Ghi chú đến thành viên
Go Back   4vn.eu > Kiến thức > Văn Học Nghệ Thuật > Tác Phẩm Văn Học > Văn Học Nước Ngoài > Tiểu thuyết
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #16  
Old 06-06-2008, 02:20 PM
Adamsmith's Avatar
Adamsmith Adamsmith is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: Nơi có lá vàng rơi.
Bài gởi: 392
Thời gian online: 2 tháng 0 tuần 2 ngày
Xu: 801
Thanks: 185
Thanked 41 Times in 24 Posts
Chương 16

Kern và Ruth vượt biên giới không gặp một trở ngại nào, họ đi xe lửa tới Bellegarde. Ngay đêm đó họ tới Ba Lê và cứ lẩn quẩn mãi trước nhà ga, chẳng biết phải đi đâu.
Kern nhìn người yêu:
- Can đảm lên, Ruth! Mình sẽ tìm tới một khách sạn nhỏ nào đó gần đây. Giờ nầy thì chẳng còn cách nào hơn.
Tới một con đường ngang, họ bắt gặp một bảng hiệu dạ quang màu đỏ “Khách sạn Habana”. Kern vào hỏi giá phòng.
Người gác cửa hỏi lại:
- Ngủ đêm thôi phải không?
Kern hơi ngạc nhiên:
- Phải.
- Hai mươi lăm quan.
- Phòng hai người?
Tới phiên người gác cửa ngạc nhiên:
- Chớ còn gì nữa.
Kern ra gọi Ruth vào. Người gác cửa liếc nhìn họ thật nhanh rồi trao một tấm phiếu khai lý lịch. Kern trầm ngâm, do dự. Người gác cửa cười:
- Chẳng có gì đâu. Hình thức thôi.
Nhẹ nhõm, Kern ghi vào phiếu tên Ludwig Oppenheim.
Một gã bồi phòng đưa họ lên chỗ trọ. Phòng không mấy rộng nhưng sạch sẽ với chiếc giường khá to và êm ái, hai cái bàn, một ghế dựa nhưng không có tủ.
Kern đặt va-li xuống rồi tới cửa sổ nhìn ra:
- Thế là chúng mình đang ở Ba Lê.
Ruth cười thật tươi:
- Như chiêm bao.
- Em có nghe anh nói tiếng Pháp không? Anh hiểu tất cả những gì người gác cửa nói.
Ruth khen:
- Anh giỏi quá. Còn em không thể mở miệng được.
- Vậy mà em giỏi tiếng Pháp hơn anh. Chẳng qua là nhờ anh dạn miệng. Thôi, mình kiếm gì lót dạ cái đã. Tới một thành phố nào mà không đi ăn uống thì vẫn còn bị mặc cảm là thành phố ấy thù nghịch với mình.
Hai người đi qua một quán ăn nho nhỏ gần bên khách sạn.
Với sáu quan, họ được trọn một phần ăn kể cả một ly rượu chát loại rẻ tiền nhưng khá ngon. Suốt ngày chẳng ăn uống gì đáng kể nên bây giờ rượu ngấm rất mau khiến cả hai trở về ngay khách sạn.
Tại phòng khách, một thiếu nữ đang đứng bên một thanh niên có vẻ đã say. Cô gái khá đẹp nhưng trang điểm hơi thái quá. Cô ta ném một cái nhìn khinh khỉnh về phía Kern. Người đàn ông đang hút xì-gà không buồn tránh chỗ Kern tới lấy chìa khoá phòng.
Kern mở đèn lên. Ruth buông xách tay và áo choàng xuống đất ôm chầm lấy Kern:
- Em đang mệt, mệt và phiền não, nhứt là đang phiền não. Bồng em lên giường đi.
- Xin tuân lệnh.
Ruth ngả đầu lên vai Kern, thở dài rồi ngủ vùi như một đứa trẻ. Kern nằm nghe hơi thở của mình và của Ruth rồi cũng ngủ say.
Kern từ trong trụ sở uỷ ban cứu trợ bước ra. Trước khi tới đây anh đã đoán là người ta sẽ nói những gì. Không nên nghĩ là sẽ có được một giấy phép lưu trú. Về phần cứu trợ thì chỉ những trường hợp tối cần thiết mà thôi. Dầu có được cho lưu trú cũng không được phép hành nghề.
Kern không thấy gì đáng kể thất vọng, nước nào cũng vậy thôi. Tuy nhiên, hàng vạn dân tỵ nạn vẫn sống nhăn trong khi nếu áp dụng đúng theo luật lệ, họ đã chết đói từ lâu.
Tới phòng đợi, anh dừng lại. Trong phòng lúc bấy giờ đã đầy kín những người. Anh quan sát từng người một và sau cùng đi tới chỗ một người đàn ông đang đứng riêng một mình có vẻ trầm lặng, suy tư. Anh lễ phép hỏi:
- Xin lỗi, chẳng biết ông có vui lòng chỉ giúp cho tôi một chỗ trọ mà chẳng cần khai báo hay không? Tôi vừa tới Ba Lê hôm qua.
Người đàn ông không kiểu cách:
- Có tiền không?
- Dạ chỉ có ít thôi.
- Cậu có thể trả sáu quan một phòng không?
- Tạm thời thì được.
- Vậy thì tới lữ quán Verdun, đường Turenne. Nói với người chủ là do tôi giới thiệu. Tên tôi là Klassmann – ông ta nói thêm với giọng mỉa mai – Bác sĩ Klassmann.
- Thưa, ở Verdun có an toàn không?
- Chẳng có đâu là an toàn cả. Nhưng ở đó người ta không ghi ngày tháng vào phiếu và cũng không nộp phiếu cho Cảnh sát. Khi có kiểm soát họ bảo là mình chỉ mới tới ban đêm và sẽ gởi phiếu đi vào sáng hôm sau, cậu hiểu chưa? Điều cốt yếu là đừng để bị bắt tại chỗ. Ở đó còn có một đường hầm. Verdun không hẳn là một lữ quán mà là một kiến trúc theo ý muốn của thượng đế, được xây lên cách đây năm mươi năm, để đón chờ những người tỵ nạn. Cậu đã đọc xong tờ báo chưa?
- Dạ, xong rồi.
- Vậy cho tôi và chúng mình kể như không nợ nần nhau.
- Dạ đây. Cám ơn ông nhiều.
Kern vội vàng tới gặp Ruth đang đợi ở một quán nhỏ góc đường. Nàng đã mua được một bản đồ thành phố Ba Lê và một quyển văn phạm Pháp. Nàng chỉ vào hai món đồ đó:
- Em mới mua rẻ trong một tiệm bán sách cũ. Đây là hai vũ khí hữu hiệu để mình chinh phục Ba Lê.
- Tốt lắm. Mình có dịp dùng tới ngay. Em dò xem đường Turenne ở đâu.
Lữ quán Vedun là một toà nhà cổ, loang lổ nhiều nơi. Qua khỏi một cái cửa hẹp là tới một cái quầy gần như suốt ngày lúc nào cũng có bà chủ, một thiếu phụ gầy nhom, mặc toàn đen, ngồi trên đó.
Kern nói với bà ta bằng tiếng Pháp không trôi chảy. Bà ta nhìn Ruth và Kern từ đầu đến chân với đôi mắt nhỏ đen láy:
- Ở không hay tính luôn tiền ăn?
- Nếu ăn luôn thì bao nhiêu?
- Hai chục quan mỗi người. Ba bữa ăn. Điểm tâm trong phòng. Các bữa kia dọn trong phòng ăn.
Kern nói với Ruth bằng tiếng Đức:
- Mình ăn ở đây ngày đầu rồi sẽ tính. Vấn đề chính là chỗ ở trước đã.
Ruth gật đầu. Kern nói với bà chủ quán:
- Nếu ở chung một phòng thì giá tiền có bớt không?
Bà chủ trọ lắc đầu:
- Chưa có phòng trống cho hai người. Nếu ở thì lấy phòng một trăm bốn mươi một và một trăm bốn mươi hai – bà ta ném chìa khoá lên bàn – trả tiền trước mỗi ngày.
Kern ghi tên vào phiếu nhưng không đề ngày tháng. Anh trả tiền và lấy chìa khoá.
Cả hai phòng đều chật hẹp như nhau. Kern chép miệng:
- Đúng là ổ chuột dành cho dân tỵ nạn. Dầu sao cũng có đôi chút không khí gia đình. Em nghĩ sao?
- Em thì cho là sang trọng lắm. Mỗi phòng có một giường. Anh còn nhớ ở Prague không? Ba bốn người ở chung nhau.
- Phải, anh quên mất. Anh cứ nghĩ tới căn nhà của Neumann ở Zurich.
Ruth cười lớn:
- Còn em thì lại nhớ tới vựa cỏ mà chúng mình bị mưa dột làm ướt ngoi.
- Em suy luận đúng hơn anh. Nhưng em biết tại sao những ý nghĩ ấy đến với anh không?
- Em biết, nhưng đó chỉ là ý nghĩ sai. Mình sẽ mua ít giấy bóng để làm chụp đèn. Mình học tiếng Pháp ở bàn nầy và nhìn ra khoảnh trời nho nhỏ trên mái ngói. Mình sẽ ngủ và thức trên những chiếc giường nầy, có lẽ là những chiếc giường êm ả nhứt thế giới, và khi ra đứng bên cửa sổ, cái sân bẩn thỉu dưới kia sẽ có vẻ nên thơ vì nó là một cái sân của thành phố Ba Lê.
- Hay lắm! Và bây giờ mình tới phòng ăn. Mình sẽ ăn những món ăn của Pháp, và có thể đó là những món ngon nhứt thế giới.
Phòng ăn của lữ quán Verdun là một gian hầm. Những người ở đây gọi đó là “mộ địa”. Muốn tới đó phải đi qua một đoạn đường dài khúc khuỷu với những thang lầu, những hành lang và những căn phòng bỏ trống hàng chục năm sực nức mùi băng phiến, không khí đọng lại như nước ao hồ. Phòng ăn khá rộng vì một phần thuộc về khách sạn Quốc Tế ở sát bên mà người khai thác không ai khác hơn là em gái của bà chủ bên nầy.
Đối với hai nhà ngủ tồi tàn nầy, phòng ăn được coi là một nơi giải trí của khách trọ. Những người tị nạn nhìn thấy ở đó như những hầm mộ của La Mã thời xưa. Khi có một cuộc bố ráp bên Quốc Tế, khách trọ ùa vào phòng ăn để qua bên Verdun và ngược lại. Có thể bảo đó là nhà mồ cộng đồng có mục đích cứu rỗi những kẻ chưa muốn chết.
Kern và Ruth đứng ở cửa, chưa biết phải làm gì. Mặc dầu đã giữa trưa nhưng vì gian phòng không có cửa sổ nên phải để đèn. Aùnh điện vào giờ đó khiến cho không khí có vẻ âm u, buồn thảm và bệnh hoạn.
Kern bỗng nắm tay Ruth:
- Uûa! Marill kìa!
- Đâu?
- Đàng kia, gần ngọn đèn. Hay quá! Mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay người quen.
Ngay lúc đó Marill cũng vừa nhận ra Kern và Ruth. Ông ta sững sờ mất mấy giây rồi vội vã đi tới chỗ họ.
- Mấy đứa bé tới Ba Lê! Ồ thật là khó tin. Làm sao tìm ra được cái ký túc xá cổ lỗ này.
- Bác sĩ Klassmann chỉ.
- Klassmann? Vậy à? Được lắm. Verdun kể như toàn hảo. Có trả luôn tiền ăn chớ?
- Dạ, chỉ một ngày thôi.
- Tốt. Vậy thì ngày mai chỉ trả tiền phòng không thôi và mua lấy thức ăn. Như thế ít tốn kém hơn. Thỉnh thoảng cũng nên ăn ở đây một hôm để bà chủ vui lòng. Rời Vienne là phải, tình hình ở đó bắt đầu rối rắm.
- Còn ở đây?
- Ở đây? Aùo, Tiệp, Thụy Sĩ, đó là trận chiến chuyển động của phong trào di dân, nhưng Ba Lê lại là chiến trận vị thế. Hầu hết những đợt sóng di dân đều đổ tới đây. Cậu có thấy người mặc áo lông cừu đen đằng kia không? Ông ta là người Ý. Người có râu bên cạnh? Dân Nga. Và cách đó hai ghế? Một người Tây Ban Nha. Rồi kia nữa là một người Ba Lan và hai người Mỹ. Sau hết là bốn người Đức. Ba Lê là hy vọng cuối cùng và cũng là vận hội sau chót của thế giới – ông ta nhìn đồng hồ – lại đây, cô cậu. Gần hai giờ rồi. Nếu cần ăn thì ăn ngay. Người Pháp luôn luôn đúng giờ đối với các bữa ăn. Quá hai giờ là chẳng còn gì cả.
Kern và Ruth ngồi cùng bàn với Marill.
- Aên ở đây, nên nhớ tới cô hầu bàn mập mạp kia. Tên cô ta là Yvonne, dân Alsace. Tôi không hiểu cô ta làm thế nào mà các dĩa ăn do cô tới đều đầy hơn các dĩa khác.
Yvonne mang súp tới với một nụ cười tươi.
Marill hỏi Kern:
- Còn được bao nhiêu tiền?
- Đủ còn khoảng mười lăm hôm.
- Tốt lắm. Nhưng có định làm gì chưa?
- Dạ chưa. Chúng tôi mới tới đêm qua. Những người ở đây sống bằng cách gì?
- Hỏi rất chí lý, Kern. Bắt đầu bằng tôi trước đã. Tôi sống nhờ vào một số bài viết cho các tờ báo chuyên lo về dân tỵ nạn. Người ta chịu mua bài vì biết tôi trước kia là dân biểu ở Reichtag. Người Nga thì tất cả đều có thông hành Nansen và giấy phép hành nghề. Họ là những người lưu vong trước chúng ta hai chục năm. Họ làm bồi bàn, nấu bếp, đấm bóp, gác cửa, đánh giày, lái xe… Kế đó là người Ý, di dân đợt hai. Phần người Đức bọn mình, phần lớn vẫn có giấy thông hành còn lực, một số họ tiện ít được cấp giấy hành nghề. Còn chút ít tiền bạc, tặn sống qua ngày. Nhưng rất nhiều người chẳng còn đồng nào cả. Họ phải làm việc lậu để kiếm một vài quan. Ông luật sư ngồi kia phải thông dịch mướn và đánh máy để kiếm một vài quan. Anh chàng ngồi bên ông ta chuyên hướng dẫn người Đức có của tới những hộp đêm. Cô đào hoạn nạn ngồi trong góc đi coi chỉ tay. Một số đi dạy sinh ngữ. Có người chỉ sống nhờ vào quỹ cứu trợ. Tóm lại, một số người đi làm và một số ăn xin. À, cậu đã đi vào văn phòng cứu trợ chưa?
- Mới hồi sáng nầy.
- Họ không giúp gì cả?
- Dạ, không.
- Chẳng sao, cứ trở lại đó. Ruth nên tới cơ quan tương trợ Do Thái còn cậu thì gõ cửa các văn phòng hỗn hợp – ông ta cười – sự nghèo đói cũng có chế độ riêng của nó. Cậu đã ghi tên chưa? Mai tới đó đi. Klassmann có thể giúp được. Có thể ông ta sẽ giúp Ruth lấy được thẻ lưu trú vì Ruth có giấy thông hành.
Kern lắc đầu:
- Đã hết hiệu lực rồi, lại còn vượt biên giới bất hợp pháp.
- Không sao đâu. Miễn có giấy thông hành là được. Klassmann sẽ nói rõ cho cậu biết.
Yvonne mang khoai tây tới với một dĩa đựng ba miếng thịt trừu. Kern cười với cô ta. Yvonne dịu dàng cười theo. Marill bảo:
- Thấy rõ chưa? Phần ăn của mỗi người là một miếng, vậy mà Yvonne vẫn có cách tặng thêm miếng nữa.
Ruth nhìn cô hầu bàn:
- Cám ơn Yvonne.
Mặt Yvonne sáng hẳn ra. Cô ta vừa đi vừa nhún nhẩy.
Marill hỏi Ruth:
- Còn theo dõi hoá học không ?
- Tạm thời thì đang bỏ.
- Vậy là khôn. Có thấy người ngồi đằng kia với cuốn sách đó không? Luôn hai năm, cậu ta giúp việc trong hộp đêm, vừa làm vừa học. Mới đậu Tiến sĩ cách đây mười lăm hôm. Bây giờ cậu ta lại di học Anh ngữ cố lấy được bằng sinh ngữ nay mai để đi Nam Phi vì ở đây không còn chỗ làm. Đó có phải là một niềm an ủi đối với cô bé không?
- Dạ, đúng vậy.
- Còn Kern?
- Với tôi, tất cả đều có thể là niềm an ủi. Cảnh sát ở đây thế nào?
- Không gắt lắm.
- Lại thêm một niềm an ủi.
Sau khi đưa Kern vào văn phòng cứu trợ để ghi tên và tạt vào sở Di Trú để chứng kiến cảnh xin giấy tờ khó khăn của dân tị nạn. Bác sĩ Klassmann bảo Kern:
- Mình ghé quán kiếm gì giải khát.
Họ ngồi vào một cái bàn xoay. Kern thấy tỉnh người đôi chút sau khi uống xong ly rượu chát. Anh hỏi Klassmann:
- Chặng nào là chặng cuối?
- Chặng cuối là nơi những người như chúng mình ngã chết vì đói lạnh. Trong nhà tù, trong đường xe điện hầm ban đêm, trong những ngôi nhà xây cất dở dang. Hoặc là dưới dạ cầu sông Seine.
Kern nhìn dòng người xuôi ngược không ngừng qua trước quán, Klassmann chợt hỏi:
- Cậu bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi mốt, gần hai mươi hai.
- Tôi đoán không sai. Con trai tôi cũng bằng tuổi cậu.
- Anh ấy cũng ở đây?
- Không. Vẫn ở Đức.
- Tội nghiệp…
Klassmann cắt ngang:
- Không phải cho nó. Nếu có ở đây còn tồi tệ hơn.
Keern ngạc nhiên:
- Vậy à?
- Chớ sao. Nếu có nó ở đây tôi sẽ chặt nó ra từng mảnh.
- Sao vậy?
- Nó tố cáo tôi. Tại nó mà tôi phải bỏ xứ.
Kern buột miệng:
- Khốn kiếp!
- Tôi là người thiên chúa giáo. Còn nó thì gia nhập tổ chức Thanh Niên Quốc Xã. Cậu có thể đoán là giữa tôi và nó đã có hơn một lần to tiếng. Càng ngày nó càng cứng đầu hơn. Một hôm nó nó với tôi, bằng giọng điệu của nột thượng sĩ nói với tân binh, là tôi phải im miệng, nếu không sẽ có chuyện sảy ra. Tôi tát nó.Nó bỏ đi tố cáo với Cảnh sát. Nó thuật y những gì tôi đã nói về đảng. Rất may là có người thông báo gấp cho tôi. Lúc toán biệt kích tới thì tôi đã đi rồi.
Kern chép miệng:
- Kể cũng ly kỳ.
- Và chuyện ly kỳ lại có thể xảy ra khi tôi trở về.
Steiner gắn huy hiệu Quốc Xã vào ve áo:
- Tuyệt diệu, Beer. Bạn tìm cái nầy ở đâu ra?
Bác sĩ Beer cười:
- Của một bịnh nhân tặng. Hắn bị đụng xe gần Morat. Chính tôi săn sóc hắn. Ban đầu hắn còn dè dặt nhưng sau đó thì nói toạc cả ra. Chúng tôi uống với nhau mấy ly cognac rồi hắn tặng tôi huy hiệu làm kỷ niệm. Rất tiếc là hắn bị gọi về Đức.
- Xin thượng đế ban phước lành cho hắn!
Steiner vừa nói vừa lật tập hồ sơ xanh trên bàn, trong đó có một danh sách đóng dấu chữ vạn và một số truyền đơn chánh trị. Anh gật gù:
- Thế nầy là đủ rồi, lão ta không nghi ngờ gì được.
Truyền đơn và danh sách là của Beer do một tổ chúc Quốc Xã ở Stuttgart gởi tới vì những lý do không được sẵn sàng chiến đấu với lão Ammers. Beer đã kể cho anh nghe chuyện Ammers hại Kern.
- Chừng nào bạn đi?
- Mười một giờ. Nhưng trước khi đi tôi còn trở lại để trả huy hiệu.
- Tốt. Tôi sẽ đợi với một chai rượu.
Steiner rời nhà Beer. Một lúc sau anh nhận chuông nhà Ammers. Người đàn bà giúp việc ra mở cửa. Steiner lấy giọng kẻ cả:
- Tôi cần gặp ông Ammers. Bảo là có ông Huber.
Người giúp việc quay vào rồi trở ra hỏi:
- Thưa, về chuyện gì?
Steiner trừng mắt:
- Chuyện của đảng.
Không đầy một phút, Ammers ra tới. Lão ta nhìn Steiner với chút ít nghi ngại. Steiner nghiêm mặt:
- Đồng chí Ammers, hả?
- Vâng.
Steiner bật ve áo ra cho thấy huy hiệu và tự giới thiệu:
- Huber. Tôi thay mặt cho tổ chức đảng ở hải ngoại cần hỏi đồng chí vài câu.
Ammers vội vàng đứng nghiêm:
- Xin mời, xin mời vào, thưa…
- Tên tôi là Huber. Schlichtweg Huber. Đồng chí nên biết… kẻ thù có thể nghe lén mình.
- Thưa, tôi biết. Đó là huy hiệu danh dự, thưa ông Huber.
Những suy đoán của Steiner không sai. Ammers không hề nghi ngờ gì cả. Sự thần phục và sợ hãi Getapo khiến lão ta không dám nghĩ khác. Và cho dầu có nghi ngờ, lão ta cũng không hại được Steiner trên đất Thuỵ Sĩ, nhứt là Steiner có giấy thông hành Aùo với tên Huber. Không một ai biết nổi hắn đã dính líu với Quốc xã Đức tới mức độ nào. Ngay như tòa Đại sứ lúc sau nầy cũng không biết rõ các hoạt động mật của đảng.
Tới phòng khách, Steiner không đợi mời đã ngồi vào chiếc ghế dựa dành cho chủ nhân, nói như ra lệnh:
- Đồng chí ngồi xuống đó.
Rồi vừa lật hồ sơ, hắn vừa tiếp:
- Chắc đồng chí đã biết nguyên tắc chính yếu của chúng ta khi hoạt động ở nước ngoài là phải kín đáo chớ?
Ammers gật đầu.
- Chúng tôi cũng tin tưởng đồng chí về điểm đó. Thế nhưng mới đây, chúng tôi lại có tin là đồng chí đã làm ồn ào vì một tên di dân vô danh nào đó. Có đúng thế không?
Ammers gần như nhẩy nhổm:
- Tên lưu manh đó. Nó đã làm cho tôi mang bịnh và trở thành lố bịch…
Steiner vẫn sẵn giọng:
- Lố bịch? Có phải lố bịch trước công chúng không, đồng chí Ammers?
Ammers sợ sệt:
- Thưa, không trước công chúng. Tôi muốn nói là chính mình cảm thấy lố bịch.
Steiner nhìn lão ta đăm đăm:
- Đồng chí Ammers, một người của đảng không được lố bịch dầu chỉ là lố bịch trước mắt mình ! Lố bịch… đó là từ ngữ không thể có trong đảng. Chỉ có những kẻ khác mới là lố bịch, đồng chí hiểu chưa?
- Thưa hiểu.
Ammers lau mồ hôi trên trán. Trong đầu lão đã hiện ra cảnh tội tù. Lão ấp úng:
- Thưa, đó chỉ là trường hợp duy nhứt… Tinh thần tôi vẫn không thay đổi… Tôi vẫn trung thành…
Steiner cắt ngang:
- Tôi cũng mong đó là trường hợp duy nhứt không bao giờ tái diễn. Kể từ nay trở đi, đồng chí không cần lo cho bọn di dân, hiểu chưa?
Ammers gật đầu hăng hái. Lão lại tủ rượu lấy ra hai cái ly nạm bạc, bên trong có mạ vàng và một chai rượu.
Steiner hỏi giọng bất cần:
- Cái gì vậy?
- Thưa, cognac.
Steiner dịu giọng hơn nhưng vẫn làm ra vẻ kẻ cả:
- Người ta đãi rượu bằng loại ly nầy khi nào rượu không được ngon mấy. Mang cho tôi một ly thường thôi, đừng quá nhỏ.
Ammers mừng ra mặt:
- Vâng. Có sẵn cả.
Uống xong, Steiner lật hồ sơ:
- Còn một việc nầy nhờ đồng chí. Nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật. Đồng chí biết là chúng ta chưahoạt động đáng kể lắm ở đây về mặt tuyên truyền.
- Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.
- Tốt. Nhưng đảng không thể trì trệ như thế này mãi. Mình phải có một ngân quỹ bí mật – Anh ta liếc nhìn danh sách – đảng đã có một số nhà hảo tâm giúp rồi. Nhà nầy là của đồng chí, phải không?
Giọng Ammaers nghe yếu đi:
- Vâng.
- Đồng chí định giúp bao nhiêu. Danh sách nầy cần phải gởi gấp về Bá Linh. Tôi ghi năm chục quan, được không?
Ammaers nhẹ người. Lão ta tưởng ít nhất cũng phải một trăm quan. Lão trả lời rất mau:
- Dạ được. Ghi sáu chục cũng được.
- Tốt. Vậy thì ghi sáu chục.
Ammers lấy một tờ giấy bạc năm chục quan và một giấy bạc mười quan đặt trên bàn. Steiner cho tiền vào cặp:
- Đồng chí có biết tại sao chẳng có biên lai không?
- Thưa biết. Tuyệt đối bí mật. Chúng ta đang ở Thụy Sĩ.
Steineer gật đầu:
- Hay lắm. Nhớ tránh những vụ rắc rối không đáng kể. Giữ được bí mật là kể như đã thành công một nửa.
- Vâng. Tôi sẽ cố tránh.
Steiner ra về, đi quanh co một lúc khá lâu mới trở lại nhà Bác sĩ Beer.
Tài sản của Adamsmith

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Old 06-06-2008, 02:21 PM
Adamsmith's Avatar
Adamsmith Adamsmith is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: Nơi có lá vàng rơi.
Bài gởi: 392
Thời gian online: 2 tháng 0 tuần 2 ngày
Xu: 801
Thanks: 185
Thanked 41 Times in 24 Posts
Chương 17

C ó tiếng gõ cửa. Ruth giựt mình, lắng tai nghe. Nàng chỉ có một mình vì Kern đã đi từ sáng sớm để tìm việc. Nàng do dự một lúc rồi nhẹ nhàng đi qua phòng Kern bằng cửa thông nhau giữa hai phòng.
Ruth rón rén ra hành lang phía bên kia, đứng ở góc tường nhìn lại.
Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đang đứng trước cửa phòng Ruth. Nàng biết mặt ông ta và có nghe gọi là Brosse. Vợ ông ta bị bịnh nằm liệt giường mấy tháng nay. Họ chỉ sống nhờ tiền cứu trợ và chút ít của cải mang theo. Ở lữ quán Verdun mọi người đều biết rõ chuyện của nhau. Nàng tới gần:
- Ông tìm tôi?
- Vâng. Có phải cô là Holland không?
- Chính tôi.
- Tên tôi là Brosse, ở tầng dưới nầy. Vợ tôi bịnh… Nhưng tôi phải ra ngoài để kiếm việc làm. Tôi mạn phép đến gặp cô để xem cô có chút thì giờ…
Da mặt Brosse xanh xao, đầy nét phiền muộn. Ở đây, hễ cứ thấy ông ta là mọi người đều lảng ra để khỏi bị nhờ đóng vai an ủi bịnh nhân.
- Vợ tôi có những hôm… buồn đến lạnh người. Thế mà khi có người chuyện vãn là lại vui lên làm như sắp hết bịnh. Không biết cô có vui lòng …
Mấy ngày qua Ruth bắt đầu đan áo ấm. Có người cho biết, một cửa hiệu Nga tại Chaps-Eslysees nhận mua loại áo len đan để bán lại đắt hơn gấp ba. Ruth ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Ông đợi một chút. Để tôi vào lấy vài món.
Ruth đem cả đồ đan theo Brosse xuống lầu dưới.
Về tới phòng, Brosse cố làm ra vẻ vui tươi:
- Lucie, anh mời cô Holland tới chuyện trò với em đây.
Hai con mắt đen trên khuôn mặt sáng hướng thẳng về phía Ruth. Brosse nói mau:
- Bây giờ anh đi. Tối về thế nào cũng có việc làm.
Ông ta cười, nhè nhẹ đi ra khép cửa lại. Người đàn bà lạnh lùng hỏi Ruth:
- Chồng tôi đến kiếm cô, phải không?
Ruth không muốn trả lời, nhưng nghĩ lại, nàng gật.
- Cám ơn cô. Nhưng tôi ẫn có thể nằm một mình. Cô cứ làm việc. Tôi cần ngủ một chút.
- Bà cứ tự nhiên. Tôi có đem theo đồ đan đây.
Người đàn bà thở dài:
- Ở bên một người bịnh chán lắm…
- Nhưng ngồi một mình trong phòng còn chán hơn.
Một lúc lâu không nghe người đàn bà nói, Ruth ngước lên. Bà ta đang khóc nghẹn.
- Trời ơi, ước gì tôi được ra ngoài phố một lần…
Nhìn khuôn mặt xám mét của người bịnh, chiếc giường tồi tàn rồi nhìn ra con đường ngập nắng chiều, những ngôi nhà có bao lơn và tấm bằng cao nghệu với một cái chai khổng lồ kết lại bằng các ống đèn để quảng cáo cho rượu khai vị Dubonnet, tự nhiên Ruth cũng cảm thấy cái thế giới bên ngoài cửa sổ đó như thuộc về một hành tinh khác.
Người đàn bà nín khóc, mệt nhọc ngồi lên:
- Cô về phòng à?
- Không.
- Cô đừng giận. Bịnh lâu quá tánh tình tôi không được bình thường…
Ruth ngồi xuống bên người đàn bà:
- Không, tôi có giận gì đâu.
Nàng tiếp tục đan. Một lúc sau, người đàn bà tỉnh táo hẳn:
- Cô cầm kim không được đúng lắm.
Và bà ta chỉ Ruth cách đan cho được mau hơn. Ruth nhìn lên bắt gặp một nụ cười trên môi người bịnh. Bà ta tiếp tục đan một lúc lâu rồi trao lại cho Ruth:
- Đó, cô cứ làm giống như vậy…
Brosse trở về buổi tối. Ông ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy mặt vợ ửng hồng đôi chút.
- Em ngủ hả?
- Không, chỉ nằm nghỉ.
- Cô Holland về lúc nào?
- Mới cách đây vài phút.
Thình lình bà nắm lấy tay chồng:
- Anh, có kiếm được việc làm không?
- Chưa, nhưng chắc chắn là phải có.
Người đàn bà nín lặng khá lâu và thở dài:
- Em trở thàng gánh nặng cho anh.
Brosse tròn mắt:
- Lucie, sao em nói vậy? Không có em thì anh sống làm gì?
Ông ta ngồi xuống vuốt tóc vợ:
- Em đừng nghĩ nhiều mệt óc. Thế nào rồi cũng hết bệnh mà. Anh yêu em lắm, đừng nói dại anh buồn.
- Không ai có thể yêu một người đàn bà bịnh.
Brosse cười buồn:
- Phải yêu gấp đôi chớ. Bởi vì đó vừa là một người đàn bà vừa là một đứa bé.
Nước mắt người đàn bà ràn rụa:
- Anh còn yêu em không, Oho?
Brosse ôm lấy mặt vợ:
- Yêu và yêu gấp ngàn lần. Yêu đến nỗi anh còn ghen cả với cái giường mà em đang nằm. Em phải nằm trong trái tim, trong huyết quản của anh…
- Oho…
- Lucie…
Brosse hôn môi vợ. Vành môi nhợt nhạt, lạnh căm của người bịnh từ từ nóng ấm ra.
Kern vẫn chưa tìm ra được việc làm. Anh tới khắp chỗ nhưng chẳng có nơi nào nhận dầu chỉ xin làm với giá hai mươi quan mỗi ngày.
Qua mười lăm hôm, tiền hết sạch. Họ phải sống nhờ vào tiền cứu trợ: mỗi tuần khoảng năm mươi quan. Kern điều đình với bà chủ xin giữ lại hai phòng đang ở với khỏan tiền đó, được thêm một ít cà phê và bánh mì buổi sáng.
Kern phải bán áo choàng, cái vali và tất cả những món của Potzloch cho. Kế đó, họ lại phải bán tới một vài món nữ trang của Ruth và một ít áo quần còn khá tốt. Tuy thế, họ không thấy có gì quá thảm khổ. Dầu sao, họ cũng đang sống giữa Ba Lê, vậy là đủ lắm rồi.
Một chiều chủ nhật, Marill đưa họ vào Viện Bảo tàng Louvre, đó là ngày vào cửa khỏi phải trả tiền. Ông ta bảo:
- Các người cũng nên làm một cái gì để giết thì giờ giữa mùa đông. Các vấn đề lớn của đám di dân là sự đói khát, nơi trú ngụ và cách sử dụng thì giờ quá thừa thãi vì không được quyền làm việc mà ra. Sự đói khát và ưu tư là hai kẻ thù sinh tử cần phải chống cự quyết liệt, nhưng thời gian nhàn rỗi và vô dụng lại là một địch thủ đáng sợ. Nó lén lút tiến tới từ phía sau để gặm nhấm nghị lực và làm cho tinh thần tan rã. Cô cậu còn trẻ không nên la cà ở các quán, đừng tự than trách cũng đừng để bị xâm chiếm bởi những ý nghĩ chán chường. Mỗi khi thấy tinh thần xuống thấp hãy đến viếng phòng chờ đợi lớn nhất của Ba Lê: Viện Bảo tàng Louvre. Mùa đông ở đây ấm lắm. Thả hồn chìm đắm trước một Delacroix, một Rambrandt hay một Van Gogh còn hơn là thừ người trước một ly rượu. Chính tôi, Marill, đã khuyên cô cậu như thế, và chỉ có trời mới biết là Marill thích ngồi trước một ly rượu hơn.
Họ đi khắp phòng triển lãm đồ sộ của Louvre, họ đi qua nhiều thế kỷ, gặp gỡ các nhà vua Ai Cập bằng đá chạm, đứng trước các vị thần Hy Lạp và những Hoàng đế La Mã, họ chiêm ngưỡng những bàn thờ Babylone, ngắm nghía những tấm thảm Ba Tư, say sưa trước những họa phẩm lừng danh của các bậc thầy như Rembrandt, Goya, Le Greco, Leonard de Vinci, Durer, và cuối cùng họ tới phòng triển lãm của phái ấn tượng.
Những họa cảnh của Cézanne, Van Gogh và Monet, những vũ nữ của Degas…chosi sáng trên tường. Tất cả đều yên lặng, chẳng có sự hiện diện của ai ngoài họ ra. Kern và Ruth có cảm tưởng như đang ngồi bên những cửa sổ mở toang ra trước những cảnh sắc xa xăm, những khu vườn có vết tích của sự yêu đời, của những cảm giác mênh mông, những giấc mơ cao cả… và nơi đó linh hồn không bị hủy diệt, cảnh trí không bị chi phối bởi chế độ độc tài, bởi sự sợ hãi, bởi những luật lệ bất công.
Marill trầm ngâm một lúc lâu rồi nói giọng đều đều:
- Toàn là những di dân! Họ là những di dân. Bị săn đuổi, trục xuất, vô gia cư, một số đã phải kéo lê cuộc sống trong bùn, sống trong cơ cực và chết trong thảm khổ, nhưng hãy nhìn những gì họ đã sáng tạo kia! Đó là văn mình thế giới! Tôi chỉ muốn các người nhận thấy thế thôi.
Ông ta tháo kính ra lau:
- Cô cậu có cảm tưởng gì?
Ruth đáp ngay:
- Những họa phẩm nầy cho tôi cái cảm tưởng bình yên.
- Bình yên. Tôi nghĩ là cô muốn nói tới vẻ đẹp. Mà cũng đúng, ngày nay sự bình yên đồng nghĩa với vẻ đẹp. Nhứt là đối với chúng ta. Còn Kern?
- Tôi muốn có được một tấm để lấy tiền mua được thực phẩm.
Marill nhìn Kern:
- Tôi muốn cậu trả lời thật tình hơn.
Kern vẫn giữ ý trước:
- Tôi biết nói thế là điên. Nhưng lúc nầy tôi đang nghĩ tới một cái áo ấm cho Ruth giữa mùa đông.
Ruth đứng sát vào Kern, nắm tay anh.
Marill đeo kính vào:
- Con người ở những điểm cuối có thể là nên điều vĩ đại cho nghệ thuật, cho tình yêu mà cũng có thể đi tới chỗ tận cùng của sự ngu dại, hận thù và ích kỷ. Nhưng điều mà nhân loại còn đang thiếu thốn chính là một lòng tốt bình thường.
Kern và Ruth vừa ăn tối xong. Bữa ăn chỉ có bánh mì và cacao. Đó là thực đơn duy nhứt của họ từ tám ngày qua ngoại trừ một tách cà phê và hai cái bánh mì sừng buổi sáng do bà chủ lữ quán cung cấp. Kern cười với Ruth:
- Lạ quá, mình ăn bánh mì mà nghe mùi bít-tết.
- Còn em thì lại nghe mùi thịt gà. Thịt gà quay có củ cải thật tươi.
- Thịt gà hả? Vậy cho anh một miếng thịt gà đi.
Ruth vừa cười vừa chuyển sang dĩa Kern một mẩu bánh mì:
- Đó, em nhường anh cái đùi.
Kern cười lớn:
- Ruth, nếu không có em bên cạnh chắc tối ngày anh phải cãi lộn với Trời.
- Và nếu không có anh thì em phải lên giường nằm khóc.
Có tiếng gõ cửa. Kern ngỡ là Brosse trong khi Ruth nói to:
- Mời vào!
Cửa mở ra. Kern nhìn lên và sửng sốt kêu:
- Uûa! Có đúng thế không hay là tôi đang nằm mơ… Steiner, anh đó phải không? Trời ơi, Steiner, đây rồi.
Steiner cười:
- Xin lỗi Ruth, tôi tới hơi đột ngột khiến cô cậu mất vui. Nhờ gặp Marill ở tầng dưới nên tôi mới biết hai người ở đây.
Kern hỏi:
- Anh từ Vienne tới phải không?
- Từ Vienne. Sau khi đi vòng qua Morat.
Kern lùi lại một bước:
- Sao? Anh có qua Morat à?
Ruth cười và giải thích:
- Morat là nơi gây tai họa cho chúng tôi. Ở đó tôi bị bịnh còn Kern thì bị bắt.
Steiner cười khoan khoái:
- Chính vì vậy mà tôi tới đó. tôi đã trả thù cho cô cậu rồi.
Anh lấy từ trong bóp ra sáu mươi quan Thụy Sĩ và nói tiếp:
- Số tiền nầy tương đương với 14 Mỹ kim hoặc ba trăm năm mươi quan Pháp. Quà tặng của Ammers đó.
Kern trố mắt:
- Ammers? Ba trăm năm mươi quan? Cái gì vậy?
- Để tôi nói rõ sau. Cứ lầy tiền đi. Và bây giờ thì để nhìn cô cậu coi… má hóp, thiếu ăn, chỉ uống cacao không, có đúng chưa?
Kern cười ngượng ngịu:
- Chỉ mới đúng một nửa thôi. Thỉnh thoảng Marill còn đãi cho một bữa ăn đúng vào lúc chúng tôi sắp sửa kêu than. Dường như ông ta có giác quan thứ sáu
- Ông ta còn có một giác quan khác nữa. Đó là giác quan hội họa. Marill có đưa tới Viện Bảo tàng Louvre chưa?
Ruth đáp:
- Có. Chúng tôi đã được xem Cézanne, Van Gogh, Manet, Renoir và Degas.
- A, phái ấn tượng. Như vậy là cô cậu đã được ông ta mời điểm tâm. Sau bữa ăn, ông ta dẫn đi xem, có đúng không? Mà thôi, mau lên, mặc đồ vào. Các quán ăn Ba Lê đang đợi chúng mình.
- Nhưng chúng tôi vừa mới…
Steiner ngắt lời:
- Biết rồi nhưng cứ thay quần áo đi. Tiền nhiều quá, phải xài cho đã.
- Nhưng chúng tôi đã mặc đồ rồi đây.
- Ờ há! Vậy là hai người đã bán áo choàng rồi phải không? Thôi cũng được. Mình sẽ nói chuyện đó sau.
Sau bữa ăn, Steiner bảo:
- Bây giờ thuật lại cho tôi nghe những gì đã xẩy ra.
Kern nói một hơi dài:
- Ba Lê thật là lạ. Đây chẳng những là thành phố của nước hoa, của xà bông thơm mà còn là thành phố của kẹp tóc, dây giày, nút áo. Ngoài ra, tôi còn làm nhiều thứ khác như khuân vác trái cây, bán đồ chơi trẻ em, cuối cùng chẳng kiếm được bao nhiêu. Ruth làm việc cho một văn phòng được mười lăm hôm thì văn phòng đóng cửa, người ta không chịu trả tiền. Lại phải xoay ra đan áo len. Tiền bán chỉ vừa đủ mua len đan áo khác… Chính vì vậy mà tôi đi dạo thành phố Ba Lê như một người Mỹ giàu có, không cần mặc áo choàng.
Steiner đốt một điếu thuốc:
- Cô cậu bán áo choàng hay là cầm?
- Cầm trước rồi bán sau.
- Có tới quán Maurice lần nào chưa?
- Chỉ tới quán Alsace thôi.
- Được. Vậy thì mình tới Maurice. Ở đó có Dickmann. Hắn biết đủ thứ kể cả vấn đề áo choàng. Nhân tiện tôi sẽ hỏi hắn xem có việc gì làm tại hội chợ Quốc tế sắp khai mạc hay không.
- Hội chợ Quốc tế hả?
- Đúng vậy. Mình có thể tìm việc làm ở đó không sợ bị hỏi giấy tờ.
Kern hơi ngạc nhiên:
- Anh tới Ba Lê bao lâu rồi? Sao anh biết hết vậy?
- Mới bốn hôm. Tôi tìm ra cô cậu là nhờ Klassmann. Tôi gặp ông ta ở sở Cảnh sát. Nói xin cho cô cậu biết là tôi đã có giấy thông hành. Vài hôm nữa tôi sẽ tới ở khách sạn Quốc Tế. Cái tên này rất hợp với tôi.
Tài sản của Adamsmith

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Old 06-06-2008, 02:22 PM
Adamsmith's Avatar
Adamsmith Adamsmith is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: Nơi có lá vàng rơi.
Bài gởi: 392
Thời gian online: 2 tháng 0 tuần 2 ngày
Xu: 801
Thanks: 185
Thanked 41 Times in 24 Posts
Chương 18

Họ quây quần trong một quán ăn của hội chợ Quốc tế. Đó là ngày phát lương. Kern sắp những tờ giấy bạc mỏng lên trên dĩa ăn:
- Chỉ một tuần tôi lãnh được hai trăm bảy mươi quan! Đây là lần thứ ba! Đúng là chuyện trên trời rơi xuống.
Marill nhìn Kern, cười khoan khoái. Ông ta cụng ly với Steiner:
- Nào, chúng mình uống với nhau chứ Huber! Tổ tiên chúng ta run rợ khi có sấm chớp, nhưng thế hệ sau đó thì run sợ trước đao kiếm và bịnh tật. Bây giờ bọn mình run sợ trước mảnh giấy in. Dầu đó là giấy của ngân hàng, hay là giấy thông hành. Trước kia, dân Neandertal giết người bằng côn chùy, dân La Mã bằng gươm kiếm, thời trung cổ con người chết về bịnh dịch… Tới thời đại văn minh này thì chỉ cần một mảnh giấy cũng đủ loại bỏ bọn mình ra.
Kern nhìn những tờ giấy bạc trên dĩa:
- Hoặc là nhờ những mảnh giấy đó mà chúng mình sống lại.
Marill liếc xéo Kern. Steiner hỏi ông ta:
- Bạn thấy thằng bé thế nào? Có tiến bộ không?
- Khá lắm. Dường như nó thích hợp với khí hậu nước ngoài. Bây giờ nó cũng biết chơi chữ. Mới cách đây mấy tháng nó còn gần như còn đòi bú.
Steiner cười:
- Sống trong thời đại nhiễu nhương, con người rất dễ ngã quỵ nhưng cũng sớm già dặn.
Marill uống một ngụm rượu chát. Steiner quay sang Kern:
- Bỏ tiền vào túi đi, bé con, kẻo nó bay mất.
Kern hỏi:
- Bữa nay, các gian hàng mở cửa tới mấy giờ?
- Chi vậy?
- Hỏi cho biết. Bữa nay là ngày lễ mà.
Marill đáp:
- Tới bảy giờ, Kern. Bộ muốn mua rượu mạnh để uống tối hả?
- Không, không phải mua rượu. Tôi muốn tới Salomon Levi. Chẳng biết giá cả trong những lúc nhiễu nhương như thế này ra sao?
- Trong những thời kỳ nhiễu nhương, vật giá đều tăng. Điều quan trọng là phải biết mặc cả.
Một giờ đêm, Steiner, Maill, Ruth và Kern còn ngồi ở quán Mère Margot. Bàn ghế đang được gom lần vào góc.
Steiner gọi một gã hầu bàn đang quét dọn lại tính tiền và nói với Marill:
- Chúng mình đi là vừa. Cha Morizt vừa tới hôm nay. Mình nên đi thăm ông ấy.
Ruth hỏi:
- Cha Morizt là ai?
- Ông là niên trưởng bọn mình, bảy mươi lăm tuổi. Ông đã đi qua tất cả các biên giới và thành phố, ông đã sống trong nhiều lữ quán và nhiều nhà trọ không cần khai báo. Đặc biệt hơn hết là ông đã từng ở tù tại nhiều nhà giam của năm nước văn minh.
Kern chen vào:
- Tôi biết ông ấy. Chúng tôi đã từng đi chung trong lần vượt biên giới từ Tiệp sang Aùo.
Marill nói thêm vào:
- Còn tôi thì đi với ông lão từ Thụy Sĩ sang Ý.
Kern hỏi gã hầu bàn vừa mang phiếu tính tiền tới:
- Có bán Courvoisier nguyên chai không? Phải cùng một giá như các hàng rượu.
- Ông đợi một chút, để tôi hỏi bà chủ.
Bà chủ quán đang ngủ ngục, trả lời gả hầu bàn bằng một cái gật. Steriner bỏ chai rượu vào túi áo choàng. Ngay lúc đó cửa quán bỗng mở ra và một bóng người bước vào. Bà chủ quán che miệng ngáp. Mấy gã hầu bàn lộ vẻ bất mãn.
Người khách vừa vào đi thẳng một mạch, chẳng nói lời gì, như người thụy du tới ngay chỗ quầy gà. Aùnh mắt hắn như muốn xuyên thủng những con gà đang quay đều trên lửa. Hắn hỏi một gã hầu bàn:
- Con này bao nhiêu?
- Hai mươi sáu quan.
- Con kia?
- Hai mươi sáu.
- Con nào cũng hai mươi sáu cả sao?
- Phải.
- Tại sao hồi nãy không nói phức cho rồi?
- Tại ông không hỏi.
Người khách ngước nhìn lên. Có một vẻ gì như giận dữ trên nét mặt thụy du của hắn. Hắn chỉ con gà to nhất:
- Lấy con này.
Kern thúc nhẹ vào tay Steiner. Cả hai ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt.
Gã hầu bàn hỏi:
- Lấy xà lách hay khoai tây chiên?
- Không cần. Cho dao và nỉa ra đây.
Kern thì thầm với Steiner:
- Con gà. Đúng là anh chàng con gà bằng xương bằng thịt.
- Đúng là hắn. Con gà của trại giam thành Vienne.
Anh chàng con Gà ngồi trên bàn. Hắn móc bóp ra lấy tiền đếm thật kỹ. Cho bóp vào túi, hắn cẩn thận mở khăn ra ăn. Trước mắt hắn là con gà quay béo bóng. Hắn làm dấu thánh giá trịnh trọng như một giáo sĩ. Mắt hắn như sáng rực lên khi nhấc con gà cho vào dĩa.
Steiner cười bảo nhỏ:
- Mình để cho hắn ăn ngon đừng chọc phá.
Kern nói mau:
- Phần tôi thì tôi muốn chạy ngay. Gặp hắn hai lần trong tù, lần nào hắn cũng cho biết là sắp sửa ăn gà thì bị bắt. Chắc Cảnh sát sắp tới nơi.
Steiner nheo một mắt:
- Vậy thì dông ngay.
Ra tới cửa, họ ngoái lại nhìn. Anh chàng con Gà đang xé một đùi gà vàng óng. Hắn đưa cái đùi lên ngang tầm mắt ngắm nghía như một kẻ hành hương đang chiêm ngưỡng một vị thánh.
Tài sản của Adamsmith

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Old 06-06-2008, 02:23 PM
Adamsmith's Avatar
Adamsmith Adamsmith is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: Nơi có lá vàng rơi.
Bài gởi: 392
Thời gian online: 2 tháng 0 tuần 2 ngày
Xu: 801
Thanks: 185
Thanked 41 Times in 24 Posts
Chương 19

Họ quây quần trong một quán ăn của hội chợ Quốc tế. Đó là ngày phát lương. Kern sắp những tờ giấy bạc mỏng lên trên dĩa ăn:
- Chỉ một tuần tôi lãnh được hai trăm bảy mươi quan! Đây là lần thứ ba! Đúng là chuyện trên trời rơi xuống.
Marill nhìn Kern, cười khoan khoái. Ông ta cụng ly với Steiner:
- Nào, chúng mình uống với nhau chứ Huber! Tổ tiên chúng ta run rợ khi có sấm chớp, nhưng thế hệ sau đó thì run sợ trước đao kiếm và bịnh tật. Bây giờ bọn mình run sợ trước mảnh giấy in. Dầu đó là giấy của ngân hàng, hay là giấy thông hành. Trước kia, dân Neandertal giết người bằng côn chùy, dân La Mã bằng gươm kiếm, thời trung cổ con người chết về bịnh dịch… Tới thời đại văn minh này thì chỉ cần một mảnh giấy cũng đủ loại bỏ bọn mình ra.
Kern nhìn những tờ giấy bạc trên dĩa:
- Hoặc là nhờ những mảnh giấy đó mà chúng mình sống lại.
Marill liếc xéo Kern. Steiner hỏi ông ta:
- Bạn thấy thằng bé thế nào? Có tiến bộ không?
- Khá lắm. Dường như nó thích hợp với khí hậu nước ngoài. Bây giờ nó cũng biết chơi chữ. Mới cách đây mấy tháng nó còn gần như còn đòi bú.
Steiner cười:
- Sống trong thời đại nhiễu nhương, con người rất dễ ngã quỵ nhưng cũng sớm già dặn.
Marill uống một ngụm rượu chát. Steiner quay sang Kern:
- Bỏ tiền vào túi đi, bé con, kẻo nó bay mất.
Kern hỏi:
- Bữa nay, các gian hàng mở cửa tới mấy giờ?
- Chi vậy?
- Hỏi cho biết. Bữa nay là ngày lễ mà.
Marill đáp:
- Tới bảy giờ, Kern. Bộ muốn mua rượu mạnh để uống tối hả?
- Không, không phải mua rượu. Tôi muốn tới Salomon Levi. Chẳng biết giá cả trong những lúc nhiễu nhương như thế này ra sao?
- Trong những thời kỳ nhiễu nhương, vật giá đều tăng. Điều quan trọng là phải biết mặc cả.
Một giờ đêm, Steiner, Maill, Ruth và Kern còn ngồi ở quán Mère Margot. Bàn ghế đang được gom lần vào góc.
Steiner gọi một gã hầu bàn đang quét dọn lại tính tiền và nói với Marill:
- Chúng mình đi là vừa. Cha Morizt vừa tới hôm nay. Mình nên đi thăm ông ấy.
Ruth hỏi:
- Cha Morizt là ai?
- Ông là niên trưởng bọn mình, bảy mươi lăm tuổi. Ông đã đi qua tất cả các biên giới và thành phố, ông đã sống trong nhiều lữ quán và nhiều nhà trọ không cần khai báo. Đặc biệt hơn hết là ông đã từng ở tù tại nhiều nhà giam của năm nước văn minh.
Kern chen vào:
- Tôi biết ông ấy. Chúng tôi đã từng đi chung trong lần vượt biên giới từ Tiệp sang Aùo.
Marill nói thêm vào:
- Còn tôi thì đi với ông lão từ Thụy Sĩ sang Ý.
Kern hỏi gã hầu bàn vừa mang phiếu tính tiền tới:
- Có bán Courvoisier nguyên chai không? Phải cùng một giá như các hàng rượu.
- Ông đợi một chút, để tôi hỏi bà chủ.
Bà chủ quán đang ngủ ngục, trả lời gả hầu bàn bằng một cái gật. Steriner bỏ chai rượu vào túi áo choàng. Ngay lúc đó cửa quán bỗng mở ra và một bóng người bước vào. Bà chủ quán che miệng ngáp. Mấy gã hầu bàn lộ vẻ bất mãn.
Người khách vừa vào đi thẳng một mạch, chẳng nói lời gì, như người thụy du tới ngay chỗ quầy gà. Aùnh mắt hắn như muốn xuyên thủng những con gà đang quay đều trên lửa. Hắn hỏi một gã hầu bàn:
- Con này bao nhiêu?
- Hai mươi sáu quan.
- Con kia?
- Hai mươi sáu.
- Con nào cũng hai mươi sáu cả sao?
- Phải.
- Tại sao hồi nãy không nói phức cho rồi?
- Tại ông không hỏi.
Người khách ngước nhìn lên. Có một vẻ gì như giận dữ trên nét mặt thụy du của hắn. Hắn chỉ con gà to nhất:
- Lấy con này.
Kern thúc nhẹ vào tay Steiner. Cả hai ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt.
Gã hầu bàn hỏi:
- Lấy xà lách hay khoai tây chiên?
- Không cần. Cho dao và nỉa ra đây.
Kern thì thầm với Steiner:
- Con gà. Đúng là anh chàng con gà bằng xương bằng thịt.
- Đúng là hắn. Con gà của trại giam thành Vienne.
Anh chàng con Gà ngồi trên bàn. Hắn móc bóp ra lấy tiền đếm thật kỹ. Cho bóp vào túi, hắn cẩn thận mở khăn ra ăn. Trước mắt hắn là con gà quay béo bóng. Hắn làm dấu thánh giá trịnh trọng như một giáo sĩ. Mắt hắn như sáng rực lên khi nhấc con gà cho vào dĩa.
Steiner cười bảo nhỏ:
- Mình để cho hắn ăn ngon đừng chọc phá.
Kern nói mau:
- Phần tôi thì tôi muốn chạy ngay. Gặp hắn hai lần trong tù, lần nào hắn cũng cho biết là sắp sửa ăn gà thì bị bắt. Chắc Cảnh sát sắp tới nơi.
Steiner nheo một mắt:
- Vậy thì dông ngay.
Ra tới cửa, họ ngoái lại nhìn. Anh chàng con Gà đang xé một đùi gà vàng óng. Hắn đưa cái đùi lên ngang tầm mắt ngắm nghía như một kẻ hành hương đang chiêm ngưỡng một vị thánh.
Tài sản của Adamsmith

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #20  
Old 06-06-2008, 02:24 PM
Adamsmith's Avatar
Adamsmith Adamsmith is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: Nơi có lá vàng rơi.
Bài gởi: 392
Thời gian online: 2 tháng 0 tuần 2 ngày
Xu: 801
Thanks: 185
Thanked 41 Times in 24 Posts
Chương 20

Steiner tới nơi lúc mười một giờ trưa. Anh gởi vali tại nhà ga và đi thẳng tới bệnh viện. Anh không có thì giờ nhìn thành phố, anh chỉ thấy những đợt sóng người và xe cộ cùng những dãy nhà.
Anh dừng lại trước một tòa nhà đồ sộ trắng, do dự một lúc. Anh nhìn cái cổng rộng lớn và những dãy cửa sổ ở các tầng lầu cao. Một chỗ nào trên đó… nhưng có chắc không? Anh mím môi bước vào.
Hắn hỏi cô thư ký:
- Xin cô vui lòng cho biết giờ thăm bệnh.
- Hạng mấy?
- Không rõ. Tối mới tới đây lần thứ nhứt.
- Ông muốn thăm ai?
- Bà Marie Steiner.
Anh ngạc nhiên khi thấy cô thơ ký vẫn dửng dưng lật sổ. Anh đã tưởng tượng là trần nhà sẽ đổ xuống hoặc nữa người y tá ngồi ở bàn giấy sẽ nhảy dựng lên chạy ra ngoài hô hoán khi nói tới tên Steiner.
Cô y tá vẫn tiếp tục lật sổ vừa dò tìm vừa nói:
- Nếu nằm phòng hạng nhất thì được thăm suốt ngày.
- Chắc không phải hạng nhất. Có thể là hạng ba.
- Giờ thăm ở hạng ba là từ ba giờ đến năm giờ.
Cô y tá tiếp tục tìm:
- Lúc nãy ông nói tên gì?
- Steiner, Marie Steiner.
Steiner cảm thấy cổ họng như khô đắng. Anh nhìn chăm chăm vào khuôn mặt búp bê của người nữ y tá. Anh chờ cô ta nói tiếng “Đã chết”.
- Đây, Marie Steiner, hạng nhì, phòng 505, lầu 5. Giờ thăm là từ ba tới sáu.
Steiner mừng rỡ:
- 505. cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm.
Tuy nhiên anh vẫn còn đứng đó. Chuông điện thoại reo, cô y tá vừa nhấc máy vừa hỏi:
- Ông còn cần gì không?
- Bà Steiner còn sống hay đã chết?
Cô y tá đặt máy xuống. Chuông tiếp tục reo. Cô ta trả lời:
- Dĩ nhiên là còn sống. Nếu không thì phải có lời phụ chú bên cạnh tên.
- Cám ơn cô.
Steiner phải cố gắng lắm mới không hỏi là có thể lên thăm được ngay bây giờ không.
Anh đi lang thang qua nhiều con đường vòng khu bệnh viện. Thình lình, anh sợ bị nhận diện. Anh không sợ cho mình mà chỉ sợ bị bắt trước khi nhìn mặt vợ. Anh tìm một quán nhỏ trên con đường vắng nào đó ngồi chờ tới giờ thăm. Anh gọi thức ăn nhưng không nuốt nổi.
Gã hầu bàn ngạc nhiên:
- Ông ăn không vừa miệng?
- Không. Ngon lắm. Cho tôi một ly Kirsh.
Steiner cố nuốt trôi bữa ăn rồi hỏi mua một tờ báo và gói thuốc. Anh cố đọc báo để quên thì giờ nhưng rồi cũng không đọc nổi. Anh tưởng tượng là Marie đang lịm chết ngay trong lúc nầy, thấy mặt vợ ướt đẫm mồ hôi vì đau đớn trước khi chết. Anh phải hết sức tự chủ mới không đứng lên chạy thẳng tới bệnh viện. Kim đồng hồ từ từ xê dịch như cánh tay định mệnh muốn làm hắn nghẹt thở bằng sự chậm chạp, nặng nề.
Anh ném tờ báo qua một bên rồi đứng lên. Gã hầu bàn đang đứng xỉa răng, thấy khách rời bàn gã tới gần hỏi:
- Thưa, tính tiền?
- Không, cho một ly bia nữa.
Gã hầu bàn rót cho hắn một ly bia. Anh mời:
- Bồ cũng uống một ly đi.
- Cám ơn.
Gã hầu bàn rót ngay cho mình một ly bia rồi nâng ly lên với hai ngón tay:
- Kính ông.
Uống xong, Steiner hỏi:
- Bồ biết chơi bi da không?
Gã hầu bàn nhìn cái bàn bi da cũ kỹ nằm ở giữa phòng.
- Dạ, chỉ biết sơ sơ.
- Mình làm một bàn chơi.
- Dạ, chắc ông đánh khá lắm.
- Bỏ lâu rồi. Thử dợt lại xem sao.
Bàn đầu, Steiner thắng điểm khá xa. Gã hầu bàn đề nghị:
- Ông chơi cừ lắm. Chấp tôi mười điểm đi.
- Cũng được.
Steiner tự bảo nếu bàn nầy mình thắng thì Marie vẫn còn sống và có thể sẽ lành bịnh…
Anh cố đánh kỹ từng cơ và lại thắng. Bàn thứ ba chấp luôn hai mươi điểm. Anh chăm chú đánh. Còn mấy điểm sau cùng, mắt anh như rách ra, tay run lẩy bẩy, nhưng anh cố gắng và cuối cùng lại thắng với số điểm suýt soát.
Anh nhìn lại đồng hồ, đã ba giờ hơn. Anh vội vàng trả tiền đi thật mau về phía bệnh viện.
Phải mất một lúc khá lâu anh mới tìm được phòng của vợ. Anh hồi hộp gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Anh gõ cửa lần thứ hai. Dạ dầy anh dường như bị một bàn tay vô hình siết nghiến. Anh xô cửa vào.
Giữa phòng trong ánh nắng chiều trông như một hòn đảo bình lặng ở một thế giới xa xôi cũng buồn phiền, thống khổ và dấu vết thời gian dường như không có bóng dáng ở đây. Một thân người nằm bất động trên giường đang nhìn anh. Tự nhiên, chân anh như mềm ra, cái nón rơi xuống. Anh khom mình để lượm nhưng rồi không đứng lên nổi, anh quỳ xuống luôn bên cạnh giường.
Đôi mắt người đàn bà dán chặt vào mặt anh – đôi mắt vô hồn – nhưng rồi mô người bệnh từ từ động đậy, ánh sáng trở về với màu mắt nâu bàn tay trên mép giường sờ soạng…
Steiner kề sát mặt vợ:
- Anh đây Marie.
Người đàn bà cố ngoi đầu lên. Steiner cản lại:
- Đừng, cứ nằm yên. Anh đây mà. Anh vừa trở về.
Người đàn bà thều thào:
- Joseft…
Steiner gục đầu xuống, nước mắt buồn bã trào ra. Anh cắn môi để khỏi bật khóc.
- Anh đây, Marie. Anh trở về bên em.
Người đàn bà thì thầm:
- Nếu họ gặp anh…
- Họ không tìm ra anh đâu. Cho dầu họ có tìm thấy anh cũng vẫn ở đây. Anh ở bên em.
- Sờ mặt em đi, Joseft, để em nhận ra sự hiện diện của anh. Em nằm mơ thấy anh luôn…
Steiner sờ lên trán vợ rồi nắm lấy bàn tay mỏng mảnh kề vào môi. Anh khom xuống hôn vào đôi môi lạnh. Lúc anh đứng thẳng lên, mặt anh đầm đìa nước mắt. Nàng lắc đầu, nước mắt rơi xuống như những giọt mưa.
- Em biết là anh không thể trở về. Vậy mà em vẫn mong…
- Anh sẽ ở đây với em.
Marie đẩy nhẹ chồng ra:
- Anh không ở đây được đâu. Anh phải đi. Anh không biết, lúc nầy khó khăn lắm. Đi đi, Josef…
- Không sao đâu.
- Nguy hiểm lắm. Em biết rõ hơn anh. Em đã gặp anh được rồi, thôi đi đi. Em không còn sống bao lâu nữa. Em sẽ tự lo liệu lấy.
- Không. Anh tìm cách để ở lại đây. Thế nào cũng có một ngày đại xá. Trường hợp của anh cũng dễ.
Marie nhìn chồng, không tin tưởng. Steiner nói mau:
- Thật mà. Vả lại cũng không ai biết anh về đây. À, em đã xin ly dị chưa?
- Không. Em không làm được. Đừng giận em.
- Anh chỉ lo cho em thôi, để em dễ sống hơn.
- Em cũng chẳng gặp khó khăn gì. Những người chung quanh đều lo cho em. Nhờ họ mà em nằm được phòng này.
Cửa bật mở, một y tá bước vào. Steiner đứng lên. Cô y tá đặt một ly nước đầy chất lỏng như màu sữa lên bàn. Vừa liếc nhìn Steiner cô vừa hỏi Marie:
- Bà có người thăm hả?
Marie cố lay động đầu:
- Từ Breslau tới.
- Xa dữ vậy sao?
Cặp mắt xanh biếc của cô ta lại liếc sang Steiner. Cô ta rút nhiệt kế ra. Steiner hỏi:
- Còn sốt phải không cô?
- Không đâu. Đã hạ sốt nhiều rồi.
Cô ta để nhiệt kế xuống và đi ra. Steiner tới ngồi ở một cái ghế sát giường. Anh cầm lấy hai bàn tay của vợ.
- Anh trở về, em có vui không?
Marie cười:
- Sao anh hỏi lạ vậy?
Hai người nhìn nhau trong im lặng. Họ gần như chẳng còn gì phải nói bởi vì họ đã được ở bên nhau và chỉ một việc đó cũng quá đủ rồi. Cuộc sống đã không có dĩ vãng cũng không có tương lai. Tất cả đều là hiện tại.
Cô y tá quay lại, vẽ một đường cong lên bảng ghi nhiệt độ. Steiner và vợ gần như không chú ý. Họ đang mải mê nhìn nhau.
Aùnh nắng chẳng chịu bỏ đi. Một mảnh sáng rơi trên tóc và đọng trên gối nằm của Marie như một con mèo óng ánh nép mình trên gối người bệnh.
Cửa lại mở ra, một bác sĩ cùng người nữ y tá bước vào. Cô y tá nói với Steiner:
- Hết giờ thăm bệnh rồi.
Steiner đứng lên:
- Mai anh trở lại, Marie.
Nàng nằm đó như một đứa bé mệt mỏi sau một cuộc đùa vui, nửa lả người, nửa mơ màng.
- Dạ, mai anh lại.
Steiner đứng bên ngoài đợi bác sĩ ra. Anh hỏi xem vợ còn có thể sống được mấy hôm. Ông ta nhìn anh như dò xét:
- Còn ba hay bốn hôm nữa. Không hiểu tại sao bà ấy lại còn có thể chịu đựng lâu đến thế.
Steiner cám ơn và bước xuống lầu. Tới cổng, dừng lại, như một bất ngờ, thành phố hiện ra trước mắt anh, rõ ràng và gọn ghẽ. Anh nhìn thấy những con đường, nhìn thấy sự đe dọa câm lặng đang rình rập ở mỗi góc đường, sau mỗi cánh cửa, dưới mỗi bộ mặt. Nơi mà anh có thể bị bắt trói như con dã thú là tòa nhà đá trắng sau lưng. Ba hay bốn đêm là cả một thời gian vô tận. Anh nghĩ tới việc đến nhà một người bạn nhưng rồi lại đi tìm một khách sạn bình dân.
Kern dừng sững ngay cửa nhà giam. Anh nói qua hơi thở đứt đoạn:
- Ruth, sao em ở đây? Em cũng bị bắt sao?
- Không phải, Ludwig.
Kern nhìn mau sang viên Giám thị đang ngồi dựa trong góc, không chú ý gì tới họ. Anh tới gần Ruth, nói nhỏ bằng tiếng Đức:
- Ruth, về đi! Em không biết gì cả. Bị bắt lần nầy là bốn tuần, tù giam, lần sau là sáu tháng. Về ngay đi!
Ruth hốt hoảng:
- Bốn tuần? Vậy anh ở đây tới bốn tuần lễ sao?
- Đối với anh chẳng có gì đáng kể. Với em thì khác. Về đi, họ hỏi giấy bây giờ.
- Em có giấy mà.
- Sao? Em nói gì?
- Em xin được giấy lưu trú.
Nàng lấy giấy đưa cho Kern xem. Kern trố mắt:
- Jésus! Thật vậy sao? Hoàn toàn bất ngờ, không thể tưởng tượng! Ai lo cho em?
- Nhờ ủy ban cứu trợ và Klassmann.
Kern hỏi lớn:
- Thưa ông Giám thị, tù nhân có được phép hôn vợ không?
Người Giám thị uể oải đáp:
- Muốn hôn bao nhiêu cũng được… miễn là vợ anh không chuyền dao, hay giũa qua thôi.
- Có mấy tuần, không ai làm vậy đâu, ông Giám thị.
Anh quay sang Ruth:
- Có được tin gì của Steiner không?
- Không. Marill bảo là anh ấy sẽ trở lại chớ không viết thơ.
- Marill có tin chắc như vậy không?
- Tất cả bọn mình đều tin như vậy, Ludwig.
Kern gật đầu:
- Phải. Mình không thể nghĩ khác hơn. Anh ấy mới đi có tám ngày…
Viên Giám thị bảo:
- Hết giờ rồi.
Kern ôm chầm Ruth. Nàng thì thầm:
- Trở về với em. Tìm mọi cách trở lại. Em có đem tiền theo đây, để dưới cầu vai. Làm bộ hôn em rồi lấy ra.
- Không. Anh còn đủ. Marill sẽ lo cho em. Không chừng nay mai, Steiner trở lại.
Viên Giám thị giục:
- Tới giờ rồi. Không ai đem máy ra chém đâu…
Ruth hôn Kern:
- Ráng giữ sức khỏe. Nhớ trở lại sớm với em.
- Mai anh trở lại, Marie.
Steiner cúi xuống hôn vợ và đứng thẳng lên.
Cô y tá đang đứng ở cửa. Mắt cô ta lấm lét nhưng không nhìn Steiner. Cái ly trong tay cô ta lay động.
Steiner bước ra hành lang.
- Đứng yên!
Một giọng nói lạnh lùng ra lịnh. Hai bên cửa đã có hai nhân viên mặc sắc phục, súng lục cầm tay. Steiner đứng lại. Anh không có vẻ gì sợ hãi.
- Tên gì?
- Johann Huber.
- Lại chỗ cửa sổ.
Người thứ ba tới nhìn mặt. Hắn nói gọn:
- Đúng Steiner.
Và nhìn vào mắt Steiner, hắn hỏi giọng khiêu khích:
- Còn nhớ tao không, Steiner?
Steiner thản nhiên:
- Không quên được, Steinbrenner.
- Tốt lắm. Mầy trở về là tao nồng nhiệt tiếp đón ngay. Bọn tao mới xây một cái trại hoàn toàn mới, đầy đủ tiện nghi cho mầy ở.
- Tao cũng muốn tin như vậy.
Steinbrenner ra lịnh:
- Còng nó lại – và hắn làm ra vẻ đau khổ – đừng buồn nghe cưng, thấy mầy bị bắt tao đứt ruột.
Có tiếng cửa khép mạnh. Steiner nhìn nghiêng qua vai. Đó là cánh cửa phòng vợ hắn. Steinbrenner cười khoái chí:
- Tình yêu. Nó kêu gọi chim ác là về tổ để giúp ích quốc gia và bạn bè.
Steiner nhìn sững Steinbrenner một lúc lâu rồi hỏi:
- Mầy vẫn vô lương tâm như vậy hoài sao?
Steinbrenner cười hô hố:
- Có lương tâm lắm chớ, cưng. Lương tâm của tao cùng cải tiến hơn khi bắt được càng nhiều những thằng như mầy. Tao ngủ ngon lắm. Nhưng có mầy chắc đêm nào tao cũng phải hầu chuyện một chút… Thôi, đi ngay.
Steiner bị đưa ngay tới phòng thẩm vấn. Một viên chức trọng tuổi phụ trách công việc này.
- Tại sao anh trở về Đức?
- Tôi muốn gặp lại vợ trước khi nàng chết.
- Anh đã gặp những người bạn chánh trị nào ở đây?
- Tôi không gặp ai cả.
- Nên nói thật nhẹ tội hơn.
- Tôi đã nói thật là không gặp ai cả.
- Ai ủy nhiệm anh về?
- Không ai ủy nhiệm.
- Ở nước ngoài anh, gia nhập tổ chức chánh trị nào?
- Tôi không làm chánh trị.
- Anh sống bằng cách gì?
- Bằng sức lao động của tôi. Tôi có giấy thông hành Aùo như ông thấy.
- Anh có bổn phận tiếp xúc với tổ chức nào ở đây?
- Nếu có ý định đó, tôi đã trốn tránh. Trở về thăm vợ, tôi đã đoán được số phận ra sao.
Thẩm vấn viên tiếp tục hỏi khá lâu. Ông ta xem kỹ vé thông hành của Steiner và bức thơ của vợ anh. Ngước nhìn Steiner, người công chức lại cúi xuống đọc bức thơ lần nữa.
- Chiều nay, anh sẽ bị giải tới trại giam.
- Thưa ông, tôi có thỉnh nguyện xin được trình bày: Chuyện chẳng có gì xảy ra nhưng đối với tôi là tất cả. Vợ tôi hãy còn sống. Theo lời bác sĩ, vợ tôi sẽ còn sống một hoặc hai hôm nữa. Nếu chiều mai không thấy tôi, vợ tôi biết ngay là tôi đã bị bắt. Tôi không dám xin một ân huệ nào cho riêng tôi nhưng tôi muốn nàng chết trong bình yên. Do đó, tôi xin ông cho tôi được ở lại đây một hay hai ngày nữa để được giải tới bịnh viện vào giờ thăm.
- Không được. Rồi anh trốn thì sao?
- Tôi nhất định không chạy trốn. Phòng bịnh ở tận lầu năm lại không có lối thoát nào. Chỉ cần có người gác ngoài cửa là đủ. Tôi không xin cho tôi mà cho người đàn bà sắp chết.
- Anh biết, tôi không có thẩm quyền.
- Nếu ông muốn, ông cứ bảo là cần phải thẩm vấn thêm lần nữa. Ông có thể bảo là sự gặp gỡ giữa chúng tôi có thể giúp thêm những tài liệu quan trọng. Ngoài người gác cửa, ông sẽ cho một người y tá đáng tin cậy ở luôn trong phòng để nghe chúng tôi nói chuyện.
Người công chức suy nghĩ. Ông ta lại giở hồ sơ ra.
- Theo báo cáo thì anh thuộc nhóm số bảy. Anh không khai tên ai cả. Chúng tôi đã có ở đây các tên Muller, Bose và Welldorf.
Steiner không trả lời.
- Anh có đồng ý khai cho chúng tôi hai tên vào chiều mai và chiều mốt không?
- Tôi sẽ khai vào chiều mốt.
- Chắc không?
- Chắc.
Người công chức nhìn Steiner thật lâu:
- Để xem tôi có thể giúp anh được gì. Bây giờ anh trở lại phòng tối.
- Ông có thể cho tôi xin lại lá thơ?
- Lá thơ phải giữ lại trong hồ sơ chớ.
Ông ta cầm lá thơ lên, ngập ngừng một lúc rồi nhún vai:
- Cũng không sao. Trong thơ chẳng có gì đáng chú ý. Anh cầm lấy.
- Cám ơn ông.
Ông công chức nhận chuông gọi người vào dẫn Steiner ra.
- Rất tiếc, nhưng biết làm sao? Tỏ ra nhân đạo là tự chọn con đường xuống địa ngục.
Nắm tay ông ta nện mạnh lên bàn.
Marie tỉnh dậy một lần nữa. Suốt buổi trưa, nàng ở trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Bây giờ đã nhận rõ ra khuôn mặt chồng. Nàng run giọng vì sợ hãi:
- Anh vẫn còn ở đây sao?
- Anh có thể tới chừng nào cũng được, Marie.
- Sao? Anh nói gì?
- Luật đại xá đã được ban hành. Em không phải lo sợ nữa. Anh ở mãi đây với em.
Marie nhìn Steiner với vẻ nghĩ ngợi:
- Anh nói thế để làm em yên lòng, Joseft…
- Không, Marie, lịnh đại xá đã ban hành hôm qua…
Anh quay sang cô y tá đang sắp soạn những dụng cụ trên bàn:
- Có phải đúng vậy không, cô?
Cô y tá đáp nhỏ:
- Đúng!
- Cô vui lòng lại gần đây để vợ tôi có thể nghe rõ hơn.
Người nữ y tá nặng nề bước tới.
- Tôi mới vừa nói xong.
Marie thều thào:
- Cô vui lòng lặp lại.
Không có tiếng trả lời, Marie lại giục:
- Xin cô vui lòng nói rõ hơn.
Người nữ y tá bước tới sát giường, Steiner hỏi:
- Có phải là kể từ hôm qua tôi được ở đây luôn không?
Cô y tá lí nhí:
- Đúng vậy.
- Và tôi sẽ không bao giờ bị bắt nữa?
- Đúng.
- Cám ơn cô.
Steiner nhìn thấy mắt vợ như mờ mịt nhưng Marie không còn đủ sức để khóc nữa.
- Lạy Chúa! Thế là toàn vẹn. Và bây giờ, giữa lúc anh cần đến em thì em lại ra đi…
- Em không ra đi đâu, Marie…
- Em muốn ngồi dậy để cùng đi với anh.
- Chúng mình sẽ cùng đi.
Marie cứ nhìn chằm chặp vào mặt chồng trong khi mặt nàng tái xám như màu đất. Mái tóc còn sáng chói dưới ánh nắng chiều giờ đã xám xịt màu đêm như một nguồn sống nào đó vừa tắt đi. Steiner nhận thấy tất cả những báo hiệu đó mà như chẳng thấy. Anh chỉ biết vợ mình còn thở tức là nàng còn sống, mà nàng còn sống thì nàng vẫn là Marie của anh.
Bóng tối đã tràn ngập căn phòng và bên ngoài cửa thỉnh thoảng có tiếng ho khan khiêu khích của Steinbrenner.
Hơi thở của Marie ngắn lại, hổn hển từng chập. Chợt một lúc hơi thở như ngừng lại, chỉ còn nhẹ như gió thoảng rồi tắt ngấm. Steiner vội vàng nắm lấy hai bàn tay vợ – hai bàn tay lạnh ngắt – anh cũng chết theo nàng. Lúc đứng lên để đi ra, anh đã hoàn toàn trở thành một người khác lạ, không cảm giác, một cái vẻ không hồn. Tia nhìn của anh thật dửng dưng. Ra tới ngoài anh được Steinbrenner đón bằng một câu hăm dọa:
- Mầy đã bắt tụi tao đợi luôn ba tiếng đồng hồ. Chuyện này mình sẽ có dịp nói lại với nhau.
Steiner lạnh lùng:
- Tao không ngạc nhiên đâu, Steinbrenner.
Steinbrenner liếm môi:
- Chắc mầy biết mỗi lần nói chuyện với tao người ta phải gọi là “ông Thanh tra”. Nhưng mầy có thể tiếp tục mầy tao với tao… Có điều là mầy sẽ phải trả giá rất đắt bằng máu và nước mắt luôn nhiều tuần.
Họ đi xuống thang lầu. Đêm dịu dàng, tất cả cửa sổ đều mở rộng. Steiner ngẩng mặt lên, nghĩ ngợi. Thình lình, anh đẩy mạnh Steinbrenner tới sát một cánh cửa sổ gần đó, nhảy sổ tới và kéo luôn tên bạn bất lương nầy rơi vào khoảng trống từ lầu cao…
Marill buồn thảm bảo:
- Cậu có quyền nhận món tiền nầy. Steiner đã gởi lại tôi, dặn trao cho cậu và Ruth trong trường hợp anh ta không trở lại.
Kern lắc đầu. Bẩn thỉu, hôi hám và buồn thảm, Kern ngồi với Marill trong phòng dưới hầm. Anh vừa từ biên giới tới. Kern đã đi từ Dijon tới theo một đoàn xe vận tải. Anh không thể nào tin được là Steiner đã chết. Kern nói như với chính mình:
- Anh ấy sẽ trở lại. Steiner sẽ trở lại.
Marill sẵng giọng:
- Anh ta không bao giờ trở lại. Bộ cậu không biết là tình hình đã đen tối lắm rồi sao mà cứ ngồi đó nhắc mãi “sẽ trở lại”. Anh ta không còn trở lại. Đây, đọc đi.
Ông ta lấy một bức điện tín nhàu nát đưa cho Kern xem. Bức điện gởi cho chủ quán Verdun, với con dấu từ Bá Linh chỉ mang một dòng chữ ngắn “chúc mừng sinh nhật Otto” Kern ngơ ngác nhìn Marill.
- Vậy nghĩa là sao?
- Như vậy có nghĩa là anh ta đã bị bắt. Chúng tôi đã giao ước là trong trường hợp nầy một người bạn của anh ta sẽ thông báo cho tôi bằng điện tín với lời lẽ như trên. Thôi, cất mấy tờ giấy bạc bẩn thỉu nầy vào đi.
Ông ta đẩy tiền về phía Kern:
- Đó là hai trăm bốn mươi quan và còn đây nữa.
Marill vừa nói vừa lấy ra hai quyển sổ con ném tới chỗ Kern:
- Đây là hai vé tàu đi từ Bordeaux tới Tây Ban Nha. Chiếc Tacoma. Tàu khởi hành ngày 18. Ngoài ra cả hai người cũng đã có chiếu khán nhờ sự can thiệp của Uûy ban cứu trợ dân tị nạn.
Kern sững sờ:
- Nhưng…
Marill lại phát cáu:
- Không nhưng gì cả. Đừng gây khó khăn nữa Kern. Chúng tôi đã khổ sở lắm rồi. Đây là chuyện ngàn năm một thuở. Mới cánh nay ba hôm, Uûy ban cứu trợ đã được chính phủ Tây Ban Nha cho biết rằng sẵn sàng đón nhận 150 vạn dân với điều kiện có đủ tiền di chuyển. Chính Klassmannm, phụ trách vấn đề nầy. Ngay khi được tin chúng tôi đã dành chỗ ngay cho cô cậu…
Ông ta ngừng lại, quay ra bảo cô hầu bàn Alsace:
- Yvonne, cho một ly Kirsh.
Yvonne toan đi thì Marill gọi giật lại:
- Cho hai ly.
Yvonne quay lại mìm cười:
- Ông không nói tôi cũng mang tới hai ly.
- Tốt lắm. Thêm một tâm hồn cao thượng.
Marill nói với Kern:
- Lại thêm một ngạc nhiên nữa cho cậu. Đem vé tàu và giấy chiếu khán tới trình sở Cảnh sát, người ta sẽ cấp cho cậu giấy phép lưu trú cho tới ngày xuống tàu. Ngay cả trường hợp nhập cảnh lậu cũng không. Uûy ban cứu trợ đã nêu vấn đề đó ra và đã được chấp thuận. Mai cậu có thể tới đó.
Yvonne mang tới hai ly, một ly cỡ bình thường và một ly dùng để uống nước đã rót đầy bia. Cô ta chỉ vào ly lớn nói với Marill:
- Ly này của ông. Cũng tính một giá thôi.
- Cám ơn lắm. Cô bé điệu này!
Ông ta uống cạn một hơi nửa ly:
- Uûa! Sao không uống đi, Kern?
Và lần đầu tiên, Marill nhìn thẳng vào mặt Kern:
- Sao chưa khóc?
- Không khóc được nhưng dầu có khóc cũng chẳng làm gì được. Khốn nạn! Vậy mà tôi cứ nghĩ là Steiner phải trở lại để rồi bây giờ với hai vé tàu và số tiền nầy trong tay… tôi bỏ đi, bỏ đi để sống an toàn nhờ vào việc anh ấy không trở lại. Ông có nhận thấy sự bỉ ổi đó không?
- Không. Tôi chẳng nhận thấy gì cả. Hay đó chỉ là những tình cảm nhảm nhí thôi. Không có gì cần phải hiểu. Vẫn là chuyện muôn đời. Thôi, uống đi. Hãy uống như chính Steiner đã uống. Mẹ kiếp, bộ cậu tưởng tôi không có trái tim sao?
Kern uống cạn ly:
- Đã thấy đỡ đôi chút. Cho tôi điếu thuốc, Marill.
Kern hút một hơi dài. Khói thuốc quyện dưới mắt hiện thành khuôn mặt Steiner. Một khuôn mặt khinh đời, hơi nghiêng về phía trước chập chờn qua ánh nến trong nah2 giam thành Vienne. Anh còn nghe câu nói của Steiner đêm ấy”Sao? Cậu bé?”.
- Ruth đã biết chưa?
- Rồi.
- Ruth đi đâu?
- Không biết. Có lẽ ra văn phòng cứu trợ. Cô ấy không biết cậu về.
- Chính tôi cũng không biết lúc nào mới tới. Ở Tây Ban Nha có làm việc được không?
- Phải có chớ. Nhưng hiện giờ mình không biết việc gì. Người ta bảo đảm là sẽ cấp thẻ cư trú và giấy phép hành nghề.
- Tôi không biết một tiếng Tây Ban Nha nào cả.
- Cứ học là phải biết.
Kern gật đầu. Marill nghiêng mình tới, giọng ông ta nghe khác hẳn:
- Kern, tôi biết là không phải dễ đâu. Nhưng tôi khuyên cậu nên đi. Đừng suy nghĩ thêm nữa, cứ đi. Hãy rời xa Aâu châu. Thế nào rồi cũng có chuyện xảy ra ở đây… Một dịp may như thế nầy không bao giờ có được lần thứ hai. Cậu và Ruth hãy đi đi. Ở đây…
Ông ta uống cạn phần bia còn lại. Kern hỏi:
- Ông sẽ đi với chúng tôi?
- Không.
- Bộ tiền không đủ cho ba người sao. Tôi và Ruth vẫn còn một ít.
- Đó không phải là vấn đề. Tôi phải ở lại đây. Chuyện gì xảy ra cũng được. Đây là những chuyện không bao giờ giải thích được.
- Tôi hiểu.
Marill bỗng đứng lên:
- Ruth tới rồi đấy. Dầu tôi phải ở lại và các người ra đi, các người có hiểu thế nào không?
- Hiểu, Marill.
- Cám ơn Thượng đế!
Ruth đứng bất động trên ngưỡng cửa, rồi nàng chạy nhào tới:
- Kern, anh về tới hồi nào?
- Cách đây nửa giờ.
- Anh đã biết…?
- Biết rồi. Marill vừa mới nói.
Kern nhìn quanh, Marill đã biến mất. Ruth ngập ngừng:
- Anh cũng biết… !
- Biết cả. Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Chúng mình ra phố một chút. Anh muốn rời khỏi căn phòng tối ám nầy.
- Phải, mình nên đi ra ngoài.
Ruth và Kern đi về phía Champs-Eùlysees. Trăng lưỡi liềm treo lơ lửng trên nền trời xanh lục. Không khí như bạc trắng ra, trong suốt và hiền dịu.
Họ im lặng đi bên nhau. Mãi một lúc lâu sau, Kern chợt hỏi:
- Em có biết Tây Ban Nha ở đâu không?
Ruth lắc đầu:
- Chỉ biết trên bản đồ. Ngay bây giờ em cũng không biết nước Đức ở đâu.
Kern nhìn người yêu và nắm lấy tay nàng:
- Mình phải đi mua một quyển văn phạm để học tiếng Tây Ban Nha.
- Em mới mua hôm qua.
Kern cười:
- Tốt quá. Đây là cơ hội để mình nhìn thấy chân trời, có phải thế không?
Ruth nhè nhẹ gật đầu.
Họ tiếp tục đi, băng ngang qua một công viên. Những mầm non đã bắt đầu nhô lên trên các cành cây. Aùnh đèn mờ ảo chập chờn như từ dưới đất phụt lên, leo dài trên các thân cây dẻ như những ngọn ma trơi. Đất trong các khu vườn đã được xới lên. Mùi đất mới xông pha trộn lẫn mùi với mùi xăng, dầu bềnh bồng trên đại lộ.
Các luống hoa xuân trong một vài khoảnh vườn quanh quất đó đây đã khoe màu. Trong cảnh sắc hoàng hôn, hoa tươi vẫn chưa chịu khuất mình. Đó là giờ công tư sở đều đóng cửa và lưu thông nghẽn chẹt.
Kern dừng lại nhìn Ruth:
- Người đâu mà đông quá!
Ruth nhỏ nhẹ nói theo:
- Vâng, người đâu mà đông quá!

HẾT
Tài sản của Adamsmith

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời



©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™