Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #11  
Old 15-04-2008, 08:18 AM
phamduy88's Avatar
phamduy88 phamduy88 is offline
Hoạt Thi Thần
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 785
Thời gian online: 1 ngày 6 giờ 32 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 25 Times in 20 Posts
Hồi 11

Hồi Gia Đã Song Ma
Đông Hải Phu Thê Biệt




Hãn Thanh nhắm hướng Đông Bắc phóng thật nhanh. Chàng biết thành Du Lâm ở cách đây vài chục dặm. Hãn Thanh muốn trắc nghiệm công lực bản thân nên dồn toàn lực bản thân vào đôi chân. Chàng hân hoan nhận ra thân pháp của mình giờ đây nhanh nhẹn hơn cả U Linh Tứ Vệ. Thế mà đôi vượn vẫn bám theo sát nút, không hề chịu kém một bước nào, chúng chạy bằng cả bốn chi, mỗi cái búng mình đã vượt quảng đường ba trượng, thân ảnh chỉ còn lờ mờ như bóng ma.
Hai khắc sau, Hãn Thanh ra đến đường quan đạo, cách cửa Nam thành Du Lâm vài dặm. Người ngựa qua lại khá đông, chàng và hai con vượn phải đi chậm rãi để dân chúng khỏi tò mò.
Nhưng đôi tuyết viên hiếm có đã không thoát khỏi những đôi mắt hiếu kỳ. Người ta ngắm nhìn, xôn xao, bàn tán và đổ ra vệ đường mà xem cho mãn nhãn. Đại Bạch và Tiểu Bạch chưa bao giờ thấy nhiều người đến thế, chúng sợ hãi đi nép vào Hãn Thanh, nắm lấy tay chàng.
Hãn Thanh mỉm cười trấn an chúng:
- Họ thấy hai người xinh đẹp nên ngắm nghía đấy thôi! Họ không có ác ý gì đâu!
Có lẽ chúng không hiểu được thế nào là đẹp xấu nên vẫn rụt rè.
Hãn Thanh biết không thể để kéo dài cảnh này, liền vòng tay hỏi một lão già:
- Mong lão bá cho biết nơi nào có bán ngựa và xe?
Lão vui vẻ chỉ lên hướng Bắc:
- Cách cửa thành một dặm có mục trường của lão họ Vương. Lão ta cũng bán cả xe nữa. Tráng sĩ cứ đến đấy mà mua.
Hãn Thanh cảm tạ rồi rảo bước, lát sau, chàng đã chễm chệ trên cỗ xe có mui bằng vải bạt.
Vùng quan tái phía Bắc Thiểm Tây cực kỳ lạnh giá, mới đầu Đông mà tuyết đã rơi dày, không gian u ám vì vầng dương chính ngọ chỉ chiếu sáng lờ mờ. Hãn Thanh ghé vào tiệm bán y phục bên đường trục chính trong thành mua ít áo quần.
Thấy chàng khoác áo ngự bào, đội nón rộng vành, đôi vượn cũng kéo tay chàng đòi hỏi...
Hãn Thanh cười xòa, nghĩ như vậy cũng hay, liền bảo chủ tiệm lấy thêm hai tấm áo khoác lông cừu và nón tre.
Chúng thấp hơn chàng nên tà áo phủ đến cổ chân, nếu thêm đôi ủng da nữa thì che được gần hết cơ thể.
Đại Bạch và Tiểu Bạch có dáng đi thẳng đứng như người nhưng hơi khệnh khạng một chút, vì vậy người trong tiệm phì cười khi thấy chúng xênh xang áo mới.
Lúc đầu, khi thấy đôi vượn to lớn bước vào ai cũng khiếp vía, giờ mới yên tâm mà cười nói:
- Râu ria của Hãn Thanh mọc đầy nửa mặt, chàng vẫn để nguyên, không buồn cạo. Mua thêm lương thực và nước uống, chất đầy vào xe xong, chàng rời Du Lâm, đi về hướng Tây.
Mười ngày sau, Hãn Thanh đến Tinh Châu, ghé vào thăm Hà gia trang.
Chàng lặng người khi thấy cơ ngơi của Tinh Châu Tài Thần giờ chỉ còn là đống gạch đá cháy đen, nham nhở.
Chàng hỏi thăm tòa thất phía trước, nghe nói họ bị tập kích đêm mười chín. Đêm ấy, trời nổi dông tố, và tối đen như mực, cát đá bay đầy thành, sáng ra người chung quanh mới biết Hà gia trang đã cháy rụi và đầy xác chết.
Hãn Thanh đoán rằng đây là thủ đoạn của Thần Tiên Giáo, lòng vô cùng lo lắng cho Mộ Dung Hầu Phủ, liền quất ngựa chạy như bay. Chàng kiêm trình ngày đêm, thay ngựa bốn lần mới đến được bờ bắc Hoàng Hà vào trưa ngày mùng tám tháng mười một.
Hãn Thanh bỏ xe ngựa, mướn thuyền con sang sông, rồi cùng đôi vượn trổ khinh công chạy về Lạc Dương. Lòng chàng nóng như lửa dốt nên chẳng còn lưỡng lự gì nữa, cùng Đại Bạch và Tiểu Bạch lướt đi như ba chiếc bóng, khiến người trên đường phải trố mắt ra nhìn.
Ngay tối hôm ấy, họ vượt sông Lạc Hà vào thành Lạc Dương. Hãn Thanh nhận ra có nhiều toán nhân thủ đi về hướng Hầu Phủ, liền đủng đỉnh bám theo.
Năm nay trời rét đậm, vùng phía Nam Hoàng Hà cũng đổ tuyết tơi bời.
Bách tính lên giường sớm, đường trong thành vắng tanh, dù chỉ mới giữa canh hai.
Thấy Hầu Phủ vẫn còn nguyên vẹn, chàng thở phào nhẹ nhõm. Hãn Thanh giả trang, quàng vai đôi vượn, ngả nghiêng đi hết một vòng quanh phủ để xem cách bố trí của đối phương.
Hầu Phủ chiếm tọa một khu đất rộng hai mươi mẫu vuông, đại môn nằm trên đường trục chính Bắc Nam, ba phía còn lại đều giáp với đường lộ nhỏ.
Với chu vi rộng như vậy, việc phòng thủ sẽ rất khó khăn vì không đủ quân số để rải ra. Trước giờ, Hầu phủ vẫn vững vàng là nhờ có doanh trại của Tổng Binh Lạc Dương đóng ở gần đấy. Nhưng qua trường hợp của Hà gia trang, chàng sợ rằng ưu thế kia không còn quan trọng. Bằng chứng là thủ hạ của Thần Tiên Giáo đã tràn ngập khu vực này.
Nhân số gia đinh trong Hầu Phủ chỉ độ hơn trăm, khó mà chống lại một cuộc tập kích vũ bão và chớp nhoáng.
Đến một đoạn vắng phía sau Hầu Phủ, thấy chung quanh không có ai, Hãn Thanh lao vút lên đầu tường. Độ cao trượng rưỡi chẳng thể làm khó dễ chàng và đôi vượn tuyết.
Tuy không bị phát hiện nhưng Hãn Thanh cũng hài lòng khi thấy những chốt canh được rải khắp nơi. Vậy là Nhất Bất Thông đã biết tin dữ ở Hà gia trang nên tăng cường việc phòng thủ. Bọn người đang ẩn mình trên cây kia không có lỗi vì thân pháp của chàng giờ đây đã đạt đến mức thần sầu quỉ khốc, vô thanh vô cảnh.
Chàng lại thông thuộc địa hình nên tiến vào rất dễ dàng, người lạ chẳng thể được như vậy.
Vượt hết vườn hoa, Hãn Thanh bảo hai con vượn lên cây hòe cổ thụ phía sau khu hậu viện.
Trong những ngày bôn hành, chàng và chúng có dịp gần gũi nên rất hiểu ý nhau. Do chúng không chịu ở trong thùng xe ngột ngạt, thường ra phía trước ngồi cạnh chàng. Hãn Thanh dần dần hiểu được ý nghĩa chủa những âm thanh và cử chỉ kia.
Có đôi thần vật trấn giữ mặt sau, Hãn Thanh yên tâm tiến vào. Thấy cửa sổ phòng Tiểu Thuần còn le lói ánh đền, chàng háo hức áp sát nép bên song của.
Tiểu Thuần vẫn giữ lối trang phục cố hữu, luôn luôn là một màu trắng trinh nguyên và mái tóc huyền buông xõa ôm lấy gương mặt xanh xao.
Giờ đây, nàng ngồi một mình nhìn ngọn nến chập chờn, nước mắt chảy dài trên má. Tuy không hề trang điểm nhưng nàng vẫn là người xinh đẹp nhất trong bốn vị phu nhân của Hãn Thanh. Chàng không hề biết nàng bao nhiêu tuổi và cũng không bao giờ hỏi, chàng chỉ biết mình yêu nàng bằng trái tim nồng thắm. Tiểu Thuần là mối tình đầu huyền hoặc của cậu bé mười ba tuổi, nên mãi mãi chẳng phai mờ.
Bỗng Tiểu Thuần đứng lên mở cửa rời phòng, có lẽ để đi vệ sinh. Hãn Thanh mừng rỡ bẻ cong song sắt chui vào rồi sửa lại như cũ. Chàng nhanh nhẹn nhảy lên giường, trùm kín trong chăn, hồi hộp chờ đợi.
Tiểu Thuần đã hí lộng chàng quá nhiều, giờ đây chàng phải trả đũa! Hãn Thanh còn trẻ nên đôi lúc cũng rất tinh nghịch.
Thấy Tiểu Thuần trở lại, Hãn Thanh bế khí nằm im trong bóng tối, vì biết võ công nàng rất thâm hậu.
Tiểu Thuần vô tình, điềm nhiên nằm xuống giường. Nàng đã tắt nến nên không thể nhận ra một đống lù lù ở mé trong.
Hãn Thanh lập tức vươn tay điểm nhanh vào hai huyệtCơ Môn trên đùi và hai huyệt Kiên Nguy trên vai đẻ phong tỏa tứ các hạ Tiểu Thuần. Chàng không quên điểm luôn huyệt Quyền Liêu để khóa xương hàm, phòng nàng cắn lưỡi tự sát và huyệt Á Môn để nàng khỏi la hét.
Sau khi ăn được Bạch Hỏa Quả, nhãn lực Hãn Thanh có thể nhìn xuyên đêm tối nên thủ pháp rất chuẩn xác.
Chàng còn thấy rõ dôi mắt huyền kia trợn tròn vì sợ hãi. Hãn Thanh bất nhẫn cúi xuống hôn lên trán nàng rồi thì thầm:
- Nàng là Bạch Nhật Quỷ Hồn còn ta là Tuyết Phụ Hồ Ly đây!
Nghe giọng nói quen thuộc, Tiểu Thuần ứa lệ. Vừa được giải huyệt đã ôm lấy trượng phu khóc vùi. Tính nàng kín đáo nên không khóc thành tiếng, chỉ nấc nhẹ, vai gầy run rẩy.
Lửa dục trong người Hãn Thanh rất vượng, nếu không nhờ Nhất Nguyên Tâm Pháp mầu nhiệm thì chàng đã biến thành kẻ dâm đãng. Nhưng đối với ái thê thì chàng chẳng cần phải giữ gìn, gầy ngay cuộc ái ân cho bõ những ngày xa cách.
Tiểu Thuần thẹn thùng đón nhận, bồng bềnh trong giấc mộng vu sơn.
Hãn Thanh xiết chặt thân hình óng ả thon dài, liên tiếp đưa nàng đến những bến bờ hoan lạc.
Cuối canh ba hai người vẫn chưa chịu rời nhau. Trời bổng nổi cơn giông gió, thổi ào ào như muốn lật cả mái ngói và hành lang.
Hãn Thanh thì thầm:
- Chắc là bọn Thần Tiên Giáo tấn công. Ta đã phát hiện có rất nhiều người khả nghi quanh phủ.
Tiểu Thuần trách yêu:
- Vậy sao tướng công không nói sớm mà cứ đắm mình vào chuyện mây mưa?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Võ công của ta giờ đây còn cao siêu hơn cả nàng, lẽ nào lại sợ hãi đối phương mà không dám ôm ấp ái thê?
Tiểu Thuần mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Thần Tiên Giáo đã liên kết với Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Động ở Tứ Xuyên để khuynh đảo võ lâm. Nam Thiên Tổng Giám Tư không Nhạ võ công cao cường và lại có tài hô phong hoán vũ. Chính lão đã tạo ra cơn giông tố ở Tinh Châu, cầm chân quan quân mà tiêu diệt Hà gia trang.
Hãn Thanh vội hỏi:
- Hà nhạc phụ, nhạc mẫu có sao không?
Tiểu Thuần lắc đầu:
- May mà Hà Tài Thần đã chuẩn bị sẵn đường ngầm trổ ra bờ sông nên Phi Châm Môn thiệt hại không đáng kể. Hiện giờ họ đang có mặt ở đây.
Hãn Thanh đã hiểu vì sao Hầu Phủ lại có đủ người để lập phòng tuyến dày đặc như vậy!
Chợt nhớ tới hai con vượn trên cây hòe, Hãn Thanh vội mặc y phục, mở cửa sau chạy ra vườn gọi chúng.
Đại Bạch và Tiểu Bạch đang khốn khổ vì cơn giông đe dọa nhổ bật gốc cây hòe, mừng rỡ nhảy xuống ngay. Hai chiếc nón rộng vành đã bay mất từ lâu.
Hãn Thanh đưa chúng vào phòng, giới thiệu với Tiểu Thuần:
- Day là Đại Bạch và Tiểu Bạch, kẻ trấn giữ Băng Hỏa Động!
Chàng bảo hai con vật:
- Hãy chào đại phu nhân!
Đôi vượn vòng tay cúi chào rất ngộ nghĩnh. Tiểu Thuần thích thú vuốt ve chúng:
- Ôi chao! Sao chúng đáng yêu quá!
Bỗng phía sau vang lên tiếng quát tháo, tiếng vũ khí va chạm vang trời.
Hãn Thanh, Tiểu Thuần vội chạy ra xem. Chàng phát hiện phía Bắc thành có một đám cháy lớn, liền bảo Tiểu Thuần:
- Không những chúng dùng tà thuật mà còn đốt kho lương thảo để quân triều đình phải lo cứu hỏa, không thể hổ trợ Hầu Phủ.
Tiểu Thuần trấn an:
- Tướng công yên tâm, lực lượng của U Linh Cốc cũng đã bí mật có mặt trong phủ, chúng ta đang giăng một mẻ lưới, chờ đợi bọn Thần Tiên Giáo!
Nàng chỉ lên nóc đại sảnh hai tầng:
- Tướng công nhìn kìa! Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường đang làm phép để phá tà công của đối phương!
Hãn Thanh nhìn lên, thấy một lão nhân mặc đạo bào trắng, tóc xõa đứng giữa hai người cầm đuốc. Đây là loại đuốc lân hỏa, tỏa ánh sáng xanh mờ, không tắt vì gió bão.
Đạo nhân kia tay cầm kiếm gỗ, tay cầm bó nhang, vẽ vào không trung những đường nét lạ lùng, miệng lâm râm khấn niệm.
Kỳ diệu thay, lát sau giông tạnh gió ngừng và Hầu Phủ sáng rực bởi mấy trăm ngọn đuốc. Phe đối phương hiện rõ là những gã mặc hắc y đen kịt.
Chúng chưa kịp hết ngơ ngác thì bị những mũi tên từ lùm cây, bụi hoa bay đến cắm vào cơ thể.
Tài xạ tiễn của đám môn nhân nhà Mộ Dung có sẵn trong huyết thống, chuẩn xác không thua người Mông Cổ.
Hãn Thanh thấy mặt trận phía sau rất vững vàng, liền kéo Tiểu Thuần ra phía trước.
Bọn thủ lĩnh Thần Tiên Giáo rất cao ngạo nên không thèm vào từ phía sau. Họ nhân lúc giông tố mịt mù, vượt tường vào thẳng sân gạch, bị trận mưa tên cầm chân.
Giờ đây, dưới ánh đuốc sáng rực, hai phe đang đứng đối diện nhau. Tuy thấy Hầu Phủ được phòng vệ nghiêm mật, vững chắc, nhưng Hải Hà Tiên Tử vẫn tin vào thắng lợi, vì mụ đã đem theo toàn bộ những cao thủ đầu não.
Nếu mụ biết rằng trong tầng dưới tối om của tòa đại lâu có cả Tề Tổng Giám và năm vị Phán Quan thì sẽ không còn đắc ý nữa.
Trên lan can lầu là ba người vợ của Hãn Thanh và bọn Chu Minh, Bạch Nguyên Giáp.
Không thấy Lão Hầu Gia đâu, Hãn Thanh hỏi Tiểu Thuần:
- Phải chăng gia gia đang ở trong mật thất?
Nàng gật đầu, đưa chàng vào cửa sau đại sảnh. Lối xuống mật thất nằm dưới chân cầu thang lên lầu.
Lão Hầu Gia đang ngồi trò chuyện với Đại Phán Quan, cạnh khay trà và giá nến. Trông Mộ Dung Cẩn như già đi nhiều. Tuy tin vào tướng số, nhưng sự mất tích quá lâu của cháu yêu đã khiến ông phiền muộn.
Thấy có tiếng chân người bước xuống thang, ông quay ra bảo:
- Thuần nhi đấy ư?
Cách ăn mặc của nàng đã rất quen thuộc với Lão Hầu Gia. Sau ngày được tin Hãn Thanh mất tích ở Hồ Sơn, Mộ Dung Cẩn hầu như không ngủ được và chỉ có mình Tiểu Thuần đủ sức thức để hầu hạ, trò chuyện với ông. Lạc Bình, Hà Hồng Hương, Đạm Vân đều ngáp dài lúc nửa đêm. Riêng Tiểu Thuần vẫn tỉnh táo như loài chim đêm.
Tiểu Thuần khẽ dạ, Lão Hầu Gia yên tâm tiếp tục đàm đạo, nên không biết rằng sau lưng Tiểu Thuần còn có một người nữa.
Tiểu Thuần cười gọi:
- Gia gia thử nhìn xem ai đây?
Từ lâu rồi, nàng không có giọng nói vui vẻ như vậy. Mộ Dung Cẩn giật mình nhìn lại. Hãn Thanh phục xuống ra mắt:
- Hãn Thanh bái kiến gia gia và Đại Phán Quan!
Mộ Dung Cẩn run rẩy nói:
- Tạ Ơn Phật tổ! Cháu yêu của lão phu đã về!
Lão ôm lấy chàng, hai hàng lệ già nua tuôn như suối.
Hãn Thanh cũng không cầm được nước mắt trước lòng yêu thương vô bờ bến của nội tổ. Chàng gượng cười:
- Để tiểu tôn quét sạch bọn cường địch rồi sẽ hàn huyên với gia gia.
Mộ Dung Cẩn buông chàng ra, cười khà khà:
- Nghe khẩu khí thì dường như ngươi lại gặp kỳ duyên nữa rồi phải chẳng?
Hãn Thanh ngượng ngùng gật đầu:
- Tiểu tôn may mắn có thêm được vài chục năm công lực.
Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường bỗng nói:
- Lão phu cho rằng công tử nên cải trang, bất thần xuất thủ mới mong hạ ngay được Hải Hà Tiên Tử. Kiếm thuật của mụ ta đã đến đỉnh cao của võ học, khó mà giết được! Mụ ta lại rất xảo quyệt, thấy nguy là đào tẩu ngay.
Hãn Thanh tán thành:
- Diệp đại thúc bàn rất phải, nhưng vãn bối không có mặt nạ!
Diệp Lãm Trường mỉm cười:
- Lão phu tuy là Đại Phán Quan nhưng võ nghệ còn kém cả Lục đệ, chỉ có chút tài môn về bùa chú tà thuật hóa trang.
Họ Diệp mở tay nải dưới chân, lấy rương gỗ đựng dụng cụ và nói:
- Lão phu sẽ biến công tử thành lão Hầu Gia. Đối phương khinh thường tất phải mắc mưu.
Thân hình và gương mặt Hãn Thanh khá giống Mộ Dung Cẩn nên việc dịch dung rất dễ dàng. Tóc đen rắc phấn thành trắng, râu giả làm bằng tóc của lão Hầu Gia. Dưới ánh đuốc, khó ai phân biệt được nên chẳng cần phải quá kỹ lưỡng. Chỉ nửa khắc sau, Hãn Thanh đã biến thành lão Hầu Gia. Chàng mặc y phục của ông nội, xách thanh Hầu Tước Kiếm cùng Tiểu Thuần ra ngoài.
Lúc này, cuộc chiến đang khốc liệt và phần thắng nghiêng về phe khách.
Hãn Thanh cho rằng Quang Minh Tôn Giả còn đáng sợ hơn Hải Hà Tiên Tử nên quyết tìm diệt lão trước. Lúc này Tôn Giả đang đấu với Tam, Tứ Phán Quan của U Linh Cốc, ở gần thềm đại sảnh.
Hãn Thanh giả giọng già nua:
- Khúc Tú Sơn, mau đền mạng cho cháu ta!
Nhất Bất Thông Chu Minh đang đứng trên lan can lầu điều động nhân thủ, kinh hãi kêu lên:
- Sao lão Hầu Gia lại ra đây làm gì?
Hãn Thanh không đáp, bước đến bảo hai bà lão họ Lâm:
- Nhị vị mau tránh ra.
Quang Minh Tôn Giả thấy con mồi xuất hiện, mừng rỡ nhẩy lùi, không đánh nữa. Hai vị Phán Quan vội cản Mộ Dung Cẩn lại, nhưng Tiểu Thuần đã ở phía sau cột truyền âm gọi họ.
Hai người hiểu ý, giả đò lúng túng, không dám ngăn bước lão Hầu Gia nữa.
Mộ Dung Cẩn giả đưa kiếm chỉ mặt họ Khúc mắng:
- Lão phu sẽ lấy đầu ngươi mà tế mộ Hãn Thanh.
Đêm nay, Thần Tiên Giáo đến đây cũng chỉ với mục đích bắt sống lão Hầu Gia, dùng tà pháp điều tra đường đi Kim Ngọc Bồng Lai Đảo. Khúc Tú Sơn thầm cân nhắc để khi xuất thủ không có hại đến mạng con tin.
Chính vì vậy, Tôn Giả chỉ dồn có sáu thành công lực đạo vào song thủ.
Khi lão nhận ra chiêu kiếm của đối phương hung hiểm tuyệt luân thì không còn trở tay kịp.
Hãn Thanh đã dồn hết công lực vào chiêu Sở Phách Nan Hồi, xé toang đám mây chưởng kình xanh nhạt, thọc kiếm vào thân thể Khúc Tú Sơn.
Thương thay cho một bậc kỳ nhân xuất chúng, vì tham sắc mà chết chẳng toàn thây. Ngực lão thủng chín lỗ và thủ cấp lăng lông lốc trên sân gạch.
Hãn Thanh hít liền một hơi dưỡng khí, lướt nhanh về phía Hải Hà Tiên Tử. Đấu thủ của mụ chính là Bắc Thiên Quỷ Hồ Tổng Giám Tề Phi Tuyết nhạc phụ của chàng.
Quang Minh Tôn Giả chết rất êm thắm nên Mai Thanh Phố chưa kịp nhận ra. Hơn nữa, mụ còn phải chú tâm đối phó với pho ®o ®nh Chưởng Pháp quỉ dị vô song nên không thể phân tán tư tưởng được.
Hãn Thanh lặnh lẽ tung mình lên không xuất chiêu Vũ Lạc Bình Sa, mũi kiếm chớp lên, hóa thành muôn ngàn giọt mưa lấp lánh, phủ kín đối phương.
Hải Hà Tiên Tử là người cơ cảnh, quyền biến, lập tức nhận ra hiểm họa.
Mụ vũ lộng bảo kiếm, chống đỡ cả hai người.
Nhưng giờ đây, Hãn Thanh đã có hơn hoa giáp công lực, kiếm thuật đạt đến mức vi diệu. Mũi kiếm chàng điểm như mưa vào lưới thép quanh thân đối phương. Đúng lúc màn kiếm quang kia bị chấn động bởi chưởng kình của Tề Tổng Giám, chàng thọc kiếm xuyên qua chỗ sơ hở, đâm vào ngực trái Mai Thanh Phố.
Nhưng Tiên Tử là nữ nhân và có gò nhũ phong to tròn, khêu gợi nên đã cản bớt lực đạo của đường kiếm. Mụ chỉ bị đâm gẫy một rẽ xương lồng ngực chứ không lủng tim. Người có kiếm thuật thượng thừa ra tay rất chừng mực, và rút ngay để tránh những đòn phản kích của đối phương. Hãn Thanh quên rằng Tiên Tử là nữ nhân nên không thọc sâu mũi kiếm hơn nữa.
Tiên Tử rú lên, trúng thêm một chưởng của Tề Tổng Giám văng ngược ra phía sau. Nhưng mụ không chết, đào tẩu mất dạng.
Đông Nhạc Thần Đao và Bắc Nhạc Quỷ Trảo vội mở đường máu đào vong. Nhưng trong Hầu Phủ đã biết tin Hãn Thanh trở vể nên mừng rỡ, bỏ mặc phe đối phương, không thèm truy sát. Thực ra ba trăm giáo đồ Thần Tiên Giáo chỉ còn sống vài chục mạng.
Đầu tháng chạp, Hầu Phủ rộn ràng khách bốn phương đến dự ngày đại hỉ của Tiểu Hầu Gia. Sau khi giết chết Quang Minh Tôn Giả và đả thương Hải Hà Tiên Tử thì danh tiếng của Hãn Thanh đã lẫy lừng thiên hạ.
Tuy không nhận được thiệp mời nhưng các đại phái như Hoa Sơn, Võ Đang, Hằng Sơn, Cái Bang... đều theo phái Thiếu Lâm đến dự lễ cưới.
Thần Tiên Giáo âm thầm khống chế các phái trong mấy năm qua, nhờ Hãn Thanh mà họ mới thoát vòng kềm tỏa.
Cái Bang thì nhớ ơn Bất Biệt Cư Sĩ đã cứu mạng tiền nhiệm cố bang chủ Đặng Nghi Trung. Đương kim bang chủ chính là hậu nhân họ Đặng.
Mấy chục bang hội lớn nhỏ ở Hà Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Giang Tô cũng mang lễ vật đến mừng đại hỉ. Chiến thắng của Hầu Phủ đã khiến họ tăng phần dũng khí, thôi không cống nạp cho Thần Tiên Giáo nữa. Họ đồng thanh đề nghị Tiểu Hầu Gia đứng đầu cuộc tiểu trừ Thần Tiên Giáo, tiêu diệt mầm họa cho võ lâm.
Nhất Bất Thông Chu Minh cười đáp:
- Chư vị cứ đem lực lượng đến Lạc Dương đúng ngày đầu tháng hai, chúng ta hội quân đánh một trận là xong.
Cử tọa đều hứa sẽ y hẹn. Nhân dịp này, Quỷ Hồ Tổng Giám tuyên bố rút lui và chức vụ Tổng Giám sẽ do Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường nắm giữ.
Trước khi trở về Tứ Xuyên, song thân của Tiểu Thuần đã cảnh báo rằng Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Động có ý định bành trướng vào Trung Nguyên, việc cho cao thủ hỗ trợ cho Thần Tiên Giáo chỉ là bước thăm dò. Họ sẽ mượn cớ báo thù cho ái tử Tư Không Cổn để kéo quân vào đất Hà Nam! Nam Thiên Tổng Giám Tư Không Nhạ đã kể rằng:
Hãn Thanh vì dành gái với Tư Không Cổn đã hủy chân gã ở Hán Trung.
Hãn Thanh ngớ người biện bạch:
- Bẩm nhạc phụ! Tiẻu tế chưa bao giờ bước chân đến thanh lâu!
Viên Nguyệt Hằng Nga dấm dẳng nói:
- Lúc ấy tướng công chưa cưới bọn thiếp, nếu có giải khuây cũng chẳng sao, hà tất phải giấu diếm?
Giọng nàng chua như dấm khiến ai cũng phì cười.
Tề Phi Tuyết tủm tỉm nói:
- Hay là hiền tế biết gã là người từng có hôn ước với Đạm Vân nên nổi ghen mà hạ thủ?
Hãn Thanh ngượng ngùng không biết nói sao. Bỗng chàng nhớ lại việc mình ném chiếc đĩa bạc vào chân gã dâm tặc khi gã chạy qua nóc kỹ viện Lan Hương. Chàng quay lại bảo ả thị tỳ hầu rượu:
- Ngươi ra gọi U Linh Tứ Vệ vào đây!
Lát sau, cả bốn gã Quỷ Tốt có mặt. Hãn Thanh hỏi Đặng Thám:
- Lúc vào trọ trong khách điếm ở Hán Trung, ngươi đã khai với chưởng quỉ tên thật hay giả?
Dặng Thám sợ hãi đáp:
- Dạ bẩm công tử! Thuộc hạ cho rằng không cần giấu diếm nên đã nói tên thật.
Hãn Thanh gật gù, bảo chúng ngồi xuống, rồi kể lại việc mình uống rượu trên lan can, bắt gặp một hán tử hắc y bắt cóc lương nữ, nên đã hạ thủ.
Tứ Vệ hiểu nguyên do, đồng thanh biện minh cho chủ nhân. Tứ Vệ Mễ Bất Thông nói:
- Bẩm chư vị! Hôm ấy cả bốn anh em thuộc hạ đều ở trong Lan Hương kỹ viện, còn công tử ở lại khách điếm. Quả thực người ta đã phải bắc thang trèo lên mái ngói để đưa thiếu nữ kia xuống.
Nhờ vậy, mọi người mới hiểu rõ nguồn cơn. Trịnh Công hài lòng nói tiếp:
- Có lẽ Tư Không Cổn đã cho thủ hạ điều tra khách điếm, biết được danh tánh người trọ trong phòng ấy! Thế mà gã lại bịa chuyện để vu khống cho Thanh nhi.
Tề Phi Tuyết lưỡng lự:
- Có thể Tư Không Tổng Giám biết rõ sự thực, vì quá hiểu tính nết con mình. Chẳng qua lão nham hiểm, mượn cớ ấy để thực hiện dã tâm! Lão phu chẳng lạ gì tâm địa của Tư Không Nhạ!
Nhất Bất Thông Chu mInh hỏi ngay:
- Thủ hạ của Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Động có bản lãnh gì lợi hại, mong Tề lão huynh chỉ giáo cho.
Họ Tề vuốt râu đáp:
- Tứ Xuyên là vùng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc nên Nam Thiên Thập Bát Động rất đông đảo và hùng mạnh. Trong lúc lão phu và đệ tử chỉ lo viện luyện đan và tu tiên, thì Tư Không Nhạ ráo riết thu tóm quyền lực và lợi lộc.
Đệ tử của lão ta đông đến hơn ngàn, ngoài khinh công và chưởng pháp Tổ truyền, họ còn được huyấn luyện đao pháp và xử dụng ám khí. Tóm lại, bản lãnh họ lợi hại hơn đệ tử bổn Cốc.
Thiết Địch Thần Y nói với giọng đầy hào khí:
- Néu Tiểu Hầu Gia chịu đem thủ pháp Sách Hồn Phi Tiễn truyền lại, thì lực lượng chúng ta sẽ đâu thua gì ai?
Mộ Dung Cẩn cười khà khà:
- Lão phu tán thành cao kiến của Bạch hiền điệt.
Bạch Nguyên Giáp thua lão Hầu Gia hai mươi tuổi, nên vui vẻ nhận vai con cháu! Hơn nữa, Hãn Thanh gọi họ Bạch bằng lão bá!
Tinh Châu Tài Thần Hà Hồng Tập mỉm cười:
- Lạo Hầu Gia phải nuôi cả Phi Châm Môn và U Linh Cốc, e rằng sẽ sạt nghiệp mất thôi.
Mộ Dung Cẩn xua tay:
- Tổ phụ họ Mộ Dung đã mang về từ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo số châu báu rất lớn, có ăn mười đời cũng không hết. Hà hiền điệt và Tề hiền điệt đừng bận tâm vì việc ấy.
Câu nói của ông đã khiến Hãn Thanh lo lắng:
- Không biết giờ này Hải Trường Công Chu Kích đã khởi hành chưa nhỉ?
Có lẽ tiểu tôn phải đi Sơn Đông ngay mới được.
Chu Minh trấn an:
- Lão phu đã cho người giám sát dinh Tổng Đốc Sơn Đông. Tuy họ Chu đã chuẩn bị xong thuyền bè, nhưng mùa đông năm nay lạnh giá chưa từng thấy, không những vịnh Liêu Đông đóng băng mà ngay ven biển phía Nam Sơn Đông cũng đầy những khối băng trôi. Vì vậy Hải Trường Công không dám ra khơi, có lẽ lão phải chờ đến sang xuân. Thanh nhi cứ yên tâm hưởng tuần trăng mật.
Bốn nàng đỏ mặt cúi đầu, nhưng vẫn liếc Hãn Thanh. Bốn đêm ân ái mặn nồng khiến họ chẳng hề muốn xa chàng.
Trong lúc Hầu Phủ đang vui vẻ như thế thì Tổng Đàn Thần Tiên Giáo trên núi Bách Phong Tung Sơn buồn như đưa đám.
Hải Hà Tiên Tử phải nằm im trên giường vì vú trái cương to như quả dưa hấu, đau nhức thấu trời.
Nhũ phong của mụ quá lớn nên vết thương sâu đến gần gang tay không thể nào đưa thuốc vào đến đoạn xương lồng ngực bị đâm gẫy.
Đây là ngoại thương phải trong uống ngoài thoa mới mong lành được.
Vả lại Tiên Tử đau xót cho gò bồng đảo mỹ miều của mình, dầu có được chữa lành cũng sẽ rất xấu xí vì núm vú đã bị đứt lìa.
TiênTử luôn miệng nguyền rủa Hãn Thanh, chửi lây cả bọn tỳ nữ và thủ hạ:
Mai Thanh Phố yêu quý sắc đẹp của mình còn hơn tính mạng, và rất tự hào về tấm thân tuyệt mỹ. Mụ cứ ước ao rằng Nhị Phán Quan Hồ Vượng còn sống để trị vết thương và khôi phục vẻ đẹp của bộ ngực.
Nhưng lão đã chết và chỉ còn một mình Thiết Địch Thần Y Bạch Nguyên Giáp là có khả năng ấy!
Và bên cạnh nỗi đau này, Tiên Tử còn có mối lo cho bá nghiệp. Đã mấy ngày nay các lão ma đầu không vào vấn an, phải chăng họ đã âm mưu làm phản, chiếm đoạt cơ nghiệp Thần Tiên Giáo?
Với thương tích trầm trọng này, Mai Thanh Phố không thể vận khí, và chỉ còn là nữ nhân yếu đuối, bất cứ ai cũng có thể giết được.
Sáu ngày trước, Nam Nhạc Nhất Tà đã dắt Lãng Đãng Hồng Nhan Chúc Tây Sương thoát ly Thần Tiên Giáo. Hải Hà Tiên Tử đã có lời hứa từ trước nên không thể ngăn lại. Mụ vốn tiếc vì đã nói rằng:
sẽ giải phá lời thề cho Tứ Đại Kỳ Nhân khi có người đả bại được mình.
Như vậy, Đông Nhạc Thần Đao và Bắc Nhạc Quỷ Trảo cũng sẽ ra đi, nhưng họ vẫn ở lại tức là đã có âm mưu thâm độc.
Mai Thanh Phố đã dùng võ công và thân xác để khuất phụ họ. Nay võ nghệ không còn, vú trái thì sưng vù, thâm tím, còn gì làm vũ khí nữa?
Ngoài trời tuyết rơi mù mịt, không gian lạnh căm căm, dù trong phòng đã có đến bốn chậu than hồng đỏ rực, Mai Thanh Phố vẫn nghe lạnh cóng vì ngực và vai trái để trần. Mụ không thể mặc áo và cũng không thể phủ mền lên bầu vú sưng tấy.
Hứa Hữu Tinh ra lệnh cho bọn tỳ nữ rút lui rồi cười bảo:
- Mai giáo chủ! Tư Không Tổng Giám đến đây chữa bệnh cho nàng đấy!
Họ Hứa mỉm cười nham hiểm, bước ra ngoài. Hải Hà Tiên Tử gượng nói:
- Mong Tổng Giám lượng thứ, thiếp không thể ngồi lên được.
Tư Không Nhạ là một lão già thấp đậm, to ngang, râu ria xồm xoàm, trông giống một gã đồ tể hơn là một đạo sĩ. Mặt lão thô tháp, quê mùa, mộc mạc. Nhưng nếu nhìn kỹ, đôi mắt dài nhỏ lấp loáng hàn quang kia, mới biết con người này cực kỳ xảo quyệt và tàn nhẫn.
Nam Thiên Tổng Giám cười hềnh hệch, để lộ hàm răng nhỏ như răng chuột.
- Bần đạo nghe tin giáo chủ thọ thương, vội đến xem có giúp được gì chăng?
Lão ngồi ngay xuống mép giường, lột phăng chiếc mền bông, khiến toàn thân Tiên Tử phơi bày lồ lộ. Mai Thanh Phố kinh hoàng khi thấy ánh mắt đối phương tỏa ánh dâm tà. Nhưng đã quá muộn vì Tư Không Nhạ nhanh tay phong tỏa và lột phăng chiếc quần.
Hải Hà Tiên Tử suốt đời đem nhục dục cám dỗ nam nhân, giờ mới thấm thía cảnh bị cưỡng bức.
Tư Không Nhạ trút bỏ y phục, hung hãn dày vò thân xác Mai Thanh Phố.
Dương vật của lão to lớn dị thường, khiến Tiên Tử phải sa lệ vì đau đớn. Lại thêm vú trái bị chấn động bởi nhịp giao hoan, làm Mai Thanh Phố chỉ muốn chết mà không được.
Tiếng gào thét của Hải Hà Tiên Tử càng làm tăng thêm niềm phấn khích nơi Tư Không Nhạ. Lão chỉ dừng tay khi mụ ngất đi.
Nam Thiên Tổng Giám tát mạnh vào mặt để nạn nhân tỉnh lại. Lão cười hăng hắc:
- Bổn nhân sẽ tiếp quản cơ nghiệp Thần Tiên Giáo, và thường xuyên viếng thăm Tiên Tử.
Tư Không Nhạ mặc lại y phục bước ra, để mặc Mai Thiên Phố với niềm chua xót, phẫn uất.
Kẻ từ hôm ấy, Hải Hà Tiên Tử trở thành món đồ chơi cho bọn lão ma đầu. Bà muốn cắn lưỡi cũng không xong, sống lây lất nhờ nước cháo nấu với sâm già!
Hải Hà Tiên Tử gieo gió nên gặp bão, chịu đựng khổ hình cho đến cuối tháng chạp mới qua đời.
Tổng Đàn Thần Tiên Giáo lập tức trương chiêu bài mới:
Ngũ Long Bang.
Bang hội này có đến năm vị đồng bang chủ là Nam Thiên Tổng Giám, Bắc Nhạc Quỷ Trảo, Đông Nhạc Thần Đao, cựu bang chủ Hứa Hữu Tinh, cựu bang chủ Kiếm Bang Từ Cư Chính.
Ngũ Long Bang gởi thư đến các phái trong thiên hạ, nói rõ tôn chỉ chung sống hòa bình, cùng góp sức phù trì chính khí võ lâm.
Diễn biến này đã khiến giang hồ ngơ ngác, không hiểu hư thực thế nào.
Cho đến khi một tỳ nữ của Hải Hà Tiên Tử đào thoát khỏi Tổng Đàn Bách Sơn, thì cái chết thảm khốc của Hải Hà Tiên Tử mới lộ ra ngoài. Nhờ vậy võ lâm càng sinh lòng cảnh giác với Ngũ Long Bang!
Nhất Bất Thông Chu Minh đã cho người giám sát chặt chẽ trọng địa đối phương. Vì vậy, họ đã phát hiện cuộc ra đi bí mật của năm vị bang chủ Ngũ Long Bang đêm rằm tháng giêng.
Năm lão ma đầu này đi về hướng Đông, chỉ mang theo chừng năm mươi thủ hạ. Hầu Phủ lập tức triệu tập cuộc họp mật để bàn bạc!
Nhất Bất Thông tư lự nói:
- Lạ thực! Vì sao cả năm cùng đi một lượt, không để ai ở lại trấn giữ Tổng Đàn?
Tề Phi Tuyết nói đùa:
- Dường như họ sợ mất phần chia nên mới phải có mặt đông đủ!
Hãn Thanh khẽ giật mình nhưng không nói gì cả. Chàng bàn sang chuyện khác:
- Theo lời tiết lộ của ả thị tỳ Thần Tiên Giáo thì nghĩa phụ Nhất Tà đã cùng Lãng Đãng Hồng Nhan rời bỏ núi Tung Sơn, chẳng lẽ họ có tình ý với nhau?
Bạch Thần Y gật gù:
- Dường như là vậy. Nếu không thì Nhất Tà đã đến Hầu Phủ dự hôn lễ của Thanh nhi rồi! Chúc Tây Sương là kẻ có tội trong tấn thảm kịch của giòng họ Mộ Dung. Vì vậy Nhất Tà hổ thẹn, đưa tình nhân mai danh ẩn tích.
Lão Hầu Gia thở dài:
- Nay kẻ chủ mưu là Hải Hà Tiên Tử đã chết, nếu Khúc Tây Sương thực tâm hối cải thì lão phu cũng bỏ qua chuyện cũ!
Hãn Thanh thầm khâm phục lòng độ lượng của nội tổ.
Nhất Bất Thông Chu Minh trở lại chủ đề chính:
- Lão phu đã cho người bám theo năm lão ma đầu, chỉ ít hôm nữa là sẽ biết họ đi đâu. Chúng ta hà tất phải lo cho mệt óc.
Ba ngày say, một gã Quỷ Tốt về báo rằng khi đến Trịnh Châu, bọn đầu sỏ Ngũ Long Bang đã rẽ về hướng Nam.
Đêm ấy Hãn Thanh không ngủ, nằm cạnh Tiểu Thuần, mắt mở trao tráo, nhìn ánh đèn lồng ngoài vườn.
Thấy ái thê đã ngủ say, chàng nhẹ nhàng rời giường, tìm đến ngọa phòng của nội tổ. Lão Hầu Gia vẫn chưa ngủ, đang ngồi bên giá nến đọc quyển Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử.
Ông mừng rỡ rót trà mời cháu yêu:
- Thanh nhi chưa ngủ sao? Hãy ngồi xuống đây uống với ta chén trà thơm.
Hãn Thanh nhấp vài hớp dịu dàng nói:
- Chắc gia gia cũng đoán ra ý định của tiểu tôn?
Mộ Dung Cẩn vuốt râu:
- Ta biết cháu không vì thê thiếp mà quên nghĩa vụ với sơn hà! Nay Hương nhi, Bình nhi đã có hỉ tín, tông mạch họ Mộ Dung không phải lo nữa, cháu cứ lên đường!
Ông lấy văn phòng tứ bảo ra vẽ lại hải trình đến Bồng Lai Đảo, rồi nghiêm giọng:
- Thanh nhi cứ đến Ôn Châu ở bờ biển Chiếc Giang, tìm chủ hãng thuyền Nam Dương Hải Vận Hoàng Hách Khai Nguyên. Cơ sở ấy có phân nửa vốn của Hầu Phủ. Họ Hách sẽ đích thân đưa Thanh nhi đi tìm Kim Ngọc Bồng Lai Đảo!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Gia gia hãy yên tâm, tiểu tôn sống lâu năm bên bờ Đạt Lai, bơi lội rất giỏi, chẳng thể chìm được đâu!
Mộ Dung Cẩn buồn rầu nói:
- Đạo trời sanh tử chẳng khác nhau, nhưng con người là giống đa tình, lão phu không lo lắng sao được? Thanh nhi hãy cố bảo trọng, đừng để lòng già tan nát!
Chàng cảm động nắm chặt bàn tay lão, hứa sẽ trở về an toàn. Thực ra, chàng không tin vào khả năng sống sót của mình, vì linnh cảm rằng năm lão ma đầu Ngũ Long Bang cũng đang trên đường đến Bồng Lai Đảo. Hải Trường Công muốn xây đế nghiệp nên cần phải lôi kéo những cao thủ như vậy. Và chỉ có số châu báu khổng lồ kia mới khiến bọn Quỷ Trảo kéo đi chẳng thiếu một ai.
Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, Hãn Thanh tuyên bố:
- Ta sẽ đi Đông Hải, Hồng Hương, Lạc Bình thai nghén phải ở lại!
Viên Nguyệt Hằng Nga phụng phịu:
- Mới tháng đầu, có đi cũng đâu ảnh hưởng gì?
Hãn Thanh tủm tỉm cười:
- Nhưng nàng đâu biết bơi?
Hồng Hương tròn mắt:
- Chẳng lẽ tướng công không mua nổi chiếc thuyền?
Cả nhà ôm bụng cười ngất. Đạm Vân tát yêu vào má Hồng Hương giải thích:
- Sao Hương muội ngốc quá vậy? Thuyền thì đương nhiên phải có, nhưng đại dương đầy sóng gió, bấc trắc phải giỏi thủy tính mới mong kéo dài sinh cơ khi hữu sự!
Bạch Thần Y tiếp lời:
- Người mang thai không nên đi biển, Hương nhi, Bình nhi đừng tranh giành nữa!
Sau lão Hầu Gia, Bạch Nguyên Giáp là người được tôn kính thứ hai, vì vậy, Hồng Hương không dám nói thêm.
Nhất Bất Thông Chu Minh bỗng nói:
- Dám hỏi lão Hầu Gia, Kim Ngọc Bồng Lai Đảo có vị trí tương ứng với đoạn bờ biển của phủ nào?
Mộ Dung cẩn cười đáp:
- Từ Ôn Châu, Chiết Giang, đi thẳng theo hướng chính Đông độ hai ngàn dặm thì đến nơi!
Chu Minh biến sắc:
- Thế thì tiểu điệt cho rằng Hãn Thanh chẳng nên đi nữa. Dường như bọn Ngũ Long Bang đã qui phục Hải Trường Công và đang trên đường ra Bồng Lai Đảo. Với võ công của họ và lực lượng quân binh của Hải Trường Công, dẫu chúng ta có kéo hết nhân thủ đi thì cũng không địch lại!
Lão Hầu Gia cười bí ẩn:
- Tuy ngươi thông minh nhưng chỉ đoán đúng có một nửa thôi! Bọn Quỷ Trảo quả thực đang lên đường ra đảo, nhưng không phải để hỗ trợ cho Hải Trường Công mà lên tiêu diệt lão ta mà giành lấy kho báu!
Cả nhà ngơ ngác không hiểu vì sao Mộ Dung Cẩn lại biết rõ nội tình như vậy?
Chu Minh thảng thốt kêu lên:
- Té ra lão Hầu Gia đã dùng dĩ độc công độc, chỉ đường cho Ngũ Long Bang!
Mộ Dung Cẩn vuốt râu gật gù:
- Đúng vậy! Bọn Nam Thiên Tổng Giám chỉ tham danh lợi chứ không thể mưu đồ phản loạn như Hoàng Thân Chu Kích. Lão phu chẳng nhẫn tâm để Hãn Thanh một mình gánh nặng trách nhiệm này, nên đã bí mật thương lượng với Ngũ Long Bang, dùng châu báu, của cải ở Bồng Lai Đảo bắt họ phải thề độc. Cả năm lão ma kia đã hứa sẽ giết Chu Kích và an hưởng cảnh giàu sang, không nghĩ đến việc xưng bá nữa!
Tề Phi Tuyết tiếp lời:
- Chính lão phu là người đi thương lượng! Tư Không Nhạ và bốn người kia đã viết lời trọng thệ lên giấy để đổi lấy hải đồ!
Bạch Thần Y cười khà:
- Thì ra lão Hầu Gia vì thương Hãn Thanh mà âm thầm làm chuyện này!
Chu minh giận dỗi:
- Sao lão bá không cho tiểu điệt biết?
Mộ Dung Cẫn vui vẻ tiếp:
- Lão phu chỉ muốn gây bất ngờ mà thôi! Giờ thì đến ngươi bày binh bố trận đấy. Lão phu sợ rằng hai phe ấy hợp tác với nhau, chia đôi số của cải trên đảo, bắt tay tạo phản thì nguy to. Vì vậy, rất cần đến tài trí của ngươi để vãn hồi cục diện!
Chu Minh được khen ngợi, liền bớt tự ái, đắc ý bảo:
- Lão Hầu Gia lường trước được hậu quả là tốt. Nếu lực lượng hai bên quân bình, không chừng Hải Trường Công sẽ dụ dỗ được Ngũ Long Bang. Số của cải khổng lồ kia dễ khiến họ quên đi lời trọng thệ!
Chu Minh nhăn trán ra vẻ đang lao tâm khổ trí để tìm phương sách, đầu ngón tay nhịp trên mặt bàn, khiến cả nhà đều nóng ruột. Hà Hồng Hương cười nhạt:
- Có gì mà nhị thúc phải suy nghĩ lâu đến thế? Theo ý tiểu điệt, chỉ cần tướng công và Trịnh đại thư lên đảo ẩn mình chờ có cơ hội là giết ngay lão Hải Trường Công kia. Sau đó phá hủy hết thuyền bè nhốt luôn bọn Ngũ Long Bang ở đấy. Lúc ấy lo gì thiên hạ không thái bình?
Mọi người hân hoan tán thành cao kiến của nàng! Chu Minh ngượng ngùng nói:
- Không ngờ tiểu nha đầu lại nói trúng ý lão phu như vậy!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Hương muội quả là có tài thao lược, thế mà ta không biết đấy!
Hà Hồng Tập thì khoan khoái bảo:
- Hương nhi khiến ta rất hãnh diện!
Mỗi người một câu khiến Viên Nguyệt Hằng Nga vô cùng sung sướng và thẹn thùng. Lạc Bình vuốt má nàng rồi bảo:
- Hương muội chỉ có tật hay ghen hờn chứ đâu phải ngốc!
Hồng Hương buột miệng nói ngay:
- Phen này ra Bồng Lai Đảo, mong Trịnh đại thư giữ tướng công cho chặt, nếu không chàng lại đem về dăm ba nàng ngư nữ nữa thì nguy to.
Cả nhà cưòi ngất, Hà Hồng Tập bực mình gắt:
- Mới khôn ngoan một chút đã hồ đồ ngay rồi!
Hãn Thanh thấy ái thê hỗ thẹn vội đỡ lời:
- Chẳng qua do Hương muội quá yêu tiểu tế nên mới hay ghen thế thôi Hồng Hương khoan khoái gật đầu:
- Tướng công là tri âm của thiếp!
Tề Phi Tuyết cố nín cười:
- Thôi đừng trêu ghẹo Hương nhi nữa! Lão phu đề nghị cho cả Đạm Vân và U Linh Tứ Vệ cùng theo. Nhưng phải tìm người giỏi nghề hỏa dược mới đánh đắm được mấy chục chiếc thuyền lớn kia!
Lục Phán Quan Khuất Qùy ứng tiếng:
- Đại ca quên là tiểu đệ đã từng làm trong mỏ đá Vân Nam suốt thời trai trẻ hay sao? Nghề hỏa dược đâu lạ lẫm gì với Khuất Qùy này!
Gần giữa tháng hai, bọn Hãn Thanh đã có mặt trên chiếc thuyền bườm tốt nhất của Nam Dương Hải Vận Hoàng.
Hách Khai Nguyên tuy đã gần sáu mươi nhưng vẫn còn tráng kiện, đích thân cầm lái cho thuyền ra khơi.
Thiết Địch Thần Y cũng có mặt trong chuyến hải hành này, vì muốn tìm hiểu những dược liệu quý trên Bồng Lai Đảo. Nhờ có ông mà bọn Hãn Thanh không bị hành hạ bởi những cơn say sóng!
Lục Phán Quan và bọn U Linh Tứ Vệ chẳng hề than phiền gì vì rượu ngon và thực phẩm ê hề. Thuyền trưởng họ Hách kia cũng là con sâu rượu, cùng khách nhâm nhi rất tương đắc.
Hãn Thanh thì bị hai nữ nhân giữ chặt trong phòng, thỉnh thoảng mới cho tham gia cuộc tửu chiến. Biển ái ân cũng ngút ngàn và đầy những lớp sóng hoan lạc.
Trời vẫn còn lạnh giá nhưng những tảng băng trôi đã tan cả. Gió Đông lồng lộng khiến thuyền đi chậm nên nửa tháng sau vẫn còn cách Kim Ngọc Bồng Lai Đảo hơn trăm hải lý.
Sáng hôm sau, Hãn Thanh và nhị vị phu nhân dậy thật sớm, lên mũi thuyền ngắm cảnh bình minh.
Vầng dương đỏ ối như nhô lên từ đáy biển, tỏa hồng cả biển Đông, cảnh tượng diễm lệ này khiến lòng người ngây ngất.
Nhưng đôi mắt tinh tường của Hãn Thanh đã kịp nhận ra có một người đang ôm mảnh ván, bồng bềnh trên sóng nước, có lẽ người ấy là nạn nhân của một vụ đắm thuyền.
Hãn Thanh vội báo tin cho Hách Khai Nguyên biết. Lão bèn lái thuyền về hướng ấy, và cử thủ hạ nhảy xuống vớt lên.
Đó là một chàng trai tuổi đôi mươi, thân đầy những vết xâm kỳ quái, và trên lớp da là lớp vẩy nhỏ như vẩy cá! Gã ở trần và chỉ quấn độc một mảnh khố bằng da chó biển.
Bạch Thần Y nhìn đôi môi nứt nẻ biết y đã chịu khát lâu ngày, liền hòa linh đan vào nước đổ từng muổng vào miệng.
Bạch Nguyên Giáp còn dùng kim vàng cắm vào tám đại huyệt trên thân trước. Lát sau, chàng thanh niên hồi tỉnh, ngơ ngác nhìn những gương mặt xa lạ chung quanh mình!
Rồi gã cũng hiểu rằng đã được những người này cứu sống liền quỳ lên vái lạy:
- Ta xin cám ơn các vị!
May thay, gã nói tiếng Bắc Kinh nên ai cũng hiểu. Lão tổ họ Mộ Dung đã kể lại rằng dân cư trên đảo Bồng Lai vốn xuất xứ từ nước Yên thời chiến quốc.
Khi nước Yên của thái tử Đan bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt, họ đã lên thuyền ra Đông Hải, tìm đảo hoang mà tị nạn, không ngờ lại bị bão thổi lạc đến tận phía Nam, cư trú Bồng Lai Đảo. Do không có giấy mực, nên chữ nghĩa mai một, chỉ còn lại ngôn ngữ đất Yên tức Bắc Kinh bây giờ!
Hãn Thanh đỡ gã đứng lên rồi hỏi:
- Phải chăng ngươi là người của Bồng Lai Đảo?
Chàng trai gật đầu:
- Đúng vậy! Ta rời đảo cách nay bảy lần mặt trời mọc để đánh cá, nhưng thuyền bị đàn kình ngư đập vỡ, trôi giạt đã ba ngày nay!
Hãn Thanh lấy ra một vỏ ốc màu đỏ tươi và óng ánh:
- Ngươi biết vật này không?
Chàng trai giật mình:
- Có! Đây là một trong những bảo vật bày trên bàn thờ Hải Thần. Nhưng cha ta kể rằng gần trăm năm trước cao tổ phụ của ta đã tặng cho một người họ Mộ Dung ở Trung Nguyên. Tại sao túc hạ lại có vật này?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta là Mộ Dung Hãn Thanh, cháu bốn đười của người ấy. Còn ngươi danh tính là gì?
Chàng trai mừng rỡ nắm tay chàng:
- Ta là Thạch Vỹ, con trai của chúa đảo Bồng Lai. Xét ra ta với ngươi là anh em, vì năm xưa tổ phụ ngươi với tổ phụ ta đã từng kết nghĩa huynh đệ!
Mắt gã sáng rực niềm hân hoan chân thành khiến Hãn Thanh cảm động, chàng vui vẻ gật đầu:
- Hay lắm! Thế ngươi bao nhiêu tuổi?
Thạch Vỹ bấm ngón tay tính toán rồi đáp:
- Dường như ta mười tám thì phải.
Mọi người trên thuyền che miệng cười thầm.
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta hai mươi, vậy ngươi phải gọi ta là đại ca!
Thạch Vỹ mừng rỡ ôm lấy chàng hôn lên má:
- Đại ca! Thế là Vỹ này đã có anh em rồi!
Bốn ngày sau, đại thuyền có mặt trong một vịnh hẹp, kín đáo ở phía Đông Bồng Lai Đảo. Bọn Hãn Thanh đã phải đi vòng ra phía sau đảo để tránh mặt Hải Trường Công và Ngũ Long Bang. Họ đã đến trước vài ngày và đang neo thuyền ở mé Tây đảo.
Đây là một quần đảo san hô, mà Bồng Lai Đảo là lớn nhất. Nếu không có hải đồ, chẳng thể nào tránh được những giải đá ngầm giữa các đảo nhỏ, và vương xa hàng chục dặm. Chính vì vậy, không có đoàn thuyền nào dám đi vào vùng biển hiểm ác này.
Tấm hải đồ của họ Mộ Dung chỉ vẽ lối vào đi từ phía Tây, nên cả hai phe kia đều đến bằng hướng ấy.
Thuyền của bọn Hãn Thanh đã vào được mé này là do có sự hướng dẫn của Thạch Vỹ. Thật ra, dân trên đảo đều tập trung ở phần phía Đông, vì nơi đây đất đai mầu mỡ, có thể trồng trọt được. Bìa đảo lại có vách đá cao ngất, chắn gió bão. Rừng cây rậm rạp, đầy thú và kỳ hoa dị thảo, được bảo vệ, chắm sóc rất tốt. Rừng cung cấp thực phẩm, củi đốt, lại che chở cho họ nên luôn được trồng thêm cây non, bổ sung vào những cây đã bị đốn.
Nửa Tây của đảo chỉ toàn là cát, đá, cây cối lưa thưa, được ngăn cách với phần còn lại bằng một cánh rừng già rậm rạp.
Và khác với truyền thuyết, trên mặt đất chẳng hề có vàng bạc, châu báu gì cả. Đó là do lời khuyến cáo của Mộ Dung Bích Cao tằng tổ Hãn Thanh Nên dân trên đảo thu lượm hết những vật gợi lòng tham kia, cất giấu vào một hang đá bí mật.
Điều này khiến cho Hải Trường Công và Ngũ Long Bang hoang mang, chưa vội ra tay chém giết lẫn nhau.
Nhác lại, khi thuyền cặp bến, Thạch Vỹ dẫn ngay bọn Hãn Thanh vào khu dân cư của đảo.
Thấy Thiếu Đảo Chủ còn sống trở về, những người đầu tiên gặp đã ba chân bốn cẳng chạy đi báo tin.
Lát sau, một lão nhân tuổi thất tuần và đoàn người đông đảo ra đón. Họ đều ở trần, đóng khố, tóc buộc ngang trán.
U Linh Tứ Vệ tròn mắt nuốt nước miếng khi thấy các nữ nhân đều để hở thân trên. Có điều lạ là trên da họ không có vẩy và những hình xâm như nam giới. Do đó, vẻ đẹp của những đôi ngực thanh xuân không hề bị giảm sút. Tuy nhiên cạnh đấy vẫn có khá nhiều những bầu vú nhăn nheo, chảy dài như trái mướp héo của những người lớn tuổi.
Lão nhân tóc bạc kia hơi khác với mọi người, vì quanh trán có chiếc vòng vàng, thay vì da cá, da thú.
Lão rưng rưng nước mắt, dang tay ôm lấy Thạch Vỹ:
- Tạ Ơn thần biển đã không cướp đi mạng sống của con trai lão!
Thạch Vỹ cười hì hì:
- Không phải thần biển mà là do Mộ Dung đại ca của hài nhi có đôi mắt sáng như Hải Ưng nên đã nhìn thấy hài nhi đang trôi giạt.
Chúa đảo Thạch Oai giật mình:
- Ngươi nói Mộ Dung đại ca nào?
Hãn Thanh vội bước đến bái kiến:
- Vãn bối Mộ Dung Hãn Thanh, cháu bốn đời của Mộ Dung Bích, xin bái kiến lão tiền bối!
Thạch Oai hoan hỉ ôm lấy chàng, hôn lên hai má, đúng như phong tục của đảo. Lão cười ha hả:
- Giòng họ Thạch nhà ta luôn ghi nhớ mối giao tình với họ Mộ Dung.
Nay hiền điệt lại tình cờ cứu mạng khuyển tử, đấy chẳng phải là chuyện trời cao có mắt hay sao?
Hãn Thanh kính cẩn nói:
- Tiểu điệt có ít thổ sản Trung Nguyên để tặng lão bá và dân trên đảo. Xin lão bá cho người phụ mang lên.
Thạch Oai mừng rỡ ra lệnh cho đám trai tráng. Họ đông đảo và rất khỏe mạnh nên chỉ hơn canh giờ sau đã chuyển hết mọi thứ đến sân nhà đảo chúa.
Ngoài vải vóc, chén bát, gương lược, còn có mấy chục rương văn phòng tứ bảo, sách vở.
Hãn Thanh giới thiệu năm nho sĩ trẻ tuổi đã tình nguyện ra Bồng Lai Đảo để khai hóa cho dân chúng.
Thạch Oai hoan hỉ phi thường:
- Hiền điệt nghĩ cả đến việc dạy Hán tự cho bọn ta, công lao này đáng được tôn là phúc thần của đảo.
Năm chàng nho sinh nghèo khổ kia cũng giống hệt như Tứ Vệ, cứ dán mắt vào thân thể của đám con gái nhà họ Thạch. Bạch Thần Y phì cười:
- Nếu đảo chúa muốn các thầy đồ này tận tâm dạy học, thì hãy mau gả cho họ những nữ nhân xinh đẹp.
Thời nào cũng vậy, phận nghèo hèn rất khó lấy vợ, năm gã này thi rớt nên chẳng nữ nhân nào thèm để ý đến. Họ tình nguyện ra đảo cũng chỉ vì phẫn chí và thèm một mái ấm gia đình.
Thạch Oai cười ha hả:
- Ở đây trai thiếu gái thừa, mỗi nam nhân đều có năm bẩy vợ, chỉ sợ các nho sĩ này không kham nổi đấy thôi!
Nghe nói thế, năm chàng học trò và bốn gã Quỷ Tốt sướng rơn.
Tiệc đã được dựng lên và hương rượu Thiệu Hưng đã khiến cả gia đình họ Thạch hài lòng. Thạch Vỹ hớn hở nói:
- Rượu Trung Nguyên thơm ngon khác hẳn rượu của đảo, uống vào nghe tâm hồn sảng khoái phi thường. Đại ca mang theo có nhiều không?
Hãn Thanh cười đáp:
- Không nhiều nhưng cũng đủ cho ngươi uống vài tháng, sau này cứ mổi năm một lần, ta sẽ cho thuyền mang rượu và những thứ cần thiết đến cho Bồng Lai Đảo!
Hai cha con đảo chúa hài lòng cười vang? Thạch Oai bỗng nói:
- Ba ngày trước, có hai đoàn thuyền lần lượt ghé vào mặt Tây của đảo, nhưng chưa dám vượt qua khu rừng. Nay hiền điệt lại đến đây, phải chăng hai sự kiện này có liên quan?
Hãn Thanh bèn thuật lại mọi việc và đưa ra kế sách để đối phó.!
Sáng hôm sau, Thạch đảo chúa dẫn một ngàn trai tráng mang đao xuất hiện ở bia rừng phía Tây. Bọn Hãn Thanh cũng đã cởi áo, xõa tóc, vẽ đầy người, đứng cạnh Thạch Oai, trừ hai nữ nhân.
Hải Trường Công đem theo tới ba trăm quân, nên lều vải san sát.
Cách đấy chừng trăm trượng là hai chục mái lều của Ngũ Long Bang. Cả hai phe đều mang theo hàng hóa, chất thành đống cạnh khu lều.
Mấy hôm nay, họ dồn đến sát bìa rừng, cao giọng gọi, cố tìm cách liên lạc với dân trên đảo, nhưng chẳng có ai đón tiếp, lý do vì toàn đảo đang lo lắng cho sinh mạng Thạch Vỹ nên chẳng vui vẻ mà đón khách.
Nay thấy đoàn người của đảo xuất hiện, Hải Trường Công và Nam Thiên Tổng Giám vội tiến lên.
Thạch Oai lạnh lùng hỏi:
- Chư vị đến đây với mục đích gì?
Hải Trường Công là một lão già tuổi lục tuần cao lớn, tóc đen nhánh, tay dài như tay vượn, râu hàm én, trông rất oai phong. So với dung mạo thô kệch của Nam Thiên Tổng Giám thì hơn hẳn. Lão tươi cười vòng tay nói:
- Lão phu là Chu Kích, biểu đệ của Đương Kim Thiên Tử đất Trung Hoa.
Nghe nói trên đảo này có đến mấy ngàn người đồng chủng, đang phải chịu sống cảnh bán khai, thiếu thốn, nên lão phu đến thăm, hầu tìm phương giúp đỡ! Nhân tiện cũng có ít vật mọn làm lễ ra mắt!
Thạch Oai ngắt lời họ Chu bảo Tư Không Nhạ:
- Lão phu hiểu rồi, còn các vị thì sao?
Nam Thiên Tổng Giám cười giả lả:
- Bọn lão phu là thương khách, biết nơi đây có nhiều đá màu xinh đẹp nên mang hàng hóa đến trao đổi.
Thế là hai phe thi nhau bày hàng của mình ra.
Thạch Oai gật gù, bốc trong túi da bên hông ra một nắm bảo thạch đủ màu, rải xuống mặt cát rồi cười bảo:
- Thứ đá này lão phu có nhiều đến nổi chỉ muốn xúc đổ đi. Nhưng qui củ của bổn đảo là chỉ giao dịch với vị khách nào có võ công giỏi nhất. Vậy nên nhị vị cứ việc so tài, ai giết được đối phương sẽ là khách quý của bổn đảo!
Dứt lời, lão ra lệnh cho thủ hạ ra vác hết hàng hóa của hai phe vào rừng.
Hai ngàn chàng trai lực lưỡng, da đầy vẩy và những vết xâm đã làm đối phương khiếp sợ không dám ngăn cản.
Thạch Oai nói tiếp:
- Hai bên đã có thể bắt đầu cuộc chiến, lão phu sẽ là trọng tài.
Hải Trường Công quay sang bảo bọn Tư Không Nhạ:
- Bổn tướng là Tổng Đốc Sơn Đông. Chư vị khôn hồn thì rời khỏi đảo ngay!
Đông Nhạc Thần Đao Lục Kính Nghiêm bước ra cười nhạt:
- Lão là quan đầu tỉnh Sơn Đông, vậy có biết danh tính của Đông Nhạc Thần Đao hay không? Ba trăm gã lính quèn kia chẳng bõ cho Lục mỗ thử đao đâu!
Hà Tu Nghệ tiếp lời:
- Còn lão phu là Bắc Nhạc Quỷ Trảo !
Nam Thiên Tổng Giám cười toe toét ngây ngô:
- Lão phu là...
Chưa dứt lời, Tư Không Nhạ đã lao đến như ánh chớp, vung chưởng tấn công Chu Kích. Tâm cơ của lão quả là hiểm độc, xảo trá khôn lường.
Nhưng hai võ quan bên cạnh Hải Trường Công đã liên thủ chớp đỡ cho chủ tướng. Chưởng kình của họ có màu đen mờ như khói bếp và hùng mạnh tuyệt luân.
Nam Thiên Tổng Giám bị đẩy ngược về phía sau, mặt xanh như tàu lá.
Bắc Nhạc Quỷ Trảo kinh hãi hô vang:
- Liên Hà Thất Tử!
Chu Kích cười dài:
- Đúng vậy! Bổn tướng là minh chúa tất phải có tôi hiền phò tá.
Cả năm tay đầu sỏ Ngũ Long Bang nhất tề xuất thủ, bọn bang chúng cũng xông lên. Thân pháp ®o ®nh và những luồng phấn độc kia chứng tỏ họ là đệ tử Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Động.
Đám thân binh của Chu Kích được tuyển lựa kỹ càng trong hàng vạn quân Sơn Đông nên cũng rất kiêu dũng. Có điều họ không sao chống nổi chất kỳ độc, thương vong rất nhiều.
Viên lãnh binh râu dài lập tức cho quân lui vào đống đá ngổn ngang ở bờ biển, dùng cung nỏ mà chống lại. Hai bên đều có thương vong, nhưng phe Ngũ Long Bang vẫn chiếm thượng phong.
Thân Pháp ®o ®nh cực kỳ nhanh nhẹn và quỷ dị, chỉ sợ mưa tên chứ không ngán vài mũi lẻ tẻ. Tiếng kêu la thảm khốc vang dội vùng bờ đảo vắng vẻ đã trăm năm.
Bên này, Liên Hà Thất Tử và Hoàng Thân Chu Kích giáp công năm đối thủ, có phần nhỉn hơn một chút. Hãn Thanh ngạc nhiên khi thấy võ công của Hải Trường Công rất cao siêu, xem ra còn hơn bất cứ ai trong Liên Hoa Thất Tử. Tay hữu của lão cầm thanh bảo kiếm tỏa ánh sáng xanh biếc, ngắn hơn trường kiếm một gang, ngang nhiên va chạm với tử quang của Đông Nhạc Thần Đao và khiến bảo đao mẻ từng miếng lớn bàng móng tay cái.
Như vậy, đây chính là một trong những thanh thần kiếm thời Chiến quốc. Vì hiện nay chẳng có lò đúc kiếm nào áp dụng kích thước ấy nữa. Tất cả những thanh thần binh như Thái A, Trạm Lư, Mạc Can, Can Trương, Long Tuyền.... đều ngắn hơn trường kiếm đương đại.
Có bảo kiến hãn thế trong tay, kiếm pháp của họ Chu càng thêm lợi hại, khiến Đông Nhạc Thần Đao vã mồ hôi hột.
Thiết Địch Thần Y nói với Hãn Thanh:
- Lão phu nghe đồn trong cung có nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô và thanh Trạm Lư Bảo Kiếm. Có lẽ Chu Kích đã lấy được cả hai, nên bản lãnh mới cao cường nhu thế.
Lúc này phe Bồng Lai Đảo đã ngồi cả xuống bìa rừng râm mát để tránh ánh mặt trời nóng bỏng.
Địa hình chỗ này vốn cao hơn bờ biển chừng nửa trượng, tựa như bậc thềm vậy. Vào mùa mưa bão, sóng biển dâng cao, tràn vào phía Tây đảo, xói mòn đất đá. Do đó mới tạo ra sự chênh lệch độ cao suốt chiều ngang Nam Bắc của phần Tây như vậy.
Cuộc chiến ngày càng khốc liệt, hai phe thương tích đầy mình, chỉ có Nam Thiên Tổng Giám và Hoàng Thân Chu kích là còn nguyên vẹn. Tư Không Nhạ nhơ khinh công quán thế, còn Chu Kích thì nhờ có bảo y hộ thân.
Hãn Thanh nhủ thầm:
- Không ngờ Hải Trường Công lại khó giết như vậy! Nhưng nếu ta xuất hiện thì gia gia sẽ mang tiếng với đời! Thôi đành chờ dịp khác vậy.
Đột nhiên, từ phía Nam của Bồng Lai Đảo vọng đến những tiếng kêu quái dị, cả một đoàn quái vật đông đúc kéo đến. Chúng chạy rất nhanh khiến cát bụi bay mù mịt như cả một đạo quân đang sải vó câu. Lúc đàn thú tới nơi, Hãn Thanh mới thấy rõ hình dáng đáng sợ của chúng. Đó là một loài bò sát bốn chân khổng lồ, thân to bằng con ngựa, da sù sì xám đen, tính cả chiếc đuôi bè ra như mái chèo kia thì dài đến hơn trăm trượng.
Môm của chúng ngắn hơn cá sấu, nhưng đầu những chiếc răng nhọn hoắt có chiếc lưỡi đỏ hồng, dài ngoằng, luôn thò ra thụt vào. Trên sống lưng, một hàng vây răng cưa chạy dài từ cổ đến chót đuôi, trông giống như loài kỳ nhông. Đàn quái vật này dường như lại bị hấp dẫn bởi mùi máu tươi nên lao thẳng đến đấu trường, xơi các xác chết và tấn công cả hai phe tham chiến. Bọn Hải Trường Công và Ngũ Long Bang vội liên thủ chống trả với đàn quái vật.
Toán đệ tử của Nam Thiên Tổng Giám sử dụng ngay chất kỳ độc trấn sơn Văn Hương Lạc Phách Phấn nhưng chẳng thấm thía gì! Thêm nữa, da thịt của những con vật quái dị này rất bền chắc, thản nhiên chịu đựng những nhát chém kinh hồn, dù rách da, đứt thịt, cũng chẳng hể sợ hãi, càng hăng máu xông vào. Nhũng chiếc lưỡi dài gần trượng, đầu chẽ làm hai kia nhanh nhẹn phi thường, cuốn lấy từng thân người đưa vào miệng.
Bọn Hãn Thanh đã đứng cả lên xem cuộc chiến. Họ mừng thầm vì đoàn quái vật kia không vượt dốc mà tấn công mình.
Thiết Địch Thần Y đã nhớ lai lịch đoàn thú. Ông thở dài nói:
- Dường như đây là loài hải long đã từng được nhắc đến trong những quyển cổ thư. Chúng thường sống ở Nam Hải, sao lại xuất hiện nơi đây nhỉ?
Thạch đảo chúa buồn rầu ứng tiếp:
- Sáu năm trước, vùng biển phía Nam đột nhiên mịt mù khói bụi, và hơn nửa tháng sau, đàn quái vật kia xuất hiện ở đảo này! Chúng xâm nhập vào cả khu dân cư, giết hại người và gia súc. Gần năm trăm trai tráng của đảo đã thiệt mạng mới đuổi được chúng đi. Chính vì vậy mới có tình trạng nữ đa nam thiểu như hiện nay.
Hãn Thanh nhớ đến số hỏa dược trên thuyền, liền trấn an lão:
- Thạch lão bá yên tâm. Tiểu điệt có cách xua đuổi đàn hải long này!
Chàng quay lại thi thầm với Lục Phán Quan. Khuất Qùy cùng U Linh Tứ Vệ đi ngay.
Lúc này Hải Trường Công và Nam Thiên Tổng Giám Tư Không Nhạ đã ra lệnh rút quân. Chần chờ thêm vài khắc sẽ không còn ai sống sót. Cả hai phe ba chân bốn cẳng nhẩy lên thuyền con, chèo nhanh về phía đại thuyền, bọn hải long không chịu buông tha, lao ngay xuống nước đuổi theo. Nước là môi trường quen thuộc của hải long nên chúng bơi rất lẹ, nhờ có bốn bàn chân có màng và cái đuôi dẹp, bè ra như mái chèo.
Cuộc tàn sát trên biển còn thảm khốc hơn lúc nãy. Từng chiếc thuyền con bị lật nhào và người trên ấy biến thành mồi ngon, tiếng kêu khóc, rên la thảm thiết át cả tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá. Rốt cuộc chỉ còn rất ít người lên được thuyền lớn. Thảm não nhất là đoàn quân của Hải Trường Công, họ chỉ dương bườm có một chiếc, bỏ lại ba chiếc vì đã mất đến hơn hai trăm người.
Sau trận này, có lẽ lòng tham của họ cũng phai đi, và không bao giờ dám đến Kim Ngọc Bồng Lai Đảo nữa! Lúc này, lệnh báo động đã loan ra, toàn thể nam nhân trên đảo, ước độ hai ngàn người đã có mặt cả ở cánh rừng, họ não lòng nhìn đàn quái vật đông hàng nghìn con, nhớ đến cuộc chiến khủng khiếp sáu năm trước. Lần này còn đáng sợ hơn vì chúng đông gấp đôi.
Bọn hải long đã thanh toán sạch số mấy trăm xác người mà vẫn chưa no, nên tiến về phía bậc thềm. Người trên đảo đã lập phòng tuyến sát mép, cố ngăn không cho chúng vượt lên. Nhưng đao thì ngắn mà lưỡi bọn quái vật thì dài gấp mấy lần, đã có mấy người bị cuốn lấy.
Lớp vẩy trên da không giúp họ thoát chết vì cú táp của hải long đã làm xương cốt dập nát. Nhưng may thay, hỏa khí đã nổ vang rền, những ống tre nhồi đầy hỏa dược được châm ngòi, ném vào miệng của bọn hải long, xé nát cổ họng của chúng. Gần trăm con hải long ngã gục, và hỏa dược cũng chẳng còn. Tuy nhiên, đàn quái vật mãi mê ăn thịt xác đồng loại nên không nghĩ đến chuyện tiến lên nữa. Bọn Hãn Thanh nhân dịp ấy mà nghĩ ngơi.
Thạch đảo chúa rầu rĩ bảo:
- Thuốc nổ đã hết, biết lấy gì để đối phó nữa đây?
Lục Phán Quan Khuất Qùy cười khanh khách, chỉ ra biển:
- Đảo chủ lo gì? Ba chiếc thuyền mà Hải Trường Công bỏ lại đều là tàu chiến, có súng thần công, dĩ nhiên hỏa dược rất nhiều!
Thạch Oai mừng rỡ bảo Thạch Vỹ và thủ hạ dùng thuyền con chèo ra vịnh biển phía Tây Cách bờ đảo hai dặm để lấy thuốc nổ.
Hãn Thanh cân nhắc:
- Dù có hỏa dược trong tay. Muốn giết sạch cả ngàn con quái vật này cũng không phải là dễ. Tại hạ cho rằng nên tìm cách đuổi chúng đi thì hay hơn. Thuở nhỏ, tại hạ đã từng học một quyển cổ thư, nói về những hòn đảo hỏa sơn ở Nam Hải. Có lẽ đàn hải long này cư trú trên vùng đảo ấy. Do núi lửa phun trào nên phải di cư. Nay ta cũng thử tạo cảnh tương tự, may ra chúng sợ hãi, kéo đi mà không trở lại nữa.
Thiết Địch Thần Y tán thành:
- Thanh nhi nói đúng! Bọn hải long này có ký ức bản năng rất tốt, nên mới nhớ đường quay lại Bồng Lai Đảo lần này.
Thạch đảo chủ mừng rỡ nghe theo kế hoạch của Hãn Thanh và những đống củi cũng đã chất đầy suốt dải thềm. Rừng ở ngay sau lưng nên công việc khá dễ dàng.
Lát sau, hàng ngàn đống củi kia bốc cháy, tỏa khói mù mịt, được gió Đông xua về phía đàn hải long. Đồng thời, một tiếng nổ kinh thiên động địa làm kinh hoàng cả đảo Bồng Lai. Lục Phán Quan đã khéo léo bố trí cho lực đạo nổ hướng ra ngoài, do đó, cát đá bay cả vào bầy quái thú. Quả nhiên, chúng không đủ khôn ngoan để phân biệt thực giả, sợ hãi mà xuống nước bơi đi. Khuất Qùy tiếp tục khai hỏa mấy lần nữa để tống tiễn.
Người trên đảo thấy tai họa đã bị đẩy lùi, mừng rỡ reo hò như sấm dậy.
Năm ngày sau, không thấy bọn hải long trở lại, bọn Hãn Thanh lên đường trở về Trung Thổ. Hỏa dược còn lại đến hai trăm cân, được Khuất Qùy hướng dẫn cách bảo quản và thao tác sử dụng, để Thạch đảo chúa dùng vào dịp khác. Thuyền rời Kim Ngọc Bồng Lai Đảo được tám ngày thì biển bỗng lặng im, không một ngọn gió, không gian một màu tím lịm.
Thuyền trưởng Hách Khai Nguyên lo lắng:
- Đông Hải đôi lúc vẫn có bão bất ngờ thế này rất nguy hiểm!
Vài khắc sau, cuồng phong nổi lên từ hướng Đông Nam, sóng biển cao đến ba bốn trượng, nhồi lắc con thuyền dữ dội. Bọn Hãn Thanh lên cả trên mạn, phụ giúp đám thủy thủ chống chọi với cuồng phong.
Bão càng lúc càng dữ dội, trời đất mịt mù và cuối cùng một đợt sóng cao mười trượng đã ập xuống, đập vỡ thân thuyền và dìm nó vào lòng biển.
Hãn Thanh vùng vẫy, gọi tên ái thê và người thân, chàng may mắn ôm được một đoạn cột bườm gẫy. Gục vào đấy mà khóc ròng.
Sau bốn ngày lênh đênh, Hãn Thanh trôi giạt vào một đảo nhỏ. Chàng ở lại đấy suốt tháng trời mới có thuyền đi ngang, đưa về bến Hàng Châu.
Tài sản của phamduy88

Chữ ký của phamduy88
[CENTER][B][SIZE=5]Click here: [/SIZE][URL="http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=6237"][SIZE=5][COLOR=darkgreen]Tà Đạo Tu Tiên Lục[/COLOR][/SIZE][/URL][/B][/CENTER]
[CENTER][B][SIZE=4][COLOR=red]Quyển 1: các dịch giả đang tiến hành dịch[/COLOR][/SIZE][/B][/CENTER]
[CENTER][B][SIZE=4][COLOR=magenta]Quyển 2: Đã bắt đầu, kính mong bằng hữu xa gần tiếp tục hỗ trợ bằng cách click vào link bên trên và đăng ký tên chương, nhanh nhanh nào [/COLOR][/SIZE][/B][/CENTER]
  #12  
Old 15-04-2008, 08:21 AM
phamduy88's Avatar
phamduy88 phamduy88 is offline
Hoạt Thi Thần
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 785
Thời gian online: 1 ngày 6 giờ 32 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 25 Times in 20 Posts
Hồi 12

Tá Đao Sát Nhân, Nhân Tắc Tử
Thái Hàng Sơn Hạ Ngộ Chi Lan




Hãn Thanh thờ thẩn bước đi giữa những dãy nhà hoa lệ. Nỗi đau khổ đã khiến chàng trơ trơ như gỗ đá, không còn thưởng thức được cảnh đẹp của Hàng Châu.
Chàng chỉ nhớ rằng mình có biết một đại nhân vật ở địa phương này, và cần lão giúp đỡ.
Người ấy là Giang Nam Thần Côn Bùi Toản, bang chủ Thần Côn Bang, bá chủ phủ Chiết Giang. Họ Bùi có đến dự đại hỉ của Hãn Thanh.
Lúc này trên người chàng là bộ y phục vải thô cũ kỹ của một tay thủy thủ tốt bụng. Người trên thuyền buôn đã gom góp tặng Hãn Thanh vài chục lượng bạc và ít quần áo cũ. Chàng đã gầy đi nhiều, gương mặt cháy đen vì nắng biển, râu ria phủ đầy, trông rất tiều tụy và hốc hác. Dù chàng có dỡ chiếc nón rộng vành đan bằng mây ra thì cũng chẳng ai nhận ra được Tiểu Hầu Gia.
Hãn Thanh đi về phía Nam thành Hàng Châu, đến phân đàn Nam Giao để tìm tổng đàn Thần Côn Bang. Chàng giật mình nhận ra trên nóc đại sảnh đang phất phới lá cờ lớn thêu hình năm con rồng xanh của Ngũ Long Bang.
Hãn Thanh hiểu rằng trong thời gian chàng lưu lạc ngoài biển Đông, bọn Nam Thiên Tổng Giám đã về đến Trung thổ và nỗ lực bành trướng thế lực! Chàng bỗng lo lắng cho an nguy của Hầu Phủ và thân quyến.
Hãn Thanh đành bỏ ý định tìm Giang Nam Thần Côn, vượt sông Tiền Đường, đi về hướng Nam. Chàng quyết định trở lại Ôn Châu báo tin dữ cho gia đình lão chủ hãng thuyền Nam Dương.
Không đủ tiền để mua ngựa Hãn Thanh đã dùng khinh công để vượt đoạn đường ba trăm dặm.
Ngọc Nữ Nhất ém tâm pháp và Nhất Nguyên Thần Công có những điểm tương đồng, nên Tiểu Thuần đã truyền lại cho Hãn Thanh khẩu quyết của pho khinh công Lưu Thủy Hành Vân. Đây là tuyệt học gia truyền của riêng dòng họ Trịnh, ngay giáo chủ Thiên Sư Giáo cũng không biết được.
Hãn Thanh nóng ruột nên lướt đi như nước chảy mây trôi, khiến lữ khách trên đường kinh hãi. Chiều hôm sau, chàng đã có mặt ở Ôn Châu, gõ cửa Hách Gia Trang.
Bọn gia đinh ngơ ngẩn khi chàng giới thiệu mình là Tiểu Hầu Gia Mộ Dung Hãn Thanh, thượng khách của Hách Khai Nguyên hai tháng trước.
Nhưng khi nhìn thấy kim bài Hầu Tước, chúng vội chạy vào thông báo.
Hãn Thanh hân hoan khi thấy Hách Khai Nguyên còn sống và đích thân ra đón khách! Lão cũng mừng sa lệ Ôm Hãn Thanh khóc ròng.
Chàng vội vã hỏi:
- Hách chủ nhân! Có bao nhiêu người thoát nạn?
Thâm tâm chàng nuôi hy vọng rằng bọn Tiểu Thuần cũng còn sống.
Nhưng câu trả lời của họ Hách khiến chàng chết lặng.
- Bẩm hầu gia! Lão phu và sáu gã thủy thủ bám vào những thanh gỗ trôi dạt ba ngày, rồi được thuyền buôn vớt lên. Những người khác thì không biết lành dữ thế nào!
Lão đưa chàng vào đại sảnh, buồn rầu nói:
- Họa vô đơn chí! Mong Hầu gia bình tâm nghe lão phu báo thêm một hung tin!
Hãn Thanh choáng váng, hít một hơi chân khí, cố trấn tỉnh hỏi:
- Phải chăng đó là tin từ Lạc Dương?
- Thưa phải! Hầu tước phủ đã bị cường địch tấn công vào đêm mùng chín tháng tư, trừ hoa viên phía sau, nhà cửa đều bị thiêu hủy. Có hơn hai trăm người cháy nám đen nên không ai biết tung tích của lão Hầu Gia và những người còn lại đâu cả! Hiện nay Hầu phủ chỉ còn là một đống gạch vụn điêu tàn.
Nỗi đau thương to lớn kia thấm sâu vào tâm hồn Hãn Thanh, chàng ngồi lặng lẽ, chỉ có đôi mắt là biểu hiện sự thống khổ vô bờ! Hách lão sợ hãi vội an ủi:
- Lão Hầu gia một đời tu nhân tích đức, chắc sẽ được hoàng thiên bảo hựu, mong công tử đừng quá bi ai!
Hãn Thanh lẩm bẩm:
- Tử sinh, họa phúc không khác nhau ư? Ta biết phải làm sao đây?
Hai mươi ngày sau, tức là sau Tết đoan ngọ năm ngày, Hãn Thanh đã về đến Lạc Dương. Chàng vào phạn điếm an qua quýt vài chén cơm rồi lần đến Hầu Phủ. Lúc này chiều đã buông ánh hoàng hôn đỏ rực nhưộm hồng cảnh hoang phế, ngổn ngang gạch đá nám đen.
Phía trước của đại môn có hai gã lính lệ canh gác, nên Hãn Thanh vòng ra mé hông vượt tường mà vào. Chàng vượt thẳng đến tòa giả sơn to lớn, cao ba trượng giữa hoa viên, mừng rỡ nhận ra cửa ngầm vẫn còn nguyên vẹn.
Hãn Thanh ấn mạnh vào ba viên đá lồi theo một thứ tự nhất định, cánh cửa đá thụt xuống, để lộ đường vào mật thất. Đấy là nơi bí mật nhất Hầu Phủ.
Chỉ có lão Hầu Gia và chàng biết được. Hầm ngầm này được xây dựng từ thời cao tằng tổ Mộ Dung Bích, để cất giấu của cải và ẩn thân khi binh biến. Lương thực và nước uống dự trữ đủ cho mười người sống suốt nửa năm. Ngoài ra còn có di hài của nội tổ mẫu Hãn Thanh. Mộ Dung Cẩn rất yêu thương bà nên bỏ ra ngàn lượng vàng, mời giáo chủ Thiên Độc Giáo ở Vân Nam đến ướp xác ái thê, đặt vào hòm bạc, nắp đậy pha lê Hà Lan. Lão Hầu Gia thường xuống mật thất một mình hàn huyên với thi hài của người mình yêu dấu.
Hãn Thanh bước xuống thang đá, phát động cơ quan đóng cửa, rồi nhanh chóng tiến vào. Vượt hết mấy chục bậc thang thoai thoải là đến cửa đá thứ hai. Cạnh cửa cũng có những ô gạch màu trắng, phải biết cách ấn mới mở được.
Cánh cửa hé ra, để lộ ánh nến bên trong khiến lòng Hãn Thanh bừng lên hy vọng. Chàng vẫn thầm van vái rằng trong lúc nguy cấp, lão Hầu gia sẽ đưa mọi người xuống đây lánh nạn!
Nhưng cạnh chiếc bàn bát tiên kia chỉ có một mình Mộ Dung Cẩn đang ngồi đọc sách! Hãn Thanh lao đến như cơn lốc, quỳ phục trước mặt ông sụt sùi:
- Gia gia! Tiểu tôn còn được thấy người!
Mộ Dung Cẩn ôm cháu khóc ròng:
- Ta đoán rằng thế nào cháu cũng sống sót trở về.
Hãn Thanh nghẹn ngào nói hỏi:
- Gia gia! Mọi người đâu cả rồi?
Lão Hầu gia buồn bã đáp:
- Đêm ấy! Ta vì lo lắng cho ngươi nên không sao ngủ được, liền âm thầm xuống mật thất tâm sự với nội tổ mẫu của ngươi. Ta có uống mấy chén rượu nên ngủ thiếp đi, không hay biết chuyện gì trên mặt đất. Đến cuối canh tư, ta trở lên thì Hầu Phủ đã biến thành biển lửa và không còn ai nữa cả! Ta bèn trở xuống mật thất chờ đợi cháu về.
Gương mặt Mộ Dung Cẩn hốc hác, sầu héo, mất hẳn vẻ phương phi, an lạc cố hữu. Hãn Thanh dù rất lo lắng nhưng vẫn gượng cười an ủi ông - Chu đại thúc là người cơ trí còn Tề nhạc phụ cùng các Phán Quan đều có võ công cao cường, chắc đã kịp đưa mọi người đào thoát. Tiểu tôn sẽ đi U Linh Cốc tìm họ!
Mộ Dung Cẩn gật đầu, nhưng bỗng nhớ ra rằng Hãn Thanh chỉ về có một mình, dung mạo lại tiều tụy khác thường! Ông kinh hãi hỏi:
- Bọn Thuần nhi, Vân nhi đâu sao không đi theo ngươi?
Hãn Thanh đành phải kể lại việc gặp bão bị đắm thuyền, và luôn miệng trấn an ông nội rằng:
Nếu bọn Hách Khai Nguyên và chàng sống sót thì những người còn lại cũng vậy! Võ công họ cao siêu nên dù có phải lênh đênh hàng tháng cũng không thể chết được.
Thực lòng, chàng chỉ tin vào khả năng sống sót của Tiểu Thuần. Nàng luyện Ngọc Nữ Nhất ém Công đã đến lớp thứ tám, có thể nhịn ăn, nhịn thở rất lâu. Lúc thuyền bị sóng đánh vỡ thì hai nàng ở dưới khoang, có lẽ đủ thời gian chuẩn bị cho tai họa.
Ngay đêm ấy, Hãn Thanh cùng lão Hầu Gia rời Hầu Phủ. Chàng đã đến Vạn An lữ điếm tìm Lục Tâm Hiền. Họ Lục rất mừng khi thấy Hãn Thanh và lão Hầu Gia. Lão cho biết Nhất Bất Thông Chu Minh và người khác không hề về đây! Ngoài ra, Lục Tâm Hiền còn tiết lộ việc Tổng binh thành Lạc Dương đã bị thuyên chuyển từ trước ngày xảy ra vụ tập kích Hầu Phủ Mùng chín tháng tư!
Tân Tổng binh là Tạ Dương Nhân đã dẫn quân rời thành vào trưa ngày tám tháng tư để đi Tảo Phủ ở Thiển Huyện. nhưng Lục Tâm Hiền đã cho người dò la ra rằng Thiển Huyện chẳng hề có tên giặc cỏ nào cả!
Hãn Thanh đoán rằng việc này có bàn tay của Hải Trừng Công Chu Kích nhúng tay vào. Như vậy, hiện nay Ngũ Long Bang đã trở thành tay chân họ Chu!
Sáng hôm sau, Hãn Thanh gởi lão Hầu Gia lại Vạn An lữ điếm rồi lên đường đi U Linh Cốc. Gương mặt đen đủi đầy râu và bộ y phục lái buôn đã biến chàng thành một khách thương hồ vùng Duyên Hải. Chiếc nón tre rộng vành cũng là đặc sản của đất triều Châu Phía Bắc Phúc Kiến! Trước khi tìm ra tung tích người thân, chàng không muốn phí thời gian đụng độ với kẻ thù.
Mười ngày sau, Hãn Thanh đã đến nơi, chàng kinh hãi nhận ra U Linh Cốc bị tàn phá chẳng kém gì Hầu Phủ, và không còn một bóng người! Vậy là bọn Tề Phi Tuyết đã trở về đây và bị Ngũ Long Bang đuổi theo đến tận sào huyệt, phải đào tẩu thêm một lần nữa.
Hãn Thanh nhớ lời kể của Tề Đạm Vân, vào cuối cốc tìm đường thông lộ bí mật, trổ xuyên lòng núi.
Cánh cửa đá nặng vạn cân vẫn còn khép kín, dù bãi cỏ phía trước bị dày xéo bởi hàng trăm dấu chân, và máu đọng lại thành vũng đen sì.
Hãn Thanh phát động cơ quan để mở cửa, lại thấy vết máu và băng vải nằm rải rác. Như vậy là người trong cốc đã thoát qua đường này.
Chàng vận công nhìn xuyên bóng tối, lướt nhanh dọc đường ngầm, ra đến thung lung bên kia núi. Hãn Thanh vận công gọi vang nhưng không thấy có hồi âm. Chàng thất vọng quay bước, trở lại U Linh Cốc, rồi lên ngựa đi ngay.
Hãn Thanh quyết định về Lạc Dương và sẽ đến Tổng Đàn Ngũ Long Bang đại náo một phen. Tuy không chắc sẽ giết được năm lão ma đầu, nhưng cũng chẳng thể cầm chân chàng. Trận chiến sẽ đánh động cho bọn Tề Phi Tuyết, Chu Minh biết chàng còn sống mà đến hợp lực.
Sau bảy ngày dong ruỗi, Hãn Thanh chỉ còn cách Hoàng Hà ba trăm dặm. Đến một giao lộ thì trời đã gần trưa, chàng ghé vào phạn điếm dùng bữa.
Đây là một ngã tư, rẽ hướng Tây là đến Vận Thành, còn hướng Đông là sang đất Hà Nam.
Hãn Thanh thấy hàng đoàn kỵ sĩ lũ lượt kéo về hướng Tây, có cả đoàn quân của Ngũ Long Bang nữa. Chàng hiếu kỳ hỏi gã tiểu nhị, thì được nghe đáp rằng:
- Bẩm quý khách, mười ngày trước, người ta phát hiện ở bìa một cánh rừng già ở gần Vận Thành có hai con vượn trắng, cổ đeo chuỗi ngọc một tím, một lam. Khi bị đuổi bắt thì chúng chạy vào sâu trong cánh rừng. Do vậy, thiên hạ đồn rằng cánh rừng ấy có một kho báu rất lớn. Hàng ngàn người đã đổ xô đến để tìm kiếm, nhưng chưa có kết quả.
Hãn Thanh vui mừng khôn xiết vì biết đấy là Đại Bạch và Tiểu Bạch. Hai chuỗi ngọc kia chính là của lão Hầu Gia tặng Ngũ Đài Ma cơ và Viên Nguyệt Hằng Nga. Chàng bảo tiểu nhị tính tiền và thưởng thêm cho gã. Hãn Thanh vội vã lên đường, theo các hào khách đến Vận Thành.
Lòng chàng luôn khắc khoải, bởi nhiều nghi vấn:
một là vì sao lực lượng Hầu Phủ đông đảo và tinh nhuệ như vậy lại phải tháo chạy trước Ngũ Long Bang. Phải chăng đối phương đã có thêm cao thủ hoặc có vũ khí gì rất lợi hại?
Hai là, vì sao đôi vượn kia lại đeo chuỗi ngọc của Lạc Bình và Hà Hồng Hương? Hay là trong đêm ấy, chúng đã đưa hai nàng đào thoát, chứ không đi chung với bọn Tề Phi Tuyết? Nhưng sao đã hơn tháng mà họ vẫn còn ở lại cánh rừng kia mà không đi U Linh Cốc.
Hãn Thanh nóng lòng thúc ngựa phi mau, vượt đi trước, cuối giờ mùi đã đến nơi. Lúc này, ở bìa rừng mé tả đã xảy ra cuộc chiến khốc liệt giữa mấy trăm đao thủ áo xanh của Ngũ Long Bang và một lực lượng áo trắng.
Bọn Bạch y kia sử dụng trường kiếm, đầu chụp mũ sắt, có hai sừng, trông rất quái dị. Hãn Thanh không nhận ra lai lịch của bang hội lạ lùng này, nhưng rất ngạc nhiên trước kiếm pháp hiểm ác của họ.
Xem ra bản lĩnh của các kiếm thủ áo trắng lợi hại hơn hẳn bọn đệ tử của Ngũ Long Bang Vốn là người của Kiếm bang và Tân bang hợp thành. Nhưng lát nữa đây, khi toán tiếp viện tới nơi, có lẽ tình hình sẽ khác hẳn. Chàng đã nhận ra hơn trăm gã áo xanh trên đường là thủ hạ Nam Thiên Quỷ Hồ Thập Bát Trại, vì hông chúng có đeo túi da đựng độc phấn!
Còn có một lực lượng thứ ba đứng ngoài quan chiến. Đó là những hào khách võ lâm đến tìm kho báu. Họ không ưa gì Ngũ Long Bang nên khoanh tay tọa sơn quan hổ đấu.
Dù hiện nay, Ngũ Long Bang đã uy hiếp được hầu hết các phái võ lâm, nhưng đối với đám cao thủ độc hành này thì đành bó tay. Họ ung dung tự tại dong duổi giang hồ, chẳng có gì để mất nên không biết sợ ai?
Võ lâm là chốn tanh máu, ân oán chất chồng, vì vậy, có rất nhiều người giấu kín lai lịch, dùng danh tính giả mà xuất đạo. ít nhất thì việc này cũng giúp họ không bị quan nha đến tận nhà truy bắt vì tội giết người.
Lần này phe Ngũ Long Bang được thống lãnh bởi Bang chủ Hứa Hữu Tinh và Bạch Diện Vũ Sĩ Hà Lai Minh Nam tử của Quỷ Trảo. Hà Lai Minh giờ đây đã trở thành Hộ Pháp của bang.
Đối thủ của họ là ba lão già râu đen tuổi lục tuần, đội mũ sừng bằng bạc.
Phép liên thủ của hai thanh trường kiếm kia rất lợi hại nên song phương vẫn ở thế quân bình.
Toán quân mã tiếp viện của Ngũ Long Bang đã đến nơi, và được dẫn đầu bởi một hán tử tam tuần áo xanh thẫm, ngự trên năm con rồng nhỏ bằng chỉ bạc Giống như Bạch Diện Vũ Sĩ vậy. Còn Hứa Hữu Tinh thì biểu hiện vai trò Bang chủ bằng Ngũ Long thêu chỉ vàng.
Họ Hứa quát vang:
- Tư Không Hộ Pháp! Mau tấn công vào sườn tả!
Hãn Thanh nghe vậy, đoán gã là Tư Không Cổn, con trai Nam Thiên Tổng Giám!
Dung mạo y không thô kệch như Tư Không Nhạ mà lại khá anh tuấn, trắng trẻo. Tuy nhiên, đôi mắt thâm quần vì tửu sắc kia vẫn tỏa ra ánh yêu mị, tà quái!
Tư Không Cổn cười hang hắc:
- Hứa giáo chủ yên tâm, thuộc hạ sẽ quét sạch chúng ngay thôi mà!
Dứt lời, gã ra lênh tấn công. ®o ®nh thân pháp và chất kỳ độc Vạn Hương Lạc Phách lập tức phát huy diệu dụng, loại liền mấy chục tên áo trắng.
Lão già đội mũ sừng bạc vội hú vang, gọi viện binh. Và từ trong rừng mà ra một đạo quân kỳ lạ.
Bọn này đội mũ sừng bằng đồng che kín cả mặt, thân phủ lớp áo da đen bóng. Thanh kiếm của chúng dài và có bản lớn hơn kiếm thường. Độc đáo hơn nữa là đám này không sợ độc và chiến đấu bằng kiếm trận.
Phe Tư Không Cổn đành phải dùng đao và chưởng pháp để đối phó vì chất độc không còn tác dụng. Vòng vây kiếm trận xiết dần lại, hạn chế sự di chuyển của ®o ®nh Thân Pháp và bắt buộc đối phương phải chấp nhận cận chiến.
Giờ đây mới thấy rõ sự lợi hại của hai trăm gã mũ đồng. Họ rất nhanh nhẹn, dũng mãnh và không sợ chết là gì, mỗi nhát kiếm tung ra đều mạnh mẽ như chẻ núi, chẳng hề chùng bước dù vũ khí kẻ địch sắp chạm vào người.
Thì ra họ được lớp bảo y đen bóng kia che chở, làm giảm mức độ tổn thương nên sẳng sàng đổi mạng. Lối đánh của họ đã khiến phe Tư Không Cổn khiếp sợ và thương vong rất nhiều.
Hãn Thanh tự nhủ:
- Chủ nhân của đám người đội mũ sừng kia chắc cũng là kẻ có dã tâm không nhỏ nên mới âm thầm đào luyện một đạo quân kiên dũng như thế này.
Bỗng chàng nghe từ sâu trong rừng vọng ra tiếng hú ai oán của con Đại Bạch, chàng liền thúc ngựa đi ngược trở về, vài chục trượng. Đến chỗ vắng vẻ Hãn Thanh giấu ngựa rồi lướt vào rừng.
Thỉnh thoảng, chàng gặp vài gã áo da, mũ đồng đứng canh gác, nhưng không nỡ giết, chỉ tránh mặt chúng. Thủ pháp Kim Sa ấn có thể đánh vở gạch đá nên dù chúng mặc áo da cũng không thoát chết! Đây chính là phép Cách Sơn Đả Ngưu thất truyền từ lâu, chỉ mình Bất Biệt Cư Sĩ luyện thành, và truyền lại cho Hãn Thanh! Nhưng chỉ sau khi ăn Băng Hỏa Quả, có hơn hoa giáp công lực chàng mới thi triển nổi.
Hãn Thanh định hướng bằng tiếng hú não ruột cao vút của đôi vượn, băng mấy dặm đường rừng, tiến vào trọng địa của bang hội quái dị kia.
Cuối cùng, trước mắt chàng hiện ra một trảng cỏ rộng lớn giữa có một tảng đá khổng lồ, cao đến hai ba mươi trượng, đường kính độ tám trượng, trên dưới bằng nhau như chiếc trụ.
Bốn bề tuy không hoàn toàn nhẳn nhụi nhưng cũng không ai trèo lên nỗi. Do vậy, người nào đó đã khổ công đục lỗ ở sườn Nam, cắm thân gỗ vào để làm thang lên xuống!
Và giờ đây, đôi Tuyết Viên đang vắt vẻo trên lưng chừng thang, cố đẩy lùi bước tiến của bọn mũ sừng đồng. Hỗ trợ cho bọn này là hàng trăm tên mũ sắt trang bị trường cung. Chúng nhắm vào Đại Bạch và bắn như mưa.
Chỉ huy đạo quân này là lão đội mũ sừng bằng vàng diệp, che kín cả mặt, chỉ còn để lộ chùm râu dài đến ngực đen nhánh. Bên cạnh lão ta còn có bẩy lão đội ngân khôi. Hãn Thanh biết mình có xuất hiện cũng chưa chắc cứu được người thân, liền lặng lẽ trèo lên một cây Chương Hương cao vút.
Từ vị trí này, chàng đã nhìn thấy sào huyệt đối phương trong cánh rừng mé tả, cuối trảng cỏ. Hãn Thanh thấy Tiểu Bạch múa tít một cành cây lớn còn cả lá, đánh bạt những mũi tên, che chở cho Đại Bạch giáng chưởng xuống đầu kẻ địch. Chàng yên tâm thi hành kế sách của mình.
Hãn Thanh tuột xuống, cắt rừng đi vòng về phía trọng địa của bọn mũ sừng. Chàng lướt như bay, mặc cho gai góc cào rách bộ y phục trên người.
Nửa khắc sau chàng đã đến nơi, vòng ra phía Nam xem xét. Thì ra toàn bộ công trình nơi đây đều bằng gỗ, mái lợp lá, được bao quanh bởi một phòng tuyến sâu sáu trượng, dầy đặc bụi cây gai độc.
Hãn Thanh đã đọc qua Độc Kinh nên biết đây là loại cây Thiên May Thảo của đất Qúy Châu. Không những gai có độc mà cả mùi hương cũng có thể giết chết được người. Lại thêm bọn ong độc rất thích làm tổ trên cây Thiên May Thảo, vì hoa của loài cây này rất nhiều phấn.
Nhưng Hãn Thanh không có ý định vượt qua phòng tuyến nguy hiểm ấy để vào trong chàng nhắm hướng gió, bật hỏa tập đốt một đoạn dài.
Nắng tháng năm đã làm cho cây cỏ héo úa, khô cằn, chỉ cần một mồi lửa là bốc cháy. Gió Nam lồng lộng đưa ngọn lửa lan vào những bụi cây Thiên May Thảo. Lớp lá rụng tích tụ bao năm dưới gốc cây bốc cháy ngùn ngụt, tiến như vũ bão vào trong.
Tiếng chiêng báo cháy vang dội cả khu rừng vắng, vì tàn lửa đã đáp vào những mái tranh, lá, khiến các kiến trúc phát hỏa, dù lửa chưa lan tới nơi.
Hãn Thanh không cần biết kết quả. Quay lại ngay trảng trống để xem tình hình của đôi vượn. Chàng tin rằng vì có người trên đỉnh tảng đá kia nên Đại Bạch và Tiểu Bạch mới không bỏ đi, mà chống cự quyết liệt như thế!
Lúc này lão già đội Ngưu Giác Kim Khôi đã phát hiện Tổng đàn bốc cháy.
Lão căm hận gầm lên:
- Ngũ Long Bang! Thần Ngưu Giáo ta thề sẽ không tha cho các ngươi.
Lão ta vội vã rút hết lực lượng về chữa cháy chỉ để lại ba tên mũ sắt canh giữ chân tảng đá!
Chờ lão đi khuất, Hãn Thanh lập tức ra tay, chỉ trong một chiêu Thủ Hụy Ngũ Quyền đã điểm huyệt ba gã đệ tử Thần Ngưu Giáo.
Hãn Thanh lướt nhanh trên những thân gỗ. Đại Bạch định vung chưởng giáng xuống thì nghe tiếng hú quen thuộc, ngơ ngác dừng tay. Hãn Thanh nói mau:
- Ta đây mà!
Nhận ra giọng nói của chủ nhân đôi vượn mừng rỡ hú vang, nhẩy đến ôm chàng. Hãn Thanh mang cả hai đi hết những bậc thang cuối cùng, lên đến đỉnh tảng đá.
Trong tòa Tiểu Đình bát giác, mái lợp cỏ kia có hai nữ nhân đang nằm bất động. Hãn Thanh vừa mừng vừa lo, buông đôi vượn rồi chạy đến, tuy gương mặt họ lem luốc và tiều tụy nhưng vẫn là dung mạo của hai người vợ trẻ của chàng. Hãn Thanh lay gọi không được, liền bắt mạch, rồi dùng phép Bảo Nguyên Đại Pháp truyền công lực và phong tỏa mười hai đại huyệt trước ngực.
Phương pháp này sẽ duy trì nguyên khí nơi tâm mạch, chờ đến lúc tìm thấy danh y. Chàng hành động rất nhanh chóng, giao Hà Hồng Hương cho Tiểu Bạch, còn mình ẳm ngửa Lạc Bình. Hai nàng đều mang thai đến tháng thứ năm, bụng nhô cao nên chàng rất cẫn trọng.
Hãn Thanh dặn dò đôi vượn rồi dẫn chúng rời tảng đá, may mà không ai phát hiện ra. Chàng không trở lại chỗ giấu ngựa mà nhắm hướng Đông băng rừng đi thẳng. Xẩm tối mới đến đường quan đạo Bắc Nam.
Cách đấy hơn dặm là Trấn Quế Sơn, Hãn Thanh giao Lạc Bình cho Đại Bạch, bảo đôi vượn chờ ở bìa rừng, rồi vào trấn mua xe song mã mui kín!
Chiều ngày mồng một tháng sáu Hãn Thanh đánh xe vào cửa sau của Vạn An lữ điếm. Lão Hầu gia hân hoan khi thấy hai cháu dâu vẫn còn sống. Hồ Đại Phu, một danh y đất Lạc Dương, vốn là chỗ thân tín của Hầu Phủ lập tức được mời đến. Ông ta ngẹn ngào khi thấy bộ mặt Mộ Dung Cẩn:
- Trời cao có mắt nên lão Hầu Gia đã thoát khỏi cuộc hỏa hoạn kia!
Mộ Dung cười khổ:
- Lão phu đã quá già, sống chết cũng không quan hệ, chỉ mong Hồ Lão đệ cố cứu lấy hai đứa cháu dâu kia!
Hồ đại phu sốt sắng hứa sẽ tận lực. Ông chẩn đoán rất lâu, cuối cùng thở dài bảo:
- Nhị vị thiếu phu nhân đây không hề bị thương hay mắc chứng bệnh gì cả! Lão phu đoán chắc rằng họ bị trúng một loại mê dược gì đấy nên mới mê man thế thôi! Xét tình trạng thai nhi thì có thể đoán họ mới chỉ trúng độc vài ngày nay nếu không thì thai nhi đã chết vì thiếu dinh dưỡng rồi!
Hãn Thanh nhớ đến đống trái cây cạnh hai nàng, liền nhắm mắt cố mường tượng ra.
Trên sàn tiểu đình có khá nhiều hột và vỏ, chứng tỏ Lạc Bình và Hồng Huong vẫn tỉnh táo và ăn uống bình thường. Có lẽ hai con vượn đã hái lầm quả độc nên mới rơi vào tình trạng này.
Cuối cùng, với trí nhớ phi thường, chàng đã tìm ra nguyên nhân:
- Hồ đại phu có biết cây Thiên May Thảo đất biên cương hay không?
Họ Hồ gật đầu, Hãn Thanh hỏi tiếp:
- Tại hạ cho rằng hai nàng đã ăn nhầm quả của cây Thiên May Thảo.
Mong đại phu cho biết cao kiến.
Hồ đại phu ngẩn người suy nghĩ một lúc, vỗ đùi xác nhận:
- Đúng vậy. May mà Hầu gia nhắc nhở, nếu không lão phu chẳng bao giờ nghĩ đến việc ấy, vì Trung Nguyên làm gì có trồng loại độc này?
Hãn Thanh xác nhận:
- Gần nơi giam giữ họ có cả một rừng đầy những cây Thiên May Thảo đang kết trái, và bên cạnh hai nàng cũng có vài quả!
Hồ lão gật gù:
- Nếu đúng như thế thì chẳng có gì đáng lo. lão phu sẽ kê toa giải độc, chỉ ít thang là có kết quả.
Canh hai đêm ấy, có một bóng đen âm thầm đột nhập Tổng đàn Cái Bang ở của Đông thành Lạc Dương. Thân ảnh người này lướt đi nhanh đến nỗi chỉ còn là bóng mờ, nên bọn hóa tử tuần phòng chẳng thể nào phát hiện ra!
Cơ ngơi của ăn mày thì chẳng thể nguy nga, tráng lệ được, có điều, những gian nhà gỗ kia rất rộng và sạch sẽ.
Thấy tầng trên của mộc lâu vẫn sáng đèn, bóng đen lao vút lên ẩn mình trên vây cổ thụ cạnh lan can. Từ đây, gã có thể quan sát và nghe ngóng rất thuận lợi.
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc cùng hai vị trưởng lão đang ngồi bên mâm rượu bàn bạc bang vụ.
Lão Hóa Tử có đôi mắt to như mắt trâu kia chính là Truyền Công trưởng lão, Đại Nhãn Cái Cốc Quy Điền. Ông nhăn mặt nói:
- Năm nay hai tỉnh Hồ Nam Giang Tây mất mùa, lê thứ đói khổ nên đệ tử bổn bang càng thảm hại. Quỹ các phân đà cạn kiệt, anh em không có cháo mà cầm hơi. Một số không giữ được khí tiết, trở thành trộm cắp, cường đạo! Nếu Tổng đàn mau chóng hỗ trợ thì thanh danh Cái Bang bị chìm xuống bùn nhơ.
Mong Bang chủ đại ca trổ tài thuyết khách, quyên góp các đại phú trong thành Lạc Dương để có bạc mà gửi xuống Miền Nam.
Đà La Cái thở dài thườn thượt:
- Ta sẽ thử nhưng chỉ được vài trăm lượng, nào có thấm gì so với năm vạn đệ tử hai phủ Giang Tây, Hồ Nam!
Chấp pháp trưởng lão Đường Quân Hạ có cái đầu hói bóng tròn như trái dưa, nên được đặt biệt danh là Qua Tử Cái. Họ Đường trợn mắt nói:
- Năm năm trước, Lưỡng Quảng bị hạn hán, sao đại ca có thể kiếm ra được ba ngàn lượng vàng để cứu đói cho anh em?
Đà La Cái Đặng Vân Nhạc buồn rầu đáp:
- Số vàng ấy là do lão Hầu Gia ban cho, và dặn ta không được nói ra. Nay Hầu Phủ đã cháy rụi. Họ Mộ Dung nhà tan cửa nát, ta còn biết hỏi ai? Hơn nữa, Cái Bang đã bất lực, không cứu được Hầu Phủ, lòng ta thẹn vô cùng!
Đường Quân Hạ vội an ủi:
- Đêm ấy! Quan quân khóa chặt cửa thành, không cho chúng ta qua để cứu viện Hầu Phủ, đấy nào phải lỗi của Cái Bang.
Đại Nhãn Cái tiếp lời:
- Tin từ Giang Nam đưa về báo rằng:
Dường như thuyền của Tiểu Hầu Gia đã gặp bão, chìm ở Đông Hải. Lão chủ thuyền Hách Khai Nguyên sống sót trở về đang huy động hàng trăm thuyền lục soát các đảo lớn nhỏ, cố tìm ra Tiểu Hầu gia và thân quyến!
Đa Là Cái ngửa cổ than trời:
- Cái Bang chịu ơn sâu của họ Mộ Dung và Bất Biệt Cư Sĩ, thế mà đành phải khoanh tay nhìn tai họa giáng xuống Hầu Phủ. Lão phu còn mặt mũi nào mà gặp tiên phụ Ở chốn suối vàng!
ö ông muốn nhắc đến việc Cao Hán Ngọc chặt tay Hải Hà Tiên Tử, cứu cố bang chủ Đặng Nghi Trung hơn bốn mươi năm trước!
Hãn Thanh đã nghe hết những lời đối thoại, yên tâm xuất hiện. Chàng từ cành cây phi thân xuyên qua cửa sổ, nhẹ nhàng hạ thân xuống cạnh bàn.
Ba lão Hóa Tử chấn động nhưng vẫn cố giữ vẻ trầm tỉnh cho xứng với thân phận. Vả lại, có la toán lên cũng chẳng được gì, vì đối phương đã vào đến tận nơi rồi.
Đà La Cái nhìn người bịt mặt, lạnh lùng hỏi:
- Các hạ là ai mà lại giá lâm vào lúc nửa đêm thế này?
Lão không dám trách đối phương đã nghe trộm chuyện cơ mật của Cái Bang. Họ đều là những cao thủ hạng nhất mà không phát hiện được người ẩn mình cách ba trượng, nói ra càng thêm xấu hổ.
Người bịt mặt lặng lẽ móc ra một xấp ngân phiếu, đếm đến ba tờ, đặt lên bàn rồi nói:
- Tại hạ muốn mua của Cái Bang vài chén rượu!
Nói xong, gã thản nhiên ngồi xuống. Đặng bang chủ nghi hoặc, cầm ngân phiếu lên xem thử, thấy rõ tiêu chí của Tứ Hải Tiền Trang. Hiệu buôn tiền này lớn nhất Trung Hoa, có trụ sở đặt tại Tinh Châu, Sơn Tây.
Ngân phiếu của họ được in bằng bảng khắc đồng, đường nét tinh xảo không ai làm giả được! Hơn nữa, chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang là anh em cô cậu với Đương Kim Hoàng Hậu, thế lực bao trùm thiên hạ nên uy tín rất cao!
Dân Sơn Tây nắm hầu hết ngành kinh doanh tiền tệ Ở Trung Hoa và Hải Thượng Sinh Chủ nhân Tứ Hải Tiền Trang Là người giàu nhất, giỏi nhất.
Chính đương kim Thiên Tử Minh Cảnh còn là con nợ của ông ta.
(Nói ra chẳng ai tin, nhưng thực sự là những vị vua sau này đều bạc nhược bất tài, thua xa Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Minh Thành Tổ Chu Lệ, vì vậy kinh tế lụi bại, khắp nơi loạn lạc. Tuy sưu cao thuế nặng liên tiếp được ban hành, nhưng quốc khố luôn trống rỗng vì nạn tham quan, vì kinh phí binh bị quá lớn. Do đó, các nhà vua thường phải vay mượn bọn đại phú để trang trải chi tiêu và phát lương cho bá quan!) Trở lại với Tổng đàn Cái Bang, chúng ta sẽ thấy bộ mặt ngơ ngác của Đà La Cái Đặng Vân Nhạc và hai trưởng lão. Họ đã nhìn ra ngân phiếu thực, nhưng vẫn chưa dám nhận lấy.
Đặng Vân e hèm và hỏi:
- Chẳng hay các hạ thực tâm muốn dùng ba ngàn lượng này để đổi lấy cái gì? Nếu là vàng của Ngũ Long Bang thì lão phu không thể nhận được!
Người bịt mặt thản nhiên rót rượu, vén khăn uống cạn rồi lẩm bẩm:
- Hôm trước, họ đến Hầu Phủ dự hôn lễ, mình đãi toàn rượu thượng hạng. Thế mà hôm nay họ cho mình uống loại rượu hạng bét này! Xem ra lỗ vốn rồi!
Ba lão Hóa Tử đồng thanh rú lên:
- Tiểu Hầu Gia!
Đặng Lão giật phăng khăn che mặt, ôm Hãn Thanh cười ha hả:
- Hảo Hoàng Thiên, tạ Ơn lão đã không tuyệt đường họ Mộ Dung!
Hãn Thanh nhăn mặt:
- Đặng Bang chủ nói khẽ thôi, tại hạ chưa thể lộ tung tích được!
Họ Đặng ngượng ngùng ngồi xuống ghế, hạ giọng hỏi:
- Hầu gia mau kể cho bọn lão phu nghe cuộc hành trình đi Đông Hải!
Hãn Thanh chỉ nói sơ qua rồi hỏi lại:
- Tại hạ muốn biết rõ thực lực của Ngũ Long Bang. Vì sao họ lại đột nhiên mạnh đến mức đánh bại lực lượng của Hầu Phủ quá dễ dàng như vậy?
Chấp Pháp Trưởng Lão đỡ lời:
- Lão phu đích thân điều tra nên nắm rõ hơn Bang chủ. Số là đã có một lão Đại Ma đầu trăm tuổi đến núi Bách Phong nhận chức Thái Thượng bang chủ, lão ta ẩn cư đã bốn mươi năm, trước đây có danh hiệu là Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi. Họ Bộc đã từng thủ hòa với Bất Biệt Cư Sĩ trong một lần cùng đến núi Võ Đang dự lễ thượng thọ. Nhưng sau đấy, thiên hạ đồn rằng Bộc Ly Bôi tìm được bí kíp thượng cổ nên bế quan tu luyện. Nay mới biết lão ta chính là sư phụ của Hứa Hiểu Tinh, nguyên bang chủ Tây Bang. Đệ tử Cái Bang đã rình rập suốt mười ngày, nhìn rõ mặt Vu Sơn Sơn chủ. Quả là kinh thế hãi tục khi họ Bộc có dung mạo của một người tuổi ba mươi! Ngoài ra, Bộc Ly Bôi còn đào tạo được mười tám gã kiếm thủ cực kỳ lợi hại. Lão phu cho rằng võ công Vu Sơn Sơn Chủ đã tiến đến mức phản lão hoàn đồng, tất không ai địch lại!
Hãn Thanh gật gù đáp:
- Tại hạ có nghe gia sư nhắc đến Vu Sơn Sơn Chủ. Người bảo rằng khi Bộc Ly Bôi luyện thành Xung Hư Bí Lục thì thiên hạ sẽ đại loạn!
Đặng Bang chủ giật mình:
- Lão phu chỉ nghe nói đến Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử, sao lại có thêm Xung Hư Bí Kíp?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Liệt Tử, tức Liệt Ngự Khấu, chỉ được Trang Tử nhắc đến, chứ chưa chắc đã có người thực. Nhưng thế gian lại có Xung Hư Chân Kinh, thì việc bậc kỳ nhân võ học nào đó viết ra Xung Hư bí kíp cũng có thể xảy ra.
Chàng trao thêm cho Đặng bang chủ ngàn lượng vàng, nhờ lão truy tìm tung tích bọn Tề Phi Tuyết và nói đường dây liên lạc với mình.
Ba lão hóa tử thề sẽ tận lực giúp chàng, kể cả việc đối phó với Ngũ Long Bang, Thần Ngưu Giáo và Hải Trừng Công! Hãn Thanh cùng họ bàn bạc đến tận cuối canh tư mới cáo lui!
Đặng bang chủ hứa sẽ dến Vạn An lữ điếm vấn an lão Hầu Gia ngay ngày mai!
Hãn Thanh về đến khách điếm thấy Mộ Dung Cẩn vẫn chờ mình, đành phải kể lại sự tình!
Lão Hầu Gia hài lòng bảo:
- May mà ta bảo ngươi dến hỏi thăm bọn Cái Bang, mới biết được sự hiện diện của Vu Sơn Sơn Chủ, nếu không ngươi đã liều lĩnh tấn công Tổng đàn Ngũ Long Bang rồi!
Mộ Dung Cẩn rót trà cho cháu rồi nghiêm giọng:
- Lực kém thì dùng trí! Nay đã có sự hậu thuẩn của Cái Bang, Thanh nhi hãy đưa ra kế sách cho Gia Gia nghe thử? Gia Cát Lượng chỉ là bậc nho sĩ mà lưu danh muôn thuở cũng nhờ trí tuệ!
Hãn Thanh ngượng ngùng trầm ngâm rất lâu rồi mới dám dáp:
- Bẩm gia gia! Tiểu tôn định dùng kế Tá Đao Sát Nhân để đối phó với Hải Trừng Công Chu Kích và Ngũ Long Bang.
Lão Hầu Gia mỉm cười hài lòng, khuyến khích chàng trình bày. Nghe xong, ông cười khà khà:
- Quả là diệu kế! Tài trí của ngươi nào có thua gì gã Nhất Bất Thông!
Sáng hôm sau, bang chủ Cái Bang giả làm lão ăn mày, âm thầm đi vào cửa vườn phía sau. Đặng Vân Nhạc lên chấp chưởng Cái Bang đã hơn hai mươi năm, không còn phải cắp nón đi ăn xin, nay đóng vai đệ tử không khỏi có điều ngượng ngập!
Vài khắc sau, họ Đặng ra về và phát động toàn Bang thực hiện kế hoạch của Hãn Thanh!
Cái Bang tuy không có thành tựu về võ học, nhưng với lực lượng đệ tử đông dến mấy chục vạn và hệ thống truyền tin nhanh nhậy, luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Hoa!
Bọn Hóa tử có mặt khắp nơi nên thu lượm thông tin dễ dàng, và phao tin cũng không khó. Đến rằm tháng sáu thì cả thành Bắc Kinh truyền tai nhau việc Hải Trừng Công Chu Kích đang chuẩn bị tạo phản. Bách tính sợ hãi lo tích trữ lương thực khiến giá ngũ cốc tăng cao!
Tất nhiên tin này cũng lọt vào tai Đông Xưởng, cơ quan mật vụ của triều đình. Họ lập tức điều tra ráo riết, thì được biết rằng tin kia xuất phát từ kỹ viện.
Khổ thay, kỹ viện lại là nơi phức tạp nhất trên đời, và không hề hỏi thẻ đinh của khách làng chơi bao giờ cả!
Bọn kỹ nữ khai rằng có mấy trăm hảo hán mang vũ khí, tiền bạc ghé chơi. Trong lúc say rượu, say tình, họ đã tiết lộ rằng mình đến dưới trướng Hoàng Thân Chu Kích.
Đám kỹ nữ trong thành lại là bạn tình của bọn Cấm Quân và Cẩm Y thị vệ, vì vậy, họ lo lắng cho tình lang nên ghé tai cảnh báo, mong người thương bảo trọng tấm thân khi có biến.
Người của Đông Xưởng lại đến Sơn Đông điều tra Hải Trừng Công, thì lại nghe đồn trong dinh tổng đốc có người Mãn Châu ẩn náu, và tháng ba vừa rồi, Chu Kích đã âm thầm vượt biển sang quần đảo Phù Tang để ký kết liên minh.
Từ xưa đến giờ, Phù Tang tức Nhật Bản luôn là tai họa đối với vùng duyên hải Trung Hoa. Những đoàn thuyền của bọn hải tặc Phù Tang, từ biển Đông thường bất thần xâm nhập vùng ven biển từ Bắc xuống Nam, cướp phá rồi bỏ chạy. Thủy quân và lục quân Trung Quốc không sao đối phó kịp.
Chính vì vậy, tin này khiến bọn mật thám Đông Xưởng rụng rời, chẳng dám bỏ qua. Họ đến dinh Thủy Sư Đề Đốc Sơn Đông kiểm tra, thì phát hiện trong sổ sách có ghi rõ việc cho Hải Trừng Công Chu Kích mượn bốn chiếc thuyền hôm tháng hai, và chỉ có một chiếc trở về!
Tuy chứng cớ chưa rõ ràng, nhưng cũng đủ để Đông Xưởng mật tấu lên Thiên tử. Minh Cảnh Tông tuy hiền lành, nhu nhược, luôn sủng ái Chu Kích, nhưng sợ mất ngôi nên hạ chỉ bắt Hải Trừng Công.
Mấy ngày sau, Chu Kích về Bắc Kinh dự chầu thì bị tống giam vào thiên lao.
Sau khi lục soát tư dinh họ Chu ở Tế Châu, Đông Xưởng phát hiện rất nhiều tang chứng quan trọng đủ để khép Hải Trừng Công vào tội chết!
Thế là bước đầu của diệu kế Tá Đao Sát Nhân đã thành công mỹ mãn.
Không hề tốn giọt máu mà vẫn tiêu diệt được tai họa cho xã tắc!
Lão Hầu Gia hết lời khen ngợi Cái Bang, tặng họ thêm ngàn lượng vàng nữa!
Sau ngày giỗ Bạch Y Hầu Mộ Dung Thiên Mùng bốn tháng bẩy ông cháu Hãn Thanh đưa Lạc Bình, Hà Hồng Hương về nơi ở mới. Đó là một tòa trang viện kín đáo, rộng rãi, nằm ở ngoài cửa Đông thành, chỉ cách tổng đàn Cái Bang hơn trăm dặm.
Khu rừng cây phí sau trang kéo dài đến tận bờ Nam Lạc Hà, rộng đến mấy trăm mẫu, đủ cho đôi Tuyết Viên chạy nhảy.
Hai người vợ của Hãn Thanh đã bình phục hoàn toàn, chuẩn bị cho ngày khai hoa nở nhụy.
Trước đó, phần hai của kế hoạch Tá Đao Sát Nhân đã có kết quả. Thần Ngưu Giáo chính thức khiêu chiến với Ngũ Long Bang vào ngày rằm tháng bẩy, dưới chân núi Ngũ Hành Sơn!
Không hiểu sao tin này lại lọt ra ngoài rất sớm và lan nhanh như gió, nên hào kiệt bốn phương lũ lượt kéo đến quan chiến.
Ngọn Cực Nam của dãy Ngũ Hành Sơn hay Thái Hàng Sơn chỉ cách bờ bắc Hoàng Hà hơn hai trăm dặm, xem như ở khoảng giữa Vận Thành và Lạc Dương.
Sáng sớm ngày rằm tháng bảy, Hãn Thanh đã có mặt, hòa lẫn trong mấy ngàn hào khách. Không ai nhận ra Tiểu Hầu Gia vì chàng đã được hóa trang cẩn thận! Hơn nữa, cả võ lâm đều tin rằng Hãn Thanh đã chết ngoài khơi Đông Hải.
Giữa giờ Thìn, hai phe Ngũ Long Bang và Thần Ngưu Giáo xuất hiện, mỗi bên mang theo trăm thủ hạ, đúng như giao ước!
Phía Thần Ngưu Giáo gồm có giáo chủ, mười lão Ngân Khôi, và chín mươi Ngưu Giác Đồng Khôi võ sĩ.
Còn đoàn Ngũ Long Bang do thầy trò Hứa Hữu Tinh và mười tám kiếm thủ thống lỉnh tám mươi mốt thủ hạ áo xanh!
Hãn Thanh chú tâm quan sát Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi, cố nén tiếng thở dài. Nếu không được Cái Bang báo trước, chàng sẽ tưởng lão ta là con của Hứa Hiểu Tinh.
Thần Ngưu Giáo không ngờ cuộc chiến này lại được võ lâm quan tâm như vậy, liền cố tỏ vẻ ung dung, ra dáng một tôn sư, định nhân dịp này dương danh với đời, lão vòng tay giới thiệu:
- Bổn tọa là Quân Khải Siêu, giáo chủ Thần Ngưu Giáo, xin cảm ơn chư vị đồng đạo đã hạ cố đến quan chiến! Bổn giáo ẩn cư chốn rừng sâu, thờ phượng Ngưu Thần, chỉ lo việc tu hành, nào ngờ Ngũ Long Bang lại vô cớ đến tấn công, thiêu hủy cơ ngơi. Vì vậy, bổn giáo đành phải xuất đạo, hỏi tội Ngũ Long Bang!
Hứa Hiểu Tinh cười nhạt:
- Bổn bang quả có đên Vận Thành tìm người và có đụng chạm với Thần Ngưu Giáo, nhưng việc đốt nhà hoàn toàn không có!
Quân giáo chủ quát vang:
- Không phải bọn ngươi thì ai vào đây nữa? Đừng nhiều lời ngụy bịên uổng công!
Vu Sơn Sơn Chủ bỗng lên tiếng:
- Quân Khải Siêu! Phải chăng ngươi là hậu nhân của Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh?
Họ Quân biến sắc mặt nạt:
- Tiểu tử kia! Sao ngươi dám gọi tên tiên phụ ta như vậy?
Bộc Ly Bôi ngửa cổ cười dài, tiếng cười hùng mạnh như sấm mùa xuân, xoáy vào màng nhĩ mọi người khiến ai nấy đều phải bịt tai!
Dứt tràng cười thị uy, Bộc Ly Bôi nghiêm giọng:
- Lão phu là Vu Sơn Sơn Chủ đây! Năm xưa cha ngươi gặp ta còn phải tôn là huynh trưởng đấy!
Trong đám quần hùng lập tức có tiếng người xen vào:
- Quân giáo chủ đừng tin, Ngũ Long Bang thấy sang bắt quàng làm họ đấy thôi!
Lại có người mỉa mai:
- Hắn mà là Vu Sơn Sơn Chủ thì tại hạ là Thái Thượng Lão Quân giáng phàm.
Giọng y rất hoạt kê nên cử tọa đều phá lên cười!
Quân Khải Siêu dương cờ gióng trống đến đây, chẳng thể rút lui vì một lời nói. Lão cười nhạt bảo:
- Dù tôn giá có là Vu Sơn Sơn Chủ thì bổn đạo cũng không thể ngán sợ.
Mối hận thiêu hủy cơ nghiệp phải rửa bằng máu mới xong!
Dứt lời, lão phất tay ra hiệu tấn công. Phe Thần Ngưu Giáo đều mặc bảo y và không sợ độc nên hung hãn xông lên, lao vào đối phương.
Hai lão mũ bạc đón đánh Hứa Hiểu Tinh, tám lão còn lại quần thảo với mười tám tay kiếm thủ Đồ đệ Vu Sơn Sơn Chủ! Còn bản thân Quân Khải Siêu thì đấu với Bộc Ly Bôi!
Sư phụ Hãn Thanh là Bất Biệt Cư Sĩ đã từng kể cho chàng nghe về Thanh Ngưu lão tổ Quân Thường Khanh, ông ta chỉ thua cao sư tổ mười lăm tuổi, chuyên luyện Mãng Ngưu khí công, lúc xuất trận thường mặc áo Tê Ngưu Tây Tạng, chân khí làm căng phồng bảo y, chống lại được đao kiếm, quyền chưởng. Ngoài ra họ Quân còn giỏi cả phép kiếm chưởng hợp nhất, chiêu xuất như lôi, chỉ tiến chứ không lùi.
Giờ đây Thần Ngưu Giáo chủ cũng có đấu pháp y hệt như vậy. Thanh kiếm của lão to bản, lực đạo vô cùng mãnh liệt. Lão hùng hục lao đến như con trâu điên, không hề biết sợ là gì.
Nhưng rất tiếc, bản lĩnh của Vu Sơn Sơn Chủ còn cao cường hơn cả Thanh Ngưu lão tổ nên dễ dàng đối phó với họ Quân. Thân hình lão nhẹ nhàng bay lượn, tựa như nương theo kiếm phong của đối phương vậy!
Trong Thiên Tiên Diên Du mở đầu Nam Hoa Kinh, Trang Tử có nhắc đến việc Liệt Tử cỡi gió mà đi. Nay Vu Sơn Sơn Chủ luyện thành Xung Hư Bí Kíp, phải chăng đã học được phép ngự phong?
(Theo cổ thư thì Liệt Tử tên thật là Liệt Ngu Khấu, người nước Trịnh, một bậc đại tiên đắc đạo, đã soạn ra quyển Xung Hư Chân Kinh để lại cho đời.
Nhưng điều này vẫn còn là một một nghi vấn, chưa được các học giả nhất trí.) Quần hào choáng váng trước pho khinh công vô thượng của Vu Sơn Sơn Chủ, vỗ tay tán thưởng ầm ỹ. Quân Khải Siêu càng điên tiết, bất ngờ dùng Mãng Ngưu Khí Công gầm lên như sấm sét, kèm theo một đạo chưởng kình vũ bão.
Vu Sơn Sơn Chủ vội cử hữu thủ đỡ đòn, và cước bộ hơi khựng lại, bám chặt lấy Bộc Ly Bôi, chưởng kiếm liên hoàn, không để đối phương tách ra.
Vu Sơn Sơn Chủ động nộ, xuất liền một chiêu tuyệt học, chưởng ảnh chập chờn xuyên qua lưới kiếm, vỗ vào ngực họ Quân.
Chưởng kinh đánh rách áo ngoài nhưng lại bị lớp da áo da Tê Ngưu căng phồng đẩy trượt đi, và Quân Khải Siêu vẫn đủ sức phản đòn. Lão gầm lên, nhưng lần này chân khí từ trong miệng bắn ra, đột ngột giáng vào ngực Vu Sơn Sơn Chủ.
Bộc Ly Bôi luyện thành Tiên Thiên Tam Muội thần công nên cơ thể luôn được bảo vệ bởi một màn cương khí vững chắc. Tuy lão không thọ thương nhưng cũng bị đẩy văng về phía sau vài bước.
Quần hào thấy thế liền hoan hô Thần Ngưu Giáo chủ. Bộc Ly Bôi giận tím mặt đề khí bốc thẳng lên không trung, lướt quanh đầu Quân Khải Siêu, và liên tục giáng xuống những đạo chưởng kình xanh biếc và nóng như lửa lò rèn!
Quân giáo chủ kinh hãi bỏ kiếm cử chưởng đỡ đòn. Cố đánh bạt luồng hơi nóng khủng khiếp kia. Nhưng chiêu thức của đối phương vừa độc hại, vừa ảo diệu vô song. Họ Quân liên tục trúng đòn, y phục bốc cháy và máu miệng trào ra không ngớt!
Hãn Thanh chứng kiến bản lĩnh lãnh đạo vô tiền khoáng hậu kia mà lòng thầm ngao ngán. Nhưng chàng không thể để Thần Ngưu Giáo chủ chết vì muu kế của mình. Lão không có tội gì và cũng chưa bộc lộ dã tâm.
Hãn Thanh lướt đến đấu trường dùng chưởng pháp Kim Sa Ấn xuất chiêu Hậu Nghệ Xạ Kim Ô, tấn công vào mé tả Bộc Ly Bôi!
Chiêu này chàng học được trong lúc ở cạnh Hồ Đạt Lai, và chưa sử dụng bao giờ. Về ý thì cũng tương tự như chiêu Cửu Cửu Nhất Nguyên nhưng ảo diệu hơn nhiều.
Thân hình chàng như mũi tên lao vút đi, song thủ hướng ra phía trước liên tục ve vẩy, tạo thành đến ba chưởng ảnh màu vàng nhạt nối nhau.
Tất nhiên Bộc Ly Bôi đã phát hiện, vung tả thủ vỗ liền mấy đạo chưởng kình hung hãn, Tưởng chừng sẽ thiêu cháy kẻ lạ mặt. Nhưng ba đốm lửa Kim Sa Thủ đã bảo vệ được đầu, còn thân thể thì nhờ công phu Thiên Ma Bách Luyện, nên Hãn Thanh vượt qua được lưới lửa.
Khi Vu Sơn Sơn Chủ phát hiện nguy cơ thì đã chậm mất vài sát na. Lão khoa tay phất thêm một chưởng vào ba chưởng ảnh kia, nhưng chúng đã ập đến, nhập thành một, vỗ vào sườn trái của lão.
Kim Sa Ấn thực chất bao hàm cả phép Cách Sơn Đả Ngưu nên chưởng kình của Hãn Thanh nặng như chiếc thùng sắt, chấn gẫy ba chẻ xương sườn non của họ Bộc. Nếu là người khác thì phủ tạng dập nát, hồn du địa phủ ngay rồi!
Vu Sơn Sơn Chủ đau đớn hự lên, hạ thân xuống đất, máu miệng rỉ ướt ngực áo, lão căm hận rú lên:
- Té ra đệ tử của lão Cao Hán Ngọc lại giỏi nghề cắn trộm!
Quần hào nghe vậy mừng rỡ reo hò:
- Tiểu Hầu gia! Tiểu Hầu gia!
Giáo chủ Thần Ngưu Giáo được chàng cứu mạng, cảm kích thét lên:
- Xem như Quân mỗ nợ Hầu Gia một mạng, giờ hai ta liên thủ giết lão già chết tiệt này!
Y phục lão đã cháy gần hết, để lộ lớp bảo y bằng da Tê Ngưu vàng xám.
Hãn Thanh cũng đập vội lửa trên người rồi cười đáp:
- Vàng dẫn nhiệt, xin giáo chủ bỏ Kim Bôi ra mới mong chiến đấu được.
Quân Khải Siêu biết chàng nói đúng, gỡ phăng ngay chiếc nón mặt nạ sừng Trâu, để lộ dung mạo của một lão nhân lục tuần anh tuấn.
Vu Sơn Sơn Chủ đã có chút thời gian để tự trị thương sơ sài. Lão cười ghê rợn:
- Dù cả hai ngươi liên thủ cũng chẳng thể nào thoát chết, khi lão phu đã động sát cơ!
Hãn Thanh biết lão nói thực, vì lúc nãy chàng đã dồn hết công lực, xuất hiện đột ngột mà vẫn không thể giết chết được lão ta. Nay đối phương đã đề phòng, tất sẽ không còn cơ hội! Nhưng chàng không còn cách nào khác là phải tử chiến đến cùng, liền lướt đến vung chưởng tấn công. Quân giáo chủ cũng hăm hở xông vào, dùng Mãng Ngưu Thần Chưởng mà uy hiếp đối phương vì biết đao kiếm không giết dược họ Bộc, và cũng không ngăn nỗi những đạo chưởng kình nóng rực kia.
Công lực của Quân Khải Siêu và Hãn Thanh cộng lại cũng hơn trăm năm tu vi, tương đương với Vu Sơn Sơn Chủ, nhưng tiếc rằng trong sở học lại không thể một cộng một bằng hai được. Ví như hai đứa trẻ mười tuổi mà đánh với người hai mươi sao thắng nổi.
Hãn Thanh giỏi kiếm hơn chưởng nên rơi vào hoàn cảnh dùng sở đoản của mình đấu với sở trường của người. Nhưng kiếm thường không phá nỗi luồng cương khí hộ thân của đối phương, chàng đành chấp nhận thua thiệt.
Giờ đây, Vu Sơn Sơn Chủ đã nỗi máu sát nhân, đem hết sở học ra thi thố, khiến Hãn Thanh và Quân Khải Siêu vô cùng chật vật. Khinh công của Bộc Ly Bôi tuy không ảo diệu hơn pho Lưu Thủy Hành Vân của Tiểu Thuần, nhưng lão nhờ công lực thâm hậu nên nhanh nhẹn tuyệt luân. Lão nhởn nhơ giữa lưới chưởng, luân phiên chạm chưởng với từng người, nên bao giờ cũng ở thế thượng phong.
Chỉ sau trăm chiêu, Quân Khải Siêu đã trúng bốn chưởng, hộc máu thành vòi, nếu không có bảo hộ y thân thì đã mạng vong.
Hãn Thanh nhờ phối hợp thân pháp Lưu Thủy Hành Vân vào Cửu Cung Mê Bộ nên khá hơn họ Quân, chỉ trúng phớt có một chưởng cháy da.
Có điều Vu Sơn Sơn Chủ đã quyết giết bớt đối thủ yếu hơn để rãnh tay tiêu diệt kẻ còn lại, lão nhếch mép cười ghê rợn, chưởng kình dệt lưới quanh thân, như trái cầu lửa xanh mờ lao vút về phía Quân Khải Siêu.
Họ Quân biết mình khó thoát chết nhưng cũng cắn răng vung song thủ giáng thẳng vào thân hình mờ mờ của đối phương. Tiếc là chiêu tuyệt chưởng mà Bộc Ly Bôi thi triển đã hóa giải được lực đạo Mãng Ngưu Thần Chưởng, và tiếp tục ập đến. Quân Khải Siêu kinh hoàng nhận ra mình sắp chết.
Nhưng Hãn Thanh không kể tử sinh, cố cứu cho được họ Quân. Chàng nhoài người nằm sấp, lướt trên mặt cỏ lao vào chân Vu Sơn Sơn Chủ. Thân hình họ Bộc lúc này bốc cao hơn mặt đất gần sải tay, nên Hãn Thanh ở ngay dưới hai bàn chân lão.
Chiêu thức quái dị, chưa hề được nhắc đến bao giờ này đã khiến Sơn Chủ bối rối, đành bỏ Quân Khải Siêu, lật chưởng giáng thẳng xuống. Tuy nhiên Hãn Thanh kịp vỗ một chưởng cách không vào sườn trái của lão, đúng ngay vị trí ba rẻ xương sườn non gẫy lúc nãy. Chỗ này đã bị tổn thương nên lớp cương khí rất mỏng, nay trúng thêm đòn nữa, lại gẫy rời và đau đớn khủng khiếp.
Chân khí lập tức gián đoạn, chưởng kình của họ Bộc yếu hẳn và lệch đi, nên Hãn Thanh thoát chết. Chàng lăn tròn ra sau lưng đối phương lộn người lên định tấn công tiếp. Nhưng Vu Sơn Sơn Chủ đã thọ thương, mất cả ý chí chiến đấu, phi thân đào tẩu mất, vì bốn lão Khôi đã rảnh tay chạy đến tham chiến.
Hãn Thanh nói mau:
- Phải giết sạch đối phương để trừ hậu họa, Hứa Hiểu Tinh là người rất nguy hiểm!
Dứt lời, chàng rút kiếm phi thân đến trận địa của họ Hứa. Quân giáo chủ cũng gầm vang:
- Giết hết chúng cho ta!
Phe Ngũ Long Bang thấy Thái Thượng giáo chủ đào vong, hồn phi phách tán chạy theo, nhưng không thoát khỏi kiếm trận của Thần Ngưu Giáo. Bọn Ngưu Giáo Đồng Khôi này là lực lượng tinh nhuệ nhất của họ Quân, lại có mũ đồng và áo da hộ thân nên rất lợi hại. Lại thêm Quân Khải Siêu căm hận Vu Sơn Sơn Chủ đánh mình gần chết, nên đổ giận lên đầu bọn đệ tử Ngũ Long Bang cuối cùng chẳng tên nào sống sót cả!
Chỉ còn một mình Hứa Hiểu Tinh đang liều chết chống trả với Hãn Thanh. Lão múa tít bảo đao, đem hết sở học ra đổi mạng. Nhưng Hãn Thanh kiếm thuật cao siêu. Ung dung giải phá và còn mở miệng nói:
- Hứa Hiểu Tinh! Ta biết lão là người đã bày ra trò tập kích Hầu phủ, vì tâm cơ bọn Quỷ Trảo, Thần Đao không đủ thâm độc như vậy. Còn Tư Không Nhạ thì e ngại Bắc Thiên Tổng Giám nên cũng chẳng nỡ tuyệt tình! Ta suy luận như vậy có đúng không?
Họ Hứa rít lên:
- Đúng thế đấy tiểu cẩu ạ!
Quần hùng nghe rõ quát vang:
- Hầu gia còn chờ gì mà không giết quách lão ta cho rồi!
Hãn Thanh quắc mắt xuất chiêu thái cực sinh lưỡng nghi, kiếm ảnh hợp thành một vòng tròn trĩnh đi qua lưới đao, và bao phủ thân hình đối thủ.
Chiêu này lấy ý của đao pháp nên kết thúc bằng lưỡi chứ không phải bằng mũi kiếm. Họ Hứa rú lên thảm thiết và thân thể đứt thành hai đoạn.
Quần hào đồng thanh chúc mừng sự trở về của Tiểu Hầu Gia rồi cáo từ.
Quân Khải Siêu bước đến vòng tay vái dài:
- én đức này bổn giáo nguyện ghi lòng tạc dạ. Sau này Hầu gia có gì sai bảo xin cứ đến Vận Thành!
Hãn Thanh mỉm cười hỏi:
- Nghe nói quý giáo có gặp hỏa tai, chẳng hay có ai thương vong không?
Quân Giáo nhăn mặt:
- Tuy không có ai chết nhưng nhà cửa cháy hơn nửa, muốn dựng lại càng khó vì bổn giáo rất nghèo!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Phải chăng Giáo chủ cũng nuôi mộng bá chủ nên mới khổ công đào luyện một đạo quân tinh nhuệ như vậy?
Quân lão gượng cười:
- Tiểu Hầu Gia hiểu lầm rồi, lão phu có mối thù sâu sắc với Hắc Hồ Bảo ở Diên An nên mới phải chuẩn bị lực lượng. Nhân mã của kẻ thù đông đến gần ngàn, lại giỏi nghề cũng nỏ, áo da và mũ đồng chính là khắc chế sở trường của đối phương!
Hãn Thanh hiếu kỳ hỏi:
- Chẳng lẽ Hắc Hồ Bảo lại lợi hại đến thế sao?
Quân Khải Siêu gật đầu:
- Hắc Hồ Bảo chủ Tôn Cự Mộc vốn là đồ đệ của Sách Huyết Tôn Giả Phí Hòa. Lão ác ma này đã chín mươi sáu tuổi mà vẫn còn sống, và đang ẩn mình trong Hắc Hồ Bảo!
Hãn Thanh thầm lo ngại vì chẳng biết Sách Huyết Tôn Giả là kẻ cùng hung cực ác, bản lãnh cao cường, lại quen biết với Vu Sơn Sơn Chủ. Nếu Bộc Ly Bôi lôi kéo cả lão đại ác ma họ Phí xuất đạo thì tai họa khó lường!
Hãn Thanh hỏi thêm:
- Nghe nói có hai con vượn trắng cõng hai nữ nhân chạy lạc vào trọng địa, chẳng hay quý giáo truy bắt được chưa?
Quân Khải Siêu giật mình:
- Làm gì có hai nữ nhân nào? Khoảng cuối tháng tư, bổn giáo phát hiện có hai con vượn trắng, ngực đeo chuỗi ngọc đột nhập vào dược thất lấy trộm linh đan, liền truy bắt. Chúng liền trèo lên ngay tảng đá Kình Thiên, nơi lão phu tế thần mỗi đêm rằm, và tử thủ quyết không chịu xuống. Khi bọn Ngũ Long Bang đốt nhà thì hai con vượn đó cũng biến mất!
Hãn Thanh thở phào biết họ Quân không có lỗi gì, chàng lấy ra tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng, nhét vào tay lão rồi dịu giọng:
- Số vàng này là để bồi thường cho giáo chủ. Kẻ đốt nhà hôm ấy chính là tại hạ, vì hiểu nhầm nên tại hạ hải phóng hỏa đánh lạc hướng để cứu hai hiền thê đang ở trên đỉnh Kình Thiên. Trong đêm Hầu Phủ bị tập kích, đôi vượn kia đã đưa họ đào thoát, lạc đến Vận Thành! Thực may là tại hạ không hề giết một đệ tử nào của giáo chủ.
Quân Khải Siêu hiểu ra, vỗ vào chàng cười ha hả:
- Vài nếp nhà tranh nào có đáng gì, ơn cứu mạng của Hầu Gia còn mang nặng đâu dám nhận bồi thường!
Hãn Thanh chính sắc nói:
- Cuộc chiến với Ngũ Long Bang và Hắc Hồ Bảo sẽ rất khốc liệt, xin giáo chủ cứ nhận lấy mà xây dựng tổng đàn cho thật kiên cố. Vu Sơn Sơn Chủ và Sách Huyết Tôn Giả là bằng hữu với nhau không chừng sẽ liên thủ để đối phó với Thần Ngưu Giáo, mong giáo chủ cẩn trọng!
Quân Khải Siêu xiết chặt vai chàng đáp:
- Đã có Hầu Gia bên cạnh Quân mỗ không biết sợ là gì!
Hãn Thanh nghe lòng ấm áp tình bằng hữu, gật đầu hứa:
- Giáo chủ yên tâm! Chúng ta sẽ sát cánh với nhau!
Hai người bàn bạc việc lập đường dây liên lạc giữa Vận Thành và Lạc Dương. Quân Khải Siêu nhìn những vết nám đen trên da thịt Hãn Thanh, xót xa nói:
- Lão phu thật sơ ý, không nhớ rằng Hầu Gia bị phỏng!
Lão quát thuộc hạ dùng nước sạch rửa cho chàng và bôi lên người một thứ mỡ màu trắng. Hãn Thanh nghe da mát rượi, nhìn lão với vẻ dọ hỏi. Quân Khải Siêu cười khà khà:
- Đây là mỡ trăn chứ chẳng phải mỡ trâu đâu!
Tài sản của phamduy88

  #13  
Old 15-04-2008, 08:23 AM
phamduy88's Avatar
phamduy88 phamduy88 is offline
Hoạt Thi Thần
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 785
Thời gian online: 1 ngày 6 giờ 32 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 25 Times in 20 Posts
Hồi 13

Phù Dung Vị Tiếu Phong Xuy Lạc
Sơn Hạ Hầu Gia Hí Lão Ma



Hãn Thanh về đến trang viện ở Lạc Dương thì đã cuối canh ba. Bọn gia đinh gác cổng chính là đệ tử năm túi của Cái Bang, được chỉ huy bởi một hóa tử sáu túi, có tên Tiểu Linh Miêu Lý Tữu Tuyền. Họ Lý mới ba mươi nhưng tiền đồ rất sáng lạng, nhờ cơ trí tinh minh và bản lĩnh cao cường, gã lại là đệ tử chân truyền của Đặng bang chủ.
Chính Tiểu Linh Miêu là người xâm nhập được vào Tổng đàn Ngũ Long Bang ở Bách Phong Trung Sơn. Việc này đã chứng tỏ được sự lợi hại của gã!
Tữu Tuyền nhận ra Hãn Thanh hoan hỉ nói:
- Mừng công tử đại thắng Vu Sơn Sơn Chủ, danh lừng tứ hải.
Thì ra Cái Bang đã cử người theo quan sát, và sớm báo tin về nhà!
Hãn Thanh gượng cười:
- Ta chỉ nhờ xuất kỳ bất ý và chút may mắn, đâu có gì hãnh diện!
Tữu Tuyền bí ẩn nói:
- Công tử cứ vào rồi sẽ thấy hết, quả là diệu kế Tá Đao Sát Nhân!
Hãn Thanh bán tín bán nghi, rảo bước vào đại sảnh, chàng đẩy cửa ra, chói mắt vì ánh nến rực rỡ, và có tiếng người quen thuộc:
- Thanh nhi mau đóng cửa lại!
Hãn Thanh vội đóng cửa và kêu lên:
- Tề nhạc phụ!
Thì ra quanh chiếc bàn gỗ lớn giữa sảnh là Tề Phi Tuyết và những người khác như Đại, Tam, Tứ, Ngũ Phán Quan, Nhất Bất Thông Chu Minh, Hà Hồng Tập.
Hãn Thanh mừng rỡ thi lễ với mọi người. Thấy gương mặt Tinh Châu Tài Thần buồn vời vợi, chàng vội hỏi:
- Hà nhạc phụ! Nhạc mẫu và hai vị sư thúc Phi Châm Môn đâu?
Hà Hồng Tập rầu rĩ đáp:
- Nhạc mẫu ngươi ở Hồng viện với Hồng Hương, còn Triệu nghĩa đệ và Vương nghĩa muội đã hy sinh cùng gần trăm đệ tử Phi Châm Môn rồi Nhất Bất Thông Chu Minh đỡ lời:
- Việc đã qua nhắc lại chỉ thêm buồn. Nay chúng ta đã phá tan Tổng đàn Ngũ Long Bang, tàn sát mấy trăm tên cũng là báo được thù!
Hãn Thanh hân hoan nói:
- Té ra chư vị đã tập kích Bách Phong! Dám hỏi sự việc thế nào?
Chu Minh lườm chàng:
- Chính tiểu quỷ nhà ngươi đã tiên đoán việc này, sắp đặt mọi việc, sao còn giả đò nữa?
Lão Hầu Gia cười ha hả:
- Đừng trách y tội nghiệp! Phần sau kế hoạch là do lão phu nhúng tay vào đấy! Vì sợ chư vị không đủ sức làm cỏ Ngũ Long Bang nên già này đã bí mật gửi thư cho phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nhờ vậy, vào phút chót, năm trăm tăng lữ La Hán Đường đã đến tham chiến, quét sạch Ngũ Long Bang ra khỏi ngọn Bách Phong!
Hãn Thanh và mọi người nhìn Mộ Dung Cẩn với ánh mắt khâm phục.
Dưới bề ngoài phương phi nhân hậu kia là một con người có tâm cơ sắc xảo, thông tuệ!
Tề Phi Tuyết giơ ngón cái khen!
- Lão Hầu Gia quả là bậc chân nhân ẩn mặt!
Hãn Thanh vội hỏi:
- Nhạc phụ! Chẳng hay số phận bốn lão ma đầu kia ra sao?
Họ Tề vuốt râu đắc ý:
- Bắc Nhạc Quỷ Trảo bang chủ Kiếm bang Từ Cư Chính và Đông Nhạc Thần Đao bỏ mạng, chỉ còn cha con Nam Thiên Tổng Giám chạy thoát, công đầu trong vụ này nên gán cho gã Tiểu Linh Miêu của Cái Bang. Lý Tữu Tuyền đã mai phục dưới chân ngọn Bạch Phong, phát hiện ra bọn lão phu, báo ngay tin Thanh nhi và lão Hầu Gia vẫn còn sống, đưa chúng ta di vòng đường hậu sơn, tập kích bất ngờ, nhờ vậy mới thành công!
Hãn Thanh tủm tỉm nói:
- Tiểu Tế đoán rằng chư vị nghe được tin về cuộc phó ước giữa Ngũ Long Bang và Thần Ngưu Giáo, thế nào cũng tập kích tổng đàn, hay chặn đường đoàn phó ước, nên đã cho Tữu Tuyền giám sát Bách Phong, còn mình thì đi Thái Hàng Sơn.
Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường cười bảo:
- Tâm cơ Thanh nhi đâu kém gì lão Hầu Gia!
Mộ Dung Cẩn cười khanh khách:
- Đúng thế! Thanh nhi khá hơn cha y rất nhiều!
Hãn Thanh ngượng ngùng hỏi Hà Hồng Tập:
- Nhạc phụ! Diễn biến đêm mùng chín tháng tư thế nào, xin người thuật lại cho rõ!
Lão quắc mắt đáp:
- "Đêm ấy đến lượt Phi Châm Môn tuần phòng Hầu Phủ. Do đã có thư nghị hòa của Ngũ Long Bang nên bọn lão phu không ngờ rằng họ lại trở mặt tập kích, và cũng không biết đến sự xuất hiện của Vu Sơn Sơn Chủ!
Khinh công của Bộc Ly Bôi thật là đáng sợ. Lão đi tiên phong, mở đường cho bọn Ngũ Long Bang, chỉ hai chưởng đã đánh chết Triệu tam đệ và Vương tứ muội, rồi còn tàn sát suốt đoạn tường phía Đông.
Khi lực lượng trong phủ xông ra thì họ Bộc tả xung hữu đột đả thương liền Tề lão huynh và bốn vị Phán Quan. Lão phu biết thế đã cùng, liền bảo hai con vượn đưa Lạc Bình và Hồng Hương đào thoát trước. Để bảo toàn tông mạch cho họ Mộ Dung. Thấy Quái mã và lão Hầu gia biến mất, ta tưởng ông đã thoát nên yên tâm. Sau đó, chúng ta vừa đánh vừa rút lui chạy về phía sau, nương theo đêm tối mà chạy về hướng U Linh Cốc. Nếu không nhờ hai trái Thiên Địa Mê Cầu của Bạch Thần Y thì cũng khó ma đào thoát nổi! Tổng cộng chúng ta tổn thất đến gần hai trăm người!
Cả nhà ngồi lặng lẽ như để tưởng nhớ đến những người đã hy sinh. Lát sau, Hãn Thanh kể lại cuộc phó ước Ngũ Hành Sơn, và cả mối thù giữa Thần Ngưu Giáo Chủ với Hắc Hồ Bảo. Khi nghe chàng nhắc đến Sách Huyết Tôn Giả Phí Hòa, Nhất Bất Thông Chu Minh kinh hãi nói:
- Chết thực! Một mình lão Vu Sơn Sơn Chủ đã không ai địch nổi, lại thêm họ Phí thì nguy to! Tôn Giả chính là em vợ của Bộc Ly Bôi đấy! Chắc phen này họ Bộc và Tư Không Nhạ sẽ kéo quân đến Diên An liên kết với Hắc Hồ Bảo!
Hãn Thanh buồn rầu bảo:
- Nếu Thanh này có được một thanh bảo kiếm, như Trạm Lư Thần Kiếm của Hải Trừng Công Chu Kích, thì mới mong giết được Vu Sơn Sơn Chủ và Sách Huyết Tôn Giả!
Ngũ phán quan Tây Môn Thủy là người trầm mặc, ít nói, mặt xương xương, lãnh lẽo như đá. Người ngoài chẳng thể biết lão nóng nảy và liều lĩnh nhất trong các Phán Quan. Tây Môn Thủy chỉ nể sợ mỗi Tề Phi Tuyết nên không dám buông lung. Từ ngày về nương náu Hầu Phủ, được lão Hầu Gia cả Hãn Thanh trọng đãi, Ngũ Phán Quan rất yêu mến họ, nhất là Hãn Thanh.
Vì vậy, giờ đây, Tây Môn Thủy mới chịu mở miệng:
- Nghe nói Chu Kích bị xử trảm, thanh Trạm Lư Bảo Kiếm lại bị thiên tử thu hồi, chắc là đâu đó trong hoàng cung. Để lão phu đi Bắc Kinh trộm về cho Thanh nhi sử dụng!
Sau khi Hãn Thanh lấy Tề Đạm Vân thì chàng xem các Phán Quan như trưởng bối, xưng tiểu tế. Tây Môn Thủy gọi chàng là Thanh Nhi và lão có cảm giác chàng là nam tử của mình! Ở tuổi bảy mươi, ai không khao khát có gia đình cho khỏi cô đơn? Nhất là khi ảo vọng dùng Băng Hỏa Quả luyện tiên đan tan vỡ, Tây Môn Thủy thấy hụt hẫng, tịch mịch vô cùng!
Hãn Thanh kính cẩn đáp:
- Cảm tạ Ngũ thúc đã có dạ quan hoài, nhưng việc đột nhập hoàng cũng rất nguy hiểm, nơi ấy có hàng ngàn phòng ốc, đường đi rắc rối như mê cung, chẳng dễ gì tìm ra nơi cần đến. Để sau này, nếu không còn cách nào tốt hơn, tiểu tế sẽ cùng Ngũ thúc đi một chuyến!
Đêm hôm sau, Tổng binh thành Lạc Dương đột tử. Nghe nói lão chết trên người tiểu thiếp xinh đẹp, có lẽ là bị thượng mã phong.
Thế là tri phủ Hà Nam ở Hứa Xương phải bổ nhiệm ngay Tổng binh mới, và gửi công văn về bộ Lại, bộ Binh.
Bách tính thành Lạc Dương hoan hỉ khi thấy Hầu Tước Phủ được khởi công xây dựng lại. Hàng vạn mẫu đất hai bên bờ Lạc Thủy là của họ Mộ Dung, được giao khoán cho các nông dân với mức tô rất thấp, khiến cuộc sống các tá điền rất sung túc. Họ vô cùng biết ơn vị địa chủ nhân đức. Những năm mất mùa, họ không phải nộp tô mà còn được trợ cấp lúa gạo để ăn giáp hạt.
Nhưng trong sổ điền, số gạo ruộng kia lại không thuộc về Hầu Phủ mà của họ Lý, họ Vương, họ Tiên... nào đấy. Các địa chủ này đều có điểm giống nhau, là đều lấy vợ họ Mộ Dung.
Do tập quán Trung Hoa, đàn bà xuất giá thì dùng họ của chồng. Khi chết mới ghi như danh trên bia mộ. Vì vậy, người ngoài không thể biết họ là con gái Mộ Dung, trực tiếp điều hành tài sản của Hầu Phủ.
Trong các ngành kinh doanh cũng tương tự như vậy. Trà lâu, tửu quán, khách điếm, hiệu buôn... trong thành đều là sở hữu hoặc có phần hùn của Hầu Phủ và do một nữ nhân họ Mộ Dung quản lý.
Khi Hãn Thanh nghe nội tổ giới thiệu về cơ nghiệp Hầu Phủ chàng đã mỉm cười:
- Xem gia gia tin tưởng nữ nhân họ Mộ Dung hơn là nam giới!
Lão Hầu gia đắc ý, vuốt râu:
- Đúng vậy! Nữ nhân họ Mộ Dung căn cơ, thận trọng, kiên quyết và rất trung thành với tông tộc. Nhờ có họ mà tài sản của Hầu Phủ ngày càng tăng, dù không dùng thủ đoạn bóc lột, gian xảo như những tay trọc phú khác! Tuy chúng ta không trực tiếp làm quan nhưng hầu như khắp nước đều có những vị tri huyện, tri phủ phu nhân là người họ Mộ Dung, và đàn bà Mộ Dung khéo dạy chồng, nên có ảnh hưởng nhất định đến nền cai trị!
Hãn Thanh lắc đầu khâm phục:
- Đầu óc của gia gia quả là phi thường!
Mộ Dung Cẩn gượng cười:
- Họ Mộ Dung âm thịnh dương suy, nam nhân giỏi võ hơn văn nên hoạn lộ long đong, lại vì giòng dõi tiên uy, khó được trọng dụng! Cũng may lão phu xen thường danh lợi, lòng lo cho sự ấm no của tông tộc, mong rằng sau này Thanh nhi cũng làm như vậy!
Hãn Thanh gật đầu:
- Gia gia cứ yên tâm! Sau này Trung Hoa sẽ có một vị hoàng hậu là người Mộ Dung.
Hai ông cháu nhìn nhau cười khanh khách!
Cuối tháng bảy, Cái Bang đến báo tin rằng đã phát hiện tung tích của Quái mã Đà nhi ở vùng núi Tế Sơn, hướng Đông Nam thành Tế Xuyên, gần ranh giới Hà nam Huy Châu! Hãn Thanh mừng rỡ, lập tức lên đường, chỉ mang theo Tiểu Linh Miêu Lý Tữu Tuyền. Công việc phòng vệ Gia Trang đã có tám chục môn nhân nhà Mộ Dung và hai trăm đệ tử U Linh Cốc, nên Cái Bang đã rút người về, riêng Tiểu Linh Miêu túc trực cạnh Hãn Thanh để giữ đầu mối liên lạc.
Lý Tữu Tuyền hăng hái dẫn đường Tiểu Hầu Gia đi Tứ Xuyên. Trong thâm tâm, gã sẳn sàng bỏ quách chức vụ phân đà chủ Cái Bang để theo hầu thần tượng của mình là Hãn Thanh!
Nhưng lúc khởi hành, Ngũ Phán Quan Tây Môn Thủy bỗng nói:
- Lão phu sẽ cùng đi với Thanh nhi, ở nhà mãi cũng buồn!
Lão Hầu Gia tán thành:
- Hay lắm! Có Tây môn các hạ đi theo, lão phu an tâm hơn!
Mộ Dung Cẩn chỉ hơn bọn Tề Phi Tuyết mười mấy tuổi, do vai vế thông gia nên họ phải xem lão Hầu Gia vào hàng thúc bá. Tuy nhiên ông thường xưng hô khách sáo chứ ít khi gọi họ bằng hiền điệt!
Chiều ngày mùng hai tháng tám, ba người đến Hứa Xương, vào khách điếm nghỉ qua đêm. Trong bữa ăn tối, Hãn Thanh tư lự nói:
- Đà nhi là Thần vật, dù có hoảng sợ chạy khỏi Lạc Dương nhưng cũng nhớ đường về, vì sao hơn ba tháng nay nó vẫn còn lại Tứ Xuyên? Anh em Cái Bang phát hiện ra Quái mã trong trường hợp nào vậy?
Tiểu Linh Miêu đáp:
- Bẩm Hầu gia! Phân đà Tứ Xuyên báo về rằng có một hán tử tuổi ba mươi lăm, ba mươi sáu đã cỡi Đà nhi dạo chơi trong thành Tứ Xuyên. Anh em bám theo thì thấy gã trở về nhà là một sơn trang trong vùng đồi núi Tế Sơn, cạnh bờ bắc sông Hoài!
Tây Môn Thủy nói ngay:
- Lạ thực! Ngay lão phu tuy quen biết mà muốn cỡi Đà nhi cũng khó, sao hán tử kia lại có thể điều khiển dễ dàng như vậy nhỉ?
Hãn Thanh cười nhạt:
- Cả võ lâm đều biết Quái mã là của tiểu điệt, thế mà gã chiếm làm của riêng, công khai đi lại đường như có ý muốn dẫn dụ Thanh này đến Tế Sơn thì phải!
Tây Môn Thủy tán thành:
- Thanh nhi quả là cao kiến. Nhưng gã ấy dựa vào lực lượng nào mà dám vuốt râu hùm?
Lý Tữu Tuyền rụt rè góp ý:
- Theo thiển kiến của đệ tử thì có thể đây là một cái bẫy!
Không chừng Vu Sơn Sơn Chủ và Nam Thiên Tổng Giám không đi Hắc Hồ Bảo mà lại đến Tứ Xuyên, bày ra kế điệu hổ ly sơn này!
Hãn Thanh thầm khen Tiểu Linh Miêu là người biết lo xa! Chàng mim cười bảo:
- Có thể lắm! Khi đến Tứ Xuyên chúng ta hỏi đệ tử Cái Bang xem có phát hiện đoàn người lạ mặt nào không? Lực lượng Ngũ Long Bang còn lại hơn hai trăm người chứ đâu phải ít!
Mờ sáng, ba người rời Hứa Xương, đi về hướng Đông Nam, trưa hôm sau mới dến Tứ Xuyên. Trong lúc dùng cơm trưa, một hóa tử của địa phương đã được gọi đến để bọn Hãn Thanh hỏi han. Lỗ Bát cho biết tòa sơn trang kia có tên là Phù Dung Sơn trang, của một tay đại phú trẻ tuổi trong vùng. Gã ba mươi sáu tuổi nhưng chưa lập gia đình, tên gọi là Tống Chiêu Dương.
Họ Tống có đeo kiếm nhưng không hề xuất đạo nên không có thanh danh gì, và cũng không ai biết sư thừa của gã!
Sau khi phát hiện Đà nhi, anh em Tứ Xuyên đã giám sát chặt chẽ Phù Dung sơn trang nhưng không thấy có toán người lạ mặt nào Cả trong thành cũng vậy!
Hãn Thanh tư lự hỏi:
- Vì sao Sơn trang của Tống Chiêu Dương lại có tên là Phù Dung!
Lỗ Bát cười đáp:
- Bẩm Hầu gia! Tòa trang viện ấy trồng cả một vườn toàn hoa Phù Dung Tam Túy, chung quanh lại có hàng rào bằng cây hoa mộc cẩn (Còn gọi là Đay Phù Dung.) Vùng chân núi Vũ Di Sơn có nhiều Phù Dung Tam Túy nên Hãn Thanh chẳng lạ gì. Sáng sớm hoa nở ra màu trắng, trưa chuyển sang màu hồng đào, chiều tối đỏ sậm. Sau tiết sương giáng, cúc thu thưa thớt nhưng hoa phù dung lần lượt nở rộ!
Trong câu thơ cổ có câu "Sáng sớm như ngọc, hoàng hôn như ráng chiều." để miêu tả đặc tính thay đổi màu sắc kỳ diệu của hoa Phù Dung!
ún xong, ba người theo Lỗ Bát đi đến Phù Dung sơn trang. Ra Tế Sơn thành vài dặm đã thấy dãy núi Tế Sơn gồm sáu ngọn cao thấp không đều, ngọn cao nhất chỉ độ hơn trăm trượng!
Khi gần tới nơi, Hãn Thanh bảo Lỗ Bát trở lại thành, để khỏi tiết lộ quan hệ giữa chàng và Cái Bang!
Tiểu Linh Miêu Tữu Tuyền từ lâu đã trút bỏ y phục Cái Bang, đóng bộ võ phục gấm xanh sang trọng, nên không sợ ai nhận ra cái cốt ăn mày của mình.
Dung mạo gã vốn dễ coi, chỉ trừ đôi mắt láo liên, ranh mãnh!
Phù Dung sơn trang không có tường vây mà chung quanh là hàng rào Mộc Cẩn dầy đặc, trông rất đẹp mắt vì được cắt xén cẩn thận. Hoa Mộc Cẩn cũng có hình cái bát như Phù Dung và chỉ có một màu:
hoặc tím, trắng, đỏ tím nhạt. Tuy sớm nở tối tàn, nhưng không đổi màu, kỳ hoa rất dài, từ tháng năm đến tận tháng mười!
Giờ đây mới đầu tháng tám nên Phù Dung chưa nở, chỉ có hàng ngàn bông Mộc Cẩn tím nhạt tô điểm cho cảnh vật sơn trang!
Lúc còn cách cổng trang vài mươi trượng, Hãn Thanh đăm chiêu hỏi:
- Ngũ sư thúc có nhớ trong võ lâm ai là người thích hoa Phù Dung hay không?
Tây Môn Thủy vỗ đùi:
- Chẳng lẽ Thanh nhi lại muốn nhắc đến Phù Dung phu nhân Mạc Đang Quỳnh? Nhưng bà ta tuổi đã gần trăm, và ẩn cư mấy chục năm rồi mà?
Hãn Thanh gật gù:
- Tiểu điệt chỉ võ đoán thế thôi! Gia sư từng kể về Mạc tiền bối, nay thấy hoa và cái tên sơn trang nên tiểu điệt bỗng nhớ đến!
Tây Môn Thủy cau mày:
- Nếu Tống Chiêu Dương đúng là con cháu của mụ ác bà họ Mạc thì sự tình sẽ rất tệ hại. Đang Quỳnh là bào tỷ của Giáo chủ Thiên Độc giáo đất Vân Quý, võ nghệ siêu phàm, lại giỏi nghề sai khiến cổ trùng, tính tình bà ta nhỏ nhen quái ác, tất không dễ hoàn trả linh vật cho Thanh nhi đâu!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Tiểu điệt cũng rất ngại ngùng, vì bà ta và gia sư có mối hiềm khích từ xưa!
Nhưng họ đã đến nơi, xuống ngựa đứng trước cửa sơn trang. Cổng chính được tạo thành bởi hai thân gỗ lớn, trên có bảng gỗ ghi bốn chữ Phù Dung Sơn Trang. Cửa cổng gồm hai cánh bằng tre già vàng óng, cột sát vào nhau!
Hãn Thanh cao giọng gọi:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh có việc xin cầu kiến Tống trang chủ!
Mãi nữa khắc sau mới có một tiểu tỳ ra mở cổng, mời khách vào. ® nhìn Hãn Thanh chăm chú và mỉm cười tinh quái!
Sau cánh cổng là mảnh sân gạch rộng rãi, sâu độ tám trượng, dẫn đến thềm một tòa đại viện bằng gỗ kiến trúc đơn giản, thanh thoát.
Và trên thêm sảnh có một bà lão tóc bạc, áo gấm đen, đang ngồi trên đại ỷ. Đứng cạnh ghế là một hán tử áo lục màu tro, mặt mũi anh tuấn hiên ngang!
Hãn Thanh cúi chào:
- Xin bái kiến lão thái và trang chủ!
Tống Chiêu Dương ngạo nghễ hỏi:
- Phải chăng Tiểu Hầu Gia đến đây vì Đà nhi?
Hãn Thanh giật mình, không hiểu sao gã lại biết tên linh thú. Chàng gật đầu, vòng tay đáp:
- Thua phải! Tháng tư vừa rồi Hầu Phủ bị cường địch tập kích nên Đà nhi bỏ chạy, lưu lạc đến đây. Mong trang chủ khai ân cho phép tại hạ được thu hồi lại! ¢n nuôi dưỡng Đà nhi, Thanh này quyết chẳng dám quên!
Tống Chiêu Dương cười khanh khách:
- Tại hạ sẳn sàng hoàn lại linh vật, chỉ cần Tiểu Hầu gia ưng thuận một điều kiện!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Xin trang chủ cứ chỉ giáo!
Họ Tống tủm tỉm nói:
- Hầu gia hãy viết văn tự từ hôn Tề Đạm Vân!
Hãn Thanh nhíu mày:
- Nhưng chuyết thê bị đắm thuyền ngoài Đông Hải chưa biết sống chết thế nào. Cả võ lâm đều biết vậy, sao trang chủ lại nêu ra điều kiện lạ lùng ấy?
Tống Chiêu Dương thản nhiên đáp:
- Nàng sống hay chết không thành vấn đề. Các hạ cứ thực hiện yêu cầu của ta để lấy ngựa về!
Hãn Thanh lạnh lùng nói:
- Tại hạ đâu phải trẻ con mà không đoán ra Tề Đạm Vân đang có mặt tại đây!
Họ Tống gật gù đắc ý:
- Đúng thế! Ba tháng trước, ta vượt biển Đông sang đất Phù Tang về, tình cờ phát hiện trên một hòn đảo hoang có khói cầu cứu, liền cho thuyền ghé vào. Lúc ấy Tề Đạm Vân đã hoàn toàn kiệt sức vì đói khát. Ta mang nàng về Phù Dung sơn trang chăm sóc, chữa trị, và quyết định lấy nàng làm vợ. Ta bảo thực cho Tiểu Hầu Gia biết nàng đã thất tiết với ta, chẳng thể quay lại làm dâu Hầu Phủ được nữa đâu!
Nói xong, gã tưởng Hãn Thanh phải tái mặt giận dữ hay đau đớn đến run người nhưng đâu ngờ chàng điềm tỉnh bảo:
- Các hạ có ơn cứu tử chuyết thê, nên việc nàng thất tiết tại hạ cho rằng chẳng phải lỗi của nàng. Và không phải vì thế mà tại hạ thôi yêu thương Đạm Vân đâu! Trừ phi nàng quyết định lấy các hạ, còn như ngược lại thì mong các hạ hãy trả nàng cho ta!
Tây Môn Thủy mặt lạnh lòng nóng, lão căm gận rít lên:
- Tên tiểu tử chó má kia, ngươi nhân lúc cháu gái ta bệnh hoạn, giở trò cưỡng bức, thật chẳng bằng lũ súc sinh. Nếu không mau đưa Đạm Vân ra thì đừng trách lão phu độc ác.
Tống Chiêu Dương tái mặt, chưa kịp nói gì thì Hãn Thanh đã vận công quát vang:
- Vân muội, ta với nàng tình như biển, đừng vì chút tiểu tiết mà xa lìa nhau! Nàng mãi mãi là hiền thê của Thanh này!
Chàng đã dồn hết bẩy mươi năm công lực nên tiếng nói hùng mạnh như sấm dậy, khiến bà lão kia cũng phải biến sắc!
Tống Chiêu Dương giận dữ thét:
- Đừng gọi uổng công! Đạm Vân đã bị phế đôi chân rồi!
Hãn Thanh quắc mắt:
- Thế thì ta sẽ vào đưa nàng ra!
Tống Chiêu Dương cười nhạt:
- Phải thắng được ta đã!
Hãn Thanh vòng tay nói với bà lão:
- Vãn bối vì ân cứu tử chuyết thê nên cố nhẫn nhịn, không muốn va chạm với lệnh lang. Lão thái bà bậc trưởng thượng thông đạt, xin hãy khuyên giải lệnh lang!
Lúc này bà mới chịu mở miệng:
- Ngươi tưởng sở học của lão Cao Hán Ngọc là vô địch hay sao?
Nghe câu này, Hãn Thanh đã biết bà ta là ai, chàng mỉm cười:
- Mạc tiền bối nên biết rằng ngay Quang Minh Tôn Giả Khúc Tú Sơn và Hải Hà Tiên Tử còn chết dưới lưỡi kiếm của vãn bối!
Phù Dung phu nhân giật mình:
- Nếu thế thì lão thân phải tự thân mình ra tay mới được. Ngươi mà qua khỏi hai trăm chiêu thì ta sẽ trả Đạm Vân và Quái mã!
Tống Chiêu Dương có vẻ không phục:
- Mong mẫu thân cho hài nhi thử với gã một phen. Chắc gì Hãn Thanh đã thắng hai cao thủ một cách quang minh chính đại?
Phù Dung phu nhân lưỡng lự, cho rằng con mình có lý. Hãn Thanh tuổi mới hơn hai mươi, lẽ nào lại có võ công cao siêu đến mức ấy?
Hãn Thanh thở dài nhắc nhở:
- Đao kiếm vô tình, tại hạ sợ mình không làm chủ được bản thân, phương hại lệnh lang. Mong lão thái suy nghĩ cho kỹ!
Tây Môn Thủy bực bội cướp lời:
- Thanh nhi không cần phải quá nhân hậu như vậy! Để gã tiểu cẩu họ Tống cho ta!
Nghe lão thóa mạ mình hoài, Chiêu Dương động nộ rút kiếm tấn công liền. Ngay chiêu đầu gã đã dùng phép Ngự Kiếm, chiêu thức nhanh như thiểm diện.
Tiếc rằng Ngũ Phán Quan là người có khinh công cao cường nhất U Linh Cốc, chỉ khẽ đảo bộ đã rời vị trí hai trượng thoát khỏi đường kiếm. Và lão tung mình lên không phản kích nhanh.
Hãn Thanh chăm chú quan sát tiến phát của Tống Chiêu Dương với cả lòng say mê của một kiếm sĩ. Kiếm đạo mênh mông như biển, mỗi người tự tìm ra hướng đi của mình và môn phái nào cũng có những đặc sắc riêng. Phù Dung kiếm pháp xuất xứ từ nước Điền vùng Vân Nam, chiêu thức ảo diệu, biến hóa đột ngột không theo đường lối thông thường nên rất lang lệ có lẽ vì thế nên mới có tên của loài hoa đặc biệt kia!
Tống Chiêu Dương đã đạt đến tinh túy của pho kiếm nên có thể cầm đồng với một cao thủ lão thành Tây Môn Thủy. Dù vậy công lực gã kém hơn nên càng kéo dài cuộc chiến thì càng bất lợi. Chiêu Dương đã nhiều lần xuất kỳ chiêu mong lấy mạnh đối phương, nhưng ®o ®nh thân pháp của Tây Môn Thủy nhanh nhẹn phi thường nên chẳng hề hấn gì. Lão liên tục bủa chưởng vây chặt đối thủ, chưởng ảnh trùng trùng, điệp điệp như mây mù, tựa màn lưới to bền chắc gò bó thanh trường kiếm của Chiêu Dương.
Hãn Thanh thấy Ngũ Phán Quan bỏ qua nhiều cơ hội tốt thức ngộ rằng lão đã vì chàng mà kéo dài trận đấu, để chàng nắm được kiếm ý của Phù Dung kiếm pháp. Lão sợ chàng không địch lại Phù Dung phu nhân, cố dằn lòng nóng giận, tạo ưu thế cho Hãn Thanh!
Mạc Phu nhân cũng đã nhận ra thâm ý của Tây Môn Thủy. Bà ta cau mày bảo:
- Dương nhi không địch lại đệ tử của ®o ®nh Thần Quân đâu, hãy dừng tay lại đi.
Tống Chiêu Dương vì sĩ diện mạo hiểm xuất một chiêu rất ác độc. Gã suốt đời nép bên váy mẹ, chưa hề chịu khổ đau nên lòng hiếu thắng rất mãnh liệt. Tiếc rằng, chiêu thức càng nhiều sát khí thì càng lộ nhiều sơ hở, do công đáo nhiều hơn thủ. Lại thêm Tây Môn Thủy đang nuôi ý định sát hại họ Tống nên chẳng hề nương tay. Mắt lão tỏa hàn quang, song thủ ve vẩy, xuất chiêu Huyễn Hoặc Phù Sinh, lao thẳng vào màn kiếm quang.
Mạc phu nhân kinh hãi rú lên, nhưng không còn kịp nữa, mũi kiếm của Tống Chiêu Dương vừa chạm ngực đối phương thì một đạo chưởng phong đã vỗ vào bụng gã. Họ Tống hự lên đau đớn, văng ngược ra phía sau, máu miệng phun thành vòi, ngã ngửa ra sau ngất lịm.
Phù Dung phu nhân vội chạy đến nhét vào miệng ái tử ba viên linh đan và truyền công chữa trị ngay!
Gần khắc sau, bà ta thở phào đứng lên, bảo bọn tỳ nữ khiêng Chiêu Dương vào trong rồi quay sang trút hận lên đầu bọn Hãn Thanh. Gương mặt Mạc Đang Quỳnh vốn đã xấu xí vì những nếp nhăn của tuổi già, nay tái nhợt đi vì căm hận và đôi mắt chói lọi tia nhìn oán độc. Mụ rít lên the thé:
- Con trai lão thân cứu mạng Đạm Vân, không được ơn mà còn bị đánh cho suýt chết. Lão thân quyết không tha cho các ngươi đâu!
Hãn Thanh cười lạnh:
- Tống Chiêu Dương học thói tiểu nhân, thi ân cần báo, đó là tự chuốc lấy tai họa, phu nhân còn trách được ai nữa?
Mạc Đang Quỳnh nhặt thanh trường kiếm của Tống Chiêu Dương Đang nằm dưới đất Gằn giọng bảo:
- Hôm nay lão thân sẽ đòi luôn món nợ mà Cao lão quỉ đã vay năm xưa!
Mụ rút trâm, xõa mái tóc bạc phơ thưa thớt xuống. Rồi chậm rãi bước ra.
Hãn Thanh nào lạ gì phép phóng cổ độc, biến sắc bảo nhỏ Tây Môn Thủy:
- Ngũ thúc mau lui ra bốn trượng bà ta sắp thả cổ trùng đấy!
Ngu phán quan lo lắng:
- Còn Thanh nhi thì sao?
Hãn Thanh nháy mắt trấn an lão. Tây Môn Thủy hiểu ý, cười ha hả nói:
- Một mình Thanh nhi cũng đủ, lão phu sẽ làm trọng tài!
Dứt lời, lão rời xa trận địa, ung dung đứng chắp tay sau lưng, lão phát hiện Tiểu Linh Miêu Lý Tữu Tuyền đã âm thầm đi mất dạng từ lâu rồi!
Tây Môn Thủy gật gù hài lòng vì biết gã hóa tử xảo quyệt kia đã tìm cách dọ thám sơn trang để tìm Đạm Vân!
Lúc này, Phù Dung phu nhân lên tiếng:
- Để khỏi mang tiếng hiếp đáp trẻ con, lão phu nhường ngươi đánh trước ba chiêu, chỉ thủ chứ không phản kích!
Hãn Thanh kính cẩn ôm kiếm chào rồi vung kiếm xuất chiêu Trích Tiên Tiến Tữu (Lý Bạch mời rượu). Đây là chiêu đầu của pho Nhất Nguyên Tâm Kiếm, hàm ý lễ độ, nhưng nếu đánh nhanh vẫn có thể giết người!
Phù Dung phu nhân giải phá dễ dàng bằng trường kiếm và mấy thức chưởng từ tay tả.
Đên chiêu thứ hai, Hãn Thanh vẫn chỉ dùng có ba thành công lực, đánh chiêu Trùng Phong Thạch Liễu. Dĩ nhiên Mạc phu nhân chẳng hề bối rối, phối hợp kiếm chưởng để đối phó!
Hãn Thanh bỗng nhận ta trong chưởng phương của mụ có mùi thơm là lạ, chỉ thoang thoảng như hương Bách Hoa Tịnh mà nữ nhân thường sức lên mái tóc. Chàng biết ngay đối plương đã âm thầm thả cổ trùng vào người mình.
Việc nhường ba chiêu chỉ là độc kế mà thôi.
Nhưng Hãn Thanh đã đọc hết quyển y kinh của Quế Lâm Y Øn Tiên Linh Nam Ở ém Dương Linh Cảnh nên biết rõ vị trí của cổ trùng. Chàng đưa lửa tam muội lên huyệt Ngọc Đường đốt cháy nó trước khi cổ trùng vào được đáy huyệt.
Hãn Thanh rất chán ghét những kẻ xảo quyệt hèn hạ, liền dùng toàn lực vào chiêu Kình Ngư Phân Lãng, dùng phép Ngự Kiếm mà xuất thủ. Phù Dung đắc ý niệm chú, tin rằng chân khí Hãn Thanh sẽ bế tắc và rơi nhanh xuống đất. Nào ngờ đối phương vẫn lao như mũi tên rời dây cũng. Mạc Đang Quỳnh kinh hãi vội dồn thêm chân khí vào chiêu kiếm, đồng thời tả thủ vỗ nhanh một chưởng như vũ bão.
Công lực bà ta thâm hậu hơn Hãn Thanh, nhưng để mất tiên cơ, rơi vào thế bị động nên rất thiệt thòi. Mũi kiếm của Hãn Thanh tập trung đầy chân khí rẽ sóng chưởng kình và xuyên thủng màn kiếm quang quanh người đối phương.
Mụ yêu bà không hổ danh đại ma đầu, dù thất thế vẫn kịp thoát lui để bảo toàn mạng sống. Mụ không chết nhưng ngực phải thủng một lỗ thấu phổi!
Phù Dung phu nhân đau đớn rên khẽ, ôm ngực tung mình đào tẩu vào nhà!
Hãn Thanh và Tây Môn Thủy đuổi theo, lục soát khắp nơi, nhưng chẳng thấy phu nhân và Tống Chiêu Dương đâu cả. Bọn tỳ nữ sợ xanh mặt quỳ cả xuống xin tha mạng.
Hãn Thanh dịu giọng bảo:
- Ta không giết các người đâu! Hãy chỉ cho ta nơi giam giữ Tề tiểu thư!
® nữ tỳ lớn tuổi nhất run rẩy thua:
- Bẩm công tử! Tề cô nương bị nhốt trong tòa thạch thất cuối vườn hoa, đằng sau hàng cây Mộc Cẩn già!
Loài cây này trồng lâu có thể đạt được chiều cao đến gần hai trượng, thân mọc sát nhau, cành lá rất rậm rạp, nên che kín thạch lao, khiến Hãn Thanh không nhìn thấy! Chàng mừng rỡ cùng Tây Môn Thủy đi theo ả tỳ nữ. Nhưng Tiểu Linh Miêu đã từ cuối vườn hoa chạy lên. Gã hớn hở nói:
- Bẩm Hầu gia! Đệ tử đã tìm được nơi giam giữ Tề phu nhân, mở được khóa cửa. Mời Hầu gia đến rước phu nhân ra! Còn Linh mã cũng được nhốt trong chuồng ở phía sau thạch lao!
Hãn Thanh nghe vậy biết Đạm Vân không đi được, mà Lý Tữu Tuyền chẳng dám đụng chạm vào người nàng nên mới gọi chàng đến.
Hãn Thanh nóng lòng lướt đi như gió thoảng. Đ ến nơi, chàng nghẹn ngào nhìn người vợ yêu đang nằm thiêm thiếp trên giường trong ngục!
Can Thạch thất này được trang trí rất hoa lệ, chẳng khác nào một khuê phòng của bậc công nương, nhưng các bậc song cửa sổ đều bằng thép rèn lớn cỡ cổ tay một tiểu đồng! Hãn Thanh biết nàng bị điểm huyệt liền giải tỏa. Đạm Vân mở mắt, ngơ ngác nhìn phu tướng tưởng như trong mộng.
Hãn Thanh quỳ xuốn bên giường ôm nàng thì thầm:
- Vân muội! Ta biết trời xanh không nỡ bắt tội uyên ương phải xa lìa mãi mãi!
Đạm Vân biết đây là sự thực, ôm đầu chàng khóc nức nở:
- Tướng công! Thiếp đã tưởng kiếp này không còn được gặp chàng!
Lát sau, chàng cố gượng ngồi lên vừa khóc vừa nói:
- Tướng công! Thiếp chỉ mong gặp chàng một lần để nói lời vĩnh biệt, vì thân này đã ô uế rồi, không xứng đáng hầu hạ chàng nữa!
Hãn Thanh hôn lên trán nàng, mỉm cười:
- Nàng quên ta là người thế nào sao? Việc không may ấy chẳng hề ảnh hưởng đến tình phu thê của chúng ta!
Tây Môn Thủy giận dữ gầm vang:
- Mả cha cái gã súc sinh họ Tống! Lão phu chỉ tiếc rằng không giết được gã!
Đạm Vân giờ mới nhận ra lão òa lên khóc:
- Ngũ thúc ơi! Vân nhi còn mặt mũi nào mà sống nữa?
Hãn Thanh nghe lòng đau như cắt, chỉ sợ ái thê quẩn trí quyên sinh, chàng bỗng nhớ đến Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, liền hỏi:
- Họ Tống đã làm gì nàng?
Đạm Vân hổ thẹn đáp:
- Hắn... hắn đã thấy... và đụng chạm khắp... thân thể thiếp!
Hãn Thanh phá lên cười, tát yêu vào má Đạm Vân:
- Nàng đúng là con ngốc! Như thế mà lại gọ là thất tiết hay sao? Té ra Hà Hồng Hương không kể rõ chuyện năm xưa, Hương muội đã từng bị địch cưỡng bức. Thế mà ta nào có xem là thất tiết, vẫn cưới nàng làm vợ. Quan niệm thất tiết trinh của người Hán quả là cổ hủ, vô lý. Người Cao Sơn chúng ta thường lõa thể tắm suối, đùa giỡn với nhau mà nào có sao?
Đạm Vân phụng phịu trách móc:
- Thế mà Hương muội kể rằng gã họ Hứa kia không hề lột được mảnh vải nào, và cũng chưa kịp chạm một ngón tay vào người nàng, thì đã bị tướng công đả thương rồi!
Hãn Thanh phì cười:
- Hương muội xấu hổ giấu giếm thế thôi, giờ nàng đã yên tâm chưa?
Tây Môn Thủy cười ha hả:
- Thôi đừng nhõng nhẽo nữa! Lão phu còn nhớ ngày ngươi lên năm vẫn thường trần truồng tắm mưa, cả U Linh Cốc ai cũng thấy, sao không vì thế mà tự sát quách cho xong đi?
Đạm Vân thẹn đỏ mặt:
- Ngũ thúc kỳ cục quá, ngày ấy Vân nhi còn nhỏ đâu biết gì?
Tây Môn Thủy gật gù:
- Thời gian trôi qua mau thực, thấm thoát đã hai mươi năm rồi!
Hãn Thanh buột miệng:
- Té ra Vân muội chỉ mới hai mươi lăm tuổi sao?
Tiểu Linh Miêu ôm bụng cười nắc nẻ:
- Chẳng lẽ Hầu gia không biết tuổi của phu nhân?
Hãn Thanh ngượng ngùng thú nhận:
- Ngày ấy Tề nhạc phụ nói rằng Đạm Vân đã ba mươi mấy. Ta đinh ninh như thế nên cũng chẳng hỏi lại!
Đạm Vân nguýt chàng:
- Tướng công quả là người chồng hiếm có trên đời! Thiếp đoán chắc rằng chàng cũng không hề biết tuổi thực của Trịnh đại thư!
Hãn Thanh cười mát:
- Ta đã lấy vợ ma với Hồ Ly mà còn hỏi tuổi tác làm gì?
Bỗng chàng giật mình hỏi:
- Thế Vân muội và Tiểu Thuần không cùng trôi dạt hay sao?
Đạm Vân buồn bã lắc đầu:
- Lúc thuyền bị vỡ, thiếp bị sóng cuốn đi, không rõ Trịnh đại thư sống chết thế nào cả! Biển tối đen vì mưa bão, chẳng thể nhìn thấy ai. Thiếp vùng vẩy một hồi lâu, may mắn tìm được cánh cửa khoang thuyền, lênh đênh mấy ngày trời mới dạt vào đảo hoang!
Hãn Thanh cau mày:
- Lạ thực! Nàng chỉ kiệt sức vì đói khát, sao lại lâu hồi phục như vậy! hay là Phù Dung đã hạ độc thủ để kéo dài tình trạng hư nhược này?
Đạm Vân gật đầu:
- Tướng công đoán không sai! Bà ta cho thiếp uống một loại thuốc độc mạn tích để ép thiếp phải lấy Tống Chiêu Dương. Thiếp ở thế cùng lực kiệt liền nghĩ ra diệu kế, bảo rằng sẽ đồng ý nếu tướng công chịu viết giấy từ hôn.
Tống Chiêu Dương tin vào bản lãnh Phù Dung phu nhân nên đã mắc mưu. Họ định dùng cổ trùng để khống chế và mê hoặc tướng công, nhưng thiếp biết chàng không sợ!
Năm ngày sau, bốn người về đến Lạc Dương, Hầu Phủ chưa xây xong nên mọi người vẫn ở trong tòa trang viện phía Đông thành. Thấy có cả Tề Đạm Vân, ai cũng vui mừng khôn xiết, lệ mừng tuôn như suối.
Trưa hôm sau, nỗi hân hoan tăng gấp bội, khi Thiết Địch Thần Y, Lục Phán Quan và U Linh Tứ Vệ cũng về đến. Thuyền của Hách Khai Nguyên đã tìm thấy họ trên đảo Liễu Kiều của Phù Tang!
Nhưng Hãn Thanh chỉ gượng cười vì an nguy của Tiểu Thuần luôn là nỗi đau đớn, ưu tư lớn nhất trong lòng chàng!
Tề Phi Tuyết an ủi Hãn Thanh:
- Ngay bốn gã ngốc U Linh Tứ Vệ mà còn thoát chết thì Thuần nhi đâu có gì đáng ngại? Cơn bão ấy tuy mãnh liệt nhưng không kéo dài, và địa điểm đắm thuyền lại rất gần với nhiều đảo nhỏ!
Hãn Thanh bùi ngùi đáp:
- Nhạc phụ dạy rất phải, nhưng ai biết được mệnh trời thề nào! Hơn nữa, tạo hóa ố toàn, lẽ nào lại chịu để cho tiểu tế được hưởng hạnh phúc trọn vẹn!
Mộ Dung Cẩn nghiêm khắc bảo:
- Cái luận điệu bi quan kia nào phải của Bất Biệt Cư Sĩ? Chẳng lẽ Thanh nhi không sở đắc được chút pháp môn Bất Nhị hay sao?
Hãn Thanh sợ hãi đáp:
- Tiểu tôn biết lỗi, mong gia gia lượng thứ!
Tứ phán quan Hiểu Ngộ vội đỡ lời:
- Thanh nhi còn quá trẻ, tình phu thê nồng thắm, tất tâm phải loạn trước sự mất tích quá lâu của Tiểu Thuần!
Lão Hầu gia dịu giọng:
- Đời là bể khổ, chuyện sinh tử ly biệt là chuyện tất yếu của tự nhiên.
Thanh nhi tuy được cận kề bậc chân nhân tu là Cao Cư Sĩ, nhưng vì còn nặng nghiệp quả nên khó thoát vòng tục lụy!
Thực ra Bất Biệt Cư Sĩ chính là một trưởng lão của chùa Vạn Niên Tự, thuộc phái Nga My, Cao Hán Ngọc xuất gia từ thưở ấu thơ, trí tuệ thuộc hàng thượng phẩm. Năm ba mươi tuổi, họ Cao kiến tánh, phát tâm Bồ Tát, rời chùa đi khắp thiên hạ, trà trộn với mọi tầng lớp, dùng lục độ mà cảm hóa, cứu khổ chúng sinh! (Lục Đồ gồm có đức:
Bố thí, tà giới, nhẫn nhục, tinh thấu, thiền định, trí tuệ.) Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường cười khà khà:
- Lão phu học đạo đã sáu mươi năm mà vẫn chưa dám xưng là bậc chân nhân, thì Thanh nhi không có gì đáng trách cả!
Hồng Hương muốn tỏ lòng bênh vực trượng phu, liền thỏ thẻ:
- Bẩm gia gia, kể từ mai, tôn tức sẽ bắt tướng công phải ăn chay và tụng niệm như gia gia vậy!
Hà Hồng Tập phì cười:
- Sao con không bảo Thanh nhi thí phát quy y luôn cho rồi!
Vài ngày sau, Hãn Thanh nhận được thư của giáo chủ Thần Ngưu Giáo Quân Khải Siêu. Họ Quân báo rằng Hắc Hồ Bảo đã gửi thư khiêu chiến, hẹn sáng ngày mười bốn tháng tám sẽ đến chân núi Hoa Sơn để liễu kết hận thù!
Quân Giáo chủ lo ngại Sách Huyết Tôn Giả sẽ xuất hiện, nên mong mỏi Hãn Thanh đến trợ chiến!
Thư đến vào bữa ăn trưa nên mọi người đều đông đủ. Hãn Thanh đọc cho cả nhà nghe và tư lự bảo:
- Mười hai năm trước, Hắc Hồ Bảo Chủ Tôn Cự Mộc hạ sát bào đệ Quân giáo chủ là Quân Tôn Hiến. Thế lực Hắc Hồ Bảo rất hùng mạnh nên Quân Khải Siêu không báo được thù. Ông ta bèn tổ chức ra Thần Ngưu Giáo để phục hận cho em trai. Nhưng vì sao Hắc Hồ Bảo là người có lỗi lại khiêu chiến trước nhỉ?
Tề Phi Tuyết gật gù:
- Như vậy lần này chắc chắn Sách Huyết Tôn Giả cũng đến Hoa Sơn, nên Tôn Cự Mộc mới nắm chắc phần thắng như vậy!
Ngũ Phán Quan xen vào:
-Tiểu Linh Miêu báo rằng không hề thấy Vu Sơn Sơn Chủ và Nam Thiên Tổng Giám kéo tàn quân đến Diên An. Nếu chỉ một mình Sách Huyết Tôn Giả thì cũng chẳng đáng sợ lắm! Chỉ cần lão phu và Hãn Thanh đi là đủ!
Lục Phán Quan cằn nhằn:
- Sao Ngũ ca cứ đòi đi hoài vậy? Lần này đến phiên tiểu đệ mới phải chứ?
Nhất Bất Thông Chu Minh bật cười:
- Tòa trang viện này rất kín đáo, không sợ Vu Sơn Sơn Chủ biết mà tập kích. Cả hai vị cứ đi với Hãn Thanh cho chắc ăn. Bản lĩnh Phí tôn giả chẳng kém Bộc Ly Bôi là bao nhiêu đâu!
Nhưng Hãn Thanh lại không đồng ý:
- Tiểu điệt linh cảm rằng đây là kế điệu hổ ly Sơn của Vu Sơn Sơn Chủ.
Con người cao ngạo như lão chẳng bao giờ chịu nhẫn nại lâu đến thế. Tốt nhất là tiểu điệt sẽ đi một mình, chư vị Ở lại phòng thủ gia trang!
Đại phán quan nghe xong, bấn tay tính toán, rồi lo lắng nói:
- Quẻ rất xấu, có lẽ Thanh nhi đoán đúng!
Lạc Bình ái ngại bảo:
- Nếu vậy thì tướng công đừng đi nữa!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Nàng nói gì lạ vậy? Vì đạo nghĩa làm người, ta đây đâu thể bỏ rơi Quân Giáo Chủ! Hơn nữa, hiện nay phe đối phương chỉ còn Vu Sơn Sơn Chủ và Tư Không Nhạ, trong khi chúng ta đông đủ thế này, lẽ nào sợ họ?
Lão Hầu Gia nghiêm giọng:
- Thanh nhi cứ lên đường đi! Việc ở nhà ngươi bất tất phải lo!
Sau đó, Chu Minh và Đại Phán Quan bắt tay củng cố tuyến phòng thủ gia trang. Còn Hãn Thanh âm thầm rời Lạc Dương vào cuối canh ba. Không ai thấy được chàng xuất phát từ địa điểm nào cả! Với võ công hiện tại, Hãn Thanh không hề sợ bất cứ ai. Chàng trở lại với khuôn mặt nhẵn nhụi, trắng trẻo và xinh đẹp của mình, nhưng đôi mắt chàng vẫn ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm vì thương nhớ Tiểu Thuần.
Cái Bang đã được lệnh loan báo tin này ra khắp nơi, nên hào kiệt trong vòng bán kính bốn trăm dặm đều nô nức lên đường đến Hoa Sơn quan chiến!
Hãn Thanh cố tình làm như vậy để Sách Huyết Tôn Giả không xen vào cuộc so tài giữa Hắc Hồ Bảo và Thần Ngưu Giáo. Trước mắt hàng ngàn đồng đạo, hy vọng lão ác ma Phí Hòa chẳng dám muối mặt làm càn.
Mùa thu đã về trên cao nguyên Sơn Tây. Trời khá lạnh nên Hãn Thanh có cớ để khoác áo Khinh Cừu! Chiếc nón rộng vành sụp kia che kín nửa trên khuôn mặt. Danh tiếng càng lẫy lừng thì phiền toái càng nhiều. Ai cũng muốn chào hỏi Tiểu Hầu Gia, và Hãn Thanh ngượng ngùng trước sự ngưỡng mộ, dò xét của đồng đạo. Chính vì vậy, trên đường dong ruổi, Hãn Thanh không lột nón ra khi dừng chân nói phạn điếm, tửu lâu.
Trong trận đấu với Vu Sơn Sơn Chủ, chàng xuất hiện với gương mặt đầy râu và đen đúa, nên ấn tượng kia đã in sâu vào lòng hàng ngàn đồng đạo. Giờ đây gặp lại, họ sẽ khó nhận ra chàng Nếu chỉ nhìn nửa dưới khuôn mặt!
Hãn Thanh đến trấn lớn dưới chân núi Hoa Sơn vào trưa ngày mười bốn.
Đã có mấy trăm hào khách hiện diện, họ ngồi đầy trong các tửu quán, và đông nhất là ở Tây Nhạc Tửu Viên.
Cơ ngơi này mới xây dựng và khai trương vài tháng, trông còn rất mới.
Gọi là Tửu Viên vì chung quanh là vườn hoa rộng thinh thang, đầy đủ giả sơn, suối nước, tiểu đình bát giác. Tửu khách muốn cuộc nhậu được riêng tư thì có thể chọn một tòa tiểu đình xinh xắn biệt lập. Ai cũng thích được tự do bù khú với bằng hữu, nên các tiểu đình đều bị chiếm chỗ, nên chỉ riêng quán lớn là còn trống vài bàn.
Nam Thiên Tổng Giám ngồi xuống, gọi rượu thịt, bánh bao. Từ ngày ra Đông Hải trở về đến nay. Chàng uống rượu nhiều hơn lúc trước, như để trấn áp nỗi buồn lo trong lòng. Sơn Tây là quê hương của rượu phần, đâu đâu cũng có. Hãn Thanh nhấp một hớp rượu trong suốt thơm tho, nghĩ đến dòng suối không lấy gì làm sạch sẽ của sông Phân Giang bất giác mỉm cười!
Hào khách đến đây không thiếu những tay cường sơn thảo khấu, đại đạo độc hành. Do vậy, người đội nón che nửa mặt như chàng khá nhiều. Võ lâm là chốn đầy chuyện quái lạ nên chẳng ai thắc mắc làm gì! Có những cao thủ không cần giấu mặt nhưng cũng không bỏ nón ra, để tạo cho mình một vẻ thần bí, đáng nể!
Một số là những người đi không muốn đổi tên, ngồi không đổi họ, lúc nào cũng muốn thiên hạ nhìn thấy mình. Họ học võ, mang đao kiếm luôn có mặt ở những thịnh hội, những cuộc so tài, làm khách quan chiêm. Họ chỉ rút đao khi thấy chắc ăn, và không dại gì gây oán với những đối thủ mạnh hơn.
Thỉnh thoảng họ đánh đuổi, hạ sát vài tên hạng bét để cứu người cô thế, và hài lòng với những hành động nghĩa hiệp của mình! Họ chỉ thật sự dũng cảm khi có ai chạm đến quyền lợi bản thân thôi! Đó là lớp trung niên và lão thành, từng trải cay đắng giang hồ nên rất cẩn trọng. Còn lớp thanh niên thì khác hẳn, họ khao khát thanh danh và không biết sợ!
Hãn Thanh vừa ăn uống, vừa quan sát mọi người qua vành nón thấp, không dám nghĩ đến Tiểu Thuần! Chàng biết mình chỉ thực sự yêu thương có mình nàng thôi! Còn ba người vợ chỉ có duyên và nghĩa. Chàng chợt thức ngộ rằng thân mẫu mình đã hoàn toàn có lý khi không chấp nhận thói đa thê của người Hán. Con người chỉ có một trái tim để dành trọn vẹn cho một nữ nhân thôi!
Bỗng ngoài vườn kia, có một lão say nào đó cất tiếng ngâm bài thơ Tự Khiển của Lý Bạch:
Đối thủ bất giác mị Lạc hoa danh mãn y Túy khởi bộ khê nguyệt Điểu hoàn nhân điệc hi (dịch thơ) Chén tràn không biết tối Trên áo rụng đầy hoa Tỉnh rượu theo trang suối Chim về người cũng thua!
Giọng lão khàn khàn, thê thiết, bộc lộ nỗi niềm cô quạnh.
Và lát sau, lão bước vào tòa tửu điếm rộng mêng mông này. Đó là một lão đạo sĩ già nua đến mức khó mà đoán ra tuổi tác. Tóc lão bạc trắng và lưa thưa, vì quá ít nên thả rũ quanh vai chứ không búi được. Da mặt lão nhăn nheo như quả táo khô, chiếc mũi lân đỏ ửng vì men rượu.
Nhưng lưng lão vẫn thẳng, dù đang đeo một chiếc gùi mây, trong có độ chục thanh kiếm. Trên dung mạo cằn cỗi, thô kệch, mộc mạc kia, chỉ có đôi mắt là đáng chú ý. Không phải vì nhãn quang sáng rực, mà vì dường như mắt lão biết cười một nụ cười bí ẩn, ranh mãnh!
Chiếc đạo bào cũ kỹ, vá víu kia có lẽ nguyên thủy là màu trắng nhưng giờ đây không biết phải gọi là màu gì! Ngay cả hình thái cực thêu trước ngực cũng nhạt nhòa, chẳng rõ ràng.
Lão đạo ngồi phịch một bàn mé tả Hãn Thanh cao giọng gọi rượu thịt. Gã tiểu nhị nhăn nhó:
- Lão gia! Bàn rượu ngoài vườn còn chưa tính tiền!
Đạo sĩ trừng mắt:
- Thì cứ tính gộp vào, có gì mà phải rống lên như thế? Bần đạo chỉ bán một thanh kiếm cũng đủ mua cả tửu viên này!
Lão tháo gùi mây đặt lên bàn, oang oang mời chào:
- Kính chào các bậc anh hùng hào kiệt, bần đạo có vài thanh kiếm sắc bén vô song, mời chư vị đến ngự lãm!
Dứt lời, lão bày kiếm ra trên mặt bàn, từ vỏ nạm vàng cho đến vỏ da trâu xấu xí. Gã tiểu nhị bực bội nói:
- Lão gia tử! Đây đâu phải là chợ búa!
Đạo sĩ già trừng mắt:
- Bần đạo bán kiếm tất phải tìm nơi có nhiều khách võ lâm, chợ bán toàn những mụ đàn bà, làm sao bán được? Ngươi cứ dọn rượu thịt ra, đừng lắm lời nữa!
May thay, gã tiểu nhị là người kính lão nên lui bỏ đi. Gã tự nhủ rằng lão già bán kiếm này cũng lẩm cẩm, khó chịu y như ông nội của mình!
Lão đạo bắt đầu quảng cáo cho hàng hóa:
- Hỡi các bậc kiếm sĩ! Bần đạo hành nghề này đã sáu chục năm, chuyên cũng cấp những thanh kiếm quý giá nhất võ lâm. Ai muốn trở thành đại kiếm thủ, xin hãy đến đây!
Xem thử thì chẳng thiệt hại gì, có mười mấy tay ngà say ngất ngưỡng đến chọn kiếm. Lạ thay, thanh nào cũng chặt sắt như chặt bùn. Tuy nhiên, cái giá hai ngàn lượng chẳng phải ai cũng trả nổi!
Hãn Thanh cảm thấy kỳ quái, biết rằng lão già bán kiếm này chẳng phải tầm thường. Thần kiếm vốn chẳng có nhiều, vì sao lão đạo sĩ này lại suu tầm được nhiều như vậy?
Trong lúc khách hàng chọn lựa, đạo sĩ già kia thản nhiên nâng chén uống tràn. Thức nhắm cũng toàn cao lương mỹ vị đắt tiền.
Chưởng quỷ và tiểu nhị bắt đầu lo lắng khi lão đạo sĩ chưa bán được thanh kiếm nào!
Hãn Thanh chú ý thấy rằng loại thanh kiếm đạo nhân luôn tự tay thử kiếm, chặt đứt khúc sắt lớn bằng ngón chân cái rất dễ dàng. Chàng là kiếm khách, đương nhiên rất ước ao có được một thanh bảo kiếm, nhưng phong cách của lão đạo sĩ khiến chàng dè dặt!
Đột nhiên ngoài cửa quán có toán thực khách mới bước vào. Họ không tìm bàn để nhậu mà vây chặt lấy đạo sĩ bán kiếm. Thủ lĩnh của nhóm này là một hảo hán tứ tuần, râu hùm, hám én, mắt hổ trông rất oai phong lẫm liệt.
Gã cười vang dội rồi gằn giọng:
- Lão quỷ già kia! Lão bán kiếm giả khiến ta suýt bỏ mạng trong tay địch thủ, không ngờ lại gặp nhau ở chốn này!
Mại kiếm nhân thản nhiên đáp:
- Túc hạ nói gì mà lạ vậy? Bần đạo suốt đời làm ăn chân chính làm gì có chuyện giả thực?
Hán tử kia ngửa cổ cười:
- Nói ra càng thêm hổ thẹn, mỗ là Cam Chân Nhất Hào, không ngờ lại mắc mưu lão bợm già! Ta bỏ ngàn lượng mua thanh Hàn Băng Kiếm nào ngờ chỉ là kiếm gẫy được hàn lại!
Hãn Thanh đã được nghe đến danh tự của Cam Nhân Nhất Hào. Gã tên là Nguyên Tấn Nhan, bá chủ vùng Kim Châu, Túc Châu, sở hữu mấy chục mục trường và hàng vạn con tuấn mã. Chính vì quá giàu có nên gã mới dám bỏ ra ngàn lượng vàng để mua một thanh trường kiếm!
Để chứng minh cho lời mình nói, Cam Nhân Nhất Hào rút thanh kiếm bên hông ra, hơi lạnh tỏa ra nghi ngút, nhưng mũi kiếm đã gẫy một đoạn. Họ Nguyên mở bọc hành lý lấy đoạn thép bị gẫy, dài độ gang tay!
Mại kiếm đạo nhân điềm tỉnh nói:
- Bần đạo bán kiếm đã mấy chục năm, chưa hề bị ai khiếu nại cả. Túc hạ sử dụng không đúng cách nên kiếm bị gẫy, sao giờ lại bắt đền lão phu?
Thực ra, dù là thần kiếm cũng có thể gẫy như thường. Vì độ sắc bén nằm ở lưỡi. Nếu người sử dụng dùng bản mà va chạm với vũ khí thì dẫu là Can Tương, Mạc Da cũng không chịu nỗi!
Cam Nhân Nhất Hào đuối lý gầm lên:
- Nhưng thanh Hàn Băng Kiếm đã gẫy từ trước và được làm lại! Hai tháng trước, tại hạ đụng độ với Lan Châu Thần Trượng, chỉ đánh vài chiêu đã gẫy kiếm, nếu không nhanh chân đào tẩu thì đã bỏ mạng rồi!
Mại kiếm đạo nhân cười nhạt:
- Đó là việc của túc hạ, bần đạo không cần biết! Thanh Hàn Băng Kiếm này chém sắt như chém bùn, làm sao dám nói lão phu bán kiếm giả?
Lão cầm thanh kiếm gẫy chặt vào thỏi sắt, quả nhiên đứt ngọt.
Nguyên Tấn Nhan giận dữ gầm lên:
- Đúng là kiếm rất sắc, nhưng gẫy mất một đoạn thì làm sao tại hạ sử dụng được?
Đạo nhân người hì hì:
- Dài ngắn nào có khác gì nhau, tại ngươi không biết cách dùng đấy thôi!
Hãn Thanh giật mình vì lý luận của lão chẳng khác gì Bất Biệt Cư Sĩ! Cam Nhân Nhất Hào nạt lớn:
- Không cần phải nói nhiều! Lão hãy trả lại ta ngàn lượng vàng và thu kiếm về! Nếu không, đừng trách Nguyên mỗ chẳng biết kính lão!
Thái độ của Nhất Hào rất hung hăng, dữ tợn nên lão đạo có vẻ khiếp sợ.
Lão ấp úng nói:
- Nay túc hạ ỷ thế hiếp người, bần đạo cũng đành phải chịu thua. Nhưng già này chỉ còn có hai trăm lượng vàng, mong Nguyên túc hạ chấp nhận giùm cho!
Cam Nhân Nhất Hào bực tức hỏi:
- Lão làm gì mà mới hai tháng đã tiêu hết tám trăm lượng?
Đạo sĩ mỉm cười:
- Bần đạo đi ngay Qúy Châu, thấy lê thứ đói khổ vì mất mùa nên đã bố thí hết rồi!
Nguyên Tấn Nhan trợn mắt:
- Ai mà tin được một kẻ xảo quyệt như lão! Nếu không có năm trăm lượng vàng chuộc kiếm thì đừng hòng sống sót!
Mại kiếm đạo nhân sợ hãi quay sang phân bua với thực khách:
- Mong chư vị giữ đạo công bằng cho! Bần đạo bán kiếm nguyên vẹn, Cam Nhân Nhất Hào làm gẫy đòi trả lại, thật là ép người thái quá!
Nhưng chẳng ai dám lên tiếng vì thanh danh của Nguyên Tấn Nhan rất lớn, và hiện nay, sau lưng gã có tới mười cao thủ rất hung hãn!
Hãn Thanh đứng lên nói:
- Khoan đã! Tại hạ có thể tham gia cuộc giao dịch này!
Chàng bước đến cầm thanh kiếm gẫy, chặt thử vào thanh kiếm của chính mình. Hãn Thanh chỉ dồn có hai thành công lực mà kết quả thật phi thường.
Từng đoạn thép gẫy rời như gỗ mục.
Hãn Thanh móc túi lấy tờ ngân phiếu năm trăm lượng vàng trao cho Cam Nhân Nhất Hào:
- Tại hạ đồng ý mua lại thanh kiếm gẫy này với giá năm trăm lượng vàng!
Nguyên Tấn Nhan cầm lấy xem xét, nhưng không phải giả, hài lòng nói với đạo sĩ bán kiếm:
- May cho lão, nếu không thì cái mạng già kia khó vẹn toàn đấy!
Nhưng gã bỗng nghẹn lời khi Hãn Thanh trao cho Mại kiếm một tờ ngân phiếu khác:
- Tiên trưởng cho vãn bối cúng dường ngàn lạng hoàng kim để tế độ tai dân!
Chàng nói rất nhỏ nhưng không tránh khỏi những cặp lỗ tai thính nhạy ngồi gần đấy, và chỉ lát sau cả quán biết sự thật!
Mại kiếm đạo nhân giật mình hỏi lại:
- Vì cớ gì tiểu tử ngươi lại tín nhiệm bần đạo như vậy?
Hãn Thanh mỉm cười hạ giọng:
- Mười thanh thần kiếm này toàn là của giả! Chỉ có câu "dài ngắn như nhau" là thực mà thôi!
Lão đạo sĩ trợn mắt vò đầu:
- Thôi chết rồi, bần đạo đã gặp khắc tinh, không dám ở lại đây nữa!
Nói xong, lão vơ vét hết kiếm tất tả chạy mất. Hai gã tiểu nhị chặn kín cửa, mà không hiểu sao chẳng đụng đến được đến vạt áo lão ta!
Hãn Thanh trấn an:
- Tiệc rượu của vị đạo sĩ ấy ta sẽ thanh toán!
Chàng móc bạc ra trả ngay và rời quán để tránh những ánh mắt hiếu kỳ của đồng đạo. Họ đang cố đoán xem chàng là ai mà dám bỏ ra một ngàn năm trăm lượng vàng để mua một thanh kiếm gẫy!
Hãn Thanh vất vả lắm mới tìm ra chỗ trọ. Chàng hân hoan vuốt ve thanh Hàn Băng Kiếm lạnh toát, phân vân không biết dùng cách nào để hàn lại mũi kiếm.
Tuy mất một đoạn mà thanh bảo kiếm vẫn dài bằng những thanh thần kiếm thời xuân thu. Nhưng nếu dùng lửa để rèn lại mũi thì Hàn Băng Kiếm sẽ mất đi khí lạnh cố hữu của mình. Hãn Thanh tự nhủ chỉ còn cách mài mà thôi! May thay, Nhất Nguyên Tâm Kiếm không thiếu những chiêu giết người bằng lưỡi kiếm, Hãn Thanh liền ôn luyện lại, và vững tin vào sở học.
Đêm ấy, Hãn Thanh dùng khinh công thượng thừa lục soát toàn bộ những khách điếm ở trấn Hoa Sơn, tìm thấy lực lượng Thần Ngưu Giáo!
Quân Khải Siêu vui mừng khôn xiết, ôm chặt lấy chàng, hai người bàn bạc đến tận nửa đêm mới chia tay!
Sáng ra, lực lượng Thần Ngưu Giáo có mặt rất sớm. Sau lung Quân Giáo chủ là mười Ngân Khôi Hộ pháp! Giáo phái này mới xuất hiện chẳng được bao lâu, nên võ lâm không biết rõ cơ cấu cao thủ đầu não của họ!
Thực ra, Quân Khải Siêu đã đem đến Hoa Sơn những người giỏi nhất. Họ Quân đã sạt nghiệp vì chi phí huấn luyện đội dũng sĩ Ngưu Giác Đồng Khôi!
Chỉ vài khắc sau, phe Hắc Hồ Bảo cũng xuất hiện. Ngoài loan đao, trên vai bọn đao thủ còn có đoản cung và ống tên. Hai lá đại kỳ thêu hình trâu xanh và cáo đen phất phới trong ngọn gió thu.
Hắc Hồ Bảo chủ Tôn Cự Mộc tuổi độ sáu mươi nhưng vạm vỡ, to ngang, mắt hổ, mũi lân, mày rậm. Phía sau họ Tôn là một cỗ kiệu phủ sa đen, không rõ ai ngồi trong đó.
Quân giáo chủ nóng ruột tiếng trước:
- Tôn Bảo chủ! Mười hai năm trước, các hạ vì tranh giành Thiên Niên Tuyết Liên ở ém Sơn mà sát hại gia đệ Quân Tôn Hiến. Bổn tọa là anh tất không thể không báo phục. Nếu các hạ đủ dũng khí, hai ta sẽ tử đấu một trận, bất tất phải hao phí xương máu thuộc hạ!
Lời nói của họ Quân rất chí lý nên được quần hào ủng hộ! Sự có mặt của hàng ngàn hào kiệt võ lâm là một bất ngờ, ngoài dự kiến đối với Hắc Hồ Bảo, nên Tôn Cự Mộc bối rối.
Họ Tôn đã được nghe truyền tụng về cuộc chiến ở Ngũ Hành Sơn, phần nào hiểu rõ bản lãnh đối phương. Lão biết mình khó địch lại Quân Khải Siêu nên mĩm cười gian xảo:
- Thực ra, năm xưa tại hạ giết được lệnh đệ cũng nhờ sự hỗ trợ của gia sư.
Nếu Giáo chủ muốn báo thù e rằng phải giao đấu với cả Sách Huyết Tôn Giả!
Quần hùng ồ lên mai mỉa. Có người cất tiếng:
- Thật là nhục nhã! Đã sợ chết thì còn khiêu chiến làm gì?
Người khác tiếp lời:
- Hèn chi Hắc Hồ Bảo chẳng hề có tiếng tăm gì trong võ lâm! Cả cái lão Sách Huyết Tôn Giả cũng chẳng ra gì! Bị Bất Biệt Cư Sĩ đánh cho một trận, trốn đến tận bây giờ mới ló mặt ra!
Mỗi người một câu khiến Tôn Cự Mộc xanh mặt, và cả người trong kiệu cũng không chịu nỗi. Lão ta vén màn bước ra, gầm vang:
- Kẻ nào dám nói lão phu là bại tướng dưới tay Cao Hán Ngọc?
Đó là một lão nhân cao lớn, uy vũ khiếp người. Dù râu tóc bạc phơ nhưng đôi mắt lộ sáng rực, và chiếc miệng rộng đỏ như chậu máu, khiến lão chẳng hiền lành nào cả.
Tuy lão ma ẩn cư đã mấy chục năm nhưng vẫn tồn tại trong truyền thuyết, và càng trở nên đáng sợ! Quần hùng im thin thít, dù đối phương chẳng thể tìm ta người nói trong đám đông thế này!
Nhưng vẫn có một giọng trầm trầm cất lên:
- Phí tiền bối có định liên thủ với Hắc Hồ Bảo chủ hay không?
Câu hỏi tuy lễ độ nhưng không dễ trả lời. Phí Hòa lúng túng đáp:
- Lão phu thân phận cao cả, lẽ nào lại làm như vậy?
Quân Khải Siêu cười vang:
- Vậy thì lão phu xin lãnh giáo Tôn Bảo chủ vài chiêu!
Khách quan chiến, đồng thanh khen phải, khiến Tôn Cự Mộc không thể thoái lui!
Họ Tôn hơi lưỡng lự nên có người nói khích:
- Bảo chủ là cao đồ của Phí Tôn Giả, lẽ nào lại nhút nhát như vậy? Thật là đáng thẹn!
Câu này đánh trúng vào lòng tự tôn Sách Huyết Tôn Giả, lão giận dữ bảo:
- Mộc Nhi! Ngươi đừng để võ lâm chê cười lão phu đấy nhé!
Hãn Thanh mỉm cười hài lòng. Sự hiện diện của hàng ngàn đồng đạo đã có tác dụng rất tốt. Trừ những bậc chân nhân, trong võ lâm ai cũng lụy vì thanh danh cả!
Hãn Thanh trầm giọng:
- Phí tiền bối quả xứng danh kỳ nhân của võ lâm. Mong người chủ trì, kết liễu oán hận chỉ bằng một trận để tiết kiệm sinh mạng hai phe!
Phí Hòa bị gài thế kẹt, đành phải ứng tiếng:
- Đồng đạo yên tâm. Lão phu là người quang minh, thác lạc, tất không để máu chảy vô ích!
Quân Khải Siêu biết rằng đó là giọng của Hãn Thanh, lòng vô cùng cảm kích và khâm phục. Kế hoạch của chàng đã trói tay Sách Huyết Tôn Giả, giúp họ Quân có thể báo thù!
Quân Khải Siêu rút kiếm chào rồi tấn công ngay. Thanh kiếm to bản xé gió, cuốn về phía đối phương.
Hắc Hồ Bảo chủ sử dụng một cây đoản côn bằng thép ròng, chiêu thức cực kỳ mãnh liệt.
Nhưng Quân giáo chủ có bảo y hộ thân, căng phồng chân khí, nên tấn công tới tấp. Thỉnh thoảng, tay tả của lão xẹt ra những đạo chưởng kình uy mãnh, hỗ trợ cho trường kiếm.
Tuy nhiên, côn pháp của Tôn Cự Mộc chẳng tầm thường, chiêu nào cũng như sấm sét. Thanh thiết côn của lão nặng nề, có lợi thế khi va chạm. Nhưng mỗi lần đối chưởng với họ Quân, lão đều bị thua thiệt.
Quân Khải Siêu ôm mối thù sâu, một lòng khổ luyện, lại là giáo chủ Thần Ngưu Giáo nên trì giới khắt khe để làm gương cho giáo chúng. Còn Tôn Cự Mộc là bá chủ một vùng, tỳ thiếp đông đến hàng trăm, tha hồ trụy lạc, bảo sao khí lực không suy giảm?
Chưa đến trăm chiêu, họ Tôn đã trúng bốn kiếm, máu chảy đầm đìa. Lão sợ hãi gọi vang:
- Su phụ!
Sách Huyết Tôn Giả biết đồ đệ khó thoát chết, lòng cũng xao xuyến.
nhưng trong quần hùng đã có người nhắc nhở:
- Mong tiền bối đừng hủy hoại thanh danh của mình!
Phí Tôn Giả kẹt cứng, đành xuôi tay đứng nhìn. Quân Giáo chủ hứng chí xuất tuyệt chiêu. Ông quát vang, dồn chân khí ra cửa miệng, đập vào mặt đối phương, rồi vung kiếm lao vào.
Tôn Bảo Chủ bị luồng khẩu phong làm cho tối tăm mặt mũi, lộ nhiều so hở và không tránh được đường kiếm của đối phương. Họ Tôn nghiến răng vung côn quất mạnh vào đầu Quân giáo chủ. Khải Siêu chỉ lách qua, đưa vai hứng đòn và tiếp tục thọc kiếm vào ngực kẻ thù.
Họ Quân hộc máu nhưng Tôn Cự Mộc thì bỏ mạng bởi kiếm xuyên tim.
Tiếng rú thê thiết của Hắc Hồ bảo chủ khiến Sách Huyết Tôn Giả rụng rời!
Quần hùng ồ lên nhưng không vỗ tay. Họ chẳng theo phe nào cả!
Phí Tôn Giả đau xót vô vàn nhưng không biết phải làm sao. Bỗng trong đám quần hào có một người áo đen, đội nón rộng vành kín đáo, đến bên lão ma thì thầm. Sách Huyết Tôn Giả giật mình, và ngửa cổ cười vang:
- Tôn Cự Mộc chết là đã kết liễu được mối thù với họ Quân. Giờ đến lượt lão phu đòi món nợ nơi Bất Biệt Cư Sĩ Cao Hán Ngọc! Mộ Dung Hãn Thanh, mau bước ra đây!
Quần hùng mừng rỡ reo hò:
- Tiểu Hầu Gia!
Hãn Thanh biết mình đã lộ, ung dung bước ra, lột nón vòng tay nói:
- Tại hạ chính là đồ đệ của Bất Biệt Cư Sĩ! Nhưng lúc nãy lão tiền bối bảo rằng không hề bị gia sư đả bại kia mà!
Tất nhiên, Hãn Thanh được võ lâm ái mộ hơn Sách Huyết Tôn Giả, nên mọi người nhất tề nói:
- Đúng thế!
Chiến thuật tiên lễ hậu binh của chàng khiến lão ác ma bối rối. Tôn Giả bực bội gắt:
- Đó là lão phu lỡ lời, thực ra, tiểu tử ngươi mới là người mắc nợ, vì đả thương bằng hữu của lão phu là Phù Dung phu nhân!
Khách quan chiến ồn ào hẳn lên. Một gã khó chịu nào đó đã cất tiếng:
- Té ra Sách Huyết Tôn Giả cũng chẳng đứng đắn gì, dan díu với cả bà lão đã chết rồi!
Mọi người phá lên cười nắc nẻ. Gã thứ hai ong óng nói:
- Nghe đến Phù Dung phu nhân bị Tiểu Hầu Gia đâm thủng vú phải, chỉ còn lại một vú. Dám hỏi Phí lão gia có phải thực thế hay không?
Hãn Thanh giật mình nhận ra đó là giọng của Tam Vệ Lộ Vi Nhân. người ngoài không thể biết được việc này! Vậy là U Linh Tứ Vệ đã được lệnh bám theo Hãn Thanh để bảo vệ! Hàng ngàn người ôm bụng cười, khiêm Sách Huyết Tôn Giả điên tiết quát vang:
- Vú phải, vú trái gì cũng chẳng quan hệ, các ngươi đừng lắm lời!
Tứ Vệ Mễ Bất Thông đáp ngay:
- Đúng là chẳng quan trọng lắm. Chỉ ăn thua ở chỗ Tôn Giả thuận tay nào thôi.
Lần này đúng là cả một trận bão cười, ai cũng ôm bụng không sao nín nổi!
Phí lão ma tái mặt, quên cả ý định khiêu chiến với Hãn Thanh. Nhưng hán tử áo đen, đội nón kia đã lại nhỉ tai họ Phí, lão ma mừng rỡ cao giọng:
- Lão phu là bằng hữu của Tống Trung Quân, trượng phu Phù Dung phu nhân, nay thay mặt người quá cố, báo thù cho Mạc phu nhân.
Hãn Thanh thấy Sách Huyết Tôn Giả tuy hung ác nhưng lại chẳng có chút tâm cơ nào, phải nhờ người khác nhắc, lòng chàng bỗng thấy thương hại lão. Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Tiền bối thoát vòng tục lụy đã mấy chục năm. Hà tất phải dấn thân vào ân oán giang hồ làm gì nữa?
Sách Huyết Tôn Giả tưởng chàng sợ hãi, liền đắc ý nói:
- Lão phu cũng chẳng muốn vướng bụi trần, nhưng vì cố hữu dành phải ra tay. Nếu ngươi sợ chết thì hãy lạy lão phu ba lạy!
Cử tọa ồ lên, tin rằng không bao giờ Tiểu Hầu Gia danh vang tứ hải lại chịu nhục như thế. Nào ngờ Hãn Thanh bình thản nói:
- Nếu tiền bối chịu trở về Diên An quy ẩn, không hỏi đến chuyện giang hồ nữa thì vãn bối sẳng sàng vái lạy!
Sách Huyết Tôn Giả ngớ người hỏi lại:
- Chẳng lẽ một Hầu Gia như ngươi lại dám làm như thế sao?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Phí Tiền bối tuổi tác còn cao hơn gia tổ, vãn bối có quỳ lạy cũng chẳng sao!
Nhị vệ Quách Phủ hiểu ý chàng, liền cao giọng phụ họa:
- Lúc nãy tiền bối nói thế nào, sao giờ còn lưỡng lự? Chẳng lẽ lại muốn làm kẻ thủy chung bất nhất?
Tôn Giả bí quá la lên:
- Thôi được! Lão phu đành chịu thua tiểu tử Mộ Dung. Đồ đệ Bất Biệt Cư Sĩ quả là lợi hại!
Nói xong, lão phi thân mất dạng. Đám thủ hạ Hắc Hồ Bảo cũng mang xác Tôn Cự Mộc trở về Diên An. Quần hào hết lòng khâm phục Tiểu Hầu Gia, không những võ công cao cường mà trí tuệ cũng tuyệt luân. Hãn Thanh không cần đánh cũng đuổi chạy được một đại ma đầu!
Tài sản của phamduy88

  #14  
Old 15-04-2008, 08:24 AM
phamduy88's Avatar
phamduy88 phamduy88 is offline
Hoạt Thi Thần
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 785
Thời gian online: 1 ngày 6 giờ 32 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 25 Times in 20 Posts
Hồi 14

Quá Giang Tảo Quần Ma
Lâm Trung Tầm Khang Lệ




Mọi người cao giọng hoan hô, nhưng Hãn Thanh dường như đang đắm chìm nỗi ưu tư nào đấy, nên chỉ gượng cười. Chàng đã nhận ra dáng đi tập tễnh của hán tử áo đen, người đã mách nước cho Tôn Giả, Y chính là Tư Không Cẩn, ái tử của Nam Thiên Tống Giám Tư Không Nhạ. Như vậy, phe Ngũ Long Bang đã thực sự liên kết với Hắc Hồ Bảo, và cuộc khiêu chiến hôm nay cũng là một âm mưu. Có lẽ giờ đây Hầu Phủ đang bị đối phương tập kích.
Hãn Thanh gọi Tứ vệ và nói rõ nguy cơ cho Quân giáo chủ nghe.
Họ Quân căm hận nói:
- Chúng ta sẽ kiêm trình ngày đêm về Lạc Dương, may ra còn kịp!
Hãn Thanh tự lự:
- Tại hạ âm thầm rời trang nên chưa chắc đối phương đã phát hiện được.
Có lẽ trinh sát Ngũ Long Bang đang trên đường trở về báo tin rằng tại hạ không có mặt ở Hầu Phủ, để bọn Vu Sơn Sơn Chủ xuất quân! Chúng ta đi thôi!
Quân Khải Siêu giao đám thủ hạ cho một hộ pháp mũ bạc, chọn ra mười con ngựa tốt nhất đưa chín lão Ngân Khôi còn lại đi theo Hãn Thanh.
Tổng cộng là mười lăm thớt ngựa tung vó phi nước đại về Nam khiến bụi trên đường bay mù mịt.
Quần hào đã lõm bõm nghe được câu chuyện, cũng kéo nhau đuổi theo.
Trưa hôm sau, bọn Hãn Thanh đã vượt được ba trăm dặm đường, vừa lúc lũ ngựa kiệt sức. Hãn Thanh và Tứ Vệ dặn dò Quân giáo chủ rồi dở phong khinh công thượng thừa, lao vút đi.
Phe Thần Ngưu Giáo không có được thân pháp thần tốc đành đi sau một bước!
Hãn Thanh và Tứ Vệ vừa chạy vừa ăn vội mấy cái bánh bao, bánh hấp hay ngô luộc chẳng dám dừng chân!
Chiều tối hôm ấy, năm người đến bờ Bắc Hoàng Hà. Hãn Thanh lao thẳng xuống dòng nước đục ngầu, lạnh lẽo, bơi qua sông. Tứ Vệ đã bủn rủn đôi chân nhưng cũng nghiến răng cố bám theo. Thời gian lúc này rất quí giá, không thể sang sông bằng những con đò ngang già nua chậm chạp kia được Đến bờ Nam, Hãn Thanh tiếp tục lao đi như cơn lốc, cuối canh hai đã đến bờ sông Lạc Hà. Bên kia chính là rừng cây phía sau tòa trang viên mới mua.
Hãn Thanh thở phào khi thấy nhà mình vẫn êm ả. Dưới ánh trăng mười sáu rạng rỡ, chàng đứng trên bờ sông nghỉ ngơi đôi chút và cũng để chờ U Linh Tứ Vệ.
Hơn nửa khắc sau, bốn gã quỉ tốt đến nơi, thì bên kia sông vọng lại tiếng hú lảnh lót của đôi vượn tuyết. Hãn Thanh giật mình nhìn sang thấy một đám mây đen đang vần vũ trên đầu tòa trang viện và văng vẳng có tiếng sáo vi vút.
Do khoảng cách quá xa nên chàng không thể nhận rõ sự việc, nhưng căn cứ vào tiếng hú cấp bác của Đại Bạch, Hãn Thanh cũng hiểu rằng đám mây kia không hề đơn giản.
Chàng lao vút xuống nước bơi đi như kình ngư rẽ sóng. Khi còn cách bờ Nam vài chục trượng, Hãn Thanh phát hiện tiếng sáo xuất phát từ một chiếc thuyền gần đấy!
Chuyện thổi sáo đêm trăng là các thú vui của các tao nhân mặc khách không có gì đáng nói. Chỉ lạ Ở một chỗ giai điệu lệch lạc, chẳng êm tai chút nào cả, nghe như tràn đầy sát khí. Và đám mây đen kia liên tục sa xuống tòa trang viện, theo những âm thanh rời rạc của cây sáo.
Lúc này, tòa trang viện đã sáng rực đèn đuốc, tiếng người reo hò vang dội, hòa với những âm thanh kỳ quái của đám mây. Hãn Thanh kinh hãi hiểu rằng hàng vạn con dơi đang tấn công người thân của mình.
Chàng lặng lẽ lặn một hơi đến sát chiếc thuyền kia, trồi lên nhìn thử.
Dưới ánh đèn bão lù mù, một hán tử tứ tuần mặc y phục sơn cước, tai đeo vòng vàng, đang ngồi nhắm mắt thổi sáo, trên thuyền là hàng chục chiếc lồng tre lớn tỏa mùi dơi hôi hám.
Không còn sợ lầm lẫn, Hãn Thanh bám vào mạn thuyền, tung mình giáng long chưởng vào hán tử thổi sáo. Chưởng vỗ nát thủ cấp của gã và đánh thủng đáy thuyền ngay tức khắc.
Mặc cho chiếc thuyền gỗ chìm dần xuống đáy sông. Hãn Thanh cấp tốc bơi nhanh vào bờ. Chàng mừng rỡ thấy đàn dơi quỉ quái đã bốc lên cao và bay đi mất.
Hãn Thanh vượt tường rào, lướt qua rừng cây và bị chặn lại. Chàng đưa tay chụp lấy thanh trường kiếm của gã môn nhân rồi hạ giọng:
- Ta đây Mộ Dung Tùy!
Chàng thuộc lòng Mộ Dung kiếm pháp, biết trước hướng đi của lưỡi kiếm nên mới đắc thủ dễ dàng như vậy, gã đội trưởng phòng vệ vui mừng nói:
- Tạ Ơn trời phật! Hầu gia về kịp lúc!
Hãn Thánh nói nhanh:
- Còn U Linh Tứ Vệ Ở phía sau!
Nói xong, chàng phi thân đi tiếp, thầm hài lòng vì cách bố trí của Chu Minh. Tuy gặp nguy biến mà bọn thủ hạ vẫn vững vàng, bám chặt vị trí phòng thủ!
Hãn Thanh vượt qua khu rừng, và nghe tiếng quát tháo càng lúc càng gần. Thì ra trận chiến xảy ra ngay vườn hoa phía sau khu hậu viên!
Phe đối phương chỉ có đúng năm người. Gồm Vu Sơn Sơn Chủ Bộc Ly Bôi, Nam Thiên Tổng Giám, Phù Dung phu nhân, Bạch Diện Vũ Sĩ, Hà Lai Minh và lão già lạ mặt Tai đeo vòng vàng!
Hãn Thanh đoán rằng bọn họ ỷ vào đàn dơi mà đột nhập, bất thần xuất thủ cố bắt cho được Hầu Gia và thê thiếp của chàng để làm áp lực. Nhưng may thay, chàng về kịp lúc, giết chết gã điều khiển dơi nên kế hoạch của đối phương bị phá sản.
Tuy bị vây chặt nhưng Bộc Ly Bôi không hề lép vế, vẩn thản nhiên tung hoành. Chỉ riêng mình lão cũng đủ khiến bọn Tề Phi Tuyết phải vất vả rồi.
Phe Hầu phủ gồm Tề Tổng Giám, năm vị Phán Quan, Hà Hồng Tập, Bạch Nguyên Giáp, Nhất Bất Thông. Tuy họ đông hơn nhưng lại bị đối phương áp đảo. Nếu không có mấy chục quỉ tốt, quỉ hồ liều mạng xông vào hỗ trợ thì họ đã thua từ lâu rồi.
Đối thủ của Vu Sơn Sơn Chủ là Tề Phi Tuyết. Tây Môn Thủy và Khuất Quì. Ba người râu tóc dựng ngược, liên tục lao vào tấn công Bộc Ly Bôi. Tuy có ảo ảnh thân pháp nhanh nhẹn tuyệt luân nhưng họ cũng đã thọ thương vì Tiên Thiên Tam muội chưởng pháp. Y phục cháy nám, miệng rỉ máu tươi.
Sáu người còn lại cũng rất thê thảm vì bản lĩnh kém đối phương. Lợi hại nhất là Phù Dung phu nhân. Không hiểu mụ có linh đan tiên dược gì mà mau chóng chữa lành thương thế, võ công hồi phục như xưa. Thanh trường kiếm trong tay mụ vun vút như ánh chớp, chiêu thức quỉ dị không lường.
Bọn ma nhân nhà Mộ Dung ôm kiếm lăn xả vào, không hề biết sợ, hết đợt này đến đợt khác nên bọn ác ma tuy chiếm thượng phong mà không sao kết liễu được cuộc chiến.
Còn đám quỉ hồ, quỉ tốt hợp chưởng cố đánh bạt những luồng chưởng phong hôi hám, độc hại của lão già đeo vòng tai. Một mình lão mà phải đánh với mười gã quỉ tốt nên không phát huy được bản lĩnh.
Hãn Thanh không thấy đôi vượn hiểu chúng đã bảo vệ Hầu Gia và ba nữ nhân. Chàng đang định lướt vào tấn công Vu Sơn Sơn Chủ tai nghe Đại Phán Quan quát vang:
- Đừng để Phù Dung phu nhân rảnh tay mà phóng độc trùng!
Thì ra mụ ta đã nhẩy đến sau lưng Nam Thiên Tổng Giám và Bạch Diện Vũ Sĩ, rút trâm xỏa tóc.
Hãn Thanh không dám chần chờ phi thân thật nhanh, lấy đà tung mình lên không trung, lao vào giữa chiến địa ập xuống đầu Mạc Đăng Quỳnh. Mụ kinh hãi múa kiếm đón chiêu, nhưng không biết rằng người mới đến lại là Hãn Thanh, vì thanh kiếm trong tay chàng là Hàn Băng Kiếm.
Hãn Thanh đã dồn hết toàn thân công lực vào chiêu Tả Hữu Bình Phân, chiêu thức này lấy ý của đao pháp, rất thích hợp với thanh kiếm không có mũi của chàng!
Lúc này, kiếm biến thành đao lực đao nặng như núi thái, chặt phăng trường kiếm và nhắm đỉnh đầu mụ yêu bà mà xả xuống. Phù Dung phu nhân hồn phi phách tán, nghiêng người tránh né thần chết. Nhờ phản ứng thần tốc nên Hàn Băng kiếm của Hãn Thanh chỉ chạm được vào xương vai và chặt phăng cả cánh tay tả của mụ ta.
Nhưng như vậy cũng quá đủ để Phù Dung phu nhân gào lên ghê rợn, bỏ của chạy lấy người. Thanh kiếm trong tay mụ xoáy tít, hóa thanh chiếc kén bạc bao quanh thân thể, đánh bạt mọi ngoại lực. Kể cả hàng rào quan quân bên ngoài cũng không cản nổi Mạc Đăng Quỳnh.
Tân Tổng Binh Lạc Dương có vợ họ Mộ Dung nên đã nhanh chóng đưa quân đến hỗ trợ, vây chặt vòng ngoài trang viện.
Hãn Thanh quay ngoắt lại, lao về phía Nam Thiên Tổng Giám Tư Không Nhạ, lão cáo già này đã tận mắt chứng kiến cảnh chàng chặt tay Phù Dung phu nhân nên sợ khiếp vía, bỏ chạy ngay, và miệng gọi vang:
- Rút lui thôi! Tiểu quỉ Hãn Thanh đã về rồi!
Khinh công ảo ảnh của lão rất cao cường nên Hãn Thanh bỏ qua, lướt đến trận địa của Vu Sơn Sơn Chủ.
Lão ác ma cười nhạt:
- Hay lắm! Để xem hôm nay ngươi cón ám toán lão phu được nữa hay không?
Hãn Thanh chẳng nói chẳng rằng, ôm kiếm lao thẳng vào đối phương.
Bộc Ly Bôi dồn chân khí bảo vệ thân thể rồi nghiến răng múa tít song thủ, bủa lưới chưởng xanh lè phủ kín Hãn Thanh.
Tề Phi Tuyết và nhị vị Phán Quan cũng quát vang liên thủ giáp chưởng vào họ Bộc để hỗ trợ cho Hãn Thanh. Nhờ vậy chàng vượt qua được màn chưởng phong của Bộc Ly Bôi và chiêu Thái Cực Sinh Lưỡng Nghi đã phát huy hiệu dụng.
Vu Sơn Sơn Chủ nghe hơi thép lạnh toát xâm nhập vào màn cương khí hộ thân. Kinh hãi đảo bộ lùi nhanh, nhờ vậy thân hình lão không đứt thành hai đoạn mà chỉ bị rách một đường sâu hoắm nơi hông trái.
Bộc Ly Bôi đau đớn và kinh hoàng tung mình đào vong, lão liên tục tung chưởng để mở đường nên không ai cản nổi.
Lão già đeo vòng cũng thoát đi trước đó rất dễ dàng nhờ độc chưởng chỉ còn Bạch Diện Vũ Sĩ Hà Lai Minh bị Tam Tứ Phán Quan đánh chết ngay!
Mọi người hoan hỉ reo hò, mừng cho chiến thắng bất ngờ. Gã tổng binh họ Lâm mò vào bái kiến Hầu Gia rồi rút quân.
Bạch Thần Y cười ha hả:
- Thanh nhi không về kịp thì bọn ta đến khốn khổ với bầy dơi hôi hám kia! Cả Thiên Địa Mê Cầu cũng chẳng làm gì được chúng.
Đại Phán Quan tiếp lời:
- Bọn lão phu tính toán rất chu đáo, nhưng lại không ngờ đến sự xuất hiện của đàn dơi! Chính vì vậy những ổ mai phục của chúng ta mới bị vỡ, để đối phương vào được đến tận đây.
Nhất Bất Thông Chu Minh cằn nhằn:
- Phù Dung phu nhân là bào tỷ Độc Giáo chủ Mạc Khải Thiều. Lão ta mà đích thân xuất trận, mang hết đàn độc vật đến đây thì nguy.
Hãn Thanh giật mình:
- Vậy lão già đeo vòng lúc nãy là ai?
Tề Phi Tuyết đỡ lời:
- Lão ta chỉ là một hộ pháp của Độc giáo mà thôi!
Tam phán quan Lâm Trúc Bạch cười bảo:
- Y phục của Thanh nhi và các vị đều cháy nham nhở cả rồi, sao không vào thay áo rồi hãy bàn huyên.
Cuối tháng tám. Hầu phủ đã xây dựng xong, mọi người dọn về nhà mới, nhưng không có tiệc tân gia. Tuy chẳng nói ra nhưng ai cũng ưu tư vì đàn độc vật đất Miêu Cương.
Bạch Thần y cắm cúi nghiên cứu cố tìm ra loại thuốc có thể chống lại rắn, rết, dơi, ong... Dược phương thì đã có nhưng một số dược liệu lại nằm ở rừng Vân Qúi chẳng thể đến đấy mà lấy về ngay được.
Chim câu của Cái Bang đã bay đi, nhưng đường dài mấy ngàn dặm, muốn vận chuyển số dược thảo ấy về Lạc Dương cũng phải mất hai, ba tháng!
Trong lúc chờ đợi, Chu Minh đề nghị dùng lửa để đối phó. Dầu mỡ được mua về rất nhiều và một đường hào đã được đào quanh phủ, cách mé trong chân tường tám trượng.
Lúc có biến, đường hào này sẽ được đổ đầy dầu trở thành hàng rào ngăn chặn lũ độc vật. Ngoài ra, cần có một số phương pháp phòng vệ khác nữa.
Mười ngày sau, Tiểu Linh Miêu đến bào rằng Phân đà Cái Bang Hà Bắc đã phát hiện một nữ nhân áo trắng tóc xỏa ở vùng Đường Sơn, sát bờ Vịnh Bột Hải. Nữ nhân này bị điên loạn nhưng cực kỳ xinh đẹp và khinh công nhanh như gió thoảng. Có khả năng nàng ta chính là Trịnh Tiểu Thuần!
Hãn Thanh mừng như sống lại, lập tức khởi hành ngay! Chàng cỡi Đà Nhi nên không ai có thế theo được. Tiểu Linh Miêu đành phải trao lệnh phù Cái Bang cho chàng, lòng nuối tiếc chuyến đi này!
Hầu Phủ có mật thất kín đáo, kiên cố nên có thể đưa đôi Tuyết Vượn ra chiến đấu, lúc ấy lực lượng sẽ mạnh hơn. Vì vậy, Hãn Thanh yên tâm lên đường.
Tề Đạm Vân đã hoàn toàn bình phục nhưng Lạc Bình và Hồng Hương sắp đến kỳ sanh nở nên nàng phải ở lại để đỡ đần cho họ!
Hãn Thanh nóng lòng muốn gặp mặt Tiểu Thuần, phóng ngựa rất nhanh. Đà Nhi lại là linh vật, sức đi ngàn dặm nên chỉ mất mười bốn ngày đã đưa được chủ nhân đến Trực Cô, cách Đường Sơn hai trăm dặm Lão Hầu Gia có một bằng hữu ở ngoại thành phía Đông Bắc nên Hãn Thanh đi thẳng đến trao thư.
éu Dương Cát trước đây là người Lạc Dương học chung thầy đồ với Mộ Dung Cẩn. Năm ba mươi tuổi, éu Dương Cát chết vợ, sinh ra yếm thế bỏ nhà xin vào làm đệ tử Phái Thượng Thanh!
Giờ đây, ông ta đã trở thành một đạo sĩ già nua, đạo danh là Nghĩa Huyền Chân Nhân, chấp chưởng một đạo quán rất lớn ở Trực Cô!
Chân Nhân đang tọa quan nên Hãn Thanh để thư lại rồi cáo từ, chàng đi được vào thành để tìm chỗ ăn trưa.
Khu vực phía đông Trực Cô rất đông đúc, nhà cửa của bách tính nằm san sát hai bên đường, chỉ cách nhau một khoảng vườn nhỏ hẹp.
Đường đi cũng chỉ rộng mười mấy bước chân và lũ tiểu đồng lúc nhúc khắp nơi, chạy nhảy đầy đường. Chúng rủ nhau chạy theo xem con ngựa có cái đầu xấu xí, kỳ dị. Một bé trai tám chín tuổi, tóc để trái đào, dạn dĩ hỏi:
- Thúc, thúc ơi! Sao con ngựa này quái dị quá vậy?
Hãn Thanh vui vẻ đáp:
- Cha của nó là ngựa nhưng mẹ của nó lại là lạc đà.
Cậu bé chưng hửng gãi đầu:
- Thế lạc đà là con gì?
Hãn Thanh bối rối giải thích:
- Lạc đà là loài ngựa của vùng sa mạc, có cái đầu giống như con vật này, nhưng cao lớn hơn và trên lưng có bướu!
Thấy chàng vui vẻ, đứa khác xen vào:
- Thế sa mạc là gì hở thúc thúc?
Hãn Thanh cười khổ, biết mình đã sa vào mê hồn trận của những câu hỏi không bao giờ dứt. Bọn tiểu đồng luôn thắc mắc, cũng như chàng ngày xưa vậy:
Chúng bám theo Hãn Thanh một đoạn dài mới chịu buông tha. Hãng Thanh thở phào, đi thêm hai dặm, thấy Tửu kỳ phất phới bên đường, liền ghé vào.
Quán nhỏ này nằm ở một góc giao lộ, vách gỗ, mái ngói trông khá khang trang, sạch sẽ. Hãn Thanh xuống ngựa, bước vào, ngồi xuống cạnh bàn. Quán rất vắng, chỉ có một nữ nhân tuổi tam tuần ngồi ngáp ruồi ở quầy chưởng quỉ:
Thấy có khách, nàng ta vui vẻ hỏi:
- Chẳng hay quí khách dùng món chi?
Nhan sắc của nàng chỉ thuộc hạng trung bình nhưng vẻ hiền lành, thùy mị hiện rõ trên gương mặt trái xoan, trắng trẻo!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Tại hạ dùng cơm, món nào cũng được!
Nữ nhân cao giọng gọi - én tướng công! Một mâm cơm rượu một người ăn!
Thì ra chồng nàng họ én, và cũng là đầu bếp Kim Tửu Bảo! Hãn Thanh chợt nhớ đến Thương Tâm Kiếm én Khiếu Hồ, người bằng hữu thân thiết của mình.
Sau khi nhất Vệ Đăng Thám hạ sát Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiến Luân, sư bá của Thương Tâm kiếm, họ én đã rời Hầu Phủ và không trở lại nữa. Dù Hãn Thanh không đích thân ra tay, Tà Tẩu cũng chết vì chàng! én Khiếu Hồ không hận chàng nhưng còn sư phụ của gã!
Hãn Thanh miên man suy nghĩ cho đến lúc nghe tiếng người. Bước chân nặng nhẹ không đều này đối với chàng rất quen thuộc. Hãn Thanh quay lại nhìn, nhận ra gã tiểu nhị đang bưng mâm kia chính là Thương Tâm Kiếm.
Gã cũng nhận ra chàng và vẻ mặt độc nhất kia ánh lên niềm hân hoan pha lẫn chút oán trách.
Hãn Thanh đứng phắt dậy, mừng rỡ gọi:
- én huynh!
Thương Tâm Kiếm lạnh lùng bước đến, đặt mâm xuống bàn, ngồi đối diện chàng rồi thở dài:
- Tại hạ mai danh ẩn tích chốn này, không ngờ cũng chẳng tránh được oan gia!
Hãn Thanh cười buồn:
- Tại hạ biết mình đã đưa én huynh vào hoàn cảnh khó xử.
Thương Tâm Kiếm nghiêm giọng:
- Sau khi nghe tin Mộc sư bá bị giết, gia sư bắt tại hạ phải tuyệt giao với công tử và gách vác lấy việc báo thù! én này vì tình bằng hữu, không thể trở mặt đánh nhau với công tử nên đã bỏ đến Trực Cô lập gia thất, từ giã kiếp giang hồ! Nữ nhân kia chính là chuyết thê, tên gọi La Ngọc Kiều!
Hãn Thanh đứng lên, vòng tay chào nữ nhân:
- Tại hạ là Mộ Dung Hãn Thanh bằng hữu của én huynh, xin bái kiến đại tẩu.
Ngọc Kiều ngượng ngùng đáp:
- Tiện thiếp tàn tật, chẳng thể đáp lễ được, mong công tử lượng thứ!
Hãn Thanh chấn dội nhưng không dám để lộ ra, thản nhiên ngồi xuống.
én Khiếu Hồ chua chát nói:
- Chiếc thê chỉ có một chân rất xứng đôi với tại hạ!
Gã lại nghiêm giọng:
- Gia sư đã hi sinh tính mạng dồn hết sáu mươi năm tu vi vào cơ thể tại hạ. Nay cơ tạo lá lay, dun dủi cho công tử đến đây, én mỗ không còn đường thoái thác di mệnh của tiên sư. Công tử hãy ăn cho no rồi chúng ta sẽ cùng nhau quyết đấu!
Ngọc Kiều nghe câu này, biến sắc, run rẩy nói:
- Tướng công cũng đã hứa bảo bọc thiếp trọn đời, sao giờ lại còn lao vào cảnh chém giết như vậy! Hơn nữa hai người là bằng hữu với nhau mà?
én Khiếu Hồ đau đớn đáp:
- Nương tử lượng thứ cho ta, ai ngờ được rằng Hãn Thanh lại dẫn xác đến tận chốn này?
Hãn Thanh nhân lúc gã gục đầu xuống bàn, nháy mắt trấn én La Nương, rồi cất tiếng:
- Tại hạ có lỗi, tất chẳng dám trốn tránh trách nhiệm, xin hãy cùng nhay say một bữa rồi hãy nhắc đến oán thù!
Chàng rót rượu ép én Khiếu Hồ cùng đối ẩm. Nhưng Thương Tâm Kiếm chỉ uống ba chén đã thôi!
- Tại hạ bỏ rượu đã lâu, chỉ có thế uống ba chung để tưởng nhớ đến tình bằng hữu. Công tử cứ ăn cho no đi!
Hãn Thanh thở dài, lùa nhanh ba bát cơm. Trực Cô nằm ở đầu phía Bắc của Đại Vân Hà nên gạo ở phương Nam vận chuyển lên rất nhiều, giao thông thuận lợi đã làm thay đổi tập quán của nhiều địa phương. Người phía Bắc Hoàng Hà rất thích ăm cơm thay cho bánh bao truyền thống. Dẫu sao thì lúa gạo ăn với các món xáo món canh vẫn ngon hơn là loại bánh bao lúa mạch.
Chờ Hãn Thanh buông đũa, Thương Tâm Kiếm nói ngay:
- Khu vườn phía sau rất rộng rãi và vắng vẻ, thích hợp với một trận tử đấu.
Gã khập khễnh bước đi, ghé vào phòng lấy kiếm, rồi dẫn Hãn Thanh ra vườn. Ngọc Kiều khóc sướt mướt, chống nạng đi theo, luôn miệng can xin, nhưng không làm lay chuyển được ý chí sắt đá của trượng phu!
La Nương chỉ còn một chân phải lo đi vội nên suýt ngã mấy lần. Hãn Thanh nghe mắt cay cay, cố tìm tìm cách giải quyết ổn thỏa trường hợp khó xử này. Chàng không thể giết họ én và cũng chẳng dám để gã giết mình.
Khu vườn phía sau quán rượu chỉ có cỏ và vài bông cúc vàng lác đác. Hai vợ chồng Thương Tâm Kiếm đều tàn tật nên chẳng thể chăm sóc khu vườn được.
én Khiếu Hồ nghiêm giọng bảo ái thê:
- Nếu nàng không chịu đứng sang một bên thì én mỗ sẽ tự sát ngay!
Ngọc Kiều sợ hãi bật khóc thảm thiết hơn, Hãn Thanh dịu giọng nói - Đại tẩu cứ yên tâm! Tại hạ thề sẽ bảo toàn sinh mạng cho én huynh!
Ngọc Kiều mừng rỡ sụp lạy:
- Mong công tử nương tay cho, tiện phu xin suốt đời tạc dạ.
Chờ La nương lui ra, Hãn Thanh bảo Thương Tâm Kiếm:
- Tại hạ biết én huynh hiện giờ có đến gần trăm năm công lực, hơn Thanh này vài bậc. Tại hạ không sợ chết nhưng có việc lớn chưa làm xong, nên đề nghị chỉ đấu đúng trăm chiêu. Nếu không phân thắng bại, xin én huynh bỏ qua mối oán thù!
Thương Tâm Kiếm cười nhạt:
- Tại hạ cho rằng chỉ bẩy chiêu là đủ!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Xin đa tạ! Mời én huynh xuất thủ! Tại hạ sẽ cố gắng phụng hầu đủ bẩy chiêu!
Thương Tâm Kiếm chính sắc nói:
- Công tử nên cẩn thận, bẩy chiêu Phù Sinh kiếm pháp này là tinh huyết một đời của tiên sư. Chẳng tầm thường như pho kiếm mà tại hạ vẫn sử dụng đâu!
Hãn Thanh gật đầu, thủ thế rất kín đáo, én Khiếu Hồ có thêm một hoa giáp công lực, tiến rất xa trên đường kiếm đạo. Phong thái gã giờ đây trang nghiêm, bình thản, uy vũ khác thường.
Do hạn định bẩy chiêu nên họ én sử dụng ngay phép Ngự Kiếm, hóa thành đạo kiếm quang bay vút đến. Hãn Thanh nghe kiếm phong rít vi vu và sát khí giàn dụa không gian, biết đối phương xuất thủ tận tình chứ không khách sáo.Chàng vì sinh mạng của chính mình, cũng phải dồn toàn lực mà chống đỡ. Hãn Thanh dùng chiêu Tuyết Hạ Điểm Tinh, chỉ thủ chứ không công, chàng rất tự tin, dù công lực kém hơn đối phương đến hơn hai chục năm tu vi!
Bọn môn nhân nhà Mộ Dung đã thay phiên nhau mài nhọn thanh thần kiếm, làm hư hại mười mấy cục đá mài mới hoàn thành công việc. Để bảo vệ tính chất Băng Hàn của kiếm, họ phải đặt đá mài chìm trong nước cho kiếm không bị nóng lên!
Giờ đây! Hàn Băng Kiếm đã có mũi và ngắn tương đương với những thanh kiếm thời Xuân Thu nên màu kiếm quang quanh thân Hãn Thanh rất dầy và kín đáo, trông như sao lấp lánh.
Kiếm của ém Khiếu Hồ chạm vào bức màn ấy, tạo nên những tiếng tinh tang nối nhau, rất vui tai! Hãnh Thanh nghe thanh kiếm chấn động và hổ khẩu tê rần Nhưng chàng đã thắng vì họ én không phá nổi chiêu kiếm thủ thân này và Hãn Thanh cũng đã nhận ra đôi chút lộ số của Phù Sinh Kiếm Pháp. Chiêu vừa rồi có một trăm lẻ tám thế thức, nhắm vào chín phương vị từ mặt đến bụng dưới!
Song phương tung mình rời nhau chuẩn bị cho chiêu kế tiếp. Họ én cảnh báo:
- Chiêu thức mỗi lúc một ảo diệu và mãnh liệt hơn, nếu thủ mà không công thì Hầu gia sẽ lâm nguy đấy!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Tại hạ xin cảm ơn én huynh đã nhắc nhở.
Thương Tâm Kiếm vung kiếm xuất chiêu thứ hai, bề ngoài cũng chỉ là một đạo kiếm quang như trước nhưng thế thức thì khác hẳn.
Họ én vừa động thì Hãn Thanh cũng động. Chàng bốc thẳng lên không trung như một chiếc pháp thăng thiên, thoát khỏi trường kiếm của đối phương trong đường tơ kẻ tóc. Thương Tâm Kiếm thấy mục tiêu biến mất, lập tức ra chiêu thứ ba, đuổi theo, bủa kiếm và thân dưới Hãn Thanh Chàng dự liệu trước nên vung ta chưởng vỗ một đạo Kim Sa Ấn vào màn kiếm kình. Chưởng ảnh màu vàng nhạt kia hội tụ gần bảy mươi năm chân khí nên không dễ gì bị kiếm kình xé nát, ngược lại, nó còn khiến đường kiếm của họ én khựng lại.
Chưởng phong thường mở rộng nhưng Kim Sa Ấn lại khác người ở chỗ gom được lực đạo lại trong một phạm vi lớn bằng bàn tay, sức công phá mãnh liệt phi thường.
Bất Biệt Cư Sĩ từng nói:
- Khi nào con có được trăm năm công lực thì chưởng ảnh chỉ còn nhỏ bằng bàn tay một đứa trẻ mới sinh, lúc ấy, đá xanh cũng phải tan thành bụi.
Thương Tâm Kiếm đang ở dưới Hãn Thanh, bị chưởng kình đầy rơi xuống đất. Gã cười nhạt quát vang:
- Hãy đỡ chiêu thứ tư!
Hãn Thanh vừa hạ thân trên mặt đất đã bị tấn công liền. Kiếm khí lạnh rát không gian, như tiếng xé lụa ghê người. Chàng không còn thời gian né tránh, đành phải chống trả.
Qua ba lần va chạm, Hãn Thanh hiểu rằng Phù Sinh kiếm pháp không thể sánh bằng Nhất Nguyên Tâm Kiếm, liền xuất chiêu Trùng Dương Cúc Tiến, vẽ chín bông hoa cúc trắng, mỗi bông chín cánh.
Họ én công lực siêu phàm, bủa kiếm kình phá tan được tám mũi tấn công và thọc kiếm vào ngực Hãn Thanh. Nhưng cùng lúc ấy, chính thức kiếm cuối cùng của chiêu Trùng Dương Cúc Tiến đã phát huy diệu dụng Tuy Hàn Băng Kiếm ngắn hơn trường kiếm của đối phương nhưng trong phút chót, kiếm khí từ mũi Thần binh xạ ra một đoạn dài hơn gang tay. Đây chính là tuyệt học của Bất Biệt Cư Sĩ, thiên hạ không có người thứ ba!
Hãn Thanh khẽ nghiêng mình để kiếm của họ én đâm xuyên nách trái, rồi kẹp chặt lại. Nếu không có công phu Thiên Ma Bách Luyện thì chàng đã chẳng dám mạo hiểm. Và đạo kiếm khí của chàng chỉ đâm thủng chín lỗ trên áo én Khiếu Hồ chứ không chạm vào da thịt.
Thương Tâm Kiếm biết chàng tha chết, buồn bã rút kiếm về:
- Ta đã tận lực nhưng không sao thực hiện được di mệnh tiên sư, đành phải lấy cái chết mà tạ tội!
Hãn Thanh cười nhạt:
- Không ngờ các hạ là người thiển cận, cố chấp như vậy! Sao chẳng nghĩ đến hiền thê một mình không nơi nương tựa!
Ngọc Kiều bò đến chân én Khiếu Hồ, khóc mà nói:
- Tướng công muốn tự sát thì trước tiên hãy giết mẹ con thiếp! Không có chàng thiếp làm sao nuôi nổi con thơ?
Thương Tâm Kiếm giật bắn mình, lắp bắp hỏi lại:
- Nàng đã có thai rồi sao?
Ngọc Kiều gật đầu:
- Thiếp mới biết nên chưa kịp thưa với tướng công!
Họ én vui mừng khôn xiết cúi xuống đỡ hiền thê đứng lên, gượng cười:
- Nếu nàng nói ra sớm thì ta đâu dại gì đấu với Tiểu Hầu Gia làm gì? én mỗ vì tông tự mà trái di mệnh, chắc tiên sư cũng không nỡ trách!
Hãn Thanh cười vang:
- Tại hạ xin chúc mừng nhị vị!
Ba người trở vào quán, bày tiệc ăn mừng. Giờ đây Thương Tâm Kiếm mới phóng tâm uống rượu cùng Hãn Thanh cụng chén liên tục. Bỗng gã gượng cười:
- Tại hạ hơn công tử đến mấy chục năm công lực, sao lại thua được nhỉ?
Hãn Thanh cười đáp:
- Tại hạ mới được ăn một loại kỳ trân là Băng Hỏa Quả nên tu vi chẳng kém én huynh bao nhiêu. Hơn nữa, các hạ luyện bẩy chiêu Phù Sinh kiếm pháp kia chưa được bao lâu nên không thể thắng được Thanh này là phải.
Hai người phá lên cười, thù tạc đến tận nửa đêm. Sáng hôm sau, Hãn Thanh mới rời Trực Cô để đi Đường Sơn. Chàng đã trao cho La Ngọc Kiều tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng, gọi là chút quà mừng đứa cháu sắp ra đời!
Biết tính khẳng khái của họ én, chàng đã bảo La Nương giấu không cho gã. Ngọc Kiều sắp có con và không muốn con mình phải sống nghèo khổ nên đã nhận số vàng kia. Nàng không ngờ trượng phu mình lại có một bằng hữu chí tình chí nghĩa như vậy!
Mấy tháng trước, én Khiếu Hồ xuất hiện ở Trực Cô, đến quán của nàng ăn uống. Hai người cùng cảnh ngộ tàn phế nên phát sinh tình cảm rất nhanh và họ én đã chịu gác kiếm, ở lại với Ngọc Kiều!
Sanh ý ế ẩm nên La Nương rất lo lắng khi phát hiện mình có thai. Nào ngờ Hãn Thanh đến và biến nàng trở thành một tiểu phú đất Trực Cô Khi Hãn Thanh đi khỏi, Ngọc Kiều liền thử lòng phu tướng. Nàng nũng nịu bảo họ én:
- Tướng công! Chàng có bằng hữu là Hầu tước giàu sang tột bậc, sao không vì thiếp và con thơ mà ngỏ lời nhờ Mộ Dung công tử giúp đỡ?
Thương Tâm Kiếm bối rối gãi đầu:
- nhỉ! Nhưng chẳng thà gã tự hiểu ra chứ ta đâu có mặt mũi nào mà mở miệng hỏi?
Gã suy nghĩ một lúc, tát yêu hiền thê:
- Thì ra Hãn Thanh đã giấu ta mà đưa vàng cho nàng phải không? Tiểu Hầu Gia là người nặng tình nặng nghĩa, tất không thể nói lời chúc mừng suông được!
Ngọc Kiều thẹn thùng thú nhận:
- Chàng đoán không sai, Mộ Dung công tử đã tặng con chúng ta ngàn lượng hoàng kim!
én Khiếu Hồ lặng người trước tấm lòng mở của người bạn vong niên!
Trưa hôm sau, Hãn Thanh vào trấn Đường Sơn. Thấy một đám ăn mày ngồi dưới gốc cây cạnh đường, chàng dừng ngựa bước xuống hỏi thăm. Nhận ra trúc phù, bọn hóa tử cúi đầu thi lễ! Hãn Thanh hỏi về tung tích Tiểu Thuần thì họ đáp rằng:
- Bẩm công tử, hôm kia nữ nhân áo trắng xuất hiện ở bãi tắm để tìm kiếm ai đó, khiến mọi người bị một phen khiếp vía. Cuối cùng có hai đạo sĩ áo trắng chạy đến. Tay phải họ sử dụng trường kiếm, còn tay trái cầm chiếc khánh vàng lớn độ hai gang tay. Họ vây đánh nữ lang, bắt được nàng ta. Đệ tử bám theo thì thấy họ đưa nữ lang kia về một cánh rừng ở vùng đồi Quan Hải Khân, cách thành Đường Sơn mười mấy dặm về phía Đông Bắc! Bìa rừng có người canh gác nên đệ tử không dám vào theo!
Hãn Thanh đăm chiêu một lúc rồi hỏi lại:
- Phần đà chủ có biết khu rừng ấy thuộc tài sản của ai không?
- Bẩm công tử! Đệ tử đã điều tra và biết được đấy là đất phong của Ngũ Hoàng Tử Chu Quế! Gã không được chọn làm đông cung thái tử kế vị nên bất mãn bỏ Bắc Kinh về ẩn giặt ở Đường Sơn này! Nghe nói sơn trang của Ngũ Hoàng Tử này rất tráng lệ và được canh phòng nghiêm mật. Chỉ có nàng danh kỹ Quách Mạn Mạn ở Thủy Tiên Các là thường ra vào chốn ấy!
Hãn Thanh gật gù:
- Đêm nay, phiền các hạ đưa ta đến bìa khu rừng!
Chàng thưởng cho đám hóa tử Đường Sơn ngàn lượng bạc, khiến họ hoan hỉ vô cùng!
Hãn Thanh tìm khách điếm nghỉ ngơi. Giữa canh hai, chàng nghe tiếng huýt sáo của phân đà chủ Cái Bang Đường Sơn liền nhẩy qua cửa sổ, vượt tường ra ngoài.
Chàng nóng ruột nên nắm tay lão kéo đi như gió thoáng, chỉ vài khắc đã đến rừng của Ngũ Hoàng Tử.
Hãn Thanh bảo lão trở lại thành còn mình xâm nhập vào.
Có một con đường rộng hai mươi bước chân dẫn thẳng vào trong. Hãn Thanh Không lén lút lần mò mà dồn pho khinh công Lưu Thủy Hành Vân lướt đi như chiếc bóng mờ.
Trời cuối tháng chẳng lấy gì làm sáng sủa, lại là đường rừng nên càng thêm tăm tối. Dẫu đối phương có đặt người canh gác hai bên đường cũng chỉ tưởng là cánh dơi đêm lướt qua. Tuy nhiên Hãn Thanh vẫn cẩn trọng vận công nhìn xuyên bóng tối để kịp thời phát hiện chướng ngại vật Nửa khắc sau chàng đã đến cuối đường và nhìn thấy một cánh cổng rào thưa, nhưng không phải tre trúc mà gốm bằng thanh sắt tròn to hơn ngón chân cái.
Hai bên cửa là bức tường vây kiên cố cao đến hai trượng. Hãn Thanh áp sát cột cổng nhìn vào trong phát hiện toán canh ở mé hữu. Chàng biết không thể vào bằng lối cổng chính liền đi dọc theo chân tường mới trổ công phu Bách Hổ Công mà bò lên.
Mặt tường được tô nhẵn thín và quét vôi cẩn thận. Nhưng không làm khó được Hãn Thanh. Chàng thoăn thoắt uốn mình bò dần đến đỉnh tường.
Hãn Thanh nhìn vào trong không thấy nhà cửa đâu mà chỉ toàn vườn cây mênh mông, mịt mù sương trắng và thấp thoáng khắp nơi là những ánh đèn lồng mờ tỏ. Chàng cau mày suy nghĩ, đoán rằng vườn cây được bố trí một trận pháp kỳ môn. Hãn Thanh không thông thạo nên chẳng dám mạo hiểm.
Chàng đứng hẳn lên mặt tường rồi phi thân chạy như bay, vòng về phía sau, hy vọng tìm ra chỗ sơ hở mà đột nhập.
Chân lướt nhanh nhưng đôi mắt Hãn Thanh luôn dõi vào phía trong vườn cây. Mãi khi đến điểm tiếp giáp giữa đường Nam và vách đá hướng Tây, chàng mới thấy một con đường nhỏ chạy dọc giữa chân vách và vườn cây.
Hãn Thanh không còn lối, đành nhẩy xuống theo đường ấy mà đi, chàng khấp khởi mừng thầm vì chẳng có sương mù, nghĩa là phía này không bày trận pháp. Một viên đá nhỏ từ vách núi rơi xuống và vài tiếng ho nhẹ tố cáo rằng trên ấy có trạm canh.
Hãnh Thanh bám sát chân vách đi được vài chục trượng thì phát hiện một đường rẽ ngược lên hướng Đông. Từ đây, chàng có thể nhìn thấy ánh đèn leo lét của những dãy nhà gỗ.
Dọc đoạn đường ba mươi trượng này không hề có mai phục. Như vậy khu nhà gỗ kia là nơi ăn ở của bọn gia nhân làm vườn!
Trời đã sắp vào Đông, tuyết chưa rơi nhưng khí hậu rất lạnh. Tiếng côn trùng trong rừng rỉ rả, thê thiết khiến cảnh vật buồn bã vô cùng. Có lẽ vì lý do đó mà bọn người ở khu nhà gỗ này đều lên giường cả, hoặc bày chiếu rượu giải sầu.
Nhờ thế, Hãn Thanh mau chóng vượt hết khu vực này, tiến tới một bức tường cao vút, ngăn cách những cung ngơi tráng lệ phía trước. Hai bên thông nhau bằng một cánh cổng sắt thưa được khóa chặt.
Hãn Thanh rút Hàn Băng Kiếm dồn chân khí vào và ấn mạnh. Thanh kiếm sắc bén vô song đã lún dần vào dây xích sắt và cắt đứt khoen. Hãn Thanh lách qua, đóng cửa lại cẩn thận như cũ. Chàng gở bỏ khoen sắt bị cắt. Sáng mai, gã nào đó sẽ tưởng mình quên khóa cửa, vì chẳng ai đếm số khoen sắt bao giờ! Dây thiết luyện này rất mới nên khoen đầu dây chưa trầy xước bao nhiêu, trông cũng giống như khoen thứ hai vậy!
Hãn Thanh lo ngại thế lực của Ngũ Hoàng Tử và cũng không muốn đụng chạm với triều đình nên quyết định cứu Tiểu Thuần một cách êm thắm.
Nhà cửa vùng trung tâm sơn trang được bố trí rải rác trong vườn hoa, gồm hàng trăm căn nhà lớn nhỏ, lực lượng tuần tra luôn túc trực không thể phát hiện một đại cao thủ về khinh công như Hãn Thanh. Chàng mừng thầm vì không có con chó nào! Nghe nói Ngũ Hoàng Tử tuổi Tuất nên không thích nuôi chó! Lão Hầu gia từng kể rằng:
Khi Chu Quế ra đời, các tiệm bán thịt chó trên cả nước đều phải đóng cửa ba ngày!
Công trình đồ sộ, huy hoàng nhất là tòa cung điện nằm chính giữa:
mái ngói lưu ly cong vút và những hàng cột đắp nổi hình long phụng được sơn thếp vàng rực rỡ.
Có một đoạn mái hiên tăm tối vì đèn lồng hết dầu hay bị gió Đông thổi tắt. Và qua khung cửa sổ tròn vẫn thấy được ánh nến sáng trưng bên trong.
Hãn Thanh áp sát vách tường mà nghe ngóng, quan sát. Quanh chiếc bàn đá cẩm thạch là năm người, ba lạ hai quen. Người lạ gồm một chàng trai tuổi hai mươi mấy, y phục diêm dúa, hoa lệ, búi tóc cài kim khôi Chắc là Ngũ Hoàng Tử Chu Quế. Hai người kia là hai lão đạo áo trắng giống sự miêu tả của phân đà Cái Bang. Tuổi họ độ tám mươi, râu tóc bạc phơ trông rất tiên phong đạo cốt. Hãn Thanh đã từng nghe Bất Biệt Cư Sĩ kể về Kim Khánh song tiên ở Quân Linh Sơn. Cao Hán Ngọc còn nói rằng âm công của hai chiếc khánh vàng kia rất lợi hại.
Còn hai ngươi quen cũ chính là Nam Thiên Tổng Giám Tư Không Nhạ và một người họ Mộ Dung. Gã tên là Mộ Dung Cầu, em thúc bá với Hãn Thanh.
Trong trận hỏa thiêu Hầu Phủ, mọi người đồn rằng gã đã hi sinh. Hãn Thanh nghe lòng chua xót vì không ngờ trong gia tộc lại có người phản bội!
Lúc này Tư Không Nhạ cất tiếng:
- Bẩm Điện hạ! Gã Mộ Dung Cầu này có dáng vóc tương tự tiểu tử Hãn Thanh và thuộc làu tính nết thói quen của Tiểu Hầu Gia! Lão phu tin chắc rằng sẽ lừa được Bạch Nhật Quỉ Hồn Trịnh Tiểu Thuần.
Giờ đây Song Tiên đã khôi phục được tám phần thần trí cho Tiểu Thuần, chúng ta sẽ hóa trang Mộ Dung Cầu thành Hãn Thanh. Gã sẽ đưa nàng ta về Bắc Kinh và dụ nàng vào cung hành thích. Với khinh công và pho Nhất ém Thần Chỉ của Tiểu Thuần. Minh Cảnh Tông và thái tử chẳng thể thoát chết được.
Khi điện hạ lên ngôi Cữu Ngũ, lập tức cho ba quân vây chặt Hầu Phủ, bắt giải về kinh, tiêu lục toàn gia. Lão phu xin nhắc lại rằng tài sản của Mộ Dung Cẩn còn nhiều hơn cả Tứ Hải Tiền Trang!
Ngũ Hoàng tử hài lòng gật đầu lia lịa. Mộ Dung Cầu sợ hãi nói:
- Lão gia tính toán như vậy thì tại hạ bị vạ lây chứ đâu được lợi lộc gì?
Tư Không Nhạ cười nói:
- Gia tài của họ Mộ Dung còn hàng vạn mẫu đất ở hai bờ Lục Thủy. Lúc ấy, điện hạ sẽ phong hầu cho ngươi để cai quản, như vậy chưa đủ hay sao?
Chu Quế hứa ngay:
- Đúng thế! Ngươi sẽ trở thành Bình Phiên Hầu đời thứ sáu thay cho gã Hãn Thanh! Ta còn thưởng thêm cho ngươi năm vạn lượng vàng nữa!
Mộ Dung Cầu hớn hở vái dài:
- Thế thì thảo dân xin tận lực!
Hãn Thanh nghe được âm mưu thâm độc này, lòng sôi lửa giận chỉ chực xông vào giết sạch bọn xấu xa. Nhưng chàng cố trấn tĩnh lại vì tự lượng không đủ sức. Hơn nữa, nếu vô cớ đụng đến Ngũ Hoàng Tử sẽ gây họa cho cả tông môn!
Kim Khánh Đại Tiên Cố Tĩnh là lão già có cái miệng khá rộng. Lão e hèm rồi lên tiếng:
- Sáng mai bần đạo sẽ thi triển Kim Khánh đại pháp để cứu chữa cho Tiểu Thuần, có lẽ phải mất một ngày mới xong. Trong lúc ấy, nhị vị sẽ dịch dung cho Mộ Dung thí chủ. Vậy là khoảng bốn ngày nữa chúng ta sẽ trở về Bắc Kinh được rồi!
Ngũ Hoàng Tử đứng lên tỏ ý tiễn khách. Bốn người kia vội vái chào, rời sảnh đi về phòng mình. Còn lại mình Chu Quế vẫn ngồi bên giá nến, trầm ngâm suy nghĩ. Chợt gã lẩm bẩm một mình:
- Chẳng lẽ ta lại bỏ qua một nữ nhân tuyệt thế như vậy? Sau này làm gì còn có cơ hội?
Gã mỉm cười dâm đảng,đứng lên đi về phía sau. Hãn Thanh biết gã nổi tà tâm, định cưỡng bức Tiểu Thuần, liền lao qua ô cửa sổ bám theo ngay.
Trước đây, Tiểu Thuần thường dùng pho khinh công Lưu Thủy Hành Vân theo Hãn Thanh như hình với bóng, mà chàng không thể phát hiện nổi, thì giờ đây Chu Quế làm sao biết được?
Nơi giam giữ Tiểu Thuần cũng ở trong tòa cung điện này, chỉ cách khách sảnh chừng vài dãy phòng. Đến nơi Ngũ Hoàng Tử tát yêu vào má hai ả nử tỳ đang canh chừng trước cửa rồi đuổi chúng đi!
Chu Quế rút chìa khóa mở cửa bước vào, không ngờ rằng sau lưng mình có người. Gã xoay lại đóng cửa thì Hãn Thanh cũng vẫn là chiếc bóng ở phía sau. Chàng và gã như dính liền một khối và cách nhau một khoảng cách không xa. Nếu gã có mắt sau lưng thì mới nhìn thấy được!
Chu Quế thắp thêm vài ngọn nến trên giá rồi cầm đến cuối phòng. Trên chiếc giường chạm trổ cầu kỳ, trải nệm trắng muốt kia chính là Trịnh Tiểu Thuần!
Nàng vẫn xinh đẹp như ngày nào, dù gương mặt gầy đi, và trên góc trán có một đốm sẹo bằng móng tay. Hãn Thanh nghe mắt cay xè, cố dằn cảm xúc suy tính kế sách hành động. Chàng không thể để gã làm nhục ái thê, nhưng cũng không thể giết gã! Cuối cùng Hãn Thanh cũng tìm ra phương sách, dùng thủ pháp kinh ngoại kỳ huyệt điểm nhanh vào hai huyệt — Minh, An Ninh sau tai phải của Chu Quế. Họ Chu mê man gục xuống, được Hãn Thanh đỡ lấy và điểm thêm các huyệt Thái Dương, Ngự Yên, Tứ Thần Thông.
Năm huyệt này đều ở trên đầu và là huyệt ngoài kinh. Khi bị điểm, nạn nhân sẽ biến thành si ngốc cười nói suốt ngày. Xong xuôi, Hãn Thanh đặt Tiểu Thuần trên lưng mình, xé khăn trải giường cột lại rồi rời khỏi tòa cung điện.
Giữa canh tư, Hãn Thanh về đến khách điếm, chàng giấu Tiểu Thuần trên chạng ba cây ngoài tường rồi vào phòng thu xếp hành lý, lấy ngựa. Khi bình minh ló dạng thì Hãn Thanh đã rời xa Đường Sơn năm chục dặm!
Tài sản của phamduy88

  #15  
Old 15-04-2008, 08:26 AM
phamduy88's Avatar
phamduy88 phamduy88 is offline
Hoạt Thi Thần
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 785
Thời gian online: 1 ngày 6 giờ 32 phút
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 25 Times in 20 Posts
Hồi 15

Kim Mao Nhất Xuất Nhân, Nhân Trục
Tuyệt Địa Cầu Sinh Trí Dũng Toàn




Đường quan đạo đã có nhiều người đi lại, họ nhìn Hãn Thanh với ánh mắt tò mò nghi hoặc. Nữ nhân kiều diễm trong lòng chàng khiến có kẻ nghi chàng là một tên dăm tặc. Hơn nữa, đã đến lúc phải xem xét bệnh tình của Tiểu Thuần. Hãn Thanh liền ghé vào đường mòn nhỏ ở cánh rừng tay phải.
Được hơn dặm, một con suối nhỏ cắt ngang đường mòn. Hãn Thanh rẽ ngựa lên thượng nguồn. Suối không sâu, chỉ ngập đến bụng Đà Nhi, nước lạnh toát khiến linh vật khoan khoái hí nhẹ. Vài khắc sau, chàng đã đến nơi phát nguyên của dòng suối. Đó là một thác nước cao độ mười trượng đang đổ ào ào từ đỉnh vách đá xuống. Khung cảnh này hơi giống với nơi chàng đã tìm thấy Hồng Sắc Mãng Xà. Hãn Thanh thúc ngựa bước lên bờ, chàng tung mình lên tảng đá lớn nhất, có đỉnh tương đối bằng phẳng, đặt ái thê xuống rồi kiểm tra kinh mạch. Chân khí Tiểu Thuần vẫn cuồn cuộn, lưu chuyển thông suốt không hề bị bế tắt. Vậy là nàng bị phục thuốc mê!
Trước lúc chàng lên đường Thần Y đã trao cho chàng vài viên linh đan để phòng thân, có cả loại giải độc đan rất thần diệu. Hãn Thanh cẩn thận điểm huyệt, phong tỏa nội lực của Tiểu Thuần rồi mới dám cho nàng uống thuốc.
Quả nhiên, chỉ nửa khắc sau nàng đã vươn vai ngáp dài, mở mắt nhìn Hãn Thanh. Chàng không giỏi y thuật nhưng đọc sách thuốc khá nhiều hiểu rằng tâm thần Tiểu Thuần bị tổn thương vì vết thương trên trán. Cộng với vụ đắm thuyền ngoài Đông Hải, phu phụ chia lìa khiến nàng loạn trí!
Hãn Thanh ngồi xếp bằng hé mắt quan sát phản ứng của Tiểu Thuần, chàng ngạc nhiên khi thấy nàng không ôm lấy mình vì mừng rỡ mà lại mỉm cười bí ẩn và nhắm mắt lại.
Chàng suy nghĩ rất lâu chợt thức ngộ ra rằng phong cảnh nơi đây đã nhắc nhở kỷ niệm năm xưa, khi nàng hiến thân để cứu mạng chàng.
Hãn Thanh chợt nuôi hy vọng cứu tỉnh hiền thê, liền giả như đang bị máu mãng xà công phát, rút kiếm tự sát, quả nhiên Tiểu Thuần ngồi bật dậy chụp lấy tay chàng kéo vào lòng.
Hãn Thanh xa nàng đã lâu lòng thương nhớ biến thành nỗi khát khao tái ngộ, chàng háo hức vuốt ve xác thân ngà ngọc kia, và đưa nàng vào cuộc truy hoan. Tiểu Thuần liên tiếp bồng bềnh trên sóng tình, xiết chặt lấy tấm thân cường tráng của phu quân.
Từ ngày Tiểu Thuần mất tích đến nay chàng không hề gần gũi nữ nhân vì Lạc Bình, Hồng Hương mang thai còn Đạm Vân thì bệnh hoạn. Nay gặp lại người mình yêu nhất đời chàng chẳng hề muốn ngưng cuộc ái ân!
Tiểu Thuần đỏ mặt nói:
- Sao hiền đệ không chịu ngủ đi để ngu tỷ còn phải về Tứ Xuyên nữa?
Hãn Thanh đau đớn đáp:
- Đó là chuyện ngày xưa, giờ đây chúng ta đã thành phu thê nàng quên rồi sao?
Tiểu Thuần ngượng ngùng thỏ thẻ:
- Ngu tỷ lớn hơn Thiên đệ mười tuổi làm sao thành chồng vợ được? Nay vì ngươi mà Ngọc Nữ ém Nguyên Thần Công của ta bị đình đốn ở lớp thứ tám, ta phải về Phong Đô tạ tội với song thân trước đã! Chuyện hôn nhân, xin hẹn rằm tháng bảy này!
Hãn Thanh biết nàng vẫn còn điên loạn cố nén tiếng thở dài, nói lãng đi:
- Không được! Tiểu đệ chẳng thể xa rời tỷ tỷ, vì vậy chúng ta sẽ cùng đi Tứ Xuyên!
Tiểu Thuần chưa kịp phản đối đã bị Hãn Thanh hôn lên môi, lên má và tiếp tục trận mây mưa!
Đến gần trưa, hai người mới rời thác nước trở ra đường quan đạo. Tiểu Thuần đã gầy đi nhiều nên trọng lượng chẳng là bao. Đà Nhi nhẹ nhàng phi nước đại, đưa đôi tình lữ về Nam. Đến Trực Cô, Hãn Thanh nhờ Cái Bang chuyển thư của chàng về Lạc Dương. Song thân của Tiểu Thuần sẽ có mặt ở Hầu phủ để đón nàng.
Ban ngày Tiểu Thuần rất vui vẻ bình thường nhưng đêm về nàng giật mình la hét gọi tên phu tướng, khi nhận ra Hãn Thanh ở bên cạnh vỗ về nàng mới yên tâm ngủ lại. Chàng rất đau lòng khi lúc tỉnh nàng luôn gọi chàng là Thiên đệ còn lúc mê lại là Hãn Thanh. Tai họa ở biển đông ngày ấy đã luôn ám ảnh tâm trí Tiểu Thuần.
Bốn ngày sau hai người vào thành Bảo Định. Mùa Đông phía Bắc Hoàng Hà đến từ đầu tháng mười, tuyết rơi lất phất, điểm trắng cây cối và vạn vật, ngắm tuyết đầu mùa cũng là một thú vui của các bậc tao nhân nho sĩ. Đám tiểu hài xúng xính trong áo bông nô đùa đây đó, tiếng cười trong trẻo vang vọng phố phường.
Tiểu Thuần ăn uống bình thường nên da mặt đã có sắc hồng. Nàng mặc áo choàng lông ngồi phía trước Hãn Thanh, dựa vào lòng chàng mà trò chuyện:
- Thiên đệ! Chúng ta lên lầu kia uống rượu thưởng tuyết nhé!
Những đêm ái ân nồng thắm đã khiến nàng ý thức được rằng mình đã là vợ của Hãn Thanh, đối với chàng rất tôn kính, dù chẳng nhớ gì về quá khứ cả!
Tập quán phu xướng phụ tùy, Cử Án Tề Mi đã ăn sâu vào tiềm thức phụ nữ Trung Hoa thời ấy, vì vậy ánh mắt Tiểu Thuần đầy vẻ van nài!
Hãn Thanh mỉm cười:
- Ta đồng ý với nếu nàng chịu gọi ta bằng tướng công và xưng bằng thiếp!
Tiểu Thuần thẹn thùng đáp:
- Chưa cưới hỏi mà Thiên đệ đã hiếp đáp ta rồi! Ngu tỷ xưng hô như thế rất ngượng ngùng. Nhưng thôi, Thiên đệ muốn vậy thì Ngu tỷ cũng xin chiều ý!
Hãn Thanh buồn bã nói:
- Ta đã giải thích hàng trăm lần sao nàng vẫn không tin?
Tiểu Thuần đau đớn sa lệ:
- Ngu tỷ không sao nhớ được những gì đã xảy ra!
Hãn Thanh bất nhẫn an ủi:
- Không sao đâu! Thiết Địch Thần Y sẽ trả lại ký ức cho nàng!
Chàng dừng cương trước tòa Tứ Hải Đại Tửu Lầu, đưa ái thê lên tầng ba, đây có lẽ là một trong những cơ sở kinh doanh của Tứ Hải Tiền Trang nên mới lấy tên như vậy. Hải Thương Sinh nhận vàng của người giỏi tất phải đầu tư vào các ngành khác để sinh lợi. Và chẳng có sanh ý nào lời nhiều như quán ăn cả!
Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Hoa lại thích mở quán trà, quán rượu chỉ vì không có dân tộc nào mà lại thích chuyện trò như họ.
Do lễ nghĩa khắc khe, con cháu ít khi dám trò chuyện cùng cha ông, thế nà những người lớn tuổi kia cảm thấy cô đơn! Họ tìm ra quán xá gặp đám bằng hữu đồng niên mà tán gẫu. Đám lão nhân có học thì tập tĩnh làm thơ, bình thơ và triết lý.
Yếu tố thứ hai là xuất phát từ tính quảng giao và coi trọng tình bằng hữu của người Hoa Hạ! Chẳng lẽ đến nhà nhau để làm phiền thê tử, thôi thì ra quán cho thoải mái!
Nhưng đối với khách giang hồ thì tửu quán là một phần đời của họ. Câu ăn quán ngủ đình chính là kiếp đời phiêu bạt của người võ lâm.
Hơn nữa tửu quán là nơi để họ thu thập thông tin bốn phương, mở rộng kiến văn và cũng là nơi để chường mặt, khiến giang hồ nhớ rằng họ vẫn tồn tại! Đa số đều dương danh bằng những chiến công thời trai trẻ liều lĩnh rồi sống bằng hào quang ấy cho tới lúc xuôi tay! Khi có vợ con và cơ nghiệp, ai cũng trở nên thận trọng hơn xưa.
Giờ đây trên tầng ba của Tứ Hải tửu lầu này chỉ toàn là khách võ lâm. Hà Bắc giáp với Sơn Tây nên không ít người trong bọn họ biết Hãn Thanh thế mà chẳng ai chào hỏi ai chỉ tảng lờ như không thấy. Hãn Thanh có trí nhớ tuyệt luân gặp một lần là không quên. Chàng hơi ngạc nhiên trước thái độ hờ hững kia, nhưng không lấy làm quan trọng cùng Tiểu Thuần nhâm nhi trò chuyện.
Men rượu lan sinh tuy nhẹ nhàng nhưng cũng đủ làm đỏ đôi má giai nhân. Ánh mắt nàng cũng long lanh, tình tứ hơn, Hãn Thanh say đắm thưởng thức vẻ đẹp thanh thoát của Tiểu Thuần, nhớ đến kỷ niệm ngày nào.
Nàng thẹn thùng bảo:
- Sao tướng công cứ nhìn thiếp mãi vậy?
Hãn Thanh mỉm cười quay đi nhìn xuống đường trong thành. Lúc này hai người đang ngồi ở một bàn sát lan can!
Bỗng đôi mắt chim ưng của Hãn Thanh phát hiện người quen. Họ chính là ngũ Phán Quan Tây Môn Thủy và Tiểu Linh Miêu Ly Tữu Tuyền.
Hãn Thanh mừng rỡ đứng lên vẫy gọi:
- Ngũ thúc! Tiểu điệt ở trên này!
Hai người kia hân hoan dừng cương ghé vào, lát sau đã có mặt. Tiểu Thuần tuy không nhớ ra Tây Môn Thủy nhưng cũng đứng lên thi lễ:
- Tiểu nữ Tiểu Thuần xin bái kiến lão tiền bối!
Tây Môn Thuỷ sững sờ:
- Chẳng lẽ Thuần nhi không nhận ra lão phu sao?
Hãn Thanh cười thảm:
- Thuần muội đã quên gần hết chuyện quá khứ rồi! Mời Ngũ thúc và Lý các hạ an tọa.
Tây Môn Thủy ngồi xuống nói ngay:
- Chẳng hay trên đường đi Thanh nhi có nghe tin gì chưa?
Hãn Thanh ngơ ngác lắc đầu! Ngũ Phán Quan bưng chén của chàng uống cạn rồi nghiêm giọng:
- Ở vùng núi Thạch Chỉ Sơn, Tây Bắc thành Bảo Định này, xuất hiện một kỳ trân khoáng cổ tuyệt kim, còn quí giá hơn Băng Hỏa Quả, đó là con Kim Mao Hồ Ly. Ai uống máu con vật này sẽ tăng thêm đến sáu mươi năm công lực!
Vừa lúc tiểu nhị đem chén đũa và thức ăn mới lên, Tây Môn Thủy dừng lời, rót rượu. Hãn Thanh nhân dịp này cười bảo:
- Tiểu tế đang lo cho Tiểu Thuần không có thời gian để tranh đoạt kỳ vật!
Lý Tữu Tuyền thấy Ngũ Phán Quan chưa kịp nuốt, liền đỡ lời:
- Bẩm Hầu gia! Chính vài Kim Mao Hồ Ly có khả năng chữa trị tâm bệnh cho Thiếu phu nhân, nên Bạch Thần Y đã bảo Tây Môn tiền bối và đệ tử đến đây đón đường Hầu gia!
Hãn Thanh gật gù:
- Tại hạ hiểu, mời nhị vị ăn uống cho no rồi chúng ta sẽ đến đấy!
Tây Môn Thủy vừa ăn hết chén đã buông đũa, cười khà khà:
- Bụng trống uống rượu mới ngon! Ta cùng Thanh nhi cạn chén nào!
Lão vừa uống vừa kể:
- Trong đạo tạng của đạo giáo có nói rất rõ về loài Kim Mao Hồ Ly này.
Không những nó trân quí về mặt dược lực mà còn cư trú ở những vùng đất có vàng. Nơi nào có Kim Mao Hồ Ly, chắc chắn nơi ấy là một mỏ vàng! Bắt được linh vật, cột dây vào cổ nó sẽ dẫn đến mạch vàng. Nhưng loài thú này cực kỳ xảo quyệt và nhanh nhẹn lại rất hung hãn. Toàn thân nó phủ kín lớp lông dầy vàng óng, không sợ gươm giáo, chưởng kình. Vì vậy rất khó mà bắt được.
Tiểu Thuần vui vẻ xen vào:
- Tiểu nữ thường đuổi theo chồn, thỏ chưa chịu thua bao giờ, lần này sẽ bắt Kim Mao Hồ Ly để tướng công ăn thịt tăng cường công lực mà giết Hồng Phát Thần Quân, báo mối gia thù!
Té ra bản năng nàng chỉ nhớ được những gì xảy ra trước lần ân ái với Hãn Thanh! Có lẽ chính là kỷ niệm sâu sắc ấy đã là cái cột mốc vững chắc níu kéo một nửa giòng sông ký ức. Nếu không nàng sẽ chẳng còn lại chút gì nữa.
Hãn Thanh nghe tim nhói đau gượng cười:
- Chưa chắc nàng đã chạy nhanh hơn ta! Với khinh công của vợ chồng mình, hy vọng con vật quỉ quái kia sẽ không chạy thoát!
Tiểu Linh Miêu buông đũa thì thầm:
- Tin này đã loan khắp thiên hạ, không chừng bọn Vu Sơn Sơn Chủ cũng đã đến Thạch Chỉ Sơn! Các cao thủ Hầu Phủ đã lên đường để giúp Hầu gia tranh đoạt Kim Mao Hồ Ly!
Hãn Thanh lo lắng hỏi lại:
- Nhưng Lạc Bình và Hồng Hương sắp đến kỳ sinh nở, ai sẽ bảo vệ đỡ đần họ?
Tiểu Linh Miêu trấn an:
- Bạch Thần y đã chẩn đoán cho rằng phải đầu thàng sau nhị vị thiếu phu nhân mới lâm bồn. Họ và lão Hầu Gia đã được an trí tại một nơi rất bí mật.
Hầu phủ có sự hỗ trợ của quân triều đình gần đấy! Lần này, Tề lão gia mang theo trăm Quỉ Tốt giỏi khinh công nhất và mấy chục tấm lưới đánh cá!
Hãn Thanh thận trọng hỏi lại:
- Tình hình phe đối phương thế nào? Họ đã có mặt ở Thạch Chỉ Sơn chưa?
Ngũ Phán Quan lên tiếng:
- Thanh nhi yên tâm! Bọn ma đầu đều đã đến Thạch Chỉ Sơn, vì vậy Tề đại sư huynh mới dám kéo quân rời Hầu phủ!
ún uống xong thì đã cuối giờ ngọ, bốn người rời Bảo Định đi về hướng Tây Bắc.
Hơn canh giờ sau, bọn Hãn Thanh đến vùng chân núi phía Đông của Thạch Chỉ Sơn. Dãy núi này có năm ngọn thuôn nhọn như những ngón tay!
Chiều dài từ Bắc xuống Nam của Thạch Chỉ Sơn là ba chục dặm nên khu vực này tìm kiếm Kim Mao Hồ Ly rộng mênh mông chẳng khác gì mò kim đáy biển!
Nhưng vàng là thứ kim loại hấp dẫn nhất trên đời, hơn nữa số người đang lục lạo kia đến đây vì vàng chứ không phải vì linh vật.
Họ tự lượng sức mình không dám tham gia cuộc tranh đoạt với các đại ma đầu, chỉ mong nhặt nhạnh được ít mảnh trong mỏ vàng lộ thiên này.
Lớp lông óng ánh sắc kim của con chồn quí kia chính là bụi vàng bám vào! Mười ngày trước, Kim Mao Hồ Ly xuất hiện lần đầu tung tăng chạy nhẩy trên những tảng đá, trước mặt hàng trăm lữ khác đang có việc đi ngang qua đây.
Kinh tạng của Đạo giáo có nói về con vật linh thiêng này nên hầu như ai cũng biết. Vì vậy tin tức mau chóng loan truyền khắp nơi, biến Thạch Chỉ Sơn thành mục tiêu của mấy ngàn người.
Địa hình sơn vực nơi đây toàn là những tảng đá lớn, cao đầu người, cây cối thưa thớt, bụi rậm phủ đầy. Tuyết rơi lất phất, trời rét căm căm nhưng không làm nguội được lửa tham trong lòng mọi người. Họ vẫn hùng hục ra sức phạt cỏ, chặt bụi mở đường tiến vào!
Lực lượng của Tề Phi Tuyết vẫn ở ngoài bìa bãi đá, chờ đợi Hãn Thanh, thấy mặt Tiểu Thuần, ai cũng vui mừng. Nhưng lại buồn ngay vì nàng không nhận ra họ. Có cả Thiết Địch Thầy Y Bạch Nguyên Giáp ở đây! Ông thăm mạch cho Tiểu Thuần rồi cau mày:
- Lão phu tiên đoán trước việc này nên mới quyết tâm bắt cho được Kim Mao Hồ Ly. Loài linh vật này có thói quen nhẩy múa dưới ánh trăng vào mỗi đêm rằm. Lúc ấy nó phát ra những âm thanh kỳ diệu, khiến lòng người khoan khoái bình yên, có tác dụng rất tốt đối với những bệnh nhân tâm thần như Thuần nhi!
Hãn Thanh liền kể sơ lại cuộc giải thoát ái thê ở Đường Sơn và hỏi lại:
- Bạch Lão bá! Chẳng lẽ ém Công của Kim Khánh Song Tiên cũng có tác dụng chữa bệnh?
Bạch Thần Y cười nhạt:
- Ma âm của họ chỉ có hại chứ đâu cứu được ai? Song tiên khoác lác thế vì biết rõ tình trạng tâm trí của Thuần nhi!
Tây Môn Thủy rầu rĩ nói:
- Thạch Chỉ Sơn rộng lớn thế này, làm sao bắt được linh vật?
Bạch Thần y đắc ý nói:
- Lão phu đã có cách dụ cho Kim Mao Hồ Ly đến với mình. Chúng ta chỉ cần tiến sâu vào thung lũng ở giữa các ngọn núi, bủa lưới chờ nó xuất hiện!
Hãn Thanh thấy lão mang theo cây thiết địch đen bóng, chàng mỉm cười hỏi:
- Phải chăng lão bá định trỗi một khúc nhạc mê hồn để gọi Hồ Ly?
Bạch Thần Y vỗ vai chàng cười khanh khách:
- Thanh nhi quả là thông tuệ, đi guốc trong bụng lão phu!
Hãn Thanh đảo mắt quan sát bãi loạn thạch mênh mông rồi tư lự bảo:
- Không hiểu bọn Vu Sơn Sơn Chủ đã tiến đến đâu rồi nhỉ?
Lục Phán Quan Khuất Qùi ứng tiếng:
- Họ đến đây trước chúng ta hai ngày, vào theo hướng thung lũng cực Nam, vì Kim Mao Hồ Ly xuất hiện lần đầu ở vùng ấy!
Tề Phi Tuyết mỉm cười:
- Thế thì không lo đụng chạm, bọn ta đi thôi!
Lão bảo một tên quỉ tốt đưa Đà Nhi về nơi gửi ngựa của cả bọn.
Hãn Thanh dắt Tiểu Thuần đi trước mở đường.Họ đều có khinh công cao cường nhẩy từ tảng đá này sang tảng đá khác mà tiến lên, thỉnh thoảng mới phải chặt phá bụi rậm.
Khi mặt trời lặn sau đỉnh núi, đoàn người mới vào đến thung lũng phía Bắc, đây chính là nơi tiếp giáp giữa ngọn Cực Bắc và ngọn kế tiếp.
Cảnh vật cũng chẳng khác gì phía bên ngoài, chỉ toàn là đá tảng ngổn ngang. May thay có cả một dòng suối trong vắt chảy cắt xéo thung lũng, đổ xuống vực thẳm hướng Tây! Tề Phi Tuyết đã chuẩn bị rất kỷ lưỡng nên lều trại, lương thực đều có đủ. Đêm ấy trôi qua êm đềm chỉ trừ tiếng thét mê loạn của Tiểu Thuần vào giữa canh ba!
Hãn Thanh vội ôm nàng vỗ về:
- Thuần muội! Ta đang ở bên cạnh nàng đây mà!
Chàng ngồi lên vặn cao bấc ngọn đèn dầu mở để Tiểu Thuần có thể nhìn rõ gương mặt mình. Nàng sụt sùi nói:
- Tướng công! Thuyền vỡ rồi! Thiếp định chụp lấy tay Vân muội nhưng không kịp!
Hãn Thanh vội trấn an:
- Mọi người đều bình yên cả, nàng cứ ngủ đi.
Tiểu Thuần ôm lấy đùi chàng thiếp dần vào giấc mộng.
Hãn Thanh không sao ngủ lại được, ngồi xếp bằng nhìn ánh đèn leo lét.
Xa xa, vọng lại tiếng ngâm nga nho nhỏ của Bạch Thần Y:
Trùng thanh Đông Tứ khổ ư thu Bất giải sầu nhân văn diệc sầu Ngũ thị lão ông thính bất úy Thiếu niên mạc thính bạch quân đầu!
(Dịch Thơ) Tiếng trùng đông não quá trùng thu Người chẳng sầu nghe cũng phải sầu Ta đã già rồi nghe chẳng sợ Trẻ trung nghe rõ bạc phơ đầu!
Đây là bài Đông Dạ Văn Trùng ( Đêm đông nghe tiếng trùng) của Bạch Cư Dị đời Đường. Hãn Thanh chợt cảm thấy hết nổi cô đơn, tịch mịch của Bạch Nguyên Giáp. Lão đã già mà không con cái, nhà cửa tang hoang, phải nương tực nơi Hầu phủ, bảo sao không buồn?
Chàng chờ Tiểu Thuần ngủ say, khẽ gỡ tay nàng ra rồi rời lều đi về hướng đống lửa bập bùng. Bốn lão nhân chưa chịu ngủ, bày chiếu rượu nhâm nhi. Họ đã già rồi nên giấc ngủ đến rất muộn và đêm trở nên quá dài.
Bạch Thần Y mừng rỡ mỉm cười:
- Tiểu Thuần đã yên giấc chưa? Thanh nhi hãy ngồi xuống uống với bọn ta vài chén!
Lục Phán Quan cũng nói:
- Thiếu Thanh nhi, lão phu mất cả tửu hứng!
Lão hồ hởi rót đầu bát, bắt Hãn Thanh uống cạn.
Ai cũng yêu mến chàng nên cuộc rượu hào hứng hẳn lên, ngay Tây Môn Thủy cũng nói nhiều hơn thường lệ.
Hãn Thanh cười hỏi:
- Bạch lão bá! Có đúng là máu của Kim Mao Hồ Ly sẽ làm tăng thêm đến sáu mươi năm công lực hay không?- Bạch Nguyên Giáp gật đầu:
- Đúng thế! Tám mươi năm trước Kỳ Liên Thần Quân bắt được một con và trở thành đệ nhất cao thủ. Kim Mao Hồ Ly chuyên ăn rễ cây thuốc và độc xà nên cơ thể tích lũy được rất nhiều dược tính!
Hãn Thanh tư lự:
- Nếu nó thực sự trân quí như vậy thì dù bắt được, chúng ta cũng trở thành mục tiêu tranh đoạt của quần hùng, nhất là bọn Vu Sơn Sơn Chủ!
Tề Phi Tuyết cười nhạt:
- Bọn ta sẽ liều chết đoạn hậy để ngươi và Tiểu Thuần thoát đi!
Hãn Thanh chính sắc đáp:
- Tiểu tế không thể vì bệnh tình của Tiểu Thuần mà luân hại cả trăm người thế này! Sáng mai, khi bắt được linh thú, tiểu tế sẽ mang nó mà dụ mọi người đuổi theo. Còn chư vị bảo vệ Tiểu Thuần trở về Lạc Dương ngay, vì nơi Hồng Hương, Lạc Bình, Đạm Vân đang ẩn nấp không hề an toàn như ta tưởng. Mộ Dung Bạch là em ruột của Mộ Dung Cầu, kẻ đã phản bội lại Hầu phủ, biết đâu gã cũng có tâm địa như anh mình?
Tề Phi Tuyết biến sắc:
- Chu Minh không biết Mộ Dung Cầu làm phản nên đã chọn nhà của Mộ Dung Bạch! Lạy trời cho không có gì xảy ra!
Tây Môn Thủy thở dài:
- Dẫu về ngay đêm nay cũng không kịp, đành chờ đến sáng mai thôi!
Hãn Thanh phải trấn an họ:
- Tiểu tế chỉ lo xa thế thôi, chưa chắc anh em họ đã có lòng dạ giống nhau!
Nỗi lo lắng khiến lòng người nặng trĩu, chẳng còn hứng thú đâu mà ăn nhậu. Họ giải tán trở vào lều và thức trắng đến sáng!
Bình minh vừa ló dạng, Tề Phi Tuyết và Bạch Nguyên Giáp đã đánh thức mọi người dậy, ăn điểm tâm cho thật no và bố trí phòng tuyến!
Một mảnh đất bằng phẳng không có đá, ở cách bờ suối vài trượng, đã được chọn làm nơi giăng lưới.
Bốn mươi gã quỉ tốt thủ hai mươi tấm lưới đánh cá phục xuống, vây kín mục tiêu. Hò đều mặc áo choàng, đội mũ lông trắng và chỉ lát sau đã bị tuyến phủ kín trông như những mô đá hình người.
Bạch Thần Y ngồi xếp bằng giữa vòng vây, nâng sáo, vận công thổi một khúc nhạc kỳ lạ. Bọn Hãn Thanh, Tiểu Thuần, Tề Phi Tuyết và hai vị Phán Quan ẩn cả trên cây gần đấy, tay cũng thủ lưới nhỏ.
Số đệ tử còn lại nằm im lìm sau những tảng đá, tạo thành phòng tuyến thứ hai!
Tiếng sáo du dương, rộn rã xuân tình của Bạch Nguyên Giáp bay cao vút, theo ngọn Bắc Phong lan xuống phía Nam. Hãnh Thanh nghe lực dục bừng lên, thầm kinh hãi trước khúc ma âm!
Ngày còn thơ ấu, Hãn Thanh từng chặt trúc làm sáo thổi chơi. Chàng không rành âm luật nhưng nhờ trí nhớ phi thường chỉ nghe qua vài lần là có thể bắt chước không sai một nét.
Thời gian chầm chậm trôi qua, mồ hôi tươm đầy trên trán Bạch Thần Y mà Kim Mao Hồ Ly chưa xuất hiện.
Hãn Thanh liền nhẩy xuống nói:
- Tiểu đệ đạ thuộc lòng giai điệu của bản tiên, xin được thổi thay cho lão bá!
Bạch Nguyên Giáp mừng rỡ trao Thiết Địch cho chàng rồi bảo:
- Nếu ta biết ngươi thổi được sáo thì đã không phải mệt thế này!
Hãn Thanh cười nói:
- Nếu có sai sót, xin lão bá chỉ bảo cho!
Chàng nâng sáo thổi liền, và chẳng hề có lỗi nào cả, Bạch lão hài lòng lui ra, nhẩy lên cây ẩn nấp.
Công lực Hãn Thanh cực kỳ thâm hậu nên tiếng sáo lồng lộng vang rất xa. Tiêu khúc chỉ dài độ nửa khắc, hết lại phải thổi từ đầu. Sau vài lần làm như vậy, Hãn Thanh đã hoàn toàn nắm được tinh túy của Mê Khúc, khiến cả bọn già nua như Tề Phi Tuyết cũng phải rạo rực xuân.
Hãn Thanh thổi hết lượt thứ mười thì từ hướng Nam vọng lại tiếng rít lanh sát con vật trong truyền thuyết.
Kim Mao Hồ Ly chỉ lớn gấp rưỡi con mèo nhà, chiếc đuôi xù dài ba gang và lớp lông màu vàng óng ánh sắc hoàng kim rực rỡ dưới anh nắng ban mai.
Nếu nó đứng im thì chẳng khác gì một pho tượng bằng vàng ròng tinh xảo!
Con vật nhìn thấy Hãn Thanh ngỡ ngàng nhận ra đấy không phải là bạn tình của mình, liền chậm bước.
Hãn Thanh vội bớt công lực đưa tiếng sáo về hướng con vật, cố mê hoặc nó. Chàng thử thổi theo nhịp nhanh hơn trước và đã dụ được Kim Mao Hồ Ly bước vào bẫy.
Linh thú đến sát chân Hãn Thanh, thò mũi đánh hơi. Chàng không bỏ lỡ cơ hội, chụp ngay lấy cổ Hồ Ly!
Bọn mai phục mừng rỡ bỏ lưới đứng lên reo hò. Bạch Thần Y chạy ngay đến, búng vào miệng linh thú một viên hoàn dược. Kim Mao Hồ Ly lật tức mê man bất tỉnh. Họ Bạch cười khà khà:
- Nó sẽ nằm im cho đến lúc chúng ta về tới Lạc Dương! Mau rời khỏi đây thôi!
Nhưng chung quanh đã vang lên tiếng cười ghê rợn của Vu Sơn Sơn Chủ - Đâu có dễ như vậy! Muốn về Lạc Dương thì phải dâng Kim Mao Hồ Ly cho lão phu trước đã!
Thì ra bọn Hãn Thanh đã bị vây chặt bởi một đạo quân đông gấp đôi.
Ngoài Vu Sơn Sơn Chủ còn có Sách Huyết Tôn Giả, Nam Thiên Tổng Giám và một lão già cao lớn Da ngăm đen tai đeo vòng vàng y phục sơn cước lạ mắt.
Bạch Thần Y thở dài:
- Có cả Độc Giáo chủ Mạc Khải Thiều, e rằng chúng ta khó thoát thân rồi!
Hãn Thanh nghiêm giọng:
- Tiểu điệt không sợ độc vật, độc dược, sẽ cầm chân đối phương để mọi người thoát đi!
Chàng quay sang bảo Tiểu Thuần:
- Nàng hãy đi theo mọi người, ta đánh một trận rồi phá vòng vây.Hẹn gặp ở Lạc Dương!
Tiểu Thuần thảnh nhiên đáp:
- Ngu tỷ đã là vợ Thiên đệ, đâu thể bỏ đi được! Bọn người kia nào có đáng gì mà phải sợ!
Hãn Thanh biết nàng si ngốc, không có thời gian tranh cãi liền cười mát:
- Thôi được! Bữa nay phu thê chúng ta cùng chết vậy!
Chàng trao tay nải đựng Kim Mao Hồ Ly cho Tiểu Thuần khoác vào lưng rồi quát vang:
- Tiến lên!
Bọn Tề Phi Tuyết cũng lao theo vợ chồng Hãn Thanh đột phá vòng vây.
Vu Sơn Sơn Chủ đứng trên ngọn cây cao ngất đã nhìn thấy Hãn Thanh đưa Kim Mao Hồ Ly cho Tiểu Thuần nên quát vang:
- Hồ Ly đang ở trên lưng con bé áo trắng, tóc dài kia. Đừng để nó thoát!
Bản thân lão cũng tung mình nhẩy xuống chặn đầu bọn Hãn Thanh.
Độc Giáo Chủ không chờ đối phương đến gần, phất tay ra lệnh cho đám đệ tử thả độc vật. Một bầy ong độc hàng vạn con bay như đám mây đen.
Tề Phi Tuyết gầm lên:
- ®o ®nh Chưởng!
Cả bọn nhất loạt vung song chưởng giáp vào đàn ong. Hàng trăm đạo chưởng kình tạo ra cơn lốc thổi bạt đám mây ong đánh chết một số. Nhưng chúng lại hung hãn sà xuống theo tiếng còi của người điều khiển.
Hãn Thanh múa tít Hàn Băng Kiếm bảo vệ Tiểu Thuần, cùng nàng lướt đến vị trí của bọn ma đầu!
Luồng kiếm quang xan biếc và lạnh lẽo đã nhiền nát những con ông độc, và bay về phía Vu Sơn Sơn Chủ, Tiểu Thuần từ phía sau Hãn Thanh nhẩy đến tấn công Độc giáo chủ. Mười đạo Nhất ém Chỉ như mười mũi tên thép rít gió nghe rợn người.
Mạc Khả Thiều vội múa tít song thủ, đẩy ra chưởng phong trắng đục tỏa mùi hăng hắc để chống đỡ.
Tiểu Thuần thấy công lực lão thăm hậu hơn mình, chẳng dại gì đổi mạng, đảo bộ biến mất, tấn công vào mé tả. Mạc lão kinh hãi trước thân pháp như hồn ma bóng quế kia, cuống cuồng né tránh. Xem như Tiểu Thuần hoàn toàn chiếm được thượng phong.
Còn Hãn Thanh thì sao? Chàng gặp đối thủ khinh công cao cường hơn nên chẳng thể dùng phép du đấu, mà phải liên tục chịu đựng những đạo chưởng kình nóng rực.
Lần này Vu Sơn Sơn Chủ rất thận trọng và không hề khinh địch quyết chẳng để Hãn Thanh thoát chết. Sau hai phen bị chàng đả thương, lão đã phải công nhận Tiểu Hầu Gia là một đại kình địch khó chơi nhất thiên hạ. Sở học của Hãn Thanh bao la như biển, công lực lại hơn hoa giáp, trí tuệ biến báo tuyệt luân!
Bộc Ly Bôi đã thi triển đến những chiêu kỳ ảo nhất của pho Tiên Thiên Tam Muội chưởng pháp, lão đã áp đảo được đối thủ của mình. Nếu không có thanh Hàn Băng Kiếm lạnh lẽo như tiết trời đông và cũng là khắc tinh của Tiên Thiên Cương Khí, thì Hãn Thanh đã bỏ mạng từ lâu rồi!
Phần Tề Phi Tuyết quần đảo với Nam Thiên Tổng Giám Tư Không Nhạ cũng không phân thắng bại được ngay. Họ cùng sử dụng ®o ®nh chưởng pháp và ®o ®nh chiêu thức của nhau.
Những mặt trận giữa Sách Huyết Tôn Giả Phí Hòa với Ngũ Lục Phán Quan, Bạch Thần Y lại khác. Thanh Thiết côn đen sì trong tay phải Phí Tôn Giả được sự hỗ trợ của những đạo chưởng phong hiểm ác của tay trái đã khiến đối phương phải xấc bấc xang bang!
Họ Phí nổi tiếng thần lực từ thời trai trẻ, càng già nội lực càng thâm hậu chứ không suy giảm. Đường côn của lão nặng như núi thái, dễ dàng xé tan chưởng kình của ®o ®nh chưởng pháp, cũng như thanh thiết tiêu của Bạch Thần Y.
Bọn Tây Môn Thủy phải tận dụng khinh công để né tránh và thỉnh thoảng mới có cơ hội phản kích một đòn. Tình thế của họ rất nguy ngập, không chắc kéo dài được trăm chiêu nữa.
Riêng trận chiến giữa các đệ tử U Linh Cốc và Ngũ Long Bang thì đã có máu chảy. U Linh Tứ Vệ cùng gần trăm Quỉ Tốt, Quỉ Hồ, nhờ có thủ pháp Sách Hồn Phi Tiễn mà cầm cự rất kiên dũng, dù địch thủ đông gấp đôi.
Phe Nam Thiên Thập Bát Đông sử dụng Ngưu Mao Độc Châm, mỗi mũi chỉ nhỏ như sợi lông bò, không bắn xa được. Ngược lại, Sách Hồn Phi Tiễn nặng hơn mấy lần nên tầm sát thương rất rộng. Không để đối phương phát huy ưu thế về quân số! Nhưng hai đánh một chẳng chột cũng què, phe U Linh Cốc khó duy trì mãi được!
Hãn Thanh biết cục diện rất hiểm nghèo liền quát vang:
- Thuần muội! Nếu nàng không mau thoát đi thì chúng ta sẽ chết cả ở chốn này đấy!
Vu Sơn Sơn Chủ cười lớn:
- Muộn lắm rồi tiểu tử! Cổ độc đất Miêu Cương đâu phải tầm thường.
Quả nhiên thân pháp Tiểu Thuần đã không còn linh hoạt như trước nữa.
Hãn Thanh kinh hãi gầm lên, giả vờ lao vào Bộc Ly Bôi, nhưng quay ngoắt người lao về phía Độc giáo chủ Mạc Khải Thiều.
Vu Sơn Sơn Chủ đánh hụt mục tiêu giận dữ đuổi theo. Nhưng từ tay tả Hãn Thanh một mũi Sách Hồn Tiễn đã âm thầm bay ra. Chàng không quay lại nên đối phương chẳng thể ngờ được. Sỡ dĩ, trong những lần đụng độ trước đây, Hãn Thanh chưa hề dùng ám khí với Bộc Ly Bôi, khiến lão hoàn toàn bị bất ngờ. Họ Bộc lại chủ quan vì tấm thân không sợ đao kiếm của mình nên mới trúng đòn. Ngoài đôi mắt ra, lão còn có một chỗ nhược đó chính là hạ thể!
Nếu dương vật có thể dồn hết được chân khí vào thì hóa ra khách võ lâm nào cũng là một đại kiện tướng chốn phòng the hay sao?
Hãn Thanh biết không thể nào bắn vào mắt đối phương nên đành chọn mục tiêu thứ hai. Vu Sơn Sơn Chủ rú lên vì dương vật và một bên ngọc hành đã bị xuyên thủng. Tuy không phải tử huyệt nhưng vô cùng đau đớn, tứ chi rụng rời, lão dừng ngay lại để rút ám khí ra.
Hãn Thanh tiếp tục lướt đi, xuất chiêu Tử Sinh Bất Diệt hóa thành mũi tên bạc, lao thẳng vào lưới chưởng của Độc Giáo Chủ.
Giờ đây chàng đã có thêm bốn mươi năm công lực nên chiêu kiếm khác thường, xé nát chưởng kình ập đến như ánh chớp.
Trong lúc tính mạng Mạc Lão quỉ đang sắp hưu hỉ thì trong tay áo rộng của lão bắn ra một con rắn đen xì, dài ngoằng.
Đây là loài Thiết Luyện Hắc Xà lừng danh đất Miêu Cương, nọc độc vô song và thân hình bền chắc, không sợ đao kiếm.
Nhưng Hàn Băng Kiếm lại là bảo vật hãn thế nên đã chặt phăng linh xà làm nhiều đoạn. Tuy nhiên đường kiếm vẫn bị chặn lại, tạo cơ hội cho Độc Giáo Chủ lùi nửa bước. Kiếm khí từ đầu mũi Hàn Băng xả ra, chỉ đâm thủng một lỗ sâu giữa ngực họ Mạc. Lão ta khiếp vía tung mình ra xa, không dám chần chờ dù chỉ một giây.
Vừa lúc Tiểu Thuần đổ xuống, Hãn Thanh vác nàng rồi phi thân đi.
Chàng chợt phát hiện ra Sách Huyết Tôn Giả đang sắp hạ thủ Bạch Thần Y, vội quát vang:
- Dừng tay, tại hạ muốn thương lượng!
Tiếng quát vang rền như sấm đã khiến Phí lão ma giật mình khựng lại và Lục Phán Quan Khuất Qùi đủ thời gian vung chưởng đánh bật Bạch Nguyên Giáp ra khỏi tầm sát hại của Thiết Côn.
Vu Sơn Sơn Chủ đã chăm sóc xong vết thương nơi của quí, vận công quát lớn:
- Đình thủ!
Hai phe lùi lại, chờ xem sự thể, Hãn Thanh cao giọng:
- Tại hạ sẽ trao Kim Mao Hồ Ly và rút khỏi nơi này. Hẹn lần sau tái ngộ!
Bộc Ly Bôi cười âm hiểm:
- Bọn ta nắm chắc phần thắng trong tay đâu dễ gì buông tha cho ngươi!
Hãn Thanh gằn giọng:
- Tại hạ sẽ ở lại,chỉ cần tôn giá mở sinh lộ cho những người còn lại!
Tề Phi Tuyết đau xót kêu lên:
- Nếu Thanh nhi ở lại thì chúng ta cầu sinh để làm gì?
Hãn Thanh mỉm cười:
- Nhạc phụ yên tâm! Họ không làm gì được tiểu tế đâu! Chư vị cứ về Lạc Dương trước đi!
Chàng trao Tiểu Thuần cho Bạch Thần Y rồi hỏi nhỏ:
- Thuần muội bị trúng cổ độc liệu có sao không?
Bạch lão cười nhạt:
- Thanh nhi đừng có lo, trong quyển Miêu Cương Y Lĩnh của Quế Lâm Y Øn mà ngươi đã mang về, có ghi đầy đủ cách giải trừ các loại cổ trùng!
Ba lão già kia cũng bước đến gần để bàn bạc. Tây Môn Thủy buồn rầu nói:
- Thanh nhi có chắc thoát được không mà dám mạo hiểm để cứu chúng ta?
Hãn Thanh trấn an:
- Tiểu tế đã có diệu kế, chư vị đừng lo! Phù Dung phu nhân không có mặt ở đây tức là Hầu Phủ có thể bị tập kích. Chư vị phải đi ngay mới kịp! Tiểu tế sẽ về sau!
Chàng lại bảo Bạch Thần Y:
- Lão bá hãy trao thuốc giải mê Kim Mao Hồ Ly, nhớ tăng liều lượng sao cho nó tỉnh lại ngay! Đây chính là sinh lộ của tiểu điệt đấy!
Bốn lão già hiểu ý chàng yên tâm rút lui. Hãn Thanh cầm bốn viên dược hoàn và tay nải đựng Kim Mao Hồ Ly, tung mình lên tảng đá cao nhất, rồi nói với đối phương:
- Sơn Chủ nghĩ kỹ chưa? Nếu tôn giá không đồng ý, tại hạ sẽ chặt Kim Mao Hồ Ly thành tám mảnh rồi tử chiến đến cùng!
Sách Huyết Tôn Giả quýnh quáng:
- Ấy đừng! Ngươi giết con chồn quí ấy rồi thì lão phu biết tìm mỏ vàng ở đâu?
Thì ra lão già hồ đồ này đã gần đất xa trời mà còn bị hoàng kim cám dỗ.
Độc giáo chủ cũng nói:
- Bộc lão huynh! Chẳng lẽ ba chúng ta liên thủ mà không giết được nổi tiểu tử ấy sao? Cứ lấy được Kim Mao Hồ Ly trước đã!
Bộc Ly Bôi tuy ngán sợ cơ trí, võ công của Hãn Thanh nhưng cũng đành ưng thuận:
- Thôi được! Lão phu không tin ngươi mọc cánh mà thoát khỏi nơi này!
Lão phất tay ra hiệu cho thủ hạ mở đường. Bọn Tề Phi Tuyết biết ý Hãn Thanh đã quyết, ngậm ngùi bước đi.
Hãn Thanh nhìn theo, chờ họ đi thật xa mới mở bọc, lấy Kim Mao Hồ Ly ra, nhét vào miệng nó bốn viên giải dược.
Bộc Ly Bôi chưa kịp có ý kiến thì Hãn Thanh đã nói:
- Tại hạ xin trao Kim Mao Hồ Ly còn lành lặn mạnh khỏe cho tam vị.
Chàng nhẩy xuống đất nhẹ nhàng tung linh vật về phía đối phương, nhưng cố tình xuất thủ hơi nhẹ. Kim Mao Hồ Ly rơi xuống cách ba người kia hơn trượng lập tức lao đi như tên bắn.
Bọn ác ma tiếc đứt ruột đuổi theo ngay, Hãn Thanh định thoát đi, thì không ngờ con vật lại quay đầu chạy về hướng chàng đang đứng.
Ba lão già kia mừng rỡ gầm lên, nhất tề tấn công Hãn Thanh. Chàng không dám chống đỡ, quay lưng chạy theo Kim Mao Hồ Ly, lòng thầm than số phận trớ trêu.
Kế hoạch của chàng rất thần kỳ chỉ vì xui xẻo nên mới thất bại. Nếu Hồ Ly chạy hướng khác thì chàng đã thoát được rồi.
Hãn Thanh chỉ hy vọng con vật thông minh kia thông thuộc địa hình Thạch Chỉ Sơn tất sẽ tìm ra lối an toàn. Nhưng hướng Tây có vực thẳm chắn ngang cơ mà.
Quả thực vậy, khi Hãn Thanh đuổi kịp linh thú thì đã đến bờ vực. Con vật không hề dừng bước, lao thẳng xuống khe sâu mù mịt sương mù. Hãn Thanh đứng cạnh tảng đá lớn màu gan gà, thở dài thụ mệnh. Ba lão quỉ kia chỉ cách chừng năm sáu trượng nên đã nhìn thấy cảnh linh vật nhẩy xuống vực thẳm, căm giận gầm lên, ập đến tấn công Hãn Thanh.
Phí Tôn Giả vừa đánh vừa chửi rủa:
- Thế là toi mất giấc mộng vàng của lão phu rồi, tiểu tử chết tiệt này thật đáng ghét! Lão phu thề sẽ đập nát xác ngươi ra!
Ba người ấy vây thành hình cánh cung, liên tục ra đòn quyết không cho Hãn Thanh đào tẩu.
Chàng múa tít Hàn Băng kiếm chống đỡ, rình cơ hội phá vây. Tay tả Hãn Thanh liên tục xạ ra những mũi Sách Hồn Tiễn nên cầm cự được khá lâu.
Nhưng mỗi lần chàng lao ra đều bị cả ba liên thủ đánh bật trở lại.
Thanh Thiết Côn của Sách Huyết Tôn Giả to bằng cổ tay người lớn nên Hàn Băng Kiếm không sao chặt đứt lìa được. Lưỡi kiếm chỉ ăn sây chừng nửa thân côn là tối đa. Lúc ấy, Hãn Thanh lại rơi vào thế bị kẹt, nếu không nhanh tay thu kiếm về sẽ bị họ Phí bẻ gẫy ngay.
Khi hết sạch Sách Hồn Phi Tiễn, Hãn Thanh thật sự lâm nguy, chàng trúng liền bốn chưởng của Vu Sơn Sơn Chủ và Đôc Giáo Chủ, y phục bốc cháy và rỉ máu miệng.
Trong lúc thập tử nhất sinh, Hãn Thanh liền đặt trọn mạng sống của mình vào một nước cờ. Chàng xuất chiêu Sở Phách Nam Hồi tấn công Vu Sơn Sơn Chủ và cố tình để hở sườn trái cho Mạc Khải Thiều đánh vào.
Độc Giáo chủ không bỏ lỡ cơ hội vỗ ngay một đạo Phách Không chưởng lực đẩy văng thân hình đối phương xuống vực thẳm. Hãn Thanh đã tính toán trước nên chiêu kiếm chỉ có một thành công lực còn bao nhiêu đều dồn cả lên ngực. Vì vậy, chàng không hề thọ thương bởi chưởng của họ Mạc và khéo léo rơi ngay xuống vị trí mà Kim Mao Hồ Ly đã rơi.
Hãn Thanh tin rằng với ban năng hoang dã con vật khôn kia không bao giờ đâm đầu vào chỗ chết. Chàng nhớ rõ rằng nó đã đổi hướng chạy đến mé tả tảng đá màu gan gà kia rồi mới nhảy xuống vực.
Nhưng tất cả chỉ là suy đoán và không có gì chắc chắn cả! Dẫu sao cũng còn tốt hơn chết trong tay ba lão ác ma kia!
Vừa rơi xuống lớp sương mù dầy đặc, Hãn Thanh đã buông Hàn Băng Kiếm vỗ nhanh mấy chục chưởng vào không khí. Đà rơi chỉ chậm lại đôi chút và nếu không kỳ tích thì chàng sẽ tan xương nát thịt khi rơi xuống đáy vực.
Không giống như khe nứt hẹp ở Phong Đô lần trước, vực thẳm này rộng đến mấy chục trượng nên dây leo chẳng thể đan lưới giữa hai vách được.
Hãn Thanh vỗ được gần trăm chưởng thì kiệt sức, buông xuôi để thân hình rơi xuống. Nào ngờ đến trượng thứ tám, chân chàng chạm mạnh vào một vật cứng.
Thì ra đó là một thân gổ được cắm vào vách đất. Có lẽ do quá lâu năm nên mục nát, sức gỗ kia gẫy rời, Hãn Thanh rơi tiếp và chạm phải cây thứ hai.
May mắn thay, thân gỗ này không mục mà lại đâm rễ phát triển cành lá rậm rạp, đỡ lấy Hãn Thanh. Chàng vui mừng khôn xiết, lần nhanh vào gốc cây ở vách vực để làm giảm trọng lượng mà cây phải chịu đựng.
Người Trung Hoa đã phát hiện ra nguyên lý đòn bẩy từ thời cổ. Việc vận chuyển xê dịch những tảng đá to lớn để xây dựng Vạn Lý Trường Thành đã được thực hiện bằng đòn bẩy.
Trong võ lâm, ý niệm Tứ Lương Bác Thiên Lân cũng từ đòn bẩy mà ra!
Hãn Thanh vừa vào đến vách thì khúc gỗ thứ nhất chạm đáy vực, vang lên tiếng động khiến ba lão quỉ trên miệng vực tin rằng chàng đã vong mạng.
Họ hậm hực chửi rủa một hồi rồi bỏ đi. Hãn Thanh đứng thẳng lên, sờ soạng vách vực để xem chất đất thế nào. Bất ngờ tay chàng thọc vào một khoảng trống. Hãn Thanh mò thắt lưng lấy hỏa tập bật lên soi thử, phát hiện một động khẩu đường kính chừng sải tay. Chàng đoán rằng Kim Mao Hồ Ly đã chui vào đấy liền đi theo.
Hãn Thanh kiên nhẫn bò mãi và có cảm giác nền hang càng ngày càng dốc ngược lên. Được vài chục trượng chàng hân hoan khi thấy Hàn Băng Kiếm nằm trên mặt đất, có lẽ thanh kiếm rơi trúng tàn cây, vướng lại và được Kim Mao Hồ Ly tha vào đây. Nửa đường nó phát chán vì nặng nên bỏ lại.
Có thần kiếm trong tay, Hãn Thanh yên tâm tiến lên. Chàng đã xác định rằng hang này trở về hướng ngọn núi cực Bắc, lòng khấp khởi mừng thầm.
Bò thêm vài khắc nữa, Hãn Thanh lọt vào một hang tương đối quang đãng. Ánh dương lọt qua khe hở trên trần sát vách, giúp chàng nhận ra nền hang và bốn bề lấp lánh ánh vàng. Đây chính là nơi cư trú của Kim Mao Hồ Ly và cũng là một mỏ vàng khổng lồ.
Kim Mao Hồ Ly đang nằm dưới đốm nắng sợ hãi đứng lên gầm gừ nhưng không có ý định bỏ chạy. Đây là hang của nó vì bản năng, nó sẽ bảo vệ tới cùng. Hãn Thanh mỉm cười đình bộ đảo mắt nhìn quanh. Thấy mé tả có vũng nước lớn đọng trên nền hang liền bước đến uống và rửa ráy. Chàng lột bỏ manh áo cháy xám, nuốt một viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Hoàn rồi nằm nghỉ.
Chàng không thể hành công vì sợ con vật kia tập kích bất ngờ. Hãn Thanh nhìn về phía khe sáng, giật mình nhận ra có những sợi dây leo buông thỏng xuống đến tận sàn hang. Như vậy đây chính là đường xuất nhập của Kim Mao Hồ Ly, và cũng là sinh lộ của chàng. Với Hàn Băng Kiếm, Hãn Thanh có thể khoét rộng miệng khe mà thoát ra ngoài Nhưng chàng không vội đi ngay, mà cố nán lại tìm cách bắt sống Kim Mao Hồ Ly để chữa bệnh cho Tiểu Thuần.
Chàng vẫn ngồi bên vũng nước không đến gần linh thú. Lát sau, Hãn Thanh mệt mỏi thiếp đi. Lúc chàng tỉnh giấc thì đã xế chiều, Kim Mao Hồ Ly đang nhai rau ráu một con rắn độc. Nó nhìn chàng nghi ngại, như sợ bị tranh mồi. Chờ nó ăn xong, Hãn Thanh rời xa vũng nước để Hồ Ly đến uống. Suốt ba ngày như vậy, linh thú không còn sợ chàng nữa. Dù chàng đang thức ngồi cạnh vũng nước nó vẫn thảnh nhiên bước đến.
Ngày thứ tư, thấy Hồ Ly ra ngoài trở về mà không đem theo con rắn nào.
Hãn Thanh biết nó đói bụng, liền ném ra một viên Tịnh Cốc Toàn Sinh Hoàn.
Con chồn vàng này ngửi thử, nghe được mùi thảo dược thơm tho cho nên ăn liền. Thạch Chỉ Sơn trước đây rất nhiều cây thuốc, do bị dân trong vùng thu hái nên chẳng còn bao nhiêu. Nay gặp toàn thuốc quí, Kim Mao Hồ Ly vô cùng thích thú, liếm mép ra vẻ thèm thuồng nhìn Hãn Thanh.
Chàng mỉm cười, đặt thêm một viên ngay trước mặt. Hồ Ly thận trọng bước đến ăn và để im cho Hãn Thanh vuốt ve bộ lông của mình. Nó duỗi chân ngáp dài và nằm ngay xuống gần chàng mà ngủ.
Kể từ hôm ấy, Linh thú luôn quấn quít với Hãn Thanh để được ăn linh đan. Ngược lại khi ra ngoài bắt được độc xà, nó tha về thả vào lòng chàng như muốn chia sẻ thức ăn. Hãn Thanh nướng lên và Kim Mao Hồ Ly cảm nhận được hương vị ngọt ngào của thịt chính. Khi biết chắc đã làm chủ được thần vật, chàng lôi nó xuống vũng nước kỳ cọ thật sạch lớp bụi vàng để lộ bộ lông trắng muốt, mịn như bông.
Đến ngày thứ chín, Hãn Thanh bám dây leo trèo lên. Dùng Hàn Băng Kiếm phá rộng lỗ thông sáng rồi thoát ra. Chỉ lát sau, Kim Mao Hồ Ly cũng xuất hiện. Chàng ôm nó trong lòng quan sát địa thế.
Nơi đây chính là sườn Tây của ngọn núi cực Bắc. Tuy dốc và hiểm trở nhưng không làm khó được Hãn Thanh. Chàng đi vòng ra hướng Đông trở lại thung lũng trước. May thay, chiếc liều vải của chàng và Tiểu Thuần ở giữa ba tảng đá cao, kín đáo nên vẫn còn nguyên vẹn.
Hãn Thanh mở bọc hành lý, mặc y phục vào rồi rời Thạch Chỉ Sơn.
Tài sản của phamduy88

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
bach nhat qui hon, bach nhat quy, bach nhat quy hon, bach nhat quy hon 4vn.eu, bách nhật quỷ hồn, , truyen bach nhat qui hon, truyen bach nhat quy hon


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™