Ông Trịnh Dung Tân, trưởng phòng lập trình game của tập đoàn phần mềm máy tính họ Trần đột ngột chết ở văn phòng, đã gây xôn xao dư luận. Sau khi khám nghiệm viện pháp y đã đưa ra kết luận ban đầu là ông Tân chết do xơ cứng động mạch tim, đột quỵ!
Với kết quả khám nghiệm đó, Đào Tử phải thở bằng mũi. Ở hiện trường khám nghiệm, Đào Tử đã nhanh nhẹn liên hệ với phía cảnh sát để được tiếp cận tử thi.
Trước hôm ông Tân chết, cô Đào Tử có phỏng vấn ông. Khi đưa những ghi chép trong cuộc phỏng vấn đó cho phía cảnh sát xem, cô Đào nhắc đi nhắc lại rằng, trong khi phỏng vấn, ông Tân không có chút biểu hiện nào của người mắc bệnh cả. Những người hoài nghi cũng cho rằng ông Tân không phải chết vì bệnh.
Mấy hôm nay, các đối thủ cạnh tranh về lập trình phần mềm trò chơi đã nêu ra một số câu hỏi cho tập đoàn viết phần mềm họ Trần. Phần nhiều họ cho rằng, cái chết của lập trình viên Trịnh Dung Tân có khả năng là do ông ta đã tiếp xúc quá nhiều với các trò chơi cảm giác mạnh và lo sợ cao độ. Đồng thời, qua cái chết đó, họ công kích các trò chơi cảm giác mạnh của công ty này. Ông ta muốn thoát ra khỏi cái trò chơi quỷ quái của “Sơn thôn” nhưng không có cách nào thoát ra được, cuối cùng đột quỵ mà chết. Đứng trước dư luận, ông chủ tịch tập đoàn Trần Hoa không tán thành cũng không phản đối, ông ngầm tổ chức một đội ngũ luật sư giỏi, để có thể ứng phó với cơ quan pháp luật bất cứ lúc nào.
Cái chết của ông Trịnh có quá nhiều điểm nghi vấn, đặt cây bút trong tay mình xuống, cô phóng viên Đào Tử nhấc điện thoại lên… “A lô! Xin hỏi đây có phải là phòng lập trình trò chơi của tập đoàn phần mềm game họ Trần không”.
Phía bên kia đầu dây đã được kết nối, trả lời điện thoại là một người đàn ông, giọng còn rất trẻ.
“Xin chào ông, tôi là phóng viên báo “Thân báo”, Đào Tử, xin hỏi khi ông Trịnh không còn nữa, công việc của quý công ty có ảnh hưởng gì không? Và…”
- “Xin lỗi, cô phóng viên Đào”. Lại một điện thoại khác cướp lời nói: “Đang trong giờ làm việc, tôi không tiện trả lời cô được. Nhưng tôi có thể cho cô biết, với một công ty tầm cỡ thì việc thêm hay mất đi một người sẽ không có vấn đề gì cả”.
Bất giác, cô Đào nắm chặt điện thoại, cô hỏi: “Ông có thể cho tôi biết ông là ai?”.
- Tạ Phi, một trong những lập trình viên của công ty. Hiện nay tôi là quyền trưởng phòng lập trình của công ty thay ông Trịnh. - Ông ta vừa dứt lời thì phía bên kia đầu dây cũng cắt điện thoại luôn.
Tạ Phi? Cô phóng viên cố nhẩm đi nhẩm lại cái tên này để đưa vào bộ nhớ khi phỏng vấn công ty. Thế rồi, cô yêu cầu người đồng nghiệp cạnh bàn làm việc của mình cho xem lại cảnh chụp hiện trường vụ án.
Tuy là một phóng viên vừa tốt nghiệp trường báo chí hệ chính quy nhưng Hồ Tử đã có tác phong và kinh nghiệm làm việc như người đã lâu năm trong nghề. Cậu ta nhanh nhẹn mang đến cho cô Đào xem lại toàn bộ ảnh chụp được ở hiện trường và nói: “Chị ạ, chị còn dám xem lại cảnh chụp ở hiện trường vụ án này sao, ghê chết đi được!”.
Cô Đào không đáp, chỉ lặng lẽ lật xem lại từng tấm ảnh hiện trường vụ án. Cô không thể quên được cái chết với khuôn mặt đầy vẻ run sợ của ông Trịnh, khuôn mặt tuy đã chết song vẻ khiếp sợ vẫn còn hằn lại rõ nét, các bộ phận trên khuôn mặt người chết đều nhăn nhúm, miệng há hốc đến nỗi như thể nhìn thấy cả yết hầu. Đôi mắt đờ đẫn trừng trừng lồi ra như muốn rơi xuống khỏi khuôn mặt.
Đột nhiên, dạ dày cô quặn lên, cô muốn nôn oẹ, nhưng vẫn cố gắng kiềm chế, nói với Hồ Tử: “Lát nữa em bảo với ông tổng biên tập là bản thảo chị đã viết xong, chị có việc gấp xin về trước nhé”.
Cô chạy khỏi phòng biên tập như thể bị ma đuổi, tiếng gót giày cao gót nện xuống tầng hầm để xe rộng rãi, vắng teo cứ “bong” “bong” làm cô rất phản cảm.
Một cảm giác ghê sợ vô căn cứ bỗng dấy lên trong tâm trí cô, cô có cảm giác như có hàng vạn đôi mắt trong căn hầm vắng vẻ này đang theo dõi bước chân cô. Lúc đó, cô hơi hối hận vì đã về trước các đồng nghiệp để đến nỗi…
Cô vội lấy chìa khoá ra mở cửa xe rồi nhảy thót vào ghế ngồi, đợi đến khi xe tự động đóng cửa cô mới thấy nhẹ đi phần nào. Nhưng cô không vội đi ngay mà lấy chiếc USB từ trong túi ra.
Đây là USB bị rơi khi chụp ảnh hiện trường vụ án. Khi cô chụp hình hiện trường, thì chiếc USB này rơi ngay xuống bên chân cô như thể nó có linh cảm với cô vậy. Cô cúi xuống nhặt lên rồi giấu đi không cho các điều tra viên biết, và giấu luôn cả Hồ Tử. Không biết nguyên nhân cụ thể thế nào, nhưng cô linh cảm rằng, chiếc USB này đã bị yểm bùa, hễ ai nhặt nó là cuộc đời từ đó bắt đầu chuyển sang vòng đời sống trong sự sợ sệt. Cô không muốn nhiều người biết đến điều đó là vì như thế.
Bôn ba vất vả mấy hôm, cô Đào hạ quyết tâm phải xem thử nội dung trong chiếc USB này. Mở máy tính xách tay ra, Đào Tử cắm USB vào máy, bên dưới màn hình lập tức hiện lên “Tìm thấy bộ nhớ mới”
Đối với Đào Tử, việc nhặt được chiếc USB bị xem như là bước đầu cô rơi vào vực sâu, còn việc muốn xem nội dung của nó cũng giống như đôi bàn tay vô hình sau lưng cô đẩy cô rơi nhanh xuống vực. Chắc chắn rằng, nội dung trong chiếc USB này là một trò chơi trong seri “Sơn thôn” mà trước khi chết ông Trịnh đã copy vào. Trên thị trường mới đưa ra trò chơi đời thứ sáu của seri trò chơi “Sơn thôn” thế mà tập đoàn này đã cho ra đời trò chơi đời thứ bảy. Phát hiện này làm Đào Tử kinh ngạc, cô vội vã mở trò chơi ra. Lối vào “Sơn thôn” lập tức hiện ra một cách kỳ quái… chiếm hết toàn bộ màn hình máy tính.
- “Xin nhập mật mã!” - Trên màn hình hiện ra mấy chữ lạnh lùng!
Không lạ lẫm gì với trò chơi nhập vai này nữa, Đào Tử nhập tên và mật mã một cách thành thạo. Tên tuổi của người mạo hiểm: Đào Tử Giới tính: Nữ
Sau khi các yêu cầu của trò chơi được thực hiện, lập tức hiện ra một giấu vân tay của ngón cái khiến Đào Tử phải rợn hết cả người. Hệ thống yêu cầu cô chọn hoàn cảnh xuất thân: 1, Tội phạm bị truy nã. 2, phóng viên. 3, học sinh. 4, buôn hàng lậu. 5, thăm người thân. 6, nhà thám hiểm. 7, người trốn đò.
Trong bảy phương án lựa chọn đó, Đào Tử chọn “2” một cách máy móc, bởi vì bản thân cô là một phóng viên thật ngoài đời mà! Hơn nữa Đào rất yêu nghề. Thế là, trên màn hình dần dần cảnh vật biến mất, rồi từ từ hiện ra một ngôi làng, khi Đào muốn đi vào làng, đột nhiên vào tầm mắt cô một hàng chữ như để nhắc nhở cảnh báo: Lòng đố kỵ không cần phải có đất đai mới sinh sôi nảy nở. Chỉ cần một lý do đơn giản thì đã có thể làm cho lòng đố kỵ nảy mầm, sinh trưởng nuốt chửng cả thân xác và tâm hồn.
“Đố kỵ”, Đào tự nói một mình. Trước mắt cô, một bản đồ kỳquái xuất hiện, trong trùng điệp núi rừng, đang thấp thoáng một ngôi làng không tên.
* * *
Đó là một ngôi làng nằm ở vị trí hẻo lánh, thâm u kỳ bí, trong một thung lũng cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, vây quanh là trùng trùng núi non hiểm trở.
Rừng cây già bạt ngàn tỏa ra một màu âm u, đằng đằng sát khí, như muốn nuốt hết từng mạng sống của các cư dân trong làng. Tư liệu trên tay cho biết, đó là ngôi làng nằm ở phía đông của một ngọn núi lớn. Tôi lật một bản đồ được vẽ bằng tay, chốc chốc lại nhìn sang hai cánh rừng xanh đen rậm rịt hai bên đường.
Tuy là ban ngày, nhưng vẫn có thể nghe tiếng chim kêu một cách quái đản, cứ chíp chíp trong bụi rậm, dưới các gốc đại thụ, chốc chốc lại thấy cái bóng đen của những con quái thú chạy qua. Ở nơi rừng sâu núi thẳm, không có được cái cảm giác thư thái như khi ở dưới bóng cây, hay ở cánh đồng mà ngược lại, chỉ có những cơn kinh hoàng cứ hết đợt này đến đợt khác…
Có lẽ vì ngôi làng phía trước quá hẻo lánh, khuất lấp, tôi đã tra lại bản đồ của khu vực rừng núi tỉnh Sơn Đông, phát hiện thấy sự miêu tả rừng rậm trong bản đồ bất quá chỉ là đánh vài con số vào đấy, nó chỉ chứng minh cho biết đấy là vùng núi hẻo lánh mà thôi. Người cùng đi với tôi trong chuyến này là Thạnh Quân Mỹ - một đồng nghiệp của tôi.
Làm việc với cô ta chẳng có gì là hay ho cả, nếu không nói là chán ngắt. Suốt quãng đường, chúng tôi đều cẩn thận đề phòng, đề phòng đối phương sẽ giết mình rồi vùi thây nơi đồng vắng.
Con lừa của chúng tôi cứ kêu ré lên từng tiếng, tiếng kêu không giống tiếng quạ nhưng nghe rất khét tai, khiến ông đánh xe phải quay đầu lại, nói với giọng đặc khẩu âm Sơn Đông: “Cô gái, đến rồi, tôi chỉ chở cô đến đây thôi”.
Nhìn phía trước, tôi thấy một cây gỗ mục cắm vào trong đá núi, bên trên có ghi dòng chữ màu đỏ: “Thôn Đỗ”.
Gió bỗng thổi vù vù, con lừa cứ chốc lại nhảy rống lồng lên rồi đột ngột quay đầu chạy tít một mạch về phía sau. Chưa kịp xuống, nó đã lồng lên chạy quá nhanh khiến tôi và đồng nghiệp Thạnh Quân Mỹ ngã sụp xuống đất. Trực giác mách bảo tôi rằng, con lừa đó đã thấy cái mà chúng tôi không thể thấy được, nó hoảng quá nên mới lồng lên tháo chạy như thế.
Nghĩ đến điều đó, tôi thấy rùng mình.
Lão đánh xe cầm chặt dây cương, vừa kéo con lừa lại vừa chửi rủa nó, cuối cùng ông ta cũng lôi được nó về.
Sau đó, ông ta nhảy xuống xe, vội vàng đỡ tôi và Quân Mỹ dậy, và nói: “Xin lỗi hai cô, thực tình xin lỗi! Không thể đưa hai cô đi được nữa, trong ngôi làng có nhiều điều tà quái; trước đây, trong làng này có một trận đại dịch, người chết nhiều đến nỗi thiêu không kịp”.
Thạnh Quân Mỹ không chút để ý gì đến lời nói của lão đánh xe, mở hành lý ra, kiểm tra thử có vật gì bị vỡ khi ngã lúc nãy không. Tôi chau mày một cách bất mãn, làm thế nào để thể hiện là một phóng viên đạt tiêu chuẩn, xem ra về vấn đề này cô ta còn quá thiếu kinh nghiệm.
Trước mắt, khi chưa có đối tượng nào để phỏng vấn, thì việc đầu tiên là thu thập những tư liệu có liên quan đến ngôi làng này. Nhìn lại chiếc cọc gỗ ghi tên làng, tôi không khỏi kinh ngạc, nó giống như là cái mốc phong thuỷ đánh giấu hết đất bình yên, phía sau cái cọc đó là lãnh địa của quái dị.
- Biết có đại dịch hoành hành, thế tại sao không đặt các trạm phòng dịch? - Tôi hỏi.
- Ai nói là không chứ? Cứ hết lượt nhân viên này đến lượt nhân viên khác của trạm phòng dịch đều lần lượt mắc bệnh và qua đời, họ chết oan sạch sành sanh không còn một ai.
- Chuyện lớn thế sao không thấy thông báo gì trên các phương tiện thông tin đại chúng? Chẳng lẽ ở Trung Quốc cố giấu thôn mắc bệnh Sida? - Cô Quân Mỹ nói.
Giọng nói của Quân Mỹ tỏ ra thờ ơ lãnh đạm, kể từ ngày cô ta bước chân vào phòng biên tập của tòa báo chúng tôi, tôi đã không hài lòng về thái độ làm việc của cô ta. Câu nói vừa rồi của cô rất dễ bị người ta từ chối phỏng vấn, cứ như thế thì không có cách nào để tìm hiểu kỹ vấn đề, thu thập tư liệu.
Quả nhiên, ông lão phu xe đó không trả lời. Ông ta nhảy phắt lên lưng lừa, lẩm bẩm: “Ngôi làng này kể từ mấy năm trở lại đây ít thấy ai ra vào, người ta đồn rằng, trong làng này có mầm dịch, hễ dính vào người là toi mạng như chơi”. Nói xong ông lão đánh xe chạy một mạch không dám ngoái đầu nhìn lại rồi từ từ mất hút sau rừng cây…
Tôi và Quân Mỹ đi bộ đến phía cọc gỗ có ghi “Đỗ thôn”. Đỗ thôn, có phải là người trong làng đều mang họ Đỗ nên mới đặt tên là Đỗ thôn? Quân Mỹ hỏi. Nếu thế thật thì nên gọi là “Đỗ gia thôn” mới đúng. Tôi sờ lên cọc gỗ bám đầy bụi: “Vừa rồi ông lão đánh xe bảo đã mấy năm rồi không có người nào ra vào làng này, vậy tôi nghĩ rằng chữ “Đỗ” trong Đỗ thôn này có nghĩa là tuyệt đường qua lại?”
Đương nhiên, cách nghĩ của cô Quân Mỹ không giống tôi, cô ta cười khẩy có vẻ mỉa mai, rồi một mình tiến vào trong thôn.
Lần phỏng vấn này là để đăng tải tập tin “Tìm hiểu những ngôi làng ẩn giấu không tên” của tòa báo chúng tôi. Vì hiện nay, những thông tin chuyên về làng mạc rất được độc giả quan tâm chú ý. Thế là tòa báo chúng tôi quyết định phân cử hai người thành một tổ để đi tìm hiểu phong tục tập quán, phương thức sinh hoạt của những ngôi làng bị lãng quên này. Tôi đi theo sau Quân Mỹ tiến sâu vào làng, đây là một ngôi làng bị xã hội quên tên, bỏ rơi. Đi khoảng năm phút, đâu đâu cũng là một cảnh tiêu điều, đất đường mọc đầy cỏ hoang rậm rạp, chen cả lối đi, điều đó cũng chứng minh được rằng, đã lâu ngôi làng này rất ít người qua lại. Xa xa, cả tôi và Quân Mỹ đều nhìn thấy một mái nhà tranh khá hoàn chỉnh.
Đó là một ngôi nhà khác hẳn với những ngôi nhà xiêu vẹo khác trong làng. Từ ngoài nhìn vào, tôi có cái cảm giác là ngôi nhà này quá ẩm thấp, nóc nhà trầm ngâm trong điêu tàn, nó dường như không chịu được cái cảnh tiêu điều đó và có thể sập đổ bất cứ lúc nào. Thấy tôi đứng lại không đi, Quân Mỹ “Hậm” một tiếng tỏ ra bất mãn, rồi một mình tiến vào trước cổng ngôi nhà. Tôi cũng rất muốn đi cùng song hai chân như bị cắm sâu xuống đất, không thể bước lên được. Một dự cảm bất thường bỗng chiếm lĩnh cả tâm hồn và thể xác tôi, tôi muốn gọi tên Quân Mỹ, nhưng cổ họng cứ nghẹn lại như có bàn tay vô hình nào bóp chẹt lấy, không thể lên tiếng được.
Đột nhiên có một tiếng thét lên vọng ra từ mái nhà tranh vọng lại, đanh như thép đó làm vang vọng cả núi rừng, tiếng kêu ghê rợn như tiếng rống cuối cùng của quỷ dữ trước khi tiêu tan vĩnh viễn trong vũ trụ vô cùng, nó chứa đựng cả khối tàn dư của sự độc ác… Tiếng thét đanh quá như cắt vào từng mạch máu trong cơ thể khiến người nghe như vỡ gan vỡ mật. Trong khoảnh khắc đó, tim tôi bỗng ngừng đập, một nỗi kinh hoàng ghê gớm chiếm lấy tâm hồn tôi…
Cảnh vật xung quanh tôi dường như đang xoay chuyển, tôi bắt đầu tự trách, tại sao lại để một mình Quân Mỹ đi vào nơi bí hiểm đó? Hai chân tôi bắt đầu có cảm giác, tôi nhào vào ngôi nhà tranh đó. Vừa lọt vào trong, cả thân mình bỗng có cảm giác như rơi vào một nơi âm u, hoang lạnh… Rõ ràng là giữa mùa nóng nhất trong năm - tháng sáu, thế mà tôi bỗng cảm thấy mình như đang ở trong động băng, cái lạnh đó cứ thấm dần vào xương tuỷ.
Điều khiến tôi bàng hoàng nhất là, Quân Mỹ vẫn ở trong đấy một cách bình an như hoàn toàn không hay biết chuyện gì đã xảy ra. Thấy tôi chạy bán mạng vào nhà, cô ta cất cao giọng nói: “Nếu chị sợ thì cứ đứng ngoài mà chờ!”.
Câu nói đó không phải xuất phát từ sự quan tâm, từ tình cảm mà là để chế giễu châm chọc, tôi quay đầu lại nói: “Như thế nghĩa là thế nào, cô gọi to như thế để hù dọa ai chứ?”.
Quân Mỹ không nói, chỉ ném lại phía tôi ánh mắt khinh miệt.
Lần đi công tác này cả hai chúng tôi đều không có ý định hợp tác mà mỗi người lại theo đuổi một mục đích riêng. Dù cô ta và tôi chưa từng hợp ý nhau, nhưng hành động vừa rồi của Quân Mỹ làm tôi thấy sự việc quá ư nhiêu khê.
Tiếng gọi thất thanh kinh thiên động địa kia vẫn còn vang vọng mãi trong tâm trí tôi. Nếu không phải sự kinh hoảng tột độ thì chắc không thể phát ra thứ âm thanh đó được. Với thời gian tôi chạy từ ngoài vào thì nếu Quân Mỹ thực sự sợ hãi thì chắc chắn cô ta sẽ không trấn tĩnh lại nhanh như thế được. Trừ phi có kẻ thứ ba nào đó giấu mặt!
Ý nghĩ đó khiến một cảm giác rờn rợn cứ trào lên trong tâm trí tôi, bất giác khắp người tôi sởn hết cả gai ốc. Trong căn nhà ẩm thấp, đầy vẻ âm u, chẳng có chút biểu hiện gì là đang có người cư trú. Trên mặt đất, loang lổ những tấm chiếu cói đã rách nát cũ kỹ khiến người ta liên tưởng đó là những tấm chiếu bọc thây người.
Đồng nghiệp của tôi không tin có tà ma, lại gần vén chiếu lên, một mùi xác thối hừng hực bốc lên, vô số ruồi xanh vo vo ập đến.
Trong cơn hoảng loạn, tự nhiên ruột gan tôi như muốn lộn hết ra ngoài, tôi vẫy tay đuổi đám ruồi trước mặt. Dù dưới chiếu chẳng có gì nhưng cũng khiến cho người ta chán ngấy cái căn nhà bẩn thỉu này. Tôi không dám suy nghĩ gì nhiều, chỉ vội vã kéo đồng nghiệp thoát ra khỏi căn nhà.
“Làm cái gì vậy?” Vừa ra khỏi cửa Quân Mỹ vội vùng giật tay khỏi tay tôi, mắng: “Chị chẳng có lòng yêu nghề tí nào, mới chỉ có thế mà đã khiếp vía thế cơ à? Trông bộ dạng chị kìa!”.
Tôi chửi thầm, nếu mày có gan thì đừng để tao kéo mày ra chứ, như thế mới là người có gan chứ, làm ra vẻ…! Tôi nghiêng mình toan ném trả cô ta mấy câu thì bỗng nhiên khựng lại không nói được. Tim tôi bỗng như ngừng đập.
Trong khi tôi đảo mắt về phía Quân Mỹ, thì cánh cửa ngôi nhà tranh sau lưng cô ta bỗng thấp thoáng như có người đang đẩy cửa ra và bên trong căn nhà mập mờ tối sáng, tôi thoáng thấy hai đốm sáng lấp loáng như đôi mắt ai chứa đầy thù hận đang trừng trừng nhìn vào tôi. Dường như có vật không tên gì đó đang đăm đăm nhìn về phía cánh cửa. Lúc đó, tôi thấy hơi thở mình dồn dập, thân thể nhũn ra và run lên bần bật. Ngoài ra tôi còn nghe tiếng thở hổn hển của ai nữa, tuy mơ hồ, xa xôi nhưng nó tồn tại thực sự.
* * *
“Có người”. Quân Mỹ la lên, lại một lần nữa làm tôi giật mình, chẳng lẽ cô ta cũng có cảm giác đó? “Đào Tử, chị xem sau lưng chị kìa!” Cô ta vừa dứt lời, toàn thân tôi co rúm lại, tôi vội quay đầu nhìn, thì ra đó là một bà lão gầy đét, nước da vàng võ đang đứng sau lưng tôi. Bà lão mặc áo quần trông rách rưới tả tơi, không còn phân biệt được là màu gì nữa. Đầu tóc rối bù sợi trắng sợi đen, trên mặt đầy những nếp nhăn sâu như vết dao cắt.
Trước đây tôi từng nghe một câu chuyện cười có một bà lão đã lăn chết con ruồi bằng những nếp nhăn trên trán mình, nay liên tưởng lại những gì xảy ra trong căn nhà vừa rồi cộng với sự xuất hiện thêm bà lão trước mặt, câu chuyện cười đó khiến tôi buồn nôn.
Bà lão trừng mắt đờ đẫn, hai con ngươi mờ đục như muốn rơi ra khỏi mắt, đôi tay gầy gò co quắp như dây cát đằng khô, mồm lẩm bẩm điều gì cứ như là đang đọc những câu thần chú nguyền rủa độc ác nhất trên thế gian này. Quân Mỹ tiến lại gần chìa tay ra phía bà lão, tôi đoán chắc là cô ta muốn bắt tay bà ta.
“Chúng cháu đến đây để tìm hiểu, xin hỏi…”, nói chưa dứt lời. Quân Mỹ bỗng nhiên khựng lại, cánh tay trắng nõn của cô đã bị bà lão cào xước chảy đầy máu.
“Cháu chỉ hỏi thăm thôi mà bà đã làm gì dữ vậy?”. Quân Mỹ có thói quen là khi nào phỏng vấn ai, nếu bị cự tuyệt, cô ta thường mang máy ảnh ra chụp lấy khuôn mặt đối phương. Thông thường, với hành động đó cô thường bị đối phương đuổi đánh.
Nay cô cũng vội vàng lấy máy ảnh ra, quả đúng như tôi dự đoán. Tôi chưa kịp ngăn cản thì cô ta đã bật nút chớp nhanh…
Cái thoáng chớp của máy ảnh dường như đã làm bà lão nổi trận lôi đình, bà nhảy xổ về phía chúng tôi. Khi bà lão nắm chặt lấy đầu tóc Quân Mỹ, thì cái bốn bề vắng ngắt như đồng hoang bỗng hàng hàng lớp lớp người xuất hiện, bọn họ già có trẻ có, ai nấy đều có đôi mắt hung hãn, đờ đẫn giống nhau, họ cứ xông lên như bị ma làm, ngăn cản tôi và Quân Mỹ.
“Dừng tay lại, chúng tôi là phóng viên, chúng tôi không có ác ý gì cả”, tôi nhắc đi nhắc lại thân phận mình cho họ nghe nhưng ngược lại, họ càng làm dữ hơn. Họ giống như những người chết bị thầy phù thủy điều khiển, cứ thế mà xông lên cướp lấy hành lý của chúng tôi, họ huơ chân múa tay, giã cho chúng tôi một trận như vũ bão.
Trong tầm nhìn lay lắt, tôi thấy Quân Mỹ đang lấy máy di động ra, không biết giờ này cô còn gọi điện cầu cứu ai nữa đây. Nước xa không cứu được lửa gần!
Chúng tôi lạc vào tình cảnh dở người dở quỷ của bọn họ, tuy trông giống người nhưng thực ra họ là những con thú.
Chiếc di động trong tay Quân Mỹ chẳng biết do ai đâm rơi ngay xuống đất tách một tiếng, rồi họ dẫm đạp lên làm nó tan tành. Quân Mỹ gào thét hết cả hơi, nhưng những người trong thôn không tha cứ lôi bừa cô ra giữa đất. Tôi chỉ biết trân mắt nhìn Quân Mỹ trong cơn khủng hoảng, chiếc áo trên mình cô đã bị xé toạc. Mấy người trong thôn cùng loạt tiến lên, kéo thẳng Quân Mỹ vào sâu trong làng.
Tầm nhìn đã mơ hồ không còn thấy gì nữa, mặt đầm đìa nước mắt, tôi bó tay đứng nhìn đồng nghiệp bị bắt, không còn chút sức lực và ý chí chống trả nữa.
Chạy trốn, điều duy nhất bây giờ là chạy trốn, như thế mới có cơ may sống sót.
Thời gian không cho phép tôi suy nghĩ nhiều, tôi liều mạng cắn cho kẻ đang nắm chặt tay tôi một miếng, nó kêu thét lên rồi nhân lúc nó vừa buông tay, tôi tháo chạy thoát thân.
Tiếng reo hò đuổi theo cứ bám theo sau tôi, tôi chạy như điên cuồng, lao đi như thể để kết thúc một sinh mạng. Đến khi dừng lại, tôi không biết mình đã ở đâu trong ngôi làng này. Trước mặt tôi là một con suối nhơ nhuốc, tôi ngồi xổm xuống bên suối, ngắm nhìn lại khuôn mặt đang cơn kinh hãi của mình. Từng cơn gió lạnh thổi buốt tim gan, nhắm mắt thiếp đi, hai điểm sáng như đôi mắt đầy thù hằn trong ngôi nhà lúc nãy lại hiện về trong tôi. Tôi tin trăm phần rằng, đấy chính là hai con mắt!
Màu trời đã chuyển từ vàng nhạt hoàng hôn sang màu đen sẫm rồi màn đêm đen ụp đến. Côn trùng, thú dữ, chim muông ẩn nấp sau những lùm cây cất tiếng kêu thảm thiết ghê hồn không dứt, không khí bức bối ngột ngạt sắp làm tôi phát điên lên mất. Hai tay tôi giờ đã run như cầy sấy. Đột nhiên sau lưng vọng lại tiếng bước chân người, tôi quay ngoắt đầu, bỗng có một đôi tay lạnh buốt chộp lấy vai tôi.
Mặc dù đôi tay đó thấm đầy khí lạnh nhưng tôi vẫn cảm thấy người nóng ran, vội vã tôi co người lại.
“Đã lâu không có ai đến ngôi làng này sao hôm nay lại xuất hiện hai cô phóng viên tay chân mềm mại yếu đuối này chứ?”.
Nghe giọng nói của gã mới đến này, tôi quay đầu lại nhìn thì ra là gã thanh niên trạc tuổi chúng tôi. Hắn rất ngạo mạn… hắn mặc bộ đồ thể thao trông khá tươm tất, không giống như cách ăn mặc của người dân trong làng, tôi đoán hắn không phải là dân bản địa. Hắn đã biết chúng tôi là phóng viên, xem ra hắn cũng đã nhìn thấy cảnh tôi và Quân Mỹ bị bủa vây lúc nãy.
“Tôi muốn biết tại sao?”. Tôi tạm thấy yên tâm, hỏi: “Tại sao chúng ta đều là người ngoài mới đến nhưng cậu lại được tự do đi lại trong làng còn chúng tôi lại bị họ vây đuổi?”.
Gã thanh niên hơi ngạc nhiên khi tôi biết hắn không phải là người bản địa, nói: “Bọn họ luôn có thái độ bài xích người ngoài đến, còn tôi là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Nhưng tôi thấy phương pháp tiếp cận của các cô quá cứng nhắc, máy móc”.
- Máy móc? - Tuy không đồng tình với cách làm việc của Quân Mỹ nhưng nghe gã kia bảo thế tôi lập tức phản bác ngay rằng: “Phóng viên thì phóng viên chứ nếu phải đối diện với người thổ dân trong rừng cũng không nên tươi cười nịnh nọt để dò thăm tin tức!”.
- Họ không phải là thổ dân. - Gã kia đột nhiên cắt ngang lời tôi, “Cô phóng viên ạ, tôi có chuyện cần bàn kỹ với cô” - nói xong, hắn quay phắt người lại chạy một mạch, hắn như đoán chắc rằng tôi sẽ đuổi theo.
- Sao tôi phải tin anh chứ? Đồng nghiệp của tôi đang trong tay bọn họ. - Tôi chạy theo sau gã hỏi với.
Hắn chẳng thèm quay đầu, cứ thế chạy thẳng một mạch và còn tỏ ra rất cao ngạo, gã nói: “Cô còn được phép lựa chọn nữa sao?”.
Nếu cứ nấp trong bụi cây này sớm muộn gì thì họ cũng phát hiện ra. Quả thực tôi không còn cách nào khác, tuy trong lòng không đành nhưng cũng phải chạy theo hắn. Đuổi kịp đến cổng nhà hắn, hắn quay đầu tự giới thiệu đơn giản bốn chữ: tôi tên là Vương Hâm.
- Tôi là Đào Tử, phóng viên lưu động của Thân báo. - Tôi lễ phép đáp lời.
Hắn ở trong ngôi nhà ngói khá tươm tất, vào cổng là nhà chính, bốn góc chia làm bốn phòng. Đây là bố cục truyền thống của làng này, tuy nhìn kỹ thì rất cũ kỹ nhưng so với các nhà tôi thấy trước đây trong làng này thì nó đẹp gấp cả trăm lần. Tôi kinh ngạc phát hiện, trong nhà hắn có cả thiết bị điện tử. Tôi nhẹ tay gõ vào chiếc vi tính, hỏi: “Nơi vùng núi non hẻo lánh này cũng có lưới điện đi qua à?”
Câu hỏi của tôi làm hắn bất mãn, hắn “xì” một tiếng biểu thị không thích.
Tôi không quên sự an nguy của Quân Mỹ, đi thẳng vào đề: “Anh biết đồng nghiệp của tôi bị bắt đi đâu không? Tôi muốn cứu cô ta”.
- Tôi có thể cứu cô ấy về cho cô, nhưng nếu cô còn chọc giận họ thì tôi hết cách.
Giọng hắn tỏ ra thờ ơ khiến tôi đâm lo, tôi nói với giọng tức giận: “Thôn Đỗ ơi, thôn Đỗ, các đường qua lại nơi đây đều bị cắt đứt cả, chúng tôi và cậu đều là người ngoài mới vào, sao cậu lại nói thế?”.
- Thôn Đỗ nghĩa là cắt đứt đường lui tới, - hắn cười, - cô hiểu đúng ý nghĩa của chữ “đỗ” trong thôn này rồi đấy, nhưng tôi lại hiểu nó là thôn đố kỵ cơ.
- Thôn đố kỵ? Cách lý giải của hắn làm tôi lạnh người. Từng khuôn mặt mang lốt người dạ thú cứ xuất hiện trước mắt tôi, trong nụ cười chất đầy âm mưu ác hiểm. Không có tình cảm chân thành, không có tình bè bạn mà chỉ có sự đố kỵ ngất trời. Đây là thôn chết tiệt gì cơ chứ?
Hai lòng bàn tay mồ hôi tóa ra đầm đìa, tôi đút tay vào túi, vô ý làm rơi tấm ảnh xuống nền đất. Tấm ảnh đó tôi luôn mang theo bên mình, cũng chính vì thế mà dân trong làng này không bắt tôi.
Tấm ảnh bay đến dưới chân tên Vương Hâm, hắn cúi nhặt lên rồi đưa trả tôi, hắn nhìn tôi hỏi: “Người trong tấm ảnh ấy là ai?”
“Là Trương Nghệ.” Tôi đáp. “Cô ta là đồng nghiệp của tôi trước đây, nửa năm trước đi công tác thăm dò đưa tin tình hình chiến tranh ở Trung Đông bị bom nổ mất xác”.
Trong chốc lát không khí dường như cô đặc lại, Vương Hâm nhìn tôi, không nói thêm câu nào. Bất chợt, đồng tử hắn co lại, mồm hắn lẩm bẩm: “Cô có đố kỵ với cô ta không?”.
Câu hỏi đột ngột đó, khiến tôi đứng lặng như trời trồng. Khi hắn hỏi, khuôn mặt chẳng để lộ thái độ nào hết, chỉ thấy hai môi hắn chấn động một cách máy móc mà thôi, giọng hắn y như giọng nói của chiếc loa phát thanh không có chút biểu hiện gì.
- Cái gì? Tôi nói khẽ. Quả thực tôi không dám nhớ lại việc này.
Vương Hâm nhìn tôi, giọng nói đã trở lại bình thường, chỉ căn phòng phía tay trái bảo: “Cô đi nghỉ trước đi, tôi biết đồng nghiệp của cô ở đâu, tôi đi đón cô ta về trước đã”.
Nghe nói thế tôi muốn cùng hắn đi đón cô bạn về, nhưng hắn cự tuyệt không cho đi cùng. Hắn bảo, người trong làng cứ hễ thấy người lạ mặt thì chỉ muốn đánh, để một mình hắn đi mới xuôi chuyện.
Vương Hâm đi rồi, chỉ còn lại một mình tôi trong phòng. Ánh trời chiều nhạt nhòa chỉ chiếu sáng một góc nhỏ trong nhà, tôi ngồi cạnh giường mang tấm ảnh của Trương Nghệ đã mất ra xem.
Cô ấy chỉ mới hai tám tuổi!
Tôi vội che trán lại, cánh cửa ký ức hé mở, một tấm ảnh loang đầy vết máu tươi ẩn hiện trong đầu. Đó là tấm hình do đại sứ quán chụp được ngay ở hiện trường vụ án - Trên đường phố lỗ chỗ những mảnh thịt của người chết, đâu đâu cũng bao phủ một màu chiến tranh..
Bài viết đạt nhất của tôi đó là bài viết về cái chết Trương Nghệ.
Tấm hình trong tay bị nhàu đi, khiến khuôn mặt cô gái trở nên vô cùng hung tợn. Tôi lặng người! Trên nóc nhà bỗng nhiên vọng xuống tiếng động khá lớn, tiếp theo là tấm ngói bị vỡ rơi xuống, việc xảy ra đột ngột càng làm tăng thêm vẻ ghê rợn trong bóng tối đang dần bủa vây.
Đến cạnh cửa sổ, tôi ngạc nhiên phát hiện căn nhà tranh cổ quái đó, đang nằm cách ngôi nhà Vương Hâm không xa. Điều này khiến tôi cảm thấy bất an cực độ. Ngôi làng này hệt như mê cung trong bát trận đồ, còn trung tâm là căn nhà tranh. Dường như đi đến đâu cũng nằm trong tầm ngắm của ngôi nhà. Màn đêm đã thực sự chiếm lĩnh toàn vũ trụ. Ở trong căn nhà này, khiến người ta vô cùng bị ức chế, trong màn đêm, trông căn nhà giống như chiếc đầu lâu vĩ đại với đầu tóc bù xù dựng sừng sững trên mặt đất. Tuy cách ngôi nhà đó khá xa so với tầm mắt trong đêm nhưng tôi vẫn thấy được cánh cửa đang từ từ hé mở, trong nhà lấp loáng hai vệt sáng như hai con mắt đằng đằng sát khí.
Trời ơi! Tôi đóng cửa sổ lại, ngồi bên giường và cứ thấp thỏm bất an.
Cơn buồn ngủ ập đến, tôi chẳng thèm tắt đèn, cứ dựa vào chân giường thiếp đi, vừa chợp mắt, bên ngoài bỗng có tiếng cọt kẹt, hình như có ai đó đang mở cửa đi vào.
Lúc vừa vào nhà Vương Hâm, tôi thấy vật dụng trong nhà cũng tạm được, nhưng căn phòng này thì quá cũ, then cửa bằng gỗ kiểu này chỉ có ở riêng vùng này. Vương Hâm ra ra vào vào không cần cài then. Người xưa thường nói “Đêm không cài then, ngày đi đường không thèm nhặt của rơi” để hình dung cảnh thái bình thịnh trị, nhưng đối với ngôi làng hẻo lánh này thì đó là chuyện khó tin mang vẻ kỳ bí, nguy hiểm! Tôi đoán chắc hắn đã mang đồng nghiệp của tôi về, thế là tôi vùng dậy, đẩy cửa đi ra. Khoảng cách giữa hai cánh cửa trong nhà khá lớn, chỉ thấy bóng một người cụt đầu loáng qua. Tôi thấy quá bất an, vội dừng cánh tay đang thò ra mở then cửa lại.
- Có phải là cậu Hâm đó không? Nghe giọng nói của chính mình tôi mới phát hiện mình đang run.
Trả lời tôi là giọng người mang âm khí rất nặng. Tôi lùi lại từng bước, hai mắt cứ dán chặt vào khe hở ở cánh cửa. Vị khách đó không phải Vương Hâm, cũng không phải là đồng nghiệp của tôi, vì nếu là họ thì bất tất phải đứng ngoài cửa lâu như thế, không nói không rằng. Tiếng gõ cửa một hồi vang lên đanh như thép làm tôi không thể nào hình dung được đó là âm thanh gì, đầu óc bỗng rỗng tuếch không còn một ký ức nào cả.
Tiếng gõ cửa lại vang lên một hồi, nghe giống như tiếng đao búa, lưỡi lê chạm vào nhau. Tôi bất chợt nhận ra một điều là họ chỉ cách tôi một bức cửa, bỗng có một vật gì đó đang cạy cửa… Trong lúc căng thẳng tai tôi tự nhiên cực kỳ thính nhạy, thậm chí tôi còn nghe được cả tiếng rơi của những hạt bụi nhỏ trên cửa. Tôi run lên bần bật không thể khống chế được nữa và tuyệt vọng nhìn căn nhà kín mít, không có lối nào có thể trốn thoát.
Mắt tôi vẫn không rời khỏi khe hở nơi cửa, cứ tưởng tượng sẽ có một cái móng vuốt trắng hếu nào đó cạy cửa xông vào. Tôi đã nghĩ cách lấy chiếc bàn ngăn cánh cửa lại nhưng toàn thân run sợ không chút sức lực nào.
Trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”, di động bỗng đổ chuông báo hiệu tin nhắn. Tiếng điện thoại như hóa giải tình trạng đóng băng mạng sống của tôi và như được cứu rỗi, tôi vội thò tay vào túi lấy điện thoại ra đọc tin nhắn. Vừa mở hộp tin ra, hai đồng tử tôi như thu nhỏ lại, hơi thở và nhịp tim như dừng hẳn, khi thấy trong nội dung tin nhắn vẻn vẹn có vài chữ “Đào Tử, cô có đố kỵ tôi không?”.
Tên của người gửi nhảy tọt vào mắt tôi, là Trương Nghệ đã chết, Trương Nghệ nhắn cho tôi. Không biết tiếng gõ cửa lúc nãy đã ngưng từ bao giờ, tôi trợn tròn mắt lên để quan sát căn phòng cho kỹ, hành động đã không còn được điều chỉnh bởi lý trí nữa. “Bình” một tiếng, tôi gục quỵ xuống nền nhà, vô tình tay tôi bấm nút xóa. Trương Nghệ đã chết, chiếc di động cũng mất tiêu trong cuộc chiến tranh Trung Đông cùng với thân xác cô. Tôi giữ lại số điện thoại của cô như một kỷ niệm về người bạn đồng nghiệp, nhưng tại sao người chết lại có thể nhắn tin cho tôi được?
Sự yên lặng đó đối với tôi dường như đã kéo dài hàng thế kỷ!
Đợi đến khi cơ thể đã hồi lại tôi mới đủ sức để đứng dậy. Ngoài khe cửa vẫn một màu đen kịt, tôi từ từ tiến đến cửa như thể bị ma xui quỷ khiến, đứng đối diện với cánh cửa, mắt hướng thẳng về phía khe hở nhìn ra ngoài. Ầm, tiếng cửa mở ra làm tôi choáng. Ngoài cửa là một thi thể trần truồng đầy máu đỏ như bị lột hết da va vào mắt tôi. Tôi nghe phảng phất một tiếng thét thất thanh, tiếng thét cất lên từ sâu thẳm sự kinh hoàng của tôi, vì lúc đó, tiếng thét đã không thể hoạt động đáp ứng nhu cầu nhanh chóng của đại não.
Một đôi mắt đỏ ngầu màu máu đối diện từ bên kia cửa đang nhìn tôi, thấp thoáng tôi trông thấy những mảng da loang lổ trắng đen bị vỡ ra từng mảng, cảnh tượng hãi hùng thương tâm không nỡ nhìn, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng đó là Trương Nghệ. Đích thực là Trương Nghệ, nữ phóng viên bị bom nổ nát người.
* * *
Lát sau, cánh cửa tự động mở ra. Hình như bên ngoài có bàn tay vô hình nào đang cố sức chìa vào trong khe hở để mở cửa.
Nó như muốn thúc giục tôi phải trả lời tin trong điện thoại, “bùm” một tiếng, lại một tiếng mở cửa nữa, khung cửa gỗ như đang rên siết, không thể chống đỡ được nữa.
Lát sau, cánh cửa tự động mở ra. Hình như bên ngoài có bàn tay vô hình nào đang cố sức chìa vào trong khe hở để mở cửa.
Nó như muốn thúc giục tôi phải trả lời tin trong điện thoại, “bùm” một tiếng, lại một tiếng mở cửa nữa, khung cửa gỗ như đang rên siết, không thể chống đỡ được nữa.
“Đúng vậy, tôi rất ghen ghét đố kỵ với cô, tôi hận cô, âm thanh hỗn tạp khiến người ta phát điên, tôi vò đầu bứt tóc nói lớn: “Tôi đố kỵ với cô vì cô đã đi Trung Đông, cô đã được tiếp xúc và đăng tải tin tức của mình, chiến tranh là cái gì? Có quân đội vũ trang bảo vệ, phóng viên làm sao gặp nguy hiểm được? Nhưng cô lại bỏ xác nơi xứ người thật là trớ trêu!”
Bỗng nhiên, tất cả âm thanh bên ngoài đều ngừng hẳn. Từng mạch máu trên người tôi đều căng thẳng đến cực điểm, không thể chịu đựng được nữa, tôi ngã gục xuống đất. Tỉnh dậy thì trời đã tờ mờ sáng. Vương Hâm và Quân Mỹ đều đang ở bên tôi, tôi vội vàng ngồi dậy, phát hiện mình vẫn đang nằm trên giường.
“Khi tôi đưa đồng nghiệp của cô về, gõ cửa mãi chẳng thấy cô lên tiếng, sau vào được tôi thấy cô bị ngất nằm lăn ra giữa nền nhà”. Vương Hâm vừa kể lại vừa pha một cốc nước đưa cho tôi.
Cảnh tượng trước cơn bất tỉnh vẫn rõ mồn một trong tâm trí, tôi đưa đôi tay vẫn lạnh băng đỡ lấy cốc trà. Ngẩng đầu nhìn Quân Mỹ, thấy hai mắt cô tỏ ra đang chằm chằm nhìn tôi hình như có điều gì đó cô không đồng ý với tôi. Thoạt nhiên tôi không để tâm đến sự bất đồng giữa hai đứa, đưa mắt hỏi cô ta có bị bọn họ đánh đập gì không.
“Yên tâm đi, cô ta không sao đâu”, Vương Hâm nói xong rồi bỏ ra ngoài.
- Này cậu Hâm, tôi gọi hắn lại: “Căn phòng này không được sạch sẽ?”, ngụ ý trong câu nói, không cần giải thích cũng đủ hiểu.
Vương Hâm quay đầu lại không trả lời mà còn hỏi: “Thế cô đã gặp những ai trong đó nào?”.
Câu hỏi của hắn làm tôi cứng hết cả cổ họng, tôi thật chẳng làm sao để nói được một cách rành mạch mối quan hệ giữa tôi và Trương Nghệ, chúng tôi đã từng đối địch nhau trong tình thân thiết bạn bè.
- “Thái độ trầm tĩnh của cô khiến tôi rất khâm phục.” Vương Hâm nói: “Nhưng cô thử tự hỏi lại lòng mình đi, nó nhơ bẩn ở điểm nào?”.
Hắn vừa nói vừa đưa tay chỉ vào tim tôi, tôi giật bắn cả người, chuyển sang đề tài khác, nói: “Đa tạ cậu đã quá khen, là một phóng viên chuyên nghiệp phải luôn luôn giữ sự trầm tĩnh của mình”
Hắn cười ngất với cái vẻ cao ngạo và không tin tưởng đó là câu nói xuất phát từ đáy lòng tôi, dường như hắn đã nhìn ra điều gì đó, rồi im lặng đi ra khỏi phòng. Làm thế nào để cứu được bạn đồng nghiệp của tôi trong tay bọn man rợ, không thể dùng lý lẽ để thuyết phục, quả là hắn không đơn giản tí nào. Hơn nữa hình như hắn đang giấu một sự thực nào đó, đơn cử như sự thực về thực trạng của ngôi làng này.
Trong phòng, tôi và Quân Mỹ ngồi đối diện nhau, trừ chiếc áo ngoài không cánh mà bay ra thì áo quần trên người cô vẫn khá tươm tất, nhưng cô ta cứ thừ người ra không nói lời nào, giống như bị kích thích. Tôi thử kéo tay không ngờ cô ta lại nhanh hơn chộp lấy tay tôi kéo lại, đôi mắt tỏ ra rất đáng sợ, giống như bị ma nhập, muốn nuốt chửng lấy tôi.
- Đồ cặn bã, chị cho rằng mình là một phóng viên nghĩa hiệp sao, Ban Tin tức cơ động giờ chị đã nắm được toàn quyền sao?
Tuy sớm biết cô ta không phục tôi, nhưng nghe mấy lời vừa rồi, quả thực tôi đau lòng không chịu được. Nhưng, như tôi đã nói, tôi là người rất bình tĩnh khi gặp chuyện bất trắc, nên dù nghe lời nói vừa rồi của đồng nghiệp tôi vẫn bình tĩnh đáp: “Vậy cô có đố kỵ với tôi không?”.
Vừa dứt lời tôi mới chợt nghĩ ra, đây chẳng lẽ không phải là nội dung của tin nhắn do người chết gửi đến cho tôi sao? Tôi sờ sờ vào máy di động một cách máy móc, mở tin nhắn ra mới biết tôi đã xoá tin nhắn đó trong khi kinh sợ tột độ. Câu hỏi đó của tôi làm Quân Mỹ nổi giận, cô ta gắt giọng thô tháp như muốn cho tôi cái tát.
Kết bè kết phái đấu đá bêu nhọ nhau là việc như cơm bữa ở bất kỳ công ty, cơ quan nào. Toà báo chúng tôi cũng không ngoại lệ. Một cái thông báo sai lệch thời gian với rắp tâm đầy nham hiểm làm tôi để lỡ cuộc phỏng vấn quan trọng đến nỗi làm ông tổng biên tập rất thất vọng, người thông báo nhầm đó chính là Quân Mỹ chứ không ai khác. Trong phòng biên tập tôi đã mang di động ra để chứng minh cho mọi người biết cô ta đã gửi tin nhắn sai thời gian nhưng trong toàn bộ phòng biên tập chỉ có tôi không biết số điện thoại của Quân Mỹ đã bị mất từ tuần trước, thế là đối tượng hiềm nghi lấy cắp điện thoại của Quân Mỹ hóa ra là tôi! Vu oan cho người bị hại là tội lớn!
Tổng biên tập không nói gì, nhưng không khí giờ đã thay đổi, cái không khí ngột ngạt của toà soạn làm tôi chết ngạt, tôi chủ động yêu cầu tham gia cuộc phỏng vấn “Những ngôi làng chưa được biết đến”. Đó là một chuyên đề nhỏ nhưng nhờ thế nó khiến tôi tránh được ánh mắt nghi ngờ của mọi người.
Sự an bài của ông tổng biên tập quả không ai đoán trước được, ông ta đã để tôi và Quân Mỹ đi công tác cùng nhau. Với ngầm ý ban đầu của ông là để chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau trong hoàn cảnh khó khăn, để hoá giải thù hận trong lòng nhau. Những người hơi có tuổi thường suy nghĩ ngây thơ. Tôi bắt đầu nhớ Trương Nghệ đã chết, cô ta mãi mãi phối hợp ăn ý với tôi. Viết bài, chụp ảnh, ai trong hai chúng tôi cũng đều làm được, nhưng những tháng ngày tươi đẹp đó đã xa khuất tầm tay, không bao giờ trở lại nữa.
Hơn một nửa đêm trải qua bao nhiêu hãi hùng khiếp sợ, hôm sau tỉnh dậy, tinh thần tôi đã không tỉnh táo như trước, viết một hồi mà vẫn chẳng lần ra cái khung phỏng vấn. Trong đầu đầy những mớ hỗn loạn, thế nhưng Quân Mỹ là người phụ tá lại chẳng thèm giúp gì cho tôi. Kể từ sau khi trở về, ngoài mấy câu châm chọc khiến tôi phải nuốt hận, cô ta chẳng nói thêm được một lời nào. Đã mấy lần, khi cô ta đứng sau lưng tôi, với bản năng tự vệ tôi cảm thấy cô ta đang nhìn tôi với ánh mắt đầy căm hận oán độc, thấu vào tâm linh hồn tôi.
Nằm ngủ trong phòng suốt một buổi trưa, tôi phát hiện thấy Vương Hâm không có nhà, sự mập mờ kín đáo kỳ bí của hắn là điểm mở đầu quan trọng trong cuộc phỏng vấn lần này. Lòng tôi rối như tơ vò nhưng Quân Mỹ lại thản nhiên vô sự ngồi chễm chệ giữa nhà khách, chẳng nói chẳng rằng hệt như một pho tượng phỗng.
“Nhìn cái này này” - Cô ta đột nhiên ném lại cho tôi xem một vật màu đen.
Tôi cầm lấy xem, đó là một cuốn sách đen ngòm, đóng gáy cứng cẩn thận, giấy có vẻ cũ kỹ, chắc cũng đã dùng rất lâu rồi! Sau khi tôi đảo mắt xem xong dòng chữ đầu tiên trong đó, liền hỏi: “Sao cô lại tùy tiện xem nhật ký công tác của người khác thế? Đây là hành động xâm phạm đời tư, cô biết không?”.
Nghiệp vụ phỏng vấn nhiều khi phải có những mánh khoé không hợp nguyên tắc đạo đức. Xưa nay tôi không chủ trương dùng những thủ đoạn như thế, sau đó mấy giây tôi thấy hối hận. Bởi vì nội dung trong cuốn sổ đó giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu ngôi làng này.
Xem bút tích đơn giản trong sáng viết bằng bút máy trong cuốn nhật ký của Phi Vũ tôi đoán chắc cậu ấy là một bác sĩ. Nhìn lại lạc khoản ghi ngày tháng thì cuốn nhật ký này đã được viết cách đây hơn mười năm.
“Rất có thể đây là cuốn nhật ký công tác của một bác sĩ đến ngôi làng này chữa trị cho người dân trong một trận đại dịch mười năm trước” Quân Mỹ vừa lật chiếc đồng hồ bằng thạch anh lên vừa nói nhỏ như thế.
Nhìn kỹ khuôn mặt cô, tôi thấy cô đã gầy rộc đi chỉ sau một đêm hú hồn kinh hãi. Hai gò má nhô lên thật cao, đôi mắt hõm sâu xuống, trông hơi sợ. Tôi tạm gác không xem cuốn nhật ký nữa hỏi: “Tối hôm ấy cô bị dân địa phương dẫn đi đâu? Có bị thương tích gì không?”.
- Biết rõ rồi còn hỏi, Quân Mỹ xì một tiếng rồi nói: “Chị xem cuốn nhật ký nhanh lên, kết thúc nhanh cuộc phỏng vấn này đi, tôi không muốn ở thêm một ngày nào nữa trong cái thôn chết tiệt quỷ quái này”.
Tôi cũng thầm nghĩ thế nhưng ngoài mặt tỏ ra không bằng lòng. Đi vào ngôi làng quỷ quái này, bất kỳ ai cũng muốn trốn xa càng nhanh càng tốt. Tôi cúi đầu, cặm cụi nghiêm túc đọc một lượt cuốn nhật ký kia. Ngày 12 tháng 5 năm 1996, âm lịch. Thôn Đỗ, khí hậu ẩm thấp, có hơn nghìn nhân khẩu. Trong đó đã có hơn một trăm người mắc bệnh, tám người đã chết. Triệu chứng bệnh là toàn thân nổi mẩn đỏ, giống như hạt đậu xanh, sốt cao không khỏi. Nếu dùng thuốc kháng sinh hiệu quả rất kém. Ngày 15 tháng 5 năm 1996, tiết tiểu vũ. Bệnh dịch chưa biết nguyên nhân, nó làm tê liệt hệ thống miễn dịch, nếu trị liệu theo biện pháp thông thường thì bệnh không thấy thuyên giảm chút nào. Nay đã có thêm hai người chết. Dân tình trong làng kích động hoảng loạn, họ muốn xông vào các trạm phòng dịch đập phá. Ngày 20 tháng 5 năm 1996, trời nắng. Đi khắp trong thôn phỏng vấn, khảo sát thực tế. Địa thế ngôi làng này khá cao, dưới có nước, nên nghi rằng vi khuẩn gây bệnh từ trên cao đổ xuống nguồn nước, rồi dân trong làng dùng nước có mầm bệnh đó. Đã mang mẫu nước lên cấp trên xét nghiệm. Ngày 23 tháng 5 năm 1996, trời mưa. Người báo cáo bị đuổi trở về làng. Hai ngày nay số người chết tăng vọt. Dân làng xông vào đập phá trạm phòng dịch. Bệnh tình và tình hình trong thôn không còn cách nào có thể cứu vãn.
Cuốn nhật ký chỉ viết cách nhau mấy hôm một về tình hình trong làng, tôi tỉ mỉ lật xem từng trang, từng dòng chữ đã bị bụi mờ, chỉ có đôi dòng cho tình hình thay đổi mỗi ngày nhưng qua đó chúng ta cũng đủ bằng cứ để thấy rằng, tình hình trong làng này diễn biến vô cùng phức tạp. Đây là một ngôi làng từng bị giặc giày xéo. Xem những dòng chữ được ghi chép cẩn thận trong cuốn nhật ký tôi đoán đó là một bác sĩ trẻ xuất sắc. Nói vị bác sĩ đó xuất sắc là vì anh ta đã ghi rõ từng chi tiết thay đổi của bệnh tình và tình hình tâm lý dân chúng trong làng, những điểm như anh ta muốn trị bệnh và đề xuất phương pháp hữu hiệu thì đều bị các đồng nghiệp, cấp trên ngăn cản, tôi chỉ đoán mò thế thôi. Cuốn nhật ký đã ghi lại tình hình diễn ra trong một tháng tại thôn này. Câu chữ trong cuốn nhật ký cho chúng tôi biết anh ấy là người cẩn thận, nhưng sau đó không thấy viết thêm gì cả, anh ta đột ngột kết thúc cuốn nhật ký, cuối cùng anh cũng chẳng cho nhận xét gì về việc điều tra nguồn nước.
- Phải chăng đây là nhật ký của Vương Hâm? - Quân Mỹ hỏi.
- Không thể nào, - tôi phủ định ngay lập tức. Với tuổi tác của hắn, thì dù hắn là bác sĩ thực thì cũng không thể tốt nghiệp rồi đi công tác từ năm 1996 được.
Suốt buổi chiều cả tôi và Quân Mỹ đều ngồi trong phòng chờ Vương Hâm. Mãi đến lúc nhá nhem tối hắn mới về, tôi lập tức mang cuốn nhật ký đến hỏi hắn. Không ngờ hắn vừa trông thấy cuốn nhật ký thì sa sầm mặt lại, giận dữ nói: “Ai cho phép cô sờ mó lung tung vào đồ dùng của tôi? Chẳng có chút lịch sự nào cả!”.
Tôi lặng thinh không biết nói sao, mãi một lúc sau tôi mới biện bạch: “Thiếu lễ độ à, cậu biết rõ ràng là trong làng này kỳ quái, nhưng điều gì cậu cũng giấu bặt không muốn tiết lộ, còn nói đến lịch sự với trách nhiệm gì với tôi chứ?”.
- Các cô cút đi mau. - Hắn đưa tay giật lấy cuốn nhật ký, quát tháo: “Các cô quả thực không nên đến đây, nhanh cút đi đi, về chỗ các cô mà làm việc tiếp đi”.
Màu trời nhạt dần, màn đêm đang dần buông, cả nét mặt của tôi và hắn cùng chìm dần trong đêm tối. Tôi đi đến gần cửa sổ, quay lưng lại nói: “Tôi có quyền phỏng vấn ở ngôi làng này, người ở đây lạ thật thích ngọt ngào không thích…
Trong lúc hắn giận dữ phát cuồng toan lao đến tóm lấy tôi, bỗng một tia chớp sáng loè từ ngoài cửa sổ rọi làm cả tôi và hắn đều thấy đau nhói ở cả hai tay, ánh sáng làm nhoà cả mắt tôi và hắn nữa. Đấy là tia chớp phát ra từ phía cửa sổ ngôi nhà tranh đằng kia, có người đang ẩn nấp trong ngôi nhà u ám quái dị đó.
- Ngay cả người trong làng cũng không ai dám vào trong căn nhà đó, còn đồng nghiệp của cô… Tên Vương Hâm lấy lại bình tĩnh, quát tôi.
Tôi bỗng rùng mình, phát hiện Quân Mỹ đã không còn trong phòng, vừa rồi khi tranh chấp với tên Vương Hâm, cô ta không nói gì, cũng chẳng thèm đi ra.
- Cô ta đã đi đến ngôi nhà tranh đó rồi! Cô ta lại bị ngôi nhà đó hấp dẫn không thể không đi. - Một lúc sau, tôi nói với giọng run run. Ý nghĩ vừa rồi lại lóe lên trong tâm trí tôi, Quân Mỹ không phải tự nguyện đi đến căn nhà đó, mà là một sức mạnh vô hình khiến cô làm vậy, chính bản thân cô ấy tự cảm thấy không thể không đi.
Thoáng sau, cả tôi cùng Vương Hâm đều chạy ra khỏi nhà hướng về phía ngôi nhà tranh mà chạy tháo mạng. Dưới ánh trời chiều, ngôi nhà như sừng sững trước mắt chúng tôi, ráng chiều đỏ ối như ánh lửa, cả ngôi nhà giờ trông hệt như chiếc đầu lâu với mái tóc loà xoà sắp lìa khỏi lưỡi kiếm của đao phủ, giờ đây, cả vùng trời đỏ như màu máu tươi. Càng đến gần ngôi nhà, cái không khí lạnh lùng toát ra từ đó càng mạnh, một cái lạnh linh hồn khó tả. Tôi lao thẳng về phía ngôi nhà, da tôi rợn lên như gặp phải mưa đá.
Trong lúc tôi và Vương Hâm chạy đến, mấy đám người trong làng cũng chạy theo con đường khác, dáng vẻ họ ai nấy đều vô cùng hoảng hốt lo lắng, ánh mắt ai cũng tỏ ra kinh hãi, cứ đăm đăm nhìn vào ngôi nhà nhưng không ai trong họ dám tiến vào. Rốt cục không biết sức mạnh nào đã hút họ đến rồi sức mạnh nào đã khiến họ không dám đi vào nhà?
Tôi thấy có một cô gái trong đám họ vô cùng kích động, nhoáng một cái, cô đã thoát khỏi vòng vây, rồi lao thẳng vào ngôi nhà ghê rợn kia. Nói thì lâu, chứ tất cả động tác ấy xảy ra nhanh vô cùng, nhanh đến nỗi không ai kịp phản ứng. Tiếp theo, một tiếng thét kinh hoàng phát ra từ trong ngôi nhà! Tôi không nhớ rõ thần trí mình lúc ấy thế nào nữa, những người vào trong ngôi nhà ấy, cứ bước qua ngưỡng cửa chưa được bao lâu thì bộ nhớ của não như được tẩy sạch. Trong hơi thở hoảng loạn tôi trợn trừng hai mắt nhìn một màn máu tanh hôi trước mắt, người con gái lao vào nhà lúc nãy hình như trên tay đang ôm chiếc đầu lâu của người con gái khác và cô ta thét lên.
Sở dĩ tôi đoán biết đó là chiếc đầu lâu vì người chết đó không toàn thây, khuôn mặt loang lổ vết máu, giống như cô ta chết vì bị những khúc cây đâm thủng, khuôn mặt, con mắt bị lồi ra ngoài cũng chứa đầy khiếp sợ. Trên mặt đất, đây đó hãy còn những khúc gãy của tay chân nằm ngổn ngang, tôi nhìn cảnh hãi hùng trước mắt bỗng thấy buồn nôn, đấy quả là một người chết đầy khủng khiếp.
Tôi thoáng phát hiện trong xó nhà còn có người ngồi nữa, khi tôi đến gần, người đó bỗng nhảy chồm dậy, nhanh như chớp đưa tay tóm lấy cổ tôi bảo: “Tên họ Đào kia, mày muốn hãm hại tao, đừng hòng trốn thoát, hôm nay tao phải phanh thây mày ra mới được”. Trong cơn hoảng loạn tôi nhìn thoáng qua mới biết đó là Quân Mỹ, trong ánh mắt loé lên sự oán hận tột cùng, ngón tay như quỷ dữ, xỉa ngay vào da thịt tôi.
- Ối, - tôi không còn sức để vùng vẫy nữa, miệng cũng nói không thành tiếng.
“Bình”, sau cú đấm nặng ký, Quân Mỹ ngã xuống, tên Vương Hâm lại xuất hiện trước mặt tôi.
- Cô ấy bị lòng thù hận và đố kỵ ăn mòn cả thể xác và linh hồn, không thể ở lại ngôi làng này được nữa. - Nói xong, Vương Hâm ôm thi thể Quân Mỹ dậy rồi đuổi cả tôi và cô gái ôm người chết đó ra khỏi nhà.
Vừa ra khỏi cửa lập tức chúng tôi bị người dân trong làng la ó. Thậm chí họ chuẩn bị cả quan tài, dường như họ đã sớm biết sẽ có người chết. Nhưng điều làm tôi không thể hiểu được là tại sao dân trong làng này lại ghét cô gái ôm cái đầu người chết đến thế. Mấy người già trong làng chửi bới, xông lên đánh cô ta.
Vương Hâm không nhịn được trước cảnh đó, quát lớn: “Được rồi, chẳng lẽ các người hận vì người nhà mình chết, chỉ riêng mỗi nó sống sót sao?”.
Lời hắn vừa dứt, dân trong làng liền ngừng tay, họ sợ nhất là hai chữ đố kỵ trong câu nói của Vương Hâm.
Dân làng lượm nhặt thi thể bừa bãi đó đây đặt vào quan tài rồi mang đi, chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến cô gái đang ôm mặt khóc kia cả. Vương Hâm khuyên tôi cùng về với hắn. Tôi lắc đầu tỏ ra không đồng ý, tôi cho hắn biết tôi muốn ở lại cùng cô gái cô độc tội nghiệp kia, linh cảm rằng cô ta sẽ cho tôi hiểu hơn ngọn nguồn sự việc.
Thấy tôi một mực không chịu đi, Vương Hâm đành phải mang Quân Mỹ về trước. Khi hắn xoay người chạy đi, tôi còn nghe thấy hắn thở dài mấy tiếng.
Xung quanh bỗng lặng ngắt như tờ, thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng khóc nấc nghẹn ngào của cô gái. Tôi đến bên, không nói lời nào, đưa một chiếc khăn giấy cho cô. Cô gái nhìn tôi vẻ đầy sợ hãi, tôi lau nước mắt trộn lẫn mồ hôi trên mặt cô, khẽ nói: “Đừng sợ, để tôi giúp cô”.
Đây là lần đầu tiên có sự giao lưu giữa hai tâm hồn! Cả tôi và cô ấy nhìn nhau một hồi lâu, không ai nói gì. Sự im lặng bỗng bị phá vỡ bởi tiếng thở dài của cô gái, cuối cùng thì cô ấy cũng đã lên tiếng.
- Người chết là cô em chồng tôi, chính tôi đã hại cô ấy…
Nói xong dường như tất cả niềm cay đắng trong lòng cô đã tìm được lối thoát. Nói chuyện với nhau tôi mới biết tên cô ấy. Cô ấy là Lý Văn, đến thôn này chẳng bao lâu thì chồng chết vì đột tử, người nhà chồng cứ mê tín cho rằng cô ta có tướng khắc phu, trong nỗi đau mất con, toàn bộ niềm căm giận của họ đều trút lên trên đầu cô con dâu tội nghiệp này.
Lý Văn nhẫn nhục gánh chịu, gánh nặng trên hai vai, là một cô gái trẻ tính tình hiền hậu, trong làng không ít chàng trai mến cô, trong đó có người trong mộng của cô em chồng cũng thích cô.
- Quả thực tôi chưa bao giờ có chút tình ý hay biểu hiện gì đối với người con trai mà cô ấy thích, nhưng cô ta nhất định chẳng tin tôi.
Lý Văn ôm mặt khóc nức nở hồi lâu mới thốt lên trong nghẹn ngào: “Tôi đau khổ muôn phần, ba hôm trước, cô ta mắng tôi đã theo cậu ấy, lúc đó tôi thấy sợ bởi vì tôi chưa từng như thế. Người trong làng đồn nhau rằng, hễ căm hận người nào thì sẽ có loại lệ quỷ biến thành người mà mình căm hận để hại chết mình”.
Lời vừa dứt, tôi bỗng thấy có gì đó bất an, nghĩ kỹ lại xem, hôm đầu tiên khi Quân Mỹ được mang về, sự khạc nhổ kỳ quái và sự mắng chửi luôn mồm của cô ta, bảo rằng tôi hãm hại cô ta, chẳng lẽ đã nhìn thấy ảo ảnh của tôi?
Hồn quỷ của Trương Nghệ chính mắt tôi trông thấy là điều đã chứng thực lời nói của cô gái kia là đúng, có lẽ đó không phải là Trương Nghệ, mà là hồn quỷ đang ẩn nấp trong ngôi làng này.
* * *
“Lý Văn”. Tôi lấy thuốc lá ra, nhưng các ngón tay cứng khựng lại, quẹt mấy cái mới châm được thuốc, tôi khẽ hỏi: “Cô có thể kể cho tôi nghe tỉ mỉ về những truyền thuyết trong làng này không?”.
Lý Văn nhắm nghiền hai mắt lại, dường như cô đang hồi tưởng về một ký ức không nên nhắc tới. Mãi một lúc sau, cô ta than: “Thôn Đỗ này cách đây mười năm có một trận đại dịch, người chết vô số. Trạm phòng dịch cũng không thể nào phòng trị được, sợ lây phải dịch này, các thầy thuốc, bác sĩ cũng đã bỏ đi khỏi làng”.
Tôi lặng người nghe kể, thỉnh thoảng nhả từng luồng khói xanh xoắn tít, rồi nghe cô ta kể tiếp.
- Người trong trạm phòng dịch lần lượt bỏ đi, những người chưa bị bệnh trong làng rất căm phẫn các bác sĩ bỏ đi ấy, họ phát hiện có một bác sĩ chưa kịp bỏ trốn, thế là ngọn lửa oán hờn của toàn dân trong làng đã trút lên vị bác sĩ này, nghe đồn là vị bác sĩ đó đã bị đánh đập dã man đến chết”. Kể đến đây, Lý Văn rùng mình, run run nói: “Chính là trong ngôi nhà tranh đó”.
Tất cả mọi mắt xích đã kết thành một sợi xích lớn trong tâm trí tôi. Nhớ lại khi mới vào làng, tôi có nghe tiếng kêu thất thanh phát ra trong ngôi nhà đó, lại cứ ngỡ là của Quân Mỹ. Nhưng giờ thì tôi đã hiểu, đó là tiếng gào thét của quỷ dữ. Quả thực tiếng thét đó đã xuyên thủng tâm can tôi, thọc thẳng vào tâm hồn tôi. Dường như nó đang bảo cho mọi người biết nỗi oan không giãi bày được cùng ai.
- Sau đó thì sao? Các bác sĩ trong trạm phòng dịch đã đi, vậy trận đại dịch đó làm thế nào mà khống chế được? - Tôi vừa hỏi vừa dập tắt điếu thuốc.
- Khi mọi người trong làng giết vị bác sĩ cuối cùng ấy ai cũng nghĩ rằng chỉ còn chờ chết vì đại dịch vẫn tiếp tục lan truyền, không ngờ rằng, sau khi giết vị bác sĩ kia thì đại dịch tự nhiên được dập tắt.
Cô gái im lặng một lát rồi kể tiếp: “Các cụ già trong làng nghĩ rằng, ác quỷ không muốn mọi người chết một cách dễ dàng như thế, nó muốn báo thù, nó muốn giày vò người trong làng. Kết quả là người tiếp theo bị chết là hai chị em.
Đó là hai chị em bằng mặt mà không bằng lòng, từ nhỏ đã thích so đo tính toán với nhau, chống đối nhau như nước với lửa. Tối hôm đó, hai chị em chúng gây gổ, trong cơn tức giận, người chị đã đến ở nhà người bạn. Người em ở nhà một mình, bỗng thấy chị mình quay trở lại, đứng ngoài cửa sổ, đôi mắt hung ác. Người em lập tức xông ra cãi lý với chị. Sau đó, cả hai chị em mất tông mất tích một cách thần bí.
Khi cha mẹ chúng biết chuyện, thức đến khuya cũng chẳng thấy hai chị em trở lại, liền chạy đến nhà đứa bạn của người chị tìm. Không ngờ người nhà kia nói, người em cứ đến gây hấn, trêu tức, nên cô chị đã ra tính sổ với cô em.
Thế là cả hai chị em đã biến mất một cách kỳ bí!
Hơn một nửa số người trong làng đều đổ đi tìm giúp họ nhưng chẳng thấy tăm hơi của hai chị em. Mãi đến nửa tháng sau, mùi thối hừng hực cứ bốc ra từ ngôi nhà mà vị bác sĩ kia đã chết. Lúc đó, người trong làng rất sợ, họ biết rằng đã giết nhầm vị bác sĩ, ông ta chết oan quá nên linh hồn không siêu thoát được, cứ lởn vởn trong làng, không chịu đi.
Khi mọi người cùng vào ngôi nhà đó, tiếng kêu hãi thất thanh của hai chị em cứ hết người này thét lên chỗ này lại tiếp tiếng thét người kia cất lên ở nơi khác. Hai chị em mất tích đã được tìm ra, nhưng bây giờ họ chỉ còn là hai cái xác lạnh cóng, thối rữa. Cả hai chị em chết trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, hai tay ôm lấy chiếc cọc nhọn đâm thủng ngực của nhau, nội tạng lồi hết ra ngoài.
Dân trong làng không ai tin là hai chị em họ đã đâm nhau, bởi vì khi quan sát vết đâm trên người của hai thi thể, thấy ở mỗi bên đều có những vết thương chí mạng, không ai có thể tin rằng, một người sau khi bị đâm lòi thận ra ngoài lại có thể đâm thủng quả tim của người kia rồi treo trên cọc gỗ được. Trừ phi có một sức mạnh nào đó xui khiến họ, điều khiển hai cái người chết ấy đâm nhau!
Từ đó trở đi, năm nào trong làng cũng xảy ra án mạng, mà người nào cũng chết thảm trong căn nhà tranh đó. Hơn nữa tất cả người chết đều có một điểm chung là cả hai đều hận nhau đến xương tuỷ.”
Cái chết của cô em chồng, khiến Lý Văn cảm thấy rất áy náy trong lòng. Đối với một người đố kỵ với mình bị chết mà cô ta lại có thái độ khoan dung, tự thấy áy náy trong lòng, điều này quả đã làm tôi cảm động. Tôi không ngừng động viên an ủi cô.
Màn đêm đen kịt, tối đến nỗi khiến người ta có cái cảm giác ngạt thở. Cô gái cuối cùng cũng phấn chấn trở lại, quyết định trở về nhà để đối diện với những gì đang chờ mình. Tôi đưa mắt nhìn cô ra đi đến khi khuất dạng, còn mình cứ ở lại ngồi thừ ra đấy, một mình đối diện với căn nhà đầy oán hận kia. Trong căn nhà hung ác đó, đầy rẫy những linh hồn lay lắt, phiêu dạt, không đầu thai được. Trung tâm của nó là cái chết oan uổng của ông bác sĩ mười năm trước.
Tôi từng đọc các tạp chí quái dị, trong đó cho rằng người bình thường có thể nhìn thấy các vong hồn ở thế giới bên kia nhờ sự trung gian của năng lực thứ ba, như quay phim chụp hình chẳng hạn. Tin đó mang lại cho tôi một linh cảm, tôi lấy máy ảnh ra, điều chỉnh, ống kính hướng về phía ngôi nhà tranh kia.
Tôi từng bước đến gần ngôi nhà, trên cánh cửa mục nát lộ ra kẽ hở, kẽ hở đó như cánh cửa địa ngục được hé mở. Bỗng nhiên, trên màn hình máy ảnh thoắt ẩn thoắt hiện một hình bóng quen quen.
Trong khoảnh khắc chạm phải ánh mắt với người trong màn hình, suýt nữa tôi đánh rơi chiếc máy ảnh đang cầm chặt trong tay, trên màn hình máy ảnh khuôn mặt Trương Nghệ hiện ra ngày càng rõ, ngày càng gần. Lập tức tôi không nhìn vào máy ảnh nữa mà nhìn thẳng vào trong ngôi nhà, nơi Trương Nghệ xuất hiện, thì chẳng thấy ai cả.
Đưa máy ảnh lên, tôi hướng ống kính nhắm chính xác vào khuôn măt đầy thù hận của Trương Nghệ, lại một lần nữa xuất hiện trước ống kính tôi. Đợi chờ tôi có lẽ là cái chết đã được định sẵn, nhưng tôi vẫn kiên định tin rằng, hình ảnh trên chiếc máy nhất định không phải là Trương Nghệ.
Dù tôi đố kỵ, hận cô ta, nhưng đồng thời tôi cũng mến phục cô. Đấy là một thứ tình cảm đan xen giữa tình yêu, tình bạn và hận thù, đố kỵ phức tạp, chúng cứ giằng co nhau không bên nào hơn bên nào.
Tôi không còn đường rút lui! Hít một hơi thật sâu, tôi đẩy cửa bước vào với tư thế đầy nghị lực. Tay vừa chạm vào cánh cửa, bỗng một luồng hơi lạnh âm thầm thấm vào tận xương. Trong nhà tối om, xoè tay không thấy năm ngón, ánh sáng yếu ớt toả ra từ màn hình điện thoại nhập nhoè như bóng quỷ. Tại sao lại phải nhìn ngôi nhà này thông qua ống kính, động cơ thúc đẩy tôi làm như thế ngay cả bản thân tôi nghĩ đến cũng phải rợn gai ốc. Tôi đang tìm một bầy vong linh - một bầy vong linh đằng đằng sát khí.
“Tách, tách.”
Trên xà nhà phía sau lưng bỗng nghe tiếng bước chân, màn không khí khủng bố lại buông xuống phủ kín đầu óc tôi. Chạy trốn là bản năng tự vệ khi gặp nguy hiểm, tôi không dám quay đầu lại, vẫn cứ xoay ống kính về phía trước. Nhưng hình ảnh chiếc điện thoại soi ngược lại sau lưng làm tôi lạnh toát mồ hôi, nỗi kinh hoàng khiến tôi có thể gục quỵ bất cứ lúc nào.
Đó là một bộ đồng phục vấy đầy máu đang treo lơ lửng trên xà nhà, nó còn đi song song với mặt đất. Hình ảnh trong màn hình điện thoại bất chợt nhảy vào chiếc áo đang treo lơ lửng đó. Trên áo còn treo thẻ phóng viên vấy đầy thịt nát còn tươi màu đỏ - đó là phóng viên đặc phái Trương Nghệ.
Hai chân không đủ sức để đứng nữa, tôi gục quỵ ngay xuống đất. Một niềm tuyệt vọng đang xâm chiếm tâm hồn tôi, mắt không dám nhìn cảnh tượng trước mắt nhưng não tôi chỉ thị phải nhìn không được rời màn hình điện thoại một giây nào.
Những chuyện không thể nào bàn luận được cứ thế diễn ra, bộ đồng phục vẫn đang hiển hiện sau lưng tôi. Thực ra mà nói, đó là một thi thể đang ngoi ngóp hơi tàn trong bộ đồng phục của nhà báo. Chiếc đầu lâu từ từ mọc lên trên cái cổ áo đồng phục loang đầy máu, chiếc đầu lâu của một cô gái. Cô ta đang từ từ ngẩng đầu lên, ống kính như ma làm cứ tiến đến ngày càng gần hơn, phóng to khuôn mặt đó lên.
Đó là một khuôn mặt không thành hình, nó nám sạm đi như bị rán qua, không phân biệt được đâu là mắt mũi nữa, cả xương mặt và đôi mắt cũng bị lồi ra ngoài. Đây là khuôn mặt của Trương Nghệ sau khi chết ư? Tôi không dám tin, chỉ ôm mặt khóc.
Quái vật nửa người nửa ma ấy tiến lại gần tôi. Tôi đứng như trời trồng, bây giờ điều duy nhất tôi có thể làm là run. Trên màn hình vẫn tiếp tục lộ ra hai cánh tay chỉ còn xương trắng hếu lỗ chỗ màu máu tươi ngày càng dài ra. Tất cả chỉ cách sau lưng tôi khoảng một thước. Tôi không làm sao nhắm mắt lại được, cứ trân trân nhìn hai cánh tay bằng xương đang thò đến gần. Muốn nhúc nhích hay làm gì đó nhưng lực bất tòng tâm. Trong khoảnh khắc sắp vỡ tan lồng ngực đó, bỗng có tiếng người ngoài cửa vọng vào: “Anh! Anh tha cho cô ấy đi!”.
Cũng trong chiếc màn hình điện thoại, phản chiếu một hình dáng thân thuộc đang từ từ tiến vào ngôi nhà tranh kia. Tôi thấy mắt Vương Hâm đỏ ngầu, hô lớn: “Anh! Thôi được rồi, chuyện đã qua rồi mà! Sao anh còn không buông tha cho cô ta chứ? Là chính tôi, là chính tôi đố kỵ cậu. Bởi vì cậu là phóng viên ưu tú, đẹp trai, không việc gì không làm được, vậy tại sao cậu không dẫn tôi đi?”.
Cùng với tiếng la khóc của Vương Hâm, cái sức mạnh đã giam giữ tôi bỗng nhiên không còn nữa. Tôi chầm chậm quay đầu lại, tim chợt nhói đau, một cánh tay khô đét đang chĩa thẳng vào tim tôi.
Khuôn mặt thảm thê không nỡ nhìn đó cứ chằm chằm nhìn tôi, nó cứ nằm ngang trên không trung, động tác cũng từ từ chậm lại. “Anh!”. Vương Hâm vồ đến, ôm chầm lấy thi thể đang gò cùm đó, khóc nức nở mà rằng: “Em xin lỗi anh, nếu không vì em, anh sẽ không đến làng này, anh đi cùng em đi, không nên hãm hại người ta nữa”.
Thời gian từng phút từng giờ cứ thế mà trôi qua, không ai còn nói năng hay làm gì nữa, chỉ nghe thấy tiếng khóc và tiếng nước mắt chảy róc rách như tiếng suối.
Đột nhiên, một tiếng rống đầy tuyệt vọng vang dội cả gian nhà, tiếng khóc không phân biệt được nam hay nữ, nó như đang chuẩn bị một cuộc đổi thay lớn, tiếng thét đó tuyệt vọng và bi thảm giống hệt tiếng khóc mà lần đầu tiên tôi nghe thấy trong căn nhà này. Chiếc thi hài đó nằm gọn trong lòng Vương Hâm, co giật một cách đau khổ. Nó đang thay đổi, bỏ đi chiếc áo đồng phục đầy máu để trở thành một chiếc áo bào trắng bẩn thỉu, lộ rõ chân tướng. Ngón tay tuy đã tàn tật song rất cứng cỏi, bất chợt ôm lấy cổ họng Vương Hâm, tôi thấy Vương Hâm mắt nhắm lim dim, khoé mắt lấp lánh như kim cương, thì ra đó là nước mắt.
Thoáng một cái, thân thể hoá thành một làn khói đen, toả khắp gian nhà. Oan khí của hồn ma vẫn chưa siêu thoát nên trong căn nhà sặc mùi sát khí. Tôi lựng khựng đi đến bên Vương Hâm rồi ôm lấy hắn. Hắn vẫn còn là một đứa trẻ - một đứa trẻ hối hận không kịp vì những việc làm sai lầm của mình. Nước mắt ướt sũng cả vai áo, tôi còn nghe hắn nói trong tiếng khóc: “Anh ấy tên là Vương Kế, là anh trai tôi, chính là vị bác sĩ đã đến cứu chữa cơn đại dịch cho dân làng mười năm trước đây”.
Tất cả sự kinh hoàng đã tan biến trong khi tôi đối mặt với hắn. Tôi vỗ nhẹ lên vai hắn, rồi nghe hắn nói tiếp: “Thành tích của anh cậu rất tốt, anh ấy luôn cười chê vì thành tích học tập kém cỏi của cậu. Cậu thấy vô cùng hận anh ấy, khi anh ấy thi vào đại học cậu đã xé nát tất cả những bằng khen trước đó của anh ấy. Cậu hoàn toàn không muốn anh ấy trở về nhà, cứ luôn mong anh ấy đi học đâu đó thật xa!”.
Thói cậy tài cao ngạo của người anh khiến Vương Hâm uất hận. Vương Hâm luôn luôn phải chịu sự chê trách khi so sánh tài năng với anh trai, nhiều khi chỉ là vài lời vô ý của Vương Kế cũng khiến cho Vương Hâm sinh lòng đố kỵ. Cậu ta bắt đầu thù ghét sự tồn tại của anh trai mình, luôn luôn nghĩ cách loại trừ anh trai khỏi mắt mình.
“Tôi không ngờ anh trai tôi đã thi đỗ vào trường y nổi tiếng cách xa ngôi làng nghèo kiết xác của tôi, khi có giấy báo đỗ anh ấy còn khoe khoang trước mặt tôi”. Kể đến đây Vương Hâm thở dài rồi nói tiếp: “Chính tôi đã trồng vào tâm lý anh ấy một giống cây độc! Anh tôi quá tài hoa nên bất luận đến đâu cũng đều bị người ta ghen ghét”..
Với cá tính không chịu thua người đã khiến Vương Kế dốc chí học hành, thế là đã thuận lợi và nhanh chóng trở thành một bác sĩ nổi tiếng. Khi thôn Đỗ bị mắc trận đại dịch anh ấy được điều về đây cùng một đội ngũ bác sĩ y tá lớn tuổi nhưng thành tích và tài năng anh ấy quá vượt trội trong con người anh ấy song song tồn tại cả tài hoa và sự kiêu ngạo tự phụ, thế là anh ấy đã trở thành trung tâm đố kỵ của mọi người.
Lòng đố kỵ giống như con rắn độc cứ quấn lấy số mệnh của Vương Kế, cái chết oan trái nơi đất khách quê người đã định sẵn cho linh hồn của anh ta không thể nào siêu thoát được. “Chính là ở nơi này này!” Vương Hâm chỉ tay vào góc tường nói: “Dân làng đã vây anh ấy tại nơi này này, một vòng tròn người vây lấy một người! Anh ấy đã bị hãm hại, bọn cầm thú ấy đã hãm hại anh ấy, chúng bỏ đi mà cố ý không thông báo với anh trai tôi”.
Lòng ghen ghét trong cùng ngành cùng nghề đã gặm nhấm lương tri và tình đồng nghiệp. Tôi nghĩ trong phim “Đại Trường Kim - Đêchangkưm” cũng bị hãm hại như thế. Nhưng tôi cứ nghĩ chuyện cổ tích mãi là chuyện cổ tích, nhưng nàng Đêchangkưm sau khi bị các y nữ hãm hại còn có thể vực dậy làm lại cuộc đời nhưng anh trai tôi thì đã gục ngã không dậy được nữa.
Lòng quặn đau và hối tiếc cho cái chết của vị bác sĩ trẻ tài hoa đó, cuối cùng tôi đã hiểu ra tại sao dân làng này không bài xích người ngoài là Vương Hâm, chính là vì họ hiểu rằng anh trai cậu đã chết oan vì họ. Người chết cũng đã chết rồi nhưng oan hồn vẫn chưa tiêu mất. Dân làng này đang chuộc tội với người em trai của oan hồn đó. Trong người Vương Hâm có dòng máu của Vương Kế đang chảy. Công việc tìm kiếm anh trai của cậu cũng trải qua bao gian nguy cay đắng nhưng đến khi tìm được thì anh trai đã trở thành hồn oan trong tay người.
“Tại sao vậy? Tại sao ông trời lại đối xử như thế với tôi chứ?” Đột nhiên Vương Hâm kéo mạnh tay tôi nghiêm giọng hỏi. Ánh mắt hắn bỗng nhuốm đầy sát khí, giọng nói cũng thay đổi có vẻ cổ quái, nghe như cổ họng bị rách ra. Một ý nghĩ khác bỗng đến trong đầu tôi nhanh như luồng điện, tôi bàng hoàng nhìn Vương Hâm - giờ đã trở thành người xa lạ trước mặt. Không phải! Bây giờ không phải linh hồn hắn khống chế bản thân hắn mà là hồn oan chưa tan của Vương Kế.
* * *
Đôi mắt tôi như bị buộc lại trong hai con mắt đầy hận thù của hắn, tôi cảm thấy thân mình như hụt hẫng bay bổng dường như đã đi vào ý niệm của Vương Kế. Vẫn là ngôi làng tiêu điều đó, núi có màu xanh đen, đất đỏ, cây cối um tùm hoang dại. Màu trời xám xịt pha lẫn màu đỏ thẫm như máu, một đám động vật lạ đang cựa quậy trong đám cỏ rậm.
Định thần nhìn lại thì đó là một nhóm y, bác sĩ mình mặc đồng phục trắng, mông họ nhô cao như kiểu mông của loài người chưa tiến hoá hết. Nhóm người đó đang muốn thoát khỏi ngôi làng này trước khi trời sáng. Tôi lặng lẽ theo sau, dù đã vô cùng cẩn thận nhưng chân vẫn nện xuống đường bật ra âm thanh, thế nhưng đám người kia vẫn không hay biết, dường như tôi và họ cách nhau cả hai thế giới - hai thế giới người âm và người dương vậy.
- Chưa báo tin cho Vương Kế mà chúng ta bỏ đi e rằng dân làng sẽ trút giận lên Vương Kế! - Một nữ y tá nói thế với giọng rất nhỏ.
Mấy người còn lại mặt biến sắc nhưng không ai trả lời câu hỏi của nữ y tá kia. Vị nữ y tá muốn nói gì thêm nhưng liền bị tên bác sĩ mặc áo trắng lấy tay bịt mồm lại, ánh mắt hung tợn như đang ra lệnh cho cô y tá không được nói gì thêm. Tôi thấy trong khoé mắt cô gái ứa lệ nhưng đáng tiếc là cô ta không kiên trì được đến cùng, đã chịu khuất phục dưới cái tà ác muôn kiếp đó. Đây có lẽ chỉ là một màn kịch trong một màn kịch khác mà thôi, tôi đoán rằng, cô y tá kia có chút ngưỡng mộ Vương Kế nhưng không thoát được sự đeo đuổi của người khác, cảm tình đó của cô đang đứng trước ngã ba đường.
Như lời Vương Hâm nói, anh trai cậu ta có quá nhiều điểm khiến người ta phải ghen tỵ, trình độ chuyên môn, tính tình và dáng người, thái độ tự tin khiến người xung quanh phải đề cao cảnh giác. Nhưng bất luận thế nào đi nữa thì cũng không thể đuổi đi vì cái tài hoa của người ta được. Móng tay bóp chặt nghiến vào lòng bàn tay đau nhói, tôi nhìn bọn người bất lương ra khỏi làng với ánh mắt giận dữ.
Mặt trời đã lên cao, trong làng vẫn một bầu không khí yên tĩnh, yên tĩnh như cái chết. Lúc đó, một gã thanh niên mặc áo trắng đồng phục của bác sĩ từ trên con đường dốc núi đang đi lại , chốc chốc anh ta lại khựng lại cúi xuống xem xét chất đất của vùng này, càng lúc càng tiến lại gần, tôi đã nhìn rõ khuôn mặt anh ta. Đó là một khuôn mặt tuấn tú, toát lên vẻ thông minh siêu thoát, khuôn mặt hơi giống Vương Hâm.
Đó chính là Vương Kế của mười năm trước. Tôi khẳng định vậy.
Vương Kế không biết đến sự tồn tại của tôi, cứ nhanh như sóc đi lại trên con đường đó. Tôi chạy theo anh ta, mệt nhoài mới đuổi kịp. Đi được một hồi, chỉ thấy bên đường có một ông lão đang nằm ngã người xuống đám cỏ, lập tức Vương Kế chạy đến khám bệnh cho ông.
Những nốt đỏ cứ loang lổ đầy khuôn mặt ông già, giống như những cái nhọt làm lở loét từng mảng da trên mặt. Người thanh niên đó đè ngực ông lão rồi đưa mồm hô hấp nhân tạo. Sau một hồi cấp cứu, người thanh niên đó lại mở mí mắt ông lão than rằng, “đã hết cách cứu chữa”.
Vương Kế cởi chiếc áo đồng phục của bác sĩ ra trùm lên mặt ông lão. Đúng lúc người thanh niên định bỏ đi, một đám người trong làng bỗng đâu xuất hiện nhào về phía người bác sĩ kia. Trong tay họ ai cũng có vũ khí, gậy gộc giáo mác với thái độ đầy hung hãn, muốn ăn tươi nuốt sống người bác sĩ trẻ, mồm thì chửi bới lung tung…
Một cú đánh phát ra tiếng “uỵch” vạch ra số mệnh của vị bác sĩ kia.
Chính là một tên trong số dân làng đã dùng chiếc gậy gỗ to tướng nã xuống đầu Vương Kế. Vị bác sĩ trẻ đó không né tránh vì cơ bản anh không ngờ rằng dân làng sẽ đánh mình.
- Bọn bác sĩ các ngươi cứ thế mà tự động bỏ đi hả? Lương tâm chúng mày đâu? Thật là coi mạng người như cỏ rác!
- Chắc tên bác sĩ này chưa kịp trốn đi, chúng ta phải giết chết nó rồi treo xác ở đầu làng để dân làng bớt giận.
Máu tươi vọt ra từ đầu Vương Kế đỏ hết cả khuôn mặt, họ giữ Vương Kế lại cho muối vào vết thương. Vương Kế như con thú khốn cùng vùng vẫy nhào vào đám dân làng.
Tôi nhìn và đoán được hành động của Vương Kế chỉ muốn chạy theo đám y, bác sĩ đã bỏ đi kia để hỏi cho rõ chứ không phải muốn trốn chạy theo họ.
Rốt cục là ai? Là ai đã ghen tức hãm hại cậu ta?
Vương Kế càng vùng vẫy, dân làng càng tức tối, cậu ta đã tháo chạy được nhưng vẫn bị dân làng bám sát theo, cuối cùng cậu ta vào được trong ngôi nhà tranh kia. Vừa vào trong nhà cậu liền ngã gục xuống vì mất máu quá nhiều, trên người cậu toàn là máu, ướt sũng cả quần áo, giày dép, khuôn mặt nhuốm đầy máu tươi, trợn mắt rồi tắt thở, đôi mắt trắng bệch đầy oán giận và sợ hãi. Bỗng nhiên một âm thanh xé trời vang lên, Vương Kế hét lên: “Các ngươi đố kỵ ghen tức, hãm hại người ta, đen trắng lẫn lộn không phân biệt được! Sẽ có một ngày các ngươi sẽ chết vì lòng đố kỵ của chính các ngươi, các ngươi đã nợ máu tất phải đền bằng máu”.
Dân làng nghe thế sợ hãi tản ra. Nhưng cuối cùng họ cũng thoát được nỗi kinh hoàng đó bằng sự ngu muội của mình, một lần nữa họ cầm vũ khí tiến đến chỗ Vương Kế. Tôi muốn ôm lấy thi thể cuộn tròn của Vương Kế và khuyên ngăn dân làng. Nhưng lúc này thân thể tôi như một cái bóng đen, rồi trượt té nhào bên thây Vương Kế trong góc nhà. Thoáng một cái, tất cả giáo mác, gậy gộc cứ giáng xuống như mưa. Rõ ràng là chỉ ý thức đến thế giới đó nhưng trong lúc này tôi lại cảm thấy có vô số giọt máu tươi lạnh buốt nhỏ xuống mặt và tim tôi. Tiếng máu tươi rỏ xuống đã hết, bốn bề tĩnh mịch, nghiêng mình nhìn lại tôi vẫn thấy mình đang nằm trong ngôi nhà cỏ đó, nhưng không có ai cả. Trên mặt đất vẫn còn một vũng máu tươi, tôi chìa tay ra sờ, nước mắt rơi lã chã. Lời nguyền rủa đã hình thành từ đó, ngôi làng này mắc phải kiếp nạn không thể nào tránh thoát được. Sau một trận lảo đảo, ý thức tôi đã trở về với hiện thực. Hai tay đang vòng vào vai một người, tôi nhìn lại thì ra là Vương Hâm đang cõng tôi chạy khỏi ngôi nhà đó. Cậu ta chạy rất nhanh, nhiều lúc suýt ngã nhưng rồi lại lấy lại tư thế chạy tiếp.
Vương Hâm vừa chạy vừa lẩm bẩm. Tôi nghiêng tai cố nghe hắn nói: “Xin lỗi nhé, xin anh tha thứ cho em!”.
Có lẽ hắn xin lỗi vì đã mang tôi đến ngôi nhà tranh để tôi phải trải qua cơn khiếp vía đó. Tôi lắc đầu nói: “Chuyện này sao có thể trách cậu được, trách là trách tôi đã quá yếu đuối”. Vừa nói xong tôi chợt rùng mình vì giọng nói vừa rồi của mình không phải là giọng tôi thường ngày nữa. Rõ ràng đó là giọng của một người đàn ông, thâm trầm, đầy uất ức thương đau!
Tôi ý thức được rằng, vừa rồi trong người tôi có đến hai linh hồn tồn tại, Vương Kế đã mượn xác tôi để nói chuyện với em trai mình. Đây là lịch trình của tâm linh, tôi chỉ là người ngoài nghe anh em họ nói chuyện với nhau thôi.
Người mà Vương Hâm muốn xin lỗi là Vương Kế. Cậu ta hận vì lửa ghen tị thuở xưa của mình đã ép anh trai đi con đường tuyệt lộ, chuốc lấy cái chết.
Sự ghét của em trai đối với mình, khiến Vương Kế ghét cay ghét đắng sự đố kỵ giữa người với người, anh ta đã xử lý một cách cực đoan trong mối quan hệ con người, khiến Vương Kế như con tằm làm kén tự bọc lấy mình, khinh miệt người khác, đến khi biết các đồng nghiệp bỏ rơi mình ra đi khỏi trạm phòng dịch, anh ta đã hoang mang, mất đường hướng…
Bây giờ, người mà Vương Hâm cõng trên vai không phải là tôi mà là anh trai cậu ta - Vương Kế!
Chốc chốc Vương Hâm lại tự trách: “Anh ạ, anh còn nhớ không? hồi còn nhỏ anh đã từng nhiều lần cõng em như thế này đi học, em có một người bạn gái cùng lớp thường đi chung với chúng ta, sau đó em mới biết là cô gái đó thích anh nên sáng nào cũng cố ý chờ anh”.
Không có ai trả lời Vương Hâm cả, hình như hắn đang tự nói với chính mình nhưng hắn có vẻ vui vẻ trong từng câu chữ mà hắn nói, hắn lại cười: “Thực ra, em cũng rất thích cô gái đó, nhưng cô ta lại thích anh, em chẳng còn cách nào khác. Sau đó, trong lớp em có cậu con trai tỏ ý khinh miệt cô ta, thế là gã bị em đánh cho một trận. Anh biết em đã nói gì với gã không? Em nói: “Mày dám đùa với bạn gái của anh trai tao à?”.
Nói đến đây, Vương Hâm như nghẹn lời: “Anh! Em xin lỗi anh, chỉ vì em quá ngưỡng mộ anh, nhưng tại sao lúc đó anh em mình lại nghĩ đó là đố kỵ? Là hận?”.
Hai cánh tay bỗng ôm lấy cổ Vương Hâm không theo sự kiểm soát của tôi, có lẽ đó là linh hồn của Vương Kế muốn mượn tay tôi để tỏ ý thân thương với người em trai mình.
Bỗng nhiên có một giọt mưa rơi xuống môi tôi, giọt mưa rất lạ thường, vì nó rất mặn. Tôi đưa tay lên vuốt mặt, lúc này tôi đã có thể làm chủ được hành vi của mình, cả mặt tôi đầy nước mắt. Mặt trời đã ló dạng, tất cả những oán hờn đều tiêu tan theo bóng đêm. Trên bầu trời đám mây trắng lượn lờ thong thả, dường như đó là thông điệp của một linh hồn oan khuất giờ đã được siêu thoát…
Trở về chỗ ở của Vương Hâm, tôi phát hiện Thạnh Quân Mỹ đã không còn ở đó nữa, cả những thiết bị chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn dân làng cũng biến mất. Tôi vội vàng muốn ra ngoài tìm, Vương Hâm giữ lấy tôi lại và nói: “Không cần phải tìm đâu, cô ấy đã ra khỏi làng này rồi”.
Câu nói đó của Vương Hâm khiến tôi rùng mình, mấy lần Quân Mỹ bị nạn trong ngôi làng này đều do tôi và Vương Hâm cứu, vậy tại sao không từ giã mà ra đi như thế?
“Có lẽ cô ta đã viết bài “Vị nữ phóng viên can đảm, vào khám phá bí mật trong ngôi làng quỷ quái” rồi, tôi cười…
Lòng người quả thực sâu hơn đại dương, cao hơn mây xanh, thật khó mà đoán được, dù đã cùng nhau trải qua sóng to gió lớn, cùng nhau kề cận tử thần thế mà khó đổi lại được hai chữ tri âm, quả thực người xưa nói, lên trời đã khó, cầu tri âm càng khó hơn, biển đã sâu, lòng người càng sâu hơn!
- Thu dọn đi, chị cũng nên về đi thôi!
Vương Hâm lấy trong ngăn kéo ra bản viết tay của anh trai mình đưa cho tôi xem: “Cái này cho chị đấy, nó giúp ích cho chị khi viết bài về làng này”.
Tôi không thể ngờ rằng, cậu ta lại tặng tôi kỷ vật vô giá này, do dự một lát, tôi nhận lấy.
- Cậu có dự định gì cho sau này không?
Nghe tôi hỏi thế, Vương Hâm thần người ra. Nhưng chỉ thoáng qua một chốc rồi cậu ta ý thức được rằng, xưng hô như thế chẳng qua là vì cậu ta nhỏ tuổi hơn tôi, Vương Hâm cười, lắc đầu không đáp.
Tôi vỗ vai cậu ta nói: “Tôi ghét phải nghe những chuyện quỷ quái này lắm, có lẽ đây là cách phục bút và người chủ trì công đạo trong việc phá vụ án ma quỷ cuối cùng cũng là một con ma. Mấy năm trước không phải em đã chết rồi sao? Lần trước ra khỏi nhà này tôi đã thấy một cái bia ghi tên em trên mộ phần rồi mà?”.
Nghe vậy, Vương Hâm cười, cậu ta nhất định bắt tôi thu dọn hành lý, đưa tôi ra khỏi nhà, sau khi chứng minh ngoài nhà không có bia của mình, cậu ta đưa tôi ra khỏi làng.
Chúng tôi chào tạm biệt, tôi rời khỏi ngôi làng. Ngôi làng khuất dần sau lưng, bỗng có người gọi to, tôi quay đầu lại, thấy Vương Hâm vẫy tay nói lớn: “Dân trong ngôi làng này còn cần chị giúp, không thể đi liền được!”.
Tôi gật đầu, trong lòng tôi thầm nguyện cầu cho Vương Hâm và dân chúng trong làng. Đường về thuận lợi hơn nhiều so với khi tới. Đến trưa, đường dưới chân đã thênh thang nhiều. Chắc không ai có thể tưởng tượng được trong ngôi làng khuất sau núi rừng đó lại ẩn giấu câu chuyện kinh thiên động địa kia. Câu nói trước khi rời khỏi thôn của Vương Hâm với tôi cứ vang vọng mãi trong tâm trí tôi. Trở về thành phố, tôi trực tiếp đến phỏng vấn trung tâm y tế vùng đó. Rốt cục có phải đại dịch đã được khống chế từ đầu nguồn nước? Dân làng đã thoát khỏi bệnh dịch thực sự chưa? Tất cả những điều đó cần được làm rõ.
Tư cách một nhà báo sẽ giúp ích rất nhiều cho những câu hỏi đó của tôi. Sau khi đưa thẻ nhà báo ra, tôi liền được gặp vị phụ trách của trung tâm y tế này - đó là một vị bác sĩ trạc lục tuần.
Bắt tay chào hỏi xong, tôi đi thẳng vào đề. Vị bác sĩ đó vừa kinh ngạc, vừa sợ, lặng thinh hồi lâu mới hỏi lại rằng: “Có phải hỏi làng Đỗ trong núi không?”.
Tôi trịnh trọng gật đầu, nhìn thẳng vào mặt ông ta cười nhạt: “Những gì ông lo lắng tôi đều đã rõ, là phóng viên… tôi nghĩ rằng, những vị bác sĩ, y tá bỏ đi lúc đó chính là đã nghĩ cho sự an nguy của dân làng trong các vùng lân cận. Sự việc đã qua hơn mười năm, tôi mong rằng, trạm phòng dịch sẽ một lần nữa ra tay thể hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để mang lại bình an cho dân làng chứ không phải muốn lật lại chuyện cũ”.
Vị bác sĩ già bảo người mang nước cho tôi rồi nói: “Việc tổ chức cho đội ngũ y, bác sĩ đến đó phải có chương trình tổ chức đàng hoàng, xin cô đến ngôi làng đó ở lại vài hôm trước đã”.
Câu trả lời tế nhị hàm súc, tôi đồng ý vài hôm nữa cùng đội ngũ y, bác sĩ đến làng đó vài hôm.
Ba hôm sau, tôi cùng đội ngũ y, bác sĩ trở lại ngôi làng đó. Khi ở lại trong trấn này tôi có bắt được cuộc điện thoại nhưng không ai lên tiếng, họ chỉ gọi cho tôi, tôi mới “a lô” thì họ liền ngắt máy. Tra lại thì đó là số điện thoại từ toà soạn của báo gọi đến, tôi đoán chắc đó là điện thoại của Thạnh Quân Mỹ.
Cô ta đã bình yên trở về tiếp tục công việc. Tôi cười nhạt, không biết cú điện này mang thông điệp gì. Phải chăng đó là sự sám hối không lời của cô ta khi để tôi ở lại ngôi làng đó một mình? Hay là cô ta muốn dò thăm tin tôi đã chết trong ngôi nhà tranh trong cái làng đó chưa?
Việc làm đó của cô ta tôi thấy quá ấu trĩ. Lòng đố kỵ không những hại người mà còn hại cả chính mình, không biết cô ta đang ngồi ở toà soạn có được yên tâm không, có áy náy lương tâm không?
Gạt hết những ý nghĩ vẩn vơ tôi tập trung vào công việc chuẩn bị cho chuyến đi này. Tôi dẫn cả đoàn y, bác sĩ trở lại ngôi làng, vừa đi được chẳng bao lâu, đã vào con đường mê cung trong núi, tôi cảm thấy mình đã quên đường vào làng. Cảnh vật xung quanh vẫn thế, vẫn chỉ là một cánh rừng u tịch, chỉ nghe tiếng chim rừng và dã thú kêu vang trong đêm tối.
- Này, người đồng hành, cô còn nhớ đường không? Xin đừng đùa với chúng tôi như thế nữa. Đi lòng vòng mãi trong núi rừng đã hơn bảy giờ đồng hồ, màn trời dần chuyển sang màu đen, đám y, bác sĩ không khỏi nghi ngờ. Vẫn là ngọn núi đó nhưng con đường giờ đây hoàn toàn không phải con đường ngày xưa nữa. Tôi cố nghĩ mãi vẫn không nhớ ra con đường vào làng. Ngôi làng thần bí đó đã ngăn chặn toàn bộ các ngõ vào làng.
Trong túi xách trên vai vẫn còn cuốn sổ viết bằng tay, nét chữ bút máy cứng cỏi, ngay hàng thẳng lối, đó là cuốn nhật ký công tác của Vương Kế hồi còn sống.
Một cơn gió cát bỗng nhiên ập đến, cuộn lên lớp lá vàng bay lả tả khắp mặt đất. Tôi lấy cuốn nhật ký ra, lúc này, chỉ có cuốn nhật ký mới chứng minh được rằng có một ngôi làng tên Đỗ trong vùng rừng núi này.
Thôn Đỗ nghĩa là cắt hết đường lui tới, nghĩa là ghen tị hiềm nghi nhau. Miệng tôi cứ lắp bắp mãi cái tên gọi của ngôi làng này, thoát ra khỏi trò chơi, Đào Tử chỉ thấy đầu óc đau buốt như búa bổ. Trò chơi “Sơn thôn” quả quá kinh người, khiến tâm lý Đào Tử rất lâu sau mới bình phục, vậy là cô đã ngồi bất động trong khoang xe quá lâu rồi!
Thoát ra đây nhanh lên thôi, phải thoát ra khỏi khoang xe vắng teo này!
Khi ý nghĩ đó chiếm hết toàn bộ tâm trí cô, cô vội vàng vặn khoá khởi động xe nhưng bất luận thế nào xe vẫn không nổ máy. Chiếc dây thắt an toàn như thít chặt lấy bụng khiến cô không thở được, cô có chút vội vàng căng thẳng, trong lúc tay chân hoảng loạn, bất ngờ nhìn vào kính chiếu hậu. Bỗng cô giật bắn người khiến thắt lưng an toàn cũng nhũn ra. Ngực cô đã bị túi hơi chống tai nạn đè lên, người cô run lên, không dám quay đầu lại vì trong thoáng chốc nhìn qua kính chiếu hậu cô thấy có thi thể của một người phụ nữ máu me be bét đầu tóc rối bời ngồi sau khoang xe.
Chẳng lẽ đây là người bạn đồng nghiệp cùng đi với cô trong chuyến thám hiểm ngôi làng vừa rồi, cô ấy đã chết trong lúc thi hành công việc sao?
Một hồi tiếng gõ cửa kính vang lên đều đặn, tiếng gõ như làm rữa nát tim Đào Tử và tất cả lòng dũng cảm cũng theo đó tiêu tán. Khi cô lảo đảo nghiêng người lại nhìn thì ra ngoài xe là cậu Hồ Tử - người bạn đồng nghiệp của cô, lúc đó cô mới thấy yên tâm một chút.
Cửa kính hạ xuống, Hồ Tử bảo: “Chị ạ, em đã thấy chị chơi trò chơi mới đó, chị không nên giấu nó đi. Nếu chị giấu riêng thì số mệnh chị sẽ gặp nhiều tai ương…”.
Việc đã đến nước này không thể giấu giếm thêm được nữa, cô mở cửa xe ra để Hồ Tử vào trong, cô nói với giọng đầy cảnh giác răn đe: “Nay có hối hận cũng vô dụng mà thôi, cậu phải trả lời thành thực câu hỏi của chị”.
Hồ Tử hỏi lại với vẻ mặt nghiêm túc: “Chuyện gì vậy?”.
“Trò chơi này chỉ một mình chị xem cũng đã quá đủ rồi, cậu nhất định không được xem thử đâu đấy!” Giọng nói của Đào Tử không chút đùa cợt, có vẻ quá nghiêm khắc nữa là khác. Nén sự kinh hoàng lại, cô thấy trò chơi có mang lời nguyền độc này chắc chắn có liên quan đến cái chết của Trịnh Dung Tân.
Yêu cái nghề phóng viên này quá nhưng chưa chắc nó đã mang lại thu nhập ổn định cho cô, sở dĩ cô theo đuổi nghề này là muốn tìm niềm vui khi chính mình bỏ công sức để vạch trần những sự việc xấu xa của kẻ khác. Nhưng Hồ Tử thì khác, cậu ta mới tốt nghiệp, tuyệt đối không nên để cậu ta rơi vào vũng xoáy luẩn quẩn nguy hiểm này.
Tiếng còi hú của xe cứu thương vào lúc nửa đêm nghe thật inh ỏi, xé toang màn đêm u tối và thanh vắng.
Một gã đàn ông gầy còm chỉ còn da bọc xương được các nhân viên y tá mang từ trong quán nét lên xe. Các nhân viên y tá kiểm tra sơ bộ, họ đều tỏ ra bất lực. Lúc đó, trên khuôn mặt đã chết của gã đàn ông chơi game vẫn lộ vẻ hứng thú, hắn hoàn toàn không ngờ rằng, giây phút cuối đời, nơi trút hơi thở cuối cùng để vĩnh biệt nhân thế là trò chơi trên quán net. Mỗi năm, số thanh thiếu niên chết do kiệt sức khi chơi game đã chiếm con số không thể xem thường được. Nhưng Trần Hoa - vị giám đốc tập đoàn phần mềm điện tử hoàn toàn không ngờ rằng, cái chết của gã đàn ông kia đã gây nhiều áp lực cho công ty ông đến thế, nhất là trò chơi “bảy ngôi làng ma”.
Trong vòng một tuần sau khi gã đàn ông kia chết, có vô số nhân chứng chứng minh anh ta chết trong khi chơi trò chơi “bảy ngôi làng ma” của tập đoàn phần mềm điện tử họ Trần. Điều đó, quả là một đòn chí mạng cho công ty nói chung và Trần Hoa nói riêng. Đôi mắt sắc bén như gai cây tật lê dưới gọng kính nạm vàng đang chăm chú theo dõi những sự kiện nóng hổi nổi trội tuần qua bình luận về cái chết của gã thanh niên và những trò chơi của tập đoàn sản xuất phần mềm của mình trên báo điện tử.
Là con cáo già lăn lộn dãi nắng dầm sương trên thương trường, gã họ Trần biết rõ rằng, những nhân chứng chứng minh cái chết của người thanh niên kia là do chơi trò chơi “bảy ngôi làng ma” chẳng qua là muốn nhân cơ hội để bôi nhọ nhằm làm giảm uy tín của trò chơi do công ty này sản xuất trên thị trường mà thôi. Nhưng khổ nỗi là thời gian trước đây, cái chết không rõ lý do của ông lập trình viên trưởng của công ty ông là Trịnh Dung Tân đã làm cho dư luận xôn xao đồng thời nhân thể mà họ đã nắm lấy quyền phát ngôn chiếm thế thượng phong, nhất thời Trần Hoa không biết xử lý thế nào. Cây cao thì hứng gió lớn, nội bộ lủng củng là cơ hội để các thế lực bên ngoài chọc ngoáy.
Trần Hoa biết rõ, đoàn luật sư hùng hậu của mình chỉ tìm được cái cớ nào đó để luồn lách pháp luật, nếu thông tin này được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng thì seri trò chơi “bảy ngôi làng ma” của công ty sẽ không còn tương lai gì sáng sủa nữa.
Phía toà án chất vấn vấn đề chất lượng của trò chơi này ngày càng gay gắt. Trần Hoa ăn không ngon ngủ không yên, tìm cách xoa dịu dư luận, vỗ về khách hàng, xem ra, ông ta sắp có hàng loạt biện pháp đối phó tích cực!
Khi đang chuẩn bị thoát ra khỏi mạng, một dòng chữ bình luận bỗng xuất hiện trước màn hình, khiến ông toát hết mồ hôi dù trời không nóng mấy. Dòng chữ gửi tới chỉ vẻn vẹn mấy câu: “Chúc mừng ông hát bài khải hoàn từ “bảy ngôi làng ma”!”
Nhìn lại tên người gửi tin này khiến Trần Hoa như bị dội nước sôi vào đầu - Tần Ca - vị lập trình viên đã đột ngột mất tích từ mười năm trước.
- Ai mà cứ đùa dai thế này nhỉ? Trần Hoa trầm giọng nói, rồi lập tức cầm ống nghe lên: “Tạ Phi à, cậu đến ngay phòng làm việc của tôi nhé!”
Lát sau, một người cao dong dỏng đến trước mặt Trần Hoa. Chưa đến tuổi ba mươi nhưng đã có bằng thạc sĩ tin học trong tay, vừa mới vào công ty, Tạ Phi đã được ông chủ tịch Trần Hoa để mắt, ông Hoa đã giao hết toàn bộ công việc mà vị lập trình viên Tần Ca đã đảm nhiệm trước đây cho Tạ Phi.
- Cậu kiểm tra mạng hộ tôi cái địa chỉ mang tên Tần Ca.
- Thưa vâng ạ. Nói xong, Tạ Phi liền lên mạng tìm cho ông chủ tịch. Nói ít làm nhiều là tác phong xưa nay của Tạ Phi.
- Đợi đã… đợi đã. Tôi còn nhờ cậu giúp cho một chuyện nữa.
Tạ Phi quay lại nói: “Xin ngài cứ nói đi ạ.”
* * *
Giữa trưa, các thư ký của phòng biên tập thường không muốn nghỉ. Tay cầm phần cơm hộp, Hồ Tử vừa ăn vừa lướt qua tin tức trên mạng, không muốn lãng phí một giây phút nào. Đại khái Hồ Tử lướt qua những tin vừa mới đăng cả những tin đã đăng nhưng chưa xoá… trong lúc vừa thấy chán thì cậu ta bị hấp dẫn bởi một tin có dung lượng khá lớn trong mạng với tiêu đề “Để tránh dị nghị, Trần Hoa phái một số người chơi phiên bản mới nhất của seri trò chơi ‘Sơn thôn’ ”
Tuy biết ông Hoa làm thế là để thử nghiệm tính an toàn của trò chơi mới này, nhưng Hồ Tử vẫn linh cảm có chuyện gì đó.
Anh ta nhìn về phía bàn làm việc không một bóng người rồi bất giác thở dài. Kể từ khi vào chơi trò “bảy ngôi làng ma” đến nay, chị đồng nghiệp cứ phát sốt cao sau khi trở về nhà, cứ lo được lo mất.
Xem ra, trò chơi khủng bố này cần phải bàn bạc kỹ trước đã.
Đăng nhập xong, Hồ Tử tìm được trang chính thức của tập đoàn phần mềm trò chơi Trần Hoa trên mạng. Sau khi vào trang này anh ta mới phát hiện trang chủ đã cho đăng tải những cảnh trong kỳ thử nghiệm trò chơi. Thời gian chơi thử là mười hai giờ trưa, chỉ còn ba phút nữa là có thể chơi thử. Nóng lòng chờ đợi, đến đúng mười hai giờ, quả nhiên phần mềm trò chơi đã được truy cập.
Trên màn hình, Hồ Tử thấy một thanh niên đang vào trò chơi dưới sự hướng dẫn của nhân viên nghiệp vụ, Hồ Tử biết ngay đó là cậu thanh niên đang chơi thử nghiệm.
Vào chỗ ngồi ổn định, chàng trai kích đúp vào biểu tượng trò chơi. Màn hình lập tức hiện ra cảnh tương ứng của trò chơi.
- Chúc bạn sớm hát khúc khải hoàn từ “bảy ngôi làng ma”.
Một âm thanh inh tai vang ra từ trong loa, quả thực âm thanh đó làm Hồ Tử giật mình, đáng sợ hơn là nội dung câu nói vừa rồi!
- Bảy ngôi làng ma? Lạ thực, không phải công ty này tuyên bố là chỉ cho ra đời thứ sáu trò chơi này thôi mà! Theo lô gich thì tại sao “ngôi làng thứ bảy” lại xuất hiện chiếm vị thế ưu tiên được?
Một ý niệm khác hình thành trong tâm trí Hồ Tử, anh ta có một dự cảm bất thường. Những biến cố đột ngột không làm dừng lại cuộc thí nghiệm được, những pha hình trong trò chơi vẫn cứ hiện ra. Tên tuổi người mạo hiểm: Tạ Phi
Giới tính: Nam
Hoá ra người này tên là Tạ Phi. Tim Hồ Tử như treo lên vòm miệng, dường như Hồ Tử cũng theo người chơi thử để tiến vào những cảnh tượng hãi hùng đang diễn ra trước mắt nhưng tương lai trong đó vẫn là ẩn số của “ngôi làng ma này”
Khi lựa chọn thân phận, hoàn cảnh xuất thân, Tạ Phi chọn “học sinh”. Lập tức một chiếc xe đưa đón đến trường màu xám xịt xuất hiện trước mặt, trong xe đầy những học sinh với đôi mắt vô cảm như những ông phỗng, đúng hơn là giống như những u hồn vừa thoát ra địa ngục, có thân nhưng không có tâm. Còn chiếc xe đó đỗ vào điểm cuối chính là một ngôi làng ma thẳm.
Dưới muôn vàn con mắt đang theo dõi, Tạ Phi như hoàn toàn bị khống chế bởi trò chơi, chốc chốc anh ta lại nhấn vào con chuột, mồm nói nhảm: “Tôi học chuyên ngành cơ giới nông lâm, đến năm thứ tư, trường đưa chúng tôi lên đây để thực tập”.
Màn hình vi tính cũng phát triển theo để phù hợp với tình tiết trong trò chơi, Tạ Phi như một người giải thuyết, thuật lại nội dung câu chuyện. Cậu ta tiếp:
Nhóm thực tập chúng tôi cả thảy hơn ba mươi người, vào một buổi sáng mùa xuân, dưới sự chỉ đạo của thầy mang họ Tần, chúng tôi đã đi về phía một ngôi làng thẳm sâu trong núi chưa hề có dấu chân người ngoài đặt đến. Cái hơi lạnh của mùa đông vẫn chưa tan hẳn, cảnh vật bên ngoài cứ thay đổi theo lăng kính di động của cửa sổ xe đưa đón học sinh, tất cả những sinh vật có sự sống và cả những vật không có sự sống đều có vẽ hao gầy tiều tuỵ đi nhiều vì cái khô khan của mùa đông. Tôi và người bạn gái Tiểu Nghệ ngồi dãy ghế sau cùng, cô ấy đã ngủ say trên vai tôi. Tiểu Thanh, cô bạn gái của một người bạn cùng đi trong chuyến này cũng ngủ từ bao giờ không hay. Tôi chau mày nhìn cái màu vàng ngày càng đậm nét bên cảnh vật ngoài cửa sổ, không biết trong suốt cả tháng tới chúng tôi sẽ sống thế nào, có điều gì vui buồn không! Chúng tôi đến ngôi làng ma - nơi chúng tôi thực tập ngay tối hôm đó, dân trong làng đã sắp chỗ ngủ cho chúng tôi. Vì nhà dân ở đây nhỏ, phòng riêng cũng nhỏ nên thiếu chỗ, chúng tôi phải chia nhau ra ở từng nhà, có nhóm phải đến trụ sở đầu làng để ngủ trọ. Sau một hồi bàn bạc, thầy Tần quyết định đưa tôi, Đại Kỳ, Tiểu Nghệ, Tiểu Thanh đến ở trụ sở đầu làng ngủ. Trụ sở nằm bên sườn núi nhỏ, có ba tầng, mỗi tầng có ba phòng. Trong phòng bày biện khá đơn giản, nhưng cũng may là phòng nào cũng có chiếc ti vi nhỏ. Tôi và Đại Kỳ mỗi người chọn một phòng ở tầng hai, ba phòng quay mặt về hướng nam.
Phòng ngủ quay mặt về hướng nam, nhưng trong phòng vẫn ẩm thấp, tôi và Tiểu Nghệ phải cắm máy sấy, rồi lấy áo quần làm chăn ngủ cho qua đêm.
Trưa ngày hôm sau có cuộc họp do trường sắp đặt thời gian, nên vừa sáng tinh mơ tôi đã dậy. Xếp dọn chăn màn xong xuống tầng hai thấy phòng của Đại Kỳ thì thấy cửa phòng mở toang. Nhìn vào trong, thấy hai người đang vịn cửa sổ xem gì không rõ.
- Này, các cậu không nhanh lên, cứ chần chừ mãi thì muộn đấy! Tôi vừa đi vào vừa nói.
- Lại đây, lại đây. Đại Kỳ vẫy vẫy tay gọi hai chúng tôi lại.
- Cậu xem sau núi có mồ mả này!
- Gì vậy? Tôi vừa đi vào vừa hỏi với thái độ rất hiếu kỳ.
Nhìn ra ngoài tôi thấy có nghĩa trang, màu xám xịt, cái màu in hệt như màu chiều mùa đông, điểm thêm cho cái vẻ hoang vu chết chóc của rừng núi.
- Có gì lạ đâu, ở nông thôn người ta thường thổ táng mà! Tiểu Nghệ đang đứng một bên nói.
- Không phải, hình như có mấy ngôi mộ nhằm ngay vào cửa sổ,… tự nhiên… tự nhiên… có cảm giác sao sao ấy! Đại Kỳ vừa nói vừa kéo rèm cửa sổ xuống, nói “đi thôi, chắc là họ đang đợi chúng ta đấy, vả lại, chúng ta ở xa nhất.”
Khi chúng tôi đến ủy ban dân sự của làng, mọi người đã đến đủ cả. Chủ đề của buổi họp hôm nay là làm thế nào để sắp xếp thoả đáng chỗ ăn ngủ và làm việc trong tháng thực tập tại đây. Đến chiều, người dân trong làng mời chúng tôi mỗi người chia ra về một hộ nông dân để trao đổi phương pháp trồng trọt lúa và hoa màu cũng như các biện pháp phòng trừ sâu bệnh… nói chung là những vấn đề liên quan đến nông lâm nghiệp.
Bốn người ở trụ sở chúng tôi thực tập theo thầy Tần, có lúc, ban ngày không có việc gì làm, chúng tôi thường đi dạo quanh làng hoặc ra đồng xem cảnh rừng núi ruộng vườn… ngày ngày cứ qua dần trong cái không khí của người nông thôn…
Một hôm, sau khi cơm tối xong, tôi về trụ sở làng rồi ngủ thiếp bao giờ không hay, Tiểu Nghệ đi chơi, thức dậy không thấy ai cả nên tôi đi tìm Đại Kỳ.
Gõ cửa mãi mới mở, tôi đang định hỏi Đại Kỳ làm gì thì thấy nó với Tiểu Thanh mặt xịu ra nhìn tôi, tôi cứ tưởng hai chúng nó cãi nhau, vừa mới mượn cớ rút lui thì Đại Kỳ nói: “Này, Tạ Phi, tôi hỏi cậu … tối hôm qua cậu có nghe tiếng khóc không?”
- Khóc? Tiếng khóc gì? Tôi thót tim lại hỏi.
Đại Kỳ nói nhỏ rằng: “hai giờ đêm hôm qua, hai chúng tôi đang ngủ thì bỗng nhiên tỉnh dậy, nghe bên ngoài có tiếng khóc hu hu. Mẹ kiếp! nó làm tôi sợ chết khiếp.”
Tôi chau mày lại nhìn ra bên ngoài cửa sổ, nơi mà tối hôm qua chúng nó bảo có người khóc nói: “Tôi nhát gan, hay sợ, cậu đừng doạ tôi, là thật hay giả?”
- Ai lừa cậu làm gì? Đại Kỳ nhìn thẳng vào tôi, Tiểu Thanh đang đứng bên cạnh cũng hướng ánh mắt vào tôi.
- Vậy... vậy... vậy ngoài kia có ai ở? Tôi nhìn đi nhìn lại cánh cửa phòng và bức tường…
Đại Kỳ bảo: “Hôm nay tôi xuống hỏi ông Mã dưới phòng thông tin, nhưng không nhắc đến chuyện hôm qua, sợ ông ta cho rằng chúng ta bịa đặt nhiều chuyện. Ông ta bảo, bên kia tường của phòng này là phòng chứa đồng hồ điện… bình thường, cánh cửa sắt đó đóng suốt, không có ai ra vào được.”
Lập tức tôig dựng hết gai ốc nói: “Trong đó không có ai, vậy tiếng khóc đó từ đâu ra? cậu… cậu xác định đó là tiếng khóc sao?”
Đại Kỳ nói: “Nói dối, nửa đêm canh ba, xung quanh lặng ngắt như tờ, nên vừa có tiếng khóc đã nghe rất rõ, nghe tiếng khóc thì đó là người con gái, chắc là cũng lớn tuổi rồi, trong tiếng khóc nghe rất buồn thảm.”
Tôi nghe thì ấp úng nói: “Vậy chúng ta phải làm thế nào, có cần gọi ông Mã lên để kiểm chứng không?
Đại Kỳ nghe tôi nói lắc đầu bảo: “Thôi được rồi, thôi được rồi, muộn thế rồi còn xem gì, nếu trong đó có người thật thì sợ quá?”
Cậu ta vừa dứt lời, cái cảm giác sợ hãi đã tràn ngập bủa vây lấy tôi. Tôi cắn răng mím môi hỏi: “Vậy tối nay các cậu định thế nào?”
- Còn thế nào được nữa, đành phải ngủ đây thôi chứ biết làm sao bây giờ?
- Vậy thì tôi cứ để điện thoại, có chuyện gì gọi cho tôi nhé.
Khi ra về tôi nhìn căn phòng đựng đồng hồ điện kia, chỉ thấy chiếc khoá sắt nằm ngang trên then cửa đã han rỉ, cửa đóng cứng chặt.
Trở về phòng chưa được bao lâu, Tiểu Nghệ đã trở về. Tôi ngại cô ta sợ nên không kể lại với cô ấy, nên chỉ xem ti vi với vẻ trầm tĩnh. Cô ta cởi giày ra rồi lăn ra giường cùng xem ti vi với tôi. Đột nhiên cô ta quay đầu lại nói: “À đúng rồi, khi vừa lên phòng tôi ngửi có mùi gì lạ, cậu có ngửi thấy gì không?”
- Không ngửi thấy mùi gì! Cô ngửi thấy mùi gì vậy?
- Trong phòng này hình như có mùi gì đó, giống như là mùi chuột chết!
- Không có đâu, trong cả ngôi lầu này có chỗ nào ùn đống hay có rác rưỡi gì đâu? Làm sao có chuột chết được? Hơn nữa mùa lạnh thế này làm sao có chuột?
- Cô ta ngắt lời tôi nói: “Không, không tôi chưa nói hết, không những có mùi là lạ mà sau khi đi vài bước thì không thấy mùi đó nữa.”
- Đột nhiên không ngửi thấy mùi lạ đó nữa, cô nói thế nghĩa là sao?
- Khi tôi đi xuống tầng hai, bỗng ngửi thấy có mùi lạ, tôi đang tìm xem mùi thối ở đâu, lúc đó tự nhiên có người đến…
- Có người? Ai vậy?
- Tôi không biết, xem cách ăn mặc đoán chắc cô ta là người làm ruộng, cô ta không nhìn thẳng vào tôi chỉ thoáng qua bên tôi, một cái, rồi xuống lầu.
- Là người trong vùng này à, có phải mùi toả ra từ người cô ta?
- Hình như không phải, vì khi cô ta đến gần tôi thì mùi thối đó không còn thấy nữa…
- Cậu có thấy lạ không?
- Lúc đó tôi không thấy gì là lạ cả, nhưng nghĩ lại càng lúc càng thấy vô lý! Được rồi… được rồi không nói chuyện này nữa, cậu đấy, cậu làm tôi sợ rồi này.
Trong đầu tôi bỗng hiện ra một bóng đen, đồng thời tôi tưởng tượng ra hình dáng của người đó, không nói gì thêm nữa.
Cầm điện thoại xem lại đã hơn mười giờ, còn lâu mới đến cái giờ nghe người khóc mà Đại Kỳ nói. Hôm nay, điện thoại của tôi không được khoá, tôi dự cảm có chuyện gì đó sắp xảy ra.
Điện thoại đổ chuông mãi, nhưng từ lâu tôi đã không còn để ý đến nó nữa, mà tôi lại nghĩ đi nghĩ lại cái mùi thối mà Tiểu Nghệ vừa nói, đồng thời thỉnh thoảng cứ nhìn điện thoại. Tiểu Nghệ co rúm người lại trong chăn, không biết vì lạnh hay là vì cô ta sợ.
Lúc đó, tôi như sực nhớ chuyện gì, quay đầu hỏi cô ta: “Đúng rồi, cô bảo người đó đi từ tầng mấy xuống?
- Ai cơ?
- Chính là người mà cô gặp trên lầu ấy.
- Tầng hai.
- Chỗ nào của tầng hai? Là mặt nào của phòng Đại Kỳ ở?
- Góc đó… góc đó… tôi cũng không nhớ rõ.
- Có phải góc tường phía đông không? Có phải góc để ti vi không?
- Tôi cũng không nhớ ti vi đặt ở góc nào nữa. Cậu hỏi làm gì vậy?
- Ừ, không có chuyện gì. Tôi sợ cô ta hoảng, nên không dám nói.
Ti vi chỉ bắt được vài sóng linh tinh, không có tiết mục nào hay cả. Tôi cầm điện thoại lên xem, hơn mười một giờ đêm. Tôi đặt điện thoại trên đầu giường, tắt đèn, rồi trở lại giường tối om, hai mắt nhắm lại nhưng không ngủ được.
Tôi biết mình đang đợi điện thoại, nhưng thực lòng mà nói, tôi sợ phải nghe cuộc điện thoại này.
Không biết đã qua mấy giờ, Tiểu Nghệ đã ngủ say, tiếng thở yên tĩnh chầm chậm, nhưng trong lòng tôi nhịp tim cứ liên hồi. Tôi lại bật điện thoại lên xem, đúng mười hai giờ.
Trong đêm tối, cứ đợi mãi nhưng điện thoại vẫn không động tĩnh gì, tôi không nhịn được nữa. Quay đầu lại nhìn Tiểu Nghệ, cô ta đang ngủ say.
Tôi mò mẫm đi, lấy điện thoại soi đường, lón nhón xuống giường. Gần đến cửa, bỗng có điện thoại của Đại Kỳ gọi đến.
- A lô, ngủ chưa? thế nào rồi, tôi hỏi.
- Chưa, không có gì cả.
- Thế thì tốt, vậy chúng ta ngủ đi nhé.
- Nói đi, thần kinh tôi sắp căng đứt ra đây này, cậu gọi điện cho tôi làm gì vậy?
- Ha Ha… đừng sợ bóng sợ gió nữa, thế thì tôi ngủ đây, cậu cũng ngủ ngon nhé.
- Ừ.
Tôi ngắt điện thoại, nằm xuống chuẩn bị ngủ. Nào ngờ vừa mới nhắm mắt chưa được mấy phút, chiếc điện thoại bên tai bỗng đổ chuông “ti ti ti….”. Tôi ngồi bật dậy, lật nắp điện thoại ra xem. Thì ra Đại Kỳ đang gọi.
Trấn tĩnh một lúc, tôi bật nút nghe. Chỉ nghe trong điện thoại tiếng gió, hình như Đại Kỳ sợ quá nên không nói được.
- Sao rồi? Tôi hoảng quá.
- Cậu đừng nói nữa. Lắng nghe đi, lắng nghe trong điện thoại đi.
Tôi liền im bặt, đặt loa điện thoại sát tai, chỉ nghe thấy tiếng xào xào nho nhỏ, hình như đó là tín hiệu không nghe rõ vậy, ngoài ra không nghe thấy gì nữa. Vừa toan hỏi thì bỗng “a” tiếng khóc của một người phụ nữ vang đến, tiếng khóc như đâm vào màng nhĩ tôi.
Không chịu được, tôi lắp bắp mấy tiếng, trong lúc tôi nói, tôi nhìn sang một bên trong vô thức, thấy Tiểu Nghệ cũng thức tỉnh từ lúc nào không hay, cô ta đang sững sờ nhìn tôi.
Tôi trấn tĩnh lại, vừa nhìn Tiểu Nghệ đang thần người ra vừa nói: “Sao rồi, sao rồi?”
Chỉ nghe tiếng lắp bắp bên kia đầu dây của Đại Kỳ, hình như cậu ta đang an ủi Tiểu Thanh đừng sợ… nhưng trong điện thoại vẫn còn nghe thấy tiếng gì đó từ xa nữa… có tiếng ồn nhưng không nghe rõ là gì. Thế là tôi bảo Đại Kỳ: “A lô, a lô, nói đi chứ, nói đi chứ!”
Lúc đó, Tiểu Nghệ cũng tỉnh giấc đến bên tôi, mở mắt tròn xoe hỏi: “Sao thế? Sao thế?”. Tôi vẫy vẫy tay ra hiệu cho cô ta im lặng, rồi nói: “A lô! A lô”. Bên kia điện thoại trả lời, nghe giọng Đại Kỳ run run nói: “Lại… đến… rồi... cậu nhanh xuống đây đi, cô ta đang ở cửa phòng tôi”.
Tôi cảm giác như có một trái tim sắp vọt ra khỏi miệng, nghẹn ở cổ họng không nói được. Xuống đó ư? Như vậy không phải tự tìm cái chết sao?
Lúc đó, cả hai đầu điện thoại không ai nói gì thêm nữa, vừa đờ ra được lát, bên kia Đại Kỳ hét lớn: “Cậu nghe đi, cậu nghe đi, có nghe rõ không?”
Thực ra, ngoài tiếng thở hổn hển của cậu ta ra, tôi không nghe thấy gì nữa cả. Nhưng tôi thấp thoáng nghe thấy tiếng gì xì xào, như có cái gì đó đang từ từ đi từ lầu hai lên lầu ba.
- Không nghe thấy gì cả.
Tôi bỗng nghe “ực” một tiếng giống như cậu ta vừa nuốt vật gì rất to trong cổ họng.
- “Hết rồi, hết rồi, tiếng khóc đó đã hết rồi.” Đột nhiên Đại Kỳ nói được một câu suôn sẻ như thế. Trong não bộ, mỗi một tấc dây thần kinh đều căng muốn đứt, thực ra không phải tôi nghe thế mà chỉ là sự tưởng tượng của tôi, trong đầu tôi bây giờ đầy ảo tưởng.
- Giờ cậu có thể xuống đây không? Đại Kỳ hỏi tôi.
- Bây… bây giờ ấy à. Tôi nghiến chặt răng lại không biết nói gì, quả thực chúng tôi là anh em tốt của nhau, nhưng bây giờ mà cậu ta yêu cầu thế thì quá đáng quá.
- “Cậu xuống đây đi.” Giọng nói của Đại Kỳ đáng thương quá, không giống như giọng nói thường ngày của cậu ta nữa. Tôi nghiến chặt răng, liếc xem cánh cửa phòng, nhưng mông tôi như có ai ghim đinh xuống giường, không thể đứng dậy, sau lưng từng trận từng trận tê cứng.
- Tôi không dám xuống đó, tôi quả thực không dám xuống đó, các cậu lên đây đi.
- “Hai chúng tôi không dám… ra cửa.” Cậu ta nói trong tiếng khóc.
Tôi cũng không dám, thực lòng tôi rất sợ. Tôi cảm thấy không khí lúc này như đông lại. Tiểu Nghệ đứng cạnh tôi nói: “Rốt cục có chuyện gì vậy, cậu nói nhanh đi”.
Tôi biết không thể tiếp tục giấu cô ta được nữa, “dưới đó có người khóc” vừa nói xong, cô ta “ái” một tiếng rồi lấy chăn trùm kín đầu lại, không dám đi ra cửa. Tôi nói qua điện thoại cho Đại Kỳ nghe: “Không được, không thể được, chúng tôi không dám xuống đó, đúng rồi, cậu gọi điện cho ông Mã dưới lầu đi.”
Cậu ta vội vàng đáp: “Được… được… được! Tôi quên mất, cậu đợi điện thoại tôi nhé. Ông ta lên đến đây tôi lại gọi cho cậu”.
Tôi ném điện thoại xuống như ném quả lựu đạn, hai tay xoa mạnh với nhau cho đỡ tê lạnh. Tiểu Nghệ chui đầu ra khỏi chăn, giương mắt nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau không nói được gì.
Lúc đó, tôi nghe dưới lầu có tiếng “Bùng! Bùng! Bùng” như tiếng ai đang chạy trên cầu thang, còn cả tiếng mở cửa, trong đêm tối đầy căng thẳng, tôi nghe như bốn bức tường đang rung động nhẹ.
Lúc đó, tôi nghĩ là tiếng bước chân người từ dưới lầu lên mạnh quá nên như thế, cũng tại Đại Kỳ không chịu xuống lầu mà lại gọi người ta…
Một lúc sau, tiếng ồn đã hết, điện thoại tôi lại đỗ chuông, là Đại Kỳ gọi cho tôi. Cậu ta nói lớn: “Xuống đây đi, xuống đây đi, có người đến rồi”.
Tôi vội vàng mặc thêm áo chuẩn bị xuống lầu, Tiểu Nghệ không dám ở lại một mình trong phòng thế là cô ta cũng theo tôi.
Cầu thang không có điện, tối om không thấy gì cả. Hai chúng tôi lần mò trong đêm xuống tầng hai theo ký ức chứ không thấy đường mà đi.
Ai ngờ vừa đi mấy bước, thì ngửi thấy mùi xác thối.
“Chính là mùi thối này đấy, mùi thối này tôi thấy quen quá” Tiểu Nghệ nói thét lên rồi ôm chặt lấy tôi.
Tôi sợ đến nỗi không dám bước tiếp, dừng lại thì không ngửi thấy mùi thối đó nữa. Tôi mơ hồ cảm thấy có gì đó đang vật vờ trước mặt, nhưng không nhìn rõ, tôi ý thức rằng không thể đứng đây lâu được, nắm chặt lấy tay Tiểu Nghệ tiếp tục đi, trong lúc đi, tôi cố dậm chân để lấy can đảm. Cả hai chúng tôi ngoặt qua một ngã rẽ, tiến đến phòng Đại Kỳ, đèn trong phòng cậu ta vẫn còn sáng, lúc đó tôi mới thấy một người đang khom lưng ngồi ngoài cửa phòng. Tôi đang sợ đến thừ cả người thì bỗng người đó quay mặt lại nhìn tôi, khuôn mặt đen ngòm. Tôi định thần nhìn kỹ thì ra là ông Mã. Lúc đó tôi mới nhẹ cả người, đi mạnh mấy bước tiến đến gần, hoá ra ông ta đang lom khom lục lọi cái gì đó trước phòng đồng hồ điện.
Tôi và Tiểu Nghệ đến trước cửa phòng Đại Kỳ, mới phát hiện thấy cửa bên ngoài nơi vào phòng đựng đồng hồ điện vẫn đóng im ỉm, nhưng bên trong chiếc tấm cửa bằng gỗ đã mở từ bao giờ, Đại Kỳ và Tiểu Thanh đang theo dõi ông Mã phía bên kia cửa sắt, không nói chẳng rằng, thấy tôi đến, mới vội vàng ra mở cửa mời chúng tôi vào phòng rồi nói với ông Mã: “Ông Mã ạ, ông có thể cho thêm vài người đến đây được không?”
Ông Mã nói: “Thường thì chỉ có một mình tôi ở đây” Rồi ông không nói gì thêm, chỉ lấy chùm chìa khoá trong người ra, trong chìa khoá đủ các cỡ, ông ta cúi đầu mở cửa.
Đại Kỳ khép cánh cửa sắt bên ngoài lại, tôi và cậu ta đứng ở mép cửa nhìn ra ngoài. Lúc đó, Tiểu Nghệ đứng sau lưng tôi lấy tay chọc eo tôi nói nhỏ: “Này này… không còn ngửi thấy mùi thối đó nữa”
- Ừ, tôi lại hít hơi, không thấy mùi gì cả.
Lúc đó, Đại Kỳ quay đầu lại hỏi chúng tôi: “Mùi gì? Hai cậu nói mùi gì?”
- Hôm nay, Tiểu Nghệ lên lầu thì ngửi thấy mùi thối gì là lạ, vừa nãy, lúc xuống lầu chúng tôi lại ngửi thấy mùi thối đó.
- Mùi thối? Mùi gì thối? Đại Kỳ giương mắt hỏi.
- Mùi thối gì không biết, hình như có… nói không chừng… thoắt một cái đã không ngửi thấy mùi gì nữa cả.
Đại Kỳ không nói gì nữa, hình như đang nghĩ gì. Tôi thấy lòng mình xáo trộn lên khi Đại Kỳ hỏi đến chuyện này. Hình như những chuyện kỳ quái này có liên quan với nhau, nhưng nhất thời không biết chúng liên quan như thế nào.
Lúc đó, ông Mã lấy chiếc chìa khoá để riêng biệt với các chùm chìa khoá khác rồi đi về phía phòng có chiếc cổng sắt.
Đúng là chìa khoá của phòng đó rồi, ông vặn nửa vòng, “tách” một tiếng, ổ khoá mở ra, trái tim tôi như đông cứng lại trong khi ông Mã mở cửa phòng này. Liếc mắt trông ông lão, hình như khuôn mặt ông trắng bệch.
Tôi hồi hộp đợi chờ hành động tiếp theo của ông lão, tôi tưởng tượng ông sẽ thét lên một tiếng, lùi lại mấy bước rồi tháo chạy như ma đuổi.
Nhưng chỉ thấy ông ta đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa, tách một tiếng, cánh cửa sắt mở ra.
Ông Mã có vẻ rất điềm tĩnh, ngồi xổm trước cửa nhìn vào trong, rồi quay đầu nói với chúng tôi: “Không có gì trong này cả”
- Không có gì cả ư?
Tôi và Đại Kỳ nhìn nhau, Đại Kỳ hơi do dự rồi nhẹ nhẹ đẩy cửa, hai chúng tôi cùng nhau đi vào. Cánh cửa sắt đã mở toang ra, ánh đèn cầu thang soi vào tận bên trong căn phòng, căn phòng nhỏ cỏn con, ngoài chiếc hộp đựng đồng hồ điện ra thì chẳng có gì, căn phòng rộng khoảng hai đến ba mét vuông gì thôi. Trên hộp đựng đồng hồ điện một lớp bụi dày phủ lên như một bằng chứng thời gian, hoàn toàn không phát hiện gì thêm.
Tôi như trút được gánh nặng, nói với hai người bạn nữ đứng trước cửa rằng: “được rồi, không việc gì cả”
Ông Mã vẫy tay, rồi đóng chặt cửa lại nói với chúng tôi: “Không có chuyện gì cả, đi ngủ đi” Nói xong ông đi xuống, chẳng thấy gì nữa chỉ toàn là bóng đêm.
Cả bốn chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi nhìn Đại Kỳ, cậu ta nhớ lại lúc nãy, đưa tay bối rối gãi gãi đầu nói: “được rồi, không có chuyện gì cả, các cậu lên ngủ tiếp đi”
- “Ừ, các cậu cũng ngủ đi.” Nói xong tôi và Tiểu Nghệ lên lầu.
Cả tối hôm đó, chiếc điện thoại của tôi quả nhiên không đổ chuông nữa cũng chẳng ngửi thấy mùi gì nữa, đến lúc này chúng tôi mới cảm thấy hoàn toàn yên tâm. Sáng sớm hôm sau, tôi gọi điện cho Đại Kỳ ở tầng hai, nhưng cậu ta vẫn bảo suốt đêm qua không sao ngủ được.
Hôm nay, nhà trường tổ chức buổi giao lưu bàn về vấn đề các mặt hàng phụ nông sản, thế là cả bốn chúng tôi phải đi từ sáng tinh mơ. Đôi mắt Đại Kỳ đỏ ngầu vì đêm qua không ngủ được. Cậu ta vừa đi vừa ngáp: “các cậu nói xem chúng ta có nên nói với thầy phụ trách không?”
- Nói về chuyện gì?
- Chuyện ma làm lúc nửa đêm ấy.
- Chuyện ma làm cái quái gì chứ? Hôm qua cậu thấy cả rồi đấy, chẳng có cái khỉ gió gì cả!
- Vậy cậu nói tiếng khóc lúc nửa đêm là gì?
- Tôi nghĩ là cậu tưởng tượng ra đấy thôi. Trụ sở mà chúng ta đang trọ phía sau là rừng rậm, tiếng gió thổi vào lá cây xào xạc cậu cả nghĩ lại khéo tưởng tượng nên nghe thành tiếng khóc, thôi đừng nghĩ nhiều nữa….
Đại Kỳ không nói gì thêm, chắc là ít nhiều gì đó cũng bị tôi thuyết phục nên cũng cảm thấy yên tâm hơn.
Sau buổi giao lưu, tôi phát hiện không thấy Đại Kỳ và Tiểu Thanh đâu nữa, tôi và Tiểu Nghệ cho rằng hai chúng nó đã về trước nên cũng về theo. Đi đến dưới trụ sở, nhìn qua khe cửa sổ thấy ông Mã đang ngồi hút thuốc tẩu, mùi thuốc sặc cả phòng, trên đầu giường có đặt chiếc ghế dựa nhỏ, trên ghế có hộp trà thơm. Lúc đó, ông Mã cũng nhìn thấy chúng tôi, tôi nhìn ông cười, xem như cười cảm ơn tối hôm qua ông đã vất vả vì chúng tôi, ông Mã gật gật đầu ý nói, “Không sao đâu!”
Tôi và Tiểu Nghệ lên lầu, vừa đến tầng hai bỗng hình như có người phụ nữ nào đứng lấp ló ở góc cầu thang, mặc áo xanh, mái tóc rối bời điểm bạc, cô ta đang quay lưng lại với chúng tôi, đang cầm vải lau nền cầu thang, bên cạnh cô ta có chiếc thùng đựng rác bằng nhựa màu đỏ hồng.
- Cô ấy là ai? Tôi lắp bắp.
Tôi nhìn cô ta, định tiếp tục đi lên tầng ba thì ai ngờ Tiểu Nghệ nắm chặt lấy tay tôi. Tôi bị Tiểu Nghệ nắm chặt tay thì đột nhiên dừng lại. Tôi quay đầu nhìn Tiểu Nghệ, không biết cô ta đang nghĩ gì, chỉ thấy cô đang mím chặt môi, nhìn chằm chằm vào bóng người đó.
- Sao rồi? Tôi quay mặt về phía Tiểu Nghệ mấp máp môi nhưng không nói gì.
Tiểu Nghệ lắc đầu hoảng hốt, dáng vẻ căng thẳng, nhưng không nói gì.
Phía rẽ ngoặt lên tầng ba chỉ có ba chúng tôi, không biết cô ta có biết được hai chúng tôi xuất hiện không, chắc là cô ta không biết có chúng tôi nên cứ một mực lau lui lau tới sàn nhà…
Tôi linh cảm thấy có điều gì đó bất ổn, nhưng không dám nói bừa, trong lúc tinh thần hoảng loạn, tôi đưa tay chỉ về phía cửa của Đại Kỳ ra ý với Tiểu Nghệ rằng, chúng ta nên đi tìm Đại Kỳ và Tiểu Thanh. Tiểu Nghệ vẫy tay trong hoảng loạn rồi dùng sức đẩy tôi tiếp tục đi lên tầng ba, vừa đi vừa chỉ xuống chân tôi ý nói tôi nên đi nhẹ tiếng một chút. Hai chúng tôi nắm chặt tay nhau từng bước nhè nhẹ lên lầu, không dám để phát ra tiếng động nào, đồng thời thỉnh thoảng liếc nhìn bóng người đó có lên theo chúng tôi không. Nhưng hình như cô ta không có động tĩnh gì, cứ xoay lưng lại với chúng tôi nên chúng tôi không nhìn rõ mặt người đó. Khó khăn lắm chúng tôi mới lên đến tầng ba, tôi hết sức nhẹ nhàng mở cửa ra, rồi cả hai lẻn vào phòng như hai tên trộm.
Vào phòng rồi tôi mới thấy trán mình đầy mồ hôi, trong lòng cứ thấp tha thấp thỏm. Tôi vội hỏi Tiểu Nghệ: “Người phụ nữ kia rốt cục là ai? có chuyện gì?”
Tiểu Nghệ trả lời trong lúc hồn lìa khỏi xác: “người mà tôi thấy hôm trước chính là bà ta”.
- Hôm nào? Tôi hỏi vặn lại.
- Chính là người mà hôm tôi ngửi thấy mùi xác thối ấy, chính hôm ấy bà ta đã đi ngược xuống trong khi tôi đi lên. Tiểu Nghệ nhìn tôi đáp khẽ.
- Cậu nói là người có mùi thối phát ra? tại sao vừa rồi chúng ta chẳng ngửi thấy mùi gì cả?
- Không biết, không biết, cậu đóng cửa nhanh lên đi.
Tiểu Nghệ hoảng hốt đi đến gần cửa khoá cửa lại.
Lúc đó tôi chưa hết cơn bàng hoàng, ngồi lên giường mà người cứ ớn lạnh từng cơn. “Vậy con mụ chết tiệt kia rốt cục là người hay ma?”
Mấy hôm trước sao không thấy? Còn mùi thối kia liệu có liên quan gì đến cô ta không?
Trong đầu tôi cứ tua đi tua lại cảnh tượng vừa trông thấy ở chân cầu thang lúc nãy, nhớ lại vóc dáng cô ta - Bà ta không cao, nhìn từ sau cũng biết cô ta có nước da đen đen, đầu tóc đã bạc quá nửa, chắc là tuổi cũng đã khá cao….
Lúc đó, tôi nhớ lại câu nói của Đại Kỳ, cậu ta nói, tiếng khóc lúc nửa đêm là tiếng khóc của một người phụ nữ, nghe giọng khóc đoán chắc tuổi bà ấy cũng khá lớn.
“Tuổi bà ấy khá lớn…”
Tôi nhẩm đi nhẩm lại câu nói ấy của Đại Kỳ, rồi tưởng tượng vóc dáng của bà ta, không nhịn được mồm cứ lắp bắp. Trong lúc suy nghĩ, bỗng một cảm giác cứ rõ ràng dần trong đầu tôi - có thể là gặp phải ma quỷ rồi đây!
* * *
Hai hôm nay quả thực rất khó chịu, không phải là không có việc làm mà là làm việc gì cũng không chú tâm được. Nửa đêm, gió cứ thổi xào xạc vào rừng lá bạt ngàn, chốc chốc lại ập đến cửa kính “vù vù”, chiếc ti vi cứ nói một mình trong góc nhà, thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng gì kỳ quái ngoài kia rừng núi, tôi cứ dỏng tai lên để nghe mà phân biệt đó là âm thanh gì, trong lồng ngực tim như bị tra tấn muốn vỡ tung ra. Tiểu Nghệ từ lâu đã cởi áo ngoài nằm lăn ra giường cầm mấy tờ tạp chí mang theo đọc đi đọc lại, chốc chốc lại thở dài, qua đó cũng thấy được sự bất an đang ngự trị trong tâm hồn cô. Thời gian lặng lẽ trôi qua từng giây phút, nhoáng một cái đã đến nửa đêm.Tôi xuống giường, tắt chiếc di động đang đổ chuông, trong căn phòng bỗng nhiên yên tĩnh hẳn. Không biết đang nghĩ điều gì, tôi đi đến bên cửa sổ kiểm tra lại các cửa, thấy cửa nào cũng đã khoá chặt, kiểm tra lần nữa thấy đã hoàn toàn yên tâm mới tắt đèn ngủ, lao lên giường.
Tôi nắm chặt tay Tiểu Nghệ, cả hai đều chui vào chăn chỉ chừa đầu mặt, chiếc máy sưởi vẫn chạy đều dều, nhưng sau lưng vẫn thấy từng cơn ớn lạnh. Lúc đó, tinh thần đã bình tĩnh trở lại, tôi lấy điện thoại ra gọi cho Đại Kỳ. Chuông đổ hồi lâu mới có người nghe, tôi mới yên tâm hơn.
- A lô, hôm nay không có việc gì chứ?
- Không sao cả, bọn tớ hôm nay không ở trụ sở nữa.
- Trời, muộn thế mà các cậu còn đi đâu?
- Lúc chiều, bọn tớ đánh tú với mọi người, đánh mãi đến lúc nãy mới nghỉ, bây giờ bọn tớ không dám đi đêm nữa đâu, thôi tối nay bọn tớ ngủ lại đây. À quên! Cậu có biết mai là Tết thanh minh không? đợi qua tết Thanh minh bọn tớ mới về trụ sở…
- Tiết thanh minh?
- Đúng rồi, mai là ngày tết thanh minh, bọn tớ thấy tầng hai của trụ sở đó có vấn đề nên mai chưa chắc bọn tớ đã về đó ngủ, các cậu xem có nên chuyển về làng ngủ không?
Tôi nghe chúng nó nói mấy câu mà phát hoảng, không muốn nói thêm gì nữa. Tôi vội vàng tắt điện thoại.
- Tiết thanh minh? Hôm nào nhỉ? Tiểu Nghệ vứt quyển tạp chí xuống hỏi.
- Còn sớm mà, cậu ngủ đi. Tôi lẩm bẩm trong mồm mấy câu rồi đưa tay tắt điện.
Nội dung cuộc điện thoại vừa rồi có những thông tin khá bất ngờ. Trong đêm tối, tôi lén nhìn đồng hồ, đã hơn mười một giờ, còn nửa giờ nữa là đến tiết thanh minh. Mẹ kiếp, vừa mới đó mà đã qua hơn nửa giờ rồi!
Tôi lẳng lặng nằm xuống, trong đầu trống rỗng. Sau mười hai giờ có gì khác đâu? Tôi nghĩ bậy bạ mấy thứ…
Bây giờ, trong trụ sở này chỉ có mỗi tôi và Tiểu Nghệ… à còn ông Mã dưới lầu nữa chứ! Còn người phụ nữ kia rốt cục là ai, muốn gì, mai nhất định phải hỏi rõ ông Mã mới được.
Nghe nói gỗ cây đào có thể tránh được tà ma, không biết gỗ giường này làm bằng gỗ gì, tôi chuyển người vào sát vách tường hơn rồi nhắm mắt lại, cố gắng không suy nghĩ gì nữa, chỉ mong ngủ nhanh đi cho xong.
Tôi nghĩ bụng, dù có gặp ác mộng thì cũng an toàn hơn là thức mà nghĩ lung tung vì dù có là ác mộng thì cũng chỉ là mộng thôi, không thực.
Không biết tôi đã thiếp đi từ lúc nào, đến khi thức dậy thấy phía ngoài cửa sổ đã có ánh sáng.
Trời đã sáng nên tôi đánh thức cô Tiểu Nghệ đang ngủ say.
Sau một đêm sưởi căn phòng đã ấm hơn lên, những cơn run rẩy đêm qua đã như bóng sáng đom đóm ẩn mất khi bình minh ló dạng.
Buổi sáng của ngày trong thanh minh cũng chẳng có gì đặc biệt khác ngày thường, tôi thức dậy thấy trong lòng thư thái. Hôm nay trường không có tiết mục gì, cũng chẳng có việc gì làm, nên sau khi vệ sinh xong, tôi và Tiểu Nghệ đi ra ngoài chơi.
Cả tôi và Tiểu Nghệ cùng đi xuống lầu, khi đi chúng tôi không quên nhìn lại những chỗ mà tối hôm qua có bóng người xuất hiện, ở đâu cũng sáng choang, không thấy bóng dáng ai cả. Tôi thấy nhẹ cả lòng, hít một hơi thật sâu, cái mùi xác thối tối qua cũng đi đâu mất, chỉ còn lại hơi sương thanh tú của rừng núi lúc bình minh, cái không khí của thôn quê vào buổi sáng thật khoan khoái dễ chịu biết bao!
Chúng tôi xuống tầng một, vòng qua con đường trong sân trước mặt là đến cổng chính.
Nhưng vừa ra tới chỗ rẽ ngoặt, bỗng một đôi mắt rồi một khuôn mặt xuất hiện ngay trong tầm mắt tôi - quả nhiên là người phụ nữ tối hôm qua.
Ánh mắt bà ta cũng bình thường như bao ánh mắt người khác, nhưng có điều là trong ánh mắt ấy không quan tâm gì cảnh vật xung quanh, nói đúng hơn là coi như chúng tôi không tồn tại, cứ thế mà một tay xách thùng nước, tay kia cầm bàn chà, nếu tôi và Tỉểu Nghệ không nhanh thì tí nữa gặp trực diện bà ta. Chiếc bàn chà tí nữa thì quệt vào áo tôi, nhưng bà ta vội tránh ra nhường đường cho chúng tôi đi. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi mà bà ta đến gần, tôi nhìn thẳng vào mặt bà ta nhưng bà ta không nhìn tôi, đúng hơn là cố ý tránh tôi rồi cúi đầu đi. Tiểu Nghệ vội vàng kéo lấy tay tôi không cho tôi nhìn theo nữa. Khi chúng tôi đi đến phòng thông tin nơi ông Mã ở, tôi trộm ngoái đầu nhìn lại nhưng không thấy bóng dáng người kia đâu nữa. Nhìn qua khe cửa sổ, thấy ông Mã đang hút tẩu thuốc to đùng, thỉnh thoảng nâng cốc trà nóng lên “chít” một hơi thật dài.
Tôi đưa mắt ra hiệu cho Tiểu Nghệ, rồi cả hai chúng tôi định thần lại đi vào phòng ông Mã.
- Chào ông, ông dậy sớm thế à?
- Ừ. Ông Mã quay đầu lại nhìn chúng tôi rồi cười khà nói: “gác cổng làm sao ngủ ngon được?”
- Ông làm việc ở đây được bao lâu rồi?
- Nửa năm rồi.
- Thế ạ, đúng rồi, vừa rồi chúng cháu thấy có một người lên lầu, bà ta là…
- Bà ấy dọn vệ sinh ở đây. Ông lão không đợi tôi hỏi hết câu, cắt ngang trả lời.
- Thế à! Tôi gật gật đầu… thấy hơi yên tâm, lại hỏi tiếp: “hình như bà ấy ít nói quá!...”
- Ừ. Nói xong ông Mã cầm tẩu thuốc lên rít một hơi, hình như ông không muốn nói gì nhiều về chuyện này.
Tôi biết đến giờ mình phải đi thôi, đứng dậy chào ông Mã rồi cùng Tiểu Nghệ ra cổng.
Vài bước chúng tôi đã ra khỏi cổng trụ sở, cổng lầu được lợp bằng tôn nhựa hình sóng gợn, màu xanh khá trong suốt, ánh sáng có thể soi qua được, lúc đó tôi mới phát hiện trên tấm lợp có cả một lớp đen kịt hai bên rìa chìa ra hai vật gì không rõ….
Tiểu Nghệ cũng phát hiện như tôi, chúng tôi ngẩng đầu vừa xem vừa đi, thấy đó có vật gì lông lá dày đặc, màu đỏ thẫm, dài khoảng hơn nửa thước, rũ xuống từ hai bên mái che.
Tôi giương mắt lên nhìn, nó giống như cánh tay vậy.
- Nó giống cái gì? Tiểu Nghệ vừa nhìn vừa hỏi.
Tôi lắc đầu, trước đây, ở đây không có vật này treo lơ lửng như thế, tôi thấy sự việc có chút rườm rà... Tôi đi gọi ông Mã lại, tôi quay đầu đi vào.
Một lát sau, ông Mã cầm cây gậy tre đến.
- Trên kia kìa, tôi chỉ cho ông lão thấy.
Ông Mã ngậm tẩu thuốc trong miệng, nheo mắt lại nhìn, rồi đưa cây gậy trúc lên khèo từ từ xuống. Vật đó không nhúc nhích cứ rơi dần theo cán tre của ông Mã.
Một lát sau, sự tưởng tượng của tôi đã được chứng minh, quả nhiên đó là một cánh tay, một cánh tay hoàn chỉnh lộ ra. Cánh tay dài khoảng một thước, rộng khoảng nửa thước, lông lá đầy như một chiếc quạt lông. Ông Mã không ngừng tay, chọc lấy phía dưới cẳng tay, rồi dùng sức kéo ra ngoài, chỉ thấy một túi đen rơi bịch xuống mặt đất. Tôi xông lên xem, không biết đó là trò gì?
Thấy một con chim lớn, hai cánh dang rộng, đầu cúi xuống không nhúc nhích, nó đã chết rồi!
Ông Mã cẩn thận dùng gậy banh đầu con chim ra, con chim vẫn nằm yên bất động. Ông Mã lấy gậy thọc vào dưới cánh, rồi lấy sức bật lên, cả mình con chim lật ngược ra… Lúc này tôi mới nhìn rõ hình dáng con chim, con chim quả rất quái dị, mặt tròn mỏ ngắn, trên đầu có chóp, hai mắt như hai viên bi cứ mở trừng trừng nhìn lên, không biết đang nhìn gì. Tôi vừa định hỏi ông Mã là chim gì, thì ông đã lập tức ném cây gậy xuống không nói năng gì cứ thế mà bỏ đi.
Tôi hiếu kỳ chạy theo ông lão hỏi: - Thưa ông, đấy là chim gì ạ?
Ông Mã quay đầu lại nhìn tôi rồi nhìn về phía sườn núi bên kia bảo nhỏ với tôi: “là cú đầu mèo”
Nói xong ông quay mặt đi tiếp.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chim cú mặt mèo. Tôi ngước mắt nhìn lại sườn núi, nhìn đến chỗ có màu xám xịt đó. Không biết đó là mộ của ai. Xung quanh ngôi mộ đó thấp thoáng có vật gì đang chuyển động, tôi định thần nhìn kỹ, thì ra trên đó có người đang đi lại. Đúng rồi, hôm nay là tiết thanh minh, người ta đi tảo mộ…
Lúc đó tôi vẫn chưa biết chim cú mèo xuất hiện sẽ dự báo điều gì, nhưng Tiểu Nghệ đứng cạnh tôi bỗng nhiên bóp chặt tay tôi, cô bắt đầu run lên.
- Cậu sao thế?
- Đó là con cú mèo. Tiểu Nghệ trả lời với vẻ đầy tâm sự.
- Cú mèo sao?
- Cậu còn không biết cú mèo báo hiệu điều gì à? Nó báo tang bất thường!
- Báo tang?
- Phải. Nhưng không biết chuyện này họ đồn có chính xác không, à quên, cậu gọi điện cho Đại Kỳ thử xem họ có chuyện gì không?
Tôi vội vội, vàng vàng lấy điện thoại ra, khi gọi đi tôi mới biết ý nghĩa của hai chữ “báo tang” thế là các ngón tay cứ bắt đầu run lên bần bật.
Đồng thời, tôi nhớ lại người phụ nữ dọn vệ sinh đó, mấy hôm nay không biết tại sao hình dáng của bà ta cứ dật dờ trước mặt tôi, tôi dự cảm rằng, ngoài vẻ bình yên bên ngoài ra, hình như có điều gì bất trắc trong đó…
Trong một thoáng, đầu óc tôi hỗn loạn khôn cùng, chỉ muốn gọi điện thoại là lập tức có người nghe máy ngay. Chuông đổ một hồi dài cũng có người nghe, may quá! Nhưng lạ thay, người bắt máy không nói gì, chỉ nghe thấy âm thanh náo loạn, có giọng nam, có giọng nữ cứ loạn xạ lên, làm tôi nhất thời không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi đang đợi bên kia nói, đột nhiên, không nghe thấy gì nữa, nhìn lại thời gian gọi chỉ chưa đầy năm giây.
Tôi vội vàng gọi lại, kết quả là bên kia đã tắt máy. Tôi đứng run người dưới ánh mặt trời buổi sáng, Tiểu Nghệ cũng đâm hoảng, hỏi: “Họ sao rồi? họ sao rồi?”
Tôi cứ lắc lắc đầu không nói gì, đúng hơn là không nói gì được.
- Tiểu Thanh không có điện thoại làm sao liên lạc được… cậu trở lại trong làng tìm họ, còn tớ ở lại đây xem thử rốt cục đã xảy ra chuyện gì.
- Cả hai người chúng ta đi, cậu ở lại đây làm gì?
- Cậu yên tâm đi, ban ngày ban mặt không sao đâu, tôi vào hỏi ông Mã xem có chuyện gì không đã, cậu đi trước đi, tìm cậu Đại Kỳ xem sao, nếu họ có chuyện gì thì toi cả bọn.
- Được rồi, được rồi. Tiểu Nghệ vội vàng đi.
Tôi cẩn thận đi vòng quanh con cú mèo, rồi vào lầu. Nhưng lúc đó, ở phòng thông tin không có ai cả, không biết ông Mã cũng đi đâu mất tiêu. Tôi vội lên tầng hai. Trong cầu thang và cả ngôi trụ sở ba tầng không có ai hết, tôi nhìn chung quanh, chỉ nhìn thoáng chứ không đủ gan nhìn lâu. Tôi lao nhanh như bay, nhoáng một cái đã đến cửa phòng Đại Kỳ. Tôi đảo mắt qua phòng đựng đồng hồ điện thoại và chiếc khoá cửa phòng đó, không chút động tĩnh, khoá chặt thin thít. Ánh sáng chiếu vào hành lang và cầu thang qua chiếc cửa sổ, khiến nền nhà lỗ chỗ lốm đốm, trắng đen, một sự yên tĩnh rùng người!
Có khi nào Đại Kỳ và Tiểu thanh đã trở về phòng rồi! có khi họ đang ngủ say trong phòng cũng nên, tôi cứ nghĩ như thế.
Vậy người dọn vệ sinh nhà ở đâu? Bà ta đi đâu rồi?
Tôi sờ lên ngực mình một cách vô thức, tim đang đập liên hồi như sắp bung ra khỏi lồng ngực. Lúc đó, một mùi thối ở đâu bỗng nhiên ập đến mũi tôi…
Sau lưng tôi bỗng lạnh toát, vội quay đầu lại… Thấy một con cú mèo nằm bệt trên đất gò thành một đống, một con mắt mở to nhìn chằm chằm vào tôi.
Hai chân tôi như nhũn lại, suýt nữa đã gục xuống nền nhà. Trong hành lang yên tĩnh quá, tôi nghe rõ từng nhịp tim, hơi thở của mình. Không biết tôi lấy đâu ra dũng khí, nghiến chặt răng lại, dẫm mạnh lên sàn nhà mấy bước tiến đến xác con cú mèo, quả nhiên không sai, con cú mèo đã chết, đã chết thực rồi. Nếu nó đã chết thật rồi thì làm sao lại bò lên đây được?
Trong lúc đó, tôi nghe thấy tiếng bước chân người vang vang ở tầng hai, lúc nghe rõ lúc không, hình như có tiếng gì chạm vào nền nhà, âm thanh đó càng lúc càng gần.
Máu trong người như dồn lên hết trên đầu, tôi thấy đầu mình như sắp nổ tung ra… Thụt lùi mấy bước, vừa để mắt đến xác con cú mèo vừa để ý đến nền nhà mà rút lui cho khỏi ngã, nhưng vừa lùi mấy bước thì vấp phải bệ cửa sổ - sau lưng là cuối hành lang, không còn đường lui nữa.
Tiếng xà xà của vật gì chà vào nền nhà càng lúc càng gần, tôi dán chặt mắt vào chỗ rẽ ở cầu thang, ban đầu thấy chiếc thùng nhựa màu đỏ lăn ra rồi tiếp theo là một người mặc áo xanh từ từ xuất hiện….
Đúng là người dọn vệ sinh đó rồi, bà ta mặc đồng phục của người làm vệ sinh công cộng… tôi nhìn thấy bà ta, bà ta cũng nhìn thấy tôi, trong chớp mắt, máu trên người tôi như đông lại.
Tôi dán chặt mắt lên bà ta, giả vờ ra vẻ bình tĩnh nhưng tay chân đã run lên bần bật, tôi đưa tay quờ quạng mò mò phía sau định nhặt vật gì đó ném cho người kia một cái. Khuôn mặt bà ta đen xám lại khô không khốc, đôi mắt không to không nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi, thần sắc trầm tĩnh rồi cúi đầu xuống đá chiếc thùng nhựa văng xa khoảng nửa mét, dọn cái xác thối con cú mèo trên nền nhà, bà ta cúi người xuống, tay trái nghiêng chiếc thùng xuống mặt đất, tay phải cầm chổi đẩy xác con chim vào thùng rồi đi về phía ngã rẽ nơi cầu thang. Động tác của bà ta quá nhanh khiến tôi vừa phản ứng nhìn xuống nền nhà thì không thấy xác chim cú mèo đâu nữa. Lúc đó, phía góc cầu thang có tiếng bước chân vọng lại. Khắp người tôi mồ hôi như tắm, lấy hết sức vuốt lại mặt mình, rồi lê bước đi nhưng lúc này hai tay hai chân đã không còn nghe lời hiệu lệnh của tôi nữa mà chúng cứ nhũn ra như bún.
Tôi tựa vào tường để người từ từ ngồi xuống, hơi thở hổn hển như sắp chết, một lúc lâu sau mới bình tĩnh đôi chút. Vừa rồi tôi như trải qua cơn ác mộng.
Xung quanh tôi không còn âm thanh gì nữa, tôi lấy sức chống tay xuống nền nhà đỡ lấy thân dậy. Chim cú mèo là chim báo tang, vậy người dọn vệ sinh kia rốt cục làm gì, bà ta muốn dùng con cú mèo để báo tang cho chính mình sao?
Càng nghĩ tôi càng hoang mang, vật vờ chạy xuống lầu, rất kỳ quái là không thấy người phụ nữ dọn vệ sinh ấy đâu nữa, nhìn lại phòng thông tin cũng chẳng thấy ông Mã đâu cả, tôi tháo chạy một mạch rra khỏi ngôi lầu. Trên đất không còn xác con cú đầu mèo kia nữa, tôi không được phép nghĩ nhiều, cứ thế lấy một hơi chạy tháo mạng về phía ngôi làng. Lúc đó, mặt trời đã lên cao, trong làng có nhiều người đến, có cả nam, nữ già trẻ, trong tay ai cũng mang theo chiếc làn tre. Tôi dừng lại nhìn về phía sau lưng, mới thấy tất cả bọn họ đang đi về phía sườn núi sau ngôi lầu, hình như họ đang đi tảo mộ nhân tiết thanh minh. Tôi cứ nhớ đến Đại Kỳ và Tiểu Thanh, không có thì giờ nhìn nhiều, cứ chạy mãi về phía trước, mặt mày mồ hôi nhễ nhại cứ chảy xuống cằm rồi xuống ngực…
Lúc đó chiếc di động lại tè tè đổ chuông. Tôi chạy chậm lại, vừa chạy vừa đưa tay rút điện thoại trong túi quần ra, thì ra là điện của Tiểu Nghệ.
- A lô! Tôi bật nút nghe ngay lập tức.
- A lô, Tạ Phi à, Đại Kỳ và Tiểu Thanh không sao cả, tôi đang ở với bọn họ, cậu đợi tí nhá.
- A lô, Tạ Phi à? Đại Kỳ nói, “tôi không sao, lúc sáng sớm, chiếc điện thoại của tôi hết pin, vừa mang ra thì tự động tắt…
- Cậu không sao là được rồi, các cậu đang ở đâu vậy?
- Cậu đến chỗ hôm qua giao lưu ấy, tôi đến đấy đón cậu.
- Ừ được rồi!
Mấy phút sau, tôi gặp Đại Kỳ và mọi người.
- Cậu không sao chứ? Đại Kỳ hỏi.
Tôi lắc lắc đầu đáp, “hôm nay hai chúng tôi cũng không về đó đâu, qua ngày hôm nay rồi tính sau vậy. Lát nữa tớ có chuyện muốn nói với cậu…”
- Tiểu Nghệ nói với bọn tớ cả rồi, đi đi, chúng ta trở về đó trước đã.
Tôi theo Đại Kỳ đến chỗ ở mới của cậu ta, Tiểu Nghệ và Tiểu Thanh đang đứng trong vườn, thấy chúng tôi đến, cả hai đều chạy ra đón. Tôi vẫy vẫy tay rồi ôm mọi người vào lòng.
- Có chuyện to rồi. Tôi nói với cả ba người bạn với tâm trạng nặng nề, “không biết con chim cú mèo đó đến báo tang cho ai trong mấy người chúng ta, còn nữa, bà dọn vệ sinh đó mấy hôm này cứ vật vờ trước mặt tôi hoài, không biết là có ý tốt muốn nhắc nhở chúng ta điều gì hay muốn uy hiếp chúng ta cũng không rõ…”
- Cậu nói cú mèo đến báo tang ư?… nó nhắm đến mấy người chúng ta à? Đại Kỳ hỏi.
- Tôi cũng mong sao là không phải như thế, nhưng… cậu cảm thấy thế nào?
Đại Kỳ không nói gì nữa, chỉ nhìn tôi, rồi quay đầu nhìn Tiểu Thanh và Tiểu Nghệ, mọi người đều kinh ngạc đứng thần người ra đấy.
- Nói chuyện này nhanh với thầy giáo thôi, không thể giấu mãi được! Nếu không xảy ra chuyện thì muộn mất. Tiểu Thanh nói.
- Vậy thầy giáo ở đâu, gọi điện cho thầy nhanh đi. Tiểu Nghệ nói.
Tôi vội vàng lấy điện thoại ra nhắn tin: “Thầy ạ, em là Tạ Phi, thầy đang ở đâu? Em có chuyện muốn nói trực tiếp với thầy”.
- Được rồi, trưa này đến đây nhé, nói xong thầy cho biết chỗ ở của thầy.
Mấy phút sau, bốn người chúng tôi đến chỗ ở của thầy Tần, khi chúng tôi đến, thầy Tần đang lấy nước giếng bằng con ròng rọc. Vừa thấy thầy, Đại Kỳ đã vội vàng đến trước mặt thầy nói như búa bổ “thưa thầy, có chuyện to rồi, có chuyện to rồi”
Thầy Tần không biết thực hư thế nào nhưng nghe Đại Kỳ nói cũng khiếp vía, buông gầu nước trong tay ra, gàu nước rơi tỏm xuống giếng “ùm” một tiếng. Thầy có chút không vui nhìn chung quanh rồi hỏi: “sao cứ hoảng hoảng hốt hốt thế kia?”
Tôi vội đi lên trước, kể hết đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, không ngờ chưa kể xong chuyện mặt thầy đã biến sắc hỏi:
- Là thật hay đùa vậy?
- Thưa thầy là thật đấy ạ. Bây giờ phải làm sao ạ? Tôi hỏi.
- Hôm nay các em không ai được đi cả, hãy ở lại đây với thầy, đợi đến ngày mai chúng ta đến đấy xem sao. Thầy Tần chau mày đáp.
Chúng tôi ai cũng vâng vâng dạ dạ đồng ý với ý kiến thầy Tần, có thầy Tần ở đây, chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn nhiều.
- Đúng rồi, chuyện này còn có ai biết nữa không? Thầy Tần hỏi.
- Ngoài ông Mã gác cổng thì không ai biết cả. Tôi đáp.
- Thế thì tốt, tạm thời các em không được kể chuyện này với bất cứ ai, nếu để các em khác biết cũng không được, các em đã rõ chưa? Thầy Tần nói
- Chúng em xin vâng ạ, chúng tôi vội vàng gật đầu xin nghe theo lời chỉ dặn của thầy.
Thế là cả ngày thanh minh bốn chúng tôi đều ở lại chỗ thầy Tần, chủ nhà này có mấy người phải dọn đến ở chung trong một căn phòng nhỏ để chừa chỗ cho chúng tôi trú ngụ mấy hôm. Đêm nay tuy vẫn còn sợ nhưng không nguy hiểm, phía đông dần sáng, thế là một ngày mới lại bắt đầu. Đợi đến khi trời sáng hẳn, chúng tôi mới ra vườn lấy nước, đun sôi rồi tắm rửa giặt giũ, sau đó chúng tôi ăn chút điểm tâm rồi cùng xuất phát.
Mặt trời đã lên cao, nhưng bên ngoài vẫn còn se lạnh, cây cối đầu xuân vẫn ươm mầm, trên thân cây trơ trụi lá có mấy cái túi ni lông mắc phải bay phất phới, mỗi khi có gió thổi đến các túi ni lông lại lạch tạch kêu lên.
Trên suốt dọc đường đi, thầy Tần hỏi chuyện chúng tôi mãi, điều đó đủ chứng minh rằng thầy cũng có chút căng thẳng. Băng qua mấy cánh đồng mới đến vườn trái cây kia, đến khu vườn chúng tôi đi men theo những con đường nhỏ, trụ sở của làng đã sừng sững trước mắt.
Xung quanh trụ sở rất yên tĩnh, không khí vẫn trầm lặng, hình như sau một đêm thiếu chỗ ngủ, chúng tôi thấy hụt cả hơi. Tôi ngoái mắt nhìn về ngọn núi nhỏ phía sau trụ sở, trên đó không còn bóng dáng ai nữa, những người đi tảo mộ hôm qua đã về hết cả, trên đó lặng ngắt như tờ, như không có dấu người, chỉ còn sót lại mấy đồng tiền địa phủ thỉnh thoảng bay theo gió.
- Ông lão trông trụ sở họ gì? Thầy Tần vừa đẩy cửa trụ sở ra vừa hỏi chúng tôi.
- Thưa thầy ông ấy họ Mã. Tôi nhanh nhẹn đáp. Vừa nói tôi vừa đảo mắt nhìn lên tấm lợp bằng nhựa trên trần nhà, nó sạch bóng, không có gì…
Thầy Tần đi vào, bốn người chúng tôi bám theo sau.
Phòng thông tin vẫn để cửa mở, chúng tôi đi vào nhưng không có ai, chiếc ấm trà mới uống một nửa vẫn nằm nguyên trên bàn, vẫn y hệt như hôm qua.
- Ông Mã đâu?
Hôm qua, ông ấy lấy con cú mèo trên trần nhà xuống rồi chuồn đi đâu mất tiêu, không biết có chuyện gì với ông ấy không, bỗng nhiên tôi nghĩ thế.
- Ông Mã ơi, ông đang ở đâu? Tự nhiên Đại Kỳ nhìn về phía chân cầu thang gọi to lên như thế khiến tôi phát hoảng. Không ai trả lời, chỉ nghe tiếng vọng lại rất lớn trong trụ sở vang ra. Sau tiếng vọng lại ngôi lầu như càng im lặng hơn, cái im lặng của sự chết chóc.
Chúng tôi không dám đi lại lung tung, chỉ nhìn theo thầy Tần.
Thầy quay đầu lại nói với Đại Kỳ: “Em ở phòng nào?”
- Thưa thầy ở tầng hai.
- Lên đấy xem sao.
Thế là thầy đi tiên phong, chúng tôi bám theo từng bước. Chúng tôi đi thẳng lên tầng hai, không thấy một bóng người. Chúng tôi ngoặt vào chỗ rẽ ở cầu thang hướng về phía phòng ở của Đại Kỳ. Phòng của Đại Kỳ vẫn đóng cửa im ỉm, Đại Kỳ vừa toan mở cửa tôi bỗng phát hiện cánh cửa nhỏ của căn phòng đựng đồng hồ điện thoại không biết từ bao giờ để hé ra, cái then sắt vẫn nằm ngang ở đấy…
Tôi như bị điện giật, thẫn thờ một lúc mới vỗ vào vai Đại Kỳ rồi chỉ về phía cánh cửa phòng đó. Lúc đó, ai cũng nhìn theo phía tay tôi chỉ, mọi người sợ quá thụt lùi mấy bước.
Thầy Tần lấy hết can đảm tiến lên gõ cửa hỏi: “Có ai trong đó không?”
Không có tiếng trả lời.
Thầy nhẹ nhàng mở cửa ra, trong phòng chỉ một chiếc tủ điện đứng trơ vơ một mình. Ánh sáng yếu ớt chiếu từ kẽ hở của khe cửa vào, quét ngang trên chiếc tút điện còn nửa kia quệt thẳng xuống nền… Bỗng Tiểu Nghệ chỉ vào một góc của chiếc tủ điện nói lớn: “xem kìa, ở đó có dấu tay người”
Chúng tôi quay đầu nhìn lại, quả nhiên, trên chiếc tủ điện, nơi ánh sáng chiếu đến có năm dấu tay in rất rõ, nhưng năm ngón tay đó không in đủ hình dáng của bàn tay, mà dấu tay cứ kéo dài xuống, giống như có ai đó đưa tay ra vuốt lên tủ điện rồi bị tuột xuống.
Lúc đó, Tiểu Thanh cũng nói nhỏ: “Xem trên đất kìa, có dấu chân”
Chúng tôi nhìn xuống đất, thấy đầy vết chân bấn loạn không phải đi lại mà… trên đó còn có hình thù rất lớn kỳ quái, hình như có ai bò qua trên vùng nền nhà này, cắt ngang vết bụi bám trên nền nhà. Bỗng nhiên trong đầu tôi hiện ra một cảnh tượng hết sức hãi hùng.
Ông Mã tối qua không ngủ được thức dậy uống trà, bỗng nhiên ông nghe tiếng khóc của một người phụ nữ vang lên từ căn phòng này, thế là ông lão đã từ từ lên lầu, nhưng khi lên đến không thấy ai cả, cửa phòng vẫn đóng chặt. Ông lão mở cửa ra, bên trong đen ngòm không thấy gì, bỗng nhiên, tay ông bị vật gì giữ lại, ông ta kinh hãi vùng vẫy hai tay, đập đạp lên tủ điện, trong lúc đó, có một bàn tay đen ngòm vuốt lên khuôn mặt ông, ông ta sợ quá ngất lăn ra đất, lát sau tỉnh dậy ông lại đưa tay mò mẫm lên tủ điện….
Tưởng tượng đến đó, tôi bất chợt ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mấy ngôi mộ như đang nhìn vào, tôi thấy từng luồng âm khí tràn ngập vào nhà, sợ quá tôi không dám tiếp tục nhìn về phía đó nữa.
Hiện nay ông Mã đang ở đâu? Hay là ông ta đang ở chỗ của người nữ lao công đó? Tôi tưởng tượng…
- Đi đi thôi, không có ai ở đây cả, chúng ta ra ngoài trước đã. Thầy Tần nói.
Đúng trong lúc đó, dưới lầu vọng lại một chuỗi âm thanh ho hen. Chúng tôi dừng bước.
- Ai? Thầy Tân hỏi lớn.
Phía cầu thang có tiếng bước chân ngày càng lại gần, cả năm người chúng tôi đều dồn mắt về phía chân cầu thang. Một cái đầu hói đen trũi từ từ lộ ra…
Hoá ra là ông Mã.
- Ông à, ông không sao chứ? Đại Kỳ hỏi.
Ông lão nghe hỏi đi nhanh mấy bước, đến trước mặt chúng tôi. Ông lão ướt đẫm mồ hôi, hơi thở như bị đứt, hơi trước không tiếp nổi hơi sau nói với chúng tôi: “có người chết, có người chết”
- Có người chết? Ai chết vậy? Cả năm người chúng tôi hoảng hồn hỏi.
- Ngưu Quế Hoa.
- Ai cơ?
- Chính là người dọn vệ sinh ấy!
- Trời ơi, sao bà ta chết?
- Vừa mới chết sáng nay, sáng nay bà ta đến dọn dẹp chùi rửa nhà cửa, thông thường cứ hơn mười phút bà ấy lại xuống lấy nước một lần, nhưng hôm nay tôi đợi đến cả nửa giờ vẫn không thấy bà ta xuống, thế là tôi đi lên đó thử xem sao. Khi tôi đến cửa này, tôi thấy cửa mở, tôi cứ tưởng bà ta vào trong đó dọn vệ sinh nên đẩy cửa đi vào, vừa vào thấy bà ta nằm đơ ra giật giật, mồm sủi đầy bọt mép, trong tay vẫn đang nắm chiếc khăn ướt. Tôi thấy tủ điện mở ra, tôi đoán chắc là do bà ta lấy khăn ướt chà lên tủ điện nên bị điện giật… Ông Mã vừa nói vừa nhìn về căn phòng đó. Tôi bị ánh mắt bà ta ám ảnh đến sởn gai ốc.
Nói xong ông Mã quay người chạy xuống lầu, chạy một mạch đến phòng thông tin, chúng tôi cũng chạy theo vào, đứng vây quanh ông ta thành một vòng tròn. Trên mặt ông lão mồ hôi chảy đầm đìa, ông nâng cốc trà uống một ngụm hết sạch rồi ngồi nghỉ cho đỡ mệt.
- Chả trách mấy hôm nay có chim cú mèo xuất hiện, hoá ra nó báo tin cho bà Quế Hoa. Ông Mã hổn hển nói.
Chúng tôi nghe ông lão xong ai nấy nhìn nhau, trong lòng bỗng có một mớ ngổn ngang hỗn độn. Chúng tôi nghĩ bụng, thì ra con chim ấy không phải nhằm vào chúng tôi nên dù sao trong lòng cũng thư thư chút ít. Người dọn vệ sinh đã chết không một lời từ biệt thế mà trước khi chết bà ta còn bị chúng tôi hoài nghi đó là ma nữa chứ!
- Người nhà bà ta biết chưa? Thày Tần hỏi ông lão.
- Người nhà à? Ái chà… Ông lão than thở hồi lâu nói: “Trong nhà bà ta không có ai cả, bố mẹ mất sớm, bà ta lại lấy một gã đàn ông nghèo, nhưng chẳng may ông ấy đã đoản mạng qua đời mấy năm nay rồi. Không biết là ai trong đôi vợ chồng đó có vấn đề, họ lấy nhau đã lâu nhưng không rặn ra được mụn con nào cả. Một mình bà ta cứ ở vậy đã nhiều năm, nay không chào mà vội vã ra đi, không ai lo liệu hậu sự cho bà ta, thật là tội nghiệp!”
Chúng tôi im như thóc, lắng nghe ông lão thuật lại cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ kia, không biết nói lời nào.
- Nói ra cũng lạ thật. Ông lão nói: “hình như cả nhà bà ấy có quan hệ gì với con chim cú mèo này, nhớ năm trước khi bố mẹ bà ta mắc phải căn bệnh quái ác, mời hết thầy lang này đến thầy thuốc khác vẫn không chữa khỏi. Trước hôm bố mẹ bà ấy qua đời, người ta thấy có con chim cú mèo đậu trước cửa sổ nhà, nó cứ đứng im phăng phắc nhìn trừng trừng vào trong nhà, mấy hôm sau, cả hai bố mẹ bà ấy lìa đời. Còn chồng Quế Hoa, chính mắt tôi trông thấy… vào một buổi chiều mùa hạ năm trước, tôi đánh trâu về chuồng, khi đi ngang qua ruộng của nhà bà ta, thấy ông ta đang tháo bừa cho trâu, tôi vừa tiến lên định chào một câu thì chợt thấy trên cây lao xuống mấy vật gì đen ngòm, rơi xuống đúng vào ruộng. Nhìn kỹ thấy hai tròng mắt lồi ra của con chim đang nhìn vào tôi, sợ quá, tôi cũng linh cảm điều gì sắp xảy ra nên không dám để mắt con chim ấy nhìn vào tôi, tôi liền tháo chạy về nhà, quả nhiên mấy hôm sau, sau khi cày ruộng xong, chồng bà ta xuống sông tắm rồi chết chìm dưới sông… con chim cú mèo này quả thực không tin không được…”
Tôi lắng nghe mà hồn như ngất đi vì sợ, nhớ lại cảnh con chim cú mèo mấy hôm trước, tôi khiếp cả hồn vía, kinh hoàng hồn xiêu phách tán.
Lúc đó, Đại Kỳ nói: “Ông Mã à, như ông nói thì chim cú mèo báo tang như thế nào? Làm sao nó biết người nào sắp chết?”
- Người ta bảo chim cú mèo có thể ngửi thấy mùi xác chết của người còn sống, người nào có cái mùi đó thì chắc không thọ được bao lâu nữa. Ông lão đáp.
- Mùi người chết? Mùi người chết như thế nào? Bất chợt tôi nhớ lại cái mùi thối mà tôi và Tiểu Nghệ ngửi thấy.
- Cái mùi này thì chúng cháu chưa ngửi thấy bao giờ, chúng cháu cũng sẽ không bao giờ ngửi cái mùi đó. Ông lão ngả đầu trên ghế, tỏ ra rất mệt mỏi.
Chúng tôi đành phải để ông lão nghỉ ngơi tí đã, thế rồi chúng tôi ra khỏi trụ sở đi về phía ngôi làng.
Trong làng vẫn yên bình như cũ, trên ruộng đồng đầu xuân không có một bóng người, mỗi nhà, mỗi người nông dân đều đang tận hưởng giây phút nông nhàn. Hình như cái chết của bà Quế Hoa không mấy ai biết, hay là họ đã biết trước cả rồi, dù sao đi nữa, đối với họ đó không phải là chuyện gì ghê gớm lắm, ngày tháng vẫn trôi qua như mọi khi, mặt trời vẫn mọc đằng Đông lặn đằng Tây!
Trưa ngày hôm đó, sau khi ăn trưa xong, thầy Tần sắp xếp lại chỗ ngủ cho cả bốn chúng tôi, tôi, Đại Kỳ và thầy Tần ở chung với nhau, Tiểu Nghệ, Tiểu Thanh đến ở trong một nhà dân khác. Thầy Tần nhắc đi nhắc lại chúng tôi không được nói chuyện này với bất cứ ai để tránh các học sinh xôn xao lo sợ. Chiều hôm đó, tôi và Đại Kỳ mang hành lý ra khỏi trụ sở làng.
Phong tục mai táng trong làng này kỵ “bảy ngày đầu” tức là người chết sau bảy ngày bảy đêm mới được chôn, đợi đến ngày thứ bảy tức là ngày “đêm hồn trở về” đem chôn mới được bình yên.
Đối với những tập tục đó, tôi luôn luôn có thái độ kính cẩn sợ sệt, hơn nữa có một số việc trước khi cô ấy mất, tôi cũng đã gặp, nên tôi cứ nghĩ liệu tôi có dính líu gì đến không. Bảy ngày đằng đẵng, cuối cùng cái ngày tôi đợi chờ đã đến, tối hôm thứ bảy “đêm hồn trở về” suốt cả đêm hôm đó tôi không sao chợp mắt. Nhưng cũng may cho tôi, suốt bảy ngày đó không có chuyện gì bất lợi đến với tôi.
Ngày thứ tám đã đến, đó là ngày chôn cất, nhưng có điều kỳ lạ là, tôi không thấy bọn người thổi khèn trống đưa tiễn người chết, không thấy có ban nhạc hiếu nào, thậm chí không thấy cả những người âm công nữa. Tôi thắc mắc không biết xác bà ấy được chôn ở đâu, đáng thương cho người quả phụ già nua này, ngay cả sau khi chết cũng không được chôn cất tử tế.
Chính trong cái đêm chôn cất đó, tôi nghe có hai người thầm nói với nhau rằng, “người chết của người quả phụ kia bị lôi đi,…” Lúc đó, hai người kia đang ở trong nhà bếp chuẩn bị cơm tối, tôi chỉ tình cờ ngang qua nghe vụng mấy câu không có “đuôi” này, lúc đó, tôi bỗng thấy run và tự hỏi “cái gì?”
Nhưng hai người bàn chuyện vụng trộm kia đột nhiên không nói nữa, bắt sang chuyện khác, tôi biết không nên đi hỏi họ làm gì cho rách việc nhưng chuyện này cứ lởn vởn trong đầu không sao quên đi được.
Lại hai hôm nữa trôi qua, hôm nay không có tiết mục gì, hai người trong bếp kia lại đi chợ, tôi và Đại Kỳ ngồi trong phòng xem vô tuyến, đột nhiên thầy Tần đẩy cửa xông vào, trên mặt lộ vẻ thần bí khó hiểu.
- Ông lão họ Mã kia bị cảnh sát bắt đi rồi. Thầy Tần nói với chúng tôi trong vẻ hoảng hốt.
- Trời ơi, sao thế? Tôi và Đại Kỳ đồng thanh hỏi.
- Nghe nói bà Hoa là do ông ta giết.
- Trời! thầy nghe ai nói vậy?
- Ông chủ nhiệm họ Lưu hôm nay đưa phòng điều tra để phối hợp với cảnh sát làm rõ vụ án này rồi, chính ông ấy đã về kể lại với thầy.
Cả tôi và Đại Kỳ đứng thẫn thờ người ra, nghe thầy Tần nói tiếp:
“Chuyện là thế này, hôm đó, ông Mã đưa Quế Hoa đến bệnh viện cấp cứu nhưng lúc đó, bà ta đã tắt thở, có người phát hiện trước cổ bà ta có vòng đỏ, người đó thấy có điều gì trong cái chết bất thường này. Sau đó, chính người này đã liệm cho Quế Hoa, sau khi để thi thể đến hai hôm sau thì vết đỏ trên cổ bà ta biến thành màu tím bầm, lúc đó người kia mới khẳng định rằng, bà ta chết do bị bóp cổ. Sáng sớm hôm sau, người đó đi báo án, cảnh sát đã mang thi thể người chết đi ngay trong hôm đó để khám nghiệm, đồng thời ông Mã cũng bị công an tóm cổ nốt.”
- Thật sao? Thế tại sao ông ấy lại giết Ngưu Quế Hoa? Tôi cắt ngang hỏi
- Em nghe thầy nói đã: “Lão họ Mã đó vừa đến phòng điều tra, chưa đợi kết quả xét nghiệm thi thể bà Hoa thế là lão ta đã khai ra hết. Chồng Ngưu Quế Hoa trước đây hình như mắc phải bệnh gì đó, nên hai vợ chồng họ kết hôn đã lâu mà không có con, Quế Hoa rất muốn có con, thấy mình sắp hết tuổi sinh nở mà vẫn chưa ẵm được con mình vào lòng thế là Quế Hoa muốn ly hôn. Nhưng ông chồng bà ta vừa nghèo nàn dốt nát lại không chấp nhận mình vô sinh, hắn ta sợ sau khi ly hôn sẽ không lấy được vợ nên không chịu ly dị, cứ lần lữa mãi thế nên Quế Hoa rắp tâm giết chồng. Lúc đó, bà Hoa xin ít thuốc chuột ở chỗ lão Mã rồi cho vào bát cơm của chồng, sau khi chồng mất bà ta chỉ vùi xuống đất cho xong chuyện. Lúc đó, lão Mã vẫn không hay biết gì, nhưng sau đó ông ta cảm thấy kỳ kỳ, tra đi tra lại cuối cùng ông ta cũng đã phát hiện ra chân tướng sự việc thế là lão ta đã đem chuyện này để uy hiếp Quế Hoa. Để bịt đầu mối Quế Hoa phải chịu sự chà đạp thân xác của lão Mã. Lão Mã thời còn trẻ là người lưu lạc, côn đồ, mấy chục tuổi đầu rồi mà vẫn chưa lấy được vợ nhưng ngay cả Quế Hoa cũng không thèm để ý đến lão ta. Từ sau sự việc đó, lão ta thường mò đến nhà Quế Hoa lúc nửa đêm hoặc gọi Quế Hoa đến phòng làm việc của mình. Sau Quế Hoa không chịu nổi nhưng không dám lên tiếng vì sợ lão Mã báo thù, nên sau mỗi lần bị nhục bà ta đều ngồi khóc một mình. Các em còn nhớ tiếng khóc lúc nửa đêm không? Đó chính là tiếng khóc của Quế Hoa”
- Thì ra là thế, vậy tại sao lão ta lại bóp cổ Ngưu Quế Hoa đến chết? Đại Kỳ hỏi.
Hôm đó là tiết thanh minh, cả mấy chúng tôi đều không có mặt ở trụ sở, lão ta lại gọi Ngưu Quế Hoa đến, vừa mới đến, lão ta đã ghì Quế Hoa xuống giường. Không chịu được nữa, Quế Hoa vùng vẫy giẫy giụa rồi đánh lại lão, vừa đánh bà ta vừa nói sẽ nói cho mọi người biết chuyện này, bà ta thề sẽ cùng ông lão kết thúc cuộc đời cả hai luôn, lúc đó, lão Mã cũng thấy hoảng quá, lấy gối nhét vào mồm cô ta đến chết, nhưng lão vẫn không yên tâm nên mới bóp cổ suốt mấy chục phút bà ta mới chết hẳn. Sau khi Quế Hoa chết, lão ta kéo lê xác bà ấy lên tầng hai rồi cho vào phòng đựng tủ điện đó. Lão ta cố ý giả vờ rằng Quế Hoa chết vì điện giật.
Nghe kể đến đây, tôi chợt thấy trong đầu mình choáng váng, mấy vụ việc ghê người trước đây giờ đã có đáp án.
- Nhưng hình như còn có một việc chưa được làm rõ, đó là con cú mèo xuất hiện, chuyện này là thế nào?
- Chuyện đó thì thầy không biết, phía cảnh sát không biết chuyện này, bản thân ông lão cũng không thấy nhắc đến. Tôi đoán đó là con cú mèo do lão bắt lấy để làm nguyên nhân thần bí cho cái chết của Quế Hoa. Nếu thật sự như thế thì chuyện này chỉ hỏi ông ta mới biết hết chuyện. Thầy Tần bảo: “nhưng, chuyện báo tử của cú mèo có thật cũng được không thật cũng được, nhưng chúng ta không nên quá tin vào điều này”
Cả tôi, Đại Kỳ và thầy Tần gật đầu rồi ngủ thiếp đi.
Một tháng thực tập trôi qua như chớp mắt, chuyến thực tập này của chúng tôi cũng kết thúc cùng với hàng loạt vụ án li kỳ, khi cả ba mươi học sinh thực tập rời khỏi ngôi làng này trở về trường cũ, lão Mã chính thức bị viện kiểm sát khởi tố, Quế Hoa cũng được chôn cất tử tế, mộ phần bà nằm ngay sườn núi sau trụ sở.
Vào một đêm mưa gió, một chiếc Toyota màu trắng đỗ trước cửa nhà Hồ Tử. Đào Tử xuống xe, đội cả mưa chạy vào nhà. Suốt cả chiều hôm đó, Đào Tử đã gọi điện cho bạn đồng nghiệp - Hồ Tử cả mấy trăm lần, nhưng cả trăm lần đều chỉ nghe trả lời “số điện thoại này đang tạm khoá, xin quý khách vui lòng gọi lại sau”. Đào thấy hối hận vì đã không ngăn cản kịp thời người bạn nhỏ này.
Lòng hiếu kỳ là một bộ phận cấu thành của đặc tính các phóng viên. Nhưng hiếu kỳ quá độ đã mang lại vết thương chí mạng của Hồ Tử.
Một vệt sáng xé toang bầu trời đêm tiếp theo là tiếng nổ rung trời, tiếng sấm, ánh điện chớp soi sáng cả hành lang cầu thang khu chung cư. Đào Tử thấy tim mình giật thót, một dự cảm bất thường chụp xuống hồn cô. Trước khi đi làm, Đào Tử gọi điện trước cho toà soạn, bên phòng biên tập bảo Hồ Tử đi phỏng vấn rồi không thấy trở về nữa.
Tiếng bước chân lê dài trên cầu thang, Đào Tử đi một mạch lên đến tầng sáu, tầng có nhà chung cư của Hồ Tử, gõ cửa gọi: “Cậu Tử ơi, cậu có nhà không? Tôi - Đào Tử đồng nghiệp của cậu đây.”
Tiếng gọi và tiếng gõ cửa chỉ được trả lời bằng sự im lặng của căn phòng trống. May thay, bên cửa đối diện có bà lão gầy nhỏ đi ra, đôi mắt mờ đục dán vào Đào Tử nói nhi nhí trong miệng: “Cô gái, cô tìm cậu Hồ Tử à? Cậu ta thường để chìa khoá dưới nệm lau chân trước cửa phòng, cô tìm thử xem, tiện thể xem cậu ta có ốm đau gì đang nằm trong đó không”
Bà lão cứ nhìn chằm chằm khiến Đào không được tự nhiên, cô trách thầm, “cậu Hồ Tử này, sao bất cẩn đến thế, chìa khoá nhà để chỗ mà hàng xóm ai cũng biết!”.
Đúng như lời bà lão đoán, quả nhiên Đào tìm ra chiếc chìa khoá ngay dưới tấm nệm lau chân trước cửa phòng. Đào cảm ơn bà lão rồi mở cửa phòng ra. Hồ Tử là một người tự lập, một mình thuê phòng trọ, Đào còn nhớ, Hồ Tử là người vùng khác đến đây học, sau khi tốt nghiệp, xin được vào toà soạn làm báo rồi thuê phòng ở lại đây luôn. Trước đây, Đào từng đến nhà Hồ Tử cùng với mấy người trong ban biên tập, nhưng đối diện với căn nhà này lại lần nữa Đào vẫn thấy không quen, vì trong phòng quá tối, Đào lần ra công tắt rồi bật đèn lên. Ánh sáng đột ngột loé lên giữa cái tối từ nãy giờ khiến thị giác Đào chưa thích ứng được với ánh sáng. Đào nhìn quanh căn phòng một lượt, phòng khách trống trãi không người, chỉ có một phòng ngủ cửa vẫn không đóng nhưng cứ để hé cũng không phải mở. Đào đi đến định mở cửa ra. Khi cô vừa đưa tay ra mở, cô thấy tay mình run mạnh, cảnh tượng hãi hùng cô vừa thấy lúc trưa trong bồn tắm lại hiện ra ngay trước mặt cô.
Hít sâu mấy hơi, cô tự lấy dũng khí rồi đẩy cửa ra.
Khi thấy Hồ Tử đang ngồi trước bàn làm việc hí huáy viết bài thì cô như nhẹ cả người. Nhưng một lúc sau, cô thấy có điều gì là lạ, vì khi biết Đào đến Hồ Tử vẫn không có chút biểu hiện gì. Cậu ta ngồi trước bàn làm việc như pho tượng, không cử động nào.
- Này cậu Hồ Tử, cậu không nghe thấy gì à?
Hồ Tử vẫn ngồi yên bất động.
Tay cầm cây bút, ánh đèn rọi xuống nửa khuôn mặt khiến người nhìn thấy cậu ta có vẻ ghê sợ. Ngoài cửa, Đào Tử tiến dần vào phòng đến chỗ Hồ Tử, đưa cánh tay run run lên mũi Hồ Tử. “Chẳng lẽ cậu ta chết rồi?” Đào tự hỏi. Không nhịn được, Đào muốn chứng minh xem sao cái dự cảm của mình… Nhưng khi thấy vẫn có chút hơi thở yếu ớt, Đào Tử bật khóc. “Tốt quá, thế là cậu không sao cả, cậu vẫn còn sống” Đào Tử nói.
Nói xong, nhanh như con sóc, Đào gọi điện 120 cấp cứu… Mấy phút ngay sau đó, tiếng còi xe cứu thương vang ầm trước căn hộ chung cư, mấy nhân viên cứu thương mang băng lên khiêng cái thân đang đờ ra của cậu Tử, trong lúc đó, Đào vô tình xem lướt mấy dòng trong cuốn sổ trên bàn, đúng hơn là Hồ Tử đã mất hết ý thức trong tư thế viết bài.
Không còn thời gian nghĩ nhiều nữa, Đào cầm cuốn sổ ghi chép lên, rồi chạy thẳng đến bệnh viện.
Đứng ngoài phòng cấp cứu, Đào lật cuốn sổ công tác của Hồ Tử ra đọc, nét chữ cứng cỏi có lực, đúng là chữ của Hồ Tử.
Đào Tử ngồi trên ghế đợi trong hành lang bệnh viện, chăm chú đọc cuốn sổ công tác, đó là mấy dòng chữ của Hồ Tử viết cho Đào Tử khi còn tĩnh táo.
“Sư tỷ, không biết khi chị lật cuốn sổ này ra thì em đã như thế nào rồi. Thật xin lỗi chị vì đã không nghe lời khuyên của chị, vẫn chơi “bảy ngôi làng ma”. Điều đáng ân hận là em đã không thể mang hình vẽ trong trò chơi ra cho chị xem chỉ viết lại những cảnh tượng đó qua ký ức mà thôi. Bất luận thế nào em vẫn muốn chị xem hết những gì mà em viết sau đây.”
Mắt Đào bỗng giật giật, cô buồn cho Hồ Tử vì cậu ta đã không tự lượng sức mình, rõ ràng đã khuyên cậu ta không nên chơi trò chơi đó, nhưng cuối cùng cũng bị cuốn hút vào vòng xoáy đó. Dù thế nào đi nữa thì cô vẫn phải đọc cho xong cuốn sổ này, nội dung trong cuốn sổ ghi:
Tôi không phải là người tốt, có thể nhìn thấy điều đó qua khuôn mặt của tôi. Tôi có một khuôn mặt mà diện tích của phần có râu chiếm nhiều hơn phần da mặt nên mọi người gọi tôi là “anh râu quai nón”.
Tôi đã từng ăn cắp xe hon da, rồi dùng chính chiếc xe đó làm phương tiện cướp giật, có tiền rồi đi kiếm gái chơi, chơi chán xong lại tiện tay dắt dê, lấy luôn đồ trang sức và túi xách của các cô gái đó. Trong túi xách đó có một điện thoại di động và một cuốn nhật ký. Chủ nhân của cuốn nhật ký đó cho dù tôi có đi cùng trời cuối đất cũng không tìm ra, tôi chỉ biết đó là một trong những quan viên cao cấp nhất của tỉnh, hắn là một gã cáo già, một tay đã che được cả bầu trời. Trong cuốn nhật ký đó đúng ra không phải là cuốn nhật ký mà là ghi chép những khoản tiền thu được bao nhiêu, dùng vào việc gì, biếu cấp trên bao nhiêu, ai nợ và đã nợ ai… đại khái cuốn nhật ký này cô gái kia đã đánh cắp của người chủ nhân của nó trong một lần hắn mua dâm. Tôi là người xấu, tôi biết cuốn sổ này mà vào tay tôi thì mọi chuyện sẽ sục sôi lên, tôi sẽ bị nhiều xui xẻo. Mấy hôm sau đó, cô gái kia đột nhiên chết, người âm thầm theo dõi chuyện này là tôi cũng không còn cách lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ trốn. Cũng may tôi có người “đồng đãng” là một tên sành sỏi trong khâu vượt biên trái phép, nhờ anh đấy thu xếp cho tôi sang Hàn Quốc. Tên trùm sỏ sau lưng người đồng đảng tôi tên là Khâu Lão Tứ, năm nay đã ngoài năm mươi, là một người gầy ốm, khuôn mặt trông hung ác, ánh mắt sắt lẽm ghê người, lại thêm cái vết sẹo sâu hoắm to đùng sau đuôi mắt, khiến người ta không ai dám đến gần. Cùng tôi vượt biên còn có năm tên khác, bốn trai một gái, bọn họ đều dấu tên, không cho ai biết, chỉ biết biệt hiệu của bọn chúng thôi: Một đứa tên là Thư Sinh, hắn ta gầy gò trông rất thư sinh, mắt đeo kính cận; một thằng tên là Dầu Mỡ, hắn ta là một đầu bếp; hai tên còn lại là hai anh em, đứa nào cũng cao to rắn chắc, Khâu Lão Tứ thường đùa với bọn chúng là có phải đi Hàn Quốc để làm ** đực?! Ngoài ra còn có một người con gái duy nhất tên là Phong Vận Đan, nghe cái biệt hiệu của cô ta cũng đoán biết được nhan sắc. Cô ta quả sắc nước hương trời, bộ ngực nở nang săn chắc là nơi Khâu Lão Tứ “bôi dầu” nhiều nhất.
Qua mấy hôm lên xe xuống xe đổi tuyến, chúng tôi đến một ngôi làng nhỏ trong núi, đây là một ngôi làng hẻo lánh ven biển của tỉnh Sơn Đông, là nơi tập kết vượt biên. Cả ngôi làng chỉ có năm sáu nhà lụp xụp sau làn cây xanh um, mỗi nhà cách nhau rất xa, kiểu dáng nhà ở cũng sơ sài cổ quái không ra thể thống nào cả, hình như chỉ cần đẩy nhẹ tay cũng đủ làm chúng sập xuống. Lạ nhất là các ngôi nhà đó, dù cách nhau khá xa nhưng đều xoay mặt về một cái miễu, ngôi miễu này rộng khoảng hơn năm nghìn mét vuông. Thật tôi không thể nào hiểu được, trong ngôi làng nhỏ tí tẹo bên rừng cao bên biển sâu này sao lại có ngôi miễu lớn đến thế. Tôi chú ý đến ngôi miễu này, nhìn vào nơi thờ phụng tí nữa tôi té ngã bởi cách thờ phụng những thứ tà môn tả đạo. Mấy cái ống khói của mấy nhà trong thôn vẫn toả ra, chúng tôi ngửi thấy mùi thịt nướng, cái cảm giác đói không mời mà đến, cậu Thư Sinh không nhịn được nói: “Tốt quá bọn ta có thể mua ít đồ gì đó ở đây để ăn rồi, cứ chén một trận no nê rồi lên thuyền cũng chưa muộn.”
Khâu Lão Tứ nghiêm giọng nói: “Không được ở lại đây, ăn nhiều rồi lên tàu cũng nôn ra cả thôi”
Đi xuyên hết ngôi làng, hễ gặp dân làng ai cũng mỉm miệng cười thay lời chào rồi cúi đầu tiếp tục công việc của mình. Cái kiểu chào đó khiến tôi thấy lạ. Phong Vận Đan đi theo sau Lão Tứ, vừa đi vừa đánh mông tành tạch nói: “lạ thật, trong làng này không nghe tiếng chó sủa”
Thằng Béo mặt mày hớn hở nói: “Có phải người đẹp muốn ăn thịt chó không? Đợi đến khi qua được Hàn Quốc tôi sẽ cho cô ăn món chó nướng cả con…”
Khâu Lão Tứ bỗng quay đầu lại, hạ giọng trầm nói rất oai: “Câm mồm”.
Trong suốt chặng đường, Lão Tứ luôn luôn khách khí lễ độ, chưa hề có biểu hiện như bây giờ, Thằng Béo lập tức ngoan ngoãn nghe theo, không nói gì nữa. Tôi luôn cảm thấy Lão Tứ có cái vẻ bên ngoài ghê gớm nhưng trong lòng mềm mỏng, hình như ông ta đang lo sợ điều gì đó.
Người đi cứ hết đợt này đến đợt khác, họ cứ tiến lên… bên tai chỉ nghe tiếng bước chân lịch bịch, thỉnh thoảng hình như có điều gì đó làm lũ quạ trên cây dáo dác bay kêu quạc quạc. Cái cảm giác quái dị trong tôi ngày càng mãnh liệt, tại sao ngôi làng này lại yên tĩnh đến thế? Cái yên tĩnh khiến người ta có cái cảm giác như trong làng này không có một loài động vật nào sống kể cả con người.
Trong ngôi làng này không những chúng tôi không thấy có chó, thậm chí không thấy cả gia cầm gia súc như gà, lợn, dê, ngỗng… Ngoại trừ gặp mấy người dân “câm như thóc” của làng này ra, chúng tôi chưa thấy một sinh vật nào khác tồn tại. Ngôi làng chết, bất chợt tôi nghĩ đến cái mùi thịt nướng phảng phất trong làng ngày nào cũng có nhưng họ lấy đâu ra thịt để nướng, cả làng không kiếm ra bất kỳ một sinh vật nào ngoại trừ con người. Nghĩ đến đây, tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Nhìn về gã Thư Sinh và Thằng Lớn, Thằng Nhỏ cũng thấy mặt chúng nó thừ ra vì sự quái dị đó.
Băng qua ngôi làng là vùng núi thấp, từ đỉnh đến chân núi không có lấy một ngọn cỏ mà toàn là đá tảng với hình thù quái dị, mỗi tảng mỗi vẻ kỳ bí, nhìn chúng vào những đêm trăng hoặc vào các buổi sáng có sương mù thì giống hệt như những con quái thú hung tợn. Cả ngọn núi chỉ có một khóm tre trên gần đỉnh, nhìn từ xa, khóm trúc như những phần mộ. Khâu Lão Tứ nói: “Qua vùng đó là một cảng tránh bão cho tàu thuyền, chúng ta đợi thuyền ở đó”
Khi chúng tôi lên đến đỉnh, ai cũng mệt nhoài hổn hển, lên tới đây chúng tôi mới biết đó không phải là một khóm nhỏ mà là một vùng tre xanh khá lớn. Vì ngọn núi này có hình móng ngựa, vòng cong hướng về biển, nên nhìn từ phía ngôi làng, hệt như một cái bánh Man Đầu.
Hai bên rìa núi kéo dài đến tận biển, nên vùng biển ở đây như bị cô lập. Những kẻ vượt biên thường xem đây là bến đầu mối để xuất hành, quả là một nơi lý tưởng để thực hiện các cuộc phi vụ. Bên mặt này của núi là biển cả, không có chỗ nào tiện nghỉ chân nên chúng tôi ở lại trên đỉnh để chờ tầu đến rồi xuống luôn. Khâu Lão Tứ mang ống nhòm ra nhòm rồi chống tay lên hông xem đồng hồ. Cứ lặp đi lặp lại hành động đó mấy lần, Lão Tứ bỗng thấy lo lắng. Thằng Béo lau mồ hôi bảo: “Sao thế nhỉ, thuyền đến giờ này mà vẫn chưa thấy đến? Lão Tứ à, chúng tôi đã nộp đủ tiền rồi cả đấy, đừng lừa chúng tôi chứ?”
Lão Tứ không thèm để ý đến lời hắn nói, lấy di động ra gọi, lão ta nói giọng Quảng Đông, mấy người chúng tôi không biết tiếng Quảng Đông nên nghe cũng như vịt nghe sấm, chẳng hiểu gì cả. Lão Tứ nói chuyện qua điện thoại xong, buồn bực bảo với chúng tôi: “Xem ra chúng ta phải ở đây đợi đến hai ngày nữa”
Mọi người cả kinh, ai cũng ngồi dậy hỏi cho ra nhẽ, hai anh em Thằng Lớn, Thằng Nhỏ vốn trầm mặc cũng đứng lên phát biểu ý kiến tỏ ra bất mãn. Phong Vận Đan nói với giọng nũng nịu: “Anh Tứ à, có việc gì thế?”
Khâu Lão Tứ uể oải đáp: “Gió hơi mạnh, biển động, nếu đi không an toàn”
Mọi người rã rượi nằm cả xuống đất, giờ thì cái im lặng đã thay thế cho cái ồn ào lúc nãy. Trong giọng trả lời của Lão Tứ có chút run run, lão ta là người đứng mũi chịu sào nhưng không sánh kịp tên tiểu tốt như tôi, gió to sóng cả gì cũng trải qua cả rồi, chẳng có gì đáng sợ, trực giác mách bảo tôi, không phải lão ta run vì gió lớn mà hẳn là vì lý do khác nào đó, nếu thật thế thì rốt cục lão ta đang sợ gì?
Ngoái đầu lại nhìn ngôi làng dưới chân núi, từ trên cao nhìn xuống, ngôi làng như một cái miệng hung thần khổng lồ hút lấy sinh khí xunh quanh. Ngôi làng này rốt cục có gì bí mật? Lão Tứ là người hay lui tới nơi này hẳn ông ta biết được bí mật ngôi làng này, có lẽ chính vì lão ta biết được bí mật đó nên mới run sợ như thế!
Chắc chắn là thế, vậy đó là bí mật gì?
Gió biển thổi vù vù vào khóm trúc, mỗi cơn gió thổi qua một âm thanh xáo xào lại vang lên. Mặt trăng đã treo cao, không khí vùng biển càng về đêm càng lạnh mọi người vội vàng lấy áo ra mặc thêm cho đỡ lạnh. Đống lửa đằng xa kia vẫn chưa tắt, thỉnh thoảng tiếng đốt tre cháy nổ vọng lại, bên đống lửa vẫn còn chiếc bình nước nóng và mấy tấm phên bằng tre như làm tăng thêm cái vẻ tiêu điều của không khí đêm thu. Mấy người cứ trăn qua trở lại không chợp mắt được, tên Thằng Béo cứ lẩm bẩm mãi trong mồm: “được đấy, không chịu cho người ta xuống làng mua tí gì ăn, cứ ăn mãi mì sợi thì có chống được đói không?”
Tên Thư Sinh tiếp lời: “Đúng đó, thật không hiểu tại sao không xuống làng kia xin tá túc qua đêm mà cứ ở lại đây cho lạnh người ra, trong làng có miễu lớn thế chẳng lẽ không chứa tạm được mấy người chúng ta sao”
- Đi thì các ngươi đi đi, lão đây tình nguyện trả lại tiền cho các ngươi, hợp đồng chúng ta thế là chấm dứt, ai đi đường nấy. Khâu Lão Tứ đứng phắt dậy bực tức quát lớn.
- Mọi người xin bớt lời đi nào, Anh Tứ à, sao lại giận dỗi ghê thế, tại sao không thể xuống làng đó, anh cứ nói thẳng với bọn em đi! Phong Vận Đan đứng dậy điều giải.
- Các ngươi thật sự muốn nghe? Khuôn mặt Lão Tứ dưới ánh trăng như trắng xanh đi vì sợ, cái giọng nói như được thoát lên từ sự sợ hãi sâu thẳm trong linh hồn đã lâu. Bốn bề không khí như lạnh thêm, mọi người kéo áo chặt vào người cho đỡ lạnh.
- Được, thế thì lão đây sẽ kể cho các ngươi nghe, ngôi miễu mà cậu Thư Sinh vừa nhắc đến đó các ngươi có biết tại sao trong ngôi làng bé lèo tèo vài nhà thế mà có ngôi miễu lớn thế không? Khâu Lão Tứ run rẫy châm thuốc lên. Không nhắc đến thì thôi, nhắc đến ghê cả người bảo.
- Đúng vậy, sao ngôi miễu lớn thế mà chỉ có mấy hộ rải rác thôi?
- Thật ra ở đây không có ngôi làng nào cả, trước đây là thị trấn nhỏ của một gia tộc buôn bán với người Nhật, còn ở đây là nghĩa trang của gia tộc đấy, còn ngôi miễu kia là là ngôi đền thờ chung trong nghĩa trang của gia tộc đó, họ còn thuê người đến giữ miễu và sống ở đó. Không biết họ đã đắc tội gì với người Nhật mà bị họ phóng hoả thiêu rụi hết cả thị trấn, còn nghĩa trang này do ở khá xa nên họ không biết đến nhờ thế mà tránh được kiếp nạn đẫm máu này. Sau khi chôn cất cho toàn bộ người trong gia tộc, mấy người giữ miễu đã quyết định định cư ở đây luôn, thế là dần dần thành ngôi làng này. Lão Tứ kể chuyện xong, thì thở hổn hển, chẳng biết lão thở vì mệt hay vì sợ.
Bỗng nhiên từ đâu xa vọng lại mấy câu hát đồng dao của trẻ con: “Đứa trẻ và người mẹ, mẹ chạy đi để một mình con lại, sao trẻ nhỏ lại bị chết sớm quá thế?” tiếng hát ngày càng rõ càng gần, cuối cùng nhỏ dần rồi mất hút, không còn nghe thấy gì nữa khiến người ta lạnh gáy.
- Đó là… ai vậy? tên Thằng Béo mặt biến sắc hỏi. Vừa nghe chuyện quái dị ở ngôi làng này lại nghe thấy tiếng người hát đồng dao vọng lại khiến ai nấy sợ sởn gai ốc, ngay cả Hiệu anh và Hiệu em vốn trầm mặc ít nói, gan dạ cũng phải run lên, đứng phắt dậy nhìn quanh để xem tiếng hát đó từ đâu vọng lại.
- Là một gã điên trong làng hát. Khâu Lão Tứ dẫm lên tàn thuốc vừa ném xuống nghiến răng nói: “Chúng ta cứ ngủ tạm ở đây vậy”
Hiệu anh, Hiệu em cười nhạt, nghĩ rằng không đến nỗi phải sợ như thế. Hai tên đó cho rằng, Lão Tứ nói khoác, bất quá chỉ là tên điên có gì đáng sợ. Nhưng hai tên này không chú ý đến thần tình của Khâu Lão Tứ, khi kể về chuyện này, Lão Tứ ngập ngừng, run rẫy, chắc là ông ta biết nhiều chuyện khủng khiếp hơn nhưng không dám kể ra vì sợ làm mọi người kinh sợ.
Tối hôm đó, tôi chỉ nằm mơ màng không ngủ say như mọi đêm, nên chỉ cần có tiếng động nhỏ tôi liền tỉnh dậy. Tuy là tên cường đạo nhưng gan dạ cũng chẳng hơn người là bao, nhất là khi đối diện với những chuyện mà mình không hiểu rõ, chính vì tính cách đó của tôi mà tôi mới tìm cách “đào thoát”. Nhưng tối hôm đó tôi đã không phát hiện ra là hai anh em Hiệu anh Hiệu em đã ra đi. Đến sáng, mọi người mới phát hiện hai anh em họ không còn, hành lý vẫn để lại. Khâu Lão Tứ lẩm bẩm: “Nhất định là chúng đã không tin lời tôi, liều lĩnh xuống núi rồi, nhất định là chúng đã xuống núi rồi”.
“Xuống núi”, hai chữ này như quấn lấy tâm trí tôi, trong đêm khuya thanh vắng, sương mù cuốn theo gió rét thổi đến, tôi đoán hai anh em họ lành ít dữ nhiều. Tuy tôi không biết có chuyện quái dị gì dưới ngôi làng dưới núi kia nhưng chỉ cần nhìn bộ dạng hồn lìa khỏi xác đứng ngẩn người ra của Khâu Lão Tứ thì thằng ngốc cũng đoán ra được, đêm hôm qua chúng tôi không thấy lão nói chuyện với chúng tôi.
Tôi hơi lo, hỏi lão Tứ:
- Ông lão! Hai anh em họ liệu có xảy ra chuyện gì không?
- Điều này không thể nói trước được! Lão Tứ trả lời mà mồ hôi nhễ nhại cả trán. Thằng Béo nói:
- Hay là chúng ta xuống đó tìm thử xem tiện thể mua chút gì ăn luôn.
Khâu Lão Tứ chẳng nói năng gì, cứ lẩm bẩm câu niệm Phật và cứ lần tràng hạt trong tay, thời gian lúc này như dừng lại.
- Mọi người hãy nói gì đi chứ! Tên Thư Sinh gầy gò không chịu được cái không khí im lặng căng thẳng đó. Khâu Lão Tứ không ngờ tên Thư Sinh gầy tong teo này lại giận dỗi đến thế, cười nhạt bảo:
- Lão biết các ngươi muốn hỏi tại sao Lão lại không cho phép các ngươi xuống làng, không phải là lão không muốn nói mà là nói ra chẳng mang lại điều gì hay ho cho các ngươi cả, dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng phải túc lại đây thêm vài hôm nữa. Thằng Béo vỗ vỗ bụng nói:
- Không tìm hai anh em Hiệu anh Hiệu em cũng được nhưng phải kiếm chút gì ăn chứ? Không thể ăn mãi món mì ăn liền này qua ngày được, hơn nữa tôi cũng chỉ mang được mấy gói thôi.
- Ý kiến mọi người thế nào?
Lão Tứ hỏi mọi người.
Chúng tôi đều nhìn Lão Tứ gật đầu, Khâu Lão Tứ cúi đầu trầm ngâm lát rồi nói:
- Thôi được, là ý kiến chung của mọi người thế thì lão đây không giấu làm gì nữa. Đây là một ngôi làng cực kỳ nguy hiểm, trong băng đảng xã hội đen của lão đây có kể nhau nghe câu chuyện tanh máu người, đầy khủng bố điều đặc biệt là những câu chuyện đó đều xuất phát từ ngôi làng này.
Bí mật sắp được Lão Tứ kể, nó như là số mệnh tương lai chưa thể dự đoán trước của mấy người chúng tôi, chúng tôi vừa hiếu kỳ nghe vừa cảm thấy sợ run cả người, hình như trong mỗi lỗ chân lông đều có luồng gió lạnh buốt thổi ra.
- Ban ngày, ngôi làng này trông có vẻ bình thường như bao ngôi làng khác, nhưng mỗi khi đêm về, trong làng yên vắng này thường có xuất hiện những linh hồn u uất chuyên móc tim người sống, trước đây có mấy người cũng vượt biên trú ngụ lại trong làng, trước khi ngủ vẫn bình thường, ngủ rất ngon lành nhưng đêm thứ hai thì xác của người đó nằm bừa phứa trong ngôi miễu đó, trước ngực có vết rách dài ngoằn to tướng, các bộ phận trong lòng ngực bị lấy hết chỉ còn bộ xương trống rỗng, người chết hai mắt mở to… chỉ cần có người lạ trọ lại trong làng thì đêm đến không còn một ai có thể sống sót. Người trong làng thấy người chết như thế đã quá nhiều nên không lấy gì làm lạ nữa. Thi thể của những người chết được tên điên trong làng - tên điên mà tối hôm qua hát đó - mang đi thả xuống giếng trong vườn ngôi miễu đó, xưa nay không biết dưới giếng đó đã chứa bao nhiêu bộ xương người rồi.
Thần kinh của chúng tôi như căng đứt ra bởi những lời kể của Lão Tứ, tim trong lồng ngực như đóng băng lại… Phong Vận Đan run cầm cập hỏi “sau đó thế nào?”
Một âm thanh bỗng vang lên sau lưng khiến tay chân tôi rã rời, máu như đông lại, từng sợi tóc dựng thẳng lên. Khâu Lão Tứ, Phong Vận Đan, và tên Thư Sinh trợn mắt há mồm nhìn theo sau lưng tôi, mũi Thằng Béo hích hích, thằng béo này hễ cứ ngửi thấy mùi thơm thì quên hết tất cả, đúng rồi, mùi thơm, mùi thơm của thịt….
Tôi quay đầu lại nhìn Hiệu anh và Hiệu em.
- Đến ăn nhanh lên, hai anh em chúng tôi mang thức ăn sáng về cho mọi người đây này, là món tim lợn dầm muối đấy, ngon tuyệt.
Chúng tôi đứng im như ông phỗng, Thư Sinh đưa tay thọc thọc vào Hiệu em hỏi: “Các cậu không sao chứ?”
- Không sao là sao, hai anh em chúng tôi dậy hơi sớm, đói quá thế là xuống làng mua thức ăn, tôi mua thức ăn ở nhà ông mổ lợn đây, ngon tuyệt! Nghe nói thịt trong làng này nổi tiếng lắm, mọi người nếm thử đi. Hiệu anh cười vui vẻ, hắn chẳng bao giờ cười nhưng hôm nay hắn cười…
- Ngon quá, mẹ kiếp, chó chết, nước bọt tớ đầy mồm cả rồi này. Thằng Béo tiến lên, đón lấy quả tim lợn đựng trong lá chuối, mở ra, vội vã nhét vào mồm hai lát nhai ngỏn ngoẻn.
Lúc này, không còn ai tin lời Lão Tứ nữa, hai anh em họ đã trở về là bằng cứ xác đáng nhất, cái gì là moi tim, cái gì là linh hồn u uất? Chẳng qua chỉ là câu chuyện ma kể cho đỡ nhàm chán….
Lão Tứ đang đối diện với sự thực trước mắt cũng không biết nói gì thêm, chỉ thừ mặt ra lần chuỗi hạt trong tay.
“Này cậu Hồ Tử” Hiệu anh vỗ vỗ vai tôi, cậu ta tỏ ý muốn mời tôi ăn cùng, tôi lắc lắc đầu: “Các cậu cứ ăn đi, tôi không đói”.
Thực ra không phải tôi không đói mà là tôi tin lời Lão Tứ, tôi hiểu tính cách của những người thân ở giang hồ, ăn cơm hắc đạo như Lão Tứ, vì thực ra, dù ít dù nhiều gì thì tôi cũng là người bên bờ vực của cuộc sống giang hồ, Lão Tứ tuy mắt mũi hung ác nhưng ít ra lão cũng là người có nghĩa khí, những loại người này có thể làm những chuyện mua bán thân mình thân người nhưng ít khi nói dối.
Nếu câu chuyện mà Lão Tứ kể là thực thì làm sao tôi có thể ăn “tim lợn” đó được! Trong ngôi làng từ đầu đến cuối thôn chẳng tìm ra lấy được một con súc vật, không chừng những trái tim kia… ý nghĩ này thật hoang đường đáng sợ, hình như Lão Tứ hiểu hết những ý nghĩ trong đầu tôi bây giờ, nên nhìn tôi cười nhạt…
Nụ cười này của Lão chứa đầy thần bí quái dị.
- Tối qua đáng ra chúng ta nên đến đây thì tốt hơn. Ở đây chẳng khác nào ngôi miễu, không ai quản, không ai hỏi đến làm gì, chúng ta việc gì phải ngủ hoang?
- Hôm nay chúng ta ở lại đây đi, chúng ta ra ngoài dân làng thử chào hỏi tiếp cận họ thử xem, dù sao thì đó cũng là linh đường của tổ tiên họ, chỉ cần chúng ta không kinh động đến họ là được.
- Tiện thể mua ít thức ăn đợi thuyền đến.
- Được, để tôi đi mua ít tim lợn về. Mùi tim lợn của nhà ông mổ trong làng này cũng khá tươi ngon đấy chứ! Hiệu anh ra khỏi miễu.
- Xem thử có rượu không, nếu mua được rượu thì tốt biết mấy.
- Biết rồi, không thiếu phần cậu đâu.
Mọi người đều đi đi lại lại trong miễu, vừa đi vừa nói chuyện, họ hoàn toàn không để ý gì đến lời nói lúc nãy của lão Tứ.
Dưới sự cố gắng của mọi người, tôi và Lão Tứ đành phải xuống núi cùng họ đến ngôi miễu đó. Tôi nguyện thầm, mong rằng tất cả mọi người đều bình yên như anh em nhà tên Hiệu là được, không ai phải xảy ra chuyện gì cả, bình yên sống qua đây vài hôm.
Nền ngôi miễu được lót bằng đá, tường nhà chia làm hai phần, phần dưới được xây bằng đá cao đến khoảng ngang eo người lớn, phần trên là những viên đá nung từ thời xưa, rất lớn, tường bao quanh đền rất cao nhưng cao nhất là cây đa cổ thụ trong miễu. Cành lá um tùm xanh mướt che rợp cả vùng như mây phủ, ban ngày nó che cả một khoảng đất lớn, chiều đến và đêm về thì dưới tàn cây đen ngòm như địa ngục. Trong đêm tối, chúng tôi nhìn thấy thấp thoáng cái gì như miệng giếng mà Lão Tứ đã kể.
Thực ra, cái giếng đó không đáng sợ như lời ông Tứ kể, chỉ là một cái giếng cổ kính, miệng giếng được làm bằng đá hoa cương, trên miệng rêu xanh bám đầy, đây vốn là cái giếng đầy sự thần bí ai ai cũng phải sợ, bên trên có một tấm chắn miệng giếng bằng nhôm trắng xoá, miệng giếng luôn đóng chặt bởi tấm chắn và được khoá cẩn thận bởi một ổ khoá cực lớn, trông nó chẳng giống cái gì cả.
Bên miệng giếng có tấm bảng bằng gỗ đã mục nát nhưng dòng chữ trên tấm bảng vẫn còn khá rõ dòng chữ đen: “Nguy hiểm, không được đến gần”. Xem ra, sân đền này từng là nơi vui chơi của trẻ con, chiếc miệng giếng này có lẽ đậy lại vì sự an toàn của con người, nhất là bọn trẻ. Ánh mặt trời chiếu xuống tấm chắn miệng giếng, nó phản chiếu lại như gương. Cái bóng râm mát hữu tình của ban ngày nơi đây khiến không ai có thể tưởng tượng được cái vẻ khủng bố của nó lúc đêm về. Tất cả những gì là chết chó thần bí đều tiêu tan dưới ánh mặt trời ban ngày. Để chứng tỏ lòng gan dạ can đảm của mình thằng Béo nhảy phắt lên ngồi trên miệng giếng, nhíu mắt dương mày trêu Phong Vận Đan. Gã Thư Sinh đến trước chính điện ngôi miễu, ngước trông kiến trúc cổ xưa của ngôi chính điện.
Khâu Lão Tứ hét lên: “Đừng vào trong đó, đợi thằng Hiệu anh hỏi dân làng xong hẵng hay”. Gã thư Sinh dừng tay không đẩy cửa nữa nhưng quay mặt lại nhìn lão Tứ với điệu bộ hoài nghi không tin… Lấy túi hành lý trên vai xuống, hắn lấy bộ bài ra. Thằng Béo cười khoan khoái la lớn: “Cừ thật, Thư Sinh, cậu thật là khéo hiểu lòng người quá đấy!”
- Dù sao thì mọi người ai cũng nhàn rỗi không biết làm gì mà, thôi chúng ta chơi tú trước đi, nào có ai tham gia nữa không?
- Tôi không biết chơi. Phong Vận Đan đáp.
Lão Tứ vẻ mặt đầy tâm sự, ngẩng đầu nhìn lên trời mà thừ hết cả người ra, hình như không nghe thấy gì lời nói vừa rồi của mọi người.
- Cho tôi tham gia với. Thằng Hiệu em đưa tay lên xin gia nhập.
- Còn thiếu một người nữa. Thư Sinh nhìn về phía tôi, nhưng không dám mời tôi, chắc là vì mặt mày tôi hơi hung tợn, thoạt nhìn cái bộ râu quai nón và khuôn mặt xương xóc của tôi ai cũng nghĩ là tên bị trời đánh hụt.
Thằng Béo nhìn tôi tươi cười bảo:
- Anh râu quai nón này, hay là cậu vào chơi tí cho đủ người, chúng ta chơi vài ván cho vui đi.
Không muốn làm họ cụt hứng nên bằng lòng đại cho qua chuyện. Thằng Hiệu lấy tờ báo ra, trải xuống dưới gốc cây đa, cả bốn người ngồi bệt xuống đất, chúng tôi chơi bài ăn tiền, Phong Vận Đan ngồi bên tên Thư Sinh cười híp hết mắt mũi.
Chơi một hồi, tên Thư Sinh thắng khá nhiều tiền, xem hắn có vẻ là người chơi bài ăn tiền chuyên nghiệp, Phong Vận Đan là người không biết chơi nhưng ngồi bên hắn cũng chia vận may với hắn. Thằng Béo thua nhiều quá lú hết cả người nói: “Phong Vận Đan cô đến ngồi bên tôi đi, cô là thần tài đấy, cô ngồi đâu thì người đó thắng, cô không thể chỉ chiếu cố mãi một tên Thư Sinh kia được”.
Phong Vận Đan cười hớn hở đứng dậy, nhìn quanh một lát đột nhiên cô nói:
- Sao Hiệu anh giờ này còn chưa về nhỉ?
Lão Tứ nghe nói liền ngồi dậy, lúc nãy đến giờ ông ngồi dưới gốc cây, chắc lão quá buồn ngủ nên đã ngủ ngồi dưới gốc cây. Mãi chơi không biết thời gian trôi đi đã bao lâu, nhìn lại đồng hồ thì đã hơn bốn giờ khuya. Lão Tứ dụi mắt hỏi: “Thằng Hiệu anh vẫn chưa về à?”
- Anh ấy, chắc anh ấy không sao chứ? Thằng Hiệu em cũng nói với giọng khá căng thẳng.
“Mẹ đi không bồng con theo, để con lại một mình….” Tiếng hát trong đêm khuya của gã điên cổ quái đó lại vang lên….
- Ra ngoài xem sao. Nói xong Lão Tứ đi đầu, nhoáng một cái đã biến mất, mấy người chúng tôi cũng vứt bài xuống chạy theo Lão Tứ tìm. Chỉ có thằng Béo thua nhiều tiền quá nên không cam tâm dừng cuộc chơi, hắn lẩm bẩm tức giận: “Thế là xong không chơi nữa à? Nhanh lên mà về chúng ta chơi tiếp nhá”
Chúng tôi thấy thằng điên đó ngoài miễu, áo quần rách rưới lam lũ, nhơ bẩn hôi thối không ngửi được, đầu tóc rối bời như tổ quạ phủ lấy khuôn mặt vàng võ gầy giơ xương của hắn, đôi mắt lồi to sáng quắt đến rợn người, mồm cứ hát mãi lui tới cái bài đồng dao đó, vừa đi vừa nhảy thỉnh thoảng hái lấy mấy ngọn lá cho vào mồm.
Hiệu em gọi to: “hỏi xem thử hắn có thấy anh tớ không?”
Lão Tứ dựng mày: “hỏi cái con khỉ mốc, nhìn hắn như thế làm sao hỏi được, hỏi thằng điên chi bằng hỏi cái đầu gối! Chúng ta cứ tiếp tục tìm đi thôi!”
Gã điên ngật ngà ngật ngưỡng đi vào ngôi miễu, Phong Vận Đan nhíu mày: “Anh Tứ à, hành lý của mọi người đều nằm ở đấy cả”
- Một người ở lại đây trông hành lý.
Thằng Béo đang lười đi, câu nói này làm hắn vui hết lớn, hắn đợi mỗi câu nói đó nên vội vàng nói ngay: “tôi, tôi ở lại đây trông hành lý cho mọi người”
Người trong làng không ai muốn nói chuyện nhiều với chúng tôi, trông thấy chúng tôi họ vẫn nở nụ cười chào nhau như hôm nào nhưng khi hỏi đến vấn đề gì thì họ tránh chúng tôi như tránh tử thần. Thực không thể nào hiểu được tại sao họ lại sợ chúng tôi đến thế.
Nghĩ đến chuyện này thì thật là hoang đường, theo lời ông Tứ bảo, thì chúng tôi mới là người sợ họ chứ tại sao họ lại sợ chúng tôi, hình như họ nghĩ chúng tôi không phải là người mà là hiện thân của quỷ dữ.
Chúng tôi ra ngoài miễu đi một vòng, thằng Hiệu em chỉ ngôi nhà trước mặt nói: “Kia là nhà của ông mổ lợn”
Quả nhiên, chúng tôi ngửi thấy một mùi thơm của thịt nướng nức mũi. Ngôi nhà của ông mổ lợn có vẻ khá hơn những nhà khác trong làng, nhưng dù sao thì trông vẫn cũ kỹ, trước bức tường đổ nát trước nhà có hai cây đèn lồng đã cũ, gió tạt mưa san cây đèn chỉ còn lại mấy cọng sườn tre và phía dưới lủng lẳng mấy miếng vải rách. Cửa nhà vẫn đang mở, chúng tôi cẩn thận tiến vào. Trong sân vẫn là nền đất cát như ngoài đường, cỏ tạp mọc đầy cả lối đi, cây cọc gỗ bị dầm mưa dải nắng như chiếc răng ông già sắp rụng bao giờ không biết, thật không hiểu tại sao chủ nhà lại có thể sống trong ngôi nhà mục nát có thể sập bất cứ lúc nào này.
- Có ai không? Có phải nhà của bác bán thịt lợn đây không? thằng Hiệu em gọi lớn.
Chiếc cửa cũ nát của ngôi nhà từ từ mở ra nhưng một lúc lâu sau vẫn không thấy bóng dáng ai cả. Trong nhà tối om như mực, không thể nhìn thấy gì khi đứng bên ngoài. Chiếc cửa mở rỗng ra giống như chiếc mồm của ác quỷ, hình như nó đang chực chúng tôi lại gần rồi bất ngờ nuốt chửng lấy mấy người chúng tôi, Phong Vận Đan sợ hãi rút lui lại sau lưng tôi, nói khẽ trong tiếng run run: “không có ai trong nhà cả, là ngôi nhà… ma”
Khâu Lão Tứ nói: “đừng có cái kiểu thần hồn nát thần tính như thế” nói xong lão quát lớn: “xin hỏi có ai ở nhà không?”
- Đến mua tim lợn à? Giọng nói vọng ra từ trong nhà có vẻ uể oải, lười nhác, đó là giọng của một người đàn ông. “không phải cửa nhà vẫn để thế không đóng sao? mấy người cứ tự nhiên mà vào đi”
- Chúng tôi tìm người chứ không phải đến mua tim lợn. Khâu Lão Tứ định nhấc chân tiến vào nhà, nhưng nghĩ bụng lão bỗng dừng chân lại.
- Anh gì đấy ơi, anh có thấy anh tôi đâu không? Thằng Hiệu em lo lắng cho sự an nguy của anh mình nên không e dè như Khâu Lão Tứ.
- Anh tôi là người sáng sớm hôm nay đến nhà anh mua tim lợn ấy, không biết hôm nay anh ấy có ghé qua đây không?
- Không mua đồ thì đi đi, không có ai đến đây cả.
Âm thanh đó vẫn như cũ, nhưng nghe kỹ có vẻ như xa xôi kiểu gì ấy, giọng nói tỏ ra không quan tâm gì. So với dân trong làng thì người này là người đã nói chuyện nhiều nhất với chúng tôi.
- “Ối” thằng Hiệu em hét lớn rồi thụt lùi ra, khuôn mặt trắng bệch, trắng hơn cả giấy trắng.
- Sao thế? Khâu Lão Tứ đỡ thằng Hiệu em vừa hỏi.
- Gã… gã điên đó đang ngồi trong nhà kìa. Thằng Hiệu em sợ quá, nhủn hết gân cốt, thân thể to đùng của hắn đang dựa vào Khâu Lão Tứ.
Chúng tôi giật mình sợ hãi, gã điên kia không phải vừa rồi hắn ở miễu cơ mà? Sao giờ hắn lại ở đây? Phong Vận Đan mím môi nắm chặt lấy tay áo tôi bảo: “chúng ta… chạy nhanh thoát ra khỏi đây đi thôi”
Khâu Lão Tứ đẩy thằng Hiệu em cho tên Thư Sinh dìu, quay đầu gọi tôi: “Này tên râu xồm, hai chúng ta vào trong xem sao đi”
Nhà có ba gian, các chái nhà hai bên mở cửa chính hướng về phòng chủ, phòng bên trái có khói bốc lên ngùn ngụt, mùi thịt nướng thơm phứt quyện với mùi thịt tươi và mùi tanh của máu bay lên gian nhà chính. Phía sau gian chính đặt chiếc bàn bát đầy dầu mỡ, bên chiếc bàn một người ngồi bất động ra đấy, miệng hắn chảy đầy nước dải vì thèm thịt, hắn cười có vẻ mãn nguyện, hắn chính là gã điên hay hát ban đêm kia.
Thấy tình thế khó lường trước được khiến đầu óc tôi trống rỗng, không thể nào suy luận được gì nữa. Đầu óc của Lão Tứ cũng không được tỉnh táo, quay đầu lại vào trong phòng đó quát hỏi: “Ông chủ nhà! Lão điên kia vào đây từ lúc nào vậy?”
Một tên tuổi trạc trung niên, thân hình vạm vỡ cao lớn đi ra trong luồng khói ngùn ngụt, hắn túm lấy cổ áo của Lão Tứ quát: “Đừng có vào đây mà la lối lớn tiếng thế! Tao nghe tiếng quát là đầu tao điên lên, mày biết chưa?”
Khâu Lão Tứ như bị ngọng đi trước sự uy hiếp của gã kia, lão không biết phải nói hay làm gì nữa. Tôi vội vã đính chính: “Ông chủ à, vừa rồi tôi và Lão Tứ này thấy gã điên kia ở ngôi miễu trong làng, sao bây giờ hắn lại ở đây?”
- Anh hỏi tôi, tôi biết hỏi ai? Tên điên kia là người nổi tiếng xuất thần nhập quỷ khắp ngôi làng này, hắn là con trai của tộc trưởng trong làng này. Hắn đến đâu cũng không cần chào hỏi hay báo trước cho ai cả. Tôi bận việc trong nhà làm sao biết hắn đến từ lúc nào? Đúng rồi, vừa rồi các anh gọi cửa, chính là hắn đã mở cửa đấy. Tên mổ lợn giận dữ quát: “còn nữa, là người vùng khác đến như các anh sao dám tự tiện vào trong miễu nghỉ, không sợ….”
- Không sợ gì? Nghe gã mổ lợn ấp úng không nói, tôi vội vàng ráo hỏi.
- Không sợ tổ tông giáng tội à? Gã mổ lợn sắc mặt khó chịu nói: “không mua gì thì đi đi, cút nhanh đi”
Gã điên ngồi bên chiếc bàn bát tiên cũng mở mồm cười, bắt chước dáng vẻ của tên mổ lợn làm ra dáng vẻ đuổi người đi: “cút đi mau, đi đi mau”
Khâu Lão Tứ đưa mắt ra hiệu cho tôi, nhân lúc gã mổ lợn thừ người ra tôi nhanh nhẹn chui qua nách hắn tiến vào trong phòng nấu ăn, khói nhiều quá không nhìn thấy rõ gì cả, trong góc phòng có mấy chiếc chum cao gần đầu người, bên các chiếc chum có bếp đất khá to, trên xà nhà trong phòng đang treo một vật gì đầy máu me…
Tim tôi đập thình thịch liên hồi, có phải vật bị treo kia là xác của thằng Hiệu anh?
- Mày làm gì thế? Tên mổ lợn túm lấy tôi kéo ra mắng “các ngươi ở vùng ngoài kia có phải đều là những kẻ mất lịch sự như các ngươi không?”
- Kia… kia là gì vậy? Tôi vội vội vàng vàng ấp a ấp úng chỉ vào vật treo trên xà nhà hỏi.
- Là một miếng thịt lợn sống, mẹ kiếp chúng mày, rốt cục chúng mày muốn gì? Chúng mày muốn ăn cắp bí quyết làm muối thịt lợn của ông mày sao?
Gã mổ lợn lấy tay đẩy tôi ra khỏi phòng, “chúng mày chưa nhìn thấy thịt lợn sống bao giờ à? nếu muốn xem thì vào mà xem, xem xong cút ngay cho ông mày”
Chúng tôi nhốn nháo chạy ra khỏi phòng bếp, trong căn phòng này, ngoài chân lợn, thủ lợn và mình lợn cũng như các dụng cụ mổ lợn ra không có gì nữa cả.
Sau khi ra khỏi nhà gã mổ lợn, trong lòng chúng tôi ai nấy đều như có thêm tảng đá nặng trĩu trong đầu, việc này quá quái dị, quá đáng sợ, quá khủng khiếp, chúng tôi hoàn toàn không ai ngờ trước được. Gã điên điên khùng khùng kia theo như lời tên mổ lợn bảo thì hắn là con trai của tộc trưởng trong làng, nhưng chắc gì, ai mà biết được hắn có những năng lực siêu nhiên nào đấy.
Chúng tôi đi vòng quanh ngôi miễu, cứ tìm những con đường nào chưa đi qua để tìm người. Thư Sinh vừa đi được chẳng bao lâu hắn cất giọng nói: “Đầu óc chúng ta đang rơi vào vũng xoáy của sự quái dị cả rồi, gã điên trong ngôi miễu kia có thể xuất hiện trong nhà tên mổ lợn được chứ. Thực ra, nếu bắt đầu từ chỗ đứng của mấy người chúng ta ở đây, hắn chạy đường tắt nhất định sẽ đến nhà tên mổ lợn kia trước chúng ta thôi”
Tên Thư Sinh này giải thích thật là chí lý, đúng vậy, chúng ta đi theo đường vòng tròn bao quanh ngôi miễu, còn gã điên kia nếu đi theo đường tắt thì dễ dàng đến nhà tên mổ lợn kia trước chúng ta thôi, thật đơn giản.
Vấn đề ở chỗ, tên điên kia đi đường cứ lắt lư như đèn trước gió, làm sao đi nhanh như thế được? Hơn nữa hắn thường vừa đi vừa hát, tay lại hái lá bên đường nhét vào mồm, tập tính của người điên rất khó thay đổi… nếu nói hắn chạy một mạch đến nhà kia thì thật là khó tin.
Chúng tôi về đến chính điện ngôi miễu vẫn không thấy tăm hơi của thằng Hiệu anh ở đây cả, Phong Vận Đan vừa an ủi Hiệu em, vừa theo chúng tôi đi vào miễu.
- Hành lý đâu cả rồi? Hành lý của chúng ta đâu cả rồi? Thư Sinh chạy vội đến nơi treo hành lý trên bậc thềm chính điện, chẳng thấy gì cả… chỉ thấy chồng bài tú vẫn còn nằm im ở đấy, mấy con bài nằm ngổn ngang trên mấy tờ báo lót ngồi, loang lỗ mấy vệt đỏ ối.
Màu đỏ? Tôi phản ứng thật nhanh, chưa kịp ngẩng đầu lên, Phong Vận Đan đã thét thất thanh khi đi đến trước mặt tôi, một giọt máu tươi rơi xuống ngay sống mũi cô ta, hai chân người bị treo cổ thòng xuống vấy đầy máu tươi sừng sững trước mặt cô.
Trên cây đa có người treo cổ, là ai? Chúng tôi không thể nào đoán được, hai mắt mở to trợn tròng, con ngươi như lồi ra khỏi khoang mắt, chiếc lưỡi thè ra dài ngoẵn bởi sợi dây thắt cổ quá chặt, trên ngực một lỗ hổng to đen ngòm xung quanh đầy dây thịt và máu… quả tim trong lồng ngực đã bị lấy đi, lồng ngực trống rỗng, nhìn kỹ thấy cả xương sườn bên trong trắng hếu.
- Anh! thằng Hiệu em đau đớn gào to.
Chúng tôi đi khắp nơi tìm thằng Hiệu anh không thấy thế mà nó lại bị chết ngay chỗ này, chúng tôi hoàn toàn không hiểu tại sao như thế. Hành lý chúng tôi đâu? Thằng Béo giữ hành lý cũng đi đâu rồi? Bây giờ đã là ban ngày thế mà chúng tôi cứ như nằm mơ, ai cũng thấy lạnh gáy.
Khâu Lão Tứ như bị cấm khẩu, nói mãi mới nói được một câu: “Không thể ở lâu nơi này được, chúng ta đi nhanh thôi, thoát khỏi nơi này càng nhanh càng tốt”
- Không, nhất định tôi phải tìm cho bằng được là ai đã giết anh trai tôi. Giọng nói của thằng Hiệu em tỏ ra cương nghị trầm tỉnh hơn nhiều, giọng nói đầy bi thương và cương quết của hắn như trấn an mọi người. Tôi cũng cảm thấy nếu bỏ mặc cái chết của thằng Hiệu anh ở đây thì tàn nhẫn quá, tôi nhìn thẳng vào mắt Lão Tứ, tôi và Lão Tứ bốn mắt nhìn nhau rồi nói: “được, trước hết chúng ta phải tìm cho ra thằng Béo, ôi trời! Lòng thiện sẽ lôi kéo chúng ta vào cuộc”
- Lôi vào cuộc gì? Chẳng lẽ hiện nay chúng ta lại đang nằm ngoài cuộc? Tên Thư Sinh dựa vào góc tường thở rốt, tình hình cậu ta đã đỡ hơn Phong Vận Đan khá nhiều, giọng nói cậu ta vẫn đanh như ngày nào.
- Các anh cũng nghĩ thằng Béo cũng… Khâu Lão Tứ định nói lại thôi.
- Không thể nào như thế được! Chắc là thằng Béo nhòm ngó đến hành lý của mọi người nên khởi lòng tham, giết anh trai tôi rồi cuỗm luôn hành lý đi! Thằng Hiệu em thần sắc ngày càng trầm lạnh.
- Thấy tiền bạc khởi lòng tham? Khâu Lão Tứ không hiểu hàm ý đằng sau câu nói này của thằng Hiệu em hỏi lại.
- Trong hành lý chúng tôi có những hơn hai nghìn vạn.
- Hai nghìn vạn? Thư Sinh kinh ngạc hỏi lại. Các cậu vừa cướp ngân hàng à?
- Là giá trị hơn hai nghìn vạn! Thằng Hiệu em cúi đầu: “chúng tôi cướp hiệu vàng bạc đá quý của một nhà ở phố, nếu không vì vụ này thì các cậu nghĩ tại sao chúng tôi phải vượt biên trái phép làm gì?”
- Không phải thằng béo giết anh trai cậu đâu! Khâu Lão Tứ trèo lên cây thả thi thể của thằng Hiệu anh xuống. Cậu xem, anh cậu không phải bị chết vì treo cổ, vì nếu chết do treo cổ thì lưỡi thường bị rách do răng cắn vào, mà ở đây hắn bị người ta kéo lưỡi ra, chắc là…”
- Điều này nghĩa là anh tôi chết vì lý do gì? Thằng Hiệu em quỳ trước thi thể anh trai vuốt mắt cho anh mình.
- Điều này có nghĩa là đã có người giết anh ta, rồi kéo anh ta về đây, giả tạo ra một cái chết do treo cổ, cậu có chú ý không, anh cậu không mang giày dép gì cả, chắc là giày cậu ta bị rơi ra khi người ta kéo thi thể.
- Trời ơi! Phong Vận Đan không chịu được gục xuống nôn.
- Chắc chắc là thằng mổ lợn đã giết! Tên Thư Sinh vừa nói vừa tức giận đến nghẹn lời, “chỉ có thằng mổ lợn có thân hình như trâu nước đó mới đủ sức giết thằng Hiệu anh, các cậu nghĩ xem, thằng Hiệu anh đi mua thịt, gã điên lại xuất hiện trong nhà hắn ta, các cậu nghĩ xem, trời….”
Nếu như thằng mổ lợn là hung thủ giết người, thì tất cả những chuyện rắc rối này có thể liên kết lại để suy luận. Thằng Hiệu anh đi mua thịt lợn, tên mổ lợn giết thằng Hiệu anh, lấy tim của thằng Hiệu anh rồi mang thi thể đến gần ngôi miễu đợi chúng ta đi thế là hắn liền vào miễu, giết luôn thằng Béo, rồi giấu thi thể của thằng Béo, tiện thể mang tên điên đó về nhà đợi chúng ta đến.
Nhưng vấn đề của giả thiết này là tất cả những việc làm đó đều làm trong ban ngày, trong làng này còn nhiều người khác nữa, tên mổ lợn không thể ngang nhiên thế được.
Vừa mang xác người đi, vừa làm sao để tránh người ta phát hiện, làm sao có thể một lúc làm hai việc đó được?
Trừ phi ngôi đền này có một mật đạo thẳng đến nhà nó. Đầu óc tôi bỗng sáng lên, nói lớn: “trong ngôi miễu này nhất định có cửa hông phía sau!”
Thư Sinh vỗ vào đùi một cái nói:
- Đúng rồi, nhà tên mổ lợn ngay sau ngôi miễu, nếu có mật đạo thật thì chuyện này có thể lý giải được. Hơn nữa, nếu thằng Béo có chuyện thì thi thể hắn nhất định phải được dấu trong ngôi miễu này.
Khâu Lão Tứ lạnh lùng nói:
- Các cậu có nghĩ tới chưa? Động cơ nào khiến tên mổ lợn giết người? Sao hắn phải giết luôn cả khách hàng của mình?
Thư Sinh bảo: “mọi người có nhớ cái quán đen trong truyện Thuỷ Hử không?”
- Cậu muốn nói là tên mổ lợn đã lấy tim người để muối ăn? Cuối cùng tôi cũng đã nói ra những nghi ngờ trong lòng.
- oẹ… oẹ… oẹ…
Cả Thư Sinh, thằng Hiệu em và Phong Vận Đan đều muốn nôn.
Ngoài tôi và Lão Tứ ra, mọi người ai cũng có ăn “tim lợn” của thằng mổ lợn cả.
Chúng tôi chờ tìm ra thi thể thằng Béo và mật đạo thông đến nhà tên mổ lợn xong rồi sẽ đến nhà tên mổ lợn tính sổ.
Đẩy cánh cửa đầy bụi bám của chính điện ngôi miễu ra, một mùi ẩm mốc bốc lên tận mũi. Trong ngôi miễu và ngoài sân như là hai thế giới khác hẳn nhau, tối om như mực. Chúng tôi tìm hai cây nến trắng trước đống bài vị trên bàn thờ, châm đèn lên, Khâu Lão Tứ và thằng Hiệu em mỗi người cầm một cây, theo bóng đèn nến chợp chờn lay lắt, chúng tôi men theo chân tường tiến lên, ai cũng nín thở chuẩn bị đón chờ những gì sắp xảy ra….
- Tiến lên đi, chúng ta tập trung lại một chỗ, không được chia ra. Khâu Lão Tứ nói với giọng thâm trầm.
Đi vào bên trong ngôi miễu mà cứ như đi vào lô cốt thời trung cổ, nền nhà một lớp bụi dầy, bên trên đâu đâu cũng có mạng nhện giăng khắp, thỉnh thoảng cây nến nổ lắp bắp, từng tia lửa loé lên bay ra rồi vụt tắt. Ngôi miễu quá rộng, trong lại có quá nhiều phòng, cứ đi ba bước lại có cái cửa, năm bước lại gặp phải tường ngăn, y hệt như mê cung thời xưa.
Vừa đi được mấy bước, tôi linh cảm như có điều gì, quay đầu nhìn lại, không thấy tên Thư Sinh đâu nữa.
- Sao thế, anh râu xồm? Thấy tôi dừng bước, Lão Tứ ngạc nhiên hỏi.
- Lão Tứ không thấy thiếu đi một người sao?
- Thiếu ai?
- Thằng Thư Sinh! Thằng đó đi đâu? Phong Vận Đan thét ré lên, âm thanh trong vắt chứa đầy sự sợ hãi vang vọng trong ngôi miễu trống vắng rộng thênh thang như tăng thêm sự quỷ quái của ngôi miễu này.
- Chắc là lạc đường với chúng ta rồi. Giọng nói lúc này của thằng Hiệu em tỏ ra rất bình tĩnh, sắt đá.
- Chúng ta phải tìm hắn trước đã, không thể để một mình nó ở lại lạc lối trong này được, nguy hiểm. Nói chưa dứt lời, Phong Vận Đan bỗng im bặt lại, cô linh cảm sự nguy hiểm đang rình rập, không chừng thằng Thư Sinh đang gặp sự nguy hiểm đó cũng nên.
- Chúng ta chia thành hai nhóm, phải tìm cho ra thằng Thư Sinh trước đã. Khâu Lão Tứ nói.
Bước chân thằng Hiệu em vẫn tiếp tục tiến lên phía trước: “Mọi người cứ đi tìm thằng Thư Sinh, để một mình tôi tìm cái mật đạo là được rồi”.
Khâu Lão Tứ đưa cây nến cho tôi cầm, bảo: “cậu và Phong Vận Đan đi với nhau, để tôi trông chừng Hiệu em.”
Vì anh trai chết nên thằng Hiệu em vô cùng kích động, tâm lý đó khiến cậu ta dễ dàng gặp phải nguy hiểm nhất. Tôi gật đầu, cầm tay Phong Vận Đan nói: “nào chúng ta đi thôi”
Đi ngược lại con đường mình vừa đi xem ra đỡ lo hơn là mò mẫm con đường chưa biết phía trước, những đoạn đường mình đã đi qua là những con đường mình đã nắm chắc thuộc lòng như trong lòng tay nhờ thế cả hai chúng tôi đỡ bị áp bức tâm lý.
- Đi ra theo cửa phía trước chính là con đường vừa rồi chúng ta đi vào đấy. Vậy thằng Thư Sinh đi đâu rồi? Chẳng lẽ hắn ta biết bay đi.
- Ai mà đoán trước được, tính tình thằng Thư Sinh này cổ quái kiểu gì ấy ai mà đoán trước được cậu ta đang giở trò gì?
Phong Vận Đan vừa nói vừa kéo tay tôi ra. Cửa mới hé mở, một bóng người đen ngòm nhào vào cô ta.
- Cẩn thận, tôi chưa dứt lời, Phong Vận Đan đã la toáng như trời long đất lở. Bóng đen đó nhảy vồ lên người cô ta, Phong Vận Đan vừa nhìn được mặt hắn thì đã ngất đi….
Đè lên người cô là một thi thể đầy máu, là thi thể của thằng Béo, mắt hắn trợn tròn, ngực trống rỗng, tim bị lấy đi, chết y hệt như thằng Hiệu anh.
Đây là con đường vừa đi qua, hơn nữa là con đường mà mọi người đã quan sát rất kỹ, không thể nào có sự sơ hở đến nổi không thấy thây người chết ở đây, thằng Béo nếu không phải do người ta vừa mới giết ngay đây thì cũng bị giết nơi khác rồi mang đến đây. Tôi ngồi xổm xuống cố trấn tĩnh để xem vết thương nơi ngực cậu ta, máu cậu ta còn chưa chảy hết, ngay cả hơi nóng trên thi thể vẫn còn.
Hung thủ nhất định đang ở trong ngôi miễu này. Mọi người nhất định phải tập trung lại một chỗ để chống lại chứ nếu chia ra thì nguy hiểm quá.
- Thư Sinh, nhất định cậu ta đã không may mắn rồi!
Tôi đẩy thi thể thằng Béo ra, lay lay cho Phong Vận Đan tỉnh lại rồi hốt hoảng kéo tay cô ta chạy nói: “nhanh lên, nhanh lên, chúng ta phải thoát ra đây thôi”
Phong Vận Đan chứng kiến cảnh tượng vừa rồi chết khiếp, đờ ra như trời trồng, tôi kéo bừa cô ta chạy tháo mạng, chạy qua hành lang, chạy qua chính điện, chạy qua phòng khác, thoáng một cái chúng tôi đã ra vườn sau ngôi miễu, tôi ném cây nến trong tay xuống đất, mặt trời đang treo cao, ánh sáng chói chang, tôi và Vận Đan thở như chết.
Dưới ánh sáng ban ngày, Phong Vận Đan đã phần nào hồi tỉnh, đỡ sợ, cô cởi chiếc áo ngoài đang dính đầy máu tươi ra, rồi ném đi thật xa.
Hai đôi mắt tôi cứ nhìn lên trời rồi nhìn xuống đất, cứ nhìn vào một khoảng trống vô hồn.
- Này Hồ Tử, hung thủ nhất định đang ở trong ngôi miễu này, hay là chúng ta gọi vài người dân làng đến đây giúp…?
Giọng nói Phong Vận Đan bỗng run lên như cầy sấy.
- Thi thể của thằng Hiệu anh đâu? Tôi hỏi.
Khi chúng ta đi, thi thể của thằng Hiệu anh vẫn còn nằm dưới gốc cây đa này cơ mà! Sao bây giờ không thấy đâu cả vậy?
Cả bộ bài tú dưới gốc cây cũng chẳng còn con bài nào nữa, thậm chí cả vết máu trên đất cũng chẳng còn. Nhìn lại nơi đây hình như vẫn bình yên như chưa từng xảy ra chuyện gì!
Phong Vận Đan ôm lấy hai tay, nói ấp úng, giọng nói đã trở thành tiếng khóc: “Đi thôi, đi thôi, Hồ Tử, chúng ta đi nhanh…”
Ánh mắt tôi đảo tới cái miệng giếng kia, chẳng lẽ câu chuyện kỳ quái mà Lão Tứ kể là thực? Chẳng lẽ có người giết người móc tim? Quả thực có người mang thi thể người chết quẳng xuống giếng?
Trong đầu tôi bỗng nảy sinh ý định táo bạo, không biết sợ sệt là gì, tôi muốn lật nắp giếng đó xem sao, rốt cục thi thể của Hiệu anh có ở trong đó không? Tuy nhiên lúc này việc tìm bằng chứng thi thể của thằng Hiệu anh đã không còn ý nghĩa gì nhưng tôi vẫn muốn biết sự thật là gì? Chúng ta hiểu quá ít về hung thủ trong bóng tối kia, chúng ta không biết hung thủ kia rốt cục là ai, là tên mổ lợn hay là ma quỷ trong truyền thuyết?
Việc mở cái miệng giếng giống như việc vén mở chân tướng sự việc, tôi không tự chủ được, cứ đi tìm viên gạch lớn, chạy đến cái miệng giếng kia. Phong Vận Đan sững người nhìn tôi, run cầm cập không ngớt.
Tôi nghĩ là máu điên trong tôi đã đến cơn, từ nhỏ tính tôi đã thế. Bình thường tôi rất nhát gan, nhưng một khi ai đó đã làm tôi nổi con ma lồi trong người lên thì tôi bất chấp tất cả, cho dù trời long đất lở cũng mặc.
Trước đây tôi từng ăn cắp, nhưng lần đó vì cô ấy làm tôi giận quá nên ăn cắp túi xách cho đã giận thôi.
Lần này tên giết người chọc giận tôi, nếu là có thật như trong truyền thuyết thì đằng nào cũng chết, chi bằng liều mạng xem chân tướng sự việc thế nào. Tôi đập mãi ổ khoá mới bật ra, hít lấy một hơi dài tôi dốc toàn lực lật tấm chắn miệng giếng lên. Bỗng trong giếng bật lên một cánh tay trắng bệch. Tôi giật thót mình, thụt lùi mấy bước rồi nhũn người xuống đất. Phong Vận Đan đứng sau lưng tôi bỗng như cấm khẩu không nói được lời nào, sự sợ hãi đã lên đến cực điểm, muốn thét lên nhưng không đủ sức nữa. Cánh tay cứ đưa lên cứng đờ ở đấy, tôi trấn tĩnh lại, từ từ tiến đến.
Đó là thằng Thư Sinh.
Tôi kéo thằng Thư Sinh ra, họ chết cùng một kiểu, bị moi tim, mắt trợn tròng…
Giếng không sâu, không có nước, khoảng một mét là đến bùn. Tên Thư Sinh bị nhét xuống, nên khi vừa mới lật nắp giếng lên thì cánh tay đã bật thẳng lên. Sau khi suy nghĩ một hồi, nếu tên mổ lợn giết người, nếu có con đường mật đạo thẳng đến nhà hắn, thế thì, sau khi chúng tôi rời khỏi nhà hắn, hắn đã chạy đến ngôi đền này trước chúng tôi, giết thằng Béo rồi giấu xác đi, rồi mang thi thể đã bị giết từ lâu của thằng Hiệu anh mang vào sân ngôi miễu rồi nấp trong này, thừa lúc chúng tôi sơ ý và bóng tối trong ngôi đền để giết tiếp tên Thư Sinh rồi ném xác tên Thư Sinh này xuống giếng. Thế rồi, sau khi hắn đoán chắc chúng tôi nhất định về tìm tên Thư Sinh thì mang thi thể của thằng Béo ra đặt ngay giữa đường rút lui của chúng tôi.
Hắn làm thế với mục đích là khiến chúng tôi không hiểu gì về sự việc đang xảy ra với chúng tôi và những chuyện đó hoàn toàn bất ngờ, như thế chúng tôi sẽ càng mơ hồ, trước tiên hắn muốn hù doạ cho chúng tôi khiếp đảm trước đã, không còn tin vào sự sống sót của bản thân thế rồi từ trong tối hắn đánh theo kiểu du kích, giết từng người một.
Nhất định mình không được rơi vào bẫy hắn, nhất định phải trấn tĩnh.
- Chúng ta… chúng ta… tìm người giúp đỡ đi. Phong Vận Đan nói trong run rẩy.
- Tìm ai? Dân trong làng này ư? Họ lạ thật đấy, họ chỉ cho rằng, tổ tiên họ đã trừng phạt vì chúng ta vào đây ngủ thôi, truyền thuyết đã kể họ bị giặc Nhật xâm phạm nên họ rất ghét những ai đi xâm phạm. Ý nghĩ trong đầu tôi ngày càng rõ ràng.
- Thế thì chúng ta đi thôi.
- Rời khỏi nơi này thì vượt biên ở đâu? Tôi không còn tiền để lo chuyện vượt biên nữa.
- Thế chúng ta phải làm gì bây giờ? Phong Vận Đan ngồi bệt xuống đất khóc.
Tôi kéo cô ta lại, để cô ta dựa vào vai tôi: “bây giờ chỉ còn cách là dựa vào chính bản thân mình thôi, tuyệt đối không thể để Khâu Lão Tứ xảy ra chuyện gì.”
Phong Vận Đan lau nước mắt, thần sắc từ sợ hãi trở nên kiên định: “Này anh Hồ Tử, tôi nghe theo anh”
Tôi nghiến chặt răng nói: “chúng ta cần bây giờ là vũ khí trong tay, đi, trước hết chúng ta đến nhà thằng mổ lợn kiếm mấy con dao, ông mày muốn dùng chính dao của mày để giải quyết mày”.
Trong phòng vẫn khói ngùn ngụt, nước trong nồi vẫn còn nóng nhưng tên mổ lợn đã chết.
Trên thềm bếp vẫn còn quả tim với con dao cắm lên quả tim đó, quả tim vẫn đang nhúc nhích đập khiến con dao cắm lên nó cũng rung theo…
Tên mổ lợn là người cao to khoẻ mạnh nhưng hiện trường cho thấy hắn không có chút chống cự nào cả. Tình hình này lại nằm ngoài sự dự liệu của tôi, sự việc càng lúc càng trở nên ly kỳ, khó hiểu, rắc rối, tôi vốn nghĩ là tên mổ lợn đã giết, nhưng giờ đây ngay cả hắn cũng đã chết, vậy hung thủ rốt cục là ai? Là ai chứ?
Phong Vận Đan bịt mồm rút lui ra ngoài, cứ gục người xuống nôn thốc nôn tháo. Lúc này đã xế chiều, ánh mặt trời từ bên ngoài rọi vào, cái bóng của Phong Vận Đan trải dài trong nền nhà.
Không, không, tôi thấy có những hai cái bóng người cơ! Một cái bóng đang nắm vật gì đó trong tay đang tiến đến gần cái bóng khác.
- Cẩn thận! Tôi đứng dậy, nhảy nhanh như mũi tên lao ra ngoài cửa chính, nơi cô Đan đang đứng, nhưng vẫn muộn, cô đã bị dao nhọn đâm từ phía sau lưng vào ngay giữa tim, miệng cô ứa máu tươi đỏ ối! Một cái bóng người nhanh như sóc thoát khỏi sân nhà, người đó mặc bộ đồ com lê xám, biến mất trong tầm nhìn tôi. Tôi đuổi theo nhưng không thấy đâu nữa.
Tôi vô cùng giận dữ đi vào nhà, ôm lấy Phong Vận Đan, thỉnh thoảng phải lau máu trên miệng cô, tôi cứ lặp đi lặp lại động tác lau mồm vô nghĩa đó, nước mắt rơi lã chã, Phong Vận Đan mở to đôi mắt kinh hoàng của mình nói: “Hồ Tử mang tôi đi khỏi đây ngay đi...”
- Mặc com lê xám, trên đời này rất nhiều người mặc nhưng ở đây chỉ có một người đó là Khâu Lão Tứ.
Đúng vậy, Khâu Lão Tứ là lời giải thích duy nhất hợp lý, nhất định ông ta đã khởi lòng tham khi thấy hai anh em thằng Hiệu có nhiều vàng bạc nên ông ta đã hẹn với đồng bọn để giết sạch chúng tôi nhằm chiếm đoạt tài sản. Đồng bọn hắn phần lớn là những người đi thuyền, nên lão ta mới lừa chúng tôi là có chuyện nên thuyền không đến đúng giờ được.
Sau khi suy nghĩ đắn đo mãi lão mới để cho chúng tôi đến ngôi từ đường này, đồng bọn lão ta đã phục ở đây trước. Lão bịa đặt chuyện hoang đường xoay chúng tôi như cái vụ, tại sao chúng tôi lại không nghi họ là hung thủ cơ chứ, thật là quá sơ suất. Vừa rồi tôi vừa sợ vừa tức thì giờ đây tôi như điên cuồng lên vì giận. Tôi vừa ra khỏi sân nhà của tên mổ lợn đã nghe thấy tiếng ai gọi: “Hồ Tử, sao cậu lại ở đây, tôi đã tìm ra cái cửa sau đó rồi!” phía sau tường của ngôi miễu một cái đầu thò ra, nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.
Đóng kịch thật giỏi thật, tôi nghĩ thầm: “Lão Tứ, ông thừa hơi rồi đấy, lén giết được tôi thì thôi, chứ nếu để tôi nổi giận lên, để tôi có cơ hội thì ông toi đời rồi!”
Sắc mặt tôi vẫn không thay đổi, hỏi lão Tứ: “cửa sau ở đâu?”
Khâu Lão Tứ nói: “Chính nó ở đây nè, tôi có cây thang để trèo, hung thủ đã vượt tường đi vào, cậu xem, vách nhà tên mổ lợn cũng có chiếc thang này”
- Mày muốn chứng minh điều gì?
- Hung thủ chính là tên mổ lợn kia.
Thật là người mắt sáng kể chuyện mù của bản thân, tôi nắm chặt cây đao trong tay: “thằng Hiệu em đâu?”
- Hắn đang ở trong nhà sau chúng ta, thi thể của thằng Hiệu anh bị mang lại đây, còn nữa, trong căn nhà đó còn có rất nhiều quan tài cổ, cậu đến đó xem đi, quái dị thật.
Tôi không nhịn được nữa, cười gằn hỏi: “Điều mà tôi cảm thấy kỳ lạ không phải là những chuyện này, mà là tại sao mày không hỏi thằng Thư Sinh, sao không hỏi Phong Vận Đan đi đâu?”
Khâu Lão Tứ ngơ ngác, để lộ ra nửa mình, rồi nhảy xuống bờ tường đứng trước mặt tôi hỏi: “Tên Thư Sinh đâu? Phong Vận Đan đâu? Hai người đó đã xảy ra chuyện gì rồi?”
Tôi đẩy thẳng con dao trong tay vào bụng lão hỏi: “làm sao mày biết bọn họ đã có chuyện? Mày đã biết trước rồi phải không?” cơn giận dữ của tôi như được trút hết, cứ bổ tới tấp xuống mình Lão Tứ.
“Cậu không nên làm thế, không nên làm thế” Khâu Lão Tứ gượng đưa tay trỏ vào tôi, tay kia ôm bụng nói, mấy chục vết đao cắm sâu vào người lão, máu tươi bắn tung toé, vọt lên cả mặt tôi. Khâu Lão Tứ không tin tôi lại có thể làm thế, rồi từ từ ngã quỵ xuống đất nói: “thì ra… thì ra là mày… mày là hung thủ”
Tôi bỗng như bừng tỏ chuyện gì, nhớ lại lời người ta thường nói: “chim gần chết tiếng kêu ai oán, người gần chết hay nói lời chân thực”. Khâu Lão Tứ sắp chết đến nơi, việc gì phải giấu giếm nữa, việc gì phải đóng kịch cho khổ? Chẳng lẽ ông ta không phải là hung thủ?
Tôi quỳ xuống hỏi ông Tứ “trong hành lý ông còn có bộ com lê xám không?”
- Xưa nay tôi chỉ mặc một màu com lê xám thôi… Nói xong lão tắt thở.
Tôi đã bị hung thủ thực sự lợi dụng, hung thủ đã lợi dụng bộ áo quần đó để mượn tay tôi giết Khâu Lão Tứ.
Tôi ngẩng đầu lên trời than rống như lợn bị mổ: “Trời ơi là trời…”
Bốn bề lặng ngắt, nhà cửa trong ngôi làng này, nhà này cách nhà kia khá xa, nhưng dân làng và ngôi miễu hình như gắn chặt lấy nhau, nó giống như bức thành trì, nhà dân chỉ là mấy cái chòi canh vào những góc, những hướng đặc biệt của ngôi đền. Theo lý, thằng Hiệu em sẽ nghe thấy tiếng rống vừa rồi của tôi, nhưng hắn không trả lời, hoặc là hắn quá đau buồn khi thấy anh trai chết hoặc là hắn cũng đã bị giết. Chỉ còn lại hai chúng tôi, hung thủ nhất định sẽ không bao giờ bỏ qua cơ hội này.
Tôi vuốt mắt cho Khâu Lão Tứ, thở dài nặng nề. Ra lấy cây thang bên tường nhà tên mổ lợn, nhảy qua tường, bên kia là một ngõ hẹp, con ngõ này ngăn cách giữa ngôi miễu và tường rào chung quanh. Trong ngôi nhà đó, có cửa bằng gỗ bọc thép bên ngoài, thép đã han rỉ hết, gỗ cũng mục theo không còn, đẩy cửa đi vào, toàn là quan tài!
Có đến mấy chục chiếc quan tài, cả mấy chục chiếc đều được đặt lên trên chiếc trường kỷ, dưới chiếc quan tài lớn nhất nằm ở giữa có xác một người chết, đó là thi thể của thằng Hiệu anh, dưới chiếc quan tài nhỏ nằm trong xó tường là thi thể của thằng Hiệu em, thằng này vẫn chưa chết hẳn. Thằng Hiệu em đang vùng vẫy trong vũng máu, ngực bị hở to tướng, tim đã bị kéo ra khỏi lồng ngực, hắn bò trên nền đất kéo lê quả tim theo. Quả tim vẫn còn đập mạnh, hình như tôi nghe thấy cả tiếng thình thình của nhịp tim hắn.
Xem ra tên hung thủ chưa kịp mang tim thằng Hiệu em đi thì đã bị tôi quấy nhiễu. Có thể đoán chắc rằng, hung thủ đang ẩn nấp đâu đây.
Tôi không chạy đến cứu thằng Hiệu em vội, hắn đã lâm vào tình trạng mà thần y Hoa Đà tái thế cũng không thể cứu sống, tôi không thể vì cứu một người đã chết mà quên mất sự đề phòng, không thể để hung thủ có cơ hội ra tay với tôi được.
Chỉ cách xác chết của anh trai có năm sáu mét thế mà thằng Hiệu em đã bò gần như nửa thế kỷ vẫn chưa đến, khi đã đến xác anh trai, hắn cầm lấy tay anh trai, tay kia hắn chỉ lên trời rồi tắt thở.
Bên trên? Bên trên kia là chiếc quan tài, chẳng lẽ thằng Hiệu em muốn ra hiệu cho tôi hung thủ đang ẩn nấp trong đó?
Nắm chặt cây dao nhọn hoắc trong tay, từ từ tiến đến chiếc quan tài đó, trong lòng đang nghĩ làm cách nào để đối phó với người trong quan tài. Nếu tôi chủ động bổ lấy nắp quan tài ra thì hung thủ sẽ thừa cơ khi tôi chưa kịp rút dao khỏi nắp để giết tôi. Nếu không chủ động mở nắp ra thì hung thủ trong quan tài cách tấm gỗ dày thế tôi cũng chẳng làm gì được hắn. Biện pháp duy nhất là đứng bên quan tài chờ, chờ mãi cho tới khi hung thủ xuất đầu lộ diện mới thôi. Trong căn phòng ẩm thấp, u tối quá, thỉnh thoảng lại có tiếng côn trùng lạ kêu vo vo. Cái yên lặng dị thường này khiến tôi toát hết mồ hôi vì sợ. Người trong chiếc quan tài kia rốt cục là ai?
Tôi hận là mình không như những cao thủ võ lâm như trong phim truyện, đá cho chiếc quan tài vỡ tan ra, giết luôn tên hung thủ trong đó. Đúng rồi, tôi không thể làm thế nhưng tôi còn thừa sức để phá vỡ nó ra. Không cần phải tự tay mở nắp quan tài ra, chỉ cần hất cẳng chiếc ghế kê chân kia của quan tài khiến nó mất chỗ đỡ sẽ tự rơi xuống bật nắp ra thôi.
Tôi nhẹ tay kéo hai thi thể của hai anh em thằng Hiệu ra khỏi phía dưới quan tài kẻo tí nữa quan tài đổ đè lên thi thể họ… Lúc đó tôi nghe có tiếng cười gằn….
Tiếng cười hình như từ trong chiếc quan tài phát ra, hình như không phải… tôi cảm thấy ớn lạnh sau gáy hình như có người đang nhìn từ phía sau lưng tôi. Quay phắt đầu lại nhìn, không thấy gì cả!
Hai tay nắm lấy chân ghế đỡ quan tài, dốc hết sức bình sinh kéo chân ghế ra, chiếc quan tài kia đổ xuống, một mùi thối nồng nặc bốc ra, tôi định thần phòng bị, chuẩn bị xông lên đâm cho tên hung thủ một nhát.
Chiếc quan tài nẻ làm mấy mảnh, không có ai trong cả, nhưng có rất nhiều quả tim, có quả đã rửa nát lên dòi, có quả vẫn còn tươi rói, đỏ ối. Hung thủ lấy tim người rồi để vào trong chiếc quan tài này, nhất định thằng Hiệu em đã phát hiện ra bí mật này, hắn chỉ tay vào chiếc quan tài này với dụng ý gì giờ tôi mới hiểu, hắn muốn tôi giúp anh hắn lấy quả tim từ trong chiếc quan tài này để vào ngực cho anh hắn.
Ở đây có nhiều tim đến thế, quả nhiên, Khâu Lão Tứ không lừa chúng tôi, truyền thuyết đó có thực, còn tôi, thật đáng chết, tôi đã giết nhầm Lão Tứ.
“Mẹ đi để một mình con lại… con còn trẻ đừng để con chết sớm thế…” Tiếng hát ngày càng rõ, ngày càng lại gần, tiếng bước chân từ trong chính điện ngôi miễu cứ tiến lại gần căn phòng đựng quan tài. Quay đầu nhìn lại, thấy thằng điên đang đứng trước cửa phòng.
Trong tay hắn cầm chiếc đao dính đầy máu, sắc lẻm, nhe miệng cười, ánh mắt sáng quắt, có thần, đầu tóc rối bời như ổ quạ và khuôn mặt xương xóc. Đang cười, bỗng hắn khóc oà lên, vung vẫy cây đao trong tay gào: “tôi muốn ăn tim, tôi muốn ăn tim”
- Mày chính là thằng điên kia? Tôi nghiến chặt răng quát hỏi: “Mày giả điên phải không? Mày chính là hung thủ”
Tên điên nghiêng người lại nhại lại giọng tôi, mồm hắn chảy nước dải ra hai khoé môi, hắn gãi đầu, nhìn tôi với nét mặt buồn bã, vẫn là giọng điệu cầu xin van lơn: “tôi muốn ăn tim… tôi muốn ăn tim…”
- Mày đừng có giả vờ giả vịt ra đấy nữa, mày là biến thái của thằng nhỏ đó, mày cơ bản không phải điên.
- Không, hắn điên thật đấy, hắn là thằng điên ăn trộm tim người. Giọng nói lạnh lùng sau lưng tôi…
Eo tôi lạnh toát, người sau lưng tôi đã đâm vào eo tôi, nếu tôi muốn chống trả, người kia chỉ cần đẩy nhẹ một cái thì tôi toi mạng. Nhưng lúc này, tôi tỏ ra vô cùng bình tĩnh, lạnh lùng quát hỏi ngược lại
- Mày là ai?
- Mày là người không sợ cái chết mà tao chưa từng gặp bao giờ, đến lúc này vẫn còn lòng dạ muốn biết tao là ai! Giọng nói người sau lưng kia có vẻ đã lớn tuổi.
- Không tao vẫn sợ chết, nhưng tao muốn làm một con ma rõ ràng, tất cả chuyện này rốt cục là gì?
- Mày muốn nghe thật à?
- Ừ, tao muốn nghe thực đấy!
- Được! Thế thì mày hãy nghe cho kỹ, tao kể cho mày. Bất kỳ ai chết sau cùng trong một nhóm đều phải nghe câu chuyện này. Gã sau lưng tôi lạnh lùng nói thế.
Thằng điên cũng tỏ ra bình tĩnh hơn khi nghe gã kia nói, dựa vào khe cửa thừ người ra.
- Trước hết, tao kể mày nghe một câu chuyện. Gã kia cứ thế mà kể với giọng điệu không nhanh không chậm. “Trước đây, có một cô gái tên là Hương Hương, lấy một thanh niên tên là A Phúc. Hai vợ chồng họ sinh một đứa bé trắng trẻo mập mạp kháu khỉnh, cuộc sống vô cùng mỹ mãn, gia đình hoà thuận. Nhưng đáng tiếc thay, mộng đẹp không dài! Một hôm, trong làng có một gã thanh niên khéo ăn khéo nói, hắn buông lời đường mật lấy lòng Hương Hương, gã thanh niên kia lừa rằng, có thể mang cô ra nước ngoài để sống cuộc sống hạnh phúc, Hương Hương không thể từ chối được sự quyến rũ đó, vứt đứa con đang còn cần bú mớm để theo gã thanh niên kia.”
Tên điên kia dường như đang chìm trong câu chuyện này, hắn nghe rất chăm chú, cứ thế người hắn cứ ngã dần xuống theo cái lưng đang trượt trên cánh cửa, hình như nó đang khóc.
“Sau khi Hương Hương ra đi, chẳng bao lâu, thằng bé kia cũng chết theo, chồng Hương Hương không ăn uống gì, cứ nghĩ cách ra nước ngoài mang vợ về, người trong làng bảo cậu ta, có tìm được về cũng vô ích, gã thanh niên kia đã mang trái tim của vợ mày đi rồi, gã thanh niên kia từ đó bị điên luôn. Người ngoài làng đã mang trái tim của Hương Hương đi, thì người thanh niên kia muốn lấy lại từ người ngoài làng này về, nhưng đáng tiếc thay, suốt mấy năm lâu như thế, những quả tim lấy được từ người ngoài làng không thể nào so sánh với quả tim của Hương Hương được.”
Tên điên kia chính là chồng của Hương Hương, trong đầu tôi loạn cả lên, quát: “Mày quả thực là thằng điên, người ta nói trái tim chỉ là trái tim tượng trưng, tức là tình cảm, thế mà tại sao mày lại nghĩ là quả tim thật chứ? Tại sao mày lại lấy tim người khác để thay thế tim vợ được?”
- Không chỉ là người khác thôi đâu, cả tim mày nữa đấy! Giọng nói của gã kia vẫn không nhanh không chậm, có vẻ vô cảm nói.
- Là người cha, đành bó tay nhìn con đau khổ, nên tao chỉ còn cách giúp hắn, hắn muốn lấy tim thì tao phải giết người giúp hắn lấy, hắn muốn lấy vợ, tao phải cố dành dụm đủ số tiền, các ngươi ở thành phố phải biết điều này, chỉ cần có tiền thì sẽ có vợ, có tiền thì không lo tim vợ bị người khác chiếm mà không lấy lại được.
- Giết người cướp hàng, thế tại sao các người lại giết luôn cả tên mổ lợn?
- Vì hắn đã nhìn thấy hai bố con tao leo lên thang, hơn nữa, hắn mua bán thịt muối lâu năm như thế chắc cũng giành dụm được khá nhiều tiền.
Quả nhiên hắn là bố của tên điên, đồng thời là tộc trưởng của làng này. Trong nơi hẻo lánh này, là tộc trưởng của một làng thật là có quyền lực! Tôi đã hiểu tại sao người trong làng này rất sợ gặp người khác, vì sao không thích nói chuyện với người ngoài. Họ chỉ dám nghĩ trong lòng nhưng không dám nói ra.
- Tao đã hiểu, tộc trưởng đại nhân, ở đây không những là nơi các ngươi giấu tim người mà còn là nơi các ngươi cất giữ tiền bạc do cướp được, các hành lý còn lại chắc đều là hành lý của những người ở vùng khác đến phải không?
- Mày thông minh thật! Đáng tiếc là, người thông minh không thể sống lâu được.
- Tôi cúi đầu xuống nhìn cây đao nhọn kia, độ dài đủ để đâm thủng hai người một lần, tôi cười gằn nói: “mày cũng là người thông minh nên không thể sống lâu được.”
Tôi giật người lại, con dao trong tay hắn đâm thẳng bụng tôi, không kịp giật tay vào đã bị tôi đẩy ngã xuống góc tường, lấy con đao trong tay, tôi gồng mình đẩy con dao dài qua ngực mình rồi xuyên luôn qua ngực hắn.
Tên điên vẫn cứ dở khóc dở cười, ngâm nga bài hát dành riêng cho thân phận hắn mà hắn thường hát vào đêm khuya. Trước khi tôi hoàn toàn mất hết ý thức, tôi thấy một cái đầu tóc bạc phơ gục xuống vai tôi. Tiếng côn trùng trong xó tường lại kêu lên, ngoài sân ngôi miễu, tiếng ồn ào vọng lại, rõ ràng có người gọi tên mổ lợn.
- “Anh mổ lợn ơi! Có nhà không? Có nhà không anh mổ lợn ơi! Tôi ngang qua đây muốn mua mấy quả tim lợn…”
Toàn bài văn kết thúc, Đào Tử hít một hơi thật sâu. Cô ghi nhớ rõ ràng “trong bảy ngôi làng ma” muốn chơi trò này phải khai báo thân phận trước, trong đó, kẻ vượt biên là phương án thứ hai cho người tham gia chơi trò này.
Trong bệnh viện rộng thênh thang nổi tiếng này, cách rất xa bảy ngôi làng kia nhưng vẫn cảm thấy lạnh người.
Chưa đầy nửa giờ đồng hồ, Đào Tử tận mắt trông thấy một bệnh nhân sắp chết, bệnh nhân được hoả tốc đưa vào phòng cấp cứu. Nằm trên giường bệnh, Đào Tử thấy tử thần đang kéo lê cái đuôi dài ngoằn của mình nhìn chằm chằm vào con mồi ngon đang thoi thóp hơi tàn là các bệnh nhân đưa đi cấp cứu vì chơi trò chơi này.
Vị bác sĩ vừa ra khỏi phòng cấp cứu của Hồ Tử, Đào liền chạy đón trước mặt hỏi thăm tình hình sức khoẻ của Hồ Tử. Vị bác sĩ chau mày trầm giọng hỏi: “Các đặc trưng của một cơ thể sinh học của anh ta vẫn bình thường nhưng ý thức hình như hoàn toàn tiêu mất, chúng tôi đã kiểm tra nhiều mặt về tâm sinh lý cho cậu ta, phát hiện thấy đại não của cậu ta bị kích thích quá mạnh.”
- Ý thức hoàn toàn tiêu mất? Đào Tử hỏi với giọng kinh ngạc. Điều đó có nghĩa là anh ta đang sống thực vật?
- Nếu không có biện pháp kích hoạt đại não anh ta, thì e rằng đó là khả năng khó tránh khỏi.
Bên tai “ù ù “ mấy tiếng, lời vị bác sĩ nói sau cùng kia hình như Đào Tử không nghe thấy gì nữa.
Sáng nay đang còn mạnh khoẻ thế mà bây giờ bác sĩ đã bảo đã trở thành cái xác không hồn?!
Kết quả điều trị đó khiến Đào Tử không thể nào chấp nhận được, cô ngồi bệt xuống ghế chờ trước phòng điều trị, lật lại xem cuốn nhật ký mà Hồ Tử viết cho cô.
Trong khi cô xem xong cuốn nhật ký, trong trang cuối cùng, mấy dòng chữ tiếng Anh xuất hiện: “Xin Lỗi cô Đào, trò chơi đã thắng, người tham gia chơi đã thua cuộc”
Trong khi xem dòng chữ này, Đào chợt nghĩ, u linh vất vưởng kia vẫn đang theo dõi mình, dòng chữ cuối cùng nhất định không phải do Hồ Tử viết.
Gấp lại cuốn nhật ký của Hồ Tử mà cô chợt nghĩ rằng, u hồn kia đang khiêu chiến với cô.