Đó là một ngày cô không thể nào quên. Buổi sáng cô đến sở làm. Vừa ngồi không bao lâu thì viên thiếu tá Mỹ Dave mới từ Mỹ đến Sài Gòn xông vào thông báo: “Ông Hồ đã mất”.
Tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến Tám Thảo nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.
Dù đã quá quen với các kiểu tin sốc bất ngờ, nhưng chính trong khoảnh khắc đó, cô vẫn cảm thấy tim mình đứng sững lại.
Nhưng chỉ trong tích tắc sau, bản năng mách bảo cô phải giữ ngay lại bình tĩnh, bởi lúc xúc động là giây phút sơ hở nhất trong nghề. Quay mặt ngó lơ, cô đáp lại rất hờ hững: “Vậy hả?” rồi tiếp tục làm việc. Viên thiếu tá nhìn cô dò xét một lúc rồi cũng quay đi.
Mãi đến buổi trưa trở về, chỉ tới khi nhìn thấy ba và dắt xe vào hẳn trong nhà, cô mới dám oà lên nức nở: “Ba ơi, Bác mất rồi”.
Trong cả tháng trời sau đó, bất chấp sự theo dõi cảnh báo gắt gao, khắp nơi trong thành phố, đồng bào đã tổ chức truy điệu Bác, bằng cả hình thức công khai lẫn bí mật.
Ở nhà lao Chí Hoà, 600 anh chị em tù chính trị sáng nào cũng hát Quốc ca và làm lễ tưởng niệm Bác.
Tám Thảo kể, suốt mấy tháng trời sau ngày Bác mất, ngày nào cô cũng bận áo dài trắng đi làm.
Tại Ngã Bảy, anh chị em công nhân và các nghiệp đoàn quanh vùng đã chiếm trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động để làm lễ tiễn đưa Người, còn giới công nhân xe buýt thì dành cả ngày và đêm mồng 9 tháng 9 để làm lễ truy điệu Bác.
Hàng loạt thanh niên, sinh viên Sài Gòn kính cẩn mặc niệm Bác trong tiếng hát trang nghiêm của bài "Hồn tử sĩ".
Tại vùng Hòa Hưng, 200 phật tử, nhân sĩ trí thức tập trung về chùa Khánh Hưng ngay sau giờ Hà Nội bắt đầu truy điệu. Bốn ngày sau, Thượng tọa Thích Pháp Lan - người đọc điếu văn trong buổi lễ - bị Tổng nha Cảnh sát gửi giấy mời lên thẩm vấn suốt 9 tiếng đồng hồ.
Nhiều nơi, cảnh sát Cộng hoà cũng biết các hoạt động tưởng nhớ Bác nhưng cũng đành phải làm lơ vì không dám xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của nhân dân (*).
Còn với Tám Thảo, ở vị trí của cô, buồn là... không được phép. Nhưng tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến cô nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.
Cuối cùng, bằng trí thông minh và sự khéo léo, cô đã “qua mặt” được cả viên sĩ quan tình báo Mỹ đầy kinh nghiệm.
Tám Thảo lần về thăm quê tại Bắc Ninh (2007)
Cô kể, suốt mấy tháng trời sau đó, ngày nào cô cũng bận áo dài trắng đi làm. Dave thấy thế sinh nghi, liền vặn hỏi: “Sao dạo này cô hay mặc đồ trắng vậy?”.
Đã tính kỹ nên cô trả lời không chút đắn đo: “Nhà tôi bán vải lụa, mẹ tôi may cho tôi hàng trăm cái áo. Tôi muốn thử hết những chiếc màu trắng này rồi chuyển sang những chiếc màu khác xem sao”.
Dave nghe vậy tin ngay, bởi từ trước đến giờ, ai chẳng biết tiểu thư Mỹ Nhung đi làm chỉ để khoe giàu khoe sắc. Thậm chí, đã có thời cô là chủ đề bàn tán của không ít sĩ quan, bởi trong suốt cả năm đi làm với mức lương loại xoàng, cô chưa hề mặc... trùng một chiếc áo.
Sau này, khi đất nước đã giải phóng, trong những ngày đầu tiên ra lại Hà Nội, điểm đến của cô bao giờ cũng là vào Lăng Bác.
Một lần, hai lần... nhiều lần quá đến mức không thể nhớ, nhưng mỗi lần được viếng Lăng lại là một lần cô nhớ về chuyện chiếc áo trắng ngày xưa.
“Thực ra trong nghề đâu có được liều lĩnh làm như vậy, nhưng lúc đó mình thực lòng thấy đau khi Bác mất. Kẻ thù nó phải sợ người Việt mình vì mình có những người như Bác chớ? Lúc đó, dù không nói ra đâu, nhưng tụi lính chỗ cô cũng không dám chống lại đồng bào để tang. Tụi nó cũng buồn, nhưng không dám lộ ra vì sợ Tây nghi là Việt Cộng. Cứ nghĩ xem, người như ông Cụ mà mất, ai không khóc thương?”, đến giữa tháng 4/2007, Tám Thảo vẫn còn nhớ như in câu chuyện đó.
Tháng 5/2007, có dịp gặp lại cô ở Hà Nội, trên đường trở về thăm quê. Suốt câu chuyện dài ở Hồ Tây vẫn thấy cô rưng rưng nước mắt khi nhắc tới những ngày tháng trắng màu tang năm 1969.
Đứng ở quảng trường Ba Đình, đôi mắt cô sâu hun hút hướng vào Lăng Bác. Ở đó, người Cha già của dân tộc đang nằm, mà mỗi khi có dịp ra Hà Nội, cô không thể không dành thời gian ghé lại, chào Người.
Những ngày sống trong lòng địch, Tám Thảo luôn được các đời thiếu tá tình báo Mỹ yêu mến. Dù mang dáng vẻ rất “chảnh” của một tiểu thư con nhà giàu, nhưng chưa bao giờ cô tỏ ý đành hanh, ăn hiếp bất kỳ ai trước.
Sống giữa lằn ranh mong mang, Mỹ Nhung vẫn giữ được an tòan vì luôn giữ được cái cội rễ nguyên sơ nhất: tính người và chất người Việt Nam!
Những cú đập bàn, bạt tai cô chỉ “tung ra” khi biết có thể rơi vào vòng nguy hiểm, bởi trong mắt chúng, Việt Cộng là... cái gì đó... rất bí hiểm. Nếu cô lập luận sắc sảo - thế nào cũng bị nghi là Việt Cộng. Nếu cô chăm chỉ làm việc - Việt Cộng đây. Còn nếu cô tuân lệnh làm tròn nhiệm vụ - không ai khác ngoài Việt Cộng.
Hồi Phạm Xuân Ẩn đi học ở Mỹ, chỉ vì... học giỏi quá mà có lần bà giáo Mỹ phải soi mục kỉnh lên: “Mày là Việt Cộng hay sao mà học giỏi thế?”. Dẫu chỉ là câu hỏi chơi chơi, nhưng kể từ đó, Phạm Xuân Ẩn... dừng ngay chuyện chăm chỉ học hành.
Ông hiểu ngay, với người Mỹ, ông cần ứng xử như ông là chính họ: thích nói dóc, hay bông đùa, nói ngắn gọn nhưng luôn luôn thực dụng nhất.
Kết thân một thời gian, một hôm, Tám Thảo hỏi thẳng “sếp” Mỹ: “Này, ông có biết tại sao các ông sẽ thua không?”. Trố mắt ra nhìn, viên thiếu tá Mỹ ngạc nhiên hỏi: “Sao cô nói vậy?”.
Cô lạnh lùng trả lời: “Các ông thua vì các ông là người ngoại quốc. Các ông đến đây, không dành thời gian nghiên cứu, chỉ đến, ra lệnh, rồi về. Trong khi Việt Cộng là con đẻ ở đây. Họ sống chết ở đây, họ giành độc lập cho họ chứ họ không có xâm lăng ai. Do vậy, họ có cơm ăn cơm, có cháo căn cháo, có súng đánh bằng súng, có cuốc đánh bằng cuốc. Họ có thể chiến đấu từ đời này sang đời kia, ông, cha, con, cháu, miễn khi nào các ông rời khỏi hẳn quê hương họ. Còn các ông chỉ sang đây 18 tháng, 6 tháng đầu mới tìm hiểu việc, 6 tháng sau mới bắt đầu làm, 6 tháng cuối thì đi nghỉ với vợ, hết HongKong rồi lại Hawaii... Trong khi đó, Việt Cộng thì chỉ có mỗi một mục đích là làm sao có được độc lập. Tôi hỏi, nếu phải vậy thì ai sẽ thua?”
Viên thiếu tá nghe xong, vã mồ hôi hột, nhưng vẫn không quên chất vấn “sao cô nói giống giọng Việt Cộng thế?” Cô lại trả lời: “Tôi cũng là người Việt Nam nên tôi hiểu họ nghĩ gì. Đã làm việc cho các ông thì tôi phải tìm hiểu kỹ về Việt Cộng. Nhưng các ông không bao giờ nghe cả, các ông lúc nào cũng tự đắc là ông lớn mà thôi...”
Một lúc sau, viên thiếu tá gật gù, bởi chính bản thân cậu chàng cũng đâu quan tâm tới cuộc chiến. Ở bên Mỹ, cha cậu là giảng viên đại học, mẹ dạy đàn piano nên cậu chàng cũng có máu mê văn chương, nghệ thuật lắm.
Vì phải sang Việt Nam làm nghĩa vụ nên suốt thời gian ở đây, cậu chàng không bao giờ dám ra ngoài một mình, chỉ thích ngồi đàm đạo văn chương với Tám Thảo. Có việc gì cần đi đâu, cậu chàng đều nhờ Tám Thảo giúp, vì cô nói năng, lập luận vững vàng, đến sĩ quan ở đây còn phải kiềng nể.
Sau này, trong tài liệu Những thất bại của tình báo Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do CIA công bố, một trong những lý do thất bại mà Mỹ phải công nhận chính là vì Mỹ đã quá chủ quan và tự kiêu về uy lực của mình.
Rất nhiều sĩ quan tình báo Mỹ được cử sang chiến trường Việt Nam mà không thèm học tiếng Việt. Họ thậm chí không cần biết người Việt là ai, văn hoá Việt Nam là thế nào, bởi Mỹ luôn số một.
Trong khi đó, ngay từ lúc người Pháp còn chưa chịu chấp nhận là Mỹ sẽ thế chân tại Đông Dương, những nhà lãnh đạo của Việt Nam đã nhanh chóng gửi Hai Trung sang Mỹ học tập.
Họ đã nhìn thấy rõ kẻ thù của đất nước ngay khi đối phương chưa hoàn toàn xuất đầu lộ diện.
Những giờ tự học
Sống thẳng thắn, không sợ bất kỳ dèm pha nào, nhưng nhiều lần Tám Thảo vẫn phải nếm những cái bẫy điều tra, thậm chí còn bị công khai thẩm vấn qua máy phát hiện nói dối. Song bản lĩnh và trí tuệ luôn giúp cô giành chiến thắng trước cặp mắt cú vọ và những cỗ máy tâm lý hàng đầu.
"Tiểu thư" Tám Thảo hồn nhiên nhớ lại những kỷ niệm với viên thiếu tá hải quân mê văn chương
Thậm chí sau này, một vài người mới đến còn tỏ ý ngờ cô là Việt Cộng, nhưng chính những người làm việc lâu năm với cô lại... gạt phắt ngay: “Cô mà là Việt Cộng thì cả cái Bộ Tư lệnh Hải quân này cũng là… Việt Cộng hết”.
Làm việc một thời gian dài, Tám Thảo cũng cảm mến viên thiếu tá mê văn chương nọ. Kém cô gần 8 tuổi nên có chuyện gì khó khăn trong cuộc sống riêng, cậu lại tìm đến Tám Thảo. Đôi khi, chỉ vì một câu thơ hay, một thoáng tiết trời đẹp, cậu thiếu tá lại mời cô đi uống cà phê, nói chuyện về gia đình, về cuộc sống.
Trong chiến tranh, là đối thủ, nhưng ở mỗi bên chiến tuyến, họ lại đều là những con người. “Anh là người Mỹ, tôi là người Việt, tại sao anh có quyền mang súng bom đến đất nước này để nói rằng nước Mỹ đang đem lại... tự do? Tôi phải cầm súng lên chính là vì lẽ đó. Nhưng khi thay bỏ quân phục, anh cũng là con người. Anh có cha, có mẹ, có những giấc mơ về một gia đình hạnh phúc. Nào ai muốn chính gia đình mình phải ly tán, đổ máu, tù đày? Chỉ khi phải trực diện với nỗi đau nào đó, người ta mới hiểu được giá trị của lương tri con người hay sao? Nếu anh là người tốt, anh có thể trở thành bạn tôi. Nhưng nhìn những chuyến hàng chở đạn mà anh ký nhận hằng ngày, nhìn những người đồng đội của tôi bị tra tấn trong hầm tối, bị thủ tiêu, tôi không thể không nói anh là kẻ thù được” - Tám Thảo lý giải với lòng mình, trong những lần đi cùng thiếu tá Mỹ mê văn chương.
Được huấn luyện tinh thần cách mạng từ khi 16 tuổi, thế nhưng không biết bao lần Tám Thảo cũng phải trăn trở đấu tranh với chính mình như thế. Có những lúc căng thẳng quá, cô phải tìm đến sự che chở của ba. Cô hạnh phúc vì có ba bên cạnh, nhưng càng hạnh phúc bao nhiêu thì cô càng hiểu rằng đang có những gia đình bất hạnh bấy nhiêu, bởi chỉ vì chiến tranh mà mỗi người mỗi ngả.
Năm 1968, Tảm Thảo kể, có một viên sĩ quan Mỹ cao lớn, đẹp trai đến Bộ Tư lệnh. Vừa chân ướt chân ráo về, cậu chàng dính ngay phải trận đánh khốc liệt Mậu Thân. Cô vẫo nhớ như in cảnh cậu chàng to cao lừng lững, ngồi sụp xuống ôm quả B40, núp bên chậu kiểng.
Bà Tám Thảo hồi tưởng lại những tháng ngày sống giữa lằn ranh giữa bạn và thù, chỉ một mình và chưa một lần vấp ngã
Nhìn thấy cô, nó kể chuyện nó có cái ảnh Việt Cộng, nhưng bảo “Cô đừng coi. Cô coi đêm về không ngủ được”. Nghe vậy, Tám Thảo hiểu ngay tấm ảnh đó là gì.
Suốt mấy hôm sau, những lời bàn tán về nhiều “tên Việt Cộng” bị đánh, bị tra xét dã man càng chà xát lên lòng cô nỗi đau mất nước. Cô ngồi nghe, ức muốn rớt nước mắt mà vẫn phải yên lặng, không hé răng một lời.
Thấy cô căng thẳng quá, tụi lính liền bảo: “Thôi cô về đi, đừng ngồi nghe làm gì cho tội thân”. Tám Thảo đứng dậy, xách túi ra về. Vào đến nhà, cô mới dám khóc.
“Chục năm theo nghề cũng giúp mình biết được ai tốt ai xấu, ai bạn ai thù. Về con người, ai cũng có những điều đáng quý. Nhưng về công việc, nếu đấy lại là kẻ thù thì mình phải chiến đấu, phải đuổi ra khỏi đất nước thôi”, cô nói.
Cái biên giới giữa bạn và thù cứ mong manh như thế, vậy mà Tám Thảo cứ đi suốt cả chục năm ròng: đi một mình mà vẫn thẳng người, không một lần vấp ngã.
Năm 1970, đang trong giai đoạn tạo được niềm tin vững chắc tại Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, cô nhận lệnh phải rút về chiến khu, để đảm bảo an toàn cho Phạm Xuân Ẩn. Hơn 15 năm đào tạo và nỗ lực, đến giờ Phạm Xuân Ẩn đã trở thành ký giả nổi danh, đã chui sâu leo cao vào lòng địch.
Vợ chồng Tám Thảo - Ảnh tư liệu gia đình
Lúc này, mọi mối quan hệ của Phạm Xuân Ẩn phải được giữ gìn cẩn thận, bởi ông đã là một trong những nhà tình báo chiến lược của miền Bắc Việt Nam. Hơn nữa, bây giờ đã chuyển sang giai đoạn căng thẳng, sau Tết Mậu Thân, bất kể ai cũng có thể chết nếu để sơ hở dù nhỏ nhất.
Những lúc cảm thấy cô đơn trong trận tuyến một mình, Phạm Xuân Ẩn đã nhiều lần tự ý đến thăm gia đình Tám Thảo, để tìm ở đấy chút cảm giác bình yên. Nhưng hành động tưởng nhỏ đó lại vô cùng nguy hiểm.
Không thể để một sơ suất nào nguy hại đến ông và đến hàng chục giao liên đang ngày đêm làm việc trong im lặng, Tám Thảo lập tức tuân lệnh. Nhưng nếu đi có nghĩa là cô phải chia tay với gia đình, xa rời cuộc sống sung túc trong nội thành, ra chiến khu sẽ khổ...
Song cái đó thì có nghĩa lý gì? Tổ chức đã quyết, và hạnh phúc của người lính không có gì hơn: cô rút lui để giúp cho cách mạng tiến lên thêm bước mới.
Thiếu tướng Sáu Trí, lãnh đạo Phòng tình báo Miền, (VietNamNet sẽ viết tiếp về ông trong loạt bài sau) trong cuốn hồi ký tổng kết đời hoạt động tình báo của mình cũng dành những dòng ghi ơn trang trọng nhất khi viết về Tám Thảo: “Để bảo vệ lưới tình báo đặc biệt 2T, xoá nhiệm vụ cơ cán đi sâu của chị Tám Thảo đang làm phiên dịch cho cố vấn Mỹ trong Bộ Tư lệnh Hải quân nguỵ… Chúng tôi tiếc phải rút chị ra cứ vì chị Tám đang phát huy tác dụng cao.
Chị là một nữ điệp viên duy nhất của Phòng tình báo Miền. Chúng tôi có ý định nhân điển hình của chị Tám để khai thác khả năng phong phú và quý giá của phụ nữ miền Nam trong công tác tình báo”.
Mệnh lệnh này được đưa ra trong hội nghị tình báo tháng 9/1969.
Hạnh phúc trong nửa vòng tay
Sau khi rút ra ngoài rừng, cô được gặp người em trai của “bà tư sản Bảy Huê” - người phụ nữ từng giúp cô suốt cái thời làm giao liên cho ông Ẩn.
Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.
Thuở mới quen ông, cô cũng chưa có tình yêu ngay. “Đám cưới của tôi là do... Đảng gợi ý”, bởi cô đã quá tuổi thanh xuân rồi. Những người chỉ huy của cô, ông Sáu Trí, ông Tám Mỹ lo lắm, tìm cách mai mối giúp cô. “Đảng lo cho em nên giới thiệu em với đồng chí đó. Ba em kén cho em cũng không bằng Đảng kén cho em đâu, vì Đảng biết Đảng viên nào xứng đáng với em mà”.
Nghe vậy, Tám Thảo đồng ý gặp mặt, rồi 7-8 tháng sau, hai người nên duyên. Ngày cưới, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng chỉ băn khoăn mỗi một điều: không hiểu ông có “kẹo kéo” hay không, bởi tính cô giống ba, vốn quen rộng rãi, đại lượng với tất cả mọi người.
Lấy nhau rồi, cô mới bắt đầu mở lòng mình sau suốt gần 40 năm khép kín. Cô kể cho chồng nghe về mối tình đầu thuở đôi mươi không thành. Nghe xong, ông cảm động lắm. Người chiến sĩ tình báo nửa đời phải sống trong câm lặng và những lời đồn cay nghiệt, nay đã có thêm một cái tôi để chia sẻ.
Tuy nhiên, kết hôn năm 39 tuổi, cộng với sự căng thẳng thời sống trong nội thành và sự gian khổ khi ra ngoài căn cứ, Tám Thảo chưa bao giờ được làm mẹ. Điều duy nhất an ủi cô chính là niềm hạnh phúc có được một người chồng thương yêu, tin tưởng cô hết mực.
Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!
Đầu năm 1973, khi vòng đàm phán 4 bên bắt đầu vào hồi kết, cô tình cờ gặp lại... mối tình đầu tiên. Ông là thành viên tham gia phái đoàn đàm phán. Được trở lại Nam sau 20 năm xa cách, ông bắt đầu tìm cô.
Nhưng làm sao tìm được khi đến chính tên cô cũng thay đổi bao lần: từ Mỹ Nhung cho đến Mỹ, Tuyết chị (Sáu Tuyết), rồi Yên Thảo (Tám Thảo)... Chưa kể đến chuyện lòng người, biết ai còn nhớ tới ai. Nhưng ông vẫn quyết tâm dò tìm cho bằng được.
“Ngày gặp nhau, cũng cảm động dữ lắm. Hai chục năm rồi còn gì”. Thương nhau, nhưng giờ đã mỗi người mỗi phận. Ông có gia đình, cô có hạnh phúc. Trước giây phút gặp nhau, không biết có khi nào ông băn khoăn rằng liệu cô tiểu thư Sài Gòn năm xưa có thể kiên cường vượt qua mọi thử thách cam go để theo đuổi tình yêu lớn nhất trong đời: yêu Tổ quốc, hay không? Hay tình yêu với cuộc sống nhung lụa của mình sẽ làm cô gục ngã?. Hai mươi năm gặp lại, hẳn ông đã rất tự hào. Người con gái ông yêu đã thực sự viết nên những trang tiểu thuyết đẹp về chính cuộc đời mình.
Kính thưa quý độc giả, "Hạnh phúc của chiến sỹ tình báo?" đã khép lại những câu chuyện đời và chuyện nghề của nữ điệp viên Mỹ Nhung (Tám Thảo) trong loạt bài về Cụm tình báo H63 anh hùng. Sau Tám Thảo, VietNamNet sẽ lần lượt giới thiệu đến quý độc giả những nhân vật huyền thoại khác của lưới H63 nói riêng và thuộc lực lượng tình báo quân đội nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau này, cô cũng kể lại buổi gặp gỡ cho chồng nghe. Thậm chí, cô còn không quên chuyện vào một ngày nắng đẹp, cô từng nhận liền lúc 2 lá thơ gửi về: một của chồng và một của ông. Nghe xong, chồng cô lại càng thấy thương và kính trọng vợ mình hơn nữa.
Đến bây giờ, ở tuổi 75, cô Tám Thảo sống một mình. Vào đúng độ con người thực sự cần hơi ấm mỗi khi chiều buông thì cô lại lẻ bóng. Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.
Sống một mình, nhưng trái tim cô vẫn luôn biết yêu thương như thuở nào, yêu từ những bông hoa nhỏ, những kỷ vật xưa cũ cho tới thương những người bạn già, những đứa cháu láu lỉnh mãi ngoài Hà Nội.
Phòng ngủ của cô giờ không có dáng vẻ khuê phòng thuở xưa, nhưng nét sang trọng thì vẫn ẩn trong từng chi tiết, từ chiếc gối phảng phất hương thơm cho đến bức hình gia đình ấm cúng. Cô đã đi gần hết cuộc đời, đủ thấy cái hiểm nguy mà không còn sợ hãi, đủ kinh qua chuyện lớn mà coi như chuyện nhỏ, đủ thấy sự cao cả trong những con người thầm lặng, và đủ yêu những con người vĩ đại mà giản dị vô cùng. Thế nên, cuộc sống của cô giờ đã nhẹ nhàng lắm.
Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!
* * * … Mùa thu năm 1960, Hai Trung thông qua Tám Thảo để móc nối liên lạc với tổ chức, với yêu cầu “chỉ tiếp xúc với một người mà Trung đã từng biết”. Cuối năm 1960, trực tiếp Hai Trung lái xe, Tám Thảo dẫn đường ra căn cứ, để Hai Trung gặp lại người đã từng ăn với ông bữa cơm chiều muộn khi giao nhiệm vụ từ 8 năm về trước: ông Cao Đăng Chiếm.
Bắt đầu từ đây, “câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ" như cách mà nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti nói về Trần Văn Trung, được viết nên, như một huyền thoại.
"Ai cũng biết khoác áo báo chí là một bình phong tốt nên bất kỳ cơ quan tình báo hay phản gián nào cũng muốn xây dựng bình phong này cho nhân viên của mình. Cũng vì thế mà một điệp viên khoác áo báo chí vào thì anh ta hôi sặc mùi điệp báo từ xa mà nhân viên an ninh cứ thế mà đánh hơi theo dõi" - Hai Trung (Trần Văn Trung) tổng kết.
Nhưng ông đã ẩn mình và đi suốt hơn 20 năm trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cung cấp về Hà Nội những thông tin quý giá đến mức các nhà lãnh đạo Hà Nội phải thốt lên tán thưởng: "Chúng ta đang có cái đầu ngồi ngay phòng chỉ huy chiến lược của cỗ máy chiến tranh Mỹ - ngụy".
Ông Phạm Xuân Ẩn và tấm thẻ nhà báo của mình từ năm 1965 - Ảnh do Hãng AP chụp năm 2000.
Vậy cái đầu chiến lược và chuyến hành trình của con sói cô độc (Alone Wolf, thuật ngữ mà người phương Tây thường ví các điệp viên) trong hang hùm đã diễn ra như thế nào?
Chọn một người để cứu trăm người
Từng tham gia phong trào học sinh - sinh viên năm 1945, Trung được anh Đỗ Ngọc Thạnh (tức Ba học sinh) lựa chọn là gương mặt sáng giá để giới thiệu với Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nhằm huấn luyện thành một thành viên cốt cán.
Tuy nhiên, cuộc gặp giữa Trung với anh Mười Cúc (tức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sau này, lúc bấy giờ là Bí thư Đặc khu uỷ - NV) đã không thể thực hiện bởi anh Ba học sinh sớm bị Pháp phát hiện, bắt và thủ tiêu. Mất liên lạc, Trung tìm cách thi đậu vào làm công chức Hải quan cho Pháp ở cảng Sài Gòn.
Mãi tới năm 1952, khi Cục tình báo Miền thành lập, Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định quyết định "nhường" Trung lại cho ngành tình báo. Liên lạc giữa Trung với tổ chức mới được bắt trở lại.
Khi hay tin mình được tổ chức giao cho làm tình báo chiến lược, Hai Trung... thất vọng lắm. Chàng thanh niên mới ngoài 20 tuổi muốn được tự tay cầm súng chiến đấu, chứ đi làm tình báo thì hoá ra là làm... thằng chỉ điểm à?
Lúc ấy, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Đặc khu), là người chỉ huy trực tiếp của Hai Trung, phải giải thích kỹ, rằng tình báo chiến lược không phải là điểm chỉ viên, rằng đã đi chiến đấu thì ở vị trí nào cũng có ích, chớ không phải cứ cầm súng lên mới là yêu nước.
Bác sĩ Thạch còn nhấn mạnh, làm tình báo chiến lược sẽ rất gian khổ vì phải sống trong lòng địch, không được đồng đội trực tiếp chia sẻ như anh em trong rừng, nguy hiểm khó khăn hơn nhưng sẽ lại cứu được hàng trăm anh em đồng đội khỏi cái chết, giúp cho máu của đồng bào bớt đổ, giúp cho cuộc cách mạng mau tới thành công.
Phạm Xuân Ẩn tại Mỹ (1957-1959). Ảnh tư liệu.
Hai Trung nghe ra, nhưng vẫn chưa hoàn toàn chịu. Cậu tự nhận mình “thật thà, ngớ ngẩn, hay tin người lắm, làm sao làm được”, song bác sĩ Thạch vẫn khẳng định: Đảng đã nhìn ra khả năng của Hai Trung rồi, cứ nhận việc đi, vừa làm vừa học.
Thế là, trong bữa cơm chiều ở chiến khu D giữa mùa xuân, tháng 2/1952, Hai Trung chính thức nhận nhiệm vụ thiêng liêng: trở thành chiến sĩ tình báo.
Lời dặn dò kỹ lưỡng của bác sĩ Thạch hôm đó "Đảng và dân ta còn nghèo lắm. Phải giữ vững tinh thần cách mạng thì mọi khó khăn sẽ lần hồi được giải quyết... Chú cứ yên tâm công tác, Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công khi hy sinh" đã theo sát Trung suốt 23 năm nằm sâu trong lòng địch, trở thành một điệp viên chiến lược huyền thoại của ngành tình báo Việt Nam.
Nhiệm vụ đầu tiên: Sao chẳng giống xi nê?
Những ngày mới bắt đầu vào nghề, Hai Trung dùng công việc ở hải quan làm bình phong. Trung phụ trách bộ phận kiểm hoá, được tổ chức giao cho việc phải theo dõi hoạt động của quân đội Pháp, tìm hiểu về phương tiện, vũ khí chiến tranh, lập biểu đồ di chuyển của quân đội Pháp từ Marseille qua Đông Dương và ngược lại.
Nghe lệnh từ trên, Hai Trung vội trả lời ngay: “Tưởng làm tình báo thì phải như trong xi nê, làm những việc kinh thiên động địa, chứ kiểu này thì dễ như ăn cơm bữa và chẳng có gì giựt gân cả”.
Mỹ Nhung về Sài Gòn, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức - Ảnh: Tư liệu
Bác sĩ Thạch nghe Hai Trung láu táu vậy vội vàng ngăn ngay: “Dễ, nhưng nếu để địch biết thì số phận chắc chắn sẽ như anh Ba Học sinh. Đây là công việc mật, chú không được chủ quan”.
Nói rồi, ông dạy cho Hai Trung những bài học đầu tiên về cách liên lạc, cách viết tin, dặn Hai Trung phải cắt những liên lạc không cần thiết, không tham gia phong trào, không đi ào ào hô khẩu hiệu như ngày xưa, cũng không được cầm súng chiến đấu trực tiếp. Làm công việc mật gian khổ hơn nhiều, chớ không dễ như ăn cơm đâu.
Hai Trung nghe rồi mới bắt đầu chú tâm tìm hiểu công việc mà cậu chàng tưởng dễ như xi nê. Đến khi thực sự nhập vai, Hai Trung mới kinh hoàng tỉnh giấc, trời ơi, chiến tranh đang hiện ra mồn một trên những con số mà Trung phải xuất nhập hàng ngày.
Theo đó, ngay từ những ngày đầu năm 1952, không chỉ có tàu chiến của Pháp mà ngay cả tàu chiến của Mỹ cũng đã xuất hiện ngay giữa cảng Sài Gòn, với những đợt chuyển quân và vũ khí chiến tranh tối tân, di chuyển như con thoi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, Hải Phòng. Bàn tay của Mỹ đã thọc vào Việt Nam ngay từ khi Pháp vẫn còn chễm trệ giữ quyền lực ở Đông Dương và ào ạt đổ quân vào cứ điểm bất khả xâm phạm trên Điện Biên Phủ.
Đến lúc này, Hai Trung mới hiểu rằng tại sao mình được lựa chọn, bởi Đảng và các anh chỉ huy đã nhìn thấy những điều rất xa: cuộc chiến khốc liệt đang thực sự bắt đầu, và Đảng cần chọn đúng người để giao trọng trách.
Bước chân vào nghề tình báo những năm đầu tiên nghe cứ... như chuyện đùa. Thậm chí, những ngày đầu kháng Mỹ non sơ, chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - người thầy đầu tiên của Trung - cũng phạm phải lỗi cơ bản đến chết người: đó là nhận được tin tức tài liệu của Hai Trung xong, bác sĩ còn gửi đi phát sóng trên đài “Tiếng nói Nam bộ” nhằm tố cáo quân Pháp, rồi tới quan Mỹ trong việc cố tình tăng cường viện trợ vũ khí chiến tranh, nhân lực quân sự, đào tạo để ủng hộ Diệm phá hiệp định Geneve.
Ngay lập tức, hai chiến sĩ tình báo đầu tiên được điều vào Nam là anh Nguyễn Vũ và anh Dương Minh Sơn nhằm tăng cường cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Đích thân anh Nguyễn Vũ còn phải tìm mọi cách để chặn lại những bản tin trên để bảo đảm an toàn cho Hai Trung.
Những bài học vỡ lòng đó khiến cho Hai Trung và những người chỉ huy, những người đồng đội chưa bao giờ dám đùa hay lơ là công việc.
Nhiệm vụ đầu đời với Hai Trung xem ra chả giống gì với xi nê, thế nhưng hoá ra, cuối cùng cả cuộc đời ông dẫu có hàng chục bộ phim cũng chưa chắc đã dựng nổi.
Hai Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" theo cách của mình và chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi, lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn. Thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét". Sai đến... "bốc cả mùi"...
Cái đuôi con tiểu tư sản…
Xuất thân của Trần Văn Trung là con một gia đình trung lưu ở thành thị, được giáo dục theo gia phong nhà nho. Ngày còn bé, Trung được cha dạy theo quan điểm “thương cho roi vọt, ghét cho ngọt ngào”. Chơi bời lêu lổng, học hành không ra nơi ra chốn, quên nỗi nhục mất nước là những điều không được phép có ở cậu Hai Trung. Vậy nên cứ những lần nghịch ngợm, láu táu là Trung lại rất được ba... “thương”.
Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn- Ảnh: QĐND
Nhưng lạ cái, nghiêm khắc với con là vậy, song gia đình ông lại sẵn lòng nuôi giấu cán bộ Thành uỷ từ những ngày cách mạng sục sôi kháng Pháp. Năm 1947, cha của Trung còn bị tên mật thám Lơ Bét-xơn - Trưởng ty Công an Rạch Giá - hành hạ khi ông đang cố tìm cách bắt liên lạc với cách mạng.
Xét về thành phần gia đình như vậy là quá cơ bản, ấy thế mà những điều đó cũng không được các anh chỉ huy "tha", từ anh Sáu (Nguyễn Vũ) cho tới anh Tư Tùng (anh Hai, Dương Minh Sơn) đến anh Ba (Mười Hương) trong những bài giảng đầu tiên về chính trị và nghiệp vụ: "Cậu là một thằng tiểu tư sản, mà thằng tiểu tư sản có máu thích làm anh hùng, mê xi nê nên dễ hỏng việc. Hơn nữa, con tiểu tư sản lại còn có một cái đuôi. Cái đuôi đó là lối sống trưởng giả, là cách ăn nói, đối xử hợm hĩnh với con người, đặc biệt là người dân nghèo, mà họ gọi là tầng lớp dưới. Dù cậu có khéo giấu đến đâu thì sớm muộn cái đuôi đó cũng lòi ra, kinh tởm bỏ mẹ. Phải tìm cách cắt cái đuôi đó đi. Nhưng cái đuôi của con tiểu tư sản không phải như đuôi chồn, đuôi cáo, cầm dao cắt phéng một lần là xong. Vậy nên phải thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm, nghiêm khắc với bản thân mình. Phải thường xuyên xem lại bản thân mình, hằng ngày, hằng giờ".
Lối giảng bài đậm chất dân dã, tục nhưng dễ nhớ đó đã in sâu vào trí nhớ của Trung, trở thành châm ngôn sống và hoạt động mãi về sau của chàng điệp viên trẻ này: "Phải luôn nghiêm khắc với chính bản thân mình".
Tuy nhiên, cái khó của nghề tình báo thì chẳng sách vở đâu dạy đầy đủ, ngoài chính cuộc đời và chính tự mình. Hai Trung nghe giảng bài, thực hành nghiêm túc lắm. Cứ mỗi giờ nghỉ trưa, Hai Trung lại chạy tuốt xuống ăn cơm, ba cùng "cùng ăn, cùng làm, cùng nghỉ" với anh em phu khuân vác ở Khánh Hội. Tính Trung vốn dân dã nên được nói chuyện với đồng bào nghèo khổ, Trung thấy hợp lắm. Cậu còn mê chơi với công nhân đến độ ghét ra mặt với những tên người Việt hay người Hoa kết hợp với người Pháp buôn lậu.
Có lần, một thằng Pháp làm cho hãng bốc xếp Rondon bắt nạt nhân viên của Hai Trung, làm Trung nóng mặt, chụp cổ đánh ngay tại văn phòng. Biết chuyện, tên trưởng phòng Stenou gọi vào, cho nghỉ việc 3 ngày để Trung... nguôi cơn giận, xong xuôi sẽ kêu tên Pháp kia đến tận nơi xin lỗi.
Hai Trung nghe vậy hài lòng lắm, phải thế chứ, cho tụi bây biết tay, đâu có thể cho nó bắt nạt đồng bào mình được. Thế rồi Hai Trung nằm thẳng cằng, nghỉ một lèo ở nhà 3 ngày cho hả giận.
Biết chuyện, anh Tư Tùng hoảng quá, vội vàng dập ngay “cơn sĩ” của Hai Trung lại. Trời đất, làm thế là bị... “lòi đuôi” rồi còn gì? Đuôi nào cơ? Nghe lời chỉ huy, Hai Trung đã chặt phăng cái đuôi tư sản rồi còn gì?
Vậy đấy, nguy hiểm ở chỗ, cái đuôi đó lại không phải là “đuôi tư sản”, mà là “đuôi... yêu nước”. Làm tình báo thì không được nóng nảy, tự ái cá nhân. Muốn tỏ ra là sếp bênh đàn em thì đâu có được? Đã được giao việc mật ngay trong lòng địch mà lại không thèm chơi với “đồng nghiệp”, không nhận đút lót, từ chối nhậu nhẹt, không chịu đi... tán gái thì còn làm ăn nước mẹ gì? Rõ là chỉ có thằng cộng sản thì mới nghiêm túc, kiên định vậy. “Lòi đuôi” thế thì còn chiến đấu ra sao?
Hai Trung nghe giảng mới à lên. Hoá ra làm tình báo không phải dễ như ăn cơm, càng không bóng lộn như trên phim ảnh. Làm chiến sĩ tình báo, nếu không tự hiểu mình là ai và vận dụng trí tuệ đúng lúc thì đôi khi sẽ phải trả giá bằng mạng sống.
Sau thời bình, trong lần thử phân tích về chính mình, chính Thiếu tướng Trần Văn Trung đã nhìn nhận: "Điệp viên phải có tính kỷ luật cao, nhất là kỷ luật tự giác vì anh ta hoạt động đơn độc, không có ai bên cạnh kiểm tra cả. Thiếu kỷ luật thì dễ chủ quan dễ buông lỏng nguyên tắc, dễ mất cảnh giác và cuối cùng là dễ bị bắt".
Mà nếu đã bị bắt, điệp viên chỉ còn nước chọn: hoặc chết, hoặc khai. Bởi trong mọi đòn tra tấn, đòn tra tấn dành cho điệp viên tình báo bị bắt là khủng khiếp nhất: đánh cho khai, khai ít đánh cho khai nhiều, khai nhiều đánh cho khai hết. Thậm chí, kẻ thù không từ bất cứ thủ đoạn nào, thậm chí dùng thuốc độc khiến điệp viên khi ra khỏi nhà tù trở nên thần trí bất thường. Việc thoát khỏi nhà tù do may mắn hay được tổ chức đào thoát là cực kỳ hãn hữu.
Kinh nghiệm đó, ông đúc kết trong hàng chục năm nằm sâu trong lòng địch, tiếp xúc với đủ loại nguồn tin lẫn chứng kiến những trận đòn thù tra tấn của đối phương đối với các chiến sỹ Việt cộng bị bắt.
Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" như thế, theo kiểu chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi mà lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn, thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận là "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét".
... Sai đến bốc cả mùi
Làm ở Hải quan được hơn 1 năm, đến hết mùa mưa năm 1952, Hai Trung đã bắt đầu được khen ngợi vì tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tình hình lúc này bắt đầu ngày càng căng thẳng. Lo ngại Hai Trung có thể bị bắt đi lính, các đồng chí chỉ huy đã ra lệnh cho Hai Trung phải tìm mọi cách để tránh bị bắt lính, đồng thời phải tìm người thay thế trong việc lấy tin tức quân sự ở Hải quan, đề phòng bất trắc.
Hai Trung- Ảnh: Tuổi trẻ
Cuối cùng, thông qua việc vận động được người anh họ là Phạm Xuân Giai - Trưởng phòng 5 (phòng tâm lý chiến) Bộ Tổng tham mưu, cánh tay đắc lực của Trung tướng Nguyễn Xuân Hinh (Tổng tham mưu trưởng), Hai Trung vào làm bí thư cho Giai với mục đích trốn lính.
Vào cơ quan đầu não của quân đội rồi mà Trung vẫn sống ngoan ngoãn, “sạch sẽ” tới mức những sĩ quan cùng phòng đã phải ngao ngán vì rủ rê Trung chơi bời mãi không được: "Thằng anh thì cái gì cũng sắc bén, cái gì cũng biết không ai qua mặt được, chơi bời không thiếu thứ gì. Còn thằng em thì thật thà như đếm... không biết trời sinh ra để làm gì mà sống khổ sở thế".
Có lần, nửa đêm cuối tháng 3/1955, Bình Xuyên pháo kích vào Dinh Độc Lập. Nội bộ chính quyền Diệm lục đục, phe thân Pháp và phe thân Mỹ muốn thôn tính lẫn nhau, các sĩ quan đánh hơi thấy nguy hiểm, trốn chui lủi ở nhà hết. Có mỗi Hai Trung là “ngây thơ chạy đến” xem tình hình, thậm chí còn hớn hở tuyên truyền để lung lạc tinh thần sĩ quan: tình hình cứ thế này thì đến bầu cử 1956, Bắc sẽ thắng Nam.
Ngày đó, Hai Trung mới vào nghề, đã được dạy gì đâu? Cậu chưa đủ kinh nghiệm để hiểu rằng, dù có choảng nhau thì cũng chẳng bao giờ Pháp và Mỹ muốn rút lui để trả đất nước này về cho dân tộc Việt, bởi dù thua hay thắng thì bản chất đế quốc vẫn luôn là xâm lược.
Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Sự hồn nhiên, thật thà đó lại khiến cho nhiều sĩ quan Pháp, Mỹ, Việt cảm mến, giúp cậu vượt qua nhiều cái bẫy một cách rất tình cờ. Chính họ cũng chẳng hiểu nổi tại sao lại có thể yêu quý một cậu nhóc gầy ốm, hiền lành mà lại rất chân thật, hài hước đến thế được. Bởi có thể chính họ đã không chịu hiểu, đứng trước sức mạnh quá lớn của sự lương thiện, ai cũng sẽ tìm cách tự làm trong sạch chính mình. Yêu quý, giúp đỡ một chàng thanh niên tốt bụng có phải là cách giúp họ tẩy bớt nỗi tủi hổ sau những chuỗi việc ác chăng?
Đến tận năm 1957, khi đã qua Mỹ học, Hai Trung vẫn còn chưa cắt được cái “đuôi yêu nước” của mình. Đứng trên đất Mỹ, học nghiệp vụ Mỹ, thế mà trong những buổi thuyết trình, Trung vẫn cứ hồn nhiên chêm vào nào là "áp bức, bóc lột”, nào là “cách mạng, đế quốc" - những khái niệm mà người Mỹ lúc bấy giờ đặc biệt dị ứng.
Hai Trung thật đến nỗi bị giáo sư giảng dạy đánh điểm kém cho những bài luận luôn xuất sắc, chỉ vì cậu không nghĩ được rằng, trong số rất nhiều giáo sư, cũng có những người đang làm công việc y như cậu. Họ muốn dò tìm manh mối cộng sản trong những con người do chính họ đào tạo nên. Đi học trên đất Mỹ đâu chỉ là học thêm kiến thức, đó thực sự còn là một cuộc cân não lớn.
Hai Trung phát hiện ra điều đó sau một thời gian dài luôn đứng đầu lớp. Ấy là lần một bà giáo vốn là nhân viên phòng tình báo Hải quân Mỹ giương mục kỉnh lên thắc mắc: "Học kiểu như mày, chỉ có là cộng sản". Chột dạ, từ đó Hai Trung bỏ luôn thói miệt mài đèn sách để giành điểm cao.
Ngẫm nghĩ lại, Trung mới ngộ ra rằng, hoá ra yêu nước không thôi là chưa đủ. Nếu không dùng cái đầu để đấu trí lại thì chắc chắn mình sẽ thua. Trong khi biết bao sĩ quan miền Nam Việt Nam qua Mỹ học một ít, còn đâu dành thời gian ăn chơi, tiêu xài, mua sắm, nhảy đầm, cặp gái... thì Trung chỉ như một thầy tu, suốt ngày cắm đầu vào học và nghiên cứu.
Thực tế, Hai Trung chỉ có thể làm thế khi được sống trong sự che chở an toàn của đồng bào. Còn ở đây, một mình giữa hang sói, nếu bê nguyên những nguyên tắc đạo đức vào thì chỉ có thể đổ máu, mất xác mà thôi.