối cùng cánh cửa nhà anh mở ra và Garabatô xuất hiện. Người đầy tớ ấy dìu chủ vào nhà. Nhưng anh nhất định không chịu đi nằm: có lẽ vì anh lờ mờ e ngại rằng nếu anh lên gác thì Cacmen sẽ biết anh say.
- Mày cứ mặc kệ tao, anh nghiêm giọng bảo Garabatô. Tao có nhiều việc cần làm. Tao vào phòng làm việc đây.
Đèn điện bật lên. Gađacđô đứng một mình giữa gian phòng, chân nam đá chân chiêu đưa mắt thán phục nhìn quanh. Ở khắp nơi thay thế cho những bức họa và những chiến lợi phẩm, anh trông thấy những bức chân dung oai vệ của chính anh, những tờ áp - phích về những trận đấu oanh liệt của anh, những phù hiệu mà anh đã dũng cảm giật được trên lưng nhiều bò mộng. Thật là cả một nhà bảo tàng để xưng tụng anh.
- Tuyệt quá!... Tuyệt quá!... anh lè nhè nói. Cái anh chàng trông oách thế kia là mình đấy à?... Lại còn cái anh chàng này nữa... và cả cái anh này nữa!
Anh ném mũ lên đi văng, chống hai tay lên mặt bàn. Một lúc sau, cặp mắt quáng gà của anh nhìn thấy một cái đầu bò to tướng trang trí trên tường phía trên cái ghế bành.
- Chú bò kia, chào chú!... Chú làm gì ở đây thế?... Ò ò ò! Ò ò ò!...
Anh không hiểu tại sao cái đầu bò có cặp sừng ghê gớm mà anh vừa chào bằng những tiếng rống ấy lại ở trong phòng. Nhưng chẳng bao lâu anh nhớ ra:
- À, à! Con ơi tao nhận ra mày rồi! Chính mày đã có lúc làm phiền tao rất nhiều... Công chúng huýt sáo tao, ném chai vào tao!... Hẳn mày thích thế lắm phải không, đồ mất dạy!
Cho đến lúc này, anh vẫn vui vẻ. Nhưng cặp mắt bị ma men làm mơ hoảng khiến anh tưởng con bò hơi gật đầu đồng ý và cái mõm sơn bóng nhẫy của nó thoáng mỉm cười mai mỉa. Thế là anh giận sôi sùng sục. "A, con bò khốn kiếp này dám cười à? Phải rồi, chính tại những con bò hiểm độc nghiền ngẫm chơi xỏ người matađo, chính lỗi tại chúng nên người thanh lịch hào hoa mới làm trò cười và bị chửi rủa trước công chúng!".
- Mày còn cười à, đồ bần tiện. Không biết con bò cái khốn kiếp nào đã đẻ ra mày, không biết thằng chủ trại ăn mày ăn xin nào đã cho mày ăn cỏ! Mày còn cười à? Mày chế nhạo tao à? Được rồi, tao cho mày biết tay!
Thế là trong cơn say mù quáng, anh vớ khẩu súng lục nạp đạn để trên bàn.
Pằng!... Pằng!...
Phát đạn thứ nhất làm một con mắt thủy tinh của cái đầu bò văng ra từng mảnh nhỏ khỏi lỗ mắt. Phát thứ hai để áp sát đích xuyên qua sọ con bò thành một lỗ tròn xoe và đen sì giữa những nạm lông bị cháy xém .
Trong mấy hôm sau, Gađacđô cảm thấy cần ra phố chuyện trò với bè bạn trong các quán cà phê bình dân và câu lạc bộ nhỏ ở phố Rắn. Anh hy vọng rằng sự có mặt của anh sẽ làm cho miệng lưỡi thị phi của thiên hạ dè dặt hơn và những lời chỉ trích chấm dứt. Lắm khi, suốt buổi chiều, anh ngồi với những người hâm mộ đấu bò thuộc giới bình dân mà anh đã bỏ rơi từ lâu để kết bạn với những người giàu sang.
Đến tối anh tới Câu lạc bộ Bốn mươi lăm. Ở đấy, ông ủy quyền của anh gào thét, múa may cố làm cho thiên hạ đồng tình khâm phục anh.
Tội nghiệp cho Đông Hôxê tốt bụng! Với tấm nhiệt tình không gì lay chuyển nổi, ông không thể tưởng tượng được rằng "người matađo của ông" không còn là vị anh hùng như ông nghĩ nữa. Không bao giờ ông phê phán anh, không bao giờ ông trách móc anh. Trái lại, chính ông cung cấp cho anh những lý lẽ để tự bào chữa, kèm theo rất nhiều lời khuyên bảo rất bổ ích về tương lai:
- Cậu chưa khỏi hẳn vết thương đâu. Tôi vẫn nhắc với mọi người như thế. Tôi nói: "Khi nào anh ấy khỏi hẳn các vị sẽ xem anh ấy ra tay, các vị sẽ cho tôi biết các vị nghĩ thế nào!". Cậu hãy nghe tôi, cậu phải làm như thế này: với lòng dũng cảm mà Đức Chúa Trời đã ban cho cậu, cậu cứ tiến thẳng đến trước mặt con bò, và phập một cái! Cậu đã đâm nhát kiếm đến tận chuôi, thế là cậu bỏ con bò vào túi!...
Anh matađo tán thành ý kiến của Đông Hôxê bằng một nụ cười khó hiểu. Anh còn mong gì hơn là bỏ bò vào túi, nhưng than ôi! Những con vật khốn kiếp ấy đã thành to lớn khó chơi quá.
Trong thượng tuần tháng năm, Gađacđô dự ba bốn cuộc đấu tại vài thành phố miền nam, nhưng anh đấu tồi: chỉ có một hai nhát kiếm là may mắn đâm vào đúng chỗ làm con bò quỵ, còn thì toàn những nhát dớ dẩn không thọc vào đủ sâu, nhiều khi anh vụng về đến mức không thể tha thứ được hoặc bất giác nhảy lùi do bản năng sinh tồn xui khiến.
Mỗi khi anh nhảy giật lùi là đám khán giả bình dân lại chửi anh. Ở đâu người ta cũng biết chuyện xảy ra ở Xêvilơ trong cuộc đấu vào dịp lễ Phục sinh, và người ta không tha thứ cho anh một lỗi lầm nhỏ mọn nào nữa. Những kẻ từng thấy anh dũng cảm điên cuồng, mạo hiểm một cách bạt mạng thì muốn anh cứ như vậy cho đến lúc gục tại đấu trường, để mua vui cho họ. Các kẻ thù của anh sung sướng thấy mình đã trả thù được những thắng lợi liên tiếp hồi xưa của anh; những đồng nghiệp của anh giả vờ thương hại và thích nói về sự xuống dốc của anh. Người ta đã tỉnh cơn mê tín anh. Từ nay công chúng sẵn sàng ác cảm với anh. Mỗi khi anh thành công, họ không hoan nghênh nhiệt liệt như trước và mỗi khi anh thất bại, họ nhao nhao chỉ trích và sỉ nhục.
Ngay cả Đông Hôxê, mặc dầu lòng tin tưởng không bị lay chuyển, vẫn phải tự nhận rằng tình hình đang xấu đi. Đối với ông, "người matađo của ông" vẫn là "người số một trên thế giới" nhưng anh đã bắt đầu đấu lại quá sớm. Không phải anh thiếu can đảm, nhưng sức yếu làm giảm dũng khí. Tội nghiệp anh chưa lành hẳn vết thương, cho nên tốt nhất là anh hãy nghỉ ngơi đến sang năm đã.
- Cậu có muốn biết ý kiến của tôi không? Một hôm ông nói với Gađacđô. Một người như cậu không thể vào bãi đấu mà lại để người ta không hoan hô. Do đó, cậu cần nghỉ ngơi một thời gian để tay chân trở lại linh hoạt như cũ. Tôi xin chịu trách nhiệm thu xếp khoản đó! Một cái giấy chứng nhận sức khỏe của thày thuốc, đăng trên báo chí, cũng đủ để thanh minh việc nghỉ ngơi tạm thời của cậu, và tôi sẽ cùng các nhà thầu thỏa thuận về vấn đề hợp đồng của cậu. Họ sẽ thay cậu bằng một người matađo khác chịu nhận một số tiền ít hơn và cậu sẽ hưởng cái chỗ dôi ra. Rồi sang năm cậu sẽ lại xuất hiện trên đấu trường và làm cho tất cả các địch thủ của cậu phải ghen tức đến phát điên.
Nhưng Gađacđô không đồng ý: anh đang cay về những thất bại mới đây và lòng tự ái bị xúc phạm của anh muốn được trả thù ngay tức khắc. Những trận gần đây anh đấu không hay, anh là người đầu tiên công nhận điều đó, nhưng anh quy trách nhiệm cho sự nóng nẩy của mình. Bây giờ thì anh bình tĩnh lại rồi, chẳng bao lâu nữa thiên hạ sẽ thấy anh vẫn còn khả năng làm lại tất cả những cái anh đã làm.
Bị từ chối, Đông Hôxê lấy làm khổ tâm về thái độ bướng bỉnh của Gađacđô nhưng cũng cảm thấy kính phục và thương hại anh. Ông bèn tìm cách khác để kéo anh ra xa các đấu trường Tây Ban Nha trong một thời gian vì ở đấy khán giả tỏ ra vô ơn đã hùa theo nhau chống anh, không hề có một chút độ lượng nào đối với một người đang dưỡng bệnh.
- Thôi được, ông nói, nếu cậu muốn tiếp tục đấu thì tôi đề nghị với cậu thế này. Tôi đã nói chuyện với một nhà thầu chỉ vài hôm nữa là sang Châu Mỹ. Cậu hãy đi với ông ta. Tôi sẽ kiếm cho cậu một hợp đồng rất bở. Ở châu Mỹ, cậu sẽ không khó nhọc lắm, mà khi về cậu sẽ có nhiều tiền.
Sang Châu Mỹ à? Không, không! Gađacđô cương quyết từ chối. Đi như vậy thì khác nào bỏ trốn. Anh phải xây dựng lại ở Mađrit cái danh tiếng đã bị lu mờ, anh phải chứng minh cho đồng bào của anh biết rằng anh vẫn xứng đáng với nhiệt tình và sự ủng hộ của họ. Hiện nay, anh có một hợp đồng đấu vào tuần lễ sắp tới ở thủ đô, với bất cứ giá nào anh cũng không chịu hủy hợp đồng ấy.
Khi anh cùng đồng đội tới Mađrit thì thời tiết đang xấu. Giữa mùa xuân mà nhiệt kế xuống đột ngột. Nhưng cái đó không phải là hiếm ở một nước có khí hậu thay đổi bất thường. Trời lạnh và u ám, mưa rào liên miên và đôi khi có cả tuyết rơi. Mọi người lại giở áo mưa áo rét ra mặc. Dù muốn dù không, cũng phải hoãn đến khi nào trời đẹp hơn cuộc đấu trước định vào ngày chủ nhật sắp tới. Ông giám đốc và nhân viên đấu trường cũng như giới hâm mộ đấu bò nhìn trời lo sợ, y như người nông dân lo cho mùa màng. Một chút sáng trời, vài ngôi sao xuất hiện vào lúc mọi người ở các hàng cà phê bước ra cũng làm cho họ mừng hụt.
- Trông kìa! Trời tan mây rồi. Đến mai thời tiết sẽ khá. Ngày kia là đấu được...
Hy vọng hão huyền! Hôm sau, mây đen lại kéo đến đầy trời và mưa lại bắt đầu rơi. Cuộc nghỉ ngơi bất đắc dĩ kéo dài tới nửa tháng, các đội viên của Gađacđô rất bực mình phải ngồi không. Bất cứ ở nơi nào ngoài Mađrit, họ có thể chịu đựng không khó khăn gì, các chi phí ở khách sạn lúc đó đều do người matađo gánh. Nhưng chiếu theo một tục lệ rất dở đặt ra từ lâu, các đội trưởng viện cớ là các đấu sĩ tất nhiên phải có một chỗ ở tại thủ đô, cho nên không chịu trả phí tổn cho họ, do đó những chú pêông và picađo nghèo khổ, ngụ trong một nhà trọ tồi tàn do người vợ góa của một banđêridiêrô mở, đành phải nhịn nhiều thứ lặt vặt, bớt hút thuốc lá và cay đắng nghĩ rằng đến ngày có cuộc đấu thì họ đã xài hết số tiền nhỏ mà họ kiếm được bằng cách phải liều cái mạng nhưng lại rất cần để nuôi sống gia đình.
Gađacđô ngụ một mình ở khách sạn cũng không vui gì hơn các đội viên của anh. Với tâm trạng rối bời của một người nổi tiếng nay thấy uy tín của mình giảm sút, anh hay vào Quán Cà phê Anh là nơi tụ họp của những người ủng hộ các đấu sĩ xứ Ăngđaludi, nhưng cẩn thận không bao giờ bước chân vào các hàng cà phê ở Puécta Đen Xôn là nơi những người cuồng tín của trường phái Mađrit hay lui tới. Họ là những người rất bướng bỉnh, buồn phiền thấy ưu thế về tay các đấu sĩ ở Xêvilơ, ở Coócđu và than rằng kể từ thời Fraxcuêlô thủ đô không còn có đấu sĩ danh tiếng nào. Cứ nghe họ nói thì hiện nay không có ai đáng gọi là đấu sĩ. Tất cả đều là đồ hỉ mũi chưa sạch, không biết những nguyên tắc sơ đẳng nhất của nghệ thuật đấu bò, tất cả đều là những anh hề miền Nam chỉ biết đem áo choàng và thân mình ra làm những trò khỉ, hoàn toàn không hiểu "tiếp đón" một con bò là thế nào. Thỉnh thoảng, một tia hy vọng le lói làm cho những người đã thất vọng đó hơi mừng mừng: họ vừa phát hiện ở ngoại ô một đấu sĩ mới tỏ ra xuất sắc trên các bãi đấu ở Valơca và Têtuăng và họ bắt đầu nghĩ rằng chẳng bao lâu thủ đô Mađrit sẽ có đấu sĩ lớn của mình. Lập tức đấu sĩ mới kia trở thành nổi tiếng. Người ta nói đến anh ta một cách nhiệt tình ở các hàng thợ cạo trong các phố bình dân; người ta tiên đoán rằng anh ta sẽ đạt những thành tích rực rỡ. Những thời gian qua đi mà những lời tiên đoán ấy không thực hiện hoặc vì người anh hùng tương lai đã gục chết trong một trận đấu, chẳng có vinh dự nào ngoài mấy dòng chữ báo tin buồn trên các báo, hoặc vì bậc vĩ nhân đã dần dần teo lại và cuối cùng chỉ còn là một gã tiêu dao đi trưng món tóc côlêta trên các vỉa hè của Puecta Đen Xôn, trong lúc chờ đợi một bản hợp đồng không biết bao giờ mới có. Thế là những người nhiệt tình với môn đấu bò lại để mắt vào một đấu sĩ mới vào nghề khác, ngoan cố không kém gì người Juđên chờ Đấng Cứu Thế của mình. Gađacđô biết rằng những người cuồng tín ấy không bao giờ khâm phục anh, bây giờ họ khoái trá thấy anh xuống dốc và nếu anh xuất hiện ở chỗ họ thì cái lũ bất công ấy sẽ lập tức chỉ trích anh.
Ý muốn giao thiệp rộng để lấy cảm tình của càng nhiều người càng tốt khiến anh chịu đựng, thậm chí tìm kiếm những quan hệ mà năm ngoái anh còn khinh rẻ và lảng tránh. Buổi chiều, khi anh đi chơi ở trung tâm thủ đô, anh để cho các đấu sĩ lang thang gặp anh ở phố Xêvilơ sán lại nói chuyện. Họ thường tụ tập trên hè phố đến quá nửa đêm để khoe với nhau những thành tích giả dối. Tất cả đều ăn mặc lành lặn, diêm dúa, linh lợi, đeo hàng lô nhẫn và dây chuyền giả. Họ trịnh trọng gọi anh là "tôn sư", đưa anh lên tận mây xanh rồi cuối cùng hỏi vay anh dăm đồng.
Bọn cùng đinh trong làng đấu bò này cũng có những nhân vật hiển hách của họ, nhưng nói tóm lại những người này có danh tiếng là nhờ cái khác chứ không phải nhờ những nhát kiếm đặc sắc. Có kẻ mà ai cũng biết là chạy trốn trước con bò thì nổi tiếng và được thiên hạ sợ vì rút dao găm rất dễ dàng. Có kẻ đã bị lưu đày trong nhiều năm vì đâm chết người. Cái cậu T'ragatômbrêrô sở dĩ nổi danh là vì trong một đêm trác táng ở một quán rượu Valơca, cậu ta đã nhận cuộc ăn một cái mũ phớt Ăngđaludi rán nhỏ từng miếng, vừa ăn vừa uống rượu chí tử để nuốt cho trôi.
Một số khác, trông khỏe mạnh hỗn xược, tự đắc về vẻ nam nhi oai hùng, kể không chán cho Gađacđô nghe những chuyện chim gái ngon ơ, xem ra có vẻ là phương tiện sinh sống chủ yếu của họ. Những buổi sáng đẹp trời, họ lững thững dạo chơi trên con đường chơi mát Caxtêlana để tán gái vào lúc những cô giáo dạy học ở các tư gia sang trọng dẫn các cháu ra chơi. Đó là những cô gái người Anh, người Đức mới tới Mađrit với những ý nghĩ hoang đường về cái xứ thần thoại này và hễ thấy anh con trai nào có bộ mặt cạo nhẵn nhụi và cái mũ phớt rộng vành là các cô yên chí ngay rằng đó là một đấu sĩ bò mộng. Có một đấu sĩ là người yêu thì còn gì bằng!
- Những con bé ấy phải cái hơi tẻ, tôn sư ạ! Chân thô, lông rậm, nhưng được cái tiện dụng. À vâng, tiện dụng, tôi chỉ xin nói như vậy! Vì chúng không hiểu một tiếng Tây Ban Nha nào cả nên mình cũng chẳng phải mất công tán dóc với chúng. Mình chỉ cần nhe hàm răng trắng ra cười và liếc ngang liếc dọc. Mặc dầu chúng nó không biết nói tiếng nước mình nhưng khi nào mình ra hiệu cần ít tiền để mua diêm thuốc là chúng nó cho ngay, chẳng đợi mình xin. Hiện nay tôi có ba con bé như thế bao cho tôi sống đấy.
Một số cậu thì lại nhằm vào những cô gái nước ngoài ở các phòng ca nhạc, vào các vũ nữ và các nữ ca sĩ cuống cuồng muốn có một người yêu là đấu sĩ bò mộng ngay từ khi vừ mới đặt chân lên đất Mađrit. Đó là những cô gái Pháp lanh lợi vui vẻ, mũi hếch ngực lép, những con người lý tưởng trong cái thanh mảnh vô hình chỉ hơi có một chút thực tế sờ thấy được dưới tà áo thơm nức và sột soạt. Đó là những cô gái Đức đồ sộ, nặng nề vì quá nhiều thịt, tóc vàng như các nữ thần Oankiri (Oankiri: hoặc Vankiri là một loại nữ thần cấp thấp trong thần thoại các nước Bắc Âu). Hoặc đó là những cô gái Ý tóc bôi dầu đen nhánh, màu da nâu xám như quả ô liu, mắt nhìn bi thảm. Và các tiểu đấu sĩ cười vang khi nhắc tới những lần ân ái đầu tiên với các cô bạn nhiệt tình ấy.
- Thưa tôn sư, tôn sư không thể tưởng tượng được những con bé ấy như thế nào. Chúng nó nhất định bắt mình giảng giải cách đấu bò, thế là để chiều cái ý thích ngông cuồng của chúng nó, đang lúc buồn ngủ đến chết thì mình lại phải nhảy từ trên giường xuống đất, đặt ở giữa phòng một cái ghế giả làm con bò, làm vài động tác áo choàng bằng khăn trải giường và cắm banđêri bằng cái cời lửa.
Sau bài giảng về môn đấu bò ấy, cô vũ nữ hoặc nữ ca sĩ thế nào cũng bảo người yêu đẹp trai tặng mình một cái áo choàng lịch sự thêu kim tuyến để diện ra phố. Và anh bạn đẹp trai hứa một cách hào hiệp sẽ thỏa mãn ý muốn đó. Nhưng đâu mà ra sẵn những áo choàng như thế, vả lại mua nó đâu có rẻ, cho nên cô nàng cứ chờ hoài tặng phẩm thôi. Trong khi đó quan hệ giữa cặp nhân tình ngày càng thêm thân mật, và chàng lợi dụng tình hình đó để bảo người yêu cho vay ít tiền, để đem lên hiệu cầm đồ những đồ nữ trang mà nàng mềm yếu trao cho chàng và để cuỗm tất cả những cái gì của nàng rơi vào tay chàng. Cuối cùng, khi cô nàng tỉnh giấc mộng tình, phản đối việc lạm dụng lòng tin ấy, thì chàng đấu sĩ cho nàng một trận đòn nên thân để chứng minh cho nàng thấy sức mạnh của tình yêu và khôi phục cái uy tín nhân vật thần thoại của mình.
Ngoài việc khuây khỏa bằng cách nói chuyện với bọn thanh niên khá bạt tử đó, Gađacđô còn giải trí bằng cách gặp một ông phục anh, luôn luôn xoắn xuýt khúm núm thỉnh cầu anh một việc. Đó là một chủ tiệm rượu ở Lát Vêga người miền núi Galixơ gân bắp rắn chắc như hộ pháp, vai rộng cổ bạnh, nước da hồng hào, đã kiếm được ít tiền bằng cách mở một tiệm rượu ngoại ô có một số cô sen và binh lính đến nhảy vào ngày chủ nhật. Ông ta chỉ có một cậu con trai, bé nhỏ ốm o nhưng ông nhất định muốn cậu ta trở thành một nhân vật danh tiếng trong môn đấu bò.
- Thằng bé này có tương lai, ông nói với Gađacđô. Thưa Ngài, tôi cũng biết võ vẽ về môn này... Tôi đã bỏ ra khá nhiều tiền để giới thiệu nó với thiên hạ, nhưng muốn cho nó tiến xa tôi thấy nó cần có một người đỡ đầu, và không thể có ai hơn được Ngài. Chao ôi! Giá mà Ngài nhận lãnh đạo một trận đấu cho đấu sĩ mới trong đó con tôi sẽ giết bò thì hay biết bao!
Thiên hạ sẽ kéo đến lũ lượt và tôi xin chịu mọi khoản phí tổn.
Cậu bé tội nghiệp này lúc đầu cũng mê say đấu bò như nhiều đứa trẻ con nhà bình dân khác, cho nên bây giờ bị ông bố hay áp chế đinh ninh rằng chú bé có năng khiếu về môn ấy. Một lũ ăn bám thuộc loại mê đấu bò mạt hạng, trong đó có cả những pêông cũ bây giờ chẳng còn giữ được tí uy tín nào của thời quá khứ lờ mờ của họ, ngoài món tóc côlêta, lăng xăng quanh ông bố, đã uống chịu ở tiệm ông lại còn hay xin xỏ ít tiền để đổi lấy những lời khuyên bảo của họ. Tất cả bọn họ họp với ông bố thành một hội đồng nghị định, nhằm mục đích duy nhất là kéo ngôi sao sáng tương lai ra khỏi bóng tối.
Chẳng thèm hỏi ý kiến của con, ông bố ngây thơ kia tổ chức những trận đấu tại các đấu trường Têtuăng và Valơca và nhất nhất ông ta chịu mọi phí tổn. Những đấu trường ngoại ô này sẵn sàng phục vụ những ai thích để cho bò húc và dẫm ở trước mắt vài ba trăm khán giả. Nhưng đấy không phải là một trò giải trí không mất tiền. Muốn được ngã lăn quay trên bãi cát, quần áo rách bươm, người vấy máu và *** bò thì phải trả trước tiền thuê tất cả các chỗ ngồi. Ông bố lại đứng ra phân phối vé và ông đem vào khán đài những ông bạn hay phỉnh và những nhà hâm mộ đấu bò túng tiền. Ngoài ra ông còn phải trả lương cho các pêông và các banđêridiêrô để lập đội đấu của con ông, những người đó ra đấu với những bộ quần áo bình thường, còn con ông thì làm khán giả lóa mắt về bộ quần áo mới toanh trị giá bảy nghìn rêan mà người thợ may của Gađacđô đã may cho. Đó là vì tiền đồ của thằng nhỏ, ông không thể bủn xỉn được.
Trong trận đấu, ông chủ tiệm đứng giữ hai lớp hàng rào, động viên nhà matađo tập sự bằng cách hoa lên cây gậy kếch xù mà ông không rời bao giờ. Hễ chú bé ra vẻ muốn nghỉ ngơi một lúc là ông bố ghê gớm hiện ra lù lù ở sau lưng anh, má xị xuống máu nhồi lên đầy mặt.
- Dễ mày tưởng tao bỏ tiền ra để cho mày đứng khoanh tay đấy hẳn? Con khỉ! Phải tự trọng một chút chứ! Đừng có õng ẹo như cô tiểu thư ấy!
Đến khi chú bé tội nghiệp trở về nhà, trong bộ quần áo lụa đỏ, người run như cầy sấy, cái quần rách tan, xương cốt đau như rần, thì mẹ chú hai tay dang ra, chạy lại, sợ tái xanh tái xám. Nhưng ông chủ quán tay vẫn lăm lăm cây gậy thét như điên:
- Đồ ăn hại! Rát như cáy! Thật không bằng con vật! Thế mà mình lại chịu khuynh gia bại sản cho thằng vô dụng ấy!...
Thấy cây gậy có vẻ đe dọa hung hăng, nhà đấu sĩ ưu tú diện đồ lụa thêu vàng vừa mới ám sát ấy con bò vô tội xong, vội hai tay ôm đầu chạy trốn trong khi bà mẹ cố sức che chở cho anh.
Nhưng chỉ hôm sau là ông chủ tiệm lại lạc quan như cũ. Ông nói:
- Có phải lúc nào người ta cũng may tay cả đâu. Khối matađo danh tiếng đã gặp những lúc khó khăn như thế...
Rồi ông lại tổ chức những trận đấu mới ở các đấu trường Tôlêđơ và Goađalagara có các bạn trung thành của ông đi xem và cố nhiên bằng tiền ông chi.
Đang khi ấy, Gađacđô nhận được một bức thư dài của Cacmen. Sau khi lưỡng lự mãi, cuối cùng người phụ nữ tội nghiệp ấy quyết định nói cho chồng biết hết mọi điều đang đè nặng lên tâm trí của chị, và chị nói thẳng, không quanh co gì.
Gađacđô phải "cắt món tóc côlêta" và trở về sống yên lành bằng lợi nhuận của mình hoặc ở nhà tại Xêvilơ hoặc trại Rinhcônađa cạnh những người trong gia đình là những người duy nhất thành thực yêu thương anh. Chị không có giây phút nào yên tâm, chị còn lo lắng hơn cả những năm đầu sau khi cưới. Đêm đêm, chị bị những cơn ác mộng kinh khủng ám ảnh. Chao ôi! Sao công chúng lại bội bạc đến thế! Những người khát máu ấy đã quên sạch những cái mà Gađacđô từng đem đến cho họ khi anh còn hoàn toàn khỏe mạnh. Bức thư kết luận như sau:
"Anh thân yêu, mẹ và em van xin anh. Anh xin nghỉ đi. Tại sao anh cứ đấu mãi? Chúng ta có đủ tiền để sống rồi, và em đau khổ ghê gớm thấy anh bị bọn hèn mạt không xứng đáng với anh, chửi bới anh. Chao ôi! Lạy Chúa, nếu anh có làm sao thì em đến phát điên mất...".
Bức thư đó làm Gađacđô rất cảm động, nhưng không lay chuyển được anh. Giải nghệ à? Chuyện lẩn thẩn. Thật là một ý nghĩ dỡ dẩn của phụ nữ! Hơn nữa, nói thì dễ nhưng làm đâu có dễ. Mới ba mươi tuổi, ai lại đi cắt côlêta của mình? Làm thế thì các kẻ thù sẽ tha hồ mà chế giễu! Không, anh không có "quyền" rút lui, chừng nào thân thể anh còn mạnh khỏe, còn đủ khả năng chiến đấu. Không bao giờ một đấu sĩ lại rời bỏ đấu trường trong hoàn cảnh như thế này. Sự vinh quang không có nghĩa lý gì hay sao? Người ta không cần có lòng tự trọng về nghề nghiệp hay sao? Hàng nghìn hàng vạn người vẫn khâm phục anh nhiệt liệt, sẽ nói sao? Họ biết trả lời thế nào nếu có kẻ nói đốp vào mặt họ rằng Gađacđô rút lui vì nhát?
Vả lại, đồng tiền tuy không phải là tất cả, nhưng người ta vẫn buộc phải nghĩ đến nó. Nói chung, tình hình tài chính của anh bây giờ không được sáng sủa. Vốn liếng của anh chỉ là những số tiền dành dụm trong những năm đầu mới cưới vợ. Sau đó quả thật tiền anh kiếm ra có tăng lên, nhưng những sự chi tiêu và hoang phí của anh lại tăng nhanh hơn nhiều. Anh đánh bạc rất lớn, sinh hoạt xa hoa. Những miếng đất thêm thắt vào trại Rinhcônađa để làm cho nó được vuông vắn, là mua bằng tiền vay của Đông Hôxê và một số bạn khác. Tất nhiên, anh vẫn có thể sống một cách thoải mái, nhưng nếu anh không còn những lợi nhuận kếch xù của các trận đấu - hai ba mươi vạn đồng pêxêta mỗi năm - thì sau khi thanh toán nợ nần anh sẽ phải hạn chế rất nhiều nếp sinh hoạt xa hoa và sống như một nhà quý tộc nông thôn dựa vào sản phẩm ruộng đất của mình.
Cuộc sống tối tăm của một người địa chủ loàng xoàng bắt buộc phải tiết kiệm làm anh kinh hãi, vì anh đã quen huênh hoang trước công chúng và ném tiền qua cửa sổ. Anh sẽ phải hạn chế lối sống ông hoàng lại, từ nay anh sẽ không thể kêu to lên ở trong các quán cà phê và các tiệm rượu: "Tôi trả tiền tất!". Anh sẽ phải khước từ bọn ăn bám và nịnh hót lúc nhúc quanh người anh, mà những lời nỉ non xin xỏ làm anh được giải trí. Nếu có một cô gái nhà nghèo xinh đẹp đến tìm anh, anh sẽ không thể làm cô ta cảm động run người bằn cách đeo vào tai cô đôi hoa tai bằng vàng ngọc; và anh sẽ không thể lại chơi cái trò để rót rượu vàng xuống tấm khăn lụa đẹp của cô rồi làm cô ngạc nhiên bằng cách tặng cô một tấm khăn khác còn đẹp hơn. Anh là một matađo theo kiểu cũ, hoang toàng lộng lẫy tiêu tiền như rác, sẵn sàng cho kẻ nghèo khó những khoản bố thí rất lớn. Anh luôn luôn chê cười những đấu sĩ kiểu mới, những công nghệ gia tầm thường tính toán như những bậc tiểu thương, cân nhắc chi thu một cách tỉ mỉ, không quên cả một cốc nước hai mươi lăm xu uống ở các nhà ga. Không, không, không đời nào Gađacđô lại muốn từ bỏ cuộc sống huy hoàng và chịu giải nghệ!
Anh còn nghĩ đến những nhu cầu của gia đình anh, trong đó ai nấy đã quen sống sung túc mất rồi từ khi tiền bạc tuôn vào nhà như nước chảy. Không kể mẹ anh và vợ anh, anh còn phải nuôi báo cô chị anh, anh rể anh và lũ con của họ, chính anh phải nuôi nấng chúng vì bác Angtôniô ba hoa kia đinh ninh rằng vì có họ ngoại với một người danh tiếng nên bác được phép ăn không ngồi rồi vĩnh viễn, do đó bác đã nghỉ hẳn làm việc. Bà mẹ anh sẽ không thể lấy việc chu cấp rộng rãi, ban tài phát lộc hậu hĩ cho những bà hàng xóm nghèo làm vui trong lúc tuổi già nữa; bà sẽ không thể theo thói thường của bà đóng cái bộ lúng túng của một cô bé bị bắt quả tang phạm lỗi nữa mỗi khi anh con trai của bà giả vờ nổi giận vì lẽ bà đã tiêu sạch một trăm đồng đuarô trong nửa tháng vào những việc làm phúc. Về phần Cacmen chị rất tiết kiệm, rất tận tâm đối với lợi ích của chồng, chị sẽ là người đầu tiên tự nguyện hạn chế sự chi dùng của chị, chịu thiếu thốn nhiều thứ, cắt bỏ những khoản tiêu phí vô ích nhưng thanh lịch, làm đẹp cho cuộc sống của chị. Thảm thay! Tất cả những cái đó sẽ là bằng chứng hiển nhiên của sự suy sụp. Anh matađo chỉ nghĩ đến việc đồng ý làm như vậy thôi, cũng đã thấy xấu hổ vô chừng. Anh tự nhủ rằng thật là một tội ác nếu anh dồn gia đình tới chỗ kham khổ như vậy. Anh phải làm thế nào để tránh tai họa đó? Có gì đâu, anh chỉ cần tiến lại gần các con bò một cách mạnh dạn hơn, xông vào giữa cặp sừng một cách kiên quyết hơn. Được rồi, anh sẽ tiến lại gần chúng, anh sẽ liều mình táo bạo như trước kia!
Anh gửi cho vợ một bức thư trả lời khá ngắn trong đó anh giả vờ vui vẻ, nhưng anh viết mấy chữ cho thấy rằng lòng tự ái của anh bị xúc phạm ngấm ngầm. Anh nhẹ nhàng trách vợ không tin anh như trước nữa, anh coi những thất bại mới rồi chỉ là những rủi ro ngẫu nhiên không quan trọng và cuối thư anh hứa hẹn những điều diệu kỳ trong trận đấu sắp tới, miễn là các con bò cũng phải tử tế. Với những con bò tử tế, anh thách Rôgiê Đê Flo ăn đứt anh!...
Những con bò tử tế! Từ nay cái đó là điều bận tâm thường xuyên của Gađacđô. Xưa kia một trong những cái hợm hĩnh của anh là không thèm để ý đến các con bò, là trước trận đấu anh không bao giờ đến chuồng bò xem những con vật dành cho anh.
- Tôi sẽ làm quen với chúng khi nào chúng vào bãi đấu, tôi sẽ giết bất kỳ con nào mà người ta dẫn đến cho tôi, anh nói.
Trái lại, bây giờ anh muốn quan sát chúng nó trước, chọn chúng, chuẩn bị sự thành công của anh bằng cách nghiên cứu tỉ mỉ những ưu và khuyết điểm của chúng.
Cuối cùng, trời đã quang, ánh nắng rực rỡ, và cuộc đấu mà mọi người mong mỏi từ lâu sẽ tổ chức vào ngày mai.
Buổi chiều, Gađacđô một mình đến đấu trường. Xây bằng gạch đỏ với những cổng lớn kiểu Môrơ, đấu trường nổi bật lên trên một cái nền toàn là những ngọn đồi xanh rì. Ở phía chân trời xa tít của phong cảnh bát ngát và buồn tẻ ấy, trên sườn một ngọn đồi, hiện ra những chấm trăng trắng na ná một đàn gia súc đứng ở xa: đó là một nghĩa trang.
Anh matađo vừa mới tới gần đấu trường là lập tức xô lại nhiều người ăn mặc tiều tụy, những kẻ cầu bơ cầu bất mà vì lòng nhân đức người ta cho phép ngủ ở các chuồng bò, những kẻ sống nhờ vào tiền bố thí của giới hâm mộ đấu bò và cơm thừa canh cặn của các quán ăn lân cận. Một số quê ở Ăngđaludi, trước đây vốn đi hộ tống một đàn bò đến Mađrit nhưng rồi từ đó không còn bao giờ rời khỏi đấu trường này nữa. Gađacđô phân phát một ít tiền cho bọn ăn mày, tay cầm mũ lưỡi trai, chạy theo anh, rồi anh bước vào trong đấu trường qua cửa của khu chuồng ngựa.
Trong sân, một nhóm người tò mò đang dự xem các picađo thử ngựa. Chú Pôtagiê, chân đi ủng có những cái đinh thúc ngựa to tướng của các anh chăn bò, tay cầm cây garôcha, đang sắp sửa nhảy lên mình ngựa. Mấy anh lao công của bãi đấu đi kèm người thầu việc cung cấp ngựa. Đó là một gã lái ngựa bụng phệ, đội cái mũ phớt Ăngđaludi rộng vành, nói năng chậm rãi, đối đáp một cách hết sức bình tĩnh những lời thóa mạ liên miên của các chú picađo.
Những anh lao công - các "con khỉ thông thái" - tay áo sắn ngược, dẫn hoặc nói cho đúng hơn là lôi sềnh sệch bằng dây cương những con ngựa cỏm nhỏm còm nhom và trao chúng cho các picađo để thử . Từ mấy ngày nay, các chú này cưỡi và dạy những con ngựa thổ tả ấy, cho chúng chạy nước kiệu xung quanh đấu trường trên các bãi đất hoang, bắt chúng hết quay ngược lại quay xuôi, để vực cho chúng cái công việc trên bãi đấu. Tập xong, những con ngựa tội nghiệp đó trở về, sườn rớm máu và trước khi vào chuồng thì được rửa tội bằng vài xô nước. Ở bên máng nước, giữa các hòn sỏi, có những vùng đỏ sẫm giống như rượu vang chảy từ một cái thùng nào ra.
Những con vật loẻo khoẻo ấy, phế phẩm buồn thảm của chính sách bần cùng hóa loài ngựa, bước đi lẩy bẩy, hai mạng sườn gồ ghề, chứng tỏ tình trạng già nua, đói khát, bệnh tật và sự bạc bẽo của con người hay quên công lao của kẻ đã giúp mình. Có những con gầy một cách khủng khiếp, y như những bộ xương của những góc cạnh nhọn hoắt và nhô lên đe dọa chọc thủng lớp da phủ lông dài và bù xù. Một số con khác cựa quậy, ngẩng đầu băm mạnh hai chân trước, có kheo chân cứng cáp, bộ lông mượt mà, con mắt tinh nhanh. Nhưng những con ngựa tốt mẽ ấy, có vẻ mới được tháo ở một chiếc xe lịch sự nào ra, lại còn nguy hiểm cho người cưỡi hơn những con khác, vì chúng mắc bệnh quáng và thình lình ngã gục làm cho người đấu. Mỗi picađo chọn năm sáu con ngựa để cưỡi, nhưng nhiều khi tiền lót tay làm cho cuộc thử ngựa mất nghiêm chỉnh cưỡi lộn nhào. Bên cạnh những cái mẫu đói khổ và bệnh tật ấy còn có những con đã mất khả năng làm việc, những con ở cối xay bột hoặc xưởng sản xuất, những con kéo cày, kéo xe, tất cả đều đi cà nhắc và như ngủ gà ngủ vịt, tất cả đều kiệt quệ vì đã kéo cày kéo xe trong nhiều năm và đều là những cùng đinh thảm hại mà người ta muốn bóc lột đến tận phút cuối cùng và mai mốt khi bị húc thủng bụng vẫn còn dùng để mua vui cho những kẻ vô công rồi nghề bằng những cái đá hậu lung tung và những cơn giãy giụa kinh hoàng lúc hấp hối. Đó là một dãy vô tận những con mắt hiền lành, lờ đờ và vàng ệnh, những cái cổ gầy guộc bị ruồi muỗi khát máu bám nhằng nhằng, những cái đầu xương xẩu phủ lớp da lúc nhúc chấy rận, những cái ức hẹp và rung lên trong những tiếng hí ồ ồ, những cái chân yếu ớt có thể gẫy bất cứ lúc nào và phủ đến tận móng một lớp lông dài rậm đến nỗi tưởng chừng chúng mặc quần.
Người ta quẳng lên trên lưng những con vật khốn khổ ấy cái yên lớn kiểu Môrơ có sườn cao, chỗ ngồi bằng da màu vàng và đôi bàn đạp ôm gọn lấy bàn chân người cưỡi. Nhẹ như thế mà có những con đã lắc lư chực gục.
Cãi lý với bác thầu ngựa, Pôtagiê tỏ ra rất thô tục và ngay cả bọn đầy tớ quét chuồng ngựa cũng phải bật cười về những lời bậy bạ kiểu gitanô của chú.
Những picađo khác chỉ có việc để mặc cho một mình chú nói. Không ai thạo giao thiệp với bọn lái ngựa và làm cho cái giống ấy phải nghe mình hơn chú.
Một anh chăn ngựa bước lại cầm cương dắt một con ngựa tí hon gầy ốm, đầu gục, lông bù xù, hai bên sườn chòi xương có vẻ đau đớn.
- Mày đem cái gì đến cho tao đấy? Pôtagiê hét lên mắt long sòng sọc nhìn bác lái ngựa. Một con vật mà không ai thèm cưỡi à?
Bác lái, mặt tỉnh khô, trả lời rằng nếu Pôtagiê không dám cưỡi con ngựa này thì đó là vì các picađo thời nay thấy gì cũng sợ. Với một con vật như con này, tốt tính, dễ bảo đến thế, thì ông Canđêrông, ông T'rigô hoặc nhiều kỵ sĩ khác của thời oanh liệt có thể đấu bò hai ngày liền mà không ngã và con ngựa cũng không hề bị vết xây xát nào. Nhưng ngày nay thì... ngày nay thì người ta sợ hãi nhiều và tự trọng ít.
Thế là chú picađo và tay lái ngựa cất tiếng chửi nhau nhưng theo kiểu bạn hữu cho những câu chửi thô tục nhất cũng chẳng có gì là quan trọng.
- Còn mày ấy à, Pôtagiê đáp, mày là một thằng ăn cắp già đời rồi, thạo nghề lừa lọc hơn cả Hôxê Maria
Lê Tămpranyô. Được rồi! Mày hãy bê con bà mày đã rụng hết tóc lên lưng con ngựa ốm này đi! Bà mày cưỡi con ngựa này hay đấy vì thứ bảy nào lúc nửa đêm mà bà mày chẳng cưỡi chổi chứ!
Những người đứng bên cười ồ lên còn bác lái ngựa thì nhún vai.
- Thế con ngựa này nó làm sao? bác ta thản nhiên đáp. Mày xem kỹ nó đi, thằng bần tiện. Nó còn tốt hơn nhiều con khác bị bệnh thò lò mũi hoặc bệnh quáng chắc chắn đã có lần làm cho mày lộn tùng phèo tại bãi đấu trước khi mày chạm được vào mình con bò. Con này nó vô bệnh, suốt hai mươi tám năm trời ở nhà một lão bán nước chanh, nó làm bổ phận của nó rất có lương tâm, không bao giờ để người ta phải mắng mỏ một câu. Thế mà mày, thằng lắm mồm, lại đi khinh nó, vu oan cho nó, làm như nó không ra cái con chó gì cả!
- Tao không muốn nhận nó, có thế thôi, Pôtagiê nói. Nó tốt thế thì mày giữ mà dùng.
Nghe thấy thế, bác lái ngựa từ từ bước lại gần Pôtagiê rồi với vẻ bình tĩnh của một người đã quen với những cuộc mua bán thế này, bác thì thầm vào tai chú picađo. Chú này giả vờ tức giận nhưng cuối cùng bước lại gần con ngựa.
- Mình cũng chẳng muốn thiên hạ cho mình là người khó chơi làm hại bạn, chú nói.
Rồi chú xỏ chân vào bàn đạp gieo mình cật lực xuống lưng con vật tội nghiệp. Đoạn, cắp chặt cây garôcha ở dưới cánh tay, chú thích mũi nhọn của nó vào một tấm gỗ dày lắp trong tường, chú dùng toàn lực mà đẩy làm như ở đầu mũi garôcha của chú có một con bò mộng to tướng vậy. Sức bật lại mạnh đến nỗi mỗi lần cây giáo va vào tấm gỗ con ngựa lại lảo đảo và khuỵu chân xuống.
- Nó không đến nỗi tồi quá như mình tưởng, Pôtagiê nói với giọng làm lành. Ngựa của mày trông bề ngoài thì không thể thương được, nhưng nó khá hơn cái mã của nó. Nó được cái mõm nhạy cảm, bốn vó chắc chắn... Mày nói có lý đấy. Thôi cho nó sang một bên.
Và chú nhảy xuống ngựa. Từ khi có cuộc hội đàm bí mật, chú sẵn sàng nhận bất cứ con vật nào của bác lái đưa ra.
Gađacđô rời đám người vui vẻ đứng xem cái trò thử ngựa kia, và một anh gác đấu trường dẫn anh đến khu chuồng bò.
Anh matađo bước qua một cái cửa quầy ăn thông với sân thả bò. Một bức tường gạch cao gần đến cằm một người tầm thước bao kín ba phía sân còn phía thứ tư là một hành lang. Bức tường này được gia cố bằng những xà gỗ to nối liền với một cái ban công nhỏ xây ở phía trên nó. Ở từng quãng một, lại có những ngách hẹp trông như lỗ châu mai, khiến người ta phải nghiêng mình mới lách qua được. Ở trong sân có tám con bò mộng, con thì nằm, con thì đứng cúi đầu xuống cái đống cỏ ở trước mặt chúng.
Gađacđô đi dọc theo hành lang sau bức tường để xem xét các con bò. Thỉnh thoảng, anh ló mình ra khỏi lỗ châu mai, vung tay, hét những tiếng man rợ để làm cho chúng cựa quậy. Con thì tức giận chồm lên tấn công người đến quấy nó. Con thì đứng vững trên bốn cẳng, ngẩng cao đầu một cách đe dọa, chờ xem người khiêu khích nó có dám đến gần nó không. Rồi anh matađo lại nấp sau bức tường và dựa trên bộ dạng của các con vật anh cố đoán tính nết của từng con để lựa chọn .
Đứng gần anh là người Mayôran (Người phụ trách tổ chăn nuôi bò) của đấu trường, một tay lực sĩ, đi ghệt, giày gắn đinh thúc ngựa, mặc áo bằng dạ dày, đội mũ phớt của nông dân có quai.
Người ta đặt biệt danh cho anh ta là Lôbatô. Đó là một kỵ sĩ rắn rỏi hầu như quanh năm sống ở đồng không mông quạnh. Khi đến Mađrit, anh sinh hoạt như người rừng, không hề tò mò rời khỏi đấu trường để đi thăm thành phố. Đối với con người này, thủ đô Tây Ban Nha chỉ là một đấu trường nằm giữa những bãi đất trống, những cánh đồng hoang xa xa thấp thoáng một khóm nhà mà anh không bao giờ muốn đếm xem. Nơi mà anh chuộng hơn cả là quán Galina ở gần đấu trường: một nơi khoái lạc, một lâu đài mê ly mà sáng tối hai bữa anh đều ăn ở đấy do xí nghiệp trả tiền, trước ngày anh lên ngựa trở về đồng cỏ, tấm chăn vắt ngang sườn yên, cái xắc đặt trên mông ngựa, ngọn giáo vác vai. Mỗi khi vào quán Galina, anh thích làm những cậu hầu bàn hoảng vía về những cái bắt tay thân mật, những cái bóp tay đáng sợ làm xương tay họ kêu răng rắc và họ phải thét lên đau đớn. Anh mỉm cười khoái chí về sức mạnh của mình, thích được thiên hạ gọi là đồ thô bạo. Rồi anh ngồi xuống trước bữa ăn đơn giản dọn trong một cái đĩa rộng và sâu như cái chậu rửa mặt, với bình rượu vang to tướng. Anh là người lúc ở bãi thả bò tại Mubôda, lúc ở những đồng cỏ trên núi Gadarama vào những ngày nóng dữ, để trông nom các con bò mua cho đấu trường. Hai ngày trước cuộc đấu, với sự giúp đỡ của một số người cưỡi ngựa và chăn bò, anh cho bò của anh vượt qua suối Abrônigan ở ngoại ô Mađrit rồi tiến hành cái khâu enxierô. Nếu thời tiết xấu làm hoãn cuộc đấu lại, khiến anh chưa thể về được vùng cô quạnh yên tĩnh của anh thì anh rất buồn bực.
Ông hộ pháp sống trên mình ngựa này nói năng chậm chạp, đầu óc đần độn, sặc mùi phân chuồng và mùi da, hăng lên mỗi khi nói về đời sống trên đồng cỏ. Anh miêu tả ngắn gọn nhưng hay hay những đêm coi bò ở đấy, khi bò đã ngủ say dưới ánh sao mờ trong cảnh tĩnh mịch sâu lắng chỉ có những tiếng động bí ẩn từ rừng rậm đưa lại. Trong cảnh yên lặng ấy nổi lên tiếng hát kỳ lạ của những con rắn núi. "Đúng thế đấy, ông ạ, rắn núi hát", anh nói quả quyết. Về chuyện này, Lôbatô cũng cương quyết không chấp nhận sự phản đối vì tiếng hát đó anh đã nghe thấy hàng nghìn lần. Nghi ngờ cái đó tức là bảo anh nói dối và dễ nếm mùi hai bàn tay to như hai cái quạt thóc của anh.
Rắn biết hát, còn bò thì biết nói, nhưng Lôbatô không có cách nào hiểu được ngôn ngữ chúng. Nói cho cùng chúng cũng chẳng khác gì người, chỉ có khác là chúng đi bốn chân và có sừng. Phải ngắm chúng tỉnh dậy buổi bình minh. Chúng nhảy nhót, vui như trẻ con, đánh nhau, đùa, đuổi nhau một cách sung sướng ầm ĩ dường như chúng muốn chào sự xuất hiện của ông mặt trời vốn là niềm vinh quang của Thượng đế. Lôbatô còn thích nói đến những cuộc trèo núi Gadarama, dọc những con suối đưa tuyết tan trong như pha lê về đồng bằng, đến những cánh đồng cỏ xanh rì lấm tấm hoa, đến những con chim sâu vỗ đôi cánh nhỏ tới đỗ giữa cặp sừng của con bò đang ngủ, đến những con chó sói hú trong đêm tối ở xa, bao giờ cũng ở tít xa vì chúng sợ những con vật to ghê gớm kéo đi hàng đàn theo tiếng nhạc của những con cabextơrô. À không! Lôbatô không thích nghe nói về Mađrit, một thành phố trời thì oi ả, người thì ngạt thở, thủ đô chỉ có mỗi một cái thích đối với anh là rượu vang của quán Galina và mấy món xào rán ở đấy.
Anh mayôran cung cấp cho Gađacđô những điều cần biết và giúp ý kiến để anh chọn hai con bò. Trước những matađo lừng danh, thần tượng của công chúng, ông hộ pháp này không hề tỏ vẻ ngạc nhiên hoặc tôn kính. Giết những con vật cao quý như vậy bằng hàng trăm mẹo lừa, thật là một nghề ngỗng đáng buồn! Người dũng cảm thực sự chính là anh, vì anh sống với các con bò ở nơi hẻo lánh, luôn luôn đi lại sát sừng chúng, không có thứ tự vệ gì khác ngoài cánh tay của mình mà cũng chẳng lấy ai để hoan hô cả.
Lúc Gađacđô ở khu chuồng bò bước ra sau khi đã chọn mấy con bò và dặn dò người mayôran nhốt riêng chúng ra, một nhân viên đấu trường chạy lại chào anh rất kính trọng. Đó là ông cụ quét dọn khán đài. Ông làm việc này từ nhiều năm rồi và ông biết tất cả những đấu sĩ danh tiếng của thời ông. Ông ăn mặc rách rưới, nhưng lại đeo mấy cái nhẫn phụ nữ và khi lau nước mũi, ông rút ở trong túi áo ra một cái khăn tay xinh xinh bằng vải mịn diềm đăng ten, thêu một ký hiệu lớn và vẫn còn thơm phảng phất.
Trong những ngày tháng không có trận đấu, ông cụ là người có nhiệm vụ quét sạch cái đấu trường rộng mênh mông, cả các bậc ngồi lẫn các lô, nhưng không bao giờ ông than thở khó nhọc. Ông chỉ thu nhận để giúp việc ông dăm sáu thằng du đãng, đấu sĩ tập sự, chúng tận lực làm mọi việc hộ ông với điều kiện duy nhất là khi nào có trận đấu, chúng được phép đứng xem từ "các lô của chó" nghĩa là từ đằng sau một bức rào ngăn khu chuồng bò dùng làm lối vận chuyển những người bị thương. Bọn phu quét bám vào song sắt của bức rào, chen cãi nhau chí chóe như một lũ khỉ trong chuồng để tranh chiếm hàng đầu.
Ông cụ phân phối công việc rất khéo. Ông sai mấy thằng yêu quét dọn ở khu khán đài bị soi nắng là chỗ ngồi của các khán giả bẩn thỉu nghèo nàn, lúc ra về chỉ để lại một đống vỏ cam, giấy lộn và đầu thuốc lá làm dấu vết của sự có mặt của họ.
- Chúng mày phải cẩn thận khoản thuốc lá cho tao đấy nhé, ông giao hẹn với bọn đó. Đứa nào xoáy của tao một mẩu xì gà là tao không cho xem trận đấu chủ nhật này đâu!
Về phần ông, ông kiên trì quét khu khán đài râm mát, lục lọi như một người đi tìm vàng, ngồi xụp vào trong chỗ tối của các lô để nhét vào đáy túi những vật linh tinh mà ông nhặt được: quạt phụ nữ, khăn quàng, nhẫn, tiền, đồ trang sức rơi ra từ quần áo phụ nữ, tất cả những cái có thể mất ở một nơi đông người. Nếu vớ được món nào có đôi chút giá trị, ông mang nó đến một bà bạn bán đồ cũ chuyên mua những thứ nhặt được của thiên hạ. Ông cũng gom góp những đầu mẩu thuốc của khán giả quăng bỏ, rồi bán lại thành thuốc lá rời sau khi đem phơi nắng.
Gađacđô tránh những câu chào đón khúm núm của ông cụ ấy bằng cách cho ông ta một điếu xì gà. Đang định bước đi, anh thấy chạy lại một người cao lớn, khô như củi, nước da xạm, mặc quần áo đấu sĩ, nhưng những mớ tóc hoa râm lại thòi ra dưới chiếc mũ phớt đen và vài nếp nhăn hằn sâu ở quanh miệng.
- Ô kìa, bác đấy à, Pêxcađêrô ! Bác có khỏe không? Gađacđô vừa nói vừa bắt tay người ấy với nhiệt tình thực sự.
Đó là một người matađo cũ, trong thời thanh xuân, đã có lúc oanh liệt nhưng rồi tên tuổi đã bị vùi sâu trong quên lãng. Một số matađo khác đã làm lu mờ cái danh tiếng ngắn ngủi của bác và sau khi sang Châu Mỹ đấu bò và bị húc nhiều phen, bác giải nghệ với chút ít tiền dành dụm được. Bây giờ bác mở một cái quán nhỏ ở gần đấu trường để sống cho qua ngày: nơi đó hẻo lánh nên giới hâm mộ đấu bò và các đấu sĩ ít qua lại.
Pêxcađêrô nhất định bắt bạn đến chơi nhà mình. Hai người đi vào một cái phố dài nằm cạnh đấu trường rồi bước vào một cái quán giống hệt mọi cái quán khác: cũng mặt nhà sơn đỏ, cửa kính có rèm đỏ, tủ hàng bày mấy cái đĩa bụi bậm đựng vài miếng sườn đã ôi, mấy con chim nhỏ rán, vài chai rau giầm dấm, ở trong nhà là một cái quầy bằng kẽm, một số thùng và chai, một số bàn tròn có ghế đẩu bằng gỗ vây quanh và trên tường treo nhiều bức ảnh màu của một số đấu sĩ danh tiếng hoặc của những giai đoạn đặc sắc nhất trong một trận đấu.
- Cho chúng tao một cốc môngtila đi, Pêxcađêrô nói với một thanh niên đang đứng gần quầy nhìn Gađacđô bằng con mắt tò mò có thiện cảm.
Thấy thế, Gađacđô cũng nhìn kỹ người thanh niên. Anh nhận thấy một ống tay áo của anh ta trống rỗng, gập lại và gài vào sườn bên phải.
- Trông cậu hơi quen quen, Gađacđô nói với người cụt tay.
- Tôi cũng nghĩ thế! Pêxcađêrô kêu lên, Pipi đấy mà.
Nghe thấy biệt danh ấy, lập tức Gađacđô nhớ ra. Pipi là một thanh niên có tài, cắm banđêri rất xuất sắc và được một nhóm người hâm mộ đấu bò mệnh danh là "đấu sĩ của ngày mai". Nhưng một hôm, tại đấu trường Mađrit, cậu ta chẳng may bị húc vào cánh tay đến nỗi phải cưa.
- Tôi đã đưa nó về nhà, Pêxcađêrô nói tiếp. Tôi không có con cái, vợ tôi thì chết rồi. Tôi coi nó như con. Vả lại, cậu đừng tưởng tôi và Pipi sống trên tiền nhé, nhưng cái gì tôi có là nó có. Chúng tôi cố xoay sở cũng tạm qua ngày nhờ bạn bè cũ đôi khi qua đây ăn nhậu và chơi bài, và nhất là nhờ cái trường...
Gađacđô mỉm cười. Anh có nghe nói đến cái trường kỳ quặc này do Pêxcađêrô mở gần quán của bác ta.
- Biết làm thế nào hở cậu? Pêxcađêrô nói thêm, như để thanh minh. Tôi cần phải sống và riêng cái trường này tiêu thụ của tôi nhiều hơn tất cả những khách hàng khác. Đến học có những ngài giàu sang, những anh muốn nổi bật trong những trận đấu với bê, những người nước ngoài mê đấu bò và tự nhiên giở chứng muốn trở thành đấu sĩ trước khi xuống lỗ. Hiện nay tôi có một người chiều chiều đến đây tập. Cậu sẽ thấy.
Hai người vượt đường phố, tiến về một mảnh đất hoang có hàng rào cao bao quanh. Trên những tấm ván đóng đinh dùng làm cửa, Gađacđô thấy sơn một hàng chữ lớn:
TRƯỜNG DẠY NGHỆ THUẬT ĐẤU BÒ
Hai người bước vào. Cái làm cho Gađacđô chú ý đến trước tiên là con bò mộng Môritô : đó là một con bò bằng gỗ và cói, đặt trên bánh xe, đuôi bằng xơ gai đầu tết bằng rơm, cổ bọc li-e, nhưng có một cặp sừng chính cống, một cặp sừng oai vệ đến phát sợ. Một thằng nhãi ngực để trần, đầu đội cái mũ lưỡi trai để thòi ra hai lọn tóc ốp chặt vào thái dương thành hai móc câu, có nhiệm vụ truyền cho con bò các động tác và vẻ giận dữ tấn công, khi các "học viên" đứng trước mặt nó, tay cầm áo choàng.
Đứng giữa khu đất, một ông nhỏ bé lưng còng, bụng phệ, vai xệ, mặt đỏ, bộ ria mép to tướng, tiêu muối và cứng nhắc, mặc sơ mi đang sắp sửa cắm cặp banđêri vào thân con bò. Một bà cũng vào chạc tuổi đó, cũng to béo và mặt đỏ chẳng kém, đầu đội một cái mũ trên là cả một vườn hoa sặc sỡ, đang ngồi trên một cái ghế, dưới bóng hàng rào. Mỗi khi ông chồng làm một động tác chính xác, bà phấn khởi cười to đến nỗi hoa hoét ở trên mũ rung chuyển như một khu rừng bị bão. Pêxcađêrô thì thầm giải thích cho Gađacđô biết rằng đó là mấy người nước ngoài, những nhà tư sản giàu có, có lẽ là dân miền Nam nước Pháp, tự nhận là đã am hiểu môn đấu bò, nay nhân dịp đến Mađrit nên muốn tập thực hành những lý thuyết tinh vi của nghệ thuật ấy.
Trông thấy hai người bước vào, ông "học viên" đã có tuổi hạ đôi tay cầm banđêri xuống còn bà vợ thì sửa lại chiếc mũ hoa.
- Ôi! Kính giáo sư thân mến!
- Kính chào môtxiu , kính chào bà, giáo sư vừa nói vừa đưa tay lên mũ. Thế nào, môtxiu, xem môtxiu học đến đâu rồi. Môtxiu còn nhớ những điều tôi dặn chứ? Đứng im trên bãi, chọc con bò cho nó đến; khi nó đã đến rồi thì mình phải gập lưng xuống và cắm banđêri vào bướu cổ nó. Môtxiu đừng ngại cái gì cả. Chính con bò phải làm hết mọi thứ cho ta... Nào, chú ý. Sẵn sàng chưa?
Tránh ra một chút, "giáo sư" nháy mắt cho con bò đáng sợ hoặc nói cho đúng hơn là cho thằng ôn con láu lỉnh đang chống hai tay vào mông con Môritô chờ hiệu lệnh để cho con vật bắt đầu.
- Mạnh dạn lên, Môritô!
Sau khi rống lên một tiếng kinh khủng bằng miệng của Pêxcađêrô, con Môritô dậm chân giận dữ, lắc mạnh cái bụng rỗng và cái đầu bằng rơm rồi xông vào như điên trong tiếng bánh xe kêu rầm rĩ, với những cái xóc dữ dội trên mặt đất gồ ghề. Thật chưa thấy bò ở trại nổi tiếng nào, lại tỏ ra thông minh như con vật bất tử này, bị banđêri và kiếm đâm đến hàng nghìn lần, mình đầy thương tích thế mà được ông thợ mộc chữa là khỏi ngay. Về trí xét đoán của con môritô không thua người chút nào. Khi nó tới gần ông "học viên", nó đột nhiên đổi hướng để khỏi va sừng vào người ông, và nó chạy ra xa mang theo những cây banđêri cắm trên cái cổ bằng li-e của nó. Pêxcađêrô vỗ tay khen thành tích đó.
- Một cú lão luyện đấy, môtxiu ạ! "Giáo sư" kêu lên. Cặp banđêri của môtxiu cắm hay đệ nhất đấy.
Để chào mừng thành công rực rỡ ấy, ông ngoại quốc ra lệnh cho thằng nhãi điều khiển Môritô:
- Chạy kiếm cho chúng tao chai rượu vang!
Thằng oắt không cần nhắc lại cái lệnh này, lập tức chạy về phía quán ăn vừa đi vừa liếm môi.
Lúc đó đã có tới hai ba chai không lăn lóc dưới chân bà ngoại quốc, mặt mỗi lúc một đỏ thêm.
Trên đường về nhà, đúng lúc Gađacđô đi ngang quảng trường Puecta Đen Xôn và sắp bước vào phố Ancala, anh bị một chuyện bất ngờ làm anh đứng đờ như phỗng. Một phu nhân tóc vàng chính là Đônha Xôn đang xuống xe ở trước cửa khách sạn Pari, và một thanh niên rất thanh lịch có vẻ là người nước ngoài, giơ tay đỡ nàng bước xuống. Sau khi hai người thầm thì với nhau vài lời người thanh niên cáo từ còn Đônha Xôn thì mất hút trong phòng ngoài của khách sạn. Anh matađo nhận rõ mặt người phụ nữ đó và anh không nghi hoặc chút nào về mối quan hệ giữa nàng và người ngoại quốc kia. Lúc từ biệt nhau, họ đã trao đổi với nhau những cái liếc mắt và những nụ cười mà anh đã hiểu quá rõ ý nghĩa.
Cuộc gặp gỡ làm Gađacđô rất xao xuyến. Anh cứ tưởng đã quên được con người từng bỏ rơi anh dễ như bỡn ấy và trong những ngày dài đằng đẵng mà tính mệnh anh lâm nguy, nàng chỉ hỏi thăm anh có một lần. Do đó phản ứng đầu tiên của anh là tự nhủ rằng anh sẽ không hề tìm cách gặp lại nàng, anh sẽ không hạ mình là cái việc nhục nhã như vậy. Nhưng rồi nhớ lại những giờ phút ái ân, anh xúc động và buộc phải tự thú sự mềm yếu của mình: anh chưa yêu người phụ nữ nào bằng yêu nàng. Và chẳng bao lâu anh suy nghĩ trong lúc đi lang thang buồn bã ngoài phố:
"Tại sao mình lại không tìm cách gặp nàng? Biết đâu? Có thể sau một thời gian xa cách dài, khi gặp lại mình, cô ấy sẽ nhớ lại những quan hệ xưa...".
Anh còn nghĩ:
"Xưa kia, khi cô ấy là người yêu của mình, cô ấy đem may mắn đến cho mình: tình yêu của cô ấy kích thích lòng can đảm của mình. Nếu nay cô ấy lại yêu mình, chắc chắn mình sẽ lại anh dũng và oanh liệt như xưa...".
Nói tóm lại, đến sáu giờ chiều, dục vọng đã thắng, anh đến khách sạn Pari xin gặp Đônha Xôn. Trước tiên người ta bảo anh chờ ở tầng dưới, trong phòng ngoài, rồi người ta đưa anh bằng thang máy lên một phòng khách nhỏ ở tầng hai. Ở đây lại một phen chờ nữa. Các cửa sổ phòng khách nhìn xuống quảng trường Puecta Đen Xôn vào lúc hoàng hôn có cơ man xe cộ đi lại chằng chịt cùng nhiều chuyến tàu điện leng keng rung chuông không ngừng.
Một cánh cửa nhỏ im lặng mở ra và Đônha Xôn bước vào trong tiếng lụa sột soạt, một làn gió thơm và với tất cả vẻ lộng lẫy của một mỹ nhân tuyệt trần. Nàng mặc một bộ quần áo trong nhà cắt kiểu nước ngoài rất thanh lịch, đeo những đồ nữ trang kỳ dị và đi đôi dép vàng. Nàng mỉm cười với khách, chìa tay ra bắt không một chút ngượng ngùng.
- Ông có khỏe không, ông Gađacđô?
Tiếng "ông" làm cho người tình cũ bàng hoàng, và cảm thấy ngay rằng công thức xã giao nhạt nhẽo ấy đã đẩy anh xuống hàng những người bạn thường chứ không phải như trước kia tiếng xưng hô "anh anh em em" của người phụ nữ đại quý tộc nâng anh lên gần nàng và cho phép anh tự coi là một người đầy tớ cưng, một nô lệ có vinh dự được nữ chủ nhân biệt đãi. Trong cơn buồn giận, anh chỉ lúng búng được vài tiếng, còn nàng thì hoàn toàn thoải mái mời anh ngồi, khen anh trông đã mạnh khỏe, hỏi anh về vết thương mà nàng chỉ nhớ lơ mơ:
- Không sao cả, chứ ông?
Gađacđô cảm thấy bị xúc phạm khi thấy nàng hỏi với vẻ xã giao lãnh đạm như vậy. Anh bèn đáp với giọng khá cấm cẩu rằng anh suýt chết và đã phải dưỡng bệnh suốt mùa đông vừa qua. Rồi bỗng nhiên nhìn nàng chằm chằm bằng con mắt thất vọng có vẻ van xin, anh kêu lên:
- Chao ôi! Đônha Xôn! Đônha Xôn! Phu nhân thật quá tàn nhẫn với tôi! Cách xử sự của phu nhân không thể nào tha thứ được. Tại sao phu nhân ra đi mà không thèm báo cho tôi biết?
- Vì tôi chán rồi, nàng đáp với giọng khô khan. Khi người ta chán, người ta có quyền bỏ đi, phải không ông?
- Nhưng tôi thì tôi yêu phu nhân với tất cả tâm hồn!...
Một nụ cười thoáng qua trên môi nàng. Trông thấy nụ cười vừa ngụ ý chế giễu, vừa có vẻ tự mãn ấy, người đàn ông, dù hết sức cục mịch cũng hiểu rằng những lời tỏ tình ngây ngô vụng về của mình sẽ không bao giờ làm động lòng người đàn bà đại quý phái kiêu hãnh và hay mai mỉa kia. Thế là tin vào hành động hơn lời nói, anh đứng dậy tiến về phía nàng, hai cánh tay dang ra. Nhưng nàng đã gạt tay người đấu sĩ và nghiêm khắc ra lệnh:
- Ông hãy ngồi yên. Nếu không, tôi bấm chuông và sai đuổi ông ra cửa.
Thế là anh đành ngồi yên, làm ra vẻ khúm núm và hổ thẹn khiến phu nhân đại quý tộc kia dịu đi. Phu nhân hạ cố nhớ ra rằng cái con người khốn khổ đang ngồi run rẩy ở trước mặt nàng dẫu sao đã là người từng cứu sống nàng cho nên nàng bèn nói tiếp với vẻ độ lượng:
- Ông trẻ con quá! Ông không biết rằng trên đời này không có ảo tưởng nào bền vững hay sao? Cái gì đã qua là qua, mình có muốn làm cho quá khứ sống lại cũng vô ích...
Vừa nói nàng vừa ngắm kỹ anh, và nàng lấy làm lạ sao mình lại dớ dẩn thích trong mấy tháng cái con người tầm thường có mớ côlêta ốp chặt vào sọ một cách khôi hài, bộ mặt cạo nhẵn thín và cử chỉ như diễn viên bi kịch, cái gã hiện ngồi trước mặt nàng như một thằng hề hạng bét. Rồi thấy Gađacđô có vẻ chưa muốn đi, nàng cáo từ thẳng cánh:
- Ông tha lỗi cho tôi, tôi không thể tiếp chuyện ông lâu được. Đã muộn rồi. Tôi chỉ còn đủ thời giờ thay quần áo để đi ăn tối.
Khi anh matađo bước xuống hè trước cửa khách sạn, anh giận mờ cả mắt và ù cả tai. À, được lắm, lần này thế là hết không bao giờ anh yêu lại cái con hỗn hào trâng tráo đó. Từ nay anh sẽ để hết tâm trí vào sự nghiệp.
Hôm sau, khi Gađacđô lên đường đi đấu trường, anh không bị những nỗi lo lắng mê tín ám ảnh như trước nữa. Anh cảm thấy đầy quyết tâm, anh tin chắc sẽ chiến thắng: tim anh rạo rực một niềm dũng cảm vô bờ, như trong những ngày oanh liệt xưa kia.
Trận đấu sôi nổi ngay từ đầu. Con bò đầu tiên của buổi đấu tỏ ra dai dẳng , tấn công rất dữ những người cưỡi ngựa. Trong một lúc, nó hất ngã ba chú picađo chĩa giáo ra chờ nó và hai con ngựa bị nó húc nằm gần chết tại chỗ, máu đen tuôn từ ức ra như suối còn con thứ ba phát cuồng lên vừa đau vừa sợ cứ chạy lung tung trên bãi đấu, cái yên lắc lưu, bụng thủng, bộ ruột xanh và đỏ treo lủng lẳng giữa cặp bàn đạp như những khúc dồi to tướng. Một lúc sau, bộ ruột kéo lê trên mặt cát, bị hai chân sau của chính nó dẫm lên nên xổ ra hàng mớ và thắt nút như một búp sợi bị rối. Con ngựa lồng chạy làm cho con bò chú ý và đuổi theo, lấy sừng nhấc bổng con ngựa lên rồi hất xuống đất, húc xéo đến mấy phút vào cái xác nát và thoi thóp. Một anh lao công trong bãi đấu đến kết liễu đời con ngựa hấp hối bằng cách cắm mạnh cái puntidia vào gáy nó, con vật to lớn gày guộc giãy giụa vài cái rồi nằm im, bốn vó cứng đơ.
Trong khi đó một số người lao công khác xách giỏ chạy ngang chạy dọc, trải rất nhiều cát lên các vũng máu và cái xác.
Công chúng đứng dậy, hò hét vung tay dậm chân. Sự hung dữ của con bò đã gây hào hứng. Thấy không còn người picađo nào trên bãi đấu, khán giả kêu váng lên đòi hỏi:
- Đem ngựa vào! Ngựa đâu!?
Con bò đứng một mình giữa bãi đấu, oai vệ, rống liên hồi, đầu ngửng cao, sừng đẫm máu, với dải băng huy hiệu phất phơ trên hai vai bị xé rách và đỏ lòm của nó.
Một số kỵ sĩ mới vào bãi đấu và cuộc tàn sát ghê tởm lại tiếp tục. Một picađo vừa mới cho con ngựa của mình đứng nghiêng khiến con mắt bị kín của nó quay về phía con bò và anh vừa mới tiến lên vài bước, mũi giáo chĩa ra phía trước, là lập tức anh bị va chạm và lộn nhào cả người lẫn ngựa. Ngọn giáo gẫy đánh rắc, con ngựa bị cặp sừng dũng mãnh húc vào, máu vọt ra, ruột thủng để xổ hết *** đái. Anh picađo ngã đến bịch xuống đất và các pêông vội vã dùng áo choàng để che cho anh.
- Cậu ấy không dậy được đâu! Công chúng la lên. Chắc vỡ đầu rồi!
Nhưng một lát sau, anh picađo đứng dậy được, duỗi tay, gãi đầu, nhặt chiếc mũ phớt rơi xuống đất, lại nhảy lên lưng con ngựa cũ mà mấy anh lao công của đấu trường đã dựng dậy bằng cách cho nó mấy cái đạp và mấy cái gậy. Rồi cưỡi con ngựa hấp hối ấy, anh ta lại xông vào con quái vật.
Giai đoạn cắm banđêri cũng không kém phần khủng khiếp và cuối cùng đến khi con bò ghê gớm gục xuống dưới nhát kiếm kết liễu đời nó, khắp bãi đấu có xác chết và vết máu.
Con bò thứ hai dành cho Gađacđô. Khi anh tiến đến chào ông chủ tịch cuộc đấu, khán giả tỏ vẻ có thiện cảm với anh. Mọi người vốn chờ đợi cuộc đấu hôm nay từ lâu, nên họ tỏ ra có độ lượng, hơn nữa sự anh dũng của con bò thứ nhất và đống xác ngựa làm cho họ thành vui vẻ xởi lởi.
Sau thủ tục brindix, Gađacđô tiến về phía con bò, đầu trần, chiếc mulêta chìa ra trước mặt nó. Sau lưng anh một quãng, Người Quốc dân và một pêông khác bước theo anh. Điều này làm cho tiếng chỉ trích nổi lên ở các bậc ngồi. Sao nhiều tùy tùng thế? Y như toàn bộ hàng giáo phẩm của một xứ đi đưa ma.
- Mọi người tránh xa xa! Gađacđô thét.
Lần này anh ra lệnh với một giọng nghiêm nghị không thể nghi ngờ, cho nên hai người pêông liền rút lui.
Khi gần đến con bò, người matađo xòe chiếc mulêta, tiến thêm vài bước nữa, như ở trong thời kỳ những thành tích thần tình nhất của anh, rồi anh dí mảnh vải sát mõm con vật, làm một động tác bằng mảnh vải đó.
- Hoan hô!...
Trên khán đài có tiếng rì rào thỏa mãn.
Người con của thành phố Xêvilơ lại xứng danh như trước rồi. Anh ta lại bắt đầu có ý thức về danh dự nghề nghiệp rồi.
Khi con bò đứng im, công chúng khuyến khích Gađacđô:
- Xông vào đi! Có cơ hội đấy!
Gađacđô bèn xông vào, mũi kiếm giơ cao! Rồi, anh nhảy vội sang một bên để thoát ra ngoài tầm của cặp sừng.
Có tiếng vỗ tay nhưng nó ngắn ngủi, và ngay sau đó nổi lên tiếng rì rầm bất mãn cùng mấy tiếng huýt sáo lanh lảnh. Đột nhiên, tiếng huýt sáo nổ ra ầm ầm ở bốn phía đinh tai nhức óc và hàng nghìn cánh tay duỗi thẳng ra để chỉ con bò. Lưỡi kiếm cắm nghiêng, đã xuyên qua mình con vật rồi thòi ra ở phía bên kia, gần sau vai nó.
Khán giả hoa tay hoa chân ra vẻ rất tức giận. Xấu hổ thật! Ngay những đấu sĩ mới vào nghề và tồi nhất cũng không đến nỗi phạm khuyết điểm nặng nề như vậy!
Ngạc nhiên về lỗi lầm của mình, Gađacđô cúi đầu dưới trận bão chửi bới và đe dọa. Cuộc tấn công của anh bắt đầu khá hay, nhưng rồi anh không thắng nổi ý muốn tránh cặp sừng bò cho thật nhanh nên anh đã đâm nhát kiếm vụng về nhục nhã đó.
Bị thọt một chân, con bò tiếp tục chạy tập tễnh một quãng nữa rồi dừng lại cho đỡ đau. Gađacđô bèn lấy một thanh kiếm khác rồi tiến đến trước mặt nó định tâm thực hiện một cú đecabenlô. Anh vừa dí mũi kiếm vào giữa cặp sừng, vừa hoa chiếc mulêta bằng tay trái, cốt làm cho con vật chúc mõm xuống sát đất, rồi anh dùng cổ tay ấn mũi kiếm. Nhưng con bò bị đâm bèn lắc đầu và hất thanh kiếm bật ra.
- Một nhé! Công chúng đồng thanh hô lên pha trò. Anh matađo lại làm lại. Nhưng lần này nhát kiếm chỉ làm cho con vật giật mình.
- Hai nhé! Công chúng mỉa mai hét trên các bậc ngồi.
Gađacđô lại cố một lần nữa, nhưng cũng như hai lần trước, lần này cũng chỉ làm cho con bò rống lên đau đớn.
- Ba nhé!
Rồi bản đồng ca nhạo báng bị lấp dưới một trận bão huýt sáo, chửi rủa, phản đối. Bao giờ mới xong cái trò đê tiện này?
Đến lần thứ tư, Gađacđô may mắn đâm trúng huyệt làm cho con bò gục ngay xuống, nằm nghiêng, bốn chân cứng đờ.
Sau khi lau mồ hôi và chào ông chủ tịch cuộc đấu như một cậu học trò xấu hổ vì phạm lỗi, anh matađo trốn vào sau hàng rào trong khi các khán giả kẻ thì nói mỉa kẻ thì im lặng khinh khỉnh. Anh uống một hơi cốc nước của Garabatô đưa cho anh. Vì anh đã vận động quá nhiều nên vết thương cũ ở chân lại hơi đau và anh thấy cần dành sức để giết con bò thứ hai. Anh phải thừa nhận rằng anh không còn được như cũ. Mặc dầu đã hạ quyết tâm, anh vẫn không thể đâm nhát kiếm như trước kia. Chân anh không nhanh nhẹn như xưa, cánh tay phải của anh không còn mạnh nữa, nó không tuân theo ý muốn của anh mau như trước nữa. Tuy nhiên, khi con bò thứ hai của anh vào bãi đấu, anh là người đầu tiên múa áo choàng trước mặt nó. Hình dáng của con bò này làm anh ngạc nhiên, nên anh nóng ruột muốn nhìn kỹ nó. Đúng thật, nó không phải là con bò mà anh đã cùng người mayôran chọn hôm qua. Chắc người ta đã nhầm khi phân phối bò vào chuồng. Con bò này trông cái mã xấu quá!
Công chúng không thù anh và còn vỗ tay khen những đường múa áo choàng của anh, tuy họ không khen nhiệt liệt.
Khi trận đấu bước sang giai đoạn cuối cùng và Gađacđô đứng nghiêng ở trước con bò thì tất cả khán giả đoán biết anh bối rối. Đấu pháp của anh hỗn loạn, hễ con bò động đậy cái đầu là anh vội vàng nhảy giật lùi.
- Đề phòng nhé! Nó đuổi theo đấy. Công chúng thét lên giễu cợt.
Gađacđô đâm nhát thứ nhất, nhưng thanh kiếm chỉ ngập vào thân con bò độ vài xăngtimét đã bật ra khá xa.
Khi Gađacđô đang chuẩn bị đâm nhát thứ hai, con bò đột ngột tấn công. Anh matađo không còn nhanh chân như trước nên bị bò va trúng làm anh ngã lăn xuống đất. Người ta định chạy lại cứu thì anh đã đứng dậy, không bị thương nhưng người lấm bem lấm bèm, quần áo rách toạc, cái mônha bị rứt đứt, món côlêta xổ tung, một chiếc giày bị văng đi.
Thương hại anh, nhiều người giơ áo choàng xung quanh anh để che chở. Vì tình bạn, các matađo khác quấy rối con bò, chuẩn bị sẵn để anh chỉ việc kết liễu đời nó không khó khăn gì. Nhưng Gađacđô, như đui như điếc, không nghe ý kiến của các đồng nghiệp, không biết lợi dụng những cơ hội thuận lợi nhất để đâm nhát kiếm quyết định. Mặt tái mét, lông mày nhíu lại, anh nói lúng búng trong một trạng thái vô ý thức hoàn toàn:
- Mọi người tránh xa ra!... Mọi người tránh xa ra!... Trong đám khán giả, một số xem ra rất thích sự hoang mang của Gađacđô, còn một số khác thì cứ la tướng lên rằng thế là họ bị lừa tiền.
Cuối cùng, với sự giúp đỡ của nhiều người múa áo choàng, Gađacđô đâm bạt mạng ba bốn nhát kiếm nhưng con bò vẫn không làm sao cả. Nó vừa rống vừa cúi đầu chạy nhung nhăng dọc hàng rào, dường như để than thở tại sao người ta lại hành tội nó một cách vô ích như vậy. Gađacđô chạy theo con bò, một tay cầm mulêta, một tay cầm kiếm. Theo sát người anh là cả một đoàn pêông vung áo choàng, dường như muốn bảo con vật hãy quỳ gục xuống bãi trước cái rừng vải đỏ ấy.
- Sao mà lắm kiếm thế! Nhiều khán giả gào lên mỉa mai, lấy ngón tay chỉ vào cổ con vật lởm chởm những kiếm là kiếm. Không phải là bò đâu, Đức Mẹ Bảy Sự đấy!
Nhiều khán giả quay mặt về phía lô của ông chủ tịch cuộc đấu và kêu to:
- Thưa ông chủ tịch!... Chẳng lẽ để trò xấu xa này kéo dài mãi à?...
Ông chủ tịch bèn quyết định làm một việc khiến đấu trường trở lại im lặng ngay: mọi người trông thấy một angoaxilê, đội mũ lông chim, mặc áo khoác ngắn lùng thùng, chạy dọc sau hàng rào. Đến gần chỗ có con bò, anh ta giơ nắm tay về phía Gađacđô, ngón tay trỏ chỉ lên trời. Công chúng vỗ tay. Đó là lần cảnh cáo thứ nhất. Nếu trước lần cảnh cáo thứ ba, con bò chưa bị giết thì nó sẽ được dẫn về chuồng và người matađo sẽ bị nhục vô cùng.
Hoảng sợ trước sự đe dọa đó, Gađacđô hình như tỉnh cơn đê mê, anh xông vào con vật, thanh kiếm chĩa thẳng. Nhưng nhát kiếm cũng chẳng hơn gì những nhát trước và con bò tiếp tục chạy.
Sự thất bại của nhát kiếm cuối cùng này làm công chúng càng phẫn nộ. Tiếng huýt sáo vang lên đinh tai nhức óc. Nào cam, nào vỏ bánh mì, nào đệm chân và đủ các loại đạn khác ném như mưa vào bãi đấu. Về phía khu chuồng bò, một nhóm người khá đông cùng nhau cất tiếng hát Kinh Cầu hồn như đưa đám.
Cuối cùng, con bò gục xuống. Chú puntidiêrô đến cho nó một xiên kết liễu đời nó. Mấy con la vào kéo cái xác ra, trên bãi đấu chỉ còn lại những vết máu dài. Tình hình lúc về của Gađacđô thật đáng buồn! Vì có nhiều xe ngựa, xe ô tô, tàu điện cản đường quanh đấu trường, nên chiếc xe ngựa của đội anh phải dò từng bước. Người đi đường thấy mấy con la thì tránh ra tò mò nhìn các đấu sĩ. Nhưng vừa mới nhận ra Gađacđô, vẻ mặt họ lập tức tỏ vẻ khinh bỉ và hình như họ tiếc rẻ là đã quá lịch sự tránh đường cho anh đi.
Những cỗ xe mui trần, trên có những phụ nữ xinh đẹp quàng khăn trắng, chạy gần xe anh nhưng họ quay đầu đi chỗ khác để khỏi trông thấy anh hoặc họ nhìn anh bằng con mắt buồn rầu thương hại.
Bỗng nhiên, một bọn trẻ con vây quanh xe anh và huýt sáo. Một phút sau, nhiều người lớn thuộc tầng lớp nghèo cũng nhập bọn với đám này. Cả bọn trẻ con lẫn người lớn ấy đều không được vào bãi xem, nhưng cái tin anh thất bại nhục nhã đã lan đi khắp nơi, cho nên đám cùng dân thích thóa mạ không thương tiếc kẻ mà họ tin là giàu nứt đố đổ vách.
Một hòn đá ném trúng bánh xe. Đám biểu tình mỗi lúc một đông, đe dọa một cách đáng sợ. May thay cho Gađacđô, hai angoaxilê cưỡi ngựa đã chạy lại giải tán đám đông hỗn xược và hộ tống đến tận đầu phố Ancala "người số một trên thế giới".