|
|
14-10-2008, 05:40 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ tư
Mấy ông lớn khoe khoang học vấn
Đến rằm tháng Tám, Qua Hương Liên lần đầu tiên mới gọi là ra mắt với đời. Đời không chỉ có một mặt. Nếu không làm dâu nhà họ Đồng, cô không thể ngờ đời còn có một mặt ấy nữa.
Tối hôm ấy Đồng Nhẫn An mời khách đến thưởng nguyệt. Ngay từ sớm, đàn ông đàn bà giúp việc đã vảy nước khắ́p sân, cầm chổi tre quét tước sạch sẽ. Tấm kính hoa làm vách ngăn sảnh giữa với hai bên sân mở toang. Đệm bông trên ghế lớn, ghế tựa quanh bàn, ghế dài khảm xà cừ đều được bọc lụa bóng lộn, các thứ hoa cỏ cũng đem bày lên. Hương Liên về nhà họ Đồng hơn một tháng, hầu như đã gặp hết những việc quái lạ trong đời, chỉ thiếu có gặp ma. Chỉ riêng chim, hoa, trùng, cá nhà họ Đồng nuôi, trước đó dù chỉ nghe thôi, cô cũng chưa từng nghe, nói gì đến thấy? Riêng thứ lan treo, thân cây rủ xuống, ở thân cây này nẩy ra cây khác, rồi ở cây vừa nảy lại đâm ra một cây nữa.Nghe nói mỗi cây là một đời, phải trồng sao cây này tiếp cây kia luôn một lèo rủ xuống đủ năm tầng, đời cha, đời con, đời cháu, đời chắt, đời chút, ngũ đại đồng đường mới gọi là trồng đến nơi đến chốn. Hoa cúc trông càng tuyệt, có loại gọi là "hoàng kim ấn", vàng rực chói mắt mà hoa lại hình vuông, in hệt con dấu bằng vàng thế có lạ lùng không? Giữa sân bày một bể cá vàng cao hơn đầu người, muốn xem cá phải trèo lên hòn non bộ ghép bằng đá san hô. Bên trong toàn một loại cá vàng mắt lồi, dài đến một thước, mắt như quả trứng gà bơi qua lội lại. Song vì mắt chúng quá to, đầu cứ phải nổi sát mặt nước, thân thẳng đứng, chúng như đang sống lại như sắp chết, nhìn rất khó chịu. Thứ cá đặc biệt đó. nói ra chẳng ai chiu tin.
Sau bữa cơm trưa, bỗng a hoàn đến báo tin, cụ ông bảo đàn bà con gái trong nhà, không phân biệt chủ tớ, phải sửa sang đầu tóc chân cẳng, ở trong phòng chờ lệnh, không ai được ra khỏi phòng, không được sang phòng nhau, không được thậm thụt nhìn ngó. Hương Liên thầm đoán, không biết loại khách nào khuấy động cả nhà phải chải chuốt trang điểm, phải cũng kính ngồi chờ trong phòng, phải đặt ra quy định khó hiểu này?
Thế là cả nhà đổi sang thế trận mới.
Người nhà này ở tất cả trong ba dãy nhà. Đồng Nhẫn An ở ba gian nhà trên, cửa tuy mở nhưng thường không thấy bóng người. Dãy thứ hai hướng Đông - Tây, mỗi dãy có ba phòng. Hương Liên ở hai phòng đầu dãy đằng Đông, phông thứ ba để không. Cậu ba Đồng Thiệu Phú đem theo vợ là Nhĩ Nhã Quyên buôn bán ở Dương Châu, căn phòng thứ ba này dành cho họ mỗi khi họ về thăm ở tạm, ngày thường đóng kín. Dãy phía Tây đối diện, hai phòng đầu cũng thuộc gia đình cậu hai Đồng Thiệu Hoa cùng vợ là Bạch Kim Bảo và hai con gái Nguyệt Lan, Nguyệt Quế. Buồng còn lại của nàng dâu út ở góa là Đổng Thu Dung với mỗi một đứa con gái lên hai, tên là Mĩ Tử.
Hương Liên khẽ hé mở cửa sổ ra một khe nhỏ, thấy phòng của Bạch Kim Bảo và Đổng Thu Dung đều đóng kín. Các a hoàn ngày thường đi tới đi lui trên hành lang, nay chẳng thấy một ai, cả đến chuồn chuồn, bươm bướm, côn trùng thường bay qua bay lại trước sân cũng không thấy nốt, xem ra buổi họp mặt tối nay chẳng phải tầm thường. Cô bỗng nhớ ra, mợ hai Bạch Kim Bảo ngày thường rất ít bắt chuyện, chỉ khách sáo tươi nét mặt với cô, sáng nay lại hỏi cô hai lần xem hôm nay nên chải đầu kiểu gì, đi giầy kiểu gì, như là thăm dò cô vậy. Thăm dò cái gì nhỉ? Nghĩ kĩ giây lát, một tia sáng cũng lóe ra trong đầu óc ít hiểu biết của cô.
Từ ngày làm dâu đến giờ, người khác đều không hay, song riêng cô biết rõ, ấy là chính nhờ có đôi chân nhỏ mà cô lọt được vào nhả họ Đồng. Người nhà này có tật quái lạ là hai con mắt không rời được chân người khác. Nhìn ngó một hồi rồi ánh mắt thế nào cũng dừng lại trên bàn chân người ta. Hương Liên đâu có ngốc! Qua ánh mắt Bạch Kim Bảo, Đổng Thu Dung, cô nhìn thấy lòng ghen ghét dừ dội. Nếu lòng ghen ghét ấy lên cao tới mức nghiến răng lại thì thế nào cũng có lưỡi dao xỉa ra. Song từ nhỏ Hương Liên đã có lòng tự tôn rất mạnh, cô thầm quyết tâm tối nay trước mặt mọi người phải làm cho họ giật mình vì đôi chân nhỏ của cô. Thừa lúc mấy cậu ấm dở hơi kéo nhau đi chơi chợ bán chim, cô gấp rút trang điểm chải chuốt, sửa soạn cho đôi chân. Cô vấn tóc theo kiểu "búi liên hoàn", rủ một riềm tóc bằng chằn chặn che lưng chừng vầng trán, rồi soi gương trang điểm cho khuôn mặt thật đẹp. Cô tháo tung vải bó chân ra, theo cách của bà ngoại bó lại thật ngay ngắn phẳng phiu. Cô mở tay nải mang từ nhà chọn lấy một đôi giầy đế mềm đẹp nhất bằng lụa đỏ tươi, viền bằng đoạn bóng màu xanh biếc, mũi giầy dán mảnh vải in hình bướm và hoa mẫu đơn - hoa mẫu đơn ngũ sắc ở hai bên má giầy, đằng mũi là một con bướm sặc sỡ mười màu, cánh giang ra, hai sợi râu dài từ giữa mũi giầy vắt cong sang hai bên. Cô đi vào, thử bước mấy bước, mỗi bước đi cánh bướm ve vẩy như bướm thật, khiến cô cũng rất thích, rất cưng đôi chân xinh xinh của mình. Cô còn vén cạp quần cao lên một chút để người ta thấy được đôi bướm.
Đang vui thích thì cửa mở, Đào Nhi ghé qua báo:
- Mợ cả phải sửa soạn kĩ đấy nhé, tối nay thi chân!
Hương Liên chưa nghe ra, Đào Nhi đã vội xua tay bảo cô đừng lên tiếng, mấy sợi chỉ ngũ sắc trước ngực phất một cái rồi biến mất.
Thi chân là thế nào? Hương Liên chưa thấy và cũng chưa nghe nói bao giờ.
Trong cổng ngoài cổng, đèn treo tường kiểu Tây vừa mắc lên, khách khứa lục tục kẻ trước người sau, cao có thấp có, béo có gầy có, mỗi người một vẻ mặt, kéo đến. Hai nhà buôn đồ cổ từ Tô Châu đến vừa ngồi xuống thì Đồng Thiệu Hoa cũng đưa ông Năm Ngưu tức Ngưu Phượng Chương - người chuyên làm tranh giả vào. Thiệu Hoa nói ông Năm có mang theo mấy món đồ tốt, tiện tay đem đến cho Đồng Nhẫn An, hỏi xem cửa hiệu có dùng hay không. Ông Năm thường đi các nơi tìm mua đồ cổ, tự mình không phân biệt được thật với giả, chỉ thấy rẻ là mua, bán trao tay cho Đồng Nhẫn An và hầu như lần nào Đồng Nhẫn An cũng mua. Giá ông Năm bán cao hơn nhiều so với giá bán của người khác. Ông ta tưởng đã hời, nhưng Đồng Nhẫn An vẫn thu lời nhiều hơn số chi ra. Chuyện nhiều nhiều ít ít ở đây, một người thì mù mờ, một người biết rất rõ. Lần này ông Năm lại móc ra hai cái. Hộp nhỏ bằng gấm, một hộp đựng mấy đồng tiền cổ, một hộp có ông phật bụng phệ. Đồng Nhẫn An không để mắt đến, thuận tay gạt sang một bên, hai mắt cử nhằm vào cửa buồng Bạch Kim Bảo, những nếp nhăn trên mặt lão giãn dần. Đồng Thiệu Hoa ở mãi ngoài quầy chỉ lăm le mượn dịp, về đến nhà là vội vàng lui về phòng vui đùa với vợ. Ngưu Phượng Chương không tinh ý, không biết Đồng Nhẫn An đang bực mình, cứ ra sức bày hai cái hộp trước mắt Đồng Nhẫn An. Lão này tức quá chỉ muốn quẳng chúng xuống đất.
Ngoài cửa rộn lên tiếng nói tiếng cười, lại có ba người khách nữa đến. Một người mi thanh mục tú, phóng khoáng ra trò, hễ bước đi là tay áo, vạt áo, thắt lưng cũng phấp phới theo người. Một người nữa như mắc bệnh dịch, mặt nhợt nhạt, cằm nhọn hoắt chìa ra, mắt chẳng nhìn ai, cũng không biết nhìn cái gì. Hai vị này đều là anh tài nổi tiếng ở bản địa, một người làm thơ, một người vẽ tranh. Người đi vào trước tiên tên là Kiều Lục Kiều, thường được gọi là ông Sáu Kiều, làm thơ dễ như "nhổ nước bót". Người vẽ tranh tên Hoa Lâm, danh tiếng áp đảo cả thành Thiên Tân, trong gia tộc đứng thứ bảy nên thường được gọi là ông Bảy Hoa. Đi giữa ông Sáu và ông Bảy là một ông già cao, gầy. Có lẽ vì hai vị kia nổi tiếng quá, ông già thấy cao hơn họ một chút ắt không được ai để ý, bèn cao hơn hẳn nửa cái đầu. Người này mặc áo bào hoa to thêu kim tuyến, màu tương vừng, áo ngắn mặc ngoài bằng đoạn xanh, một hàng khuy mã não đỏ viền đồng đính trước ngực. Mắt ông già này con ngươi thật đen, lòng trắng thật trắng, chẳng khác gì lớp trẻ. Người ta khi tuổi cao, con ngươi thường mờ đục song ông này không thế, ánh mắt cứ như cái móc sắc để moi chuyện thị phi.
Chân sau còn chưa bước hẳn vào phòng, Kiều Lục Kiều đã nói với Đồng Nhẫn An đang bước ra đón:
- Thưa cụ, vị này là Lã Hiển Khanh, danh sĩ đất Sơn Tây, tự đặt hiệu là " ái Liên cư sĩ". Nghe nói hôm nay cụ cho thi chân tại đây nên không thể bỏ qua. Hôm qua ông nói chuyện với tôi suốt đêm về chân bó, nói đến mức tôi quay cuồng cả đầu óc, hứng bốc lên, hôm nay cũng xin cụ cho được tận hứng.
Đồng Nhẫn An nghe nói, ánh mắt đang dõi nhìn cửa phòng của nàng dâu thứ hai lập tức chuyển qua khuôn mặt ông già cao gầy. Chủ khách chào nhau xong, vừa ngồi xuống Lã Hiển Khanh đã nói:
- Phủ Đại Đồng đất Sơn Tây chúng tôi, mồng tám tháng Tư hàng năm thế nào cũng mở hội thi chân, người đẹp đổ ra, cực kì nhộn nhịp. Chẳng ngờ nơi gần kinh thành như đây cũng có chuyện thi chân. Cho nên không thể không đến để con mắt được hưởng phúc, xin cụ miễn trách.
- Đâu dám! Trong đời được gặp tri kỉ là dịp may hiếm có. Từ lâu đã nghe tiếng cự sĩ am hiểu về gót sen. Nhà chúng tôi thi chân đều là đàn bà con gái trong nhà, tự so cao thấp với nhau, cùng là giúp nhau mài giũa kĩ xảo về gót sen. Khách được mời đều là dân "nghiền gót sen" chính cống, bởi vậy mong cư sĩ và các vị chỉ giáo nhiều cho. Vừa nãy nghe cư sĩ nhắc tới hội thi chân của quý phủ. Chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu mà chưa được thấy, phải chăng đó chính là "hội phô chân Đại Đồng"?
- Chính phải. Hội thi chân cũng gọi là hội phô chân đó!
Đồng Nhẫn An vui vẻ phướn mày, hỏi:
- Cách thức thế nào, ngài nói cho nghe.
Lão chỉ muốn nghe ngay, đến nỗi quên béng gọi người mang trà ra mời khách. Lã Hiển Khanh cũng không để ý, dường như cờ vừa đến tay là phất tức thì nên phản khởi nói:
- Quê hương Đại Đồng chúng tôi ngày trước có tên là Vân Trung. Xưa có câu rằng: "Sông Hồn [1] nuôi khí tốt, người đẹp luân phiên sinh". Con gái quê chúng tôi chẳng những da trắng nõn nà mà càng coi trọng chân nhỏ. Mỗi năm cứ đến ngày tám tháng Tư, con gái khắp thành đều giơ chân lên ngồi trước cửa nhà mình để người qua đường thưởng ngoạn. Thông thường con gái nhà nghèo mà đôi chân nhỏ được nhiều người ưng ý thì giá trị cô ta vụt cao gấp trăm lần...
- Con gái khắp thành kia à? Phách lối gớm nhỉ? - Đồng Nhẫn An nói.
- Đúng vậy, đúng vậy. ít ra cũng có đến chín mười vạn đôi chân nhỏ, kiểu cách đủ vẻ khỏi cần nói. Kiểu lạ nhất, diệu kì nhất, đẹp nhất, xấu nhất, quái lạ nhất đều có đủ. Thế mới gọi là "thiên hạ rộng bao la, không điều lạ nào không có.
- Trên đời lại có chuyện hay như vậy sao? Tiếc rằng mấy thằng con tôi đây đều không nên hồn. Tôi bằng này tuổi đầu, ngày ngày lại bị cửa hàng trói buộc. Có việc hay như hội phô chân mà cũng không được thấy tận mắt, coi như cuộc đời này sống phí sống hoài.
Đồng Nhẫn An cảm khái một hổi rồi hào hứng hỏi:
- Tôi nghe nói trong hội thi chân ở Đại Đồng, cửa nhà nào cũng có một hòn đá, nếu được người ta chấm, cô gái nhà đó sẽ đặt chân lên hòn đá, người xem có thể tha hồ nắn chơi, phải không?
Kiều Lục Kiều đỡ lời:
- Cụ Đồng xưa nay hiểu nhiều biết rộng, song lần này lầm rồi. Chuyện ấy đêm hôm qua tôi đã hỏi cư sĩ, ngài nói hội phô chân quy củ dữ lắm, chỉ được phép nhìn, không được sờ mó. Ai mó máy ắt bị bao tải chụp vào đầu cho mọi người đánh, đánh chết cũng thôi.
Mọi người cười ha hả. Sáu Kiều là con người phong lưu, lại bạo mồm, chẳng chiếu cố gì đến sĩ diện của Đồng Nhẫn An. Lã Hiển Khanh lộ vẻ đắc ý. Còn Đồng Nhẫn An? Lão vờ̀ như không hay biết, rồi lập tức đổi giọng, không còn là xin chỉ giáo mà như tra hỏi:
- Cư sĩ kiểu đẹp nhất như ngài vừa nói là thế nào, thử nói coi!
- Kiểu ấy gồm bảy chữ: linh (hoạt), gày, cong, nhỏ, mềm, ngay, thơm. - Lã Hiển Khanh mở miệng nói luôn, như muốn bảo: cả đến mấy điều vặt ấy mà chủ nhà cũng không biết.
- Chỉ mấy thứ ấy thôi hay sao?
Ông già này rất tinh, biết Đồng Nhẫn An đã thay đổi thái độ, bèn nói:
- Từng ấy mà còn chua đủ à? Đủ tiêu chuẩn một chữ không dễ đâu! Nhọn mà không như dùi, gày mà không xác, cong như mặt trăng, nhỏ mà linh hoạt, mềm như khói, ngay thì vững, thơm cho say, thử hỏi cái nào dễ? - Lã Hiển Khanh tươi cười nhìn Đồng Nhẫn An, nhả chữ như bắp nổ, cả phòng nghe đều sững sờ.
Đồng Nhẫn An đương nhiên biết đối phương giở kiến thức ra đọ với mình, bèn thản nhiên buông câu chí tử:
- Hình đạt thì dễ, thần đạt mới khó!
Lã Hiển Khanh chớp mắt liền hai cái, nghe chưa thủng câu nói của Đồng Nhẫn An, lại tưởng lão kiến thức có hạn, đối đáp không nổi, làm ra vẻ sâu sắc vậy thôi. Cư sĩ chỉ muốn xổ ngay ít trò vặt để áp đảo mấy lão ở Thiên Tân, bèn khua môi múa mép nói:
- Nghe nói nàng dâu trưởng của cụ có bàn chân nhỏ hơn đứt thiên hạ, phải chăng tên là Hương Liên? Tên chính thức hay tên hồi nhỏ ạ? Khéo quá, khéo quá? Xưa nay gọi chân nhỏ là Kim Liên, nay chữ "hương" thay cho chữ "kim", nghe ra càng lọt tai, lại dễ mến. Nói đến kim liên, không biết cụ đã khảo cứu hay chưa? Ai cũng bảo Hậu chủ đời Nam Đường có cũng tần Yểu Nương, người đẹp múa hay, Hậu chủ ra lệnh xây đài vàng theo hình hoa sen, xung quanh treo đầy châu báu, cho Yểu Nương bó chân bằng lụa, múa trên đài sen. Từ đấy, đàn bà trong cũng hay ngoài thiên hạ đều dùng lụa bó chân cho đẹp, cho sang, cho xinh, cho nhã; dần dần thành phong tục, gọi chân bó cho nhỏ là kim liên. Song còn một thuyết nữa nói Đông Hôn Hấu nước Tề sai cũng nhân lấy vàng lá cắt thành những bông sen đính trên nền nhà cho nàng phi họ Phan bước lên trên, mỗi bước một vẻ, yểu điệu say người, gọi là "mỗi bước nở sen vàng". Sau phụ nữ cũng gọi chân nhỏ là kim liên. Cụ tin thuyết nào hơn ạ? Tôi tin thuyết đầu, vì ai cũng nói Yểu Nương bó chân bằng lụa chứ chưa nghe ai nói Phan phi bó chân cả. Không bó chân thì sao gọi được là chân nhỏ?
Lã Hiển Khanh nói một thôi khiến cả phòng lặng ngắt như không người. Mấy người ấy chỉ biết thích chân nhỏ, không ngờ bị kiến thức về đôi chân nhỏ đè dí xuống đất. Đồng Nhẫn An vừa nghe vừa nhắc ấm trà nhỏ tuyền một màu dùng riêng cho mình ngậm vào vòi tu ừng ực. Ai cũng tường lão tán thưởng ý kiến Lã Hiển Khanh, nào ngờ đợi cho vị ái liên cư sĩ đó ngậm miệng, lão mới lên tiếng:
- Nhắc đến lịch sử, đều là chuyện quá khứ, chẳng ai được thấy. Ai tìm được chứng cứ thì người ấy có lí. Thường người ta vẫn nói chân bó có từ Yểu Nương, song ai dám nói chắc con gái đời Đường tuyệt đối không bó chân? Y Thế Trân trong sách Lang hoàn ký có nói khi Dương Quý Phi bị Đường Minh Hoàng ban cho cái chết ở gò Mã Ngôi, có người con gái tên Ngọc Phi nhặt được đôi giầy đầu chim sẻ của nàng, đế bằng gỗ đan mỏng, chiều dài chỉ có ba tấc rưỡi. Song đấy chưa phải chứng cớ duy nhất. Trong bài Vịnh bức tranh Dương Quý Phi múa khéo, Từ Dụng Lí cũng có mấy câu: "Khúc án nghê thường túy vũ bàn, Mãn thân hương hãn khiếp y đan, Lăng ba bộ tiểu cũng tam thốn, Khuynh quốc mạo kiều hoa nhất đoàn." [2] Chân mà ba tấc chẳng phải chân to rồi! Đủ thấy Quý Phi bó chân trước cả Yểu Nương kia. Lại nói người đời Đường bó chân đầu tiên, thì Đỗ Mục cũng có hai câu: "Điền xích tài lường giảm tứ phần, Tiêm tiêm ngọc quẩn lỏa khinh vân." [3] Một thước giảm đi bốn phần, hỏi còn lại bao nhiêu?
- Cụ Đồng ơi, cụ chớ quên đó là thước đời Đường, không dài ngắn như thước dùng ngày nay đâu? - Lã Hiển Khanh vừa nghe vừa tìm chỗ sơ hở, nắm được điểm sơ hở này bèn kêu to lên.
- Hãy khoan, điểm này tôi cũng đã khảo rồi. Người đời Đường sao có thể không dùng thước đời Đường? Thước đời Đường một thước bằng tám tấc Giang Tô, thước Giang Tô lại dài hơn thước Doanh tạo [4] một tấc. Câu thơ nói một thước giảm bốn phần tức là sáu tấc đời Đường, quy ra thước Giang Tô là bốn tấc tám, quy ra thước Doanh tạo ngày nay là bốn tấc ba. Không bó chân mà bốn tấc ba được sao? Cụ nói thế nào?
Lã Hiển Khanh trong chốc lát không đáp được, mắt trợn ngược lên, mồm há hốc. Kiều Lục Kiều vỗ tay kêu to:
- Hay quá, xem ra người tài lại ở vệ Thiên Tân, thôi đừng có để mắt tận đâu đâu nữa!
Mọi người chuyển ánh mắt kinh ngạc từ ông khách Sơn Tây sang Đồng Nhẫn An. Nhưng Lã Hiến Khanh cũng là người giỏi, từng khổ công tu luyện. Người giỏi hay hiếu thắng, mới vài ba hiệp đâu đã chịu thua vãi đái, cho nên nghỉ một chút rồi lời lại tuôn ra. Lã Hiển Khanh nghếch cằm lên nói:
- Lời cụ Đồng nói nghe ra cũng có lí. Nhưng chỉ lấy hai câu thơ làm chỗ dựa e còn mỏng quá. Sách Đường Ngũ lâm có chép, đời Đường, vợ kẻ sĩ nói chung còn mặc áo của chồng, đi hài của chồng, đủ thấy họ không hề bó chân.
- Cụ nói phải, nhưng tôi không nói tất cả đàn bà con gái đời Đường đều bó chân mà chỉ nói có người bó chân. Có hay không là một chuyện, tất cả hay không là một chuyện khác. Theo khảo cứu của cụ thì bó chân khởi đầu từ triều nào, đời nào chứ không phải triều nào, đời nào thì trở thành phong tục, có phải thế không ạ? Chúng ta bàn cái gì, trước hết phải xác định cho rõ, tránh ông nói gà, bà nói vịt, lạc đề mà chẳng rõ được cái gì̀. Lại nói tìm căn cứ trong thơ Đường, quyết chẳng chỉ có vài ba câu ấy đâu. Bạch Lạc Thiên có câu: "Tiểu đầu hài lí trách y thường." [5] Tiêu Trọng Khanh cũng có câu: "Túc nhiếp hồng ti lí tiêm tiêm tác tế đầu." [6] Cả hai đều nói mũi giầy con gái đàn bà đời Đường rất nhỏ. Theo lễ tiết đời Đường, đi không được đi nhanh, đi nhanh là thất lễ. Lấy vải bó gò chân lại, tự nhiên bước chậm ngay. Đó là chuyện có tình có lí. Còn như bó thành kiểu nào, cách nào, bao lớn, xin dành lúc khác.
- Hóa ra hôm nay học được khối điều hay. Cụ Đồng ở vệ Thiên Tân hạn định lịch sử bó chân có tự đời Đường! - Giọng nói Lã Hiển Khanh có ý châm biếm nhưng che giấu không nổi thế cùng quan nhất thời. Lão làm ra vẻ không muốn tranh cãi, so đọ kiến thức nữa.
Đồng Nhẫn An tươi cười như câu chuyện mới bắt đầu, liền nói tiếp:
- Nếu nói về hạn định, theo tôi, đời Đường cũng là muộn. Sách Chu Lễ có Lũ nhân, ấy là chức quan trông coi giầy dép cho vua và các cũng phi. Những là guốc đỏ, guốc đen, cạnh đế son, cạnh đế vàng, thanh câu, dép trơn, dép vải đều là giầy dép các kiểu. Coi trọng giầy dép tức là coi trọng bàn chân. Con gái đời Hán thích hài mũi nhọn, cứ xem bức tranh vẽ trên tường ở nhà thờ Vũ Lương thì thấy mẹ ông Lão Lai, vợ ông Tăng Tử đều đi giầy mũi nhọn cả. Hóa thực truyện trong sách Sử ký chép: "Nay con gái nước Triệu, nước Trịnh chải chuốt hình dong, gảy đàn, vung vảy tay áo dài, đi hài sắc." Hài sắc tức là giầy nhọn mũi. Địa lí chí trong sách Hán thư có viết một câu rất quan trọng là "con gái nước Triệu gảy đàn nhón dép"; ông sư Cổ chú thích, dép hối ấy cũng là giầy, là một loại giầy nhỏ không đế, nhón là đứng thật nhẹ nhàng. Do đó thấy rằng con gái đời Hán cho rằng đi giầy nhọn, bước ngắn, đứng nhẹ nhàng là đẹp. Tất nhiên muốn vậy phải bỏ nhiều công phu với đôi chân, ấy là phải làm cho đôi chân nhỏ đi. Sách Cấp tựu chương của Sử Khích có câu: "Tháp đề ngang giốc hạt mạt cân", [7] chỗ chú thích bên dưới không biết cụ có để ý không nhỉ? Chú thích nói rằng tháp là giầy lớn, mũi sâu mà dốc, đế bằng, tục gọi là "tiển", đề là giầy nhỏ bằng da mỏng, cân là bó chân. Câu này còn cần nói rõ nữa không? Cụ muốn nghe thời tôi còn nhiều thí dụ lắm, chỉ e làm mất nhiều thì giờ của các vị khách nên không dám. Cứ cân nhắc kĩ những điều ghi chép vụn vặt trong số sách trên cũng thấy bó chân e chưa thể nói chắc bắt đầu từ đời Đường được. Ai cũng bảo lịch sử là chết cứng, tôi lại thấy lịch sử sống động. Ai cho nó chết cứng, xin cứ đợi người khác đến lật sống lên cho coi!
Lã Hiển Khanh dường như bị đối phương ném xuống nước, dìm dưới nước, không đờ đẫn thì cũng ngẩn ngơ, mặc cho người làm gì thì làm. Kiều Lục Kiều vui mừng hơn cả lúc nãy:
- Thôi rồi, thôi rồi! Hôm nay tôi mới biết không có kiến thức mà thưởng ngoạn chân nhỏ thì cũng chỉ là thưởng ngoạn ấm ớ thôi.
Ngưu Phượng Chương rụt cổ lại:
- Nói hay đến mức tôi cũng muốn bó chân đây!
Trận cười nổ ra như muốn tung cả mái nhà. Ngưu Phượng Chương người không cổ quái nhưng ý nghĩ lại khác thường. Lão luôn cảm thấy mình hèn mọn, thỉnh thoảng lại tự chế nhạo mình một câu để đỡ phải bị người khác nhạo báng. Nhưng hôm nay không giống mọi khi. Đồng Nhẫn An đang hào hứng, một bụng kiến thức đang muốn xổ ra nên bắt lấy lời Ngưu Phượng Chương, cười nói:
- Ông Năm chớ nói vậy. Thời nhà Minh quả có người đàn ông bó chân giả làm nữ, trà trộn trong đám đàn bà để kiếm chác, việc bại lộ phải ở tù đến mấy năm, khi được thả ra ai cũng chửi mắng, không trốn tránh vào đâu được, vì ai cũng nhận ra hắn ngay.
- Sao vậy? - Ngưu Phượng Chương gắng mở to đôi mắt ti hí hỏi.
- Chân đã bó nhỏ rồi, còn to ra được sao? - Đồng Nhẫn An đáp.
Mọi người lại cười âm lên. Ngưu Phượng Chương dậm hai chân kêu to, giả bộ ngớ ngẩn để chọc cười.
- Thế thì tôi chẳng bó đâu! Chẳng bó đâu!
Hoa Lâm phảy mấy ngón tay thon trắng muốt:
- Chớ, chớ! ông Năm Ngưu mà bó chân thì chẳng ai nhận ra đâu.
Nói xong, lão đợi mọi người gạn hỏi tại sao mới nói nốt phần sau:
- Ông Năm Ngưu làm tranh giả cứ́ như thật, vậy thì bó chân càng giống thật chớ sao! - Hoa Lâm nói mắt không nhìn Ngưu Phượng Chương, cũng không nhìn Đồng Nhẫn An mà như nhìn mái nhà.
Câu châm chọc này ai đó nói còn có thể được, nhưng Ngưu Phượng Chương và Hoa Lâm là đồng nghiệp, đều vẽ tranh cả, đồng nghiệp nói nhau như thế không được. Ngưu Phượng Chương đảo mắt, đốp ngay trở lại:
- Tranh giả của tôi chỉ lừa được ông Bảy Hoa nhà ngài, đâu có qua được rnắt cụ Đồng. Đúng không, đúng không? Hử?
Câu này Ngưu Phượng Chương vừa lấy lòng Đồng Nhẫn An vừa chọc tức Hoa Lâm. Hoa Lâm làm ra vẻ thanh cao, nhưng người thanh cao thường không biết ứng biến, nên càng thua đậm hơn, mặt trắng bệch ra vì tức giận.
Kiều Lục Kiều nói:
- Thôi ông Năm ngậm miệng giỏng tai mà nghe đi đã. ông không thấy cụ Đồng đang đua tài với ngài cư sĩ về học vấn đó sao. Hôm nay Ngô Đạo Tủ, Lí Công Lân có đến cũng xin mời các vị biến cho. Mấy người chúng ta chỉ đến đây vì chân bó mà thôi!
Ngưu Phượng Chương lập tức bưng lấy mồm, nói to như bò rống:
- Vậy xin mời cụ Đồng truyền lại kiến thức cho chư vị đây.
Đồng Nhẫn An đè bẹp được Lã Hiển Khanh, chiếm lợi thế nên vui lắm, nhưng lão không hề tỏ ra đắc ý mà cũng không tỏ khắc bạc, ngược lại càng ra vẻ cao thâm. Lão thầm nghĩ nên lùi một bước, chủ không nên lấn khách, đắc ý rồi nên tha, thứ mới gọi là độ lượng. Bởi vậy lão không nhìn Ngưu Phượng Chương, chỉ đặt ấm xuống, nhã nhặn nói:
- Đâu coi được là kiến thức, chẳng qua mấy câu chuyện phiếm thôi mà. Chuyện đời hầu hết đã mấy ai nói cho rõ, cho rành được đâu! Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, thật ra đều có lí cả. Người ta bảo việc nào cũng chỉ có một cái lí, còn tôi, tôi bảo việc nào cũng có hai cái lí. Mỗi người có cái lí của mình, thế là thiên hạ thái bình. Mọi người tranh nhau một cái lí, thế là thiên hạ bất an. Người xưa thích tìm ra sự thật, truy cứu xem gà đẻ ra trứng hay trửng nở ra gả. Ai đẻ ra ai mặc xác! Có gà chén, có trứng xơi, anh chén gà, tôi xơi trứng, anh chén trứng, tôi xơi gà; hoặc anh chén cả trứng lẫn gà, tôi cũng xơi cả gà lẫn trứng, thế chẳng đều ăn ngon, đều no bụng cả sao? Cư sĩ ơi! Thôi ta gạt chuyện phiếm đó ra một bên, chớ làm lỡ việc chính. Thi chân ngay bây giờ để ngài coi, ngài coi chân nhỏ rồi cho chúng tôi nghe lời bình, ấy mới thật là truyền kiến thức, có được không?
- Phải lắm, phải lắm! - Lã Hiển Khanh vừa nãy còn căm gan, rối ruột, lúc này gan ruột đều nở ra. Lão bị Đồng Nhẫn An dồn đến miệng giếng, tiến không, được mà lùi cũng không xong. Ai ngờ mấy câu vừa rồi của chủ nhà lại bắc sẵn bậc cho lão thư thái bước xuống. Lão thầm nghĩ đất Thiên Tân gây dựng nên từ bến tầu, người bến tầu ghê gớm lắm, thôi thì cứ cưỡi lừa nhẩn nha xem phong cảnh, nắm được dịp lại đấu một keo!
|
14-10-2008, 05:43 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ năm
Thất bại đau trong hội thi chân
Mọi người nghe nói hội thi chân bắt đầu đều hoan hô. Người xích ghế về phía trước, người dụi mắt, người đứng lên, ai nấy tinh thần phấn khởi. Nãy giờ không ai để ý, lúc này bỗng thấy ngoài hành lang cửa lớn có một mụ mặt vàng như nghệ đứng đó. Tuy cao tuổi nhưng thần sắc mụ không tầm thường tí nào. Mụ chải tóc theo kiểu Giang Tô, búi tóc nhỏ óng mượt nổi lên, ngoài bọc mạng tóc đen, gài hai đóa hoa nhài, một bông tường vi hàm tiếu màu phấn hồng. Mụ mặc toàn đồ đen, áo ngắn nhưng đường viền hoa rộng bản trên áo thật rực rỡ, vuông khăn trước ngực trắng bong không một hạt bụi, đôi chân nhỏ như hai chiếc bánh gói chặt chẽ, đen nhánh. Đôi giầy không trang điểm gì cả nhưng rất dễ coi.
Lã Hiển Khanh hỏi Kiều Lục Kiều:
- Ai đấy?
Kiều Lục Kiều đáp:
- Mụ vốn là a hoàn theo hầu vợ chủ nhà. Sau khi bà chủ mất, mụ vẫn ở lại nhà họ Đồng. Trước gọi là chị Phan, bây giờ gọi là u Phan. Cụ thấy đôi chân nhỏ của mụ vào cỡ nào?
- Hiếm thấy đấy! Theo tầm mắt tôi e rằng công phu bỏ vào đôi chân lại càng tuyệt hảo. "Cưng" của cụ Đồng nhà ta có phải không?
Ông Sáu Kiều liếc nhìn Đồng Nhẫn An, thấy lão ở gần quá bèn thầm thì:
- Cũng tương tự như cụ đấy. A, mà bộ mặt của mụ trông ghê cả người, chẳng ai dám giây với mụ.
- Ông Sáu nói câu ấy sai rồi. Chân đẹp không tính mặt mũi, chỉ kể chân chứ không kể đấu. Dễ mấy ai trọn vẹn được từ đầu đến chân?
Hai người trò chuyện bật cười thành tiếng. Đồng Nhẫn An lúc đó mới bảo mụ Phan:
- Chuẩn bị xong cả rồi thì mời khách đến.
Khách khứa ngồi đợi đàn bà con gái nhà họ Đồng từng người một ra khoe chân, không ngờ Đồng Nhẫn An bố trí cách khác. Cánh cửa hai bên vách ngăn lịch kịch rộng mở, hiện ra ba dãy nhà ở của gia đình họ Đồng. Hoa cỏ, hòn non bộ, lan can, ghế đu, hàng hiên, đôn sứ để ngồi trong sàn được ánh trăng trung thu soi sáng rõ mồn một, mặt đất cũng loang loáng như gương. Nhưng đám khách khứa chẳng một ai ngẩng đầu ngắm trăng sáng mà đều nghiêng ngó tìm xem chân nhỏ. Chỉ thấy trên dãy hành lang dài nối liền các căn phòng từ Đông Tây sang Nam Bắc treo một dãy đèn, ngay dưới đèn là cửa phòng và cửa phòng nào cũng đóng. U Phan quay lưng lại, khản giọng gọi: "Bắt đầu thi rồi." Các cánh cửa đồng loạt lách cách mở ra, cửa phòng treo rèm thêu các màu, giữa rèm đính một vuông giấy đỏ chói, viết bằng mực đen số một, số hai, số ba, số bốn, số năm, số sáu, tổng cộng có sáu phòng. Khách khứa cùng lúc thấy dưới rèm nào cũng để trống một khoảng cách chừng một thước ta, ở đó thò ra một đôi chân nhỏ. Những đôi chân này mỗi đôi trang điểm một cách, nào đỏ, tím, vàng, lam, nào dát vàng bạc, nào thêu hoa lá, nào đính ngọc châu, đều như của lạ của hiếm trên đời, dù tiên có giáng trần mà nhìn thấy cảnh này cũng phải ngẩn người ra. U Phan vừa nãy đứng ngoài hành lang đã biến đi đâu mất, cứ như Tôn Hành Giả độn thổ vậy.
Trong đám khách chỉ mình Lã Hiển Khanh thấy u Phan tuổi tuy già, người béo nặng nề nhưng đi như lướt trên nước, vậy thì kĩ năng của đôi chân ấy phải tuyệt diệu trên đời. Lão ghi nhớ điểm đó trong lòng chớ không nói ra. Đồng Nhẫn An bảo Lã Hiển Khanh:
- Ngài cư sĩ, bổn gia mấy lần thi trước đều do bà nhà tôi khi còn sống chủ trì, cách thi này do bà ấy nghĩ ra. Vì khách mời đến chấm có quen có lạ, người quen thì nể tình, khó bình luận công bằng, người lạ càng khó nói ai cao thấp; hơn nữa dâu con nhà chúng tôi đều xấu hổ nên đành buông rèm che mát, xin chớ lấy làm lạ.
- Hay lắm, hay lắm! Ở Đại Đồng quê chúng tôi thi chân theo lối dân gian, người xem đều từ các nơi xa đến, chẳng ai quen biết ai. Còn ở chỗ cụ đây đều là con cái trong nhà, làm cách này hay không gì bằng, nếu không, chúng tôi thật khó bình phẩm.
Đồng Nhẫn An gật đầu, lại nói với đám khách:
- Hôm trước, ông Sáu Kiều có nêu ý kiến trên mỗi bức rèm đều đính số. Các vị xem hân xong, đánh giá cao thấp thì nhớ kĩ lấy số rồi trở lại nhà khách. Trên nhà khách để sẵn giấy đã viết họ tên của các vị, mặt sau đề giáp, ất, bính, đinh. Các vị theo cách đánh giá của mình điền số phòng vào sau mấy loại giáp, ất, bính, đinh đó. Số phòng nào được nhiều chữ giáp nhất thì phòng ấy đứng đầu, sau đó lần lượt xếp hạng mấy phòng kia. Các vị nghe đã rõ chưa? Thi như thế có được không?
- Rõ ràng lắm rồi, khéo lắm rồi! Vừa đơn giản, mới mẻ lại vui, cụ Sáu Kiều thật là bậc tài tử. Ý kiến đề xuất xem chừng cũng tài hoa! Nào đi, nhanh nhảu lên! - Lã Hiển Khanh hăng hái, phấn chấn, gọi cuống cả lên.
Ai nấy đều khen hay, rối rít bảo nhau mau mau bắt đầu. Một hàng người do Đồng Nhẫn An dẫn đầu đi quanh hành lang từ Đông sang Tây, dừng lại trước mỗi cửa phòng quan sát, phẩrn bình, cân nhắc, bàn bạc, không tránh khỏi ngạc nhiên kêu to, làm huyên náo một hồi.
Qua Hương Liên ngồi ngay cửa phòng. Chỉ thấy những bóng người cao, gầy, thấp, béo in trên rèm. Có người cô nhận ra, có người không nhận ra, loạn xị bát nháo chẳng biết ai với ai, nhưng nghe rõ họ vây quanh đôi chân cô khen ngợi rồi bàn ầm lên:
- Đôi chân này thuộc phép bó mười bảy chữ đây, chữ nào cũng đến nơi đến chốn. Tôi đoán đây là nàng dâu trưởng của nhà họ Đồng ta, có đúng không?
- Cư sĩ vừa nãy cụ nói trong phép bảy chữ có chữ "hương" là thơm tho. Bây giờ cụ lại nói đến phép có những mười bảy chữ, chắc chắn trong số ấy cũng không thiếu được chữ "hương". Vậy xin hỏi cụ, chữ "hương" do đâu mà có?
- Ông Sáu Kiều này, văn nhân chúng mình ưa gót sen nên không thể làm tổn thương đến chữ nhã. Người thuộc nhà gia thế, có lẽ nào lại không "hương" được? Riêng chữ "hương" ấy chỉ có thể lĩnh hội bằng tâm hồn thôi!
- Cụ Đồng ơi! Vừa nãy nói trong hội thi chân chỉ được nhìn không được sờ mó, vậy ngửi chắc là được. Hả? ha, ha, ha, ha...
- Hương Liên thấy một bóng người trên rèm cúi xuống, tim thót lại, toan thu chân về thì lại thấy một bóng người béo lùn đứng bên giơ tay kéo người kia lại, cười hi hi ha ha nói:
- Ông Sáu Kiều này, nhắc đến chữ "hương" ấy mà, ngài thái thú ở Tô Châu chúng tôi cũng là người nghiện gót sen, ngài có đọc thuộc lòng cho tôi nghe một bài dân ca, tôi đọc lại cho ông nghe nhé!
Người đẹp trong buồng gót sen bó,
Mừng rỡ anh chàng liền đến ngó:
"Nương tử ơi, chân sao mà nhỏ!
Tựa búp măng trời đông mới ló,
Như bánh ngọt giữa ngày Đoan ngọ,
Vừa ngọt ngào lại vừa thơm tho,
Hương phật thủ tháng sáu đem so,
Đã xinh xinh lại còn nhỏ thó!"
Người đẹp nghe xong mặt bửng đỏ:
"Tham sắc mê hoa chàng phải gió!
Đêm nay chàng thiếp lộn đầu ngủ,
Gót sen để ngay bên mũi nọ.
Hỏi chàng thơm ngọt chừng nào đó,
Muốn nếm, xin mời, măng mới nhú!"
Người này đọc giọng Tô Châu như hát mà không phải hát. Đọc xong, người bật cười, người vỗ tay, người bảo bất nhã, người nhắc lại để chế riễu Sáu Kiều, thế là Hương Liên được giải vây.
Bỗng một giọng nói quen tai cất lên:
- Các vị xem tới đi, chân đẹp còn ở sau này cơ ạ!
Cả đám người kéo đi theo tiếng gọi, dừng bước trước cửa một phòng phía tây để xem chân và bình phẩm, nhưng không náo nhiệt như vừa nãy trước cửa buồng Hương Liên. Đến phòng sau cùng, họ ào lên rồi tản đi như chảo mỡ sôi bị vảy nước. Có tiếng người nói:
- Thật chẳng cách gì biết được đôi chân nào là chân nàng dâu trưởng của cụ cả
Rồi tiếng nói quen tai lại cất lên:
- Đôi nào đẹp thì đôi ấy đấy, mà đôi này đẹp thì là đôi này!
Hương Liền chợt nhận ra đó là tiếng chú hai Đồng Thiệu Hoa. Cô mơ hồ cảm thấy có chút gì trục trặc, điều cô vốn tin chắc thì nay cô lại lo đến toát mồ hôi. Cô nghe thấy đám khách cười nói trở lên nhà trên ồn ào đi điền số phòng. Một lúc lâu sau, Đồng Thiệu Hoa xướng số phiếu trên nhà:
- Cụ Sáu Kiếu, giáp số một, ất số hai, bính số sáu. Cụ Lã, giáp số một, ất số hai, bính số bốn. Cụ Bảy Hoa, giáp số hai, ất số một, bính số bốn. Ông Năm Ngưu, giáp số một, ất số hai, bính số ba. Cụ chủ Bạch ở Tô Châu, giáp số hai, ất số một bính số bốn. Cụ chủ Khưu ở Tô Châu, giáp số một, ất số hai, bính số năm. Quy tất cả số phiếu lại, số một được xếp loại giáp nhiều nhất, đứng đầu, số hai kém hơn, đứng thứ nhì; số bốn thứ ba.
Qua Hương Liên mừng quá, trong một lúc như thấy rèm sáng bừng lên lại nghe Đồng Thiều Hoa gọi:
- U Phan đâu, bỏ rèm ra, mời các mợ các cô ra chào khách!
Ngay sau đó Hương Liên thấy trước mắt sáng lòa, mấy chục chiếc đèn chiếu vào mắt. Ngoài tiền sảnh đèn nến sáng trưng, khách đứng lố nhố, trước cửa phòng vây quanh đều có một phụ nữ đẹp như hoa ngồi đó.
Đồng Thiệu Hoa phấn chấn như vừa được quất ba roi. Hắn vốn mắt lồi, mặt nhờn mỡ, hôm nay lại càng bóng nhẫy. Hai tay hắn đang giơ cao một tờ giấy điều rắc kim nhũ viết kín tên người và chữ số, đứng ngoài tiền sảnh xướng to:
- Số một, Bạch Kim Bảo là vợ tôi? Cô ra cảm ơn các cụ đi! Số hai, Qua Hương Liên, chị dâu tôi. Số bốn, Đổng Thu Dung, em dâu tôi. Ba người còn lại đều là a hoàn nhà chúng tôi, Đào Nhi, Hạnh Nhi, Châu Nhi. Xin mời các vị ra cho!
Qua Hương Liên ngớ người ra. Cô là dâu trưởng phải số một chứ sao lại số hai? Nhầm lẫn hay là Đồng Thiệu Hoa cố ý giở trò? Quay đầu nhìn lại, chữ dán trên rèm rõ ràng là số́ hai. Nhưng căn cứ vào đôi chân của mình thì dù viết số nào đi nữa cũng phải xếp thứ nhất chứ? Cô không tin mình lại bị Bạch Kim Bảo đánh bại, nhưng khi nhìn đến đôi chân cô ta thì lạ thay, cứ như Bạch Kim Bảo mới đổi một đôi chân khác, xinh xắn nõn nà, thấp thoáng trong đôi giầy màu xanh nhạt. Rõ ràng hai bàn chân như hai chiếc lá táo, mũi giầy đính hạt ngọc sáng lấp lánh như hai giọt sương long lanh trên lá. Lúc này cô ta đang từ phòng đi ra, bước đi cũng khác hẳn ngày thường, váy là thêu hoa cử như bay trên mặt đất; dưới gấu váy, mũi giầy lúc ẩn lúc hiện càng khiến con mắt thêm thèm. Hương Liên đứng lên bước ra ngoài phòng, những tưởng đôi bướm trên mũi giầy áp đảo được Bạch Kim Bảo. Cô nâng eo váy lên, đôi bướm lộ ra nhưng đôi chân chợt như dựng đứng lên, không ẩn hiện được, chẳng khác gì hai cái chĩa xiên cá giương hai đầu nhọn hoắt. Còn Bạch Kim Bảo đi tới trước mặt mọi người chắp tay chúc phúc, chân phải không lộ ra, nhưng cố ý thò chân trái ra ngoài một thoáng. Cái thoáng ấy cho người ta nhìn thỏa thích nhưng nhìn lâu hơn nũa thì không được. Hương Liên cũng ngẩn người ra vì một thoáng ấy. Chân Bạch Kim Bảo vốn to hơn chân cô làm sao trông lại nhỏ hơn chân cô được nhỉ? Chả lẽ nào vừa mới đẽo đi một miếng? Đôi giầy lại càng tinh xảo lạ kì, từ mép đế giầy cho đến quần phủ ngoài đểu là những đường thêu tinh tế hết mực. Từ bé đến giờ Hương Liên chưa thấy đôi giấy nào trang điểm đẹp mà sang đến thế. Còn đôi bướm in hoa của mình chẳng qua bà ngoại bỏ ra hai chục đồng xu mua ở cửa hàng bán son phấn, so ra, quê kệch quá!
Trong buổi tối nay, quê kệch thì cũng hết hơi luôn! Cô thấy lạnh buốt từ gót chân lên đến thắt lưng, chỉ muốn quay đầu chuồn về phòng, đóng cửa trốn cho kĩ. U Phan gọi Đào Nhi, Hạnh Nhi, Châu Nhi bưng ba cái đôn sứ hoa xanh đặt ở giữa sân để mời ba mợ ngồi.
Hương Liên định kéo váy xuống trùm kín chân nhưng vừa nãy vì muốn để lộ đôi bướm ra, váy đã kéo cao, thắt lưng quấn chặt không sao kéo xuống được, đôi chân bó như cố tình phơi ra ngoài để làm cô xấu mặt. Cô không dám nhìn chân mình, không dám nhìn chân Bạch Kim Bảo, càng không dám nhìn mặt cô ta. Mặt Bạch Kim Bảo hẳn là rạng rỡ lắm.
Đồng Nhẫn An bảo Lã Hiển Khanh:
- Cư sĩ cứ theo kết quả lựa chọn mà xét thì cụ quả là phi thường. Cụ thấy đấy, các vị khác có người đúng hai sai một, có người đúng một sai hai, có người thứ tự cao thấp lộn đầu đuôi, chỉ có cụ số cũng đúng mà số một cũng đúng. Chẳng hay cụ phẩm bình gót sen theo quy cách nào?
Lã Hiển Khanh nghe nói rất đắc ý, đang tính trả lời thì Kiều Lục Kiều đã nói nhanh:
- Vẫn cái phép bảy chữ ấy chứ đâu?
Lã Hiển Khanh vừa bị thua khi đọ học vấn, lần này không thể lại thua, liền phùng má nói:
- Phép bảy chữ là phép thông dụng nhất để xếp hạng khi bình phẩm gót sen.
- Phân chia như thế nào, xin chỉ giáo! - Đồng Nhẫn An truy hỏi, thành ra hai người lại vào cuộc đấu.
- Trước hết phải nói sáu chữ đã.
- Chẳng phải bảy chù hay sao mà lại sáu chữ? Càng nói càng tối mò! - Kiều Lục Kiều vừa cười hi hi ha ha vừa nháy mắt với người bên cạnh, định chọc chơi cái lão Sơn Tây này.
Lã Hiển Khanh đã già dặn chốn giang hồ tất nhiên hiểu ý đó. Lão quyết ý trổ tài cho mấy lão này coi, bèn nghiêm trang nói:
- Nghe cho rõ thì không khó hiểu đâu. Chân bó xấu hay đẹp là ờ hình thái. Hình thái là thế nào? Là hình với thái. Nói hình trước, nói thái sau. Hình phải có đủ sáu chữ, tức là ngắn, hẹp, mỏng, bằng thẳng, nhọn. Ngắn là nói về độ dài từ ngón đến gót, nên ngắn chứ không nên dài; hẹp chỉ bề rộng từ trái qua phải, nên hẹp chú không được rộng, lại còn cần trước sau tương xứng với nhau. Thông thường chân bó trước hẹp sau to, nhu cái móng lợn ắt không đẹp. Mỏng chỉ bề dầy từ dưới lên trên, nên mỏng chứ không nên dầy; thẳng chỉ gót chân, gót chân phải thẳng chứ không được vẹo, điểm này phải nhìn từ phía sau lên. Bằng chỉ mu bàn chân, nên bằng chứ không được gồ lên, nếu hơi võng xuống ruột chút thì càng khéo. Nhọn chỉ ngón chân, cần nhọn chứ không được tù, nhưng chỉ nhọn không thôi cũng chưa được mà phải hơi vút lên mới đẹp. Ai cũng bảo gót sen miền Bắc cong xuống dưới, gót sen miền Nam cong lên trên, nhưng điều cốt yếu không phải chỉ cong đơn giản là được. Lòng bàn chân phải cong xuống, ngón chân phải vút lên, nhưng vút phải vừa đúng độ. Vút lên quá như đuôi con rết, quặp xuống quá như đuôi con chuột đều không được chọn. Đó là nói hình của gót sen.
Mấy câu đó Hương Liên nghe mà như sa vào chốn sương mù, không ngờ chân bó cũng lắm lí lẽ đến thế. Chiếu theo lí lẽ đó, chân mình cũng gọi là chân, nhưng chẳng khác nào hai củ khoai sọ đeo dưới mắt cá. Khách khứa ngoài tiền sảnh nghe xong lí lẽ của Lã Hiển Khanh đều bất giác đổ dồn mắt vào Đồng Nhẫn An. Họ mong người tài ở vệ Thiên Tân trổ tài nghệ ra đè bẹp cái lão cứng cựa về kĩ nănǵ ở nơi khác đến này. Nhưng Đồng Nhẫn An cứ bưng cái ấm trà nhỏ, ngoẹo cổ lim dim mắt thong thả tu từng ngụm, chẳng biết lão có nắm được bài bản hay không mà không thấy bắt lời, chỉ truy hỏi:
- Đó là hình, còn thái thật sao?
Lã Hiển Khanh liếc lão một cái, nghĩ bụng mặc kệ lão có biết hay không ta cứ lấn một hồi cho hả giận đã.
- Về thái thời chia làm ba bậc. Có gót sen thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng.
Hương Liên giật mình, thầm nghĩ mình bị xếp loại hai, chắc lão già này cũng cho mình vào loại trung đẳng đây.
- Nói loại thượng đẳng trước cái đã! - Tay khách buôn Tô Châu đang mải nghe, vội giục.
- Được, để tôi nói. Gót sen thượng đẳng lại chia làm ba loại. Chân bó thon dài như cái búp măng, huyện Đại Đồng chúng tôi gọi là "lát dưa chuột", nhã hiệu là "gót sen cánh thoa". Chân bó đáy hẹp mu bằng, hơi cong như cánh cũng, nhã hiệu là "gót sen chiếc lá". Chân bó vừa nhọn vừa xinh như củ ấu, nhã hiệu là "gót sen củ ấu”. Trong ba loại này, đệm một miếng ở giữa lòng bàn chân, gọi là "gót sen xuyên tâm", đệm một miếng ở gót cho cao lên, gọi là "gót sen đài biếc". Đấy là loại thượng đẳng.
- Ngài cư sĩ ắt hẳn dư sức, mau nói cho nghe loại trung đẳng là thế nào! - Kiều Lục Kiều nhắc.
- Bàn chân dài bốn năm tấc, cũng ngay ngắn, bước đi không cảm thấy thô vụng, má giầy không có góc cạnh nào lồi lên, gọi là "gót sen cạnh gấm". Bàn chân đầy đặn mà không mập thù lù, tựa đầu ngỗng, ai thấy cũng thích, gọi là "gót sen đầu ngỗng". Hai chân ngay ngắn, chỉ phải tội bước đi thành hình chữ bát, nếu chụm đằng ngón gọi là "gót sen chụm đầu", nếu chĩa đằng ngón gọi là "gót sen tịnh đế". Đấy đều là loại trung đẳng cả.
- Gớm mấy cái tên nghe còn hay hơn cả tên món ăn nhà hàng Toàn Tụ Đức! - Kiều Lục Kiều vừa cười vừa nói.
- Cụ Sáu muốn nhìn hay là muốn ăn đấy?
- Đừng có xía ngang! Cư sĩ, cụ chớ để họ làm ồn mà ngắt lời nhé, nói tiếp luôn gót sen bậc dưới nữa đi nào!
Lã Hiển Khanh nói:
- Hôm nay trong dinh cụ Đồng đây không có loại hạ đẳng. Gót sen của ba nàng dâu cụ đều là loại thượng đẳng. Nếu ở hội thi chân phủ Đại Đồng chúng tôi, tôi dám nói thế nào cũng đoạt giải quán quân!
Mấy câu này không biết lão nói thật, nói chơi, nót mép hay khách sáo nhưng cả ba nàng dâu trẻ đều phải đứng lên cảm ơn lão. Trong lúc người đứng người ngồi, Bạch Kim Bảo vô ý để lộ bàn chân nhỏ qua vạt váy, Qua Hương Liên thừa dịp ấy để ý nhìn chợt giật mình, chân của Kim Bảo hôm nay nhỏ hơn ngày thường ít nhất cũng phải tới một tấc! Chẳng hay mắt mình nhìn lầm hay cô ta có phép lạ?
Lã Hiển Khanh lại nói với Đồng Nhẫn An:
- Tôi tuy nghiện gót sen song so với cụ ít nhất cũng còn kém ba bậc. Vừa nãy đánh trống qua cửa nhà sấm, xin cụ chớ chê cười kẻ vô tri mà chỉ bảo nhiều nhiều cho mới phải.
Đồng Nhẫn An mắt vẫn để vào một chỗ, không biết đang nghĩ gì, chợt nghe Lã Hiển Khanh nói, có khác gì lão đến trước cổng gọi mình ra tỉ thí, bèn thoáng sầm mặt xuống rồi nói:
- Trong sách Đồng âm luận hoạ (Bàn về tranh dưới bóng cây vông), ông Tần Tổ Vịnh chia tranh làm bốn phẩm loại. Cao nhất là dật phẩm (vẽ như chơi), thử nhì là thần phẩm (vẽ được cái thần), thứ ba là diệu phẩm (vẽ tuyệt khéo) cuối cùng mới là năng phẩm (vẽ đạt). Theo tôi, dật và thần nên đổi chỗ cho nhau, thần là loại cao nhất. Vẽ đạt dễ nhất, cũng là loại đễ đạt được nhất. Vẽ được cái thần khó nhất và cũng khó đạt được nhất. Nói về nghề đồ cổ của chúng tôi, muốn biết tranh thật hay tranh giả, phải xem giấy, mực, xem giấy hay lụa để bồi, xem lạc khoản, xem con dấu, xem đầu trục cuốn, mọi thứ đều chẳng khó, chỉ cần để tâm nhớ kĩ là không đánh lừa nổi con mắt. Nhưng khi có tay cao thủ làm tranh giả, cả giấy, mực, lụa, gấm hắn dùng đều là những thứ của đương thời, thậm chí con dấu cũng là dấu thật thì làm thế nào? Hơn nữa, tranh đời Tống giả chẳng cứ đều do người đời sau làm ra mà ngay thời nhà Tống đã có người làm giả rồi kia? Xem màu giấy, xem nét mực đều đúng của thời đó, vậy mà không có cách gì nữa sao? Kì thực, nếu chú ý một điểm quan trọng hơn nữa thì vẫn phân biệt được, ấy là phải xem cái thần! Tranh thật thời có thần, tranh giả thời không có. Cái thần ấy ở đâu mà ra? Chẳng hạn núi rừng có khí núi, khí rừng, vẽ ra trên giấy là không còn nữa. Nhưng học sĩ cao thủ thì cảm được cái khí của núi rừng nên trong bức tranh thủy mặc của ông ta vẫn toát lên tinh thần đó của rừng núi. Đấy là cái khí trong tim, trong lòng, là cái thần khí. Làm tranh giả không khi nào làm giả được cái đó. Chân nhỏ nhiều người có, người nào cũng bỏ công phu, nhưng mới chỉ có được cái hình, cái thái. Trong thế gian... không thể nói không có... thần phẩm, nó... nó… nó...Nói đến đây Đồng Nhan An bỗng tắc họng, hai con ngươi dựng đứng lên ngơ ngơ ngác ngác, xa vắng mông lung, hư hư ảo ảo, cứ nghiệt ra. Từ xa ngó thấy, Hương Liên đã lo ông ta bị trúng gió.
Lã Hiển Khanh cười bảo:
- Chắc hẳn nó thần bí lắm chứ gì? - Lão yên chí Đồng Nhẫn An không có bài bản, chỉ nói khoác mà chơi.
Bỗng ngoài cửa xông vào một anh chàng béo. Thì ra cậu cả Đồng Thiệu Vinh về đến nhà nghe tin hôm nay thi chân, Bạch Kim Bảo đoạt giải nhất, vợ chàng bị đánh bại liền gầm lên:
- Tôi phải giết chết con đàn bà thối tha này!
Cậu ta quẳng lồng chim đang cầm đi. Mấy con chim cổ đỏ vừa mới thua gặp may vỗ cánh bay biến. Cậu chàng vớ lấy cái then chặn cửa chạy lên nhà vụt đánh Hương Liên. Mọi người ào vào lôi kéo nhưng cậu cả ngốc rất khỏe, bọn Kiều Lục Kiều, Ngưu Phượng Chương đều mã học trò, đã chẳng can ngăn nổi lại còn xơi mấy gậy, đến nỗi răng cửa Ngưu Phượng Chương bị lung lay. Một đòn phang trúng cái đôn sứ Hương Liên vừa ngồi khiến nó vỡ̃ tan. Đồng Nhẫn An đập bàn thét lớn:
- Bắt lấy thằng súc sinh!
Đám đàn ông giúp việc chạy lên hợp sức mới túm được cậu cả, khó khăn lắm mới lôi được vào trong phòng. Vào đến phòng, cậu ta vẫn còn phang bàn đập ghế gào lên:
- Tôi không thèm cái con chân thối ấy nữa đâu!
Khách khứa chẳng ai dám ho he, chỉ an ủi Đồng Nhẫn An vài câu rồi ai nấy len lén lủi mất.
Tối hôm ấy, cậu cả dở hơi còn làm ầm ĩ suốt đêm, lôi tuột cả giầy và vải quấn chân của vợ ném qua cửa sổ ra ngoài sân. Lúc canh ba còn đánh Hương Liên một trận thậm tệ khiến cô gào khóc ầm ĩ chạy ra khỏi phòng.
Hương Liên đầu tóc rũ rượi, chân trần, đứng giữa sân mà khóc.
_____________
[1]Tên con sông bắt nguồn từ sông Tang Càn ở Sơn Tây, nước thường đục.
[2]"Nhạc theo điệu Nghê thường làm say người múa; mồ hôi thơm toát đầy người ngại cho tấm áo đơn; buộc chân nhỏ như vượt sóng, cong cong ba tấc; vẻ dẹp nghiêng nước chẳng khác gì một đóa hoa."
[3]"Một thước đếm đo giảm bốn phần, mây nhẹ bọc búp măng thon nhỏ."
[4]Tên thứ thước do bộ Doanh tạo (xây dựng) đời Minh, Thanh quy định, một thước bằng chín tấc sáu thước chợ.
[5]Dép giày mũi nhô, áo quần hẹp.
[6]Chân đi giầy tơ đỏ, mũi nhô nhọn thon thon.
[7]Giày lớn giầy nhỏ góc cao, bó bằng vải màu nâu.
|
14-10-2008, 05:45 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ sáu
Trên tiên lại có thần
Qua Hương Liên thất bại trong cuộc thi chân, như lộn đầu rơi xuống tận đáy vực. Bất kể việc gì cũng vậy, thường khi nào rơi xuống tận đáy bấy giờ mới hiểu rõ ra. Ở tít bên trên thường mù mờ, mụ mẫm, ở quãng giữa cũng dế hồ đồ, ở nhà họ Đồng này chân không đẹp là đi tong. Gia đình ấy như một bàn cờ, chân nhỏ là quân cờ, sai một nước là thế cờ của cả bàn lập tức biến đổi.
Bạch Kim Bảo dữ dằn hẳn lên. Cái vẻ khách sáo đối xử với Hương Liên hồi cô mới về làm dâu, bây giờ không còn một chút gì nữa, dường như cô ta phải nén giận đến tám chục năm, lúc này mới trút hết cả ra. Thỉnh thoảng cô ta lại chửi mèo mắng chó, cả những câu xóc xỉa cũng tung ra, Hương Liên đâu dám bắt lời! Lúc đầu cô không hiểu vì sao Bạch Kim Bảo khách khí với mình, bây giờ cô cũng chẳng rõ vì sao cô ta nổi giận với mình đến thế. Bạch Kim Bảo thấy cô không bắt lời lại càng tức điên lên. Chẳng biết cô ta kiếm ở đâu một đôi giày to dài tám tấc, tục gọi là "giầy thuyền" đem bày trước cửa buồng Hương Liên để bêu xấu cô. Hương Liên tức đến ứa nước mắt nhưng không dám động đến cô ta. Người khác cũng chẳng ai dám động đến.
Nàng dâu thứ tư ở góa là Đổng Thu Dung cũng có chút biến đổi về địa vị trong gia đình cô. Trước đây Bạch Kim Bảo luôn ghen tức với cô, mặt hằm hằm với cô nhưng sau buổi thi chân lại tươi cười với cô; hễ có bà con bè bạn đến chơi là kéo Thu Dung sang chuyện trò tiếp khách, chẳng thèm đếm xỉa gì tới Hương Liên nũa. Thu Dung được chiều mà hóa sợ, trước vốn đã sợ Bạch Kim Bảo, bây giờ có muốn thân mật cũng chưa kịp chuyển đổi thái độ nên càng ngại gặp mặt Bạch Kim Bảo hơn.
Đồng Thiệu Hoa rạng rỡ mặt mày. Khi nào ở mãi ngoài cửa hiệu phát ngán muốn về nhà, hắn lại chưng lá cờ "mợ Hai", nói mợ Hai tìm hắn, thế là phưỡn bụng ra về. Đống Nhẫn An cũng không hay biết. Nhưng sau chính mợ Hai lại xua hắn, hễ hắn mò về là mợ lại đuổi đi. Xưa nay Đồng Thiệu Hoa quen cưỡi cổ Bạch Kim Bảo, mặc sức giở trò, đận này Bạch Kim Bảo chỉ coi hắn như chó con. Chẳng ai rõ vì sao mợ Hai đột nhiên lại dữ dằn với cậu Hai như thế. Riêng Qua Hương Liên biết. Sớm tối cô thấy năm lần bảy lượt Đồng Nhẫn An lẻn vào phòng Bạch Kim Bảo, nhưng bây giờ cô tránh vạ còn khó, hơi đâu đi gây vạ làm gì? Vả lại người trong nhà cứ vây lấy Bạch Kim Bảo, có biết cũng giữ kín trong bụng, ai chịu nói ra? Trong số a hoàn, chỉ Đào Nhi đối xử tốt với Hương Liên vì cô vốn được chỉ định hầu hạ mợ Cả; nhưng bây giờ hễ cô bước chân vào buồng Hương Liên là Bạch Kim Bảo lại gọi Đào Nhi đi làm việc cho cô ta, khó có dịp hai chân kịp bước cả vào buồng Hương Liên. Một hôm giữa trưa, thừa dịp Bạch Kim Bảo ngủ trưa, Đào Nhi lẻn vào buồng Hương Liên mách khẽ với cô, từ ngày mợ Hai không cho cậu Hai làm chủ, cậu Hai bỏ ra ngoài làm bậy; trước đây cậu vào một cái ổ ở phố bán quần áo cũ chơi, về nhà im thin thít sợ lộ chuyện; bây giờ cậu Hai chẳng sợ gì nữa, suốt ngày chơi bời ở làng hoa xóm liễu; lúc nào nhịn không nổi, cậu đến cả hồ Lạc Mã nếm thử của tanh tao, bọn chị em ở đấy đều là gái quê to khỏe như vâm, tính tiền theo giờ. Cái đồng hồ nước ngoài quay nửa vòng là bốn chục tiền đồng; đến giờ mụ tú bà lắc chuông, chưa xong cũng phải móc tiền ném ra ngoài trả cái đã. Đào Nhi kể, như vậy là tiền trong két mặc tình cho cậu Hai tiêu xài. Đám Kiều Lục Kiều bám lấy cậu ta, đeo dính cậu ta mời ăn, mời uống, mời xem, mời chơi rồi lại mời ăn, mời uống, mời xem, mời chơi lượt nữa.
Cụ ông hẳn biết rồi!
- Xưa nay cụ chủ có để hết tâm trí vào cửa hiệu đâu, mợ chẳng biết gì cả!
Hương Liên biết, có điều không rõ mình biết được nửa non hay nửa già.
Ở cái nhà này, nhìn tới nhìn lui chỉ có u Phan là không có gì thay đổi. Mụ ta ở trong gian phòng xép góc phía Đông Bắc sát cạnh buồng ngủ của Đồng Nhẫn An. Thường ngày mụ ở lì trong phòng, thỉnh thoảng mới thấy đem phơi những mẫu giầy, những kẹp vải ra nắng hay mở cửa gọi mèo. Con mèo mụ nuôi cũng giống chủ, lông ngắn, bóng lộn, đen quyền, cực hung, y như hổ đói. Ban ngày nằm ngủ trong buồng, suốt đêm nó lên nhà trên đánh nhau với lũ mèo hoang từ đâu lọt vào, kêu như quỷ khóc sói gào, có lúc làm rơi loảng xoảng cả gạch ngói trên mái xuống. Đào Nhi kể, cả nhà này không ai rời được mụ, tất cả các kiểu giầy đều do mụ nghĩ ra. Hôm thi chân, đôi chân của Bạch Kim Bảo phải nhờ mụ trang điểm giùm. Có thể nói, trong thiên hạ không ai có được những kiểu giầy như mụ.
- Mợ Cả ạ, mươi hôm nửa tháng, bà ấy cũng vào các buồng nhìn ngó, đôi giầy nào không đẹp, bà ấy mang đi sửa lại. Nhưng bà không vào buồng mợ. Mợ không thấy trước hôm thi chân, bà ấy ngày nào cũng đến buồng mợ Hai à? Chính bà ấy làm mợ thất bại hôm thi chân đấy! Không biết vì sao bà ta cứ theo mợ Hai mà ghét bỏ mợ.
Hương Liên không đáp mặc dù trong lòng cô có điều muốn nói. Cô là người tinh tế nên đã nhận thấy từ sau buổi thi chân, u Phan không đến phòng Bạch Kim Bảo nữa.
Biến đổi dữ dội nhất phải kể anh chồng dở hơi của Hương Liên. Cô không hể ngờ anh chàng dở hơi cũng coi trọng chân bó đến thế. Trước chỉ dở hơi, đến lúc này hóa điên thật. Người điên càng không có chuẩn mực, khi lên cơn hắn gây sự với Hương Liên, có lúc lấy giây buộc màn trói hai chân cô lại đe sẽ đem bán đi để mua chim chơi. Đó là lúc vui vẻ, còn khi nổi xung lên, hắn cầm dùi đâm vào chân cô, máu thấm ướt cả vải bó chân. Hương Liên đã có mang, Đào Nhi và mấy a hoàn dỗ ngọt cậu Cả rằng trong bụng mợ có em bé của cậu, em bé có đôi chân nhỏ ăn đứt thiên hạ, cậu phải đối xử với mợ thật tử tế để mợ sinh cho cậu đôi chân nhỏ. Nói thế mà được việc, cậu Cả nghe xong lập tức thay đổi hẳn, ngày nào cũng nâng chân Hương Liên đưa lên hôn, hôn mãi. Một hôm đi đâu về còn mua cho Hương Liên cả một gói mứt táo khiến cô tủi thân khóc hoài. Nhưng mấy hôm sau, hai thằng ranh mất dạy chặn cậu Cả giữa phố trêu chọc:
- Nghe nói cụ nhà cưới cho cậu cô vợ chân to, lại sắp đẻ cho cậu đứa con gái chân to nữa đấy nhỉ!
Cậu Cả trợn mắt lên, vớ con dao làm bếp đẩy cửa vào phòng, đòi mổ bụng Hương Liên xem đôi chân nhỏ. Hắn gân cổ gào lên:
- Ông già nói dối tao, tao không tin đứa nào, mổ ra coi!
Vài ngày nay, Hương Liên lòng như tro lạnh. Chẳng biết ai đem câu chuyện thi chân ra kể lại cho bà cô nghe. Bà nghe xong uất lên ngất đi. Được tin, Hương Liên bổ về nhà, bà lấy hết hơi tàn bảo cô.
- Bà chẳng hiểu làm sao lại hủy hoại chân cháu được, cháu ơi!
Thế là bà cụ chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, mang theo nỗi hối hận làm người thiên cổ. Hương Liên không còn đường lui, lại thấy gã dở người cũng không để cho cô sống, liền chẳng sợ gì nửa, xé toạc áo phanh ra hai bên để lộ cái bụng trắng tròn như trống, trợn mắt bảo cậu Cả:
- Mổ đi! Tôi ngán sống lắm rồi, muốn sao cũng chiều!
Ngờ đâu con dao vất đánh "xoẻng" trên đất, cậu Cả dở dại lại rập đầu trước Hương Liên. Đầu cậu đập xuống gạch xanh cứ chan chát, hơn chục cái liền ngất đi, trán và mũi đều tóe máu. Khi tỉnh lại, cậu không làm ồn, cũng chẳng nới, cứ khóc ngớ ngẩn, bỏ cả cơm, rồi nước cũng chẳng uống một giọt. Không cách nào đổ thuốc được cho cậu, thế là cậu đi tong. Con người to lớn đang sống là vậy mà chết đi thật dễ như bỡn.
Câu "Bạch mã phạm vào thanh ngưu, Gà Khỉ chẳng được bạch đầu" đã ứng nghiệm. Hương Liên lấy chồng chưa đầy năm đã ở góa. Nhờ có chí nên lòng cô chưa chết, cô chỉ mong đẻ được đứa con trai. Bên nhà Bạch Kim Bảo và Đổng Thu Dung toàn con gái, Đổng Thu Dung một đứa, Bạch Kim Bảo hai đứa. Nghe nói mợ Ba ở miền Nam là Nhĩ Nhã Quyên cũng sinh con gái nốt. Hương Liên phải đẻ con trai để nối giõi cho nhà họ Đồng, để cuộc đời cô dễ thở hơn lên. Nào ngờ ý muốn thì mạnh nhưng số không mạnh, con cô cũng là con gái. Bây giờ muốn sửa, sửa không xong; muốn thêm, thêm không nổi! Đẻ được ít lâu đứa bé lên sởi khắp người. Lòng cô lạnh giá như băng, đầu chẳng chải, chân chẳng bó, con chết thì chết, con chết xong đến cô chết. Nhưng đứa bé máu thịt của cô khắp người mẩn đỏ, ngứa khóc cả ngày cả đêm. Tiếng khóc làm cô không ngơ được, mỗi ngày một bận cô bế con lên đền thờ đức bà, thắp hương cầu khấn đức bà sởi đậu. Trước tượng đức bà còn có tượng ba ông râu dài bằng đất, gọi là "đức ông xoa gãi", chuyên gãi cho trẻ con lên sởi khỏi ngứa; lại có một con chó đen bằng đất, chuyên liếm nốt sởi, nốt đậu cho trẻ. Hương Liên thắp hương liền bảy ngày, bệnh sởi của con bé đỡ hẳn. Ai dám bảo đức bà không thiêng?
Một hôm u Phan bỗng vào phòng cô, nắm lấy chân con bé xem một hồi rồi ngạc nhiên kêu lên:
- Lại một đôi chân trời sinh hiếm hoi nữa đây?
Sau đó bà ta giương đôi mắt lồi phát khiếp nhìn dán vào Hương Liên bảo:
- Cụ ông bảo tôi đặt tên cho cháu. Thôi cứ gọi là Liên Tâm nhé!
Hương Liên nghe xong hai mắt ngây dại, lúc u Phan bước ra cũng chẳng nhìn. Đào Nhi bưng cơm vào cho cô. Từ ngày cậu Cả chết đi, Hương Liên gần như rơi xuống địa vị a hoàn, đến bữa cũng không dám ngồi chung bàn với bố chồng và các cậu các mợ. Đào Nhi hỏi cô:
- Có phải mợ Hai lại chửi đổng phải không? Mợ đừng để ý làm gì, mợ ấy có chửi, mợ bịt tai cho em, cũng chẳng mất gì.
Hương Liên cứ ngồi ngây bất động. Đào Nhi lại nói:
- Em thấy mợ Tư lòng dạ cũng tốt. Thịt xé trong bát mì nước này là mợ ấy gắp vào cho mợ đấy. Trước kia đôi chân mợ ấy đâu có kém chân mợ Hai! Không may một lần khêu chai chân bị mưng mủ, thịt thối ra, sau khỏi nhưng chân gầy tọp đi. Cái hôm thi chân, em khuyên mợ ấy đệm thêm ít bông nhưng mợ ấy không chịu. Mợ ấy sợ mợ Hai biết sẽ chửi mợ ấy. Nhưng em thấy..., mà mợ đừng nói với ai đấy, ngón chân mợ Hai hôm ấy cũng đệm bông vì ngày thường ngón chân mợ ấy quặp xuống kia! Chẳng phải một mình em nhận ra đâu mà Châu Nhi, Hoa Nhi cũng nhận thấy hết, chỉ không dám nói ra mà thôi!
Đào Nhi muốn gợi cho Hương Liên nói chuyện, vả chuyện ấy cũng dễ khiến người ta thích nói, nhưng Hương Liên vẫn nín thinh, chẳng thèm để ý, thần sắc khác thường như người mất hồn vậy. Đào Nhi tưởng lúc này cô chưa gỡ được mối phiền nên bỏ đi, không quấy rối cô nửa. Hương Liên cứ ngồi ở mép giường cho đến tận nửa đêm, tay cầm bàn chân trắng bóc, thơm tho của con gái, miệng lẩm bẩm mãi câu nói của u Phan:
- Lại một đôi chân trời sinh hiếm hoi..., đôi chân trời sinh hiếm hoi..., đôi chân trời sinh hiếm hoi...!
Khoảng canh ba, Hương Liên đứng lên khóa cửa lại, mở gói thạch tín nhỏ bỏ vào bát, đổ nước cho tan rồi đặt ở đầu giường. Cô lên giường cởi chân ra lấy vải quấn chân mình với chân con lại với nhau, vừa khóc vừa nói:
- Con ơi! Mẹ có muốn giết con đâu! Vì đôi chân này mà đời mẹ tan nát, mẹ không muốn con cũng tan nát như mẹ. Cũng không phải mẹ ra đi nên bắt con cùng đi mà là mẹ đưa chân con, đi cùng với con. Nhớ nhé, con gái của mẹ! Con có xuống đến điện Diêm Vương cũng đừng oán trách mẹ nghe con!
Đứa bé đang ngủ. Nước mắt người mẹ rơi xuống má con như chính đứa bé khóc. Rồi Hương Liên quay phắt người lại, bưng lấy bát thuốc độc toan đổ cho con uống trước.
Bỗng cạch một cái, cửa sổ mở toang ra, trước khung cửa tối mò có một người đang đứng. Ánh đèn trong phòng soi tỏ một khuôn mặt đàn bà già, mặt nhăn nheo ngang dọc, đôi mắt thô lố nhìn xoáy vào cô trông đến sợ.
- Ma! - Hương Liên buột miệng kêu, bát thuốc độc rơi xuống đất.
Trong lúc hoảng hốt, cô tưởng hồn bà cô hiện về, rồi lại tưởng đó là hồn mẹ chồng cô chết từ lâu mà cô chưa hề biết mặt. Nhưng bên tai cô đã vang lên tiếng nói của mụ già, giọng khàn khàn, nghiêm nghị:
- Muốn chết mà còn sợ ma à? Nhìn lại xem là ai?
Hương Liên định thần nhìn lại, thì ra là u Phan. Mụ bảo:
- Mở cửa ra cho tôi vào nào!
Hương Liên thấy là mụ ta thì vững lòng, không cởi vải buộc chân ra, lại ngoảnh đi chỗ khác. U Phan trèo cửa sổ vào nhà đứng ở đầu giường, cười nhạt:
- Sống không biết sống, nhưng chết thì biết chết đấy!
Hương Liên vẫn còn quyết chết nên chẳng thèm để ý tới mụ. U Phan bước tới, cầm chân Hương Liên lên, lật qua lật lại, rồi nắn, rồi ấn, rồi xem xét, ngắm nghía mãi từ trái qua phải, từ trước ra sau, chẳng khác nào ngắm nghía một đồ vật tinh xảo. Hương Liên cứ để mặc, dường như bàn chân ấy không liền với người có. Lòng cô đã chết, chân còn sống được sao? U Phan tay cầm chân cô, mắt nhìn chỗ khác, thở phào một cái, nói:
- Con mắt ông ta tinh thật! Nếu ta có đôi chân này thì nhà họ Đồng lại chẳng phải nhà của ta sao?
Im lặng một lát, mụ quay lại bảo Hương Liên:
- Nếu mợ bằng lòng, mợ giao đôi chân này cho tôi, đảm bảo mợ sẽ đi đứng ngang nhiên trong nhà họ Đồng này!
Mấy câu này nói rất chắc chắn, từng chữ một như đinh đóng cột. Mụ chờ Hương Liên đáp lời. Lát sau không thấy cô lên tiếng, mụ lạnh lùng bảo:
- Đeo vòng vàng mà chịu nghèo túng, thôi làm hồn ma khiếp nhược cũng đáng kiếp rồi đấy!
Nói rồi quay lưng bỏ đi. Nhưng đôi chân nhỏ của mụ chưa bước ra khỏi ngưỡng cửa, tiếng Hương Liên đã vang lên sau lưng:
- Bà nói phải, tôi nghe theo bà.
U Phan quay lại. Từ ngày Hương Liến bước vào nhà họ Đồng, lần đầu tiên cô thấy u Phan cười. Quen nhìn vẻ mặt lạnh lùng, nay mụ chợt cười lại càng phát khiếp. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay, Hương Liên thấy dễ chịu hơn là thấy mụ cười. U Phan hỏi:
- Ai bó cho mợ đôi chân này?
- Bà tôi!
- Bà cụ đã không phụ mợ! Mợ nghe kĩ đây. Đôi chân mợ bẩm sinh xương thịt mềm, trong thiên hạ không có đôi thứ hai. Bó được đủ cả nhọn, hẹp, phẳng, ngay, không hề sai sót. Bà cụ thật giỏi, không bó sai cho mợ, coi như đã tác thành cho mợ. Nhưng đáng trách là trách mợ không biết cách chăm sóc, chẳng khác nào một miếng thịt ngon chỉ biết bỏ muối vào luộc mà không biết sào rán hấp hầm, để cho mợ làm hỏng thật uống. Đôi chân cũng như một miếng ngọc, không bỏ công phu vào, có khác chi mảnh đá? Chỉ nói riêng buổi thi chân hôm ấy cái đôi giầy bướm cũng gọi được là giầy à? Nó là cái hộp rách đựng đồ điểm tâm, là cái giỏ đựng tương cà! Cái cần thì không có, chân đẹp xỏ vào nó có ra kiểu gì? Lại nói sao mợ không đi giầy đế cong? Nhà mợ Hai ấy, chân bốn tấc, đi giầy đế cong, chân cong theo, bốn tấc nhìn như ba tấc. Chân mợ vốn ba tấc thế mà để cho đôi giầy quê kệch ấy làm hỏng, nhìn còn to hơn cả chân mợ Hai, không oan sao được? Không đợi thất bại còn đợi gì nữa?
Một tia sáng xanh lóe lên trong mắt Hương Liên:
- Bà cho tôi biết, còn cứu chữa được không?
- Nếu không có cách, nói chuyện với mợ làm gì?
Hương Liên cởi giải vải buộc chân ra, thụp xuống đất, rập đầu ba lần trước u Phan:
- Xin bà chỉ dẫn cách thức cho tôi được vươn dậy!
Mắt Hương Liên tóe lửa. U Phan lạnh lùng bảo:
- Mợ đứng dậy đi! Mợ là chủ nhà, không nên quỳ trước kẻ ăn người ở. Mà tôi cũng chẳng phải vì mợ đâu! Mợ vì mợ, tôi vì tôi, nhưng cả hai đều phải dùng đến đôi chân của mợ, cho nên chằng ai phải cảm ơn ai cả.
Hương Liên hiểu được một nửa, còn nửa kia có không hiểu. U Phan chẳng kể cô có hiểu hay không, mở đánh "soạt" một cái hộp sơn đặt trên bàn. Chẳng biết cái hộp này để trên bàn tự lúc nào, ngoài sơn đen, trong sơn đỏ, góc gắn những con dơi bằng đồng. Trong hộp là một mảnh lụa hoa màu vàng. Lật mảnh lụa lên, u Phan lấy ra một đôi giầy nhỏ như bó hoa chùm gấm, nghệ thuật thêu có thể nói có một trên đời, lớp hoa này lồng trong lớp hoa khác, tinh xảo đến mức nhìn thoáng không thấy được. Chăm chú nhìn, nào là giây leo bìm sắn, chim cá đời xưa, thú chạy mây bay, nào là sóng biển, hoa văn chữ vạn vòng vèo, chỗ nào cũng sinh động, tinh vi ngay ngắn; cầm lên tay, hương lạ thơm sực nức chẳng khác nào hai đóa hoa. Đặt lên tay, đôi giầy dài rộng vừa bằng gan bàn tay, vừa nhẹ, vừa mềm, vừa xinh xẻo, cong cong như đôi móc như ý bằng vàng ròng; nhìn đến đế, đế làm bằng gỗ đàn hương tía.
- Mợ đi thử coi!
- Đôi này e chưa tới ba tấc, tôi đi vừa chăng?
- Không vừa mà tôi lại bảo mợ đi à?
Hương Liên cẩm gót giày, xỏ ngón chân vào dận xuống một cái, chỉ cảm thấy trơn láng, đế giầy lướt sát lòng bàn chân, đi vừa vặn ngay ngắn, không to không nhỏ. Ơ, giầy xem có vẻ bé hơn chân, làm sao lại vừa vặn đến thế? Cô ngẩn ra nhìn u Phan. Mụ bảo:
- Tôi đã bảo mà, chân ba tấc mà cong lên, nhìn se nhỏ hơn ba tấc. Đây là đế giầy kiểu cổ, dáng đẹp, cong cong như cầu, gọi đúng tên là đế cánh cũng. Đế này không như đế bằng gỗ liễu bán ngoài chợ hiện nay, cứ cong thế nào cũng được. Quy củ xưa là giầy ba tấc, đế gỗ chỉ dài hai tấc sáu, cong bảy phân. Mợ đo đôi chân của mợ mà xem nhiều nhất chỉ cong có ba phân, đâu có được? Thôi tốt rồi, bây giờ mợ lồng đôi bao gấu quần này ra ngoài xem thế nào.
U Phan mở hộp lấy ra đôi bao gấu quần. Đón lấy xem, Hương Liên thấy đường thêu công phu chừng ấy e không thể có ở nơi khác. U Phan bảo:
- Đều do Đào Nhi thêu đấy! Sau này cần gì mọ cử bảo con bé ấy.
Hương Liên ngạc nhiên không thốt nên lời, cúi Xuống lồng đôi bao gấu quần vào. Giầy mầu lục, bao quần màu phấn hồng, chỉ thêu toàn màu nhạt, tím nhạt, lam nhạt, vâng nhạt, gụ nhạt, xám nhạt, nâu nhạt, pha thêm chỉ bạc, vừa nhã vừa tươi, càng làm cho đôi chân xinh xắn, mềm mại, khéo léo đáng yêu. Cô không ngờ mình lại có đôi bàn chân nhỏ như thế. Cô nhìn u Phan, thầm nghĩ mụ ta ắt sẽ khen mình. Nhưng u Phan bảo:
- Mợ đứng dậy đi mấy bước xem! Nhớ kĩ, chân nhỏ có bốn điều kị. Ngồi kị đung đưa, nằm kị dựng thẳng, đứng kị nhón gót, đi kị cong ngón chân lên.
Hương Liên thử đứng dậy. Vừa đứng lên, cô thấy mình như đứng trên sào, đung đa đung đưa, chân như bám chắc lại như không. Cô vội thu ngón chân về người liền đổ về đằng trước, suýt nữa ngã sấp mặt; gót vừa nhúc nhích, người lại ngửa về phía sau, chỉ chút nữa là chỏng gọng. U Phan ấn cô ngồi xuống bảo cởi giầy ra, còn mình ngồi đối diện túm lấy mớ vải bó chân của Hương Liên vất hết đi, bảo:
- Mợ Cả ạ, gắng chịu tội nợ lần nữa để tôi bó lại chân cho mợ. Mợ đi giầy đế ít cong quen mất rồi do cách bó nên chân chưa đủ độ cong đấy thôi.
Nói xong, trong tay mụ đã có một cuộn dải vải màu xanh khổ hẹp, ngay ngắn. Chẳng kể có có bằng lòng hay không, chân cô như đã trở thành vật của mụ. Ngón cái mụ khều một cái, đầu cuộn vải đã được đặt lên chân cô, nhanh hơn cả con bọ nhảy. Mụ dặn:
- Mợ nhìn kĩ đây để lần sau cứ thế mà bó.
Hương Liên để ý nhìn, để ý ghi nhớ. U Phan dặt đầu cuộn vải vào cạnh trong bàn chân, qua mắt cá phía trong đưa lên kéo gập ngón chân cái về phía gan bàn chân, vòng ra sau gót thít chặt rồi qua cạnh ngoài bàn chân vòng xuống dưới buộc cứng bốn ngón quặp vào gan bàn chân. Rồi lại vòng qua cạnh ngoài bàn chân lên mu bàn chân, vòng qua cạnh ngoài lên gót chân, quành ra ngón chân, trở về gan bàn chân, qua ngón cái vòng lên mu chân, trở xuống bốn ngón dưới gan bàn chân, qua cạnh ngoài bàn chân lên mu vòng về gót, gập cong ngón chân hai lần trở về cạnh trong. Sau đó cứ cạnh trong ngón cái, mu chân, gan bàn chân, cạnh ngoài, mu chân, gót chân, ngón chán đủ ba lấn, trở về đến chỗ bắt đầu thi quấn vòng khác. Hương Liên nhận thấy cách bó này không khác mấy so với cách bó của bà cô, có điều nhanh tay hơn, vải bớ quành đi quành lại không hề gập mép, từng lượt từng lượt bó chặt cứng không hở, dùng sức đều, không có chỗ chặt chỗ lỏng. Nhưng vòng đến lần thứ tám thì cách bó bỗng thay đổi. U Phan dùng thêm cuộn vải bó chân khổ rộng và giải thích:
- Đây là vải bó chân, cách bó cũng là cách bó chặn mu bàn chân, chuyên trị thiếu sót bàn chân không đủ độ vòng cũng của mợ.
Vừa nói, bàn tay mụ đã cầm dải vải ngoắc lấy ngón chân cái, trở qua mu bàn chân, từ rìa ngoài vòng xuống dưới kéo lấy gót chân, chuyển lên trên vừa vặn bó lấy xương bàn chân, vòng phía trong quấn lấy mu bàn chân, quặt qua lại mấy lần, coi như ghim chặt được đầu dải vải. Tiếp đó từ gót chân chuyển lên cổ chân, chặn lấy nửa trước mu bàn chân, từ gót chân kéo căng gập đầu ngón chân cái rồi bọc kín lên mu bàn chân, như thế là chặn được một vòng. Cứ vừa bó vừa chặn, vừa chặn vừa bó, cho đến khi quấn hết cả dải vải dài hơn một trượng. Hương Liên cảm thấy mu bàn chân căng cứng, gan bàn chân như không còn gì, gót chân và bàn chân như bị người dùng hai tay bẻ cong về phía dưới, tựa hồ bị rút gân. Nhìn thì dễ coi, có đáng, có hình, trên cong trước lượn, xinh xắn đẹp đẽ nhưng khi xỏ vào đôi giầy vải xanh dùng khi bó chân cong vòng cũng mà u Phan đưa cho, Hương Liên cảm thấy rất khó chịu, bước đi như người đi cà kheo.
- Chịu được không? - U Phan hỏi, đôi mắt lồi nhìn chằm chằm vào cô, rõ ràng có ý cật vấn.
Hương Liên rạch ròi trả lời:
- Đã định sống ắt phải gắng chịu. Còn những gì nữa bà cứ bảo!
U Phan lạnh lùng liếc cô một cái rồi gật đầu, mở hộp lấy ra cái thước con bằng ngà vừa ba tấc, dùng đã lâu nên cũ kĩ vàng bóng, những chấm nhỏ trên thước đều khảm bằng bạc. Mụ đưa thước cho cô, bảo:
- Thước này chuyên dùng đo chân. Mợ Hai không dùng được, chân mợ ấy to hơn thước này.
U Phan bật cười hềnh hệch, tiếng cười như làn hơi giá buốt thấm vào xương cốt người ta.
- Tối nào mợ cũng lấy nước nóng rửa chân, rửa xong, bó như cách tôi bó vừa nãy. Nhớ kĩ, đôi chân đẹp thì khi đi ngủ cũng không được cởi vải bó. Bó xong lấy thước đo. Ở đây tôi còn có tờ ghi kích thước mẫu chân, mỗi một đốt xương bàn chân đều có kích thước, không được sai một li một lai, chỗ nào gồ lên thì phải ấn chỗ ấy xuống. Đây, cho mợ!
U Phan lại đưa cho Hương Liên một tờ biểu mẫu cũ nát in ván gỗ trên giấy Nguyên thư [1] , toàn là chữ ghi kích thước cả.
Hương Liên cầm lấy xem. Kể như lần đầu tiên cô ngó qua khe cửa để nhìn kho kiến thức về chân nhỏ, nhưng chỉ mới nhìn cô đã hoa cả mắt.
Từ đêm ấy, đêm nào cũng vào lúc canh ba, u Phan đúng giờ đẩy cửa bước vào phòng giúp Hương Liên chỉnh lại bàn chân, dạy cho cô đủ loại quy củ, phép tắc cách néo buộc, cách kiêng khem, độ tinh xảo, kĩ năng và bí quyết; dạy cho cô các cách rửa chân, chữa chân, chăm chân, quý chân, pha thuốc và khều chai chân như thế nào. Dần dần mụ còn dạy cô tự làm lấy giầy cánh cũng, làm đủ loại đủ kiểu khung giầy, vót thẻ tre, đóng chốt kéo, lượn cửa giầy, khâu bao gấu quần. Tất cả những thứ đó, bất kể cách làm, phối màu, chọn nguyên liệu hay kích thước đều có quy củ nghiêm ngặt, không được sai, nếu không sẽ bị người trong nghề chê cười. Chưa biết, làm thế nào cũng xong; biết rồi, không thể không theo đúng quy củ. Quy củ này lồng trọng quy củ khác, hết lớp tỉ mỉ đến lớp chặt chẽ, nghiêm ngặt. Càng đi sâu càng say mê, càng hứng thú, càng học hỏi được nhiều điều. Dưới mức nó thì bị nó áp chế, cao hơn nó thì áp chế lại nó. Hương Liên quả thật không biết trong đầu óc u Phan còn bao nhiêu thử nữa, có lẽ cả đời học không hết. Được cái Hương Liên là cô gái biết để tâm để ý, hơn nữa còn biết tận tâm nên điều gì cũng học đến nơi đến chốn.
Tuy chân cô bẩm sinh mềm mại, xương chưa đến nỗi cứng đơ nhưng dù sao đã lớn, chân bó thành hình, không thể như nhựa, như đất sét trong tay thợ. Đôi bàn chân bó cong hình cánh cũng chạm xuống đất đã đau đớn như muốn đứt rời, chẳng khác nào phải chịu cực hình một lần nữa như năm xưa. Song cô đâu có sợ! Cực hình cũng phải chịu, đau thì cố nén, gắng nhịn, gắng bó, gắng dẵm, gắng đi, gắng khắc phục mình! Bạch Kim Bảo mắt tinh nhận thấy ngay liền chửi đổng:
- Đồ móng thối! Bó nát ra lại chẳng thối như chuột chết!
Hương Liên vờ như không nghe. Câu chửi ấy dù như lưỡi dao, cô cũng cố nuốt vào bụng. Cô chỉ nghĩ sẽ có ngày nhờ đôi chân nhỏ có một không hai trong thiên hạ, có sẽ dẵm cả nhà họ Đồng xuống dưới chân, chỉ không biết số cô có cho có trả mối hận đó hay không mà thôi. Cô chẳng suýt chết vì số phận đó hay sao?
Hôm ấy, cô bế Liên Tâm ra đón nắng ở hành lang. Đồng Nhẫn An đứng ở cửa buồng vặt lông mũi. Lão vặt mạnh, mặt nghiêng đi, từ xa lão đã liếc thấy đôi chân Hương Liên. Đồng Nhẫn An mắt tinh như thế nên lập tức nhận thấy đôi chân cô đã đổi khác rất nhiều, nhìn đã ra dáng lắm. Lão bước tới, bảo:
- Chiều nay, lên phòng ta! - Lão chỉ nói thế là đi ngay.
Từ khi Hương Liên về nhà họ Đồng, đây là lần đầu tiên cô lên phòng bố chồng, mà cũng ít thấy ai lên đó. Nhà một phòng giữa, hai gian đầu hồi, khắp phòng là sách, tranh và đồ cổ, có mùi ẩm thấp, mùi sách, mùi long não, mùi chè lâu năm, mùi mốc, nồng nặc đến mức ngạt thở. Cô vừa vào đã muốn quay ra đổi không khí. Bỗng hai mắt Đồng Nhẫn An đổ dồn vào chân cô, ánh mắt như có tay níu chặt lấy chân, cô không sao nhấc lên nổi. Đồng Nhẫn An chợt hỏi:
- Ai giúp con sửa sang đôi chân thế?
- Tự con ạ.
- Không phải, chắc là u Phan!
- Không ạ, tự con mà? - Hương Liên không hiểu ý Đồng Nhan An, sợ liên luỵ đến u Phan, một mực chối.
- Con mà có kĩ năng này thì lần thi chân trước đây đã chẳng thất bại...
Đồng Nhẫn An đưa mắt nhìn chỗ khác, không biết suy nghĩ gì mà lẩm bẩm một mình:
- Ôi cái mụ già ấy! Càng sửa sang cho đôi chân này thì mụ càng không có phần...
Lão đứng lên bước vào căn buồng phía đông, tay ngoắc Hương Liên đi theo.
Hương Liên sợ hãi, không biết bỏ chồng có định mân mê bàn chân cô hay không; suy nghĩ lại, đôi chân này ai mân mê mà chả như nhau. Họa phúc thật khó lường,mà họa phúc đối với cô cũng như nhau cả, cứ theo vào rồi sẽ hay.
Trong phòng này càng chồng chất nhiều đồ cổ và giá sách hơn nữa, từ đất lên tới tận nóc. Rèm cửa bằng giấy cũng không cuốn lên, tối mò mò. Tim Hương Liên đập thình thình, nhưng chỉ thấy Đồng Nhẫn An trỏ tay vào một kệ sách bảo cô nhìn. Trên kệ đặt ngay ngắn một cái đã sứ đời Tống nhỏ vẽ chỉ bạc, trên đã úp một cái bát trắng. Đồng Nhẫn An bảo cô lật bát lên. Hương Liên không biết bố chồng giở trò gì, tim càng thót lại. Cô đưa tay lật bát lên, úi chà, trên đĩa có một đôi giầy rất xinh bằng đoạn đỏ trơn, không thêu hoa, màu sẫm mà lại tươi, đôi đế bằng gỗ đàn hương tía đã cũ cong như con sóng đỏ lặng lẽ nổi bật trên chiếc đĩa trắng. Mũi giầy lộ ra một cái móc nhỏ bằng đồng cổ, cong một nửa vòng tròn về phía trên, không sao nói hết vẻ thanh tú, cổ kính, tinh xảo, trầm lặng, trang trọng, siêu thoát, nhàn nhã, tự nhiên thoải mái. Chúng thật sinh động mà lại giống một thứ đồ cổ. Bất kể thứ giầy hoa lá rực rỡ nào cũng bị vẻ trầm tĩnh, cổ nhã này đè bẹp.
- Thưa cha, đồ cổ triều đại nào đấy ạ? - Hương Liên hỏi.
- Cổ đâu mà cổ, đấy là đôi giầy mẹ chồng con đi hồi còn sống.
- Đôi bàn chân xinh đẹp dường này có lẽ chỉ có một không hai trong thiên hạ. - Đôi mắt xinh đẹp của Hương Liên tròn xoe vì kinh ngạc.
- Ta cũng tưởng là như thế, ai ngờ trời chưa dứt của này nên mới sinh ra một đôi chân như của con, đôi chân còn xinh hơn cả chân mẹ chồng con. - Mặt Đồng Nhẫn An sáng loang loáng.
- Chân của con ư? - Hương Liên cúi đầu nhìn đôi chân mình nghi hoặc hỏi.
- Bây giờ thì chưa. Chân con mới chỉ có dáng.
- Còn thiếu cái gì nữa ạ?
- Chưa có cái thần thì chưa thành.
- Học có được không ạ?
- Chỉ sợ con không chịu mà thôi.
- Cha ơi, xin cha giúp con với! - Hương Liên quỳ sụp xuống.
Nào ngờ Đồng Nhẫn An cũng quỳ sụp xuống trước mặt cô, giọng run run nói:
- Chính con tác thành cho ta mới phải.
Đồng Nhẫn An xúc động hơn cả cô. Cô không hiểu vì sao Đồng Nhẫn An cũng giống u Phan, chỉ hi vọng ở đôi chân cô. Có lẽ bố chồng muốn thưởng thức đôi bàn chân cô. Hương Liên có cách tính của cô. Khắp người chợt nóng ran, cô đứng dậy giơ chân cho bố chồng. Đồng Nhẫn An ấp lấy bàn chân của con dâu nói:
- Ta không vội. Hoàn chỉnh đôi chân này đã rồi hãy hay. Con học được mấy chữ rồi?
- Học qua loa đủ đọc được Hồng lâu mộng ạ.
- Tốt quá! - Đồng Nhẫn An lập tức đứng lên lấy mấy cuốn sách đưa cho cô. - Xem đi xem lại cho kĩ, bao giờ cả tâm lẫn thần lĩnh hội được, ta sẽ mở hội thi chân lần nữa cho con, đảm bảo con sẽ đứng thứ nhất!
Lúc này Hương Liên mới cảm thấy rồi đây chỉ một phát, cô sẽ đá tung cửa nhà họ Đồng. Cô ôm sách về phòng, nôn nóng mở ra đọc. Một quyển đề Bó chân theo tranh, có tranh vẽ; một quyển là Hương diễm tùng đàm của Lí Ngư, cũng vẽ tranh vẽ người; quyển thứ ba mỏng hơn, toàn chữ, đề là Năm điều của họ Phương. Nhìn qua đọc kĩ đến mấy bài mới rõ, đôi chân nhỏ có thế mà lại rộng lớn hơn cả thế giới, mới rõ trên thân thể người phụ nữ chỗ nào cũng cần chú ý đến quy củ, phép tắc, mực thước, tiêu chuẩn, kiêng khem, cấm kị, từ cách giơ tay, đưa chân, đi đứng, nằm ngồi, ánh mắt, dáng môi, giọng nói cho đến chải đầu, sửa áo, thoa phấn, tô son, đeo cài đồ vật, tắm gội, nuôi giữ da v.v… Không có một loạt những thứ đó, chỉ có một đôi chân xinh cũng không thành. Biết được một loạt cũng cách ấy mới thực sự hiểu biết về gót sen. Kiến thức của u Phan mới ở ngoài da, đây mới thật đi sâu vào tận xương cốt. Nếu so sánh, bà ngoại cho cô quả đào, thì u Phan cho cô thấy cái hạt, Đồng Nhẫn An đập hạt ấy ra, bên trong còn có nhân đào, nhân đào lại có những một trăm lẻ tám cách ăn. Thế mới gọi là:
Trên giỏi còn có tiên,
Trên tiên lại có thần.
__________
[1]Giấy sản xuất ở mấy huyện trong tỉnh Chiết Giang màu ngà vàng, hơi thô, làm bằng hóp đá.
|
14-10-2008, 05:47 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ bảy
Thiên Tân tứ tuyệt
Hôm nay mấy ông lớn họp mặt nhau, bàn về người kì việc lạ trong vệ Thiên Tân, chọn lấy bốn sự việc tuyệt đỉnh, góp thành "Thiên Tân tứ tuyệt". Mấy vị đó giao hẹn trước với nhau, bốn sự việc này đều phải là người thật, chuyện thật, lại phải được tất cả gật đầu thì mới được tính. Điều quan trọng hơn là những chuyện, những người đưa ra ấy phải rất xôm, để người nơi khác nghe xong ắt trợn mắt há mồm, ruồi có bay vào miệng cũng không biết mới đáng kể. Bàn đi tính lại mãi chỉ góp được có ba việc.
Việc thứ nhất là người ghê gớm, chuyện gớm ghê.
Ấy là vùng am Bạch Y trong thành có một người buôn đồ sắt, đại danh là Vương Ngũ, rất ác, đánh người như cơm bữa, đám côn đồ lau nhau quanh đấy đều nể sợ gã, tặng gã biệt hiệu Tiểu Tôn, gọi gộp cả lại thành Tiểu Tôn Vương Ngũ. Mấy năm trước, bọn côn đồ ở vệ Thiên Tân hay gây rối, kinh thành liền cử một nhân vặt lợi hại về đây làm tri huyện dẹp bọn côn đồ. Người này họ Lí, nghe nói là cháu quan Trung đường họ Lí. Trước ngày nhậm chức, có người báo cho ông ta biết bọn côn đồ ở vệ Thiên Tân đều là những kẻ dám lấy đầu người giắt vào thắt lưng, không động được đến chúng, nên thừa lúc còn sớm sủa mà từ chối đi. ông họ Lí tủm tỉm cười lắc đầu, không để tâm chuyện ấy. ông sẽ cứng rắn với chúng, sợ gì? Ngày đến nhậm chức, quan ra cáo thị, bắt bọn côn đồ toàn thành phải đến ghi tên đãng kí. Ai đã từng đánh nhau dù không côn đồ cũng phải đăng kí; ai phải đăng kí mà không đến đăng kí ắt bị bắt giam. Quan còn dặn dò ông chánh ti họ Đằng làm việc dưới quyền chuẩn bị nhiều giấy thừng, cùm xích. Ông chánh ti họ Đằng này người cao lớn đen trùi trũi, mặt mày dữ tướng nổi tiếng gớm ghê. Lâu nay bọn côn đổ giữ mối quan hệ "nước giếng không phạm tới nước sông" với ông, nhưng bây giờ ông nhận công vụ thì câu chuyện ắt khác. Tiểu Tôn Vương Ngũ hay tin, gọi một bọn đàn em tới nhà, nghếch cằm lên hỏi:
- Ở vệ Thiên Tân này trừ ta ra, còn ai ghê gớm?
Bọn đàn em lúc ấy đều sợ quan huyện họ Lí và chánh ti họ Đằng, liền kể hai người đó ra. Tiểu Tôn Vương Ngũ nghe xong không nói năng gì, sợi gân xanh chạy từ lông mày lên đến chân tóc cứ giật lia lịa. Sáng sớm hôm sau, gã cầm con dao phay đến nhà ông chánh ti, giơ nắm đấm lên đập cửa ầm ầm. Ông chánh đang ăn sáng, miệng còn nhai hoa quả đi ra mở cửa, nhận ra Tiểu Tôn Vương Ngũ bèn hỏi:
- Có việc gì?
Tiểu Tôn giơ con dao phay lên, lưỡi hướng vào mình, phập một nhát chém một miếng lớn vào trán, máu túa ra. Gã nói:
- Ngài cầm dao chém tôi, hai ta cùng lên trình quan.
Chánh ti họ Đằng ngơ ngác rồi chợt hiểu, ấy là gã đến thi gan với mình. Theo luật chơi ở vệ Thiên Tân, nếu lúc ấy ông chánh ti nói: "Ai chém nhà anh bao giờ?", thế là sợ, là chịu thua, đâu có được? Ông Chánh gồng mặt lên, bảo:
- Phải, ta thích chém nhà ngươi, lên quan thì lên!
Tiểu Tôn liếc nhìn ông, nghĩ bụng tay này cũng ghê gớm đây. Hai người cùng vào huyện đường, tri huyện thăng đường xử kiện. Tiểu Tôn quỳ xuống thưa:
- Bẩm con họ Vương tên Ngũ, bán đậu phụ trong thành. Ngài chánh ti ăn đậu phụ của con một năm nay không trả tiền, sáng nay đến đòi tiền ngài, ngài chằng nói một lời, cầm luôn dao từ trong nhà ra chém con một nhát. Bẩm quan nhìn xem, hung khí còn đây, con giật được, còn vết chém cũng có đây, hiện đang rỉ máu. Quan lớn như trời biển, xin hãy xử giùm cho dân mọn chúng con!
Tri huyện họ Lí nghĩ thầm, huyện đang truy nã những kẻ đánh nhau gây rối, đường đường là một vị chánh ti trong nha môn, thế mà lại gây sự! Quan quay mặt qua ông chánh ti hỏi chuyện ấy có thật không. Nếu ông chánh ti đáp "Bản chức không chém hắn, hắn tự chém hắn đấy ạ" thì coi như thua. ông chánh ti tất nhiên hiểu luật chơi đó của bọn côn đồ, đành lại gồng mặt lên thưa:
- Bẩm người này nói đúng. Tôi ăn chịu của hắn một năm đậu phụ chưa trả tiền, sáng nay hắn dám đến tận nhà đòi nợ, tôi liền chém cho một nhát. Con dao này là dao mổ gà chặt thịt của nhà tôi.
Tiểu Tôn lại liếc ông cái nữa, bụng bảo dạ: "Chớ có tưởng, tay này cũng thật sự ghê gớm đây!"
Quan huyện họ Lí vừa ngạc nhiên vừa tức giận, gắt lên với chánh ti họ Đằng:
- Làm sao biết pháp luật mà ngươi còn phạm pháp?
Quan đập thước xuống án, quát to:
- Quân bay đâu! Đòn tay! Năm chục!
Nha dịch khiêng cùm ra, tóm bàn tay ông chánh, nhét ngón tay cái vào lỗ cùm, dằn ngửa bàn tay ra, cầm thước bằng gỗ táo vụt xuống, vút vút vút vút một chục thước, gan bàn tay đã sưng đến hai tấc, vút vút vút vút lại mười lăm thước nữa, tổng cộng hai lăm roi. Mới được một nửa, đầu ông chánh đã không giữ thẳng được nữa, đôi vai chắc nịch thõng xuống như bị rút gân. Tiểu Tôn Vương Ngũ đứng bên nhìn thấy, nhếch mép cười hềnh hệch rồi giơ tay lên nói:
- Bẩm quan lớn trời biển, xin đừng đánh nữa. Vừa nãy con toàn nói nhăng nói cuội, ấy là con đùa với ông chánh ti. Con không bán đậu phụ mà bán đồ sắt ông chánh không ăn đậu phụ của con mà cũng không nợ nần gì con. Nhát dao này không phải ông chém con mà là con tự chém. Dao phay không phải của nhà ông mà của cửa hàng con. Quan nhìn coi, trên lưỡi dao còn đánh dấu hai chừ "Vương kí" đó?
Quan huyện họ Lí ngơ ngác, sai nha dịch coi lại dao, quả nhiên có hai chữ "Vương kí", bèn hỏi ông chánh xem sự thể là thế nào. Ông chánh ti họ Đằng nếu phủ nhận, phải chịu hai nhăm roi nữa, nếu gật đầu công nhận, coi như chịu thua. Nhưng tay ông chánh cũng chỉ bằng da bằng thịt, bị đánh nhừ tử, thêm một roi nữa chẳng chịu được nào, đành gục cả đầu xuống, như vậy cũng là thừa nhận Vương Ngũ không nói sai. Tri huyện họ Lí khó xử quá. Vương Ngũ tự chém mình, bắt tội ai được? Nếu thôi đi, quan lớn quan bé trong huyện chẳng phải bị gã trẻ tuổi này bỡn cợt hay sao? Còn nếu bảo thằng ấy có tội vì dám bỡn cợt quan huyện, chẳng hóa ra thừa nhận mình ngu xuẩn để nó cho vào xiếc? Đang lúc ngài cưỡi hổ khó xuống nên nóng nảy giận dữ ấy, Vương Ngũ lại rất khoái, thưa rằng:
- Bẩm quan lớn như trời như biển, Vương Ngũ con không biết nông sâu, chỉ ham đùa cợt, làm rộn gây rối ngay chốn nha môn, xin quan chớ có nhẹ tay với Vương Ngũ này như thế, cứ phải năm chục hèo vào tay. Thôi thế này vậy, quan cứ gộp hai lăm hèo vừa nãy ông chánh còn thiếu vào cho con, tất cả là bảy lăm hèo một thể.
Tiểu Tôn Vương Ngũ không đợi nha dịch lôi kéo, tự đi đến đút ngón cái bàn tay phải vào cùm, vai nhô lên, lòng bàn tay ngửa ra cho đánh. Vút vút vút vút, liên tục hai lăm roi, mắt nhìn thấy tay sưng lên theo từng roi, đến năm chục roi thì máu rợi thịt nát. Vương Ngũ mắt thấy tay như thế mà vẫn coi như không, lại còn cười như nhìn thấy đĩa lòng xào hổ lốn. Đòn xong, gã tạ ơn quan huyện, quay người đi luôn.
Chưa đầy ba ngày sau, quan huyện họ Lí trở về kinh xin từ chức, tâu với hoàng thượng cử người giỏi khác. ông chánh ti họ Đằng cũng xin thôi việc về quê. Việc ấy người ấy, hỏi có ghê gớm không?
Ai nấy gật đầu, đều bảo chuyện này người nơi khác nghe kể ắt lạnh gáy, đủ là một tuyệt.
Việc thứ hai là người giàu xài ngông.
Vệ Thiên Tân có nhiều người giầu. Giầu nhất có "bát đại gia", gồm nhà họ Hàn, chủ hiệu Thiên Thành sửa chữa tàu bè, nhà họ Cao chủ hiệu ích Đức Dụ, nhà họ Dương chủ hiệu Trường Nguyên, nhà họ Hoàng chủ hiệu Chấn Đức, nhà họ Trương chủ hiệu ích Chiếu Lâm, nhà họ Mạc chủ hiệu Chính Hương Đức, nhà họ Lưu ở Thổ Thành và nhà họ Thạch ở Dương Liễu Thanh. Người giàu ắt có chuyện xài sang. Nhưng chuyện thường kể như nhà nào tổ chức hiếu hỉ linh đình nhất, nhà nào nấu cháo thí bày đầy nhà, ai muốn vào ăn tùy ý, liền tù tì trong ba tháng v.v... đều không được tính. Ắt phải có một chuyện như thế nào để người ta nghe xong, cả đời không quên, thế mới được.
Năm ấy nhà Hải Trương Ngũ buôn muối phát tài, bỏ tiền túi ra sửa chữa pháo đài, cũng là một chuyện. Nhưng phân tích kĩ, việc bỏ tiền ra cốt để mua danh, không kể được là xài ngông, do vậy còn thiếu tí chút mới đủ tiêu chuẩn.
Hôm nay một vị nêu ra câu chuyện có thể nói là không tiền khoáng hậu. Ấy là mùa hè năm ngoái, họ Cao chủ hiệu ích Đức Dụ làm lễ mừng thọ cho bà mẹ tám mươi tuổi. Con cháu tỏ lòng hiếu thuận, hao tổn tâm tứ bày ra cuộc lễ linh đình mong cố bà vui. Không ngờ cố bỗng phán:
- Đời ta cái gì cũng thấy cả rồi, chỉ chưa được thấy đám cháy bao giờ, cả vòi phun nước cứu hỏa như thế nào cũng chưa được thấy. Hai chục năm trước, tiệm bán dầu ở phố Hàng Nồi bốc cháy, làm đỏ rực cả nửa trời đằng Tây, sáng đến nỗi người ngồi trong nhà cũng rõ cả bóng. Người trong thành kéo ra xem, nhưng cha các con - ông đã qua đời, ta không nên nói ông mới phải - nhất định không cho ta đi xem. Đời ta thế có phí hoài không cơ chứ!
Nói rồi cụ cố bà cứ xị mặt ra, dỗ dành mấy cũng không xong. Ba ngày sau, mấy người con trai của cố bà nhà họ Cao bàn với nhau bỏ tiền mua hẳn mấy chục căn nhà ngoài cửa Tây, cả đồ đạc áo quần trong nhà cũng mua tất rồi châm lửa đốt. Lại dựng một chòi cao ở cách đó nửa dặm, bế cụ cố lên kiệu khiêng đi, đưa lên chòi ngồi xem cứa hỏa. Lửa bốc cháy, các nhóm cửu hỏa ở vệ Thiên Tân nổi thanh la, truyền tin cấp báo. Vệ Thiên Tân có nhiều nhà buôn, nhà liền kề nhau rất dễ gây hỏa hoạn, dân chúng bèn tập hợp thành các nhóm cứu hỏa, chuyên mang nước dập lửa, lớn nhỏ có tới hàng trăm. Nhóm này nổi thanh la, nhóm khác nổi theo, trong thành ngoài thành, sông đằng đông, ngòi đằng tây, trong khoảnh khắc liền thành một giải, khí thế sục sôi. Ngay sau đó, hội viên các nhóm mặc áo không tay các màu có đánh số hiệu, giương cờ hiệu, khiêng nước và vòi phun nước, nối đuôi nhau như rồng rắn kéo ra ngoài cửa thành phía tây đến nơi có đám cháy, oai phong hơn cả ngày hội thần phật ngày hai mươi ba tháng ba. Giữa đám cháy có người vẫy lá cờ nhỏ chỉ huy, anh đằng đông tôi đằng tây, anh phía nam tôi phía bắc, anh trước tôi sau, anh tiến tôi lùi, không hỗn loạn một chút nào. ống phun nước có đòn ngang để ấn xuống, hai người hai đầu như trẻ con chơi bập bênh, bên này lên bên kia xuống, nước trong thùng qua vòi phun ra. Từng luồng khói xanh cuốn vào biển lửa mịt mù làm tóe lên những đốm lửa to phùn phụt bay lên trời, tưng bừng hơn ngàn vạn lần so với pháo hoa ngày ba mươi tết. Cụ cố bà nhà họ Cao xem đến đứng tròng mắt. Dập xong đám cháy, các nhóm cửu hỏa gõ nhẹ thanh la báo hiệu rút lui, từng đội một lần lượt ra về. Người họ Cao đứng chờ ở cổng cửa Tây, có sẵn hai chục chiếc xe ngựa lớn chở đầy hộp chè gói bánh thù lao cho các nhóm ra sức biểu diễn. Lần ấy cụ cố bà nhà họ Cao lấy làm thỏa mãn, coi như đã được tận mắt thấy đám cháy, thế là chuyện gì trong thiên hạ cũng thấy cả rồi. Chuyện ấy hỏi đã đủ ngông hay chưa?
Mọi người bảo lệ thường xưa nay nhà giàu làm gì cũng thích làm đến cùng tột. Lần ra tay ấy chẳng những khiến người nghèo xem đến ngẩn người mà người giầu, thậm chí cả bản thân người trong cuộc, cũng xem đến ngẩn người. Đến thế mà không tuyệt thì thế nào mới là tuyệt. Tất nhiên kể là một tuyệt và thế là gom được hai tuyệt.
Việc thứ ba là người lạ chuyện kì.
Người lạ ấy là Hoa Lâm, mắt chẳng thèm để ý đến ai, có tên nửa là Mộng Thạch, tên hiệu là Hậu Sơn Nhân, nhà ở phố Phủ Thự phía Bắc thành. Cụ tổ giàu có, ông cha ưa nhàn, thích gom góp những đá lạ trong thiên hạ. Trong số những họa sĩ ở vệ Thiên Tân, Hoa Lâm là người kì lạ bậc nhất. Lão thích vẽ sơn thủy, tên tuổi ở trên cả danh họa Triệu Chỉ Tiên, hàng ngày đóng cửa vẽ tranh, không bao giờ tiếp khách, càng không có học trò. Lão nói: "Vẽ ở tấm lòng chứ không ở thấy". Có người xin tranh, lão lập tức từ chối:
- Thần chưa đến chưa vẽ được.
- Thế khi nào thần đến? - Người kia hỏi.
- Không biết. Đến không báo trước, phần nhiều trong mộng thôi.
- Trong mộng vẽ thế nào được? - Người kia lại hỏi.
- Mộng càng dễ vẽ.
- Sao gọi là dễ vẽ?
- Vẽ núi không thấy núi, vẽ sông không thấy sông.
- Thế nào thì mới thấy được? - Người kia hỏi tiếp.
- Lấy lòng mình ứng chiếu chứ không thể nói rõ ra được.
- Ai trong số người xưa vẽ tranh vào bậc nhất?
- Chỉ một mình Lí Thành. Sau Lí Thành, thiên hạ không còn ai nữa.
Song từ xưa đến nay, chẳng ai thấy được bút tích thực sự của Lí Thành. Sách xưa từ lâu đã nêu ra thuyết "không có nhân vật nào là Lí Thành". Lão Hoa Lâm chỉ thừa nhận Lí Thành giỏi cũng có nghĩa lão không thừa nhận một ai giỏi trong thiên hạ từ xưa tới nay. Đấy là ý kiến kì lạ của lão ta. Một điều kì lạ nữa là chưa một ai nhìn thấy tranh của lão. Nghe nói mỗi khi vẽ xong, đem treo lên nhiều nhất ba ngày là lão giật xuống đem đốt. Một hôm, mụ hàng xóm đuổi gà, gà bay lên tường nhẩy xuống sân nhà lão. Mụ này sang bắt gà, thấy cổng nhà lão không khóa, đẩy cửa bước vào, bắt được gà; lại thấy lão không cài cửa sổ, trong nhà không có ai, trên bàn có bức tranh liền thuận tay thò qua cửa sổ thó tranh của lão, đem đến hàng tranh bán. Lão biết chuyện lập tức trả gấp bốn lần tiền mua lại bức tranh, đem về xé ra đốt. Mấy người rảnh việc đến hỏi dò mụ hàng xóm và hiệu bán tranh xem tranh lão vẽ thế nào, nhưng hai người này đều gà mờ, chẳng nói được điều gì rõ ràng, đành thôi. Có điều chẳng ai hiểu tại sao lão không có tranh mà tên tuổi lại nổi lên như cồn đến thế? Có thể cho là người lạ chuyện kì được không? Và có tuyệt lạ kì hay không?
Mọi người đều cho là tuyệt, riêng Ngưu Phượng Chương lắc đầu bảo lão là đồ bịp bợm. Những người khác không vẽ tranh. Không cùng nghề như cách núi, không cùng nghề cần gì chặt chẽ với nhau,do vậy thái độ cũng hòa hoãn hơn. Kiều Lục Kiều cười bảo:
-Chẳng ai nhìn thấy tranh, chỉ nhờ bịp mà nổi được tiếng tâm đến thế cũng gọi là tuyệt rồi.
Ngưu Phượng Chương lúc này mới gật đầu. Thế là thêm được một tuyệt nữa, cộng thêm vào thành ba tuyệt.
Hôm nay là ngày mười tư tháng Chạp. Kiều Lục Kiều, Ngưu Phượng Chương, Lục Đạt Phu và mấy người nữa rỗi rãi không có công việc gì, bèn kéo nhau đến nhà hàng Nghĩa Thăng Thành ở trong ngõ Quy Cổ kiếm một bàn họp mặt. Lục Đạt Phu là một danh sĩ thường góp mặt chơi bời, lại cũng là một người nghiện gót sen, có một bụng kiến thức linh hoạt đủ loại, lịch duyệt văn chương hơn bọn Kiều Lục Kiều nhiều. Lão nhỏ con, mặt tròn như quả táo, áo ngoài chỉ dài bốn thước rưỡi, nhưng tinh anh ở cả cái đầu to, bước đi hai cánh tay vung vảy rõ cao.
Kiều Lục Kiều sau khi đã nốc ba chung rượu, bảo chỉ ăn uống không thôi cũng chán, liền nảy ra ý đề nghị cả bọn kể ra nhũng người lạ chuyện kì ở Thiên Tân, góp cho đủ "Thiên Tân tứ tuyệt". Ý ấy thật hay. Hết con cà đến con kê, chuyện thêm hứng rượu, rượu bốc nên lời, hi hi ha ha, ai nấy uống đến say khướt, mặt đỏ tưng bừng. Nhưng cái tuyệt thứ tư vẫn chưa góp nên được. Ngưu Phượng Chương nói:
- Cái tuyệt thứ tư ấy mà, theo tôi nên bầu béng cho ông Đồng, chủ hiệu Dưỡng Cổ Trai. Chưa kể kĩ năng xem đồ cổ, kiến thức về đôi chân bó của ông thật chẳng ai bì, cao đến tận trời!
Kiều Lục Kiều cười bảo:
- Đúng là há miệng mắc quai! ông ấy mua tranh giả của bác, còn bác nói hay cho ông ấy chứ gì? Nói đến chân bó, theo tôi nhà ông ấy đủ thành cái lò luyện gót sen, đôi nào cũng cứ muốn nắn một cái! - Lão có phần quá chén, nói mà cả đầu, vai, cổ cho chí cái đuôi sam nhỏ cứ đảo đồng lên.
Ngưu Phượng Chương cãi:
- Bác nới mới đúng một nửa. Chân bó ở nhà ông ta đôi nào cũng tuyệt nhưng mấy đôi đó ở đâu ra, chẳng phải do ông ta nhìn ra hay sao? Dùng con mắt đánh giá đồ cổ để chọn chân bó, còn sai được à? Chẳng phải tôi nịnh khéo ông ấy - ông ấy có mặt ở đây đâu mà bảo nịnh khéo - đôi mắt của ông ta xứng đáng là mắt thần. Năm ngoái có một bức tranh đời Tống, chẳng ai nhận ra, cửa hiệu mua như giá tranh giả, như giấy lộn, thế mà đứng cách đến ngoài mười bước chân, ông ta liếc một cái đã thấy ngay dòng lạc khoản dấu ở ngách cây, gọi là tàng khoản đấy!
- Thằng cha giỏi quá nhỉ? Nhà lão có tranh đời Tống, bác đã thấy rồi à? - Kiều Lục Kiểu hỏi.
- Ấy không, không! - Ngưu Phượng Chương lỡ mồm, xua hai tay nói.- Đâu có thấy! Bóng dáng cũng chẳng thấy, chỉ nghe nói lại, ai biết đúng hay không? Bác chẳng cần phải hỏi ông ấy, mà có hỏi ông ấy cũng không bảo bác đâu! Cứ nói chuyện chân bó ở nhà ông ấy còn thú hơn.
- Không ngờ bác Năm Ngưu nghiền chân bó còn hơn cả tôi. Hay lắm, bác gần gũi với nhà ấy, vậy tôi hỏi bác, rốt cuộc lão họ Đồng thích đôi chân của ai nhất?
- Tôi mà không nói thời bác cũng chẳng đoán ra đâu! - Ngưu Phượng Chương nheo mắt cười ra bộ không chịu nói.
Kiều Lục Kiều kêu lên:
- Giỏi! Bác không nói, đổ cho say ắt phải nói! Bác Tư Lục đâu, lại đây, đổ rượu cho tay này! - Sáu Kiều một tay xách tai Năm Ngưu, tay kia vơ hồ rượu. Thật ra đổ rượu phải vạch mồm chứ sao lại véo tai? Thì ra chưa đổ rượu được cho người khác, tự mình đã say trước rồi! Bàn tay xách tai Năm Ngưu khiến Năm Ngưu kêu ầm ĩ, còn bàn tay cầm hồ rượu thì cầm nghiêng, rượu tràn qua miệng hồ, chảy lách tách đầy cả đĩa thức ăn.
Lục Đạt Phu ngửa cổ cười sằng sặc:
- Nói hay không chưa biết, nhưng rượu thì cứ phải đổ!
Ngưu Phượng Chương kêu oai oái:
- Tai chẳng đáng tiền nhưng liền với đầu, dứt đứt ra lấy gì mà nghe? Ái, ái, để tôi nói, để tôi nói, bỏ tay ra sẽ nói!
Kiều Lục Kiều vừa kêu, vừa cười, vừa kéo, ầm ĩ cả lên:
- Nói xong đã rồi mới buông tay!
- Bác phải giữ lời đấy nhé! Trước đây lão họ Đồng thích nhất đôi chân của vợ lão nghe nói là đôi song tiên cơ mà! Lúc ấy tôi chưa quen biết nhà ấy nên chưa được thấy đôi chân đó bao giờ. Sau khi vợ lão chết, lão... lão...
- Thế nào, hay lại há miệng mắc quai? Nói mau, chân con dâu cả hay chân con dâu thứ?
- Bác Sáu Kiều thật rách việc, mèo bắt chuột thì kệ nó chứ! Nhà người ta hai nàng dâu ở góa, một nàng nữa cấm cửa chồng không cho về, vậy thì chẳng tùy ông ta nay nàng này mai nàng khác hay sao? Hì hì!
- Cút ông đi! Lão họ Đồng kiến thức như thế nào chứ, đâu có như ông? Không hiểu rõ chân bó là không hiểu rõ lão, không hiểu rõ lão thì cũng không hiểu rõ được chân bó. Bác Năm Ngưu, bác mà không nói thì véo mạnh nữa đây này!
- Chớ, chớ, để tôi nói. Lão chỉ thích... thích... đôi chân u già!
- Sao? Sao? Nói sao? - Tất cả ngạc nhiên kêu lên.
- U Phan à? Cái mụ béo ấy à? Không tin được! Bảo mấy đứa ở gái còn dễ nghe hơn.
- Tôi mà dối bác thì tôi làm con cho bác!
- Ồ, thế thì thật không ngờ! - Kiều Lục Kiều buông tay, bỏ tai Ngưu Phượng Chương ra.- Đôi móng heo ấy đẹp ở chỗ nào? Hay là lão họ Đồng quý chân nhỏ đến mức lú lẫn rồi?
- Chú Sáu Kiều ơi, kiến thức của chú còn kém lắm! Chân nhỏ xấu đẹp là ở công phu của chân ấy chứ! A, chú đã thưởng thức chúng bao giờ đâu mà biết cơ chứ? - Lục Đạt Phu vừa nói vùa cười vui vẻ, một tay soàn soạt cởi hết hàng cúc con rết trên cái áo không tay mặc ngoài.
Kiều Lục Kiều vẫn nhìn chằm chằm vào Ngưu Phượng Chương hỏi:
- Nếu câu ấy do thằng con thứ nhà lão Đồng bảo với bác thì không đáng tin đâu. Sau cái hôm thi chân, con vợ cấm cửa nó cho nên nó toàn kể xấu cha nó với người ngoài.
Ngưu Phượng Chương đáp:
- Tôi kể với bác nhưng bác không được truyền đi. Nếu bát cơm của tôi vỡ, tôi đến nhà bác ăn đấy! Câu chuyện này đúng là cậu hai mách với tôi nhưng từ hai năm trước kia. Bác tin được chưa?
Kiều Lục Kiều thoạt nghe ngẩn người ra, sau đó nói:
- Tôi xưa nay không tin nhà họ Đồng. Lão bố bán của dỏm thay của thật, lũ con thì chỉ toàn nói láo.
Câu này còn chua dứt, sau lưng đã có người lớn tiếng nói:
- Cái gì dỏm với thật thế? Tôi không có xài của dỏm đâu!
Cả bọn giật nảy mình, tưởng Đồng Nhẫn An đột ngột xuất hiện. Ngưu Phượng Chương hoảng hồn, thiếu chút nữa thì lỏn xuống gầm bàn. Lão định thần nhìn lại, hóa ra một lão già cao gầy, áo bào bằng đoạn bóng màu xanh nước hồ, bên ngoài lồng chiếc áo ngắn bằng da dê bọc gấm đen hoa mờ, chỗ vạt áo để lộ đường viền lông dê màu trắng, cúc áo bằng san hô đỏ bịt đồng như những trái anh đào tươi rói, đầu đội chiếc mũ thật ấm, tinh thần bộ điệu phấn chấn. Thì ra đấy là ông khách Sơn Tây Lã Hiển Khanh, đằng sau còn có một người beo béo ăn mặc cũng rất diện.
- Chúc mừng ngài phát tài, ngài cư sĩ! Hôm trước có nghe nói ngài đã tới, ắt là để kịp dự hội thi chân của nhà họ Đồng vào ngày mai chăng? Ngài thật là người nghiện ghê gớm! - Kiều Lục Kiều nói vui.
- Đâu có! Tôi đến để lấy... - Lã Hiển Khanh liếc mắt thấy cánh tay Ngưu Phượng Chương buông thõng xuống bàn bèn đến lay thật mạnh, rồi chuyển sang giọng đùa - để xin cụ Đồng sách viết về chân nhỏ. Chuyện gì mà các ông nói vui vẻ thế?
Hai bên khách sáo với nhau một hồi rồi cùng ngồi xuống. Lã Hiển Khanh không hề giới thiệu người beo béo cùng đi. Mấy người kia đều là bọn phong lưu tài tử phần nhiều đã say, chẳng ai để ý. Kiểu Lục Kiều vội vàng đem câu chuyện bàn luận về "Thiên Tân tứ tuyệt" nói lại, rồi hỏi:
- Ngài cư sĩ, theo ý ngài, cụ Đồng chỗ chúng tôi đã đủ là một tuyệt chưa?
Lã Hiển Khanh suy nghĩ một lát, đáp:
- Bình tâm mà nói, con người ấy cổ quái thật nhưng đã đến tuyệt đỉnh chưa thì còn khó nói. Tôi mới gặp ông ấy một lần, chưa thể biết rõ được. Thế này nhé, ngày mai nhà ông ta mở hội thi chân, chúng ta cùng đến. Tôi đồ rằng ông ta gửi thiếp mời ba bốn lần như thế, tất thế trận có điều làm mọi người bất ngờ. Lần trước tôi đến với ông ta, không thắng không bại, hoà một một, lần này hẳn ông ta muốn Lã mỗ này phải phục. Ở Đại Đồng, tôi đã ghi tên đầu cho ông ta rồi, còn ở Thiên Tân đây, đương nhiên ông ta đáng kể là một tuyệt!
- Hay lắm, tuyệt hay không để người ngoài đánh giá cho! - Kiều Lục Kiều kêu lên. Thế rồi lại gọi một bàn gà vịt, cá thịt nữa, rồi món mặn, món chay, món mỡ, rượu, canh, cả bọn ra sức nhồi đầy một bụng, chuẩn bị cho cuộc tận hứng ngày mai.
|
14-10-2008, 05:49 PM
|
|
Đại sắc lang bán cánh gà nướngVu Thần Giáo
|
|
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: Singapore
Bài gởi: 1,138
Thời gian online: 1 tuần 5 ngày 4 giờ
Thanks: 5,969
Thanked 298 Times in 76 Posts
|
|
Hồi thứ tám
Như thơ như hoạ, như mộng như ca,như rượu như khói
Sáng bảnh vừa mở mắt ra, hoa tuyết rơi mãi không thôi, sau bữa trưa, đã dầy đến hai tấc. Mặt đất, ven tường, cạnh chum, ghế đá, lan can đều phủ một lớp tuyết xốp. Chạc cây to nhỏ đều như những cái móc trắng, chạc to móc to, chạc nhỏ móc nhỏ. Mỗi đóa hoa mai vàng tươi rói đều như ngậm một miếng đường bông.
Hôm nay là ngày hội hoa đăng, hai cánh cổng nhà họ Đồng đóng chặt như liền một cánh. Khách đến thăm đập vòng cửa. Nghe đứa nhỏ chờ sắn dưới vòm cửa gào thật to sau cánh cổng:
- Đi xem đèn hết rồi, không có ai ở nhà!
Thật ra họ ở cả trong nhà, các nàng dâu ở trong phòng chải đầu chuốt tóc, trang điểm đôi chân, các a hoàn đi lại tất bật ngoài hành lang, mang nước nóng, thức dùng, đồ ăn, tin tức cho các phòng. Ai nấy ăn mặc trang điểm thật đẹp, nét mặt trang trọng giữ gìn in hệt chuẩn bị cúng tất niên vào tối ba mươi tết.
Lúc này Đồng Nhẫn An đang ở trên tiền sảnh tiếp nước và chuyện trò cùng Kiều Lục Kiều, Hoa Lâm, Ngưu Phượng Chương, Lục Đạt Phu và ái Liên cư sĩ Lã Hiển Khanh từ Sơn Tây đến. Cả khách lẫn chủ đều mặc áo quần mới tinh, Năm Ngưu không đội mũ thì đầu cũng mới cạo, nhẩn nhụi như cái gáo bầu. Sáu Kiều cũng không tềnh toàng như mọi ngày, mặc áo vạt không xếp lên nhau, cúc gài thẳng hàng như sắp ra sân khấu.
Lần này không như lần trước, cửa thông gió vào mùa đông đều đóng kín, chỗ khách ngồi đặt một cái chậu đổng lớn, than trong chậu từ chiều hôm qua đã quạt đỏ để qua đêm không cần ủ, bây giờ đang rực hồng. Hơi lạnh bám lên các ô cửa kính bốc hơi đọng thành nước nhỏ giọt. Trên chiếc án dài bằng gỗ hồng sắc trước mặt, bày một bó hoa mà theo lệ ở đây phải có khi đón năm mới, được gọi là "phú quý ngọc đường", gồm một cành hải đường đỏ chót, một cành bạch đào một cành bích đào, bốn cành mẫu đơn, bốn đóa thủy tiên, thêm vào một vài màu hoa nữa cắm trong một cái chậu gỗ. Đỏ phải thật đỏ, trắng phải thật trắng, vàng ra vàng, xanh ra xanh, cao thật cao, thấp thật thấp, to ra to, nhỏ ra nhỏ, không có gió mà hương thơm thay phiên nhau tỏa ra. Hương thơm từ mũi người này bay ra lại chui vào mũi người khác, thật là vui sướng, khoan khoái!
Sáu Kiều chiêu một ngụm trà, miệng chép chép ngon lành nói:
- Trà hôm nay thơm thật, cụ Đồng mua của nhà Chính Hưng Đức đấy à?
Đồng Nhẫn An đáp:
- Chính Hưng Đức làm gì có thứ trà ngon thế này? Đây là tôi ghi tên lùng mua tận An Huy đấy! Trà thường uống đến nước thứ hai mới ngấm, nhưng thử trà này vừa chế nước sôi vào là sắc vị tan ra ngay. Không tin các vị cứ nhìn mà xem, sắc xanh mươn mướt chẳng khác gì ngồi xổm trên bờ hồ sen. Trà này chẳng những uống thơm mà sau ba nước, bỏ lá chè vào mồm nhấm, cứ non như lá ba lăng.
Sáu Kiều nhìn mặt mọi người chợt kêu lên:
- Ơ đúng thật này! Các vị mau nhìn sắc mặt ông Năm Ngưu, cứ xanh lè như mặt quỷ đầu trâu dưới âm phủ vậy.
Mọi người ha hả cười ầm cả lên. Lục Đạt Phu cười đến nỗi đầu ngật ra phía sau, yết hầu trên cổ cứ rung lên mãi. Ngưu Phượng Chương nguẩy đầu nói:
- Thịt trâu bò là một trong năm thứ thịt hôi, lừa, ngựa, chó, la, trâu bò. Các vị không ngán cứ việc xẻ tôi ra mà chén.
Lực Đạt Phu bảo:
- Có thịt thì thịt luôn đi! Để sau tết lập xuân mới giết, ắt bị phạt trăm trượng, đầy đi Urumxi. [1]
Mọi người lại cười phá lên. Đồng Nhẫn An quay qua Lã Hiển Khanh hỏi:
- Thứ trà ngài uống đây gọi là "Thái Bình hầu khôi", vậy ngài có biết lai lịch ra sao không?
Lã Hiển Khanh lắc đầu không đáp. Lão và Đồng Nhẫn An vẫn luôn ngầm đọ sức với nhau, ai lắc đầu là người ấy bí rị. Sáu Kiều lên tiếng:
- Tên trà quái lạ thật, chắc đến tám phần có chuyện thú vị gì đây.
Đồng Nhẫn An chỉ còn chờ câu khơi gợi đó. Lão vội nói:
- Ông Sáu Kiều nói trúng mất rồi. Đây là thứ trà đặc sản của huyện Thái Bình tỉnh An Huy. Nghe nói huyện này có quả núi cao hàng trăm trượng, trà mọc tận đỉnh núi, người không lên hái được phải nuôi dạy một bầy khỉ, cho chúng đội nón, đeo gùi leo lên hái, cho nên mới có tên là trà "khỉ đầu đàn huyện Thái Bình". Trà này cũng là của hiếm. Vả chăng trà mọc trên đỉnh núi, quanh năm ướp mây mù, vị trà tất thanh nhã mà siêu thoát.
- Bốn chữ thanh nhã siêu thoát này dùng xác đáng lắm! - Hóa Lâm bỗng lên tiếng. Tay lão chỉ chén trà nhưng mắt lão không nhìn chén trà. - Trần gian có được thứ trà này quý thay, chỉ tiếc không có bức tranh nào cũng quý như thế!
Đồng Nhẫn An đáp lời:
- Hôm nay tôi không có ý định phối trà với tranh mà muốn phối trà với gót sen kia.
Lã Hiển Khanh nắm ngay lấy câu đó, tiếp lời:
- Cụ Đồng này, lần trước hễ mở miệng là cụ nói đến thần phẩm. Trăm nghe không bằng một thấy. Nói về trà, thứ trà này kể là thần vị, còn thần phẩm của gót sen vẫn chưa được thấy. Chúng tôi đợi cuộc thi chân hôm nay để được thấy đấy. Nếu không được thấy, chớ trách chúng tôi cho nhà họ Đồng đây chỉ biết khoác lác suông thôi đấy nhé.- Nói dứt lời lão cười hề hề, như nói đùa lại như kiếm cớ gây gổ.
Đồng Nhẫn An nghe nói không hề đổi sắc mặt. Lão nhấc ấm trà nhỏ lên, nhè nhẹ gõ đầu ngón tay vào bụng ấm ba cái. Ngay sau tiếng gõ, một loạt tiếng lách cách vang lên, những tấm vách ngăn bằng kính thông sang ba dẫy nhà sau mở hết cỡ, hơi lạnh ập ngay vào. Đang ấm áp gặp lạnh, nhiều người hắt hơi ầm ĩ, nhưng hắt hơi mấy cái lại hóa ra sảng khoái hẳn. Ngoài sân là quang cảnh tuyết trắng xóa như bạc, vừa yên tĩnh vừa thanh nhã. Lã Hiển Khanh nhấp nhổrn toan bước ra ngoài xem. Đồng Nhẫn An nói:
- Ngài cư sĩ cứ yên tâm, đừng sốt ruột. Lần này cách thức đổi lại, các vị không cần ra khỏi nhà cứ ngồi nguyên chỗ là được. Các vị cần giữ ấm, chớ để bị lạnh đầu.
Khách khứa đứng cả dậy, người lấy mũ to trùm ngoài chụp vào, người cầm mũ từ trên giá đội lên đầu. Trong lúc lặng như tờ, đã thấy u Phan đứng ngoài hành lang. Trên người vẫn mặc bộ quần áo đen, chỉ ở mạng tóc, vạt áo, cửa giầy chạy thêm ba đường viền màu vàng khá chói mắt. Xà cạp bằng đoạn đen bó chặt chẽ theo hình chữ V từ cổ chân chớm tới đầu gối càng làm nổi bật đôi bàn chân nhỏ, chẳng khác nào hai cái đinh cắm trên mặt đất. Kiều Lục Kiều chợt nhớ tới lời Năm Ngưu kể hôm qua ở nhà hàng Nghĩa Thăng Thành, bèn định bụng từ đôi chân này phát hiện ta điều bí ẩn nào đó, nhưng càng nhìn càng chẳng thấy được cái gì. Lão quay lại toan hỏi Lục Đạt Phu thì thấy Đồng Nhẫn An ngoảnh ra cửa gật đầu với u Phan, thoắt cái mụ biến đi ngay như một làn gió. Ngay sau đó, mấy cô gái từ hành lang phía Tây đi lên. Đến trước cửa, người dừng chân đứng lại giây lát, người hai chân đổi cho nhau quành đi quành lại vài vòng, lại có người lướt qua như mây bay nước chảy không dừng lấy nửa bước, nhưng ai nấy đều thoáng để lộ đôi chân xinh xinh cho nhìn sơ sơ hoặc nhìn rõ. Mấy cô nàng ấy Năm Ngưu đều quen biết, đó là Đào Nhi, Phượng Nhi, Châu Nhi và một a hoàn nhỏ mới vào làm là Thảo Nhi; mợ Tư là người đi cuối cùng. Đôi chân của các cô như những chiếc bánh lá quấn chỉ ngũ sắc ngày Tết Đoan ngọ, xanh xanh đỏ đỏ, rực rỡ nhiều mầu thành một chuỗi diễu qua, đủ làm các vị nghiền gót sen hoa cả mắt. Lục Đạt Phu cười nói:
- Quang cảnh này hơn hẳn hội hoa đăng năm nay ở phố lớn Bắc Cũng rồi!
- Theo tôi, đây là đèn kéo quân, mắt theo chẳng kịp, sắp bật tròng cả đây này! - Kiều Lục Kiểu kêu lên.
Trong đám khách chỉ có Lã Hiển Khanh và Hoa Lâm không lên tiếng. Ai biết khẩu vị của họ sành hay là ngồi im để tỏ ra khẩu vị của mình cao? Bỗng u Phan bước lên thưa:
- Thưa mợ Cả chóng mặt, e không thi được.
Khách khứa sững người, Đồng Nhẫn An càng ngây ra ngó sững u Phan như thể không tin, nhưng khuôn mặt như tạc băng đá của mụ không tỏ một vẻ gì ngoài mấy nếp nhăn thẳng đứng. Đồng Nhẫn An cuống lên bảo:
- Các vị khách đang chờ cả đây, để người ta mất hứng à?
U Phan nói:
- Mợ Cả nói xin mời mợ Hai lên trước.
Đồng Nhẫn An cầm chiếc ấm nhỏ thong thả tu mấy ngụm, mắt đảo lia lịa. Chợt mắt lóe sáng, lão gật đầu với u Phan:
- Được, mời mợ Hai lên thi chân trước vậy.
U Phan thoáng cái đã mất hút. Đợi giây lát, mé phòng phía Tây xuất hiện bốn cô gái mặc váy áo bốn mầu xanh da trời, xanh nước hồ, hồng đào và vàng trăng, chính là Đào Nhiệm Phượng Nhi, Châu Nhi và Thảo Nhi. Mỗi cô cầm một cái chổi cán dài, đứng thành hai hàng đều tay vung chổi lên. Bụi tuyết tung bay dần dần mở một con đường lát gạch vuông đen đen dưới lớp tuyết, kéo dài tới tận thềm nhà tiền sảnh. Rồi các a hoàn rút lui, rèm cửa phòng phía tây được vén lên, những chiếc nhạc bằng bạc buộc trên rèm tinh tang vang khẽ, Bạch Kim Bảo như bó đuốc cháy rực đứng trước cửa buồng. Cô ta mặc bộ váy áo đỏ chót thêu kín hoa óng vàng lượn lờ như mây, ngoài trùm áo khoác bằng đoạn đỏ tươi có mũ lót bằng lông cừu trắng toát, làm nổi bật tấm thân vừa mềm mại dẻo dai, vừa xinh tươi khêu gợi. Quang cảnh này chẳng khác nào tướng soái xuất hiện trên sân khấu với khí thế đoạt giải nhất. Tóc cô ta búi thành búi cao theo kiểu "măng ngọc chầu trời", chóp búi cài một cái trâm vàng, đầu trâm lủng lẳng một con phượng lớn bằng nhung đỏ do nhà Ngọc Phong Thái chế tạo tinh vi, mỏ phượng ngậm một chuỗi hạt trai. Mỗi một hạt trai đều là một viên ngọc lớn quý hiếm, lúc lắc đung đưa rủ xuống, và đằng sau những viên ngọc trai óng ánh đó là khuôn mặt xinh đẹp, chỗ nào đỏ thật đỏ, chỗ nào trắng thật tráng, rực sáng trước mắt mọi người. Nhưng cô ta đứng trong bậc cửa cao, chẳng trông thấy chân đâu. Kiều Lục Kiều, Ngưu Phượng Chương, Lục Đạt Phu và cả Lã Hiển Khanh đều nhổm đít, ngỏng cổ, chẳng quản ngượng ngùng ngó về phía buồng the.
Nhìn mãi, nhìn mãi, cuối cùng họ cũng thấy một bàn chân xinh xinh vàng óng bước qua bậc cửa in hệt một chú gà con bằng vàng nhảy ra. Lập tức Kiều Lục Kiểu kêu ré lên, lạc cả giọng. Từ xưa tới nay, chưa ai nhìn thấy đôi giầy xinh bằng vàng, thêu bằng chỉ vàng, dát bằng lá vàng, đánh bằng vàng ròng, cũng chưa ai đoán được có đôi giầy như thế. Tiếp theo, bàn chân còn lại cũng bước nốt ra ngoài bậc cửa, chân trái sát bên chân phải, chân phải kề liền chân trái, rồi hai chân mũi gót bằng nhau đứng lại như chưng bày hai vật báu bằng vàng. Đợi mọi người vừa kịp nhìn rõ, đôi chân liền uyển chuyển bước tới, mỗi bước để lại trên nền gạch xanh đen một vết giầy trắng. Lối đi làm gì còn tuyết, ở đâu ra cái vết trắng ấy? Bạch Kim Bảo bước thẳng lên trên thềm. Mọi người để mắt nhìn kĩ theo gót chân cô ta, thì ra trên mặt đất là những hình hoa sen in bằng phấn trắng, lại có mùi hương lạ thơm nức mũi. Trong một lúc, mọi người nhìn ngây ra. Lã Hiển Khanh đích thân đứng lên cũng kính nói:
- Thưa mợ Hai, ái Liên cư sĩ tôi đây tự cho là đã thấy hết chân xinh, giầy xinh trong thiên hạ, ngờ đâu đứng trước mợ, tôi mới được mở mắt. ắt hẳn mợ sẽ cho tôi biết bông sen bạc kia in trên đất như thế nào. Nếu mợ không muốn tôi nói lộ với người ngoài, tôi đảm bảo sẽ không nói. Khi nào nói lộ ra, khi ấy ắt tôi phải viết ngược họ của mình.
Kiều Lục Kiều kêu lên:
- Chớ có nghe lời ông ta? Chữ Lã có viết ngược cũng vẫn là Lã! [2]
Lã Hiển Khanh vội vàng xua tay:
- Chớ có nghe ông Sáu! ông ta có học, lắm kiến thức, còn chúng tôi là người buôn bán, đâu có nhiều mưu mẹo như vậy? Nếu mợ không tin, cho tôi biết, tôi xin cắt lưỡi ngay!
Lục Đạt Phu nói đùa:
- Cắt lưỡi thì ông còn có thể cầm bút viết cho người ta xem!
- Nếu vậy, nói cho nghe xong là đem chôn sống ngay! - Kiểu Lục Kiều bàn .
Mọi người cười ồ. Lã Hiển Khanh bối rối nhưng vẫn đòi biết cho kì được. Bạch Kim Bảo thấy Qua Hương Liên không ló mặt, nghĩ bụng bất kể cô ta ốm thật hay sợ hãi bỏ chạy trước khi lâm trận, mình đang được nước, vậy phải làm sao cho vang dội đến cùng. Cô ta chắc mẩm chín phần đoạt giải nhất, thầm lấy làm vui, nói:
- Đâu dám để cư sĩ cắt lười, tùy ý ngài nói tung ra cũng chẳng hề gì. Bạch Kim Bảo này có chín mươi chín tuyệt chiêu, mới dùng có một chiêu thôi. Mời ngài coi!
Bạch Kim Bảo ngồi trên ghế đẩu, gác một chân lên đùi chân kia, khẽ vén gấu váy lên để lộ một bàn chân nhỏ cong cong vàng óng như vầng trăng non. Khách khứa đứng cả dậy nhìn chằm chằm. Bạch Kim Bảo vạch má giầy, để đế ngửa lên trên, thì ra đế giầy bằng gỗ khắc hình một đóa hoa sen, những chỗ lõm đều đục rỗng thông với bên trên. Cô ta lại kéo ở tầng dưới đế ra một cái ngăn kéo làm rất tinh xảo, má bằng gỗ, đáy bằng lưới lụa đựng đầy phấn thơm. Chờ mọi người nhìn rõ cả, cô ta đẩy ngăn kéo vào, bỏ chân xuống dậm một cái rồi nhấc chân lên, phấn lọt xuống dưới đế giầy in rõ hình một đóa hoa sen trên nền nhà. Ai nấy đều khen là tuyệt diệu.
Lã Hiển Khanh không kiếm chế nổi cũng kêu lên:
- Thế mới gọi là "mỗi bước nảy đóa sen", vận dụng ý người xưa khéo tuyệt! Xuất quỉ nhập thần, nhập thần xuất quỉ! Cụ Đồng này, hôm nay tôi mới gọi là hiểu hai chữ thần phẩm như cự nói là...
Nói đến đây Lã Hiển Khanh bất giác im bặt. Chỉ thấy Đồng Nhẫn An nhìn thẳng vào sân trên, hai con ngươi long lanh phát sáng, dường như không hề nghe thấy Lã Hiển Khanh nói gì. Rồi lão ngoảnh lại lắc đầu nói:
- Đôi mà ngài nhìn thấy, cùng lắm cũng chẳng qua là diệu phẩm thôi!
Câu này làm mọi người trong phòng, kể cả Bạch Kim Bảo đều ngẩn người ra. Lã Hiển Khanh toan hỏi rõ xem thế nào, chợt Kiều Lục Kiều chỉ tay về phía hòn non bộ trong sân, kêu luôn miệng:
- Nhìn, nhìn kìa, chỗ kia phải không?
Lão này tinh mắt, còn Ngưu Phượng Chương mắt nhắm mở đến mấy lần cũng chẳng nhìn thấy gì.
Chẳng bao lâu, trước sau một chút rồi mọi người đều nhìn thấy dưới chân hòn non bộ có hai đốm màu xanh như hai ngọn măng non vừa nhú trồi lên mặt đất. Măng non ở đâu ra giữa trời đông tháng giá này? Nhưng rõ ràng trên nền tuyết trắng, giữa những chấm hoa mai hồng, màu xanh lá cây ấy vừa non tươi mềm mại, vừa chói mắt, chướng mắt lại vừa thích mắt. Cái gì thế nhỉ? Không đợi lên tiếng cũng không đợi hỏi, hai chấm xanh ấy rung rinh, lắc lư, chuyển động, chẳng khác nào hai chiếc lá trôi trên mặt nước, đỡ lấy một người con gái quành qua góc hòn non bộ tiến đến rồi đứng sững như một cây trúc. Chiếc áo choàng màu xám, phủ kín thân cô trông như một bóng người bằng đá, đầu cúi thấp nhìn không rõ mặt. Cô nhẹ bước qua lại vài lần, hai chấm màu xanh thấp thoáng dưới gấu váy, bấy giờ mới biết là đôi giầy màu xanh, khiến ai nấy bất giác dồn cả mắt lại. Trời băng đất giá, mai hồng lưa thưa rụng, màu xanh lá cây này lập tức khiến cảnh vật khắp sân sống động hẳn lên.
Lã Hiển Khanh như mê, không nhận ra cách thức này ngụ ý gì. Kiều Lục Kiều vốn là tài tử, rất nhạy bén, chợt tỉnh ngộ kêu lên:
- Đây là cách vận dụng ngược câu thơ "một chấm hồng giữa vạn cây xanh" thành ra "một chấm xanh giữa vạn bụi hồng" đấy!
Câu nói này chuyển ánh mắt của mọi người lên trên bậc thềm.
Nhưng thoáng một cái chấm xanh lại biến mất, bóng người cũng biến mất, khoảng sân lập tức trở lại vắng vẻ, tuyết không còn sáng, mai cũng nhạt màu. Mọi người vẫn chưa định thần, càng không rõ cô gái ấy là ai, cả Bạch Kim Bảo cũng nhận không ra, thì chợt cửa buồng dẫy đằng Đông mở tung, người con gái mặc áo choàng bước ra, chính là Qua Hương Liền. Hai tay cô quặt ngửa về phía sau phảy một cái, áo choàng rơi xuống để lộ ra một kiểu trang điểm chưa có trên đời, cũng chưa có trong tranh. Lại nhìn đến phong độ, khí sắc, tư thế, thần thái, Hương Liên hôm nay nào phải cùng một người với Hương Liên thi chân hôm nào?
Bạch Kim Bảo giật nảy mình, tưởng đâu Hương Liên giở trò mượn một người khác thế chân.
Trước hết nói về cách ăn mặc. Bên trên là chiếc áo lụa màu nguyệt bạch mềm mại, góc bên phải vạt trước thêu một cành đào phai, dưới rậm trên thưa, lấm chấm lên đến tận vai; lúc men theo hai tay, chỉ còn là những cánh hoa rơi lả tả đến tận cổ tay. Chỉ riêng cành đào rậm thưa trên áo đã tượng trưng cho hai mùa, thật không gì tuyệt bằng. Cổ tay, cổ áo viền bằng đoạn màu tím hoa cà, trên đó thêu bướm các kiểu, toàn một màu ánh bạc. Bên dưới là chiếc váy lụa xếp nhiều nếp màu ngà trơn không hoa, các nếp gập đều chằn chặn như gấp quạt. Chiếc thắt lưng to màu thiên thanh ôm một vòng quanh lưng rồi buông lơi xuống, khác nào gió thổi bay một nhánh liễu đính trên eo. Sau nói đến cách trang điểm. Thoa phấn son mà như không thoa, vẽ lông mày mà như chẳng vẽ, mày tô nhạt đến mức như một thoáng mơ màng trên đôi mắt. Tóc càng như tiện tay quấn thành búi to như quả dưa bở trên đầu, bên ngoài lồng cái mạng tóc mầu đen, không hoa không hột, không vàng bạc, càng không có châu ngọc gì hết. Từ đầu đến chân, màu sắc không phai thì cũng nhạt, hết thảy sắc màu đều như tiêu tan trên người cô. Cái vẻ sơ sài, trễ nải, tự tại, phóng khoáng này vừa hay đối chọi và nổi bật trước cái vẻ điểm tô, chuyên chú, ăn thua và căng thẳng của Bạch Kim Bảo. Cái vẻ ấy cùng với ý không ganh đua với đời khiến người khác xem trọng. Trên đời này, nếu gắng sức thường nên để cho người khác găng, mình găng thì mệt mình mà lại tạo thuận lợi cho người khác. Hơn nữa, lúc này Qua Hương Liên nghiêng nghiêng khuôn mặt, mắt nhìn xuống, bảy phần thoải mái còn ba phần là thẹn thùng, thật khiến cho ai nấy mắt nhìn mà trong bụng như có con gì bò, cứ ngứa ngáy ngứa ngáy, muốn gãi mà không sao gãi được. Ai cũng muốn xem đôi chân xinh của cô, vậy mà đôi chân lại bị chiếc váy xếp nếp che kín. Cô đi nhẹ như lướt, một tay để chéo trước bụng, tay kia quặt ra sau lưng, mỗi bước đi lưng lại uốn lượn vừa trẻ trung vừa yêu kiều, chiếc váy xếp nếp cũng chuyển động theo, nhưng dù chuyển, dù động đến thế nào, mũi giầy cũng không hề lộ ra. Cô đi thẳng đến trước thềm thì đứng lại, đưa cánh tay đặt sau lưng về trước ngực, giơ lên và xòe ra, lòng bàn tay như có bông hoa màu đen đang nở, nhìn kĩ hóa ra quả cầu lông màu đen. Lục Đạt Phu dường như ngầm lĩnh hội được, kêu to lên:
- Hay quá! Chiêu này hẳn làm khối người chết đây!
Hương Liên tung quả cầu lên trên không, sau đó nhấc cao váy lên, dưới gấu váy như có con chim sẻ đỏ bay ra bắt lấy quả cầu kia. Quả cầu cũng như một sinh vật, chạm một cái là nhảy vọt lên. Mỗi khi quả cầu bay vọt lên, Hương Liên ngửa đầu để lộ chiếc cổ trắng ngần, mắt long lanh nhìn chăm chú quả cầu thần sắc khác hẳn lối nghiêng nghiêng ghé mắt vừa nãy. Quả cầu rơi xuống, lập tức con chim sẻ đỏ dưới gấu váy lại bay vút ra, không còn là cái vẻ đi đứng nhẹ nhàng lúc trước. Chỉ còn thấy chiếc váy lụa xếp nếp tung bay qua lại, quả cầu lông màu đen vút lên rơi xuống, hai con chim sẻ đỏ bên trái bên phải, con ra tổ con vào tổ, hết sức đẹp mắt. Thì ra quỉ thần cũng chẳng biết đôi giầy màu xanh lục khi nãy được thay bằng đôi giầy đỏ từ lúc nào, cho nên mọi người mới lầm. Không hiểu sao cô lại nghĩ ra được cách phối hợp váy áo trắng với đôi giầy đỏ, lại thêm quả cầu màu đen, trông thật sướng mắt.
Đôi giầy đỏ nhảy qua nhảy lại, nhìn không rõ, thấy không rành nhưng nhận ra được là rất xinh. Nhọn, xinh xắn, linh hoạt, mỗi bàn chân như đều có hồn. Chợt Hương Liên quá đà, đá quả cầu vọt khỏi cầu rơi về phía sau. Mọi người kêu ầm lên, tưởng sẽ rơi xuống đất. Bạch Kim Bảo sung sướng kêu ré lên: "Hỏng rồi!". Trái lại Hương Liên không hoang mang, chẳng vội vàng, cô xoay lưng, tà váy lụa vung tròn theo thế chim cắt chao mình, chân móc lên, đế giầy lật ngừa. Kiểu đá này gọi là "móc vàng treo ngược", dùng đế giầy đá cầu, quả cầu đen nhánh vọt lên khỏi đầu, rơi lại về đằng trước mặt, chân kia giơ ra, cho mọi người nhìn thỏa con mắt. Bàn chân thật nhỏ, thật mỏng, thật nhọn, thật xinh, chẳng khác nào một lát dưa thơm tho, nhưng món ăn ngon ấy chỉ có thể để cho mà ngắm nghía. Rồi Hương Liên khéo léo hất nhẹ chân, quả cầu tung lên rơi trở lại bàn tay, bàn chân nhỏ lại lấp trong tà váy lụa.
Hương Liên xinh đẹp đứng đó, mắt không nhìn ai mà thẹn thò nhìn xuống. Sau một hồi nhảy tới nhảy lui vừa nãy, lúc này ngực cô phập phồng thở nhẹ càng thêm yêu kiều khả ái.
Trong sảnh, ngoài sảnh, im lặng như tờ một lúc lâu, chợt ào lên những tiếng khen ngợi. Đám nghiền gót sen như say như cuồng, Sáu Kiều sướng quá hoa chân múa tay khiến người ta tưởng lão giả vờ bị ma ám để giở trò làm rộn. Lục Đạt Phu không cười, chỉ nghệt mặt ra. Ngưu Phượng Chương ánh mắt ngơ ngác, cứ như đổ dồn hai mắt lại nhìn, rồi con ngươi không trở được về chỗ cũ. Vẻ ngạo mạn của Hoa Lâm cũng giảm hẳn đi. Sau khi làm ồn ào một trận, Sáu Kiều lặng dần, thở dài nói:
- Thật là như thơ như họa, như ca như mộng, như rượu, như khói, khiến cho người ta như mê, như say, như ngơ ngẩn, chết cũng đáng. Chân nhỏ mà điệu nghệ đến mức này thì trên đời có thể chẳng cần gì nữa hết!
Đám nghiền gót sen nghe xong đều vô cùng cảm khái. Lã Hiển Khanh bảo Đồng Nhẫn An:
- Hôm qua bọn ông Sáu Kiều bàn về "Thiên Tân nhất tuyệt", có đưa cụ vào số đó, xin thú thật là tôi không phục. Hôm nay tôi dám nói rằng cụ không những là "Thiên Tân nhất tuyệt" mà còn là tuyệt đỉnh trong thiên hạ. Gót sen này xuất ngoại sang đất Tây dương, đảm bảo cũng tuyệt đỉnh. Chân của đàn bà Tây dương mà đọ thì cứ như là con thuyền tây!
- Cư sĩ, người nội địa các ông kiến thức có hạn thật. Ai lại gọi là thuyền tây, gọi là tầu máy chứ? - Lục Đạt Phu kêu lên.
Đồng Nhẫn An mặt mày hớn hở, gọi người dọn rượu, thức nhắm, lại gọi Qua Hương Liên, Bạch Kim Bảo và Đổng Thu Dung ra tiếp chuyện khách.
Nhưng khi nhìn đến, Bạch Kim Bảo đã không còn ở đấy nữa. Đào Nhi toan đi mời thì Đồng Nhẫn An ngăn lại bảo:
- Chắc là Thiệu Hoa trở về, thôi cứ kệ mợ ấy!
Nói rồi Đồng Nhẫn An đi tới nói cười cùng khách. Chẳng mấy chốc rượu thịt, món ăn, cơm, bánh, hoa quả lục tục bày lên. Lúc này là giữa đông, đúng lúc chén "tám món quý ở Thiên Tân". Cá bạc, cua bể tía, chim sẻ, tôm nõn, giá đỗ, hẹ vàng, củ cải non, quả áp lê, toàn những thứ chọn lựa kĩ càng, mua về pha chế tinh xảo. Bạc, vàng, tía, trắng, đỏ, hồng, biếc, xanh, đĩa gác lên đĩa, bát sát vào bát, la liệt đầy một bàn.
Rượu rót ra vừa mới uống, Lục Đạt Phu nảy ý hay đề nghị Hương Liên tháo một chiếc giầy đặt cách chỗ ngồi ba bước, mọi người ném đũa cho trúng vào giầy, bắt chước trò chơi "đầu hồ" (ném đũa vào trong bầu) ngày xưa. Ném trúng thì thắng ném chệch thi thua, phải phạt một cốc vại. Đám nghiền gót sen lập tức hưởng ứng, đều nói riêng ý hay này đã đáng giá ba trăm lạng bạc, chỉ sợ Hương Liên không hứng. Nhưng Hương Liên rất thoải mái, ưng liền. Khách khứa đổ dồn mắt lại nhìn nàng tháo giầy, chẳng ngờ Hương Liên nhếch mép cười mỉm, không vén gấu váy lên, chỉ đưa hai tay xuống như vớt mặt trăng đáy biển, lấy từ dưới gấu váy ra một chiếc hài xinh xinh mầu đỏ tươi bằng đoạn trơn, không thêu không hoa, đế hài bằng gỗ. đàn hương, mũi hài cong như lưỡi câu bằng đồng, kiểu rất lạ. Lã Hiển Khanh nói:
- Đế cong gót cao, mặt trước thẳng vát, mũi hài uốn lưỡi câu, giản dị xinh xắn, đó là hài phụ nữ kiểu xưa ở đất Yên, Triệu. Ngày nay rất ít thấy, cũng coi như đồ cổ. Phải chăng là đồ gia truyền của mợ Cả?
Hương Liên không đáp. Đồng Nhẫn An cưới hề hề hai tiếng, cũng không nói gì. U Phan đứng cạnh vừa chợt thấy, lập tức biến sắc mặt, những nếp nhăn trên mặt chảy xệ xuống, ngoắt người đi luôn, thoắt cái không thấy đâu nữa. Mọi người đang rối tinh, chẳng ai để ý đến mụ.
Chiếc hài nhỏ đặt trên đất, từng người một cầm đũa ném vào. Ai nấy chưa bị phạt đã say trước cả rồi, riêng Kiều Lục Kiều như mèo mù đụng trúng chuột chết, ném được một lần. Ngưu Phượng Chương hai lần đều trượt, bị phạt hai cốc rượu. Đồng Nhẫn An một chiếc đũa ném chưa tới, một chiếc khác trúng cái ống nhổ bằng đồng đặt ở xa, bị phạt hai cốc. Lã Hiển Khanh ngắm chiếc hài từ xa như người mất hồn, tay run run cầm đũa không chắc, liền tình nguyện chịu phạt hai chén mặc dù chưa ném. Qua mấy lượt, đũa rơi đầy nhà, chiếc hài nhỏ cô đơn đặt ở giữa.
Đồng Nhẫn An nói:
- Chơi cách này khó quá, tay ai cũng đều không sai khiến nổi, chẳng mấy chốc bị phạt mà say, mất cả hứng thú. Ông Tư Lục ơi, đổi cách chơi khác được không?
Lục Đạt Phu lập tức nghĩ ra cách khác. Ai nấy đã là dân ghiền gót sen, vậy thì mỗi người đều phải nêu được những nét đẹp công phu của gót sen, không nói được mới bị phạt. Đám khách khen cách chơi này hay, vừa phong nhã vừa tăng thêm kiến thức, thế là ồn lên bảo Ngưu Phượng Chương nói trước.
- Sao thế? Tưởng mỗ đây kiến thức không bằng các ông hẳn? - Ngưu Phượng Chương đứng dậy, mở miệng nói luôn:- Mập, mềm, xinh!
Kiều Lực Kiều hỏi:
- Hết chưa?
- Lại còn chưa à? Đến lượt ông đó!
- Ba chữ ranh đã định qua cửa ải? Không qua được đâu nhé, phạt rượu!
- Ô ba chữ của tôi có sách hẳn hoi đấy. Mập, mềm, xinh là "kim liên tam quý", câu của Lạp ông Lí Ngư. Ông cứ hỏi cụ Đồng xem có đúng không. Học vấn nông sâu đâu ở số chữ nhiều hay ít, nếu không ông dẫn nhiều chữ ra xem nào!
- Được lắm, ông cứ giỏng tai lên, còn miệng thì đếm theo. Trước hết xin nói "kim liên nhị thập mĩ" gồm hai mươi chữ, là "gày nhỏ thơm mềm nhọn, nhẹ khéo ngay nếp cong, cứng gấp thon phẳng ấm, vững gọn đẹp đều khô". Còn số chữ nhiều hơn nữa là "hương liên tam thập lục phẩm" gồm ba mươi sáu chữ, là bằng, ngay, tròn, thẳng, quanh, hẹp, thon nhọn, vững xứng, nhẹ mỏng, an nhàn, đẹp đẽ, xinh xắn, gầy yếu, mập láng, đẹp, chỉnh, mềm, mạnh, văn, vũ, thoáng nhã, siêu dật, tinh khiết, khéo léo. Đấy đều là chữ trong sách, không kể được là giỏi giang. Bây giờ mới nói cho ông nghe. Sáu Kiều tôi đây tự sáng tạo ra, gọi là "kim liên nhị thập tứ cách". Hai mươi bốn cách này chia thành bốn loại, là hình, chất, dáng, thần, mỗi loại sáu chữ, bốn lần sáu vừa tròn hai mươi bốn. Hình gồm thon, nhọn, ngắn, mập, cong, xứng; chất gồm nhẹ, đều, sạch, láng, mỏng, thơm; dáng gồm xinh, khéo, đẹp, nhanh, vững, thanh; thần gồm nhàn, nhã, siêu, văn, vận, đạm.
Lã Hiển Khanh nói:
- Có kiến thức đấy, nhất là sáu chữ thuộc loại thần. Nếu hôm nay không được thấy chân mợ Cả, e rằng có lấy hết sức từ khi bú mớm ra vị tất đã hiểu. Nhưng trong mấy chữ đó, duy chữ "đạm" còn cảm thấy lơ mơ thế nào ấy.
Kiều Lục Kiều bảo:
- Lơ mơ gì đâu nào! Cái đoạn mợ Cả ở đằng sau hòn non bộ vừa nãy, ông còn chưa nhận ra vị "đạm" à? Đạm nhã, đạm viễn, đạm bạc, đạm mạc, sơ đạm, thanh đạm, khoáng đạm, đạm đạm, như thế chẳng phải vận dụng chữ "đạm" đến tuyệt đỉnh rồi sao?
Ông khách Sơn Tây nghe đến phát ngây, vòng tay giơ lên nói:
- Ông Sáu Kiều quả không thẹn là bậc tài tử lớn ở vệ Thiên Tân, mở miệng ra là đến đầu đến đũa. Được lắm, tôi đây cũng xin góp một chút, ấy là "kim liên tứ cảnh", không biết cụ Đồng đã nghe thấy bao giờ chưa? - Lã Hiển Khanh né tránh tay Sáu Kiều bụng đầy chữ nghĩa, quay qua hỏi Đồng Nhẫn An. Lão vẫn chưa quên đối thủ già đời này.
- Cứ nói coi, tôi nghe đây! - Đồng Nhẫn An đáp.
- Bó chân, rửa chân, tạo giầy, thử giầy. Bốn cảnh ấy thế nào? Ha ha! Lã Hiển Khanh ngoác miệng cười để lộ hàm răng vàng khè.
Mấy người có mặt thấy lão ra tay chẳng cao siêu gì nên chẳng ai đón lời. Chỉ riêng tay làm tranh giả Ngưu Phòng Chương gật đầu lia lịa nói:
- Khớ đấy, khớ đấy!
Đồng Nhẫn An chẳng thèm cười đãi bôi lấy một cái mà liếc nhìn Hương Liên. Hương Liên cũng tỏ vẻ không coi ông khách Sơn Tây ra gì. Hoa Lâm thì ngước mắt mãi lên, chẳng còn tròng đen, càng coi thường hơn nữa. Ngưu Phượng Chương thấy vậy, chọc chơi lão:
- Ông Bảy Hoa ơi, đừng tốn sức suy nghĩ nửa. Hãy nói cái gì tuyệt đỉnh làm ù tai chúng tôi xem nào!
Hoa Lâm cười ruồi, liếc mắt nói:
- Gót sen tuyệt đỉnh chỉ gồm một chữ thôi, ấy là "không"!
Đám nghiền gót sen nghe xong mắt lớn ngó mắt nhỏ, không biết bình luận câu ấy đúng sai ra sao. Ngưu Phượng Chương nhổ phắt miếng xương chim đang nhai trong mồm xuống đất, xua tay nói:
- Không hiểu, không thể hiểu được! Ông chuyên đem những gì người khác không hiểu được ra dọa người. Không có một vật gì cả mà là gót sen ư? Không cả chân nữa sao? Đáng phạt, phạt đi!
Không ngờ Hương Liên chợt lên tiếng:
- Tôi rất thích cái chữ "không" này!
Nghe xong, đám nghiền gót sen càng nghệt mặt ra. Thật khó hiểu, cố gắng hiểu mà không hiểu, không cách gì hiểu nổi. Đồng Nhẫn An ngồi đó cũng ngẩn người cũng như trong chữ ấy ẩn dấu một tri thức nào đó cực sâu sắc chẳng ai dám lên tiếng nhận là hiểu.
Lục Đạt Phu cười ha hả:
- Tôi thì lại chẳng "không", những điều nói ra đều có cả, gọi là "Kim liên tam thượng tam trung tam hạ tam để". Các ông nghe cho kĩ nhé. Tam thượng là trên bàn tay, trên vai, trên bàn đu; tam trung là trong lúc say, trong khi ngủ, trong tuyết; tam hạ là dưới rèm, dưới bình phong, dưới giậu; tam để là đáy xiêm, đáy chăn, đáy thân...
Kiều Lục Kiều ẩy vai Lục Đạt Phu một cái, cười hì hì nói:
- Ông Tư Lục ơi, ông bịp ai chứ bịp không nổi tôi đâu. Ba cái tam trên - tam thượng, tam trung, tam hạ ấy mà, là lời của Phương Huyến, cớ sách để kiểm tra. Còn cái "tam để" cuối cùng nhất định là ông thêm vào. Vì sao? Vì ngài Tư Lục xưa nay toàn ăn mặn, có ăn chay bao giờ đâu!
Lục Đạt Phu cười như điên, cười đến nỗi đầu lão ngật ngửa về đằng sau lưng ghế. Đến lượt Đồng Nhẫn An. Vốn dĩ lão đã định nói, không hiểu tại sao lại không nói được. Việc xong rồi mới biết thì ra lão bị chữ "không" của Hoa Lâm đè dí xuống, đấy là câu chuyện về sau. Lúc ấy Đồng Nhẫn An chỉ nói:
- Tôi chẳng nghĩ ra gì để nói cả xin chịu phạt!
Lão ngửa cổ dốc tuột cốc rượu để trước mặt vào bụng, rồi nói:
- Nên đổi trò chơi khác cho hứng thú được nhiều vẻ.
Đám khách biết Đồng Nhẫn An thừa tri thức về gót sen, không khi nào chịu bí, chỉ cho là lão không muốn nói nhăng cuội tầm phào nên không ai ép lão. Kiều Lục Kiều nói:
- Thôi lại để Sáu Kiều tôi ra một bài từ vậy. Chúng ta chơi trò tửu lệnh, được không? Phép chơi là ai nấy đều phải xoay quanh gót sen mà nói, không được nói sang cái khác. Ta mượn điệu Giang Nam đẹp, đổi tên thành Kim liên đẹp, mỗi người một khúc, cao thấp không tính, hiệp vần đúng bằng trắc là được. Thế này nhé, trước hết bắt đầu từ tôi rồi truyền vòng theo bàn về phía trái, hết người này đến người khác, ai không nói được thì bị phạt.
Thế là hứng thú lại bốc lên đầu đám nghiền gót sen, ai nấy đều khen chủ ý ấy của Kiểu Lục Kiều càng hay, câng phong nhã, càng tận hứng hơn nữa. Ngưu Phượng Chương vội vàng gắp mấy miếng thịt trong lẩu bỏ vào miệng để lót dạ, kẻo lúc bị phạt không cầm cự được với rượu.
Kiều Lục Kiều quả là bậc tài tử, mở miệng ra là thành câu:
Kim liên đẹp,
Gấu xiêm rỡn xuân phong,
Thước vàng đem đo vừa ba tấc,
Yểu điệu thon thon đi trong tuyết,
Thong thả thử hài hồng.
- Hay! Hay lắm!
Đám khách cùng lên tiếng khen ngợi. Kiều Lục Kiều búng "tách" một cái vào đầu Ngưu Phượng Chương bảo:
- Đừng tọng nữa, đến lượt ông rồi!
- Tôi học theo cụ Đồng lúc nãy, uống một cốc rượu phạt là xong, - Ngưu Phượng Chương đáp.
- Không được! ông bì sao được với cụ Đồng? Cụ Đồng là bậc đệ nhất tuyệt ở Thiên Tân. Loại ngưu mã như ông đâu có thiếu. ông muốn chịu phạt thì phải uống cả bầu! - Kiều Lục Kiều nói.
Mọi người cùng ồ lên:
- Phải đấy!
Ngưu Phượng Chương bị ép buộc dồn nén đến nỗi cứ bẹo tai vặt má, rồi đột nhiên không ngờ lão bật ra được mấy câu:
Kim liên đẹp,
ấy là chân mợ Cả,
Cầu đá tám trượng ngước trông theo
Ai còn bảo chân ấy không đẹp,
Đáng uống nước đái mèo!
Lão vừa nói dứt, khách khứa bò ra cười như điên, cười đến nỗi ôm lấy bụng, chảy nước mắt, gập người về trước, ngả người ra sau làm đổ ghế. Hoa Lâm cười phun bắn cả một ngụm nước chè.
- Chớ có đánh giá là thiếu hơi văn, câu của ông Năm Ngưu làm mợ Cả vui lắm đấy. -Lã Hiển Khanh nói.
Câu nói đó khiến Hương Liên che miệng cười khanh khách, cười đến nỗi phát ho lên.
Ngưu Phượng Chương đắc ý khác thường, một tay nắm lấy Lục Đạt Phu đang gặm càng cua kéo đứng lên, bắt Lục phải nói ngay, không được đánh trống lảng kéo dài thời gian, một tay vớ lấy hồ rượu chuẩn bị phạt.
Ai ngờ Lục Đạt Phu hình như không cần nghĩ ngợi, chỉ mở miệng là nói luôn:
Kim liên đẹp
Đêm xuống mới mê hồn.
Nhô khỏi nước hai cánh sen non,
Đôi chân ngọc không hề nhiễm bụi,
Cảng nhỏ càng thỏa lòng
Hương Liên nghe xong xấu hổ quá phải quay mặt đi. Kiều Lục Kiều nói:
- Bất nhã, bất nhã quá! Phải phạt, phải phạt!
Cả đám khách xúm lại đổ rượu cho Lục Đạt Phu. Lão này luôn mồm kêu oan :
- Thế mới gọi là nhã tục cùng thưởng thức chứ! Nhã không trở ngại đến tục, tục không tổn thương đến nhã. Mấy câu này tôi dám đưa lên báo đấy! - Lục Đạt Phu gạt tay mọi người ra, vừa cười vừa bịt mồm không để cho phạt.
Kiểu Lục Kiều cứ bắt phạt cho bằng được. Lúc này, ai nấy vừa đùa vừa uống, rượu từ bụng bốc lên đầu, cả đám đều muốn nô rỡn. Lục Đạt Phu bỗng đứng dậy nói lớn:
- Muốn tôi uống cũng không khó, chỉ một điều kiện, bằng lòng thì bắt uống mấy cũng xong!
- Thế nào, cứ nói coi? - Kiều Lục Kiều bảo lão mà như gào với lão.
- Xin mợ Cả cho tôi mượn chiếc hài dùng để chơi "đầu hồ" lúc nãy. Lục Đạt Phu chìa tay về phía Hương Liên.
Hương Liên cởi hài đưa cho lão, không hiểu lão sẽ dùng để làm gì. Chợt thấy Lục đặt cốc rượu vào trong hài, cốc thì to, hài thì nhỏ, cố mãi mới nhét vào được Lục cười lớn vừa kêu to:
- Tôi cầm thế này mà uống đây!
- Thế không phải là bậy à? - Ngưu Phượng Chương hỏi, rồi ngoảnh mặt nhìn Đồng Nhan An.
Đồng Nhẫn An không lấy thế làm điều, trái lại vui vẻ nói:
- Người xưa cũng làm như thế, gọi là "thuyền hái sen , truyền rượu cho nhau uống bằng cốc đựng trong hài, như thế mới thật tận hứng?
- Câu này vừa nói ra, đám nghiền gót sen không còn ai muốn chơi trò tửu lệnh nửa, chỉ đòi được phạt. Họ mắng mỏ Lục Đạt Phu là kẻ gian xảo bậc nhất, mọi việc trên đời đúng là "sợ với người nhỏ mật, vui với kẻ to gan", càng lếu láo càng chẳng việc gì, càng cẩn thận lại càng sinh chuyện. Trong lục phủ ngũ tạng, chỉ cái mật là hữu dụng nhất. Thế là cả đám giật lấy cái cốc để trong hài từ tay Lục Đạt Phu, ai nấy truyền cho nhau, giật của nhau, tranh giành nhau, giữ chặt lấy, rồi lại giữ chặt lấy, tranh giành nhau, giật của nhau, đoạt của nhau, đổ đầy rượu mà uống, kẻ bảo là ngon, kẻ nói là say, kẻ nói không say, còn uống nữa. Kiều Lục Kiều giật lấy chiếc hài bưng lên miệng uống. Khi buông hai tay ra, chiếc hài không biết rơi đâu mất, ai nấy nhìn xuống đất, tìm trên đất. Bỗng Lục Đạt Phu chỉ tay vào Sáu Kiều cười lớn. Thì ra chiếc hài đeo trên miệng lão, răng lão cắn lấy mũi hài như cắn lấy một quả ớt thật to, đỏ chót.
----------
[1]Urumxi: tên một miền ở Tân Cương, nơi tập trung người bị lao động cải tạo trong cách mạng văn hóa.
[2]Chữ lã gồm hai chữ khẩu chồng lên nhau.
|
|
|
| |