Để phục vụ cho công tác dịch thuật, mà đặc biệt là tăng cường khả năng cảm thụ Hán ngữ. Bài này sẽ chuyên dành việc bình luận những bài thơ Đường nổi tiếng. Tiêu chí là các bài Thất ngôn tứ tuyết và Thất ngôn bát cú. Các bài thơ này sẽ chỉ đăng phần bản Hán việt và dịch nghĩa, không có dịch thơ và thêm phần bình luận, phân tích ngắn gọn để mọi người có thể cảm nhận được hết cái hay của bài.
Làm thử một phát rồi anh em cho ý kiến nhé!
Bài Tiên Tử Tống Lưu Nguyễn Xuất Động này nằm trong chùm thơ năm bài Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai của Tào Đường, một nhà thơ thời Vãn Đường (tề danh còn có Lý Thương Ẩn).
Bài thơ dựa trên tích Lưu Thần - Nguyễn Triệu người Diễm Khê, đời Đông Hán. Nhân tiết Đoan Dương, Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc, gặp hai tiên nữ và ở lại. Ở trong núi được nửa năm, Lưu Nguyễn xin trở về nhà . Đến nơi thì trần gian đã qua bảy đời người . Sau hai người trở lại Thiên Thai thì không còn tìm thấy dấu vết nữa.
Tiên Tử Tống Lưu Nguyễn Xuất Động
Ân cần tương tống xuất Thiên Thai
Tiên cảnh na năng khước tái lai
Vân dịch ký quy tu cưỡng ẩm
Ngọc thư vô sự mạc tần khai
Hoa đương động khẩu ưng trường tại
Thuỷ đáo nhân gian định bất hồi
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài
Bốn câu đầu của bài thơ là lời miêu tả nhẹ nhàng về buổi chia tay. Ân cần tiễn nhau ra khỏi Thiên Thai, Cõi tiên làm sao có thể lần nữa quay trở lại. Người đã về thì cố uống thêm chén Vân dịch (nghe đồn rượu này uống vào được trường sinh). Còn đây bức thư ngọc, nếu không có việc gì cần thì đừng mở. Lời thơ nhẹ nhàng, biểu đạt tấm lòng của người vợ chia tay chồng. Nhưng cảnh chia tay liệu có thực sự nhẹ nhàng như thế.
Hoa đương động khẩu ưng trường tại
Thuỷ đáo nhân gian định bất hồi
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài
Thì ra là thế, cái nhẹ nhàng bên trên chỉ là cái vỏ bên ngoài của cuộc chia ly. Tiếng lòng tiên tử thật xót xa.
Hoa đương động khẩu ưng trường tại
Thuỷ đáo nhân gian định bất hồi
Trung thành với nguyên tắc mượn vật tả tình, chỉ bằng hai hình ảnh đối lập, tác giả lột tả được hết niềm đau của cuộc chia ly.Hoa trước cửa động còn tươi mãi. Nước về đến nhân gian sẽ không bao giờ trở lại. Hoa cửa động tiêu biểu cho cõi tiên, mãi mãi trường tồn cùng thời gian. Còn dòng nước kia như hai chàng Lưu Nguyễn, một đã đi không còn trở lại được. Tiên trần cách biệt. Đôi ngả phân ly. Người đã đi rồi, chỉ còn lại hai nàng tiên nữ và ánh trăng côi nơi núi lạnh.
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài
(Ngơ ngẩn đầu suối, ly biệt từ đây
Trên ngọn núi rêu phủ, chỉ có ánh trăng sáng chiếu thương đài)
Chắc chắn sẽ không ai dịch nổi hai chữ thương đài ra tiếng Việt. Quá hàm xúc, cô đọng và rất Đường thi. Thương đài – nơi này xưa cùng chàng cạn chén quỳnh tương, nay còn mình thiếp thương hoài ngàn năm. Nơi đây vốn chốn đào nguyên, chàng đi rồi cảnh bỗng thê lương lạnh lẽo. Thế mới biết tiên nữ cũng có tình, thiên thai cũng không khác lầu vắng của người chinh phụ khi vắng bóng chàng.
Nhà thơ Tản Đà cũng có bài thơ Tống Biệt mang trọn được âm hưởng của Tiên Tử Tống Lưu Nguyễn Xuất Thiên Thai
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Truyền thuyết Lưu Nguyễn gặp tiên! Sách "Thần tiên truyện" chép:
Ðời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh bình (58 sau DL) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Ðoan Ngọ cũng gọi Ðoan dương (mùng 5 tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người ta thường vào núi Thiên thai hái thuốc chữa bệnh. Hai chàng Lưu, Nguyễn cùng đi. Nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về.
Vơ vẩn trong núi gần tháng trời mà không tìm được lối ra. Lương thực mang theo đã hết đành phải hái những quả đào chín mọng hai bên bờ suối hay ven chân núi để ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà uống.
Nhìn dòng nước trong núi chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và lá rau tươi lững lờ trôi, nên đoán chắc cách chỗ người ở không xa nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực kỳ đẹp đẽ. Ðương ngẩn ngơ đứng nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất thanh tao:
- Lưu, Nguyễn hai chàng sao mà đến chậm thế!
Nghe gọi đích danh mình, hai chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa lúc ấy hai cô gái rẽ hoa đi ra. Thực là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vào động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ vì được gặp người- lại người đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.
Ðến động bước vào nhìn thấy chung quanh toàn trang trí cực kỳ mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi hương. Ðến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và nem dê rừng mùi vị thơm phức, mời hai chàng dùng. Tối lại, một đoàn mỹ nữ đêm mâm đào chín và rượu ngọt đến, đoạn múa hát dưng đào và rượu, chúc tụng "Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt". Nói xong, họ lại họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển, giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn rực rỡ kết tụi ngũ sắc, hai chàng Lưu, Nguyễn say sưa cho mình hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.
Ðến khuya, tiệc tàn khách về. Hai nàng Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng giữa hai nàng và hai chàng bền duyên giai ngẫu.
Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, hai chàng Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian.
Ở ĐÂY, NGÀY NGÀY THÁNG THÁNG, TIẾT TRỜI ẤM ÁP HƠN XUÂN. KHÔNG Hạ, không Thu, không Ðông, đâu đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trôi trong mây thanh gió mát đượm mùi hương phảng phất phảng phất quanh mình. Nhưng thời gian hai năm trôi qua, cảnh dầu đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm lượn, chim hót... cũng không sao xoá được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng, không cho về. Nhưng lòng mơ nhớ cố hương ray rứt người lữ thứ, hai chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không lưu chồng được, hai nàng ngậm ngùi, thở dài bảo:
- Nhờ hồng phúc tiền thân mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hoà hợp chốn Thiên thai. Tưởng rằng duyên ưa phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới luyến nhớ đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen, kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ luỵ, hai chàng có trở về chốn trần gian thì liễu cũ hoa xưa chắc không còn được như ngày trước nữa. Chia ly ai chẳng não lòng nhưng nghiệp chướng khó mà diệt nổi.
Thế rồi hai nàng tiễn chân hai chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận xuống núi. Nhìn xa xa khói lam phủ nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai chàng ra khỏi núi Thiên thai, chẳng mấy chốc xuống về quê cũ.
Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu, Nguyễn là người đồng hương nữa. Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ. Lối cũ không còn. Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ đã xa lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng gặp một cụ già tuổi đã gần trăm, hai chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm. Cụ già bèn kể lại cách đây độ 400 năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên Nguyễn Triệu. Nhân tiết Ðoan Ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích.
Bấy giời Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên thai. Nhưng thảm thay, đi vòng vo, quanh quẩn... cuối cùng lại lủi thủi TRỞ VỀ, VÌ LỐI XƯA ĐÃ LẠC MẤT RỒI. Ở QUÊ CŨ CHO ĐẾN đời Tấn Võ đế (265- 275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu mới bỏ đi, không ai còn gặp nữa.
Các chủ đề khác cùng chuyên mục này: