Đây là câu chuyện về một cuộc chiến tranh to lớn gớm ghê mà Ric-tic-tặc đã tiến hành đơn thương độc mã, trong phòng tắm của một ngôi nhà ở vùng Cigouli. Dazzi, con chim chích, đã giúp nó một tay, và Chuchundra, con chuột xạ, là đứa không khi nào bò ra giữa nhà mà chỉ đảo dũi quanh tường, đã cố vấn cho nó; nhưng Ric-tic-tặc thì đã chiến đấu thật sự.
Nó là một con chồn Mangut, nom từa tựa con mèo con ở bộ lông và cái đuôi, nhưng hoàn toàn giống con chồn ở cái đầu và trong các thói quen. Đôi mắt nó cùng cái mũi dài bất tận có màu hồng; nó có thể tự mò đi khắp nơi mà không cần dùng tới chân trước lẫn chân sau; nó có thể làm xù đuôi lên cho tới khi nom tựa cái bàn chải rửa bóng đèn, rửa chai lọ; và tiếng kêu xung trận của nó, khi nó cất lên trong đám cỏ cao là: Ric-tic-tic tic-tặc!
Một hôm, trận lụt lớn mùa hè đã cuốn nó ra khỏi hang nó đang sống cùng cha mẹ, và cứ thế lúc lắc đong đưa tha nó đi dọc con mương bên đường lớn. Nó vớ được một nạm cỏ đang trôi, nó bám vào đó cho tới khi ngất đi bất tỉnh. Lúc sống lại, nó nằm dưới nắng chang chang giữa một lối đi trong vườn, người lấm bê lấm bết, và một chú bé con đang bảo:
- Này, một con chồn Mangut chết. Chúng mình chôn nó đi.
- Không - Mẹ chú bé nói – Ta đem sưởi khô cho nó. Có thể là nó chưa chết thật đâu.
Họ đem nó vào trong nhà, và một ông to lớn nhón tay cầm nó rồi nói rằng nó không chết mà chỉ ngạt thở thôi, thế là họ bọc nó trong đống nùi bông, sưởi cho nó, và nó mở mắt ra rồi hắt xì hơi.
-Thôi nào, đừng làm nó sợ, rồi ta sẽ xem nó làm được những gì. - Người đàn ông to lớn nói.
Trên đời này chuyện khó khăn hơn cả, là làm cho một con chồn Mangut sợ hãi, bởi vì toàn bộ con người nó chỉ là sự tò mò. Khẩu hiệu của dòng chồn Mangut là “ Chạy và tìm ”, và Ric-tic là một chú chồn Mangut đích thị. Nó xem xét đống nùi bông, cho rằng món đó không ngon, nó chạy quanh bàn, ngồi dậy và sửa sang bộ lông, bò đi bò lại rồi nhảy tót lên vai cậu bé con.
- Đừng sợ, Teddie! – Cha cậu nó – Cách nó tìm bạn là như vậy đấy.
- Ối! Nó cù cằm con buồn buồn là! – Teddie nói.
Ric-tic nhòm xuống giữa cổ áo và cổ cậu bé, thở hơi vào tai cậu ta, bò xuống sàn nhà rồi ngồi đấy cọ mũi mình.
- Sao mà khéo! - Mẹ Teddie nói – Con vật hoang dã mà thế đấy! Có lẽ nó dễ thuần hóa như vậy, vì chúng ta đã đối xử tử tế với nó.
- Chồn Mangut nào thì cũng như thế - Ông chồng bà nói - Nếu như Teddie không nắm đuôi nó mà kéo và không tìm cách cho nó vào lồng, thì nó sẽ suốt ngày ra ra vào vào nhà này. Ta cho nó chút gì ăn đi.
Họ cho nó miếng thịt sống. Ric-tic thích món đó vô cùng, và khi đã chén xong, nó đi ra ngoài hiên ngồi dưới nắng mà xù lông ra cho khô đến tận chân lông. Và nó cảm thấy khá hơn.
- Trong nhà này còn nhiều thứ nữa để tìm – Nó tự bảo – mà họ hàng nhà ta trong suốt cả đời cũng không tìm ra nhiều bằng. Nhất định ta sẽ ở đây và tìm cho ra.
Suốt cả ngày hôm đó nó lần mò quanh nhà. Chút nữa thì nó bị chết đuối trong cái bồn tắm, nó nhúng mũi vào lọ mực để trên bàn viết, và bị cháy mũi vì chạm vào đầu điếu xì gà của ông to lớn, trong lúc nó leo lên vạt áo ông để coi thử việc viết lách là như thế nào. Đêm đến, nó mò vào trong phòng ngủ của Teddie để coi thử đèn măng sông thắp như thế nào, rồi khi Teddie lên giường nằm thì nó cũng lên theo; có điều là nó không lúc nào yên cả, bởi vì nó có nhiệm vụ suốt đêm phải canh chừng mọi tiếng động và tìm cho ra tiếng động đó là vì đâu. Mẹ và cha của Teddie vào phòng để thăm nom con, lúc ấy Ric-tic vẫn thức chồm chỗm trên chiếc gối.
- Em không ưa như thế - Mẹ Teddie nói – Nó có thể cắn thằng bé.
- Nó chẳng làm những chuyện như vậy đâu - Người cha nói – Teddie sẽ an toàn với con vật bé bỏng này hơn là có một con chó săn canh chừng cho. Lúc này, nếu có một con rắn chui vào…
Thế nhưng mẹ của Teddie không thích nghĩ tới bất kỳ chuyện gì kinh hoàng như vậy.
Sáng sớm Ric-tic đã cỡi trên vai Teddie đi ăn điểm tâm ngoài hàng hiên, và họ cho nó trái chuối cùng trứng luộc và nó ngồi trên vạt áo của từng người, bởi vì mỗi con chồn Mangut đều hy vọng một lúc nào đó trở thành chồn nhà, và có những căn buồng để ra ra vào vào, và mẹ của Ric-tic ( mẹ của nó thường ở trong căn nhà ngài Đại tướng ở Cigouli ) đã từng cẩn thận dặn dò nó vể cách thức cư xử khi chẳng may bắt gặp người da trắng.
Sau đó Ric-tic đi ra ngoài vườn hoa để xem có gì đáng nhìn thì nhìn. Đó là một cái vườn rộng, nửa trồng trọt cẩn thận, nửa để hoang, với những bụi cây lớn như ở những nhà nghỉ mùa hè, toàn hoa hồng đại đóa, cam và chanh, với những lùm tre và những búi cỏ cao. Ric-tic liếm môi khoái trá: “ Thật là một nơi săn bắt tuyệt vời ”, nó nói và đuôi nó xù lên khi nghĩ tới điều đó, thế rồi nó đi tung tẩy khắp vườn, cho tới lúc nó nghe thấy những tiếng khóc than ảo não trong một bụi gai.
Đó là Dazzi, con chim chích, cùng với vợ. Chúng đã làm được cái tổ đẹp đẽ bằng cách kéo hai cái lá to lại với nhau, rồi lấy xơ sợi khâu các mép lá lại, sau đó nhét bông vào đầy phần rỗng. Cái tổ đu đu đưa đưa và hai vợ chồng chim chích ngồi trên mép tổ mà gào.
- Có chuyện gì thế? – Ric-tic hỏi.
- Khổ thân chúng tôi quá – Dazzi nói – Có bốn đứa con, thì một cháu hôm qua rơi khỏi tổ và bị Nag ăn thịt.
- Hừ - Ric-tic nói - thế thì đau khổ thật…Nhưng tôi là người lạ ở chốn này. Nag là ai vậy?
Dazzi cùng vợ chỉ co rúm lại trong tổ mà không trả lời, bởi vì lúc đó trong đám cỏ dày dưới bụi cây vang lên một tiếng rít khẽ…Một âm thanh lạnh lẽo khủng khiếp khiến cho Ric-tic phải nhảy lùi về phía sau mấy bước. Tiếp đó, từ trên thảm cỏ nghển cao dần cái đầu và cái mang bành của Nag, con rắn hổ mang đen to lớn, từ đầu tới đuôi dài đến thước rưỡi. Khi nó nghển cao khỏi mặt đất một phần ba thân, nó liền đứng như vậy mà đu đưa, hệt như búi bồ công anh đu đưa trong gió, và nó nhìn Ric-tic bằng đôi mắt rắn độc ác, đôi mắt không khi nào thay đổi cách biểu lộ tình cảm, bất kể khi đó rắn đang nghĩ tới điều gì.
- Nag là ai ư? – Nó nói – Nag là ta đây! Đức Phật tổ đã đánh dấu lên toàn bộ loài ta từ khi con mang bành đầu tiên che mặt trời cho Ngài ngủ. Nhìn đây, sợ chưa?
Nó bành mang to hơn nữa, và Ric-tic thấy cái hình đôi mắt kính phía sau đầu con rắn, nom như cái vòng của cái móc áo đeo vào. Nó thấy sợ một giây lát, nhưng với một con chồn Mangut không thể có chuyện sợ hãi, và cho dù trước đây Ric-tic chưa từng bắt gặp một con mang bành sống bao giờ, mẹ nó đã từng nuôi nó bằng rắn chết, và nó biết rằng toàn bộ công việc của một con chồn Mangut trưởng thành trên cõi đời này là chiến đấu và ăn rắn. Nag cũng biết điều đó, và tận cùng trong trái tim lạnh lẽo, nó thấy sợ.
- Được – Ric-tic nói, đuôi nó lại xù lên – Có dấu hay không có dấu cũng thế thôi. Anh cho rằng anh có quyền ăn chim non rơi khỏi tổ ư?
Nag suy nghĩ và đang ngóng đợi một cử động thật nhỏ trong đám cỏ phía sau lưng Ric-tic. Nó biết rằng, có chồn Mangut trong vườn là sớm muộn sẽ có sự chết chóc cho dòng họ nó, nhưng lúc này nó muốn làm cách gì cho Ric-tic mất cảnh giác. Nó hạ thấp đầu xuống hơn một chút và ngả sang một bên.
- Chúng ta thử lý sự nào! – Nó nói – Anh ăn trứng, tại sao tôi không ăn chim được?
- Sau lưng kìa! Đề phòng sau lưng kìa! – Dazzi hót lên.
Ric-tic đã có thừa hiểu biết để không phí thời gian nhìn xem có chuyện gì. Nó nhảy lên thật cao hết sức mình, và đúng lúc đó, dưới chân nó, cái đầu con rắn cái Nagaina phóng qua. Con mụ này đã dò tới sau lưng, trong lúc nó đang nói chuyện để định hạ thủ nó. Con mụ ấy cắn hụt và Ric-tic nghe thấy tiếng rít man rợ của mụ. Nó nhảy xuống đất suýt trúng lưng con rắn cái, và nếu như nó là một con chồn Mangut già đời thì nó thừa biết rằng chính đó là thời điểm, cắn một miếng gẫy lưng con rắn cái; thế nhưng nó đã sợ cú vụt lại ghê gớm của con rắn. Nó cũng cắn, nhưng rồi buông ra ngay, và nó nhảy phắt ngay để tránh cái đuôi quật lại vun vút, còn con Nagaina thì ứa nước mắt và tức điên người.
- Con Dazzi thâm độc, thâm độc! – Nag nói, và nó cố vụt cái đuôi lên cái tổ chim trên bụi gai. Nhưng Dazzi đã dựng tổ ngoài tầm với tới của loài rắn, cú vụt ấy chỉ làm cái tổ đu đưa qua lại mà thôi.
Ric-tic cảm thấy mắt nó đỏ lừ và nóng lên ( khi mắt con chồn Mangut chuyển thành màu đỏ, ấy là nó đang giận dữ ), và nó ngồi lên đuôi cùng hai chân sau tựa như một con thú có túi nho nhỏ và nhìn xung quanh, răng va vào nhau lập cập điên giận. Nhưng Nag và Nagaina đã biến mất hút trong bụi cỏ. Khi một con rắn cắn hụt, nó không nói điều gì bao giờ và cũng không lộ bất kỳ dấu hiệu nào cho biết sau đó nó sẽ làm gì. Ric-tic không thèm theo dõi chúng, nhưng nó không cảm thấy vững lòng rằng, nó có thể đối địch được cùng một lúc với hai con rắn. Vì vậy nó chạy nước kiệu về phía lối đi rải sỏi gần nhà và ngồi đó suy nghĩ. Đây cả là một vấn đề nghiêm trọng đối với nó.
Nếu như các bạn được đọc các sách cũ về giới tự nhiên, các bạn sẽ thấy trong đó nói rằng, khi một con chồn Mangut đánh nhau với rắn và bị rắn cắn, nó sẽ chạy đi tìm một thứ cỏ để trị nọc độc. Điều đó không đúng đâu. Chiến thắng chỉ là vấn đề nhanh mắt và nhanh chân - rắn thì quật và chồn Mangut thì nhảy – và do chỗ chẳng có mắt nào theo dõi nổi sự vận động của đầu con rắn khi nó mổ, nên nhưng chuyện đó còn diệu kỳ hơn chuyện cỏ từ thuật nhiều. Ric-tic biết, nó là một con chồn Mangut còn non, nên nó càng thú vị khi nghĩ rằng nó đã có thể tránh được một cú đòn từ phía sau lưng. Điều đó khiến nó có tự tin, và khi Teddie chạy tới, nó đã sẵn sàng chờ Teddie ve vuốt nó.
Thế nhưng đúng lúc Teddie cúi xuống thì có một cái gì quằn quại trong bụi cát, và một tiếng nói nho nhỏ cất lên: “ Cẩn thận, ta là sự chết đây! ”. Đó là Karait, con rắn nhỏ màu nâu như bùn đất và lại thích nằm nơi đất cát, nó mà cắn thì cũng nguy hiểm như mang bành cắn. Thế nhưng nó nhỏ bé quá khiến cho chẳng ai nghĩ tới nó, và vì vậy mà nó càng nguy hiểm cho mọi người.
Đôi mắt của Ric-tic lại đỏ lựng lên, và nó vồ lên Karait bằng cú vồ gọn mềm đặc biệt, thừa hưởng của dòng họ. Nom thì thật tức cười, nhưng cái dáng lại uyển chuyển thật khéo, khiến bạn có thể bật ra từ bất kỳ góc độ nào bạn chọn, và trong cuộc chiến đấu với loài rắn thì đó quả là một lợi thế. Ric-tic không biết rằng nó đang làm một công việc còn nguy hiểm hơn cả việc đánh con mang bành Nag, bởi vì Karait bé quá và có khả năng quay ngoắt lại thật nhanh, và trừ phi Ric-tic cắn đúng vào gáy nó, nếu không con kia có thể vùng lại cắn vào mắt hoặc môi Ric-tic. Nhưng Ric-tic không cần biết điều đó. Đôi mắt nó đỏ lựng lên rồi, nó cứ thế xông thẳng tới, và tìm chỗ mà đớp chặt lấy, Karait trườn mất. Ric-tic nhảy sang bên và cố đuổi theo, nhưng cái đầu xám độc ác màu đất nho nhỏ đã quật vào vai nó, do đó nó phải nhảy lên thân con rắn, nhảy tới và cắn liền.
Teddie gọi toáng về nhà:
- Ô coi này! Con chồn nhà ta đang cắn chết một con rắn!
Ric-tic thấy mẹ Teddie kêu thét lên. Cha Teddie nhào ra với cây gậy, nhưng tới nơi thì Karait đã trườn đi xa hơn nữa rồi, còn Ric-tic thì lao theo, nhảy lên lưng con rắn, đầu nó vươn xa hơn chân trước và nó cắn ngập thật cao phía lưng con rắn rồi lăn ra.
Miếng cắn đó làm con Karait tê liệt, và Ric-tic đang định chén thịt con rắn từ đuôi chén lên theo tục lệ bữa ăn chiều của dòng họ, thì nó chợt nhớ rằng ăn quá no làm cho chồn Mangut trở nên chậm chạp, và nếu như nó muốn cho toàn bộ sức mạnh và sự nhanh nhẹn ở trạng thái luôn luôn sẵn sàng, thì nó phải giữ sao cho thân hình thon thả.
Nó bỏ đi dũi mình trong bụi đất dưới bụi thầu dầu trong lúc cha Teddie đánh con Karait đã chết rồi. “ Làm thế để làm gì nhỉ? – Ric-tic nghĩ – Mình đã giải quyết xong xuôi rồi cả mà! ”. Sau đó mẹ Teddie nhấc nó ra khỏi đám đất cát và ve vuốt nó, la lên rằng nó đã cứu Teddie thoát chết, cha Teddie thì nói rằng đó là thiên mệnh, còn Teddie thì nhìn với đôi mắt kinh hãi mở to. Ric-tic cũng thấy thú vị trước những lời lẽ líu tíu của họ mà dĩ nhiên là nó chẳng hiểu chút gì. Lẽ ra mẹ Teddie cứ cho cậu ta lăn mình chơi vầy trong cát bụi có hơn không. Ric-tic thấy nó hoàn toàn sung sướng.
Tối hôm đó, vào lúc dùng bữa, nó đi đi lại lại giữa những cốc rượu vang trên bàn, ba lần nó được nhúng mũi vào những món ăn ngon; thế nhưng nó vẫn nhớ tới Nag và Nagaina, và mặc dù được Teddie cưng chiều ve vuốt, được ngồi trên vai Teddie, mắt nó thỉnh thoảng vẫn đỏ nọc lên và nó những muốn cất lên tiếng kêu chiến trận: Ric-tic-tic-tic-tặc.
Teddie đem nó vào giường ngủ và nài nỉ nó nằm ngủ ngay dưới cổ chú bé. Ric-tic đã được giáo dục tử tế nên chẳng cắn cũng chẳng cào, nhưng Teddie vừa chợp ngủ là nó chuồn khỏi giường để tiến hành đi tuần tra quanh căn nhà, và trong bóng đêm nó bắt gặp Chuchundra, con chuột xạ đang bò men tường. Chuchundra là một con vật nhỏ đau khổ. Nó rên rỉ, chút chít suốt đêm, cố nghĩ cách nào ra được giữa căn phòng, nhưng chẳng khi nào ra nổi đó.
- Đừng giết tôi – Chuchundra nói gần như khóc – Ric-tic, xin đừng giết tôi.
- Mày cho rằng một kẻ giết được rắn lại đi giết chuột xạ ư? – Ric-tic nói với kẻ khinh thị.
- Kẻ nào giết rắn sẽ bị rắn giết – Chuchundra nói càng rầu rĩ hơn - Mấy lại, sao lại không có thể vào một đêm tối nào đó Nag nhầm tôi là anh?
- Thế thì chẳng có tí hiểm nguy nào hết – Ric-tic nói – vì Nag ở ngoài vườn, còn chú mày thì chẳng ra được ngoài đó.
- Chua, em họ tôi, con chuột ấy, nó nói vời tôi… - Chuchundra nói rồi ngừng lại.
- Nói với mày cái gì?
- Hắt xì! Nag có mặt mọi nơi, Ric-tic ạ. Anh nên hỏi Chua ở ngoài vườn ấy.
- Không…mày phải cho ta biết. Nói nhanh, Chuchundra, không ta sẽ cắn.
Chuchundra ngồi xuống và kêu la cho tới khi nước mắt chảy đẫm đám râu ria.
- Tôi thật là con người đau khổ - Nó nức nở - Tôi chẳng khi nào có đủ can đảm bò ra được khỏi phòng. Hắt xì! Tôi không thể nói với anh điều gì cả. Anh có nghe thấy gì không Ric-tic?
Ric-tic lắng nghe. Căn nhà vẫn còn yên tĩnh, nhưng hình như nó có nghe thấy một tiếng sột soạt rất khẽ đâu đây – một tiếng động yếu ớt như tiếng con ong vò vẽ bay đậu trên ô kính cửa sổ - tiếng sột soạt khô khan của con rắn bò trên tường gạch.
- Đó là con Nag hoặc Nagaina – Nó tự bảo – và nó đang bò vào đường tháo nước nhà tắm. Mày nói đúng, Chuchundra ạ, tao phải ra hỏi Chua xem sự thể ra sao.
Nó lần vào phòng tắm của Teddie, nhưng ở đó chẳng có chuyện gì, sau đó lại sang phòng tắm của mẹ Teddie. Ở dưới chân bức tường vữa mềm có một viên gạch gỡ ra để làm đường tháo nước tắm, và từ chỗ Ric-tic nấp bên trong bồn tắm, nó nghe thấy Nag và Nagaina thì thào với nhau bên ngoài trời trăng sáng.
- Khi căn nhà không còn ai nữa – Nagaina nói với chồng – nó sẽ phải đi chỗ khác, sau đó khu vườn sẽ lại thuộc về vợ chồng mình. Cứ bình tĩnh mà vào, và nhớ rằng phải cắn trước nhất vào cái thằng to lớn đã giết chết Karait, nghe không? Sau đó thì anh quay ra cho em biết, và hai ta sẽ cùng săn đuổi con Ric-tic.
- Nhưng mình có tin rằng ta cứ cắn chết người thì có lợi lộc gì không? – Nag nói.
- Lợi lộc đủ điều! Khi nào trong căn nhà không còn ai nữa, thì ngoài vườn làm sao còn có con chồn Mangut nào cho nổi? Chừng nào căn nhà trống không thì hai ta còn là hoàng đế và hoàng hậu của khu vườn. Mình cũng nên nhớ rằng, khi trứng các con ta ngoài vườn dưa nở ( chỉ ngày mai thôi ), các con cần có chỗ ở và sự yên tĩnh chứ.
- Tôi không nghĩ tới chuyện đó – Nag nói – Tôi đi đây. Nhưng sau đó cần gì phải săn đuổi Ric-tic chứ? Tôi sẽ giết lão to xác cùng với vợ nó và cả thằng con nếu có thể làm được, sau đó tôi lặng lẽ quay ra. Sau đó căn nhà sẽ trống không và Ric-tic sẽ ra đi.
Ric-tic thấy ngứa cả người vì điên giận và căm ghét, thế rồi sau đó cái đầu của Nag thò qua cửa cống và tấm thân dài thước rưỡi lạnh lẽo bò theo. Giận điên lên rồi, nhưng Ric-tic cũng thực sự thấy sợ khi nhìn thấy thân xác to lớn con mang bành. Nag cuộn mình lại, ngóc đầu lên nhòm vào buồng tắm trong bóng tối. Ric-tic thấy rõ đôi mắt nó lấp lánh.
- Nếu lúc này ta giết nó, vợ nó sẽ biết ngay, nhưng nếu nó bò ra giữa phòng, ta mới tiến công thì nó có nhiều lợi thế. Làm cách gì đây? – Ric-tic tự bảo.
Nag đu đưa đầu qua lại, sau đó Ric-tic thấy nó uống nước trong cái vò lớn thường dùng để đổ nước cho bồn tắm.
- Hay lắm – Con rắn nói - Hồi Karait bị giết, lão to xác có một cây gậy. Hắn có thể vẫn còn cây gậy đó, nhưng đến sáng khi lão vào phòng tắm hắn sẽ không mang gậy theo. Ta sẽ đợi cho tới khi lão tới. Nagaina, em nghe tiếng anh không? Anh sẽ chờ trong cảnh lạnh giá này cho tới sáng rõ.
Bên ngoài không có tiếng đáp lại, vì thế Ric-tic biết rằng Nagaina đã đi xa. Nag cuộn mình lại từng cuộn, từng cuộn, quanh khúc phình đáy chum nước, còn Ric-tic đứng im như chết. Sau một tiếng đồng hồ, nó bắt đầu cử động từng thớ, từng thớ thịt một, hướng tới vò nước. Nag đã ngủ và Ric-tic chăm chú nhìn cái lưng to lớn của con rắn, tự hỏi xem cắn vào chỗ nào là tốt hơn cả.
- Nếu ngay từ miếng đầu tiên mà ta không cắn gãy cái lưng kia – Ric-tic nghĩ – thì nó vẫn còn chiến đấu được, và nó đánh lại…thì ôi thôi Ric-tic!
Nó nhìn vào chỗ đầy đầy ở con rắn, phía dưới chỗ cái mang bành ra, nó thấy khó mà cắn nổi. Thế nhưng cắn một miếng vào đuôi sẽ càng làm cho Nag dữ tợn thêm.
- Phải cắn vào đầu thôi - Cuối cùng nó nghĩ vậy – Cái đầu sát phía trên cái mang bành ra và hễ đã cắn vào đó thì nhất quyết không thả ra nữa.
Sau đó nó nhảy lên. Đầu con rắn nằm hơi sát vò nước, dưới cái phần thót vào, và khi răng nó cắn ngập vào rồi, Ric-tic tựa lưng vào chỗ phình ra bằng sành màu đỏ để ghìm chặt cái đầu con rắn. Tất cả những việc đó chiếm mất của nó đúng một giây và nó đã cố hết sức mình trong cái phút giây ấy. Sau đó nó bị quăng đi quật lại như một con chuột bị con chó hành hạ….Quăng quật trên sàn nhà, quăng lên quật xuống và quăng tròn thành những vòng quay lớn, thế nhưng mắt nó đỏ rồi và nó vẫn bám chắc khi thân xác nó bị quật dữ dội, làm đổ nháo nhào cả chậu thiếc, cả đĩa đựng xà phòng và bàn chải, quật cả vào thành bồn tắm bằng thiếc. Càng bám chắc, răng nó càng nghiến chặt, vì nó biết rằng nó sẽ bị quật cho đến chết, và vì danh dự dòng họ, nó sẽ ưng chọn cảnh chết cắn răng. Nó hoa mắt, đau đớn, và thấy mình như bị xé ra làm trăm mảnh, rồi đột nhiên có gì đó bùng ra như một tiếng sét đánh ngay phía sau; một làn gió nóng quật nó ngã ra bất tỉnh và lửa đỏ bén vào bộ lông nó. Người đàn ông to lớn đã thức giấc vì tiếng động mạnh và bắn hết hai băng đạn súng ngắn vào con Nag đúng phía sau cái mang bành ra.
Ric-tic ngã lăn ra, mắt nhắm nghiền, và giờ đây nó hoàn toàn tin chắc mình đã chết. Đầu nó không cử động được, người đàn ông to lớn nhấc nó lên và nói:
-Em này, lại con chồn Mangut. Lần này nó lại cứu mạng chúng mình.
Sau đó mẹ Teddie bước vào với một khuôn mặt trắng bệch và nhìn xem con Nag đã chết ra sao, còn Ric-tic thì tự mình lê tới phòng ngủ của Teddie và từ đó cho tới sáng, nó cứ run lên một cách dễ chịu và cố lục trong óc xem có đúng thân xác nó đã bị xé ra làm vài chục mảnh hay đó là nó tưởng tượng ra.
Sáng ngày ra, người nó vẫn còn ngay đơ, nhưng hoàn toàn hài lòng vì những việc đã làm.
- Giờ đây ta phải thanh toán con Nagaina nữa, mà con này còn tệ hại gấp năm lần con Nag! Ta lại biết bao giờ trứng của nó lại sắp nở nữa chứ. Trời ơi là trời! Ta phải đi tìm gặp Dazzi mới được.
Không đợi tới bữa điểm tâm, Ric-tic chạy tới bụi gai, ở đó Dazzi đang ca một bài ca chiến thắng với giọng cao nhất. Tin tức về cái chết của con Nag đã được loan đi khắp vườn vì bác người làm đã quẳng xác nó vào đống rác rồi.
- Chao ôi, cái túm lông ngớ ngẩn kia – Ric-tic nói một cách giận dữ - lúc này là lúc hát hỏng sao?
- Nag chết rồi, chết rồi, chết rồi – Dazzi hát – Chàng dũng sĩ Ric-tic đã cắn vào đầu nó và ngoạm chặt. Ông to lớn mang súng tới bắn, và Nag ngã ra, người tan thành hai mảnh. Nó không còn ăn thịt các con ta nữa.
- Nói thế cũng khá đúng. Nhưng này Nagaina đâu? – Ric-tic nói, mắt quan sát thận trọng xung quanh.
- Nagaina đến cửa phòng tắm và chờ Nag – Dazzi tiếp tục kể - và Nag ra với vợ trên đầu một cây gậy – bác người làm khều nó bằng một cây gậy và quẳng nó vào đống rác. Nào chúng ta hãy hát lên bài ca về chàng Ric-tic vĩ đại mắt đỏ nọc! – Dazzi hít căng lồng ngực rồi cất tiếng hát.
- Tôi mà leo lên tới tổ của anh được, thì tôi đã hất các con anh đi! – Ric-tic nói - Người đâu mà không biết lúc nào thì phải làm việc gì cho đúng. Trong tổ của nhà anh thì cũng đã khá yên rồi, nhưng với tôi thì cuộc chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn. Hãy ngừng hát một phút đi, Dazzi kia!
- Vì chàng Ric-tic vĩ đại và đẹp đẽ, tôi xin ngừng. Có chuyện gì vậy, thưa ngài, người đã tiêu diệt con Nag khủng khiếp?
- Hỏi lần thứ ba đây: Nagaina đâu?
- Bên đống rác cạnh chuồng ngựa, đang chôn chồng. Muôn năm Ric-tic vĩ đại răng trắng nhởn!
- Chán cái chuyện răng trắng! Có biết con mẹ ấy để trứng ở đâu không?
- Trong ruộng dưa, nơi góc ruộng sát tường, nơi mặt trời rọi suốt cả ngày. Nó giấu trứng ở đó mấy tuần lễ trước đó rồi.
- Thế mà không báo cho tôi biết từ trước? Ở góc ruộng sát tường phải không?
- Ric-tic, anh không định ăn trứng của nó chứ?
- Không, hoàn toàn là vậy. Dazzi, nếu còn một chút tinh khôn, anh phải bay tới chuồng ngựa, nói rằng cánh bị gãy, và làm cho Nagaina đuổi theo đến tận bụi cây này.Tôi phải ra ruộng dưa bây giờ, tôi e nó nhìn thấy tôi mất.
Dazzi là một con chim nhỏ đầu óc rỗng tuếch, không có khả năng cùng một lúc, giữ nổi hai ý ở trong đầu. Và chính bởi nó nghĩ rằng các con Nagaina cũng từ trứng sinh ra như con nó, nên nó nghĩ ngay rằng không nên giết chúng. Thế nhưng được cô vợ lại là con chim nhạy cảm, nó hiểu rằng trứng mang bành sau này sẽ thành mang bành con. Vì vậy cô ả bay ra khỏi tổ, để cho Dazzi ấp ủ các con, và tiếp tục hát bài ca về cái chết của Nag. Xem ra Dazzi khá giống một anh đàn ông về nhiều phương diện đấy chứ?
Cô nàng chim chích bay lượn trước Nagaina ở chỗ đống rác và kêu lên:
- Ôi chao, cánh tôi gãy rồi! Thằng bé con trong nhà ném hòn đá và làm gãy cánh tôi rồi!
Nói xong, lại càng bay lượn chập choạng hơn nữa.
Nagaina ngóc đầu lên và rít gió:
- Mày đã báo động cho Ric-tic khi ta định giết nó. Hừ, hay đấy, mày đã chọn đúng chỗ mà dò tới!
Nói rồi, nó lao tới chỗ cô vợ Dazzi, người trườn trong cát bụi.
- Thằng bé lấy viên cuội, ném gãy cánh tôi rồi! - Vợ Dazzi la lên.
- Hay đấy! Có khi mày sẽ thấy khoan khoái khi mày được biết chắc rằng tao đã thanh toán thằng nhãi. Chồng tao sáng nay đã nằm trong đống rác, nhưng rồi trước đêm nay thằng nhãi cũng sẽ nằm cong queo. Mày chạy trốn mà làm gì? Tao cam đoan sẽ tóm được mày. Con điên con rồ kia trông ta đây!
Vợ của Dazzi khôn ngoan chán chứ đâu có chịu trông như vậy, vì một con chim mà nhìn thẳng vào mắt con rắn thì sẽ sợ đến ríu chân lại. Vợ Dazzi vỗ cánh, miệng chiêm chiếp thảm thiết, nhưng nhất định không bay lên quá cao, và Nag cũng vội đuổi nhanh hơn.
Ric-tic nghe thấy chúng theo đường từ chuồng ngựa đi lên, và nó chạy nhanh tới cuối vườn dưa gần bức tường. Ở đó, trong cái ổ rơm ấm nóng bên các trái dưa, được che giấu rất khôn khéo, nó tìm thấy hai mươi lăm quả trứng, to gần như trứng gà nhưng không có vỏ cứng mà có lớp màng hơi trăng trắng.
- Mình đến sớm không quá một ngày! – Nó nói thế vì nó đã thấy rõ những con mang bành con oằn oại trong lần vỏ, và nó biết rằng một khi nở ra rồi, mỗi con đó có thể cắn chết một con người hoặc một con chồn Mangut. Nó cắn vỡ thật nhanh các quả trứng, thận trọng nghiến nát những con mang bành non, và thỉnh thoảng lại lật cái ổ lên xem còn sót con nào không. Cuối cùng vẫn còn sót ba quả, và Ric-tic bắt đầu cười thầm khoái trá, thì bỗng nó nghe thấy tiếng vợ Dazzi thét lên:
- Ric-tic, tôi đã lừa con Nagaina tới nhà, nó đã vào hàng hiên, thế rồi…Ối giời, đến nhanh lên…nó có ý định giết người đó!
Ric-tic đập nát hai quả trứng, mồm ngậm quả thứ ba, ngã nhào trên ruộng dưa và hối hả chạy về hàng hiên khi chân vừa kịp chạm đất. Teddie cùng mẹ và cha đang ở đó dùng bữa điểm tâm, nhưng Ric-tic thấy họ chẳng ăn gì cả. Họ ngồi ngây như đá, và mặt họ trắng bệch. Nagaina đứng cuộn vòng trên tấm thảm dưới ghế Teddie ngồi, cách rất gần cái chân trần của Teddie, muốn đớp lúc nào cũng được, đầu đung đưa cất lời ca chiến thắng.
- Này, thằng con trai của lão to lớn đã giết Nag – Nó rít lên - Ngồi yên, tao vẫn chưa sẵn sàng đâu. Hãy chờ một chút. Cả ba tên hãy ngồi yên! Nhúc nhích tao cắn; không nhúc nhích tao cũng cắn. Trời ơi bọn điên rồ, bọn đã giết Nag của ta!
Mắt Teddie nhìn chăm chăm vào cha, và tất cả những gì mà cha cậu làm được là thì thầm:
- Ngồi yên, Teddie! Không động đậy. Teddie ngồi yên!
Thế rồi Teddie tới và kêu lên:
- Quay lại đây Nagaina! Quay lại đây và chiến đấu!
- Đúng lúc quá! – Con rắn nói, mắt không động đậy – Này, tao sẽ thanh toán mày liền đây thôi. Hãy nhìn các bạn mày kìa! Chúng ngồi ngây ra và trắng bệch. Chúng sợ, chúng không dám động đậy. Còn mày, nếu tiến thêm một bước nữa, tao sẽ cắn các bạn của mày.
- Hãy tới và coi trứng của mày ngoài ruộng dưa – Rictic nói – Ra mà coi, Nagaina!
Con rắn to lớn hơi quay lại và nhìn thấy quả trứng trên hàng hiên.
- Trời! Đưa đây cho ta! – Nó nói.
Ric-tic dùng hai chân bóp chặt hai bên quả trứng mắt nó đỏ ngầu.
- Một quả trứng rắn là cái thứ gì? Một con mang bành non là cái thứ quái gì nhỉ? Là cái thá gì con mang bành cuối cùng, thật sự cuối cùng của cả đàn? Kiến đang ăn những quả trứng khác ngoài ruộng dưa ấy!
Nagaina quay ngoắt lại quên hết mọi chuyện vì một quả trứng; và Ric-tic thấy cha Teddie đưa ra một bàn tay to tướng túm lấy vai con trai và nâng bổng nó qua cái bàn nhỏ đầy những chén trà, ra khỏi vòng nguy hiểm do con Nagaina khống chế.
- Bị lừa rồi! Lừa rồi! Lừa rồi! Ric-tic-tic-tặc – Ric-tic reo lên - Cậu bé an toàn rồi, và chính ta…ta…ta đây đã cắn đúng mang bành con Nag đêm qua trong bồn tắm.
Sau đó, nó bắt đầu nhảy cẫng lên, bốn chân chụm lại, đầu sát sàn nhà. Nó nói tiếp:
- Con Nag quăng ta đây, quật ta đây, nhưng nó không tài nào làm văng ta ra nổi. Nó đã chết cứng trước khi ông to lớn kia bắn nó nát làm đôi. Chính ta làm được việc đó. Ric-tic-tic-tặc! Nào, lại đây, Nagaina. Lại đây đọ sức cùng ta. Mi sẽ chẳng còn là mụ goá nữa.
Nagaina thấy rõ nó mất cơ hội giết chết Teddie, và quả trứng vẫn còn nằm gọn giữa hai bàn chân Ric-tic.
- Đưa trả ta quả trứng Ric-tic! Đưa trả ta quả trứng cuối cùng, và ta sẽ ra đi và không trở lại nữa - Mụ nói, cái mang bành hạ thấp xuống.
- Phải, mụ sẽ ra đi, và sẽ không khi nào trở lại nữa. Vì mụ sẽ ra đống rác cùng với con Nag. Đánh đi mụ goá kia! Ông to lớn đã đem súng ra rồi. Đánh!
Ric-tic nhẩy quanh Nagaina, xa ngoài tầm cắn con kia, đôi mắt nhỏ của nó nom như hòn than hồng. Nagaina co mình lại quăng theo nó. Ric-tic nhẩy lên và lui lại. Mụ lại vồ, lại hụt, lại quật, và mỗi lần như thế đầu mụ bổ xuống nệm trải hàng hiên đánh oạch rồi lại cuộn về như dây cót đồng hồ. Tiếp đó Ric-tic nhảy nhót thành đường vòng để vồ phía sau con kia, và Nagaina cuộn tròn lại để lấy đầu mình đối đầu con chồn, khiến cho vảy đuôi nó cọ trên nệm lạo xạo như tiếng lá khô rơi theo gió.
Ric-tic đã quên mất quả trứng rồi. Quả trứng vẫn nằm nguyên trên hàng hiên, và Nagaina mỗi lúc mỗi tới gần, cuối cùng lợi dụng khi Ric-tic lấy hơi, mụ cắp quả trứng vào mồm, chuồn xuống các bậc hàng hiên và lao vút đi như mũi tên theo con đường xuống vườn, và Ric-tic thì rượt theo phía sau. Khi một con mang bành chạy tháo thân, nó chạy vun vút như roi da quất vào cổ ngựa.
Ric-tic thấy rõ nó phải tóm bằng được con kia, nếu không thì mọi chuyện lo lắng lôi thôi sẽ tái diễn. Mụ kia chạy thẳng vào đám cỏ cao dưới bụi gai, và trong lúc chạy, Ric-tic vẫn nghe tiếng Dazzi cất tiếng hát chưa phải lúc, ca tụng chiến thắng. Thế nhưng vợ Dazzi thì khôn ngoan hơn. Cô ả bay ra khỏi tổ lúc con Nagaina chạy ngang và đập cánh vào đầu Nagaina. Nếu Dazzi cũng làm như vậy giúp vợ thì chúng đã khiến con rắn quay lại đấy, nhưng Nagaina chỉ hạ thấp cái mang bành xuống một chút và tiếp tục chạy tháo. Song một chút do dự của mụ đã giúp Ric-tic tiến sát mụ, và trong khi mụ đâm bổ vào cái hang chuột, nơi vợ chồng mụ thường ở thì bộ răng trắng của Ric-tic cắn luôn vào đuôi mụ. Phải nói là ít con chồn Mangut tinh khôn và già dặn tới đâu cũng thận trọng không theo mang bành vào lỗ hang nó ở. Trong hang tối mịt; và Ric-tic sao biết được khi nào thì hang rộng ra, tạo khoảng trống cho Nagaina quay lại và cắn nó. Nó bám chặt con Nagaina một cách quyết liệt, và xoạc chân ra làm càng hãm trên con đường dốc tối mò, nóng và ẩm.
Khi đám cỏ cửa hang ngừng lay động; Dazzi nói:
- Thế là xong đời Ric-tic! Chúng ta hãy hát bài ca về cái chết của chàng, Ric-tic dũng mãnh đã hy sinh! Chắc chắn là dưới hang Nagaina sẽ giết chết chàng.
Thế là anh ta hát một bài ca tang lễ cực kỳ buồn thảm chợt nghĩ ra lúc đó, và đúng lúc hát tới khúc xúc động nhất, thì thấy cỏ lại lay động, Ric-tic mình đầy cát bụi lê lết từng bước ra khỏi hang, vừa đi vừa liếm râu mép. Dazzi ngừng bặt và kêu khẽ, Ric-tic rũ chút bụi khỏi lông và hắt hơi.
- Xong cả rồi! – Nó nói – Con mẹ goá không khi nào còn quay trở lại nữa.
Những con kiến đỏ sống giữa đám cỏ nghe nó nói thế, bắt đầu xếp hàng một đi xuống xem nó nói có đúng sự thật hay không.
Ric-tic cuộn tròn mình trên đám cỏ và cứ thế lăn ra ngủ, ngủ mãi cho tới xế chiều, vì cả ngày nó đã làm việc quá nặng nhọc.
- Bây giờ tớ về nhà đây – Nó nói lúc tỉnh dậy – Dazzi à, báo cho bác thợ đúc đồng, và bác ta sẽ thông báo cho cả khu vườn rằng Nagaina đã chết.
Bác thợ đúc đồng là một con chim tạo ra tiếng động hệt như người gõ cái búa con lên một cái vò bằng đồng. Nó làm thế vì nó là người rao tin cho mỗi khu vườn của người Ấn Độ, nó đưa mọi tin tức cho mọi người nào chịu nghe. Khi Ric-tic lững thững đi theo con đường trong vườn, nó nghe thấy những tiếng dạo đầu hệt như tiếng cồng báo giờ ăn chiều, sau đó là những tiếng chậm rãi “ Cồng cồng tốc, Nag đã chết - Cồng! Nagaina đã chết! Cồng cồng tốc! ”. Thế là mọi con chim trong vườn đều hót, ếch kêu uôm uôm, bởi vì Nag và Nagaina thường quen ăn ếch như ăn chim non.
Khi Ric-tic về tới nhà, Teddie cùng mẹ em ( nom bà vẫn nhợt nhạt, vì bà đã ngất lịm ) và ba em ra đón. Hầu như cả nhà đã kêu ầm lên tên nó. Tối đó nó đã ăn mọi thứ người ta đem đến cho tới khi không ăn nổi nữa, và nó cưỡi trên vai Teddie mà đi vào phòng ngủ. Mẹ Teddie thấy nó vẫn ở nguyên đó khi bà vào thăm con trai lúc đêm khuya.
- Nó đã cứu sống chúng ta và cứu sống Teddie – Bà nói với chồng – Đúng không? Nó cứu sống tất cả chúng ta.
Ric-tic thức dậy và nhảy lên, vì những con chồn Mangut đều tỉnh ngủ.
- Ồ! Ông bà đó ư? – Nó nói – Ông bà lo lắng chuyện gì vậy? Tất cả những con mang bành đều chết cả rồi; mà nếu chúng nó còn, thì đã có tôi đây.
Ric-tic có quyền tự hào, thế nhưng nó không kiêu căng quá, nó canh giữ khu vườn theo đúng trách nhiệm của chồn Mangut, bằng cả răng và chân nhảy, chạy và cắn, cho tới khi nào không còn một con mang bành dám thò đầu vào bên trong các bức tường mới thôi.
Hoàng đế nằm bò nhoài dưới nắng ấm bên sườn phía đông túp lều. Thỉnh thoảng đôi chân nó giật giật khi nó mơ màng tới những chú thỏ đang chạy đua trong đám cỏ cao. Còn Quận chúa thì ở một góc lều đưa mắt theo dõi Hoàng đế, sau đó nàng khập khiễng đứng lên, ngồi chồm hỗm đó, và thích chí lấy cái chân gỗ đập vào mũi Hoàng đế một cái. Hoàng đế bực mình thức giấc ngồi nhỏm dậy; liền đó, biết rõ kẻ nào vừa quấy rầy mình, nó há miệng ngáp và lại nằm bò nhoài ra. Còn Quận chúa thì tới nằm cuộn tròn giữa hai chân Hoàng đế.
Câu chuyện nghe có vẻ kỳ cục, phải thế không? Lại có các vị Hoàng đế và các gian lều. Lại nằm dài trong nắng. Lại có Quận chúa với chân gỗ. Đúng vậy, tôi muốn kể cùng các bạn câu chuyện kỳ lạ về vị Hoàng đế đặc biệt kia cùng nàng Quận chúa đặc biệt nọ.
Ở vùng rừng cây to mạn Tây Bắc, ông Wilson cùng cậu con trai tên Bob dựng một lều cho thợ săn thuê. Hai cha con đều là những người thợ rừng hạng giỏi. Gian lều của họ nằm ở một vùng săn bắn và câu cá có lẽ thuộc loại khá nhất trong nước, và người khắp nơi đi nghỉ thường hay tới đó.
Vào một buổi chiều mưa, Bob đi vào trong gian lều to lớn, cha cậu đang ngồi đọc sách trước đống lửa sưởi. Chú bé Bob vừa mới lặn lội ở ngoài phố về và vẫn còn mang áo mưa. Chú quăng mũ lên một chiếc ghế, miệng cười toe toét tiến lại phía chiếc bàn.
- Cha xem này! – Chú nói.
Cha chú để cuốn sách xuống đầu gối trong lúc Bob lôi từ hai túi áo ra hai con vật béo núc, ngộ nghĩnh, chưa từng thấy ở phương Bắc này. Một con mèo lông đen như mực với một chấm sao trắng trên trán, và một chú cún béo tới nỗi khi nó định bước đi thì nó liền đâm nháo bổ nhào.
- Con kiếm đâu ra những của nợ này vậy? – Ông Wilson thốt lên.
- Con kiếm được của bà Rao, ở một nhà trọ trên phố. Nhà bà ta đi về miền Nam và đã để chúng lại cho con. Cha coi này.
Bob chìa ngón tay ra.
Mèo con chẳng chút sợ sệt gì sau chuyến du hành kỳ cục trong túi áo mưa, liền nhẹ nhàng nhảy lên một bước, cái lưng cong và đuôi vểnh lên trời, sau đó õng ẹo tiến lên vồ vào cái ngón tay đang trỏ ra nhử nhử.
Con cún chẳng chịu thua, lao vào cuộc như một chiếc xe chở hàng tí xíu. Bụng và chân lê qua tấm vải mưa, nhảy phốc vào bàn tay Bob, một bàn chân to tướng của nó để vào cổ mèo con.
Mèo con kêu ré lên một tiếng và chui đầu khỏi bàn chân con cún, rồi mang hết tinh thần của một võ sĩ loại gà, nó dùng một bàn chân trước vả vào mặt con cún vụng về. Đó là tín hiệu cho một trận ẩu đả, hai con vật vồ nhau, khoá nhau trên sàn nhà, con nọ cắn con kia nhưng chẳng mảy may hiệu quả, vì những chiếc răng bé nhỏ làm sao cằn ngập cho được bộ lông dày trên thân hình bé bỏng của mỗi con. Bob và ông bố hò reo thích thú trước những của nợ ấy.
Hai con lần đầu xuất hiện như vậy, và tình bạn kỳ thú của chúng cũng bắt đầu như vậy. Con cún được đặt tên là Hoàng đế, con mèo ranh được phong Quận chúa. Ai ai cũng nghĩ rằng tên gọi của chúng là vô cùng thích hợp.
Hai con vật bé bỏng lớn lên rất nhanh. Dĩ nhiên Hoàng đế sẽ trở thành một con chó to đùng, rất mau chóng cao vượt hơn hẳn nàng Quận chúa bé bỏng. Có điều sự khác biệt đó chỉ về mặt hình hài bên ngoài thôi. Nàng Quận chúa có cái dũng mãnh của một con hổ nhỏ và bất kỳ nó nhìn thấy Hoàng đế ở chỗ nào, trên sàn nhà, trên bậu cửa, ngoài gian lều, nó đều đánh lại ngài. Và ngài thích thú chuyện đó, Hoàng đế chẳng khi nào đối sử thô bạo với nàng, dường như ngài biết rõ sự khác nhau, cùng lợi thế to lớn trong sức vóc ngài.
Hoàng đế thường nằm nghiêng một bên lim dim, giả vờ ngủ. Quận chúa, êm ả như một chiếc lông rơi, lò dò tới gần bên ngài, lướt đi như một bóng đen cho tới khi đạt tới một điểm thuận lợi để vồ vào bạn mình. Khi cô nàng vừa vồ tới, chúng liền quần thảo nhau, những bàn chân to tướng của Hoàng đế xiết lại đủ chặt để giữ lấy Quận chúa, trong khi những manh dài của ngài ngoạm cổ nàng với vẻ hung tợn giả tạo, còn Quận chúa thì gào lên như thể nàng đang bị giết chết tươi.
Khi Hoàng đế thả Quận chúa ra, nàng thường quạc cho ngài một cái vào mũi và chuồn nhanh, nhảy tót lên mặt lò sưởi. Nàng ngồi đó bình thản ngắm nhìn Hoàng đế đang giận điên lên phía dưới kia, thách đố nàng dám xuống. Vào lúc nàng thích chí, nàng cũng nhảy xuống, có khi nhảy trúng lưng Hoàng đế ấy chứ. Khi ấy, trong lúc Hoàng đế chạy cuồng trong vẻ sung sướng khôn cùng, thì Quận chúa bám vào bộ lông dày hệt như một chú khỉ vậy.
Đến mùa thu năm ấy, vào vụ săn, có ba người từ Chicago tới, trong đó có bác sĩ Mason, nhà ngoại khoa danh tiếng. Tôi cũng có mặt ở đó nhân một công việc thanh tra ở vùng lân cận.
Một hôm, sau bữa ăn đêm chúng tôi ngồi trước lò sưởi, hút thuốc và chuyện trò, chợt nghe thấy một tiếng than van khe khẽ, tựa như tiếng nức nở của một đứa bé. Hoàng đế khi ấy đang gà gật trước lò sưởi, thoắt cái đã đứng lên và chạy ra cửa, chú bé Bob đi liền sau nó. Chúng tôi đã biết tiếng than van từ đâu tới, đó là tiếng của Quận chúa.
Lát sau, Bob trở lại, trong tay ôm con mèo đen. Hoàng đế quanh quẩn bên chú bé, đầu cất cao, hướng về cái vật trên tay chú bé mà kêu ư ử. Chúng tôi đứng sang một bên bàn, trong khi Bob nhẹ nhàng đặt Quận chúa lên. Chân trước bên phải của nàng đã bị nghiến nát, nàng kêu lên đau đớn, trong lúc Bob giữ đầu nàng cho bác sĩ Mason xem xét.
- Có ai đặt bẫy dưới các bậc cửa – Bob giảng giải. Đôi môi chú mím lại trong lúc chú nói – Con này bước ra, và rơi trúng vào đó.
Bác sĩ Mason ngẩng lên và nói nhanh:
- Lấy nhiều nước nóng cho tôi. Tôi có mang đồ nghề theo đây. Tôi sẽ cắt bỏ, chỉ có cách đó mới cứu sống nó.
Lát sau, căn phòng trong lều giống như nơi bệnh viện. Quận chúa được đánh thuốc mê, còn Hoàng đế thì quẩn quanh trên sàn nhà. Mọi người nói năng thì thào se sẽ. Bob và tôi giúp bác sĩ một tay, xem ông làm, đúng là được một bài học. Những ngón tay thanh tú và chắc chắn, với tài khéo đã đem lại những món tiền công hàng nghìn đô la, nay đang lướt đi trên cái chân tướp nát, thật chính xác và nhẹ nhàng chẳng khác nào như ông chữa chạy cho một em bé.
Chẳng mấy chốc đã xong xuôi, Quận chúa bé bỏng được đặt nằm trong một chiếc hòm con, nàng bị trói chặt bằng dây da để chờ vết thương mau lành. Chân Quận chúa đã bị cắt ngay phía trên khớp.
- Đừng có bị nhiễm trùng thôi – Bác sĩ Mason nói với mọi người - rồi nó sẽ khỏi.
- Nhưng nó còn đi lại làm sao được nữa? – Bob muốn biết rõ.
Bác sĩ ngoại khoa mỉm cười:
- Sáng mai ta sẽ làm chuyện đó, con ạ.
Và ông đã làm thật. Trong lúc mọi người vây quanh giường bệnh của Quận chúa, trò chuyện với nàng như thể nàng là con người, và Hoàng đế thì cứ đứng ỳ bên cạnh chiếc hòm chẳng chịu ăn uống gì, bác sĩ chăm chú đẽo gọt một khúc gỗ hồ đào. Đẽo gọt xong, ông còn trau chuốt thật tinh vi để làm cho Quận chúa một chiếc chân giả khéo nhất hạng mà bạn chưa từng thấy đâu.
Nhưng cũng phải khá lâu Quận chúa mới đủ sức để dùng cái chân gỗ đó. Khi thấy vết thương đã thực lành, bác sĩ Mason mới ghép chân gỗ vào cho con mèo bằng cách làm một bộ thắng nhỏ qua vai nó. Mới đầu cũng thật bất tiện, và Quận chúa cũng khó đi lại. Những lần nó mới thử đi nom thật tức cười, nhưng chẳng ai cười cả khi nhìn nó làm công việc đó. Lần đầu nó ngã, nó nhìn lên và kêu. Hoàng đế liền bổ tới, dùng răng cắp nàng lên, thận trọng mang nàng về chỗ chiếc hòm.
Thời gian trôi đi và nàng quen dần với chân mới, nhưng cũng phải mất một thời gian lâu nữa Quận chúa mới có thể đi quanh được và làm tình làm tội Hoàng đế. Bây giờ nàng đã có một vũ khí, vì mỗi khi nàng dùng cái chân đó để đánh vào mặt Hoàng đế thì miếng đòn đó quả là đau, và con chó phải rút lui rồi sủa rinh lên cho tới khi hết đau.
Cuộc đời cứ như vậy trôi đi trong gian lều nhỏ, cho tới một hôm mặt trời bị che mờ và chúng tôi ngửi thấy mùi khói. Đứng ở cửa chúng tôi nhìn về phía Đông..
- Cháy rồi! - Người cha thì thào – Cháy rừng rồi, và cháy to đấy. Liệu có cháy tới đây không, Bob?
Con trai ông lắc đầu:
- Không có gió. Lửa sẽ tắt trước khi lan đi xa.
Bob đã tính sai. Gió nổi lên, và lửa gầm gào về phía gian lều. Vào khoảng hai giờ đêm thì một người trong chúng tôi la lên báo động. Trong khi chúng tôi mặc quần áo vội vàng, thì ánh lửa đã nhảy múa trên các bức tường bên trong gian lều. Nóng quá và khói tràn đầy gian phòng.
- Mang được gì thì mang, và ra hết bên ngoài - Ông bố ra lệnh.
Thế là chúng tôi vơ vội các thứ và chạy ra ngoài đường lớn, cứ thế đi xuôi không ngừng cho đến sáng thì tới bờ hồ nước. Liền đó, trong lúc chúng tôi ngồi uống café và ăn bánh khô, Hoàng đế chui ra khỏi bụi rậm, mệt mỏi và mình đầy tro bụi. Chúng tôi nhìn nhau và biết rằng có chuyện gì đã xảy ra. Bạn hắn đã lạc rồi. Trong cảnh vội vã tuyệt vọng, chúng tôi đã quên khuấy mất cô ả. Con chó to lớn nằm vật xuống bên chúng tôi và ngủ liền.
Về chiều, lửa tắt, chúng tôi bắt đầu quay về trong lòng đầy sầu não vì cảnh hoang tàn. Riêng Hoàng đế thì tỏ ra hạnh phúc kỳ lạ. Nó chạy trước và sủa về phía chúng tôi như muốn giục chúng tôi đi nhanh. Rồi nó quay lại và nhảy vào Bob, tìm cách kéo Bob đi nhanh lên. Cuối cùng, chúng tôi cũng về tới cánh rừng thưa có gian lều và nhìn thấy một trong những cảnh thần kỳ đôi khi vẫn xảy ra trong rừng.
Căn lều vẫn còn đứng nguyên, lửa không bén tới. Ngọn lửa đã lùi đi đúng tại một điểm đằng sau gian lều; sau đó có thể là gió tắt và đám cháy chấm dứt. Dẫu sao thì căn nhà của ông Wilson cũng còn nguyên vẹn. Chúng tôi vào trong nhà và thu dọn mọi vật.
Thế nhưng Hoàng đế thì không chịu yên. Nó quay cuồng giữa cái cửa và nơi Bob đứng, rên ư ử, sủa thành tiếng nài nỉ. Cuối cùng Bob đã hiểu. Quăng chiếc áo choàng đang vá sang một bên, chú bé gọi tôi:
- Đi nào, Jack! Con chó này muốn cái gì đó. Ta đi xem nào!
Chúng tôi ra ngoài. Hoàng đế vô cùng khoái trá, chạy thẳng một mạch ra bờ sông. Dừng lại bên bờ, nó quay đầu lại và chờ cho tới khi chúng tôi tới nơi. Sau đó, hài lòng vì thấy có chúng tôi đi cùng, nó sủa lên lần nữa và nhảy xuống dòng nước chảy. Bob và tôi lặng lẽ dõi theo khó hiểu.
Giữa dòng – sông không rộng lắm – là một doi đất như một hòn đảo nhỏ. Trên đảo có một thân cây. Đó vốn là một cây sồi to lớn nhưng bị sét đã tiện cụt nó đi, chỉ còn lại một khúc thân cao khoảng hơn một mét.
Hoàng đế bơi thẳng ra đảo và trườn lên bãi cát. Nó rùng người rồi bổ thẳng tới thân cây. Tới nơi nó dừng lại, đứng lên bằng hai chân sau rồi dùng hai chân trước bám vào thân gỗ, nghển đầu sang một bên và nhòm vào cái lỗ trong thân cây. Chúng tôi dõi theo, và những gì hiện ra trước mắt khiến chúng tôi muốn reo to lên. Từ từ và vô cùng trang trọng, cái đầu có ngôi sao trắng của Quận chúa nhô ra khỏi cái tổ con con ở trên đỉnh thân cây, sau đó hai vai và cái bộ chân thắng giữ chân gỗ hiện ra.
Trong giây lâu, Quận chúa nhìn thẳng vào Hoàng đế tựa hồ như trách cứ cậu ta tới muộn. Con chó chờ đợi không nhúc nhích một ly. Cuối cùng phu nhân bé nhỏ màu đen leo lên được gờ tổ, thận trọng tìm đường bò tới cái đầu to tướng của Hoàng đế và bám vào cổ cu cậu. Hoàng đế cẩn thận đứng xuống bốn chân, quay người lại và đi về phía sông. Khi tới mớn nước, nó chẳng dừng lại nữa mà vững vàng đi xuống nước và bơi về phía chúng tôi.
Ngồi chễm chệ thú vị trên lưng Hoàng đế, đuôi ngoe nguẩy sung sướng, chiếc chân giả đặt vững vàng sau tai Hoàng đế, Quận chúa cứ thế cưỡi con chó và về đến tận nơi xuống ngựa trước gian lều. Cả Bob lẫn tôi không ai nói một lời, trong khi con chó khoan thai bước tới chỗ chúng tôi. Ông Wilson đỡ con mèo từ chỗ nó đang ngồi và đặt nó xuống đất. Trút xong gánh nặng, mũi Hoàng đế hạ xuống với cô nàng; như muốn biết chắc cô nàng đã được yên ổn. Cô nàng dùng cái chân gỗ đánh mạnh vào nó một cái và lẩn về phía gian lều, con chó lớn nhảy chồm chồm bên cạnh cô ả.
Bob nhìn tôi hồi lâu, trên môi em nở một nụ cười chậm rãi. Cuối cùng chú bé nói:
- Không một ai có thế nói rằng không phải Hoàng đế đã đem Quận chúa đi lánh khỏi nơi đây. Thật là một chuyện kỳ diệu mà chỉ có tình bạn mới có thể làm nổi.
Tuyết tháng tư tan ra trên bờ con hói, nơi bác Abel đang uể oải khua mái chèo cho con thuyền ván mỏng trôi theo con nước chảy xuôi. Bên cạnh những thân cây đã bị băng giá làm nứt vỡ trong mùa đông là những thân cây mới mọc ngả bóng trên những đám tuyết còn rớt lại. Khi bác Abel đi ngang con sông Hudson lộng gió, từng cuộn bụi tuyết như thủy tinh rơi vào tay bác. Rồi chúng tan ngay trong bàn tay sần sùi, sứt sẹo, ấm nóng – bàn tay to và đen không khi nào thay đổi màu sắc bởi vì công việc của chúng không khi nào thay đổi. Trên trời cao, xa xa phía xuôi, vang lên tiếng nhạc, bác nở một nụ cười thanh thản:
- Về đó hử? Đã về rồi đó hử?
Trên ngọn trơ trụi của cây tần bì đã chết, một con chim hét ẩn dật đang hót ngọt ngào. Đầu con chim in hình thật rõ trên nền trời, và bác Abel có thể thấy rõ cái ức con chim màu nâu có điểm trắng đang thở phập phồng. Khi thuyền bác lướt dưới gốc cây, bác lại nghe thấy con chim bạn đáp lại ở những cây tuyết tùng ở xa xa.
Xung quanh khuỷu sông, những cây roi cao mọc thẳng, những con chim đen có cánh đỏ đậu chót vót trên ngọn cây đang hót vang mặt sông. Khi tới chỗ khuỷu sông đổ ra sông lớn, bác mỉm cười thú vị, vì bác đã nhìn thấy bông hoa xuân đầu tiên - một cây dương mai với một nụ trắng và một nụ hơi hồng hồng.
Mặt nước dần dần ầm vang tiếng nhạc ngày xuân - tiếng rì rào của dòng thủy triều với những thân cây đổ trôi xuôi, tiếng xào xạc những lá non cây phỉ và cây sống-qua-đông. Nơi nước lặng phản chiếu ánh mặt trời, bác nghe thấy tiếng ríu rít của những con vịt hoang sống trong các ô làm bằng gỗ, do chính tay bác đặt cho chúng sống qua mùa đông. Sau đó bác nghe tiếng nhạc xa xôi, một tiếng nhạc hoang dã hơn nữa ở rất xa. Để nghe rõ hơn, bác ghé mái chèo lên đầu gối và ngóng nhìn về phía trời Đông. Trong gần sáu chục năm qua, bác vẫn thường hay háo hức ngóng chờ những tiếng kèn trận hoang dã như thế, trên trời cao vào ngày xuân và vào ngày thu, và niềm vui được nghe tiếng nhạc như thế sau những ngày lặng lẽ không bao giờ tan trong lòng bác cả. Với bác, tiếng kêu của những con ngỗng trời mang một ý nghĩa gì đó còn hơn là cả tiếng nhạc nữa. Dòng nước rút va mạnh vào thuyền bác và có một tiếng ộp oạp phá tan cảnh yên tĩnh trong chốc lát. Bác ghé thuyền vào một gốc cây sống-qua-đông và rê thuyền lên một đám huệ. Ở chỗ đó mặt trời chiếu thoải mái lên người bác. Bác cất mũ đi để hưởng thụ nắng ấm mơn trớn đôi má xương xẩu, dạn dày gió mưa của mình. Gió làm rối tung mớ tóc đen đã điểm bạc nơi gáy.
Mắt bác dõi nhìn bầu trời phương Nam. Một đàn vịt hoang ùa từ đám sậy ra, cánh vỗ rào rào, miệng quàng quạc, khiến trong một lúc bác không nghe rõ tiếng nhạc xa xa nữa. Sau đó, lại càng nghe rõ hơn, và lần này thì gần hơn. Sau cùng, một hình xếp chữ V, những con ngỗng trời – hơn ba chục con – bay tới phía sông. Bác thấy rõ là chúng mệt mỏi sau một đêm bay ngược gió, chúng vỗ cánh nặng nề. Chúng bay trong nắng loá, khiến bác nhìn rõ những đầu cánh nhọn đang vỗ. Trong khi dõi theo chúng, bác còn thấy một hiện tượng mệt mỏi khác nữa trong đàn chim đang bay. Con đầu đàn, bay mở đường trong chuyến bay vô cùng dài, bỗng kêu lên một tiếng, gọi một con khác thay phiên cho nó công việc nhọc nhằn kia. Đội hình bỗng tan ra, và lập lại để một con khác thay cho vị trí đi đầu. Hình chữ V lại được lập lại và bay ngang đầu bác Abel.
- Nào, các chú lại về rồi!
Một lần nữa bác lại mỉm cười trước vẻ đẹp của chúng. Sau đó bác thấy lo lắng trong lòng, bác lấy bàn tay làm loa và gọi chúng:
- Đây rồi! Đây rồi!
Bác biết rằng, lắm khi, nhất là sau một chuyến bay đêm dài, chúng thường lầm lẫn và có thể bỏ qua những địa điểm nghỉ chân, một mái lều to như vùng nước này.
Lúc này những con ngỗng trời đã ở ngay trên đầu bác. Chúng đã nghe thấy tiếng bác gọi. Con đầu đàn lái xuống thấp và bay vòng trên vùng nước, hình chữ V hạ thấp dần, những con đầu tiên đã dang cánh hạ xuống. Đúng vào lúc đó, bác Abel nghe thấy một tiếng kêu to ở vùng ngã ba sông. Bác cứ ngỡ đó là một tiếng reo mừng của một ai đó đang ngóng đón đàn ngỗng trời như bác. Bác sắp cất tiếng gọi đàn ngỗng một lần nữa, thì bỗng một phát súng nổ từ hướng đó. Bác thấy giận dữ. Bác lắng nghe lo lắng về phía tiếng súng mới vang lên. Bác không sao nghĩ rằng lại có một kẻ có gan bắn như vậy. Và bác lo lắng nhìn đàn ngỗng.
Chúng đã nghe thấy tiếng nổ. Chúng đang im lặng bay nốt quãng đường ngắn hạ xuống bãi sông. Hình chữ V tan ra đột ngột. Tiếng kêu của chúng vang lên trên cao, nghe thảm thương, tiếng kêu sợ hãi và lúng túng. Một con chim bay cuối hàng chữ V nhào xuống một cách lạ lùng như lá rơi. Những con khác bay cuống cuồng loạng choạng sau con đó. Sau rồi có những tiếng quàng quạc lộn xộn vang lên, và bác Abel biết rằng đã có chuyện gì đó không hay xảy ra trong đám ngỗng non một tuổi bay ở cuối đội hình. Khi con chim bị nạn vẫy cánh và rơi xuống, bác biết có chuyện gì đã xảy ra. Phát súng kia, bắn ra vô mục đích, đã trúng nó.
Con chim bị thương rơi khuất sau những cây liễu bên bờ sông, nơi đó lá liễu đang mọc nom như sương mờ xanh nhạt.
Bác Abel cay đắng tự trách mình vô ý gọi đàn ngỗng để chúng lên nông nỗi ấy. Vì bác mà một con đang nằm chết bên bờ. Hình ảnh đó làm bác đau lòng. Đã lâu lắm rồi bác không bắn những con chim trời này nữa, vì bác không thích phá rối vào cuộc sống của chúng, vào những chuyến bay nặng nhọc qua đây. Lúc này bác đã vô tình đánh vào một con trong bọn đang bay về phương Bắc quê cha đất tổ với những ổ trứng và những con chim non mới ra đời.
Bác thấy đau lòng khi thấy mình bó tay không làm gì nổi, ngoài việc quyết định từ nay sẽ không bao giờ lên tiếng gọi ngỗng trời như thế nữa. Nhưng ngay sau khi nghĩ thế, bác vẫn không thể cưỡng lại việc vớ lấy mái chèo và bơi xuôi về phía bờ dưới kia. Trên đường bác đi, mọi niềm vui xuân về - những mầm của hàng ngàn cây táo, tiếng hót con chim hét và hoa dương mai rực rỡ - đã thay đổi, không phải là sự đau khổ mà là một nỗi sầu muộn, như thể bác vừa học được một bài học không sao hiểu nổi.
Có một con tàu lướt dưới những cây liễu, rúc lên một còi hiệu. Đẹp lộng lẫy, vỏ tàu màu xanh da trời in hình lên nền trời, và thành cầu tàu màu trắng in lên bóng mây, một con tàu chở hàng loại nhẹ hiện ra nơi cửa rừng. Theo sau vệt nước nó xé ra, là vô số con mòng biển bay loạn xạ. Mới đầu bác Abel ngỡ là lũ chim bay theo tàu kiếm ăn. Nhưng không phải, chúng đang đáp lại tín hiệu của các con mòng khác, bác không thấy vì khuất kín trong lau sậy.
Bác Abel biết rằng giống mòng biển quen thói yên lặng. Chúng bay suốt ngày đêm nên cũng đói suốt ngày đêm. Ngoại trừ khi đói cồn cào vào buổi sáng, chúng chỉ im lặng tìm mồi. Chúng đói ăn lắm nên mắt rất tinh, chúng quan sát ra từng vật đang trôi, ngay cả một mẩu áo cũ. Bác thường thấy khi đó miếng mồi làm chúng sung sướng thế nào. Lắm khi bác chứng kiến chúng nó có những hành vi độc ác, ngay cả trong vườn nhà bác, khi chúng xà xuống như diều hâu và xâu xé một con thỏ chết. Giờ đây bác đang thấy chúng sung sướng như thế.
Thuyền bác cặp bờ. Bác lên một doi cát, khi đó bác nhìn thấy bọn mòng biển lùi ra. Chúng bay xuôi, bốc cao lặng lẽ, rồi nhào xuống. Khi nhào xuống chúng kêu to. Sau đó chúng lại bốc bay cao, từng tốp tám chín con, rồi lại nhào xuống và kêu.
- Mày rơi nơi nào hử, ngỗng con?
Bác Abel nghĩ hình như vừa nghe thấy một tiếng kêu trầm trầm từ một con vật màu xám, bác ngỡ đó là một con vịt trời địa phương lạc bày đang bị lũ mòng biển tiến công. Bác từng thấy như vậy nhiều lắm, và vẫn bỏ qua, chấp nhận, coi đó là việc của thiên nhiên. Thế nhưng cái dự cảm ban đầu không tha bác. Nghe một tiếng kêu lần nữa – không phải tiếng kêu con mòng – bác cảm thấy cái dự cảm lúc trước phát triển thành một tính cảm khác: phải hành động. Bác chưa từng nghe thấy một tiếng như thế bao giờ. Chưa khi nào bác thấy một con mòng hoặc một con vịt hoang kêu như vậy.
Sau một nhát chèo mạnh cho thuyền đi xuôi, bác đã biết cái gì kêu lạ lùng như vậy: một con ngỗng trời đực. Một con ngỗng trời đang vùng vẫy mà không cất mình lên nổi vì cánh đập yếu lắm. Khi ngực nó nhô lên khỏi những gợn sóng lăn tăn, bác Abel thấy có vết máu ứa ra. Một con mòng nhào xuống và mổ vào đầu con ngỗng. Con ngỗng tránh và cố lặn xuống nước. Nhưng nó không lặn nổi. Cánh nó vùng vẫy tránh đỡ trận tiến đánh tiếp theo của lũ mòng. Một con, một con, lại một con nữa lao xuống. Và con ngỗng trời chỉ còn biết nhờ làn nước mỏng manh che chở. Bọn mòng tìm cách làm cho con ngỗng trời bị chết đuối. Khi nó ngoi lên thở, một con mòng mổ vào mắt nó. Máu loang trên má trắng con ngỗng.
Con ngỗng đã nom thấy những bụi sậy bên bờ. Nó cố bơi vào đó. Những trận tiến đánh liên tiếp khiến nó không thể tiếp tục đi theo hướng đó và đi theo cách đó. Nó thử bay, cánh nó dang ra vùng vẫy. Nó mất nhiều sức vì việc đó quá, cánh nó xoè ra trên mặt nước đang trôi xuôi, mỏ nó gục trong làn nước. Hai con mòng bơi tới và đuổi theo phía cái đầu con ngỗng. Bác Abel chèo nhanh con thuyền chen ngang giữa các con mòng và con ngỗng trời. Bác bế bổng con ngỗng vào trong thuyền. Các con mòng lẳng lặng bay đi.
Trong khi thuyền bơi ngược con hói, con ngỗng nằm nghiêng một bên. Nó như là chết rồi. Máu tuôn ra từ phía bên ngực trái. Bác Abel biết rằng vết thương đó chính là do chính phát súng gây ra. Bác bơi thuyền ra giữa dòng ở chỗ con hói chảy xiết. Sau đó bác bọc con ngỗng trong một miếng bạt mềm và lên bờ, đi theo một con đường mòn vào cái nông trại nhỏ có ngôi nhà xinh xắn xây bằng đá tự tay bác làm đã bao năm nay rồi. Bác mang con ngỗng ra coi. Chính ở đó bác thấy một vết thương khác nữa do đạn gây ra khi viên đạn sượt qua lưng con ngỗng. Khi bác cắt rửa vết thương ở lưng, con ngỗng khẽ lấy mỏ mổ bác. *
- Hay lắm ngỗng ạ! Còn cố sức như thế thì còn sống.
Bác băng vết thương cho con ngỗng bằng băng dính, sau đó bác cho nó nằm trong một cái hộp lót rơm và đặt gần cái lò trong bếp. Sau khi theo dõi một lúc, bác thấy con ngỗng không cất đầu lên nổi. Bác liền buộc một khúc gỗ làm giá đỡ và buộc nhẹ cổ nó vào, cố tránh không làm nó nghẹt thở. Một lát sau, con ngỗng phát ra một tiếng kêu yếu ớt khò khè và lấy mỏ mổ một cách yếu ớt.
- Nào cu cậu, nếu sống nổi qua đêm nay, thì ngày mai tớ sẽ chữa nữa cho. Nghe chưa?
Cả đêm, con ngỗng không ngớt kêu, kêu thật to, khiến bác Abel phải vào xem có chuyện gì. Khi bác chạm tay vào nó, nó vẫy cánh thật mạnh. Thấy thế bác lại mừng và bác bỏ cái khúc gỗ làm giá đỡ đi. Khi làm việc đó bác phải đụng chạm tay vào con ngỗng. Con ngỗng nằm im trong nệm rơm cho bác làm mọi việc, và bác Abel thấy rằng con vật đã thôi không sợ hãi bác như trước. Sáng ngày, bác nấu cháo mạch, bác lấy chút ít trộn với sữa và dùng thìa bón cho nó; nó ăn không nhiều, nhưng nó không vùng vẫy phản đối.
Hôm sau, khi ở vườn về nhà, bác thấy con ngỗng đã ra ngoài ổ. Nó không đi được xa. Chiều tối đó, con ngỗng sục mỏ vào đĩa cháo mạch và ăn ngấu nghiến.
Đến hôm chủ nhật, bác Abel cho con ngỗng ra bãi cỏ nắng ấm bên bờ cái ao lớn nhà bác, định bụng cho nó có thích nước thì cứ việc đi tới ao mà vùng vẫy. Ở ao nhà bác có hai chủ nhân, một cặp vịt trắng, một con tên Henry và một con tên Alise. Nhiệm vụ của chúng chỉ là làm cảnh đẹp. Cả hai con đều đón tiếp con ngỗng một cách thân tình và không phản đối khi con ngỗng tới ăn chung với chúng. Bác Abel mặc cho ba con ở với nhau. Khi trở về, bác thấy con ngỗng đã ở dưới ao, nó không bơi nhưng thả người bồng bềnh ven bờ.
Những ngày sau, con ngỗng trở nên gần như thân thiện hẳn với hai con vịt, mặc dù đôi khi hai con kia vẫn nhìn nó một cách không được thiện cảm tí nào. Nó bắt đầu bơi xa dần hai con vịt. Song nó vẫn coi bác Abel là người bạn tốt hơn cả. Khi chiều xuống, bác Abel vỗ hai tay vào nhau, thế là nó từ bụi sậy chui ra, trở về nhà nằm trong cái ổ nơi nhà bếp.
Vài ngày sau nữa, con ngỗng thử tập bay. Các con vịt cả đời lạch bạch, bỗng thấy kinh dị trước chuyến bay đầu tiên của con ngỗng. Khi con ngỗng cất cánh bay, hai con vịt không nhìn theo ngỗng mà lại nhìn nhau. Bác Abel theo dõi con ngỗng bay cao dần, cao mãi. Khi đã bay cao hơn những cây du, con ngỗng reo lên một tiếng kêu vui sướng. Nó bay giỏi rồi, và cả vết thương nó đã lành. Song bác Abel vẫn ngại con ngỗng không thể một mình đi về phương Bắc, như vậy nó phải bay nhọc nhằn một mình. Nhìn nó bay, bác Abel thấy nó đẹp quá, bác như không muốn xa nó nữa. Bác vỗ tay kêu nó về, và con ngỗng sà cánh hạ xuống bờ ao.
Mặc dù rất thích thú có con ngỗng bên cạnh, bác Abel cũng sớm nhận ra rằng, một lần nữa bác lại can thiệp vào đời sống các con vật khác. Bác có ý nghĩ đó vào một đêm mưa, giữa đêm trên trời có một đàn ngỗng bay ngang, chúng bay quá thấp, sát mái nhà đến nỗi bác bừng thức giấc. Tiếng chúng kêu đánh thức cả con ngỗng bác nuôi, nó bắt đầu kêu to, hai ba lần nó vẫy cánh trong ổ.
Trước khi con ngỗng bay chuyến bay lần sau ở ao, nó đang còn nằm yên dưới những cánh bồ đề đang nhú những chồi non. Đầu nó cúi thấp xuống, trông như đang ấp trứng. Đôi ba lần nó lấy mỏ rỉa lông ngực. Khi đôi vịt lang thang ngoài bãi sậy cất tiếng chào nó, con ngỗng đực bay lên. Lần này nó bay còn cao hơn lần trước, rất cao, đến nỗi bác Abel nghĩ nó chẳng trở về nữa. Trên cao, con ngỗng kêu như đang than van.
Nó cưỡi trên gió bay về phía sông và từ từ lái thành một đường vòng trên các ngọn cây táo đang nở đầy hoa trắng. Bác Abel biết rõ mục đích những chuyến bay như vậy. Đó là những chuyến bay để ghi hằn trong ký ức con chim hình ảnh nơi nó ra đời, các vịnh cùng các đảo xung quanh. Chúng học biết phong cảnh bằng cách đó. Bằng cách đi theo mẹ trong những ngày đầu tiên lội nước, sau đó qua những chuyến bay ngắn, chúng bay xa dần khỏi tổ và chỉ tới khi tối trời mới trở về. Mỗi ngày bay một quãng xa hơn, chúng quen thuộc dần với các vùng nước. Trước khi bắt đầu các chuyến bay di trú, chúng đã bay xa hàng ngàn dặm và quay về được. Khi các cơn gió mạnh và băng giá buộc chúng phải bắt đầu những chuyến bay di trú ngắn ban đầu, khi ấy chúng lại thuộc thêm những xứ nước mới nữa.
Bác Abel nghĩ bụng thế và không còn gọi con ngỗng về như mọi khi. Như vậy, nó sẽ gặp gỡ những con ngỗng, ngày ngày tới vùng này và chọn những đàn nào thích hợp nhất tìm ra bạn bầu và cùng nhau di thực về phương xa. Bác bèn đi nằm. Nhưng sáng ra, bác thấy con ngỗng đã đứng chờ ngoài bậu cửa.
- Không nên con ạ. Con nên đi về phương Bắc cùng với các bạn.
Thế là, đến bữa chiều, bác gọi con ngỗng lại, cho nó ăn thật ngon, và ôm nó xuống thuyền. Bác chèo xuôi con hói. Tới khúc sông chảy quanh, dưới những cây liễu bắt đầu mọc lá non, bác lắng nghe. Bác nghe thấy tiếng vịt rừng và gà lôi đỏ quàng quạc trong bụi. những con vịt rừng bay tỏa ra.
Bác cho thuyền ghé vào một bãi lúa cao bên bờ. Ở đó, những con ngỗng đang huyên thuyên chuyện trò. Có ba con đi ra ngoài, những con khác đi theo, cả thảy bốn chục con bơi bồng bềnh thơ thẩn trên mặt nước.
- Nào, ngỗng ơi, đây là bạn đích thực của con. Đến với chúng đi. Nghe rõ chưa? Tạm biệt, và chúc con may mắn…và đừng trách ta giữ con lại lâu đến thế nhé.
Bác đặt con ngỗng xuống nước. Nó rời búi sậy và bơi đi. Dòng thủy triều xuôi đưa nó đi tới đàn ngỗng trời. Đàn ngỗng kia từ từ đi tới nó - một con trong đàn cất cao đầu và mắt nhìn thận trọng, cảnh giác. Cả đàn đón chào người bạn mới với những tiếng kêu khẽ, khúc khích.
Sau khi con ngỗng đã nhập đàn, bác Abel thong thả chèo thuyền đi. Như những trận gió mạnh, đàn ngỗng ùa bay xuôi theo dòng sông. Chúng bay vọt lên phía mặt trời cao. Trong một lát, bác Abel chẳng thấy gì nữa vì mặt trời làm mắt bác loá. Sau đó, tít trên cao, một đội hình chữ V bay về phương Bắc….
- Tạm biệt, tạm biệt, con ngỗng của ta, tạm biệt!
( Fosseuse là một cô thôn nữ nghèo. Từ tấm bé cô đã phải sống bằng nghề hành khất. Chiều chiều cô ngủ nhờ tại một vựa lúa của một bà chủ quán….)
Bà chủ quán có một con chó cái, một con chó cái đẻ được một con chó con. Con chó hiền hoà như một con người, lông trắng tuyền, riêng bốn chân lại có đốm đen. Ôi chao, cho tới lúc này, tôi vẫn cứ còn nhớ tới con chó nhỏ nhoi ấy!
Hồi đó, con chó nhỏ kia là sinh vật duy nhất còn đoái thương đến tôi, thỉnh thoảng còn ném cho tôi những cái nhìn thân thiện. Có miếng ăn nào ngon lành nhất, tôi để dành cho nó. Nó nhận ra tôi, và chiều chiều ra cửa đón tôi, nó không sợ hãi cảnh rách rưới tiều tụy của tôi, nó thường nhảy bám lấy tôi, liềm chân tôi. Sau nữa, trong đôi mắt nó tôi đọc thấy một cái gì đó cực kỳ tốt đẹp, cực kỳ thương cảm, khiến nhiều khi trông thấy đôi mắt nó, tôi nghĩ trong lòng:
- Có lẽ, đây là kẻ duy nhất thực sự yêu ta.
Khi mùa đông tới, nó ngủ ngay dưới chân tôi. Cứ nhìn thấy nó bị roi đòn là tôi đau khổ vô cùng. Và tôi đã luyện cho nó không la cà vào các gia đình ăn trộm những mẩu xương, nó chịu ăn chút bánh tôi đem về cho nó. Khi tôi buồn, nó đến đứng trước mặt tôi, mắt nó nhìn thẳng vào mắt tôi, tựa hồ như muốn nói cùng tôi:
- Cô Fosseuse tội nghiệp, sao cô buồn vậy?
Khi những người khách trọ ném cho tôi vài ba đồng xu, nó đi nhặt nhạnh những đồng xu ấy, trong đám bụi bặm và đem về cho tôi, con chó con mới tốt bụng chứ. Và khi tôi đã có một người bạn như thế, tôi cũng thấy mình đỡ đau khổ hơn nhiều.
Ngày nào cũng vậy, tôi đều để dành vài ba xu, định bụng khi nào đủ năm chục bạc thì sẽ mua lại con chó ấy của ông chủ. Một bận, bà vợ ông chủ quán nổi điên lên vì thấy con chó quyến luyến tôi quá chừng. Xin các bạn hiểu cho rằng, con chó con kia hoàn toàn không ưa bà chủ quán đó. Những con vật như thế, chúng đánh hơi thấy tâm hồn con người, chúng nhìn thấy ngay ai là người yêu thương chúng. Khi ấy, tôi dành dụm được hai chục đồng, tôi khâu dấu trong lần gấu váy, tôi bèn nói với ông chủ:
- Thưa ông, cháu định bụng dành dụm cả năm để mua con chó nhỏ nhà ông. Nay cháu xin ông bán lại cho cháu với giá hai chục đồng. Cháu không muốn để bà nổi giận vì con chó kia, mặc dù bà chẳng quan tâm chút nào tới nó cả.
Ông chủ quán bảo tôi:
- Không đâu, con ạ, con hãy cất tiền đi, cất hai chục bạc của con đi. Cầu trời hãy giữ gìn cho ta không cầm tiền của người nghèo khổ. Con hãy giữ lấy con chó mà nuôi. Nếu bà vợ ta có rầy la quá đáng, thì con hãy tìm nơi khác mà trọ.
Vì chuyện con chó mà ông chủ quán bị bà vợ làm cho một mẻ thất điên bát đảo. Chao ơi, cứ ngỡ đâu như nhà có hỏa hoạn ấy chứ! Và, các bạn có biết, mụ ta nghĩ ra chuyện gì không? Khi mụ ta thấy con chó quá quyến luyến tôi, mụ cũng biết không thể nào thu phục nổi con chó đó nữa, mụ bèn đánh bả nó. Và con chó nhỏ tội nghiệp đã chết trong tay tôi…Chết trong lòng tôi…Tôi đã khóc nó như khóc chính con mình đẻ ra và tôi đã chôn nó dưới gốc một cây thông cao và to…
“ Chỉ vì thương ”
Công việc của chúng tôi là khoan nhiều giếng trên một hòn đảo xa xôi cách nẻo, cách đất liền có tới hàng trăm cây số.
Chiếc trực thăng kiểu Mi-4 - một bác công nhân khuân vác thực thụ - nhọ nhẻm, nhọ nhem, vừa mới dỡ hàng xong, và những người thợ khoan vẫn chưa về lều. Chính vào lúc đó tôi giương cặp ống nhòm tầm xa lên và sau khi xem xét một vòng làng dân Eskimo, tôi liền bổ nhào ra mạn bờ biển. Khi còn ngồi trên máy bay, tôi đã nhận thấy một đàn rất đông những con hải mã, và tôi quyết định tới thật gần để xem xét những con khổng lồ vùng biển này.
Chúng dài chừng ba mét nặng tới một tấn rưỡi, hoàn toàn có thể dùng mắt thường nhìn thấy chúng được, và tôi thấy rất rõ những cái đầu bẹt ở phía trên, những cái râu tua tủa phía môi trên nạc những thịt, những chiếc ngà dài hơn nửa mét, những tấm vây rộng bản phía trước ( các con thú nằm dài ra và những vây sau thu lại lấp dưới những bộ lườn nung núc mỡ ). Các chú hải mã đang ngủ, ngáy rất mạnh đến nối đứng nấp sau bức tường dày làm bằng những cây gỗ tròn để nguyên của nhà lều, mà vẫn nghe thấy rõ mồn một. Còn những con đang thức thì gọi nhau ầm ĩ, gầm gào như những con gấu, kêu ồ ồ như bò cái, ủn ỉn en éc như heo vậy.
Ta có cảm giác như chúng nằm lộn xộn. Ta có thể nghĩ rằng chúng nằm kềnh trên nền băng ở ngay nơi chúng cặp bờ. Nhưng đó chỉ là bề ngoài thôi. Trật tự trong một nhóm hải mã khi nào cũng hết sức nghiêm ngặt. Sau khi đảo mắt nhìn một lượt, tôi nhận ra ngay những con cái cùng với những con con. Chúng nằm theo những thế khác nhau, tách biệt ra một chút khỏi cả bày, sát ngay mớn nước để khi gặp nguy biến chúng có thể nhào ngay xuống nước. Những con con leo ngay lên những tấm lưng to lớn của con mẹ, đang ngủ ngon lành. Với bộ da màu sáng, lông thưa, và bộ mõm hết sức bẹt đến gãy ra, nom chúng giống hệt giống cho dogo, nhất là khi chúng nhỏm mình trên đôi vây sau để chẽ ra. Khi một con mẹ cho bú, nó nằm nghiêng trong khi con con bú tồm tộp ngon lành. Bộ da và lông của những con mẹ già có màu nâu nhám nháp, còn bộ da của những con con hầu như nhẵn nhụi mặc dù có vô vàn nếp nhăn. Thỉnh thoảng các con mẹ lại ngẩng đầu nhìn ngó với vẻ lo lắng, sẵn sàng chống chọi lại với từng nỗi nguy hiểm nhỏ nhặt nhất.
Giống hải mã cho con bú và chăm sóc con rất lâu, cho tới khi con chúng được hai năm tuổi. Trong cả một năm đầu, những con hải mã non được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ. Năm thứ hai khi ngà của chúng đã mọc chìa ra khỏi miệng, các con mẹ dạy cho con dùng ngà để đào bới dưới đáy biển tìm bắt tôm, trai, sao biển. Con mẹ vô cùng gắn bó với con. Ngay khi bị thương con mẹ cũng không bỏ con: khi ấy, nó dùng đôi vây trước ôm chặt con vào ngực, và tha con ra khơi xa. Và ta có thể tin chắc rằng con mẹ sẽ chẳng chút ngại ngần đương đầu với cái chết chắc phải tới, hơn là chịu để cho bất kỳ ai dám động tới con nó.
Các con đực già nằm sát cạnh nhau, nghỉ ngơi, ngả ngớn, trên những tảng băng riêng rẽ. Chúng không chú ý chút gì tới những con cái cả, và chẳng có gì làm chúng bận tâm hoặc lo ngại hết. Chúng cứ nằm dài như vậy mà ngủ thật lâu, không thay đổi cách nằm, không nhúc nhích. Răng của chúng dùng lâu đời đã mòn gần một nửa, trên làn da dày và sù sì lộ ra vô số sẹo. Đó là dấu tích của một thời trẻ trung sôi nổi đã qua, dấu tích của những cuộc giao tranh với các con cùng nòi giống.
Giữa những con đực mới trưởng thành, bất kỳ chuyện gì cũng có thể khiến chúng cãi nhau, đánh nhau một cách hung tợn. Tảng băng chúng nằm nhuốm đầy vết máu. Lý do những cuộc đụng độ nhiều khi vô cùng vớ vẩn: chẳng hạn một tiếng gầm quá to làm cho anh chàng nằm bên vô cùng khó chịu, một cú huých không hề mang tính chất cố ý…Các con đực hoàn toàn không chú ý gì tới các con cái, chúng chỉ cần các con cái vào mùa giao phối. Còn tình cảm cha con thì chúng hoàn toàn không biết tới.
Vào lúc tôi đang quan sát, có một con hải mã đơn độc bơi nổi giữa các tảng băng, nó thức giấc và bắt đầu bơi quanh. Cứ ước chừng theo kích tấc của cái đầu và những cái ngà, có thể biết đó là một con hải mã cái còn trẻ. Vì sao nó chỉ có một thân một mình nhỉ? Vì sao nó lại ngủ trên mặt nước chứ không ngủ trên những tảng băng? Tôi đưa mắt tìm xem con nó, nhưng không thấy.
Đột nhiên, con cái đó lao thẳng xuống nước sâu. Loài hải mã là loài lặn hụp tuyệt diệu, chúng có thể xuống sâu tới chín chục thước. Nó hụp sâu tìm thức ăn trong khoảng chừng mười phút. Nó không thể thiếu không khí lâu hơn. Sau đó nó phải ngoi lên, thở phì phò. Thế rồi, tôi nhìn thấy ở con cái đó một chuyện gì tôi không sao hiểu nổi…Nó lần lượt đi tới những tảng băng trên đó có các con hải mã mẹ đang cho con bú, nó bập răng vào băng và vươn người lên. Sau đó, bằng từng bước nhảy vụng về, nó tới bên một con mẹ có con. Nó chỉ chú ý tới con hải mã nhỏ này thôi. Nó chìa mõm về phía con nhỏ và dùng vây ve vuốt con kia. Nhưng vừa chạm tới con nhỏ, thế là con hải mã mẹ nhào vào nó và dùng răng đánh đuổi nó đi thật hung tợn. Con vật vừa lò dò tới đành rơi tõm nặng nề xuống nước và nó lại bơi tới một con mẹ có con khác, lại lặp lại cảnh trên. Tôi cứ tự nghĩ mãi không hiểu như vậy là chuyện gì….
Trên doi đất đầy những đá ven biển, tôi thấy có một chiếc mảng của người Eskimo, trên đó có một mái chèo to bản. Tôi quyết định dùng chiếc mảng đó để tiến sát tới những con hải mã khổng lồ và quan sát chúng gần hơn nữa. Giống hải mã không sợ người, chúng cứ để mặc cho người tới gần. Nói cho đúng ra thì cũng có những con hải mã ăn thịt người, chúng cũng tiến công người, nhưng đó là chuyện rất hiếm. Giống hải mã chỉ ăn thịt người trong những hoàn cảnh đặc biệt và thực lòng chúng không định thế. Chẳng hạn một con hải mã nhỏ mất mẹ, nó có thể làm gì. Nó chưa có răng đủ để kiếm ăn bằng cách đào bới sâu dưới đáy biển. Nhưng có cứ vẫn phải ăn chứ. Vì thế nó phải rình mò những con me biển, những con chim, và một khi đã quen vị máu, khi lớn lên, nó có thể lao vào con người lắm.
Tôi khẽ đẩy chiếc mảng ra và nhảy lên, và chút nữa tôi té nhào xuống dưới nước lạnh giá, vì chiếc mảng mỏng manh chao đảo mạnh. Tôi chợt nghĩ, những người tộc Suk và người tộc Eskimo không biết bơi, vậy mà họ dám ra khơi xa bằng cái thứ thuyền bè hàng mã này. Với những động tác cánh tay và đùi khéo léo, tôi đã làm cho chiếc mảng hết chòng chành. Tôi ngồi phía sau và bắt đầu dùng chiếc bơi chèo duy nhất để bơi, khi thì bên trái, khi thì qua bên phải. Chiếc mảng nhỏ lướt đi nhẹ nhàng tựa hồ trôi trên một sườn băng dốc. Tôi đã bơi ra tới giữa vùng băng đã tan thì chợt nghe một tiếng gầm gào đe dọa khiến tôi phải ngừng tay chèo ngay lập tức. Giống hải mã thường gầm như vậy trước khi lao vào kẻ thù. Tôi đưa mặt nhìn xem kẻ gây chiến ở đâu. Thế nhưng tất cả các con hải mã vẫn đang nằm ngủ yên lành trên băng. Khi một tiếng gầm gào nữa lại nổi lên, tôi hiểu ngay rằng đó là tiếng gầm gào của con hải mã cái đơn độc. Nó tỏ ra rất kích động, nó bơi tạo ra trên mặt nước thành những vòng tròn nhỏ, cái mõm khủng khiếp nhe ra, và mắt nó không rời tôi một giây. Rõ ràng nó rất ghét có con người ở gần kề. Tôi thấy chờn chợn. Phải chăng đó là một con hải mã ăn thịt người? Không có lẽ. Giống hải mã ăn thịt người thường tiến công kẻ địch bất ngờ kia! Chúng thường ngoi lên sát bên mảng rồi tì răng vào thành mảng, làm lật nhào đi, hất người trên mảng xuống nước…
Trong lúc tôi đang còn nghĩ mình phải làm gì, thì chợt nghe thấy tiếng kêu phía sau. Tôi quay lại. Trên doi đất, có một người đang đứng, người nhỏ nhắn, chân dạng ra, mình mặc áo lông rộng và chân đi ủng da lông. Tay phải người đó mang súng săn, tay trái ra hiệu cho tôi. Tôi nghe thấy người đó la to lên:
- Mày không đi đó! Mày về đây!
Tôi bèn cho mảng quay lại và chèo vào bờ. Chẳng mấy chốc đáy mảng đã chạm vào những viên đá tròn.
Trên bờ là một người Eskimo già, với khuôn mặt nhỏ tròn như mặt trăng màu vỏ khoai đã luộc chín, trên mặt đầy những vết nhăn sâu. Đầu để trần, tóc xám thưa, mềm như lông tơ, bay phất phơ trước gió. Râu và ria xám bạc nổi bật trên nền da nâu của khuôn mặt. Nhưng trông đôi mắt sếch một mí có vẻ cứng rắn, trẻ trung.
- Tao định bắn – Bác ta nói với một nụ cười kìm lại làm lộ ra những chiếc răng màu vàng vững chãi.
- Chào bác…Sao? Nó ăn thịt người ư? – Tôi hỏi và hất hàm chỉ về phía con hải mã đang rất kích động, vùng vẫy gần những tảng băng.
- Không, không ăn thịt, nhưng cũng như ăn thịt, giết được.
Hai chúng tôi cùng ngồi lên thành chiếc mảng.
Câu chuyện bác già kể cho tôi nghe không quá hai phút, nhưng mặc dầu ngắn gọn nó vẫn cho thấy cả cảnh tượng sinh động và đầy những sự kiện đau lòng. Người dân phương Bắc ghét lối nói lắm lời và có khả năng chỉ vài lời là nói đủ điều.
…Mùa xuân, ông già ấy ngồi trên mảng dùng lưới đánh cá thu. Dòng nước chảy đẩy mảng sát vào những tảng băng. Sát đó, dưới chân một tảng băng mọc nhô cao, là một con hải mã cái với con nhỏ. Con nhỏ nghịch ngợm đang leo lên cái lưng tròn trĩnh của mẹ nó, rồi cất lên những tiếng reo vui, nó xoè hai vây trước ra và để mình trôi trượt xuống tảng băng. Thấy có người gần kề, con mẹ cũng chẳng chút sợ hãi. Và dường như muốn tỏ ra hoàn toàn tin cậy vào con người, con mẹ để con nhỏ dưới chân tảng băng cao, vụng về nhảy từng bước nhỏ tới mép nước và hụp xuống kiếm mồi. Nó ở dưới thật lâu rồi ngoi lên. Sau khi đã thấy rõ con nó còn nguyên lành, nó lại hụp lặn, cứ thế, cứ thế mãi.
Chính vào lúc đó, một chuyện ngẫu nhiên bi thảm, vớ vẩn đã xảy ra. Một tảng băng lớn bị mặt trời soi đã tách ra khỏi cái trụ băng cao lởm chởm, rơi xuống trúng đầu con hải mã nhỏ đang nằm dưới chân trụ. Con vật bé bỏng chết tươi. Khi ở dưới nước ngoi lên, con hải mã mẹ nghĩ ngay là đả có chuyện gì đó xảy ra. Nó lo lắng leo lên tảng băng và nhảy từng bước vụng về đến với con, nhưng nó vuốt ve bao nhiêu, dùng vây lay lật con, bao nhiêu cũng chịu, nó vừa gọi con vừa thốt ra những tiếng kêu nén lại tựa như những tiếng nức nở, vẫn không thấy con hồi tỉnh. Biết rằng mình bất lực, nó dùng hai vây trước đứng thẳng dậy và cất cao đầu nhìn bốn chung quanh. Ai là kẻ giết con nó nhỉ? Liền kế đó là một con người. Chính hắn!
Dân bản địa được phép săn hải mã với số lượng có hạn, không có người dân Eskimo nào, lại có thể nghĩ rằng đời họ có thể thiếu món thịt hải mã để chua, món ăn dân tộc của họ. Và con hải mã kia vì thế cũng nhiều lần thấy con người bắn chết đồng loại của nó. Thế là, hét lên một tiếng dữ tợn, nó nhào xuống nước và bơi về phía chiếc mảng. Ông già ra biển chỉ để câu cá thu nên không mang theo súng săn. Ông đành vứt bỏ lưới và ngồi lên phía đầu mảng, ông bơi nhanh về phía những tảng băng đang trôi. Ông kịp nhảy lên một tảng băng đó, với con hải mã cái theo sát nút, sẵn sàng cắn chết ông. Ông già chạy trên băng, nhảy qua các khe nứt, trong khi đó con hải mã vẫn bơi ngay bên cạnh, ngà đập nước tung toé và cất tiếng gầm gào đe dọa.
Càng vào gần bờ, băng càng mỏng dần. Ông già Eskimo biết thế, vì thấy băng lún dưới chân mình. Con vật cũng biết rõ điều đó. Nó bèn hụp sâu xuống dưới lớp băng và định bụng phá vỡ băng ở chỗ ông già đang đứng, đang chạy. Nó đánh hụt: băng tan vỡ cạnh chỗ ông; ông nhảy tránh ra và chạy ngoằn ngoèo để tránh. Con hải mã lại hụp xuống và một lần nữa băng lại vỡ gần sát người đang chạy trốn. Sau lần thứ ba, con hải mã trả thù không thành, ông đã chạy được vào bờ.
…Ông già Eskimo kể xong câu chuyện. Tôi nhìn về phía con hải mã cái cô đơn. Nó đang bơi sát mép những tảng băng, vươn cổ cao, nó quan sát đồng loại đang ngủ yên bên những chú hải mã con.
- Làm gì với con ấy bây giờ, bác? – Tôi hỏi, và lấy đầu hất chỉ về phía con hải mã kia - Cứ để như vậy, thế nào rồi cũng có chuyện chẳng lành…
- Đừng động tới nó! – Ông già đáp.
- Tại sao?
Lúc này, khi tôi đã biết toàn bộ câu chuyện, lẽ ra tôi đừng nên đặt ra câu hỏi cuối cùng đó. Sau một giây yên lặng, ông già người Eskimo trả lời tôi một cách ngắn ngủi, cốc lốc:
- Chỉ vì thương….