San Francisco là bến cảng quan trọng nhất Tây Mỹ và "Cổng Vàng" (the Golden Gate), vũng tàu tuyệt vời của nó, đã được các du khách ca tụng hết lời. Trên bến cảng chất đầy các thùng, hòm, túi, người người đi lại tấp nập và ồn ã: thương nhân, thủy thủ, công nhân người Hoa, phu khuân vác người Ailen đi lại hối hả như mắc cửi, chẳng ai thèm để ý đến những người mới đến.
Những người bạn của chúng ta dừng chân, thoáng choáng ngợp trước không khí ồn ào, náo nhiệt của thành phố bởi vừa trước đó ít phút thôi, họ còn đang chìm đắm trong cái bao la, êm ả mặn mòi gió biển. Lòng buồn man mác, Ar-mand nghĩ tới những ngày qua được trò chuyện và được tiểu thư Aurett chăm sóc hết mực chu đáo và dịu dàng. Chàng thầm nuối tiếc vì đã đến lúc phải lao vào những thử thách mới.
Chàng nói:
- Vậy là chúng ta đã đến được đất liền. Vết thương của tôi đã hoàn toàn lành lặn. Giờ tôi phải tìm cách kiếm sống và tiếp tục chuyến đi của mình.
Ngài Murlyton vội phản đối bởi cô con gái vừa đưa mắt nhìn ông đầy ẩn ý:
- Chuyện này là như thế nào? Sao cậu vội vàng thế?
- Tôi không nên quá lạm dụng lòng tốt của ngài và tiểu thư. Trông kìa, ngài có nhìn thấy đám người tứ xứ nghèo khổ xúm quanh người đàn ông dưới kia không? ông ta đang cần phu khuân vác đấy... ông ta sẽ nhận tôi. ít ra tôi cũng có cái ăn qua ngày và thêm cả thời gian suy tính nữa.
Chàng chìa tay ra nắm lấy bàn tay ngài Mur-lyton như muốn nói chàng đã sẵn sàng tiếp tục cuộc cá cược song tiểu thư Aurett vội nói xen vào:
- Cha, cha quên lời bác sĩ dặn lúc trên thuyền rồi sao? Chỉ cần làm việc gì hơi quá sức một chút, vết thương của chàng sẽ tái phát. Sẽ thật không phải, không muốn nói là vô đạo khi chúng ta bỏ mặc Lavarède như vậy.
Và nàng đã thuyết phục được cha việc Lavarède đã cứu nàng xứng đáng với tám ngày dưỡng thương nữa tại khách sạn China Pacific, một trong những khách sạn sang trọng nhất ở San Francisco, nằm trên phố Kearny.
Họ đi về phía khách sạn. Giám đốc khách sạn, ngài Tower đón tiếp họ hết sức nồng nhiệt..Sau khi đôi bên đã thỏa thuận xong các điều kiện, ngài Murlyton rút ví ra thanh toán cho ngài Tower. ông chưa kịp cất ví đi thì có một gã thanh niên tiến tới trước mặt ông và nói:
- Xin ngài hãy thận trọng với bọn trộm. Tôi thấy ngài là người mới đến đây, đừng giơ tiền ra như vậy. "Beware of the pickpockets" (cẩn thận với bọn móc túi).
Song ngài Murlyton không mấy bận tâm. Ba vị anh hùng của chúng ta còn vội lên xem phòng của họ.
Sau khi đưa các người bạn đồng hành lên phòng, chàng về phòng mình, đóng cửa lại và đi tắm. Được tắm mát, kỳ cọ sạch sẽ chàng cảm thấy khá tự tin và hài lòng khi liếc nhìn vào gương thấy gương mặt mình không đến mức tệ lắm sau biết bao biến cố xảy ra. Chàng trai Paris mở cửa sổ và ngắm nhìn khung cảnh trên phố Montgomery và phố Kearny. Người qua đường nhộn nhịp quần áo xúng xính sang trọng, lòng đường náo nhiệt, tất cả những âm thanh ấy gợi chàng nhớ tới Paris.
Bên cạnh phòng chàng là phòng của ngài Murlyton. Chàng nghe thấy có tiếng nói ồn ào và tiếng chuông kêu leng keng giận dữ. Lavarède vội sang đó xem có chuyện gì xảy ra. Ngài Mur-lyton cho mời ngài Tower lên và chìa ra cho ông ta xem chiếc ví trống trơn không còn một xu hay tờ séc nào.
Tiểu thư Aurett giải thích:
- Cha em đã bị mất cắp.
Ông giám đốc khách sạn đến và mọi người đều té ngửa ra khi nghe ông ta phân giải: tên trộm chính là gã thanh niên đã nhắc ngài Mur-lyton cẩn thận với bọn móc túi.
Người đàn ông người Anh mặt đỏ rần rần:
- Sao cơ!... Và ông đã biết là như vậy mà vẫn để nó ngang nhiên trộm tiền của tôi!...
- ông chưa biết đấy thôi, gã thanh niên đó chính là kế toán của một... hừm... nghiệp đoàn cho phép các thương nhân quyền không bị mất trộm. Chuyện đó tôi không dám bảo đảm đối với các khách hàng của tôi. Song tôi xin chắc chắn một điều các thành viên của băng đảng này sẽ không tấn công vào trong khách sạn của tôi.
Hôm nay đúng là ngày gã thanh niên này đến đây thu tiền đóng góp. Và ông đã sơ ý để hắn nhìn thấy chiếc ví. Xin các vị nên nhớ các thành viên của băng đảng này rất khéo tay, toàn là các bậc thầy lão luyện trong trò này.
Ngài Murlyton gầm lên giận dữ:
- Chuyện đó thì tôi đã biết. Nhưng cảnh sát để làm gì?
- ôi, ở đây, tại Frisco, cảnh sát hoàn toàn chịu bó tay.
Lavarède ngán ngẩm nói:.- Thật là một xứ sở kỳ lạ. ở đây bọn trộm cắp thì kết bè, kết đảng còn cảnh sát lại như đám bù nhìn.
Song hậu quả nhỡn tiền ngay sau chuyện này là ngài Murlyton không còn một đồng xu dính túi.
Lavarède nói:
- Tôi có năm xu. Số tiền ấy chỉ vừa đủ cho một mình tôi có thể đi vòng quanh thế giới song cho ba người thì chắc chắn là sẽ không được.
Vậy là lại có chuyện phiền phức đây: vì ngài và tiểu thư không thể tiếp tục đi theo giám sát, tôi sẽ đành mất thời gian chôn chân ở đây.
- Cậu nói có lý. Tôi sẽ tới phòng điện báo, đánh điện cho ngân hàng của tôi tại London gửi ngay cho tôi hai nghìn bảng.
Nói là làm. Ngài Murlyton viết ngay một bức điện. Tay nhân viên yêu cầu ông trả hai mươi sáu đô la cho giá cước chuyển bức điện. Dù đã cố thuyết phục mình vừa bị mất trộm không còn đồng nào trong ví nhưng anh ta không chịu nghe lời giải thích của ông.
Trở về khách sạn với tin xấu khi trời đã nhá nhem tối, ngài Murlyton cảm thấy rất chán nản.
Lavarède tuyên bố:
- Tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Trong thời gian bị thương, không thể tiếp tục cuộc hành trình tôi đã được ngài và tiểu thư tận tình chăm sóc, chiều chuộng, lo không thiếu một thứ gì rồi lại giúp tôi tới được San Francisco. Vậy là tôi đã nợ hai người quá nhiều. Không, xin ngài và tiểu thư đừng vội phản đối!... Vậy nên tôi xin ngài hãy cho phép tôi kiếm giúp ngài hai mươi sáu đô la để ngài có thể đánh điện, gửi về Lon-don.
Ngài không phải áy náy gì, chuyện đó cứ để tôi lo. Vả lại đó cũng chính là quyền lợi của tôi. Trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy đi thăm quan Frisco.
Không có tiền thì biết làm gì đây? Ngoại trừ việc đi dạo. Lát sau họ tới trước sở giao dịch của các thương nhân, đám người đầu cơ bu quanh đông như kiến.
Ngài Murlyton và Aurett cứ đứng ngây ra, chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra trước mắt họ.
Lavarède rút chiếc khăn mùi xoa trong túi ra vẫy vẫy rồi rải nó xuống vỉa hè, nét mặt tỏ vẻ tập trung cao độ. Thọc tay vào túi quần, chàng lấy từng đồng xu ra một, đó cũng là toàn bộ tài sản chàng hiện có và chàng xếp năm đồng xu thành một đường gấp khúc trên chiếc khăn mùi xoa.
Hành động đó của chàng đã gây chú ý đến đám người gần đó. Một, rồi hai người, rồi mười người qua đường dừng lại, vây quanh chàng thành một vòng tròn. Đến lúc này, Lavarède bắt đầu chào hàng bằng tiếng Anh với âm điệu rất chuẩn:
- Ngày xưa, các bác học được gọi là các nhà giả kim, đã tìm kiếm đá tạo vàng và cách thức.để biến một kim loại ít giá trị thành vàng. Vậy mà những gì họ tìm kiếm suốt bao nhiêu năm chẳng thu được kết quả còn tôi lại tình cờ khám phá ra. Vâng thưa các quý ngài, với tôi, đồng sẽ biến thành bạc, một cent sẽ trở thành một đô la.
Hãy cầm lấy, đây là một đồng xu của nước Pháp.
Nào mọi người hãy lại đây tham dự để khám phá bí mật kỳ diệu này. Nhưng nếu các bạn muốn có bí mật này, xin hãy cổ vũ cho người biểu diễn.
Nào, nào... hãy cho tay vào túi, hãy tận dụng cơ hội này đi!...
Tiếng rao chào hàng nghe thật mùi mẫn và lọt tai. Những đồng xu ném xuống như mưa. Ar-mand nâng niu đón nhận và tiếp tục khích lệ những người còn đang do dự:
- Nào nào các quý ngài, xin hãy vứt thêm vài cent nữa đi, chỉ vài cent nữa thôi!
Những đồng tiền xu lại tới tấp rơi xuống nền gạch kêu leng keng.
Thế rồi chàng gấp chiếc mùi xoa lại, cất năm xu và số tiền vừa thu được vào trong túi rồi tuyên bố:
- Buổi trình diễn đã kết thúc. Các vị đã thấy đấy, chỉ với năm xu, tôi đã thu được hai mươi sáu đô la. Trò các vị tham dự vừa rồi vẫn được cánh bán hàng rong ở Paris gọi là "nghệ thuật rao hàng".
Có vài tiếng làu nhàu, vài tiếng kêu bực mình khó chịu vì trò lừa bịp song Lavarède đã dùng lời ngon ngọt làm cho ngay những người rất khó tính cũng nguôi ngoai. Song một tên đầu gấu, bám dai như đỉa nằng nặc đòi chàng trả lại tiền cho gã. Lavarède liền giáng một cú đấm vào mặt gã và cả hai xông vào đánh nhau. Gã kia chịu thua, ngượng ngùng rồi tiu nghỉu bỏ đi.
Lavarède trao hai mươi sáu đô la vừa kiếm được cho ngài Murlyton.
Đứng không xa chỗ đó và đã chứng kiến toàn bộ mọi chuyện, Bouvreuil vỗ tay, tỏ vẻ rất hài lòng khi gặp lại "chàng rể tương lai" trong khu phố náo nhiệt này. Lão đã đoán trước Lavarède không phải một tay vừa và trước sau gì chàng cũng sẽ phải tới đây. Và mọi tính toán của lão quả không sai.
Tuy nhiên còn một người nữa đã để mắt đến Lavarède. Gã đàn ông người Hoa đó khoác một chiếc áo cánh rộng, đầu đội mũ chỏm hình cầu như một nho sĩ. Gã chặn ngang đường chàng. Vị "chúa trời" đã say sưa dõi theo trò biểu diễn của chàng với vẻ rất khoái trí.
Gã nói:
- Chàng trai, cậu dũng cảm lắm và cậu lại đang cần tiền.
- ông định đề nghị tôi làm một vụ gì phải không?
- Đó là một công việc nguy hiểm và được trả công rất hậu. Hẹn gặp cậu tối nay lúc mười.giờ ở góc phía Nam công viên Alta Plaza, sát với khu người Hoa. Người ta sẽ dẫn cậu tới nơi cần đến. Tại đó, cậu sẽ được biết việc mình được giao.
Nói xong, gã người Hoa đó lẩn vào đám đông và biến mất.
Trong lúc đó, Bouvreuil đang đánh điện gửi cho con gái: "San Francisco. Đã tìm thấy kẻ bỏ trốn. Tràn đầy hy vọng".
Tối hôm đó khi các chuông đồng hồ ở San Francisco điểm đúng mười giờ, Armand tới góc phía Nam công viên Alta Plaza. Một người tiến gần lại chàng song không hề gây tiếng động và mời chàng đi theo anh ta. Hai người đàn ông vội vã rảo bước hướng về phía một trong những con phố nhỏ của khu phố người Hoa. Armand bám theo sát người dẫn đường. Chàng cứ theo bóng của anh ta mà đi theo, nếu không nhanh sẽ bị lạc bởi khu phố này như một khoảng tối tù mù giữa đất Mỹ tran hòa ánh đèn điện. Cũng như ở quê hương mình, tại đây những người Hoa khá xa lạ với cuộc sống văn minh bên ngoài. Lẽ ra họ phải thắp đèn dầu chiếu sáng các con phố song họ không bao giờ làm chuyện đó dù rằng họ có đèn để trong nhà, có chăng chỉ lèo tèo vài ba chiếc đèn lồng dây cháy leo lét.
Lòng đường đất nện, bị cắt ngang chính giữa bởi các rãnh chứa nước thải hôi thối, chẳng đếm xỉa đến những phiền phức cho người đi đường, hơn thế nữa lại tạo điều kiện "thuận lợi tuyệt vời" cho họ ngã gãy cổ lúc nào không hay. Song Lavarède vẫn cẩn thận bám theo người dẫn đường. Sau hai ba lần vấp suýt ngã, cuối cùng chàng cũng đã tới phố Sacramento.
Người dẫn đường tiến gần trước một ngôi nhà. Cầm lấy chiếc búa đồng treo trên cửa, anh ta đập mạnh vào cánh cổng. Ngay sau đó, cánh cổng từ từ mở ra. Khi cả hai vừa bước vào, cánh cổng lại tự đóng lại.
Trước mắt họ lại mở ra một cánh cửa có viền bằng bộ rầm màu đỏ được tô điểm thêm những tấm lưới đen giúp họ trông thấy những bậc đầu tiên của chiếc cầu thang hẹp dẫn lên gác hai. Lên trên đó, cả hai đi qua một dãy phòng với những chiếc đèn lồng giấy thắp nến sáng lờ mờ. Trong gian pòng cuối cùng, ánh nến càng yếu hơn, có ba người đàn ông trong trang phục người Bắc Kinh đang thì thào bàn chuyện. Đó là những người đại diện của phái "Bạch Liên" giáo.
Người đàn ông Armand gặp trên phố lên tiếng đầu tiên:
- Hai nghìn đô la cũng đáng làm lắm...
"Hai nghìn đô la!" Armand thầm nghĩ. Chàng vô cùng sửng sốt vì món tiền thưởng quá lớn.
Chàng vẫn cố giữ nghiêm nét mặt hỏi:
- Vậy thì sao?.- Trong ba ngày nữa, vào lúc nửa đêm, cậu sẽ có được món tiền này sau khi làm xong việc.
Còn nếu cậu phản bội chúng tôi, cậu nên nhớ cậu sẽ bị truy đuổi đến cùng và chỉ có cái chết chờ đón cậu.
- Tôi sẽ phải làm gì?
- Buộc đá vào chân một xác chết và ném nó xuống biển.
- A!...
Tất nhiên tới đây công việc của Armand vẫn chưa hề rõ ràng, cụ thể.
- Tôi thấy cậu không phải loại dát chết. Đó cũng là lý do tại sao chúng tôi chọn cậu làm vụ này.
Armand nhẫn nại:
- Xin ông cứ nói tiếp.
- Trong khu phố này có một kẻ tên là Kin Tchang, một trong những kẻ thù của chúng tôi.
Chắc cậu cũng biết đối với người Hoa di cư tới sinh sống tại Mỹ, khi qua đời, nhất quyết xác của chúng tôi phải được đưa về Trung Quốc.
- Điều đó tôi biết. Tôi cũng nghe người ta nói các ngài có thói quen đóng quan tài cho mình khi vẫn còn sống.
- Chính xác. Và chúng tôi, những thành viên của băng đảng bí mật "Bạch Liên" đã quyết định không để thi thể của Kin Tchang, kẻ thù của chúng tôi được đưa về Trung Quốc.
- Thật quái quỷ!
- Hắn chết ngày hôm qua và ngay lập tức thi thể của hắn được đưa đến kho cảng Box Pacific.
Box Pacific là một công ty ở San Francisco chuyên chịu trách nhiệm đưa linh cữu của người Hoa trở về quê hương chôn cất.
- Và đây là việc chúng tôi trông đợi ở cậu.
Quan tài của Kin Tchang mang số 49. Cậu chỉ việc lấy nó ra, buộc đá vào cổ xác chết rồi đem vứt xuống biển. Chúng tôi sẽ cho người theo dõi mọi việc. Chỉ đơn giản vì chúng tôi không muốn đích thân dính tay vào vụ này. Xong việc, cậu sẽ có tiền.
Lavarède ngẫm nghĩ một lát rồi mỉm cười mãn nguyện.
Chàng nói:
- Xin các ngài cứ an tâm. Mọi việc tôi sẽ lo chu toàn..
Hay lui tới quán rượu Queue de BÂuf ăn trưa, gã thanh niên có cái tên Vincents, theo như những người Hoa cho Lavarède biết, là bảo vệ kho của công ty Box Pacific.
Trưa hôm sau, Lavarède bước vào trong quán, ánh mắt sáng bừng chan chứa hy vọng. Tay chủ quán nhã nhặn chỉ cho chàng chỗ Vincents đang ngồi. To con thấp, mái tóc màu hung đỏ, Vin-cents vừa ăn rất ngon lành vừa đọc báo. Gã chăm chú đọc chẳng hề để ý tới sự có mặt của chàng trai người Paris. Lavarède lặng lẽ lấy một chiếc ghế đẩu, ngồi đối diện với tay nhân viên công ty Box Pacific và bắt đầu hỏi chuyện.
Chàng hỏi:
- Có phải tôi đang vinh dự được tiếp chuyện với ngài Vincents?
Gã đàn ông khinh bỉ nhìn kẻ xen ngang vào bữa ăn của mình. Lavarède mặc kệ thái độ của gã và nói tiếp:
- Anh không quen tôi và điều đó cũng rất dễ hiểu thôi. Tôi đến từ Pháp. Tôi đang tìm một người anh họ trong thành phố này. Tên anh ấy là Vincents và anh ấy có quyền được hưởng một nửa gia tài. Anh ấy xa quê hương từ nhiều năm nay. Tôi chưa bao giờ gặp anh ấy, vậy nên tôi tới Frisco, gặp tất cả những ai có tên Vincents.
Có thể đúng anh là người tôi đang tìm.
Gã bảo vệ kho cảng làu nhàu:
- Tôi ư?
- Có thể lắm chứ. Vả chăng chúng ta sẽ biết đúng hay không ngay đây mà.
Gã đàn ông tò mò mời chàng uống rượu.
Lavarède cụng ly Vincents và nói:
- Chúc sức khỏe anh. Rất có thể anh chính là anh họ của tôi.
Sau khi nhấp một ngụm rượu, chàng nhà báo nói tiếp:
- Thưa ngài Vincents kính mến, anh cũng thừa biết cuộc điều tra của tôi hết sức tế nhị.
Như anh thấy, đó là cả một gia tài kếch xù...
Gã bảo vệ hết sức chăm chú lắng nghe.
-... và tôi phải đặt cho anh một vài câu hỏi.
Vincents gật đầu:
- Tất nhiên rồi.
- Thưa ngài Vincents, ngài có biết nơi sinh của mình là ở đâu không?
- Hỏi đúng lắm! Tôi sinh ra và sống đến tận năm hai mươi tuổi ở Ladbroke Hill, cách Dublon sáu dặm, thuộc Ailen..Chàng trai Paris giả vờ tỏ vẻ ngạc nhiên mừng rỡ.
Vincents rụt rè hỏi:
- Anh còn hỏi tiếp chứ?
- Đương nhiên. Anh là con trai của...?
- Của ông Joseph-William Vincents, người Ladbroke và bà Marie-Paulina Crooks, người Noxleburg.
- Rất tốt.
Gã nhân viên công ty Box Pacific nói không ra hơi:
- Rất tốt ư? Vậy tôi là anh họ của cậu?
- Gần như là vậy.
- Tại sao lại gần như là vậy?
- Vâng, còn một điểm nữa tôi cần làm sáng tỏ.
- Cậu nói nhanh đi.
- Anh có nhớ một người bà con sống ở Dub-lin không? Bà ta giàu có nhưng rất keo kiệt và không bao giờ tới thăm bố mẹ anh.
Vincents tỏ vẻ suy ngẫm. Cuối cùng anh ta cố lấy hết sức, run run trả lời vì sợ rằng giấc mộng vàng của mình sẽ tan biến khi nói:
- Không. Nhưng điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cha tôi mất khi tôi 12 tuổi, ít lâu sau mẹ tôi cũng theo ông ấy ra đi.
- Anh hãy cố nhớ thử xem... Cô Margaret...
Vincents mừng rỡ reo lên:
- Margaret! Tôi có nghe tới cái tên này.
Lavarède thầm nghĩ: "Tất nhiên, cái tên này khá phổ biến ở Ailen!".
Nét mặt hết sức nghiêm trang, chàng chìa tay về phía tay bảo vệ công ty Box Pacific và nói:
- Anh họ!
Chàng chưa kịp dứt lời thì Vincents đã nhắc lại:
- Anh họ của em đây!
- Giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Anh chính là anh họ của em. Anh nghe này. Cô Margaret đã qua đời và đã để lại tám nghìn bảng Anh, hai trăm nghìn franc chia đều cho em và anh. Chắc là cô ấy muốn sửa chữa những lỗi lầm của mình đối với gia đình của chúng ta.
Chàng cũng kể rằng vì cũng hơi kẹt tiền nên chàng đã quyết định sẽ đích thân đi tìm anh họ.
Gã bảo vệ đáng thương cứ ngồi nghe, miệng há hốc.
Lavarède:
- Mấy giờ anh phải quay lại chỗ làm?
- Hai giờ.
- Bây giờ là hai giờ kém năm.
- Giờ điều ấy quan trọng gì? Anh muốn xin thôi việc.
Armand giật nảy người lên. Chàng kêu lên:
- ôi không, không được đâu!
- Tại sao lại "không được đâu"?Tất nhiên chàng không thể trả lời ngay anh ta rằng: "Bởi vì em cần anh để có thể đột nhập vào kho của công ty Box Pacific".
Chàng lựa lời nói:
- Bởi vì... làm các thủ tục thừa kế mất rất nhiều thời gian. Nếu anh xin thôi việc ngày hôm nay, anh rất có nguy cơ phải đứng vỉa hè chìa tay xin việc dài dài.
- Cậu nói đúng nhưng cũng thật đáng tiếc vì tôi muốn tránh một công việc rất cực nhọc phải làm vào ngày mai.
Chàng trai Paris ngây thơ hỏi:
- Việc gì vậy?
- Trực đêm canh cho "những người da vàng ngủ" hay nói trắng ra là canh xác chết của bọn người Hoa.
Lavarède tỏ vẻ ngỡ ngàng và ngồi chăm chú nghe Vincents giảng giải về hoạt động của Box Pacific.
Khi Vincents vừa dứt lời, chàng khẽ nói:
- Hừ! Cảm giác qua đêm giữa một đống quan tài chắc phải lạ lắm.
- Ghê ghê, khó chịu lắm.
- Cũng được đấy chứ, ít ra ta cũng có cảm giác đó như một cuộc phiêu lưu. Nếu có thể, em muốn thử xem sao...
Vincents khoái trá reo lên:
- Chuyện đó có khó gì. Thích thì tôi cho cậu thử...
- Vâng, em muốn lắm.
Kế hoạch diễn ra thật suôn sẻ. Gã Vincents cả tin mời Lavarède qua đêm trong các kho của Box Pacific.
Lavarède dặn:
- Và tối nay em sẽ mang đến một chai rượu ngon. Hai anh em mình nhậu một bữa gọi là mừng ngày hội ngộ.
Vincents gật đầu đồng ý. Gã cảm thấy sướng phát điên vì tự nhiên lại gặp được quý nhân. Buổi gặp gỡ này chẳng những hứa hẹn đem lại cho gã một phần gia tài không nhỏ, mà hơn thế nữa trong buổi trực ghê sợ tối nay lại được uống rượu say túy lúy cùng ông bạn nhậu. Hai kẻ đồng lõa hẹn gặp lại nhau tối nay tại kho công ty.
Trở về khách sạn, Lavarède tới gặp ngài Mur-lyton và tiểu thư Aurett, họ đang sửa soạn, chuẩn bị đi dạo.
Chàng khuyên:
- Ngài và tiểu thư hãy tận dụng cơ hội này để tiếp tục cuộc hành trình trên con tàu Heavenway.
- Vậy là chúng ta sẽ ra đi ngay?
ánh mắt ngời sáng, chàng nói:
- Cả hai vẫn không tin những gì tôi vừa nói sao?
Không cần giải thích dài dòng, hai cha con người Anh cũng tự biết khi nào là đúng thời điểm cần ra đi. Sau đó, chàng đi chuẩn bị các.thứ cho buổi tối: một chai rượu hảo hạng như đã hứa cùng một số đồ nhắm. Tất nhiên chàng chẳng việc gì phải tiêu năm xu để trả cho số đồ ăn đó vì lý do cả ba rời khách sạn sớm hơn dự kiến, tiền ăn đã được thanh toán trước nên khi Lavarède đặt vấn đề này, ngài Murlyton đã dặn tay đầu bếp đưa cho chàng nhà báo khẩu phần các bữa ăn họ không dùng đến.
Chẳng mấy chốc đã đến giờ hẹn. Vincents đón Lavarède trước cổng công ty vận tải tang lễ.
Dường như anh ta đã hơi quá chén vì quá mừng khi sẽ được chia gia tài. Họ đi qua một dãy văn phòng và tới đại sảnh chứa người chết.
Bốn bức tường trơ trụi tạo thành một chiếc hộp hình chữ nhật, có mái lợp kính. Có khoảng năm mươi quan tài để trên các giá, được xếp dọc theo chân tường. Bên trên mỗi quan tài đều gắn một tấm biển đánh số thứ tự.
Một lát sau, cả hai đã ngồi kề bên nhau và bắt đầu (nhất là Vincents) nâng lên đặt xuống.
Rượu có sức hút đặc biệt đối với Vincents.
Không bao lâu dù không muốn, mắt anh ta bắt đầu díp lại, ngồi lắc lư trên chiếc ghế đẩu và suýt nữa thì bị ngã ngửa nếu như Armand không kịp đỡ lấy anh ta và đặt xuống đất.
Chàng nói:
- Còn bây giờ ta sẽ vào việc.
Chàng thu luôn số đồ nghề để trên một chiếc bàn dùng khi có sự cố hỏng hóc cần sửa chữa.
Sau đó, chàng đi một vòng quanh các quan tài và dừng lại trước cái quan tài mang số 49. Chàng bỗng có cảm giác hơi ghê ghê.
Trước mặt chàng là chiếc quan tài bằng gỗ sến có đánh véc ni được đóng rất tỉ mỉ, trong đó có xác của Kin Tchang. Chiếc quan tài đó, nói đúng hơn là một chiếc thùng, có thể được coi là nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho người quá cố.
Chiếc quan tài được đóng khá to cho thấy nó được dành riêng cho những người Hoa giàu có.
ở đó, người chết đã ngủ giấc ngàn thu. Chiếc quan tài này cũng như người bảo vệ, giúp người quá cố trở về quê hương sau bao tháng ngày sống lưu vong trên đất khách. Với ý nghĩ mình đã trà đạp, tước đi mong ước cuối cùng của người quá cố một cách vô lý, chàng trai thấy tim đập nhanh hơn và mồ hôi hai bên thái dương nhỏ xuống lạnh toát.
Chàng lưỡng lự định bỏ cuộc, chạy trốn vì không muốn trở thành kẻ làm uế tạp một chốn u tịnh như nơi đây song chàng đã kịp trấn tĩnh và bắt tay vào việc. Tất cả cũng chỉ vì chàng muốn có thể tiếp tục chuyến đi vòng quanh thế giới mà không phải tiêu tốn một đồng nào.
Lavarède nhanh chóng tháo các đinh đóng ở nắp quan tài ra và từ từ nhấc nó lên. Bên trong quan tài có chần một lớp vải satin màu xanh da trời, thêu chỉ vàng. Người chết hiện ra với hai mắt mở trừng trừng như thể đang ngắm nhìn phong.cảnh đâu đó ở thế giới bên kia. Vượt lên nỗi sợ hãi và ghê tởm, chàng nhà báo túm vào giữa thân Kin Tchang và cố hết sức lôi cái xác ra khỏi quan tài. Chàng cảm thấy người run run, sởn hết cả da gà khi phải vác cái xác đó đi về phía bến cảng.
Chàng đưa mắt nhìn quanh. Lão người Hoa giao việc cho Lavarède đã đứng trước mặt chàng từ lúc nào. Thì ra lão đã bám theo và chứng kiến mọi việc chàng làm từ đầu đến cuối. Lão cúi xuống sát mặt người chết.
- Đúng là lão ta. Vậy là phái "Bạch Liên" đã được trả thù.
Lão đưa cho Lavarède một khối trụ bằng gang đã được giấu sẵn đâu đó quanh đây. Chàng nhà báo buộc nó vào thắt lưng người quá cố rồi đẩy cái xác đó xuống nước.
Nghe có tiếng ủm và nước bắn lên tung tóe, mặt nước tạo nên những vòng tròn đồng tâm rồi lại trở lại yên ả như một tấm gương trong trẻo xóa đi một dấu vết của "lễ đưa tang". Lão già người Hoa chìa gói tiền về phía Lavarède.
- Đây là hai nghìn đô la. Vĩnh biệt anh bạn.
Chúa sẽ phù hộ cho anh.
Rồi lão nhanh chóng bỏ đi. Khi bóng lão người Hoa chìm hẳn trong bóng đêm dày đặc, Lavarède quay lại đại sảnh. Chàng không cảm thấy run nữa. Chàng dùng chiếc khoan đục vài lỗ trên thành quan tài với dự định từ đây sẽ sống ở trong đó. Sau đó chàng để các dụng cụ về chỗ cũ. Tay bảo vệ vẫn kéo bễ đều đều. Chàng trai Paris nhìn anh ta mỉm cười rồi cho số tiền lão người Hoa vừa đưa vào một chiếc phong bì dán kín lại và để vào một chỗ rất dễ nhìn thấy. Tiếp đó, chàng vơ toàn bộ số đồ ăn và chui vào nằm trong quan tài. Từ giờ trở đi cho tới khi tàu cập bến Trung Quốc, Lavarède sẽ thế chỗ người chết.
Sáng hôm sau Vincents tỉnh dậy, đầu nặng trịch và ngạc nhiên khi thấy chỉ có mỗi một mình, song anh ta đã nhanh chóng phát hiện ra bức thư của chàng người Pháp. Anh ta mở phong bì ra và run bắn người khi chạm vào các tờ đô la.
"Anh họ yêu quý của em, Anh hãy coi đây là số tài sản được chia mà em đã nói với anh. Em tự nguyện từ giã cuộc sống này, song đôi khi con người ta cũng có thể trở lại từ thế giới bên kia. Nếu chuyện đó xảy ra, em sẽ báo tin ngay cho anh.
Anh hãy tin rằng khi đi vào cõi vĩnh hằng, em mang theo hình ảnh của anh như một kỷ niệm thân thương nhất".
Gã bảo vệ giụi giụi mắt, đọc lại lá thư kỳ lạ, hai tay ôm đầu và kết luận:
- Đúng là một thằng điên, nhưng là một thằng điên hào phóng. Tận hai nghìn đô, thế là quá đã!....Lavarède không thể giữ lại cho mình hai nghìn đô la đó vì như vậy là không tôn trọng quy định của chúc thư...
Ngày hôm sau, Bouvreuil tiếp hai gã choai choai, mà lão đã trả tiền để bọn chúng cung cấp thông tin, trong phòng của lão.
Lão ta rít lên:
- Vậy là chúng mày nói đêm hôm qua nó không về khách sạn?
- Không, thưa ông. Tay khách du lịch phòng 13 đã đi ngủ lang đâu đó.
- Đi ngủ lang! Thế còn những đứa khác?
- Bọn chúng đều đóng cửa im ỉm trong phòng.
- Đóng cửa im ỉm trong phòng.
Bouvreuil nhảy dựng lên.
- Miễn là bọn chúng không lợi dụng bóng tối để chuồn khỏi khách sạn! Nếu thằng quỷ đó biến mất, thể nào hai cha con lão già kia cũng tìm cách liên hệ với nó. Tao không thể để bọn khốn đó chạy thoát.
Lão nhặt nhạnh một số đồ đạc cho vào trong vali và tới rình tại cửa phòng của hai cha con người Anh. Song ngài Murlyton và cô con gái vẫn còn đang ngủ. Bouvreuil tìm chỗ nấp và đợi chuyện gì đó xảy đến. Khi lão cảm thấy không thể kiên nhẫn chờ thêm được nữa thì tiểu thư Aurett khoác tay cha từ trong phòng bước ra. Cả hai chậm rãi đi xuống phố như thể đang đi dạo.
Tất nhiên Bouvreuil sẽ không mấy nghi ngờ nếu không có sự vắng mặt khó hiểu của Lavarède.
Song trong trường hợp này... Tay xách vali, lão vội bám theo hai cha con người Anh.
Họ không ngờ rằng có một lão già chuyên cho vay nặng lãi lại đang ở ngay phía sau họ.
Dọc đường, ngài Murlyton và con gái mua sắm một số đồ dùng thiết yếu cho chuyến đi sắp tới.
Bouvreuil hí hửng ra mặt khi lão thấy họ cầm một chiếc vali và để vào đó quần áo và các đồ vệ sinh cá nhân. Chắc chắn cả hai đang sửa soạn hành lý chuẩn bị xuất hành và Bouvreuil thầm tự khen vào phán đoán hết sức sáng suốt của mình.
- ôi! - Tiểu thư Aurett khẽ kêu lên khi nàng dừng lại trước một cái tủ kính. Nàng đã trông thấy qua tấm gương phản chiếu bóng kẻ thù của cha con nàng và Lavarède. Tay lão ta xách vali và cũng sẵn sàng xuất hành.
- ôi, cha ơi, chúng ta đang bị lão Bouvreuil theo dõi. Chúng ta phải nhanh chóng cắt đuôi lão ta để lão không thể bám theo làm hại Lavarède.
Hai cha con người Anh nhảy lên một chiếc xe ngựa và hứa với người đánh xe sẽ thưởng cho anh ta một món tiền hậu hĩ nếu anh ta cho xe phi thật nhanh..Bouvreuil cũng nhảy ngay lên một chiếc xe ngựa gần đó và bảo người đánh xe đuổi theo họ song không kịp. Tới một góc phố, do đường bị tắc xe ngựa của lão bị kẹt lại, đến khi thoát ra được thì chẳng thấy bóng dáng chiếc xe ngựa chở ngài Murlyton và Aurett đâu. Lão chỉ còn một cơ hội duy nhất tìm thấy kẻ trốn chạy: Tra bảng giờ tàu để biết tàu nào sẽ nhổ neo trong ngày.
Chỉ có duy nhất tàu Heavenway sẽ nhổ neo ngày hôm nay. Quái lạ! Một chiếc tàu đưa những người Hoa quá cố hồi hương!
Trong khi đó, đứng trước mũi tàu đang chuẩn bị nhổ neo, cô gái người Anh đứng ngồi không yên. Nàng đưa mắt lùng sục trong đám đông láo nháo trên bến cảng chỉ sợ trông thấy Bouvreuil trong đám người tản bộ.
Tất cả hàng hóa đã được chất lên chiếc tàu có trọng tải hai nghìn tấn. Hàng hóa được để dưới hầm tàu còn bên trên là để dành chỗ cho các xác chết người Hoa và rất nhiều hành khách khác nữa.
Thuyền trưởng hỏi tay trợ tá:
- Mọi cái xong xuôi cả chưa?
- Dạ xong hết cả rồi, thưa thuyền trưởng.
Tàu chuẩn bị rời bến thì có một người đàn ông tay cầm vali, hớt hải lao tới và lo lắng hỏi:
- Có còn chỗ cho hành khách không?
Nét mặt ngài Murlyton và cô con gái thoáng cau lại khó chịu. Gã đàn ông đó chính là Bou-vreuil.
Thuyền trưởng dành cho lão một buồng trên tàu song đến Honolulu lão sẽ phải trả buồng cho những hành khách đã đặt chỗ trước lên tàu tại đó.
Bouvreuil hí hửng nói:
- Tôi đồng ý.
Biết làm gì đây, không lẽ cứ để lão ta chọc gậy bánh xe mãi sao?
Ngài Mathew, thuyền trưởng đưa một chiếc còi to lên môi, thổi một hồi dài đinh tai. Con tàu bắt đầu giục dịch khởi động. Các pittông dịch chuyển trong xi lanh. Các ống khói bắt đầu nhả khói. Dưới sức đẩy của chân vịt xoay tít, tạo thành một khoảng nước xoáy tung bọt trắng xóa tàu Heavenway hùng dũng từ từ rời bến cảng.
Những ngày đầu tiên của chuyến đi diễn ra khá êm ả. Tiểu thư Aurett và cha nàng quyết định không giao thiệp với các hành khách khác trên tàu và họ chỉ nói dăm ba câu với thuyền trưởng Mathew và tay phó thuyền, ngài Graigton.
Bouvreuil cũng tìm cách bắt chuyện với hai cha con người Anh, song lão vừa mở miệng, cô gái đã cau mặt khó chịu và trả lời cụt lủn làm lão không dám hỏi han gì thêm.
Song Bouvreuil vẫn chắc mẩm một điều: Gia đình nhà Murlyton đã ở trên thuyền thì Lavarède.chắc chắn chỉ luẩn quẩn quanh đây. Chỉ có điều cái thằng nhà báo quái quỷ đó trốn kỹ quá nên lão tìm mãi không ra.
Song một đêm, Bouvreuil giật mình tỉnh giấc vì nghe có tiếng động phát ra dưới sàn tàu. Lão ngồi bật dậy, vểnh tai lên nghe ngóng. Lát sau lại thấy im ắng, lão trùm chăn kín đầu, miệng lẩm bẩm chắc mình gặp ác mộng bởi bên dưới buồng lão là khoang để quan tài, làm gì có ai...
Nhưng quả đúng là có tiếng động phát ra ở bên dưới hầm để người chết. Phải giam mình trong chiếc quan tài chật trội, không nói chúng ta cũng biết Lavarède cảm thấy vô cùng buồn chán. Vì chẳng ai mò tới khoang tàu này nên chàng có thể chui ra ngoài, thư giãn gân cốt cho đỡ mỏi và đỡ tê cóng.
Những ngày đầu tiên đều diễn ra rất thuận buồm xuôi gió. Song vào một buổi sáng, Armand lo lắng nhận ra rằng lương thực của mình đã cạn kiệt. Một chút sôcôla và một mẩu bánh mì, đó là tất cả số lương thực chàng còn lại cho chuyến đi dài ba mươi hai ngày này. Cuối cùng, chàng quyết định đợi khi đêm xuống sẽ lẻn vào bếp trên tàu kiếm đồ ăn.
Ngày hôm đó sao thật dài, đêm mãi chưa xuống song chàng không thể hấp tấp vội vàng bởi dù chỉ một sơ suất nhỏ cũng sẽ mất tất cả.
Nhưng chỉ có thể rời chỗ nấp khi tất cả mọi người trên tàu đã ngủ hết, ngoại trừ một số thủy thủ phải trực đêm.
Thời điểm chàng nhọc công mong mỏi cuối cùng đã đến. Armand rời khoang tàu dành cho những người "hồi hương", lần theo dọc các hành lang và tới bếp. Chàng vội vã để cả bánh quy, bơ, bình rượu vang vào trong một mảnh vải. Gói ghém xong xuôi, chàng lại lần đường quay về khoang tàu của mình. Đột nhiên chàng đụng phải một tay thủy thủ trong hành lang. Phải hành động gấp. Sau khi ngáng cho tay thủy thủ ngã nhào, chàng vội chạy trốn. Gã ta lồm cồm bò dậy và rượt đuổi theo chàng. Lavarède gắng hết sức lao tới cửa khoang để người chết, nhảy tọt vào trong quan tài của mình và đóng đánh rầm nắp quan tài lại. Tay thủy thủ đứng khựng lại.
Gã đã kịp nhận ra chỗ phía trước mặt mình là đâu. Tiếng động khó hiểu trong đó làm gã bủn rủn hết cả người.
Tay thủy thủ kinh hãi trèo ngay lên boong tàu: gã đem chuyện kể lại với đám bạn bè và quả quyết rằng trên tàu có ma...
Sáng hôm sau, tin trên tàu có ma lan nhanh trong đám thủy thủ. Tất cả bọn họ đều bán tín bán nghi. Lão Bouvreuil cũng công nhận đã nghe thấy tiếng động hãi hùng đó. Viên thuyền trưởng cố gắng làm yên lòng họ song tay thủy thủ vẫn khăng khăng bảo rằng: Hồn ma đó lách vào trong.khoang chứa xác chết người Hoa và tan biến đi như một đám sương mù.
Để trấn tĩnh đám thủy thủ và hành khách, viên thuyền trưởng quyết định cho người canh gác khoang tàu này.
ý tưởng đó rất tuyệt vời song không ai trong đám thủy thủ muốn xuống đó làm việc này cả.
Dù tay thuyền trưởng dùng đủ mọi cách: ra lệnh, đe dọa song bọn họ vẫn chối đây đẩy vì sợ ma ám. Đúng lúc đó có một giọng phụ nữ cất lên.
Tiểu thư Aurett nói:
- Tôi khẳng định rằng tàu không có ma. Cứ để đấy, chính tôi sẽ đảm đương việc gác khoang tàu để linh cữu người chết này. Rồi mọi người sẽ thấy chẳng có gì là nguy hiểm cả.
Viên thuyền trưởng muốn từ chối song với sự đồng tình của cha, tiểu thư Aurett cương quyết đảm nhận nhiệm vụ nguy hiểm đó. Với nụ cười dịu dàng, hai má ửng hồng duyên dáng, nàng tuyên bố với mọi người đứng xung quanh rằng nàng sẽ ở lại qua đêm giữa các quan tài. Tất cả rì rầm tán dương lòng quả cảm của nàng, kể cả Bouvreuil cũng vậy. Song sau đó lão lùi ra xa, miệng lẩm bẩm:
- Tao hiểu cả rồi. Đó lại là cái trò mèo nó đã dùng để đi từ Paris tới Bordeaux đây. Tao tin cuối cùng tao cũng túm được mày...
Lavarède vươn vai, ưỡn ngực, lưng chàng đau mỏi vì phải nằm quá lâu trong chiếc hòm của Kin Tchang. Chàng không dám rời chỗ ẩn nấp. Có tiếng bước chân đi đi lại lại của đám thủy thủ, chàng nghi ngờ có thể do chuyện lộn xộn hôm trước nên thuyền trưởng đã ra lệnh giữ gìn an ninh nghiêm ngặt hơn. Lavarède đành án binh bất động. Song dù đã được nhồi đệm, chiếc quan tài vẫn là một chỗ ở bất tiện cho một chuyến đi dài ngày. Lựa lúc yên ắng, chàng chui ra, làm vài động tác thể dục cho giãn xương cốt giữa một đống quan tài.
Ngoài hành lang có tiếng bước chân và dừng lại tại cửa khoang để xác người quá cố. Có tiếng chìa khóa tra vào ổ, chàng trai trẻ chỉ kịp cúi thụp xuống nấp sau một chiếc quan tài.
- Có người đến kiểm tra! Thôi thế là mình toi đời.
Chàng ló mặt ra khỏi chỗ nấp. Bỗng một giọng dịu dàng cất lên:.- Cám ơn ngài thuyền trưởng, số nến và quyển sách này cũng đủ cho tôi thắp sáng và thư giãn cho đến sáng mai. Tôi không tin vào những chuyện ma quỷ. Sẽ không có gì bất thường xảy ra đâu và tôi chắc mình sẽ thắng trong cuộc cá cược này.
- Tuy vậy, tôi vẫn cử một thủy thủ gác ngoài hành lang, thưa tiểu thư...
- ôi không, không cần đâu. Tôi sẽ không gặp phải bất kỳ nguy hiểm nào, tôi xin bảo đảm với ngài là như vậy. Cám ơn ngài, còn giờ xin chào ngài.
Cửa đóng lại. Lavarède dướn mắt nhìn lên và nhận ra tiểu thư Aurett. Đợi cho tay thủy thủ và viên thuyền trưởng đi xa, tiếng bước chân im hẳn, nàng rón rén tiến lại gần các quan tài và tìm chiếc có gắn tấm biển bằng đồng đánh số 49.
Khá bất ngờ khi thấy nàng một mình giữa chốn tang tóc này, chủ nhân của chiếc quan tài số 49 thì thào:
- Tiểu thư, tiểu thư đừng sợ, chiếc quan tài số 49 ở đây này.
Aurett giật bắn người.
- Có phải ngài không, ngài Lavarède?
- Chính tôi đây. Cơn gió tốt lành nào đã đưa nàng tới thăm tôi thế này?
Nghe chàng hỏi, cô gái nhoẻn miệng cười.
Gặp lại người bạn tốt, nàng vui vẻ thuật lại câu chuyện về bóng ma. Nàng trở nên nghiêm túc hơn khi bày tỏ những lo lắng của mình và cách thức mang lương thực đến cho chàng.
Cuối cùng nàng tuyên bố:
- Như thế này, tôi sẽ cảm thấy yên tâm hơn.
Người ta sẽ không canh gác chỗ này nữa và tôi sẽ có thể tiếp lương cho anh.
Lavarède vô cùng cảm kích và buổi gặp mặt này thật thú vị. Tuy nhiên, tiểu thư Aurett cũng hết sức giữ ý: một cô gái có giáo dục không thể suồng sã quá mức với một người đàn ông trẻ.
Hơn nữa, theo quy định một cô gái sẽ không bao giờ được trò chuyện với một người đàn ông trẻ nếu như không có một "nhân chứng" đạo đức, là một phụ nữ ngồi nghe cùng. Về phần Lavarède, chàng vô cùng trân trọng những gì Aurett dành cho mình. Tình cảm chàng dành cho nàng chỉ trực trào dâng song chàng cố kìm nén tránh mọi lời nói hay cử chỉ làm cho Aurett khó xử. Chàng giữ một thái độ bạn bè đúng mực, dịu dàng, trìu mến làm tiểu thư Aurett cho rằng chàng cư xử với nàng như một cô em gái đáng yêu.
Họ thảo luận khá lâu mọi cách thức trở về châu Âu sau khi đã đặt chân tới Trung Quốc.
Lavarède dự định tới Shangai và xin vào làm thủy thủ để có thể quay lại châu Âu.
Tiểu thư Aurett dần dần bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Lavarède nhận ra điều đó và dịu dàng nói với nàng:.- Ngủ đi, ngủ đi, cô em gái bé bỏng.
Nàng tin tưởng, mỉm cười với chàng và thiếp đi trong sự bảo vệ của bạn mình. Buổi sáng, nàng bị đánh thức bởi giọng nói của cha nàng. Bên ngoài, ngài Murlyton đang đập cửa khá mạnh.
Nàng đưa mắt nhìn tin chắc Armand đã trốn kỹ và bình tĩnh ra mở cửa.
Nàng hỏi ngài Murlyton và viên phó thuyền đi cùng:
- Mấy giờ rồi thưa cha?
- Sáu giờ. Trời đã sáng lắm rồi và cha bắt đầu cảm thấy lo lo.
- Thế á, con ngủ lâu vậy sao?
Ngài Craigton thốt lên kinh ngạc:
- Tiểu thư, tiểu thư đã ngủ ư? Ghê thật!
Nàng nói, nét mặt nghịch ngợm:
- Vâng, tất nhiên rồi. Tôi còn mơ thấy bóng ma đó đến canh cho tôi ngủ và gọi tôi là "em gái bé bỏng" nữa.
Cũng kể từ bữa đó, nhờ vào tấm lòng hiền hậu, dịu dàng cũng như sự dũng cảm của mình, tiểu thư Aurett được mọi người trên tàu hết sức quý mến. Nhờ đó nàng có thể dễ dàng đến gặp Lavarède và tiếp đồ ăn cho chàng bởi sẽ chẳng có ai lui tới khoang để người chết này nữa. Song cũng kể từ đó, nàng luôn bị ngài Murlyton kiểm soát chặt chẽ bởi gia đình ông là một gia đình nề nếp, gia giáo và ông cũng từng được dạy rằng một cô gái con nhà có giáo dục sẽ không gặp một người đàn ông trẻ mà không có người đi kèm.
Tàu Heavenway cứ lặng lẽ lao đi trong im lìm, có nét phảng phất như một chiếc tàu ma, như huyền thoại của những người đi biển, trôi vật vờ giữa hoang mạc đại dương, với thủy thủ đoàn là những hồn ma điều khiển nó.
Lavarède không phải là người duy nhất trên tàu cảm thấy buồn chán. Tiểu thư Aurett cũng chỉ ngong ngóng cả ngày để buổi tối được gặp chàng. Các hành khách cũng như thủy thủ đoàn thấy thời gian trôi qua thật chậm chạp.
Tuy nhiên, một hôm có một trò khá vui mắt diễn ra: có một đàn cá mập bơi quanh tàu. Người ta đánh được một con dài bảy mét. Sau khi lôi được nó lên tàu, người tiến hành phanh bụng nó ra. Loài cá này quả là kỳ lạ, nó nuốt vào trong bụng đủ mọi thứ, đôi khi cả những thứ rất kỳ lạ.
Trong bụng con cá này, người ta thấy xương và nhiều thứ linh tinh khác trong đó có một ống kim loại đậy kín, mở ra thấy một văn bản, bên trong.
Ngài Murlyton thấy văn bản đó được viết bằng tiếng Trung. Qua vài dấu hiệu, ông kết luận đó có thể là chứng chỉ của một đảng phái bí mật nào đó.
Tiểu thư Aurett ướm hỏi liệu nàng có thể giữ lại văn bản đó để cho vào bộ sưu tập đồ lưu niệm của chuyến du lịch không. Viên thuyền trưởng Mathew đồng ý ngay. Thực lòng, ông ta.chẳng có cớ gì để từ chối một lời thỉnh cầu dễ thương như vậy.
Tám giờ sau, các hành khách hân hoan khi được thông báo rằng tàu sắp cập bến. Mọi người trên tàu nhìn thấy bến cảng Honolulu, bến cảng tuyệt vời nhất ở các đảo Sandwich hay Hawai.
Có năm người đàn ông Trung Quốc lên tàu ở Honolulu. Họ đã đặt trước chỗ của mình từ San Francisco. Vì vậy, như đã thỏa thuận ban đầu khi mới lên thuyền, Bouvreuil buộc phải trả lại buồng và tới ở chung với thủy thủ đoàn.
Chuyến đi lại tiếp tục, đều đều buồn tẻ. Tiểu thư đưa cho Lavarède xem tờ văn bản lấy được trong bụng con cá mập. Chàng nhà báo cố gắng tìm cách giải mã nó.
Tối tối, tiểu thư Aurett lại nói với cha nàng:
- Cha có muốn cùng con xuống khoang để quan tài không?
Cha nàng gật đầu đồng ý và cả hai cha con cùng xuống dưới đó. Họ trò chuyện thân mật cùng với Armand trong một, hai giờ.
Tối hôm đó, khi tiểu thư Aurett đang say sưa kể về buổi hoàng hôn kỳ lạ trên biển mà nàng và cha nàng được chứng kiến thì đột nhiên họ nghe thấy tiếng động nhẹ. Tiếng động đó phát ra từ hành lang của khoang để người chết và mỗi lúc nghe càng rõ hơn. Cả ba thận trọng vội nấp vào sau các quan tài. Cửa từ từ hé mở. Tiểu thư Aurett suýt nữa thì buột miệng hét lên. Đó chính là năm khách hàng người Hoa mới lên tàu ở Honolulu!
Năm gã đàn ông đó bắt đầu thì thầm to nhỏ.
Thật may, bọn họ đều đến từ các vùng khác nhau, không thể nói chung cùng một thổ ngữ và dễ hiểu nhau hơn, họ đã chọn tiếng Pháp, "ngôn ngữ của các nhà truyền giáo". Tất cả đều nói tiếng Pháp khá tốt nên những người bạn của chúng ta có thể nắm được nội dung cuộc trò chuyện. Đầu tiên là việc kích động một cuộc nổi dậy chống lại người ngoại quốc đến từ châu Âu và chống lại người Mandchous, những kẻ xâm lược đang cai trị trên đất nước Trung Hoa. Song sau đó là chuyện gì đó có liên quan trực tiếp đến Lavarède.
Ba gã người Hoa đi ra. Tên cầm đầu nói với tên đi ra cuối cùng:
- Sau trạm dừng chân nghỉ tại Nagasaki, Nhật Bản, phải vứt chiếc quan tài mang số 49 xuống biển. Cách đây mười lăm ngày, ủy ban San Francisco báo cho tao rằng có một kẻ phản bội, bị tòa án kín xử tội không bao giờ được yên nghỉ trên đất Trung Hoa đã tìm được cách tránh được bản án và đã rời Mỹ. Tao nghĩ vụ này đã được thu xếp ổn thỏa ở San Francisco song tao vẫn chưa nhận được thông tin khẳng định nào chính thức cả. Chiếc quan tài đó vẫn còn ở trên tàu và tao sẽ phải thi hành án..Hắn dừng lại trước quan tài của Lavarède và nói tiếp:
- Nó đây, đêm ngày kia, bọn ta sẽ vứt nó xuống nước tại vịnh Petchi-Li.
Cánh cửa từ từ khép lại, những kẻ mưu phản biến mất, còn ba người chứng kiến cảnh lạ lùng vừa rồi cứ nghĩ mình đã mơ ngủ, song thực tế vẫn là những rắc rối họ sẽ gặp phải trong hai bữa nữa. Tiểu thư Aurett thực sự cảm thấy bị sốc song thái độ của Lavarède chẳng mấy lo lắng.
Tiểu thư Aurett hỏi:
- Nếu bọn chúng quẳng quan tài của ngài xuống nước ngài biết xoay xở như thế nào đây?
Lavarède bình tĩnh nói:
- Tôi có sáng kiến. Chúng ta chỉ việc đánh tráo biển số quan tài của tôi bằng biển số 48 của quan tài này chẳng hạn. Như vậy quan tài của tôi vẫn được bình yên vô sự...
Chỉ vài giây sau, việc đánh tráo đã được tiến hành.
Ngày mồng 5 tháng chín, tàu Heavenway vượt qua mũi biển Long và tiến vào cảng Na-gasaki và tạm dừng chân tại đó. Tiểu thư Aurett vô cùng thích thú cùng cha đi thăm quan thành phố này của Nhật Bản.
Buổi tối, nàng đem chuyện cuộc dạo chơi kể say sưa cho Lavarède nghe đến mức chàng phải nhắc đã đến lúc tiểu thư Aurett phải quay về buồng của nàng. Về tới phòng, hai mắt nàng díp lại. Nàng nằm lăn ra giường và ngủ mê mệt. Khi nàng mở mắt, tàu Heavenway đã rời Nagasaki và đang rẽ sóng ra khơi.
Cô gái trải qua một ngày thật rầu rĩ trên tàu.
ý nghĩ khi đêm xuống, chỉ vì bọn mưu phản người Hoa mà nàng phải giam mình trong buồng không được xuống gặp Lavarède làm nàng cảm thấy vô cùng phiền muộn. Chưa bao giờ nàng lại thấy con tàu này xấu đến vậy, đại dương lại vô vị đến vậy. Bầu trời xanh trong làm nàng thấy khó chịu.
Tối đến, Aurett tỏ ra vui vẻ đáng yêu hơn.
Mọi ưu tư phiền muộn dường như tan biến cùng với ánh nắng mặt trời. Nàng ở lại khá lâu trên boong tàu, dịu dàng nằm trên chiếc ghế xích đu.
Khoảng mười một giờ, nàng kêu mệt, hôn chào cha và lui về phòng của mình không nhắc một lời nào tới tên chàng nhà báo. Ngay sau đó ngài Murlyton cũng quay trở về phòng, vui mừng vì tàu đã tránh được trận gió lốc được tính theo dự báo. Song giá mà ông ta biết được rằng...
Aurett đã quyết định theo dõi hai gã Trung Quốc hành sự. Khi tất cả mọi người đã yên giấc, nàng đi lần theo dọc hành lang tối om.
Một chút ánh sáng lờ mờ giúp nàng nhận ra hai cái bóng đang di chuyển. Nàng nhận ra Han và tên cầm đầu tay đang cầm đèn lồng.
Chợt ánh đèn vụt tắt. Aurett hiểu rằng hai gã đó đã vào trong khoang người chết. Không.cưỡng nổi bởi tính tò mò, nàng lần tới cánh cửa mở he hé và liếc vào. Các thành viên của "Bạch Liên" phái để đèn lồng ra một chỗ rồi tìm cách chuyển chiếc quan tài số 49 đi. Không may bị sẩy chân, Aurett hoảng hốt buột miệng khẽ kêu lên. Ngay sau đó, một bàn tay cứng như gọng kìm túm lấy cổ tay nàng. Trước khi kịp trấn tĩnh nhận ra chuyện gì đang xảy đến với mình, nàng đã bị lôi tuột vào trong khoang để người chết.
Tay thủ lĩnh săm soi nhìn nàng rồi nói với Han:
- Mặc kệ nó!... Mày cứ làm đi!...
Han rút phắt con dao găm trong người ra và chĩa về phía cô gái người Anh. Nàng sợ thót tim khi thấy gã người Hoa đột nhiên hành động như vậy và lùi lại vấp phải góc chiếc quan tài kế bên.
Lavarède vừa đội nắp quan tài đứng bật dậy và lấy thân che chở cho cô gái, đối mặt với hai gã người Hoa dữ tợn.
Cuộc đọ sức chuẩn bị nổ ra. Trực giác mách bảo Aurett rằng người bạn của nàng vừa hy sinh toàn bộ gia sản của mình vì nàng. Bởi nếu gây ra lộn xộn, các thủy thủ chắc chắn sẽ ập đến.
Chàng nhà báo sẽ bị bại lộ. Còn nếu chẳng may không ai tới, hoàn cảnh cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỗ ẩn nấp bí mật của chàng trai Paris đã bị hai gã người Hoa phát hiện, đó còn chưa tính tới cuộc ẩu đả không cân sức này, chàng cũng dễ mất mạng như chơi.
Lavarède nói:
- Nói đi, tại sao chúng mày muốn sát hại bạn tao, cô gái này?
Tay cầm đầu ngạc nhiên nhìn Lavarède.
Chàng nói tiếp:
- Vậy là các người định giết người diệt khẩu, sợ ảnh hưởng đến uy danh của mình. Song nếu tao không nhầm, chúng mày tới đây là để vứt chiếc quan tài mang biển số 49 xuống biển chứ đâu phải sát hại cô gái ấy. Chính ta là người đã được giao nhiệm vụ này và hiện giờ tao đang nấp trong chiếc quan tài số 48.
- Thế mày là ai?
- Tao là ai ư? Hãy nhìn đây.
Chàng chìa tờ văn bản tìm thấy trong bụng cá mập cho gã xem.
Sau khi đọc xong, gã nói:
- Cậu là một trong những người của chúng tôi. Giờ cậu sẽ chịu trách nhiệm đối với con bé người châu Âu này.
- Đó là em gái tôi đến từ San Francisco. Tối tối, nó lại mang đồ ăn đến cho tôi.
- Tốt. Nó biết giữ yên lặng chứ?
- Cũng như tôi.
- Tốt lắm. Chúng ta hãy tiếp tục công việc nào..Ngay sau đó, hai gã người Hoa mang chiếc quan tài số 49, mà trước đó là số 48 đi. Sau khi rưng rưng cảm động cám ơn Lavarède, Aurett quay trở lại buồng của mình. Ngày hôm sau, thấy nàng đứng một mình trên boong tàu, Han tới chống tay vào thành tàu cách chỗ nàng đứng chừng hai mét.
Quan sát không thấy ai để ý họ đang nói chuyện, anh ta khẽ bảo:
- Em gái của một trong các chiến hữu của chúng tôi, đêm qua chắc chúng tôi làm cô sợ lắm. Cô đang trên đường tới Trung Quốc. Hãy nhận lấy vật này, thủ lĩnh của tôi gửi cho cô.
Anh ta đưa cho Aurett một bông hoa bằng kim loại hình một đóa sen trắng.
- Hãy cài nó vào vạt áo, đóa hoa này sẽ giúp cô tránh được sự hà khắc của cảnh sát Trung Quốc và bè bạn sẽ có mặt ở mọi nơi khi cô đi qua.
Anh ta khéo léo trao cho nàng chiếc ghim cài áo, trong lúc đó Aurett nhủ thầm một ngày nào đó, đóa sen sẽ rất hữu ích cho nàng.
Tối ngày mồng 10 tháng chín, tàu Heaven-way đã tới Takéou. Armand chắc chắn sẽ tìm ra cách làm mất cảnh giác của các nhân viên công ty...
Khoảng mười giờ sáng ngày 11 tháng chín, ngài Saxby, giám đốc văn phòng Takéou tại Trung Quốc của công ty Box Pacific, đang ngồi trong phòng làm việc.
Ông nói với Howdin, nhân viên của mình:
- Cậu lưu ý việc này: sáng nay gia đình Pali-Ma sẽ tới đây đòi thân nhân của mình tên là Li-Moua, mất tại San Francisco và đã được tàu Heavenway đưa thi thể về nước. Vậy nên cậu hãy cho người đưa linh cữu của người quá cố tới đây để việc nhận mặt được thu xếp nhanh chóng.
Tay nhân viên vội vã đi làm công việc vừa được giao. Đúng lúc đó ngài Saxby nghe có tiếng gõ cửa và người phục vụ báo cho ông rằng có một người muốn gặp ông để thưa một việc rất quan trọng. Anh ta còn nhấn mạnh đó là một hành khách của tàu Heavenway..Ngài giám đốc thở dài:
- Lại chuyện khiếu nại nữa rồi. Thôi được, mời ông ta vào.
Người phục vụ lớn tiếng gọi:
- Mời ngài Bouvreuil.
Bouvreuil tới đây để tố cáo Lavarède đã đi tàu trốn vé. Lão cho biết hiện giờ chàng vẫn còn ở trên tàu và đề nghị ngài Saxby buộc chàng phải thanh toán tiền tàu.
Trong lúc đó, gia đình Pali-Ma đã tới và ngài Saxby buộc phải ngắt lời Bouvreuil.
Trong phòng bên, nhiều người đang vây quanh một chiếc quan tài được đặt dưới đất. Tất cả bọn họ đều mặc áo tang bằng vải xoa. Một phụ nữ đã lớn tuổi nước mắt rơi lã chã, đi tới trước mặt ngài Saxby.
- Tôi là Pali-Ma, mẹ của cháu Li-Moua.
Ông giám đốc nói:
- Nào, các cậu vào việc đi!
Các nhân viên của công ty đã khiêng chiếc quan tài số 48 tới, chuẩn bị tháo vít mở nắp quan tài. Song khi họ vừa chạm vào đã kinh hãi thét lên, ngã ngửa ra đằng sau. Một người đàn ông đứng bật dậy đội tung cả nắp quan tài.
Bouvreuil hét lên còn đám người Trung Quốc hoảng hồn lùi lại phía sau:
- Lavarède! Nó chính là thằng đi tàu lậu vé đấy!
Tay giám đốc nói:
- Thưa ngài, tôi nghĩ tất cả những chuyện này chỉ là một trò đùa không hay. Vậy nên tôi cũng không thích làm to chuyện song tôi yêu cầu ngài thanh toán tiền vé tàu. Tuy nhiên tôi sẽ giảm giá cho ngài 25% vì ngài đã phải đi tàu trong những điều kiện hết sức khó khăn.
Lavarède cúi đầu cảm tạ:
- Ngài quả là người tốt bụng song tôi chỉ có năm xu.
- Chỉ có năm xu! Và ngài đã tự ý lên tàu của chúng tôi!
- Xin ngài để cho tôi nói hết: sau khi tôi bị nhốt vào trong một chiếc quan tài với vài đồ ăn, người ta đã đưa tôi lên tàu.
- Ngài đang chế nhạo tôi đấy! Tôi sẽ cho người gô cổ ngài lại.
Bouvreuil nói:
- Đợi chút đã. Tôi có thể cho cậu đây vay tiền trả cho ngài.
Lavarède cười mỉa mai:
- A, tưởng ai hóa ra là ngài Bouvreuil tốt bụng. Song tôi không muốn vay mượn gì ngài hết. Trái lại, thưa ngài giám đốc, tôi có thể mách cho ngài một cách để tiết kiệm và coi như đó là cách tôi thanh toán tiền vé tàu cho ngài. Sau một phút suy nghĩ, tay giám đốc chấp thuận:
- Cậu nói thử tôi xem.
- Ngài nghe tôi nói đây: công ty các ngài chuyên chở khoảng một nghìn xác chết mỗi năm, đồng thời kiêm luôn việc cung cấp quan tài cho họ bằng gỗ sến đánh vécni. Tôi đã có thời gian quan sát kỹ tất cả các quan tài này. Ngài xem, ngài có thể tính tiết kiệm nhất là hai đô la cho một quan tài, nghĩa là hai nghìn đô la cho một năm nếu ngài sử dụng một loại vécni hóa học thay vì sử dụng loại sơn tự nhiên vừa kém bóng vừa kém bền hơn so với loại vécni tôi khuyên ngài. Vậy là khách hàng của ngài vừa hài lòng còn ngài lại thu được một khoản tiền không nhỏ.
Ngài Saxby tới bắt tay chàng và nói:
- Tuyệt lắm, coi như tiền vé tàu là phần thưởng ngài đã dành được.
Chỉ còn lại mỗi Bouvreuil đứng chầu hẫu, tím mặt cố chịu đựng.
Lavarède thủng thẳng kết luận:
- Thưa ngài Bouvreuil kính mến, ngài thấy đấy, chỉ với một chút hóa chất, chúng ta đã có thể loại bỏ bọn bọ rệp gây hại.
Mọi việc tưởng như đã được giải quyết êm đẹp. Không thể tham gia vào cuộc đối thoại, gia đình người quá cố đứng tập trung vào một góc phòng. Rồi một nhân vật mới bước vào trong phòng. Gã này mặc một chiếc áo rộng màu xanh lơ, có thêu một dải màu xanh lá cây, đầu đội một chiếc mũ trên đỉnh có đính một viên ngọc.
Mọi người nhận ra đó là một nhân viên cảnh sát.
Đứng ngay bên cạnh anh ta là một thanh niên, người nhà của gia đình Pali-Ma. Cậu ta chỉ tay về phía Lavarède.
Ngài Saxby hỏi:
- Có chuyện gì nghiêm trọng vậy.
- Người đàn ông này bị buộc tội hủy hoại thi thể của người quá cố, cô Li-Moua để chui vào quan tài thế chỗ. Tội làm uế tạp chốn linh đường, báng bổ thánh thần đã rõ rành rành. Rất có khả năng, người đàn ông này sẽ bị kết tội chết!
Lavarède thoáng rùng mình song chàng đã kịp trấn tĩnh ngay sau đó.
Tay giám đốc nói:
- Tôi rất lấy làm tiếc. Nếu tôi có thể giúp gì được ngài... Ngài có cần gửi thư cho bạn bè hay người thân không?
Lavarède cứng cỏi nói:
- ồ! Tôi không muốn báo cho bất kỳ ai cái chết của mình.
Chàng đưa tay cho cảnh sát bắt và dẫn đến nhà tù. Trên đường đi dọc qua các phố, chàng nhận ra gương mặt tiểu thư Aurett và cha nàng trong đám đông cảnh sát đang giải tán.
Cô gái để bàn tay lên ngực. Lavarède nhận thấy ánh mắt khích lệ từ xa của ngài Murlyton..Khi cánh cửa gỗ có các thanh ngang màu đỏ, được tô điểm thêm bởi các con thú lớn bằng đồng khép lại phía sau Lavarède, chàng bắt gặp ánh mắt buồn đến nao lòng của cô gái tóc vàng người Anh và chàng càng thấm thía nỗi đau khi phải lìa xa nàng.
Lavarède lơ đễnh, lặng lẽ đi theo những kẻ áp giải qua một chiếc sân gạch, trèo lên các bậc thềm gỗ bên trên có mái che sơn màu xanh da trời, tới một cánh cửa thấp lè tè có khung màu vàng và bước vào một căn phòng tối om.
Tên cầm đầu toán áp giải nói vài lời với viên thư lại. Nghe xong, gã vội chạy đi tìm giám đốc nhà tù. Lavarède bị lục soát. Bọn lính thoáng bối rối khi thấy trong người chàng có tờ văn bản tiếng Hoa của mật đảng. Sau một hồi tranh cãi sôi nổi, cuối cùng bọn chúng dẫn chàng tới một căn phòng.
Còn lại một mình, Armand bắt đầu suy ngẫm về hoàn cảnh đáng buồn của mình: chàng đang ở trong tù và bị kết tội báng bổ thánh thần. Qua các chuyện kể, chàng biết rằng luật pháp của nước này rất khô cứng với những nhục hình cực kỳ tàn ác và dã man. Giờ chàng đành nằm đây chờ chết trừ khi có một điều kỳ diệu xảy ra... Mắt chàng mờ đi, ngân ngấn nước, chàng đau đớn thốt lên:
- Aurett ơi!...
Thế rồi cửa phòng bật mở. Tay giám đốc nhà tù to béo xuất hiện cùng với một cô gái trẻ.
Viên thư lại lẽo đẽo đi sau, bưng theo một chiếc bàn đầy ắp các món ăn. Tay giám đốc đưa tay mời Lavarède dùng bữa, sau đó đẩy cô gái người Hoa bé nhỏ rụt rè tới trước mặt chàng. Cô gái nói với chàng bằng tiếng Pháp, được phát âm rất chuẩn:
- Tôi tên là Diamba. Tôi đã theo học ở trường truyền giáo và được học ngôn ngữ của ngài. Tôi là phiên dịch của ngài.
Lavarède kinh ngạc nhìn cô gái. Cô ta nói tiếp:
- Đây là ngài Chun-Tzé, giám đốc nhà tù, ông ấy nói với ngài rằng: "Tôi rất lấy làm tiếc đã giữ cậu tại đây, song chỉ là một công chức quèn, tôi buộc phải tuân lệnh của ngài Ti-Tou, người đứng đầu thành phố này. Ngoại trừ tự do, tôi có thể đáp ứng mọi yêu cầu của cậu, cơm ngon, rượu hảo hạng, chỉ dành cho hoàng đế...
Nếu cậu muốn viết thư cho bạn bè, chúng tôi sẵn lòng gửi đến tận tay người nhận." Tay giám đốc nhà tù trìu mến cười với chàng.
- Ngài Chun-Tzé đây biết rõ ngài là ai và cả các chiến hữu của ngài nữa. ông ấy rất muốn trả tự do lại cho ngài song khi đệ trình lên Ti-Tou, ông ta đã từ chối. Ngày mai hoàng đế sẽ nhận được thư của chúng tôi và chính hoàng đế sẽ quyết định số phận của ngài. Còn ở dây ngài Chun-Tzé muốn ngài tin chắc rằng ông ấy sẽ làm.mọi cách để cứu ngài. Đồng thời, ông ấy cũng muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ của ông ấy đối với các chiến hữu của ngài.
Lavarède hiểu ngay rằng nhờ có tờ văn bản chàng mang theo trên người khi bị bắt, chàng mới được đối xử hết sức kính trọng và chu đáo đến vậy và rằng các "chiến hữu" của mật đảng thật có thế lực. Sự nhầm lẫn này thật có lợi cho chàng. Thái độ chàng vui vẻ hẳn lên và chàng nhờ cô gái người Hoa nói lời cám ơn thay mặt các chiến hữu của mình tới tay giám đốc.
Một lần nữa, chàng nhà báo chỉ còn lại một mình song giờ đây trong lòng chàng lại ấm áp, chứa chan niềm hy vọng.
Trong khi đó, sau khi cùng cha trở về khách sạn, tiểu thư Aurett quả quyết tuyên bố:
- Chúng ta phải cứu Lavarède.
Trước quyết tâm của con gái, ngài Murlyton cũng gật đầu tán thành. Đầu tiên, cả hai tìm đến ngài lãnh sự song ông ta cho biết tình hình của Lavarède cũng chẳng mấy lạc quan. Chàng đã phạm vào tội báng bổ thánh thần và rất có thể bị khép vào tội xử trảm. Giờ thì không thể làm được điều gì ngoài việc đợi quyết định cuối cùng của hoàng đế.
Ông ta còn nói:
- Tuy nhiên ở nước này, khi người ta không xử trảm ngay một kẻ tội phạm thì cậu ta sẽ rất có cơ may thoát được tội chết.
Điều này chẳng có gì chắc chắn cả, mà đơn thuần chỉ là một lời khích lệ mơ hồ.
Hai cha con lặng lẽ, lủi thủi đi về khách sạn.
Mải suy nghĩ, họ không để ý có một đám người mỗi lúc một đông, một hung hăng đang bám theo đe dọa họ. Chúng ta cần biết rằng tại thời điểm đó, người Trung Quốc rất ghét dân châu Âu và họ có một khẩu hiệu: tiêu diệt bọn ngoại quốc.
Tiếng la ó, gầm réo mỗi lúc một to. Cuối cùng ngài Murlyton và Aurett cũng ý thức được mối nguy hiểm đang đe dọa họ. Aurett chợt nghĩ ngay tới chiếc ghim cài áo bị cái khăn choàng của nàng che mất. Trong đầu nàng văng vẳng tiếng của Han "Với chiếc ghim này, cô sẽ tìm thấy bè bạn ở khắp mọi nơi". Khi nàng giơ vật đó ra, những kẻ to mồm đi đầu đứng khựng lại, gậy gộc hạ hết xuống, không khí dịu hẳn đi. Chỉ trong giây lát, con phố lại quang đãng trở lại, mọi kẻ thù của hai cha con đều biến sạch. Aurett giải thích ngắn gọn cho cha nàng hiểu lý do của sự thay đổi đột ngột này.
Kể từ hôm đó, hai cha con người Anh có thể đi lại thoải mái trong thành phố mà không hề gặp phải bất kỳ chuyện gì. Trái lại, họ có cảm giác như được chăm sóc, bảo vệ, hướng dẫn và tận tình giúp đỡ.
Tuy nhiên, tiểu thư Aurett ngày càng cảm thấy lo lắng và buồn chán. Không có cách nào.để có được tin tức về Armand. Ngay cả với chiếc ghim cài hình đóa sen trắng cũng chẳng làm tay giám đốc nhà tù thay đổi quyết định. Tất cả những gì ông ta có thể làm được là giúp nàng gửi lời nhắn cho Lavarède và được phép chờ chàng gửi thư đáp lại.
Biết van xin cũng chẳng ăn thua, tiểu thư Aurett đành đi ra, trong tay nắm chặt tờ giấy Armand viết cho nàng với vài dòng chứa chan tình cảm.
Hai tuần nữa lại trôi qua mà vẫn chưa có tin tức gì mới. Tối 15 tháng mười, viên lãnh sự xuất hiện ở khách sạn khi hai cha con người Anh đang lặng lẽ dùng trà. Vừa thoáng thấy bóng ông trong phòng khách, Aurett lao tới, hai tay dang rộng ra phía trước, đôi mắt mở to như muốn hỏi bao điều.
Viên lãnh sự chậm rãi nói:
- Ti-Tou đã nhận được lời phán quyết của hoàng đế.
Aurett khẽ kêu lên:
- Thật sao...
Ngài Murlyton nói:
- Vậy Lavarède sẽ ra sao?
- Có thể cậu ta sẽ bị đeo gông, dẫn tới Bắc Kinh và cuộc hành quyết sẽ diễn ra gần cầu Lar-mes, nơi vẫn thường xuyên xử trảm tội phạm...
Aurett nhắm nghiền hai mắt, người nàng lảo đảo như muốn khuỵu xuống. Người nàng yêu không những bị xử trảm mà còn phải chịu cực hình đeo gông. Một cực hình quá tàn bạo!
Loại gông đó là một kiểu xích cổ được làm bằng một tấm ván gỗ rất nặng có khoét các lỗ để cho đầu và tay tù nhân vào. Lavarède bất hạnh sẽ phải đeo cái gông nặng trịch đó suốt dọc đường đi. Nó không chỉ làm người đeo khó chịu khi đi lại mà còn làm trầy da, chảy máu cổ và cổ tay.
Cô gái thấy Armand bị lôi đi, bị hành hạ suốt các chặng đường mịt mù bụi bặm của vùng Petch-Li. Trong suốt năm ngày trời, chắc chàng sẽ phải chết đi, sống lại, người ngợm bầm tím, đớn đau để có thể vượt qua những con đường dài thăm thẳm dẫn đến Bắc Kinh. Vậy đấy!
Chuyện đó thật khủng khiếp! Và cuối cùng của những đớn đau ấy là cái chết đau thương, tàn bạo. Khi lưỡi hái của đao phủ hạ xuống, đầu.chàng sẽ lìa khỏi cổ cùng với ánh mắt nồng nàn sẽ ra đi mãi mãi.
Tiểu thư Aurett đã hồi tâm trở lại và nàng nói:
- Thưa cha, con có dũng khí và cũng có một điều thỉnh cầu cha.
- Nói đi, con gái yêu của cha.
- Con đã mơ ước trở thành vợ của ngài Lavarède. Đã từ lâu lắm rồi, con đã nhận ra rằng con yêu chàng. Số phận cũng như cuộc thách đố đã buộc con phải câm lặng. Song hôm nay, số phận đã lên tiếng và con cũng không thể giữ kín chuyện này mãi được. Chàng sắp chết và con muốn ở đó, bên cạnh chàng, bảo vệ thi thể chàng chống lại những lời chửi rủa độc địa của lũ người khát máu, lo liệu tang lễ cho chàng rồi sau đó...
Chưa nói hết câu, giọng nàng đã nghẹn lại.
Nàng khóc nấc lên và ngã vào trong vòng tay cha. Không cần nói gì thêm nữa, ngài Murlyton bắt tay ngay vào tìm cách nhanh chóng tới Bắc Kinh.
Một ngày mới của Lavarède bắt đầu với sự có mặt của Chun-Tzé, đi theo sau là Diamba và một nhân vật nữa mặc đồng phục xanh da trời và xanh lá cây.
Ông giám đốc nhà tù đưa tay lên quệt mồ hôi trán. Đứng cúi mặt, hai mí mắt đỏ mọng vì khóc quá nhiều, Diamba thông báo chàng sẽ được chuyển tới Bắc Kinh để thi hành án.
Ban đầu, chàng vui mừng đón nhận tin đó bởi chàng cảm thấy trong tù quá ngột ngạt. Song khi xuống tới sân, bị đeo gông vào cổ và hai tay, chàng mới hiểu ra rằng chuyến đi này chắc chắn lành ít, dữ nhiều.
Lát sau cả nhóm người áp giải và phạm nhân đã ra khỏi thành phố và đi vào nông thôn.
Khoảng 10 giờ, hai người đàn ông trong đoàn dừng lại nghỉ ăn trưa. Mệt mỏi, cổ và hai cổ tay tím bầm do bị cọ xát vào gông, Lavarède cố lựa tư thế ngồi để giảm sức nặng đang đè lên cổ cho bớt đau.
Chàng lặng lẽ ngồi một mình. Tay cầm một chiếc gông khác, một viên cảnh sát tiến lại gần Lavarède. Anh ta đưa tay lên môi, ra hiệu cho chàng giữ im lặng và khéo léo tháo chiếc gông chàng nhà báo đang đeo, thay vào chiếc anh ta đang cầm vừa nhẹ vừa thoải mái hơn rất nhiều.
Lavarède nhìn thấy trên cánh tay của anh ta có xăm hình bông sen. Chàng thầm nghĩ chắc tay cảnh sát này tưởng chàng là người của "Bạch Liên" phái nên mới đối xử tốt với chàng như vậy...
Buổi tối, Lavarède được tháo gông và bị nhốt vào nhà giam. Cực hình đeo gông chỉ áp dụng khi đi đường, gây ấn tượng cho đám đông. Chàng.nhà báo vươn người cho đỡ mỏi. Dù đã được tháo gông, cổ và người chàng vẫn đau nhừ, hai cổ tay phồng rộp rớm máu. Vậy mà phải qua bốn chặng đường nữa mới tới Bắc Kinh.
Cánh cửa phòng giam hé mở. Viên cảnh sát tay có xăm hình bông sen lách vào, tay cầm một chiếc hộp đựng thuốc mỡ màu đo đỏ. Lavarède nhớ lại một câu chuyện chàng đã đọc, trong đó có nói về loại thuốc mỡ này. Nó không nguy hiểm và cũng không gây đau đớn song lại gây nên những biểu hiện trông có vẻ như bị viêm rất nặng. Lavarède chỉ việc bôi thứ thuốc đó vào hai bàn chân và giả vờ không thể đi được.
Sáng hôm sau, khi cảnh sát đến giải chàng đi tiếp, chàng giơ hai bàn chân sưng phồng, với những khoảng đỏ gớm ghiếc cho họ xem và bảo không thể đi tiếp được nữa. Armand được đặt lên cáng, rồi sau đó được đưa lên một chiếc ghe.
Gông xiềng cũng được tháo luôn. Những chặng đường còn lại nói chung khá thoải mái, Armand nhủ lòng thầm cám ơn "những người bạn" quý...
Song cái đích không êm ái như chàng tưởng...
Cảnh sát đẩy chàng vào nhà giam cuối cùng.
Thời gian trôi qua thật chậm chạp và nặng nề.
Sau đó, Armand, được dẫn tới trước một viên quan. Hắn lạnh lùng đến tàn nhẫn thông báo ngày mai chàng sẽ được đi chầu Diêm Vương, đầu lìa khỏi cổ.
Cùng vài lời động viên, an ủi, cảnh sát đưa chàng nhà báo trở lại phòng giam. Chàng cảm thấy kiệt sức và vô cùng chán nản. Chàng không sợ chết song chàng thấy tim mình đang rỉ máu.
Kiếp người có sinh có tử, chàng chỉ tiếc giấc mơ hồng của mình sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực. ánh sáng xanh lợt lưỡi hái của đao phủ đã chia lìa chàng với Aurett.
Chàng không sao ngủ được, thỉnh thoảng lại giật mình thức giấc bởi những âm thanh hoang tưởng. Buổi sáng, khi cảnh sát đến đưa Lavarède đi xử trảm, chàng đã hoàn toàn kiệt quệ song vẫn buộc phải đeo gông. Một ý nghĩ kỳ lạ đến với chàng: "Nếu sang thế giới bên kia gặp lại bác Richard yêu quý, chắc chắn bác ấy sẽ rất hài lòng vì đã chơi cho mình một vố nhớ đời!" Đám đông kéo theo đoàn người áp giải tù nhân mỗi lúc một đông. Song phải chăng chỉ vì việc xử trảm một tội nhân lại làm đám đông kia tò mò đến vậy? Nằm trên một bãi đất với một góc bãi có dựng rào chắn, có một vật lớn màu vàng nhạt hình giống như một điếu xì gà khổng lồ. Một quả bóng có thể điều khiển được... Herr Kasper, một người Đức đã mang nó tới đây với dự định sẽ giới thiệu cho người Trung Quốc thấy những điều kỳ diệu của khoa học và kỹ thuật khi được bay vài ngày trên bầu trời Trung Quốc.
Cảnh tượng đó chỉ làm cho người phạm nhân quên đi hoàn cảnh của mình trong giây lát. Ngay.sau đó, chàng đã thấm thía hơn lúc nào hết thực trạng bi thảm của mình. Trên bục, tên đao phủ và lũ phụ tá đang đợi lúc "hành quyết". Ngay sát chúng có kê một chiếc ghế gỗ dùng để đặt phạm nhân lên đó với những chiếc lồng gỗ để đựng đầu tử tội. Lavarède thoáng run rẩy, song ngay lập tức chàng đã ngửng cao đầu kiêu hãnh.
Tội chết không thể tránh khỏi, chi bằng hãy hiên ngang đón nhận nó. Theo lệnh của kẻ đứng đầu của đoàn áp giải phạm nhân, chàng ngồi xuống chiếc ghế dành cho tử tội. Đeo chiếc gông nặng trịch trên vai, chàng ngồi đón đợi cái chết tàn khốc đang đến gần.
Đột nhiên, Lavarède run run đứng dậy.
Chàng vừa nhận ra tiểu thư Aurett đứng vịn tay cha nàng trong đám đông.
Cô gái cương quyết tiến lên phía trước dù trông nàng rất yếu, nước da xanh lợt. Đám người trước mặt nàng tự động giãn ra, miệng lẩm bẩm kinh ngạc:
- Lien-Koua!
Lien-Koua có nghĩa là đóa sen trắng. Được cài trên vạt áo, chiếc ghim mà đã có lần bảo vệ cha con nàng ở Takéou sáng lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Aurett tiến thẳng lên bục mà không bị bất kỳ ai ngăn cản. Mọi người tin đó là một đặc ân dành cho những người châu Âu.
Armand nhìn nàng không chớp mắt. Aurett nắm lấy hai bàn tay đang bị đeo gông của chàng.
Nàng nói:
- Chàng đang đợi em có phải không?
Lavarède rụt rè rồi trả lời:
- Vâng, ta đang đợi nàng, như giữa đêm tối ngóng đợi ánh bình minh. Ta đợi nàng bởi vì...
Lẽ ra ta không nên nói điều này với nàng song đao phủ đang đợi ta, môi ta sẽ phải câm lặng mãi mãi nên giờ ta có thể nói điều đó với nàng:
ta đợi nàng bởi vì ta yêu nàng.
Aurett thẹn thùng cúi mặt xuống, hai má nàng ửng hồng.
Murlyton lẩm bẩm:
- ôi! Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất của con gái ta!
Aurett khẽ thì thầm chỉ đủ để mình Armand nghe thấy:
- Em cũng vậy, em yêu chàng.
Sắc mặt người tử tội hoàn toàn biến đổi.
Gương mặt chàng sáng bừng, mắt ánh lên niềm hạnh phúc vô bờ. Song niềm vui ấy chẳng kéo dài được bao lâu...
- Vĩnh biệt, Lien-Koua, vĩnh biệt bông sen trắng của tôi...
Một tiếng vọng khe khẽ lan tỏa trong đám đông:
- Lien-Koua, Lien-Koua!.Nhân có lúc đám đông đang hò reo lộn xộn, Aurett vớ luôn con dao găm giắt ở thắt lưng của một người đứng gần đó, cắt dây da buộc gông và lập cập kéo Lavarède bỏ chạy. Ngài Murlyton cũng vội đuổi theo họ. Đám đông cứ giãn ra nhường đường cho họ với một thái độ tôn kính hết sức kỳ lạ. Cảnh sát rượt ngay theo kẻ tử tội và bọn đồng lõa. Lavarède và hai cha con người Anh cứ nhằm thẳng phía trước chạy miết. Và như thể có một phép lạ, họ đã chạy tới chỗ để quả khinh khí cầu.
Chàng trai Paris reo lên mừng rỡ:
- Chúng ta thoát rồi!
Trong khi những người ủng hộ "Bạch Liên" phái tìm cách ngăn cảnh sát lại, Lavarède cùng những người bạn đồng hành đã trèo lên chiếc giỏ của khinh khí cầu và cắt dây buộc. Tuy nhiên nó không thể bay lên được. Có vật gì đó rất nặng đang giữ nó lại: đó chính là lão già Bouvreuil.
Phải nhanh chóng tìm cách bay lên. Lavarède khuân một chiếc hòm nặng trịch để trong giỏ khinh khí cầu và vứt xuống đất và quả khinh khí cầu đột ngột bay vọt lên, kéo theo "vị khách không mời" vẫn đang bám chặt vào dây neo.
Bouvreuil hét lên kinh hãi. Lavarède và ngài Murlyton thương tình kéo lão lên giỏ khinh khí cầu. Lão ta sợ quá, nằm ngất lịm.
Lavarède chống tay vào thành giỏ khinh khí cầu ngắm nhìn phong cảnh bên dưới chân chàng.
Gió mát rượi, cuốn quả cầu băng qua biết bao ngọn đồi, làng mạc, dòng suối làm chàng chẳng kịp nhận ra những địa điểm vừa bay qua. Sau khi ngắm cảnh đã chán mắt, chàng trai Paris kiểm kê các đồ đạc để trong giỏ khinh khí cầu. Chàng nhận ra một điều thật đáng buồn: ngoài các dụng cụ hàng không, dụng cụ tập thể dục và bản đồ, không hề có một chút lương thực nào.
Lavarède lên tiếng:
- Thưa tiểu thư, dù đã thú nhận những tình cảm chân thành của mình với nàng...
Aurett cúi mặt, đưa mắt nhìn xuống.
-... Tôi không thể quên phía trước chúng ta còn rất nhiều khó khăn, trở ngại. Giờ đây, lợi ích của chúng ta đều là một. Chúng ta cùng bị nhốt trong một khinh khí cầu đang bay lơ lửng trên một vùng đất nghiệt ngã. Chắc tiểu thư cũng chưa quên thái độ bài ngoại của người dân nơi đây đối với người châu Âu. ở Bắc Kinh còn không đến nỗi chứ bây giờ chúng ta đã rời khỏi những nơi mà "đóa sen trắng" có thể bảo vệ chúng ta.
Bouvreuil đã tỉnh, hai hàm răng va vào nhau lập cập.
Lavarède nói tiếp:
- Nếu gió cứ tiếp tục thổi như thế này, đêm nay, chúng ta sẽ tới Shangai. Bằng không chúng ta sẽ vẫn trôi lang thang không bến đậu..Aurett phản đối:
- Nhưng tôi tin quả khinh khí cầu này có thể bay được vài ngày nữa.
- Đúng vậy, nhưng chúng ta không có lương thực...
Murlyton lẳng lặng dốc chiếc túi đựng đồ ăn đã lấy ở khách sạn ngày hôm qua mang theo người. Song số đồ ăn đó chỉ đủ trong một ngày, không thể kéo dài hơn được. Mặt ai nấy đều xịu xuống.
Bouvreuil rên rỉ:
- Trời ơi! Không có cái ăn thì chúng ta sẽ chết đói mất!
Giọng nói của kẻ thù làm chàng trai Paris vui hẳn lên:
- Không, thưa quý ngài đáng kính, ngài sẽ không bị chết đói đâu. Không còn lương thực nữa, tôi cũng nói vậy sao? Quả thực tôi đã nhầm.
Chúng tôi có ngài ở đây cơ mà.
Lão già chuyên cho vay nặng lãi hốt hoảng nói:
- Tôi ở đây ư? Thế là thế nào?
- Chúa đã phái ngài xuống đây để cứu rỗi ba con chiên ngoan đạo trong lúc khốn khó. Mọi người nhìn xem, người đàn ông béo tốt này chắc lọc ra cũng phải được hơn năm chục cân thịt.
Bouvreuil giãy nẩy, gào lên như lợn bị chọc tiết:
- à ra vậy, các người định ăn thịt ta ư?
- Đúng vậy, thưa ngài Bouvreuil.
- ở đây, ngài chỉ là kẻ không mời mà đến.
Nếu tôi cứ để ngài bên ngoài giỏ của khinh khí cầu, chắc chỉ trụ được vài phút, ngài đã rơi xuống nát bét rồi. Vậy tại sao ngài không đền đáp tôi bằng cách tự xẻo thịt mình nhỉ?
Khó khăn lắm Aurett và Murlyton mới nhịn được cười. Họ rất ngưỡng mộ chàng trai Paris bởi ngay trong những lúc khốn khó cũng không làm mất đi tính hài hước của chàng. Duy chỉ có lão Bouvreuil cứ ngồi co rúm vào một góc sợ hãi.
Gió thổi mạnh đưa họ đi rất nhanh. Buổi tối, Bouvreuil lôi ra một chiếc bánh ga tô lão mua trong thành phố và vui vẻ chia cho mọi người những mong cứu được tính mạng mình bởi lão cứ đinh ninh rằng họ sẽ ăn thịt lão.
Vào lúc hai giờ sáng, Lavarède ước tính sẽ phải mất một tiếng nữa mới tới Shangai. Song số phận không chiều lòng họ. Gió đã đẩy họ đi quá xa, ra tận ngoài biển. Một ánh chớp lằng ngoằng lóe lên, rạch ngang bầu trời. Sóng bắt đầu chồm lên nhau giận dữ như muốn nuốt chửng cả bầu trời.
Armand gầm lên:.- Chúng ta đã bị cuốn ra biển rồi. Giờ chúng ta phải bay lên cao và tìm luồng gió trái chiều mới mong quay trở lại đất liền.
Họ vứt tất cả những thứ còn sót lại trên giỏ khinh khí cầu ngoại trừ chiếc la bàn. Khinh khí cầu bay vọt lên cao, nằm lơ lửng ngay giữa trung tâm của cơn bão. Những tia chớp ngoằn ngoèo cùng với tiếng sét nổ đinh tai và mưa bắt đầu trút xuống xối xả. Bất kỳ lúc nào, Lavarède và những người bạn đồng hành cũng có thể bị sét đánh cháy đen thui. Rồi đột ngột khinh khí cầu gặp phải một luồng không khí mạnh, thổi bạt nó về phía Tây với một tốc độ chóng mặt.
Các thành viên trên khinh khí cầu ngồi túm tụm lại núp ở đáy chiếc giỏ khá lâu, chân tay tê cóng vì lạnh và thiếu ôxi. Tuy nhiên, một lúc sau nó từ từ hạ xuống. Họ đang bị trôi giạt tới vùng đất nào vậy? Lavarède phóng tầm mắt nhìn xuống bên dưới. Chao ôi! Đúng là chốn hỗn mang với những đỉnh núi phủ đầy băng tuyết nằm nối tiếp nhau và những mỏm đá nhọn hoắt chồng lên nhau trông thật hoang vu.
Đột nhiên, Aurett nhìn thấy có bóng người trong thung lũng. Họ đang ngẩng lên dõi theo hướng di chuyển của "quả bóng".
Trang phục của họ làm Lavarède gợi nhớ tới một điều gì đó. Chàng nói:
- Không thể thế được. Chẳng lẽ bão đã cuốn chúng ta từ Đông sang phía Tây Trung Quốc.
- Cậu hãy giải thích rõ hơn đi...
Bên dưới, đám người tò mò đang nhảy lên reo hò vui sướng. Họ dùng súng bắn lên trời song đó là tín hiệu của sự chào đón nồng nhiệt.
Bouvreuil lo lắng:
- Bọn họ không phải là lũ ăn thịt người chứ?
Chẳng ai trả lời lão.
Lavarède thông báo:
- Chúng ta đang ở Tibet.
Lúc này bầu trời hoàn toàn lặng gió. Chiếc giỏ khinh khí cầu nhẹ nhàng chạm xuống thảm cỏ xanh mướt phủ kín cả thung lũng..