Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 01-05-2008, 03:00 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
ÂU DƯƠNG CHÍNH LAN - Ưu Đàm Hoa

ÂU DƯƠNG CHÍNH LAN
Tác Giả : Ưu Đàm Hoa
Hồi 1

Hủ nho phùng mỹ nữ
Đào hoa ngộ cuồng phong





Hồi 2

Hồng điểm đáo giang tô
Tây thi hoạn cựu ước




Hồi 3

Đại lượng đắc hiền thê
Đào hoa cung lưu huyết




Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của than_long_vn


Last edited by baongoc; 04-10-2011 at 01:10 PM. Lý do: Chỉnh Sửa đóng khung !!!
  #2  
Old 01-05-2008, 03:07 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 4

Dương châu xuất ác nhân
Nam kinh hồng diện tử

Bọn họ rút lui thì đám giang hồ áo vải hai phủ Hứa Xương, Từ Châu cũng đi theo. Thế là mọi người ùa cả ra, chẳng còn sót lại một mống nào. Đại hội Chiêu Anh tan nát.
Đào Hoa cung chủ giận điên người nhưng đang thọ thương nên chẳng dám sính cường, lão nuốt giận đi vào trong trị thương. Đã có kế hoạch từ trước, Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ đưa hơn trăm cao thủ hai phủ về nơi trú ngụ. Còn Sơn Đông Tử Phòng dẫn bọn Hỏa chân nhân đến một toà sơn trang rất kín đáo cách Đào Hoa cung mười hai dặm.
Sau ba ngày phục dược, Chính Lan hồi tỉnh, mỉm cười:
- Mạng ta rất lớn, chẳng thể chết được đâu, các nàng đừng khóc nữa.
Hỏa chân nhân cằn nhằn:
- Nếu phút chót ngươi không dùng Qui Tức Bảo Tâm Đại Pháp phong bế kinh mạch toàn thân thì giờ đây đã ra ma rồi. Thang Chí Quân đã luyện Huyết Ảnh Ma Công đến mức chót, lại thêm Đào Hoa Mê Hồn chưởng rất độc địa, nếu là bần đạo cũng không đỡ nổi.
Chính Lan gượng cười:
- Tiểu tế đã có một kỳ nhân như thúc phụ ở bên cạnh, lẽ nào lại chết được?
Hỏa chân nhân khoan khoái trong lòng nhưng ngoài mặt giả vờ trách móc:
- Đừng nịnh hót cho uổng công. Bần đạo chẳng phải một lão già nhẹ dạ đâu.
Tử Quỳnh giận dữ nói:
- Cũng vì thúc phụ và Tố Bình biểu muội mà mới ra cớ sự này. Chính Lan mà có mệnh hệ gì, điệt nữ sẽ bắt đền thúc phụ đấy.
Tây Môn Nhỉ chỉ có hai anh em nên rất thương yêu cô cháu gái mồ côi này. Lão cười hề hề đáp:
- Chính Lan đã chết đâu mà tiểu nha đầu đã ăn vạ. Gã còn phải cảm ơn ta đã se duyên cho gã với Kính Hồ Tiên Cơ nữa đấy.
Ba nữ lang nhìn lão với ánh mắt sắc như dao. Chu Thục Nghi dấm dẳng:
- Chân nhân nhắc đến việc ấy chỉ khiến bọn tiện nữ thêm lộn ruột.
Kính Hồ Tiên Cơ run rẩy nói:
- Nếu ba vị không dung nạp, Uyển Như tôi chẳng dám van xin.
Nàng quì xuống bên giường, nắm tay Chính Lan nghẹn ngào:
- Tiện thiếp thân phận bọt bèo, chẳng dám chung thuyền với họ. Xin vĩnh biệt tướng công, trở về Tô Châu với song thân, mong chàng bảo trọng.
Chính Lan mỉm cười thê lương:
- Nếu nàng không xứng đáng làm vợ ta, thì ta cũng chẳng xứng đáng làm chồng của ba mỹnhân ấy.
Dứt lời, uất khí công tâm, chàng hộc ra một vòi máu rồi chết lịm. Các nàng kinh hãi khóc ròng, xúm đến lay gọi. Hỏa chân nhân động nộ quát mắng:
- Đúng là một lũ đàn bà lòng dạ hẹp hòi, ba vợ hay năm vợ thì nào có khác gì nhau? Mau xê ra cho ta cứu tỉnh Chính Lan.
Bốn nàng vội tránh sang bên, đứng sụt sùi. Chỉ riêng Tiểu Linh Thố hiểu ý phụ thân. Chân Nhân đã quyết chí chọn Chính Lan làm rể nên mới nói thế. Ba cộng một bằng bốn, lão nói năm là có ý nhét nàng vào. Tây Môn Tố Bình thoáng đỏ mặt nhưng lòng rất sung sướng. Tây Môn Nhỉ xoa bóp huyệt đạo một lúc thì Chính Lan tỉnh lại. Chàng chua chát hỏi Uyển Như:
- Nàng vẫn chưa đi sao?
Trại Tây Thi vội nói:
- Bọn thiếp đều yêu mến Tiêu đại thư, đâu thể để nàng đi được. Lúc nãy Chu hiền muội chỉ muốn đùa cợt chân nhân, không ngờ Tiêu đại thư lại hiểu lầm.
Chu Thục Nghi cũng tỏ vẻ hối lỗi:
- Biểu ca, tiểu muội thề sẽ không ghen nữa.
Chính Lan hài lòng bảo:
- Nay cửu phụ đã gả nàng cho ta, chẳng lẽ không gọi được một tiếng tướng công.
Thục Nghi sung sướng và hổ thẹn chẳng nói lên lời. Tử Quỳnh ôm Kính Hồ Tiên Cơ thủ thỉ:
- Tiểu thư ở lại đây với bọn tiểu muội, chuyện quá khứ cứ xem như gió thoảng. Tướng công là bậc anh hùng cái thế, lòng dạ công minh tất chẳng để ai phải thiệt thòi đâu.
Cuối tháng năm, trong lúc Chính Lan đang dưỡng thương và vui vầy với võ lâm tứ đại mỹ nhân ở Hoàng Cúc lâu, thì thanh danh chàng đã vang dội võ lâm. Cuộc tử chiến của chàng với Đào Hoa cung chủ đã trở thành đầu đề hấp dẫn nhất trong các toà trà lâu, tửu quán. Ai nấy đều tôn xưng Âu Dương Chính Lan, cho rằng chàng còn trẻ tuổi võ công tiến bộ từng ngày nên chắc chắn năm sau sẽ đả bại được Đào Hoa cung chủ.
Chàng trở thành thần tượng cho lớp hào kiệt trẻ tuổi. Sự say mê của họ dành cho chàng đã đưa đến hiện tượng. Trên giang hồ xuất hiện rất nhiều những chàng thư sinh áo vải thô, mặt mũi hiền lành, mắt nheo nheo bí ẩn. Họ cố gắng bắt chước y hệt tác phong và cử chỉ của Chính Lan, đến nỗi có người còn luôn đem theo bên cạnh bốn thiếu nữ ăn mặc hệt như tứ đại mỹ nhân.
Thực sự thì giới trẻ có căn cứ để ái mộ Hồng Nhất Điểm đến điên cuồng như vậy. Thứ nhất, chàng không quá đẹp trai, cũng trung bình như phần lớn bọn họ. Thứ hai, chàng luôn mặc áo vải, chứng tỏ xuất thân từ giới nghèo khó. Thứ ba, chàng đã phá vỡ thành kiến của giới võ lâm là người già luôn có bản lĩnh cao cường hơn lớp trẻ. Chính Lan mới hai mươi sáu mà bình thủ với Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân, thì họ cũng có thể so tài với các bậc tiền bối khác. Nhưng họ cũng tự hiểu rằng phải khổ công rèn luyện, do đó, giới trẻ đua nhau học hỏi, chẳng hề dám biếng nhác.
Chưởng môn các phái và bô lão võ lâm hoan hỉ trước sự chấn hưng võ học bất ngờ này, họ thầm biết ơn Chính Lan và ra sức dạy dỗ đệ tử.
Nhưng có một người ghét cay ghét đắng những ai mặc trường bào thư sinh bằng vải thô. Bây giờ Dương Châu công tử Phó Duy Khang đã biết mình bị cha con Hỏa chân nhân lường gạt, tặng vợ cho đại sát tinh Âu Dương Chính Lan.
Chuyện này đồn đến Dương Châu khiến họ Phó vô cùng nhục nhã. Phó Duy Khang chẳng dám bước chân đến những chỗ đông người, chỉ sợ biến thành trò cười cho thiên hạ.
Hơn nữa, gã còn bị song thân mắng chửi thậm tệ, bắt phải ở nhà thuốc thang tịnh dưỡng, bồi tinh cố thận để Phó gia có người nối dõi tông đường. Phó Duy Khang có đến cả chục nàng tỳ thiếp hơ hớ xuân xanh, thế mà chẳng ai chịu sanh dùm gã một đứa con.
Trưa nay, Phó Duy Khang ngồi một mình trong thư phòng, nhâm nhi chén rượu Thiệu Hưng. Gã bỗng phát giác ra mình nhớ Kính Hồ Tiên Cơ vô vàn. Khi nàng ở bên cạnh, thì gã chẳng hề yêu quí, nay mất rồi mới biết tiếc thương. Dẫu sao, hình bóng của người đàn bà xinh đẹp tuyệt trần ấy đã in sâu trong tâm hồn gã.
Lại thêm tự ái của một nam nhân khi nghĩ đến cảnh vợ mình ái ân với kẻ khác, lòng gã sôi sục căm thù Chính Lan và cha con Hỏa chân nhân. Nhưng họ đều là những tay chọc trời khuấy nước, làm sao gã dám động đến họ?
Duy Khang đang gặm nhấm nỗi đau thì một tỳ nữ vào báo rằng Phó lão gia cho gọi. Gã lật đật lên ngay khách sảnh. Ngoài Phó tuần phủ, còn có một lão nhân lạ mặt nữa, ông ta tuổi tác độ thất tuần, mặc y phục lang trung, nhưng đôi mắt lại uy nghiêm đến khiếp người.
Phó lão gia hớn hở giới thiệu:
- Hà tiên sinh đây là danh y đất Hồ Nam, thân quyến của Hà viên ngoại trong thành này. Tiên sinh đến thăm Hà lão nhị, có nghe được bệnh tình của Khang nhi nên đến đây để ra tay diệu thủ. Tiên sinh bảo đảm rằng chỉ sau hai tháng, ngươi sẽ tráng kiện như xưa và có con dễ dàng.
Phó Duy Khang cười mát:
- Hài nhi đã chạy chữa biết bao nhiêu thần y mà có khỏi đâu? Chỉ sợ Hà tiên sinh đây cũng uổng công thôi.
Gã vừa nói vừa nhìn lão lang trung kia với vẻ diễu cợt. Bất chợt, đôi mắt của họ Hà sáng rực lên như điện, Duy Khang chấn động tâm thần, chân tay bủn rủn. Gã biết ngay lão này nội công rất thâm hậu và đầy tà khí. Hà đại phu quay sang nói với Phó lão gia:
- Xin đại nhân để lão phu thuyết phục lệnh lang.
Phó Vi Quân hiểu ý, bỏ vào trong. Chờ lão đi khuất xa, Hà đại phu nghiêm giọng:
- Lão phu là Hà Đăng Long đến đây không phải chỉ vì chuyện chữa bệnh cho ngươi, mà còn muốn biến ngươi thành cao thủ số một võ lâm, đủ sức tiêu diệt Hồng Nhất Điểm. Nếu ngươi đủ hùng tâm tráng trí, lão phu cũng có thể đưa ngươi lên làm minh chủ võ lâm.
Dứt lời, lão chứng minh khả năng của mình bằng cách đâm ngón tay trỏ xuống mặt bàn làm bằng danh mộc dày nửa gang tay. Ngón tay lão đỏ rực như chiếc dùi sắt nung, xuyên qua mặt gỗ rất nhẹ nhàng. Duy Khang vừa sợ vừa mừng, gã hoan hỉ nói:
- Nếu tiên sinh thực dạ tài bồi, vãn bối xin khổ công rèn luyện.
Gã bỗng ấp úng:
- Nhưng chỉ sợ thời gian học võ quá lâu, Âu Dương Chính Lan bị Đào Hoa cung chủ giết mất còn đâu?
Hà lão cười nhạt:
- Theo lão phu phán đoán, Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân không đủ sức để giết chết Chính Lan. Hơn nữa, lão phu sẽ đem mười viên thiên niên Tuyết Liên thần đan ra giúp ngươi tăng gấp đôi công lực trong vòng tám tháng. Còn kiếm pháp thì chỉ cần luyện ba chiêu cũng đủ lấy mạng Âu Dương tiểu tử.
Dương Châu công tử chẳng phải kẻ dốt nát, gã mỉm cười hỏi lại:
- Vì sao tiên sinh thù ghét Hồng Nhất Điểm mà không tự tay giết gã, lại cần đến vãn bối?
Hà Đăng Long cười nhạt:
- Năm xưa lão phu bị Hoàng Hạc Tú Sĩ đả bại, bắt lập trọng thệ là suốt đời không được giết người. Chính vì vậy lão phu mới phải mượn tay ngươi. Hãy suy nghĩ, chẳng lẽ ngươi lại muốn suốt đời là một kẻ bị nữ nhân chê bỏ, và là một kiếm thủ bậc trung? Hà Đăng Long này thề có hoàng thiên chứng giám, không hề có ý hại ngươi vì lợi ích của mình.
Phó Duy Khang nghe lão thề thốt, yên tâm bái sư:
- Đồ nhi ra mắt ân sư.
Gã dập đầu lạy chín lạy cho đủ lễ.
Từ đó, Hà đại phu ở lại Phó gia trang, ngày đêm dạy dỗ Duy Khang, cho gã uống những viên linh đan quí giá và vô cùng thần diệu. Chỉ sau nửa tháng, Phó công tử đã lấy lại phong độ của một nam nhân kiên dũng trong phòng the. Đám tỳ thiếp hết lời khen ngợi khiến Duy Khang càng tin phục Hà sư phụ.
Trước đây, Dương Châu công tử học nghệ của Thanh Nhàn đạo trưởng ở đạo quán cạnh Kính hồ. Cách đây năm năm, đạo trưởng đã qui tiên. Thanh Nhàn là cao thủ phái Võ Đang nên kiếm pháp của Duy Khang khá linh diệu. Hà Đăng Long bổ quyết những thiếu sót trong sở học của họ Phó, và dạy thêm cho gã ba chiêu sát thủ cùng một bộ pháp vô cùng quỉ dị.
Duy Khang có căn cơ khá tốt, nay gặp minh sư nên tiến bộ rất nhanh. Gã tin tưởng Hà Đăng Long nên uống hết mười viên linh đan màu trắng kia trong vòng có ba tháng. Kỳ diệu hơn nữa là có đến bốn ả tỳ thiếp cấn thai.
Tin mừng nay khiến Phó gia trang vui như mở hội. Phó tuần phủ liền bái họ Hà làm nghĩa huynh.
Đầu tháng chín, Hà đại phu bảo Duy Khang:
- Giờ đây Khang nhi đã có trong người bốn mươi năm công lực, với sở học bản thân cũng đủ ngạo thị giang hồ. Cộng thêm Quỉ Ảnh Thần Bộ và ba chiêu Diêm La Tam Thức, ngươi thừa sức giết Chính Lan. Tuy nhiên, ngươi hãy khoan đụng đến gã mà cứ tung hoành ngang dọc vài tháng, dương danh thiên hạ và thu thập kinh nghiệm chiến đấu. Sau đó hãy khiêu chiến với Hồng Nhất Điểm.
Phó Duy Khang mang bản chất tiểu nhân nên nghe nói đến thanh danh là khoái chí. Hơn nữa, rời khỏi Dương Châu, gã tha hồ nếm mùi khoái lạc, với bản lãnh hiện nay muốn ai mà chả được?
Hôm sau, Hà Đăng Long xin phép Phó tuần phủ để đưa Phó Duy Khang đi Thiểm Tây thăm mộ tổ sư. Phó Vi Quân đã có bốn bào thai đầy hứa hẹn nên mặc kệ Duy Khang muốn đi đâu cũng được. Phó lão gia đưa lệ phí rất hậu.
Nhưng thực ra, Duy Khang còn lén vét thêm hơn vạn lượng để tiêu xài cho thỏa chí. Vừa rời khỏi Dương Châu, Hà đại phu đã chia tay với đồ đệ. Lão hẹn Duy Khang rằng sẽ hội ngộ đúng trưa ngày rằm tháng mười một ở chân núi Võ Đang.
* * *
Dương Châu công tử cũng chẳng cần biết sư phụ mình đi đâu, gã hăm hở phi ngựa về hướng Nam Kinh. Ở chốn ấy, gã vừa có thể dương danh thần kiếm vừa có thể vui say với đám kỹ nữ xinh đẹp tuyệt trần. Nghe nói gần đây mới xuất hiện một vị cô nương tên gọi Hồng Ỷ Vân, nhan sắc phi phàm, cầm kỳ thi họa làu thông và thủ thuật phòng the vô cùng tinh xảo.
Phụ nữ Trung Hoa thời cổ bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe, hạn chế từ nụ cười, lời nói, dáng đi. Ngay cả trong chuyện gối chăn cũng chẳng dám biểu lộ hết nhiệt tình, vì sợ trượng phu cho là dâm đãng. Còn các đấng nam nhi lại được dạy rằng “vạn ác dâm vi thủ” nên đạo mạo, nghiêm trang ngay lúc gần gũi thê thiếp. Xem ra chỉ có đám người nghèo khổ, bình dân và giới hào khách võ lâm là sảng khoái, tận tình hưởng lạc trời cho.
Nhưng tất nhiên vợ nhà chẳng thể sánh với những nàng kỹ nữ lão luyện phấn son. Họ là hạng người bị xem là ti tiện trong xã hội, chẳng hề được giáo hoá. Họ lại sống bằng cách buôn bán xác thân nên phải luôn trau chuốt tay nghề để món hàng thêm hấp dẫn. Những lạc thú mà họ đem lại cho khách làng chơi vượt hẳn những gì mà các bà vợ ban cho chồng. Ở chốn yên hoa, ái ân, hành lạc được nâng lên thành một nghệ thuật hẳn hoi. Bảo sao các đấng trượng phu đã có vợ đẹp ở nhà mà vẫn lén lút mò đến kỹ viện? Và bảo sao các tay chơi lắm tiền lại chuộc vài nàng ra khỏi thanh lâu, đem về làm thiếp.
Từ thời Xuân Thu ở nước Tề, Quản Trọng đã xem thanh lâu như một ngành kinh tế đầy lợi nhuận cho triều đình. Ông ra qui chế tổ chức ngành mại dâm thành hệ thống, hàng năm thu được số thuế rất lớn. Chữ “thanh lâu” xuất phát từ thời ấy, các kỹ viện đều phải sơn hoặc quét vôi màu xanh.
Thực ra, do hệ thống kỹ viện được công khai và rộng khắp nên thời xưa nạn cưỡng dâm rất ít xảy ra. Thứ hai, chính các nàng kỹ nữ đã là những người đi tiên phong trong ngành y phục, thời trang của Trung Hoa cổ. Có những nàng danh kỹ một đêm kiếm được cả ngàn lượng bạc. Vì vậy họ có thể phóng tay tiêu xài, sắm sửa. Hầu như những kiểu trang phục mới nhất đều xuất phát từ bọn kỹ nữ ở Kinh Đô, sau đó lan đi khắp nước. Oái oăm thay, các hoàng hoa khuê nữ hay khuê trung tiết phụ lại hân hoan đón nhận những kiểu xiêm y của đám gái lầu xanh. Có thể là do họ chưa từng đến kỹ viện nên không phát giác ra sự thực đắng cay ấy.
Mặt tích cực khác của giới kỹ nữ là họ đã có công phát triển và làm phong phú nghề ca hát, ngâm vịnh trong văn hóa Trung Hoa. Song song với âm nhạc cung đình, âm nhạc dân gian tồn tại và lớn mạnh thông qua các kỹ nữ, ca nhi. Thường thường, các kỹ nữ đều biết đàn hát. Lời của những bài hát lại sử dụng nguyên liệu là những bài từ của các thi hào như Tô Đông Pha, Tần Quán, Trương Phòng, Lạc Du, Liễu Vịnh…
Đặc biệt nhất là Liễu Vịnh thời Tống. Ông rất giỏi về từ lại sành âm luật nên bọn nhạc công ở giáo phường mỗi khi có từ khúc mới tất phải tìm đến nhờ ông phổ nhạc, rồi mới đàn ca được. Tác phẩm của Liễu Trường Khanh phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có giếng nước là dân nơi đó biết hát những bài từ của Liễu Vịnh.
Cuối đời, không được Tống Nhân Tông trọng dụng, Liễu Vịnh sa đà vào cảnh giang hồ, ngày tháng lê la nơi ca lâu, tửu quán. Cuối đời về già rất khốn khổ, tiêu điều, đến nỗi khi ông chết chính đám kỹ nữ phải bỏ tiền và đứng ra mai táng. Thanh minh hàng năm cũng chỉ đám kỹ nữ đi viếng mộ.
Tóm lại, khách phong lưu đến lầu xanh vừa được hưởng thú vui xác thịt, vừa được thư thái tâm hồn bởi lời ca tiếng nhạc.Vì vậy, chúng ta cũng chẳng nên trách Dương Châu công tử là người quá say mê thú yên hoa.
Chỉ bốn ngày sau Phó Duy Khang đã có mặt ở Nam Kinh, trước gọi là Kim Lăng, hay Ứng Thiên phủ. Tất nhiên gã trọ trong khách điếm sang trọng nhất thành, và chiều hôm ấy đã mò ngay đến Lưu Hương viện.
Chỉ trong mười ngày, Phó Duy Khang đã nổi danh khắp Nam Kinh, trở thành nhân vật đệ nhất phong lưu. Không những gã anh tuấn, hào phóng mà còn là đại cao thủ trong chuyện phòng the. Danh kỹ khắp thành ái mộ gã như điếu đổ, đua nhau mời mọc. Hậu quả là họ Phó tiêu sạch hơn hai vạn lượng bạch ngân. Gã bèn đem công lão dạy dỗ tài bồi của Hà đại phu sử dụng vào việc trộm cướp. Chỉ trong một đêm, Dương Châu công tử viếng thăm ba nhà đại phú vùng phụ cận Nam Kinh, gom được hơn ngàn lượng vàng.
Đương nhiên gã đã phải giết tám mạng người, trong đó có một lão già mặt đỏ, võ nghệ cao cường. Duy Khang phải dùng đến chiêu Diêm Vương Nhất Thức mới hạ được lão ta.
Lúc đầu, Dương Châu công tử cũng có ý định gieo vạ cho Hồng Nhất Điểm Âu Dương Chính Lan. Nhưng giờ đây gã đang hạnh phúc trong vòng tay bọn danh kỹ nên chẳng còn nhớ đến Kính Hồ Tiên Cơ nữa, do đó mối hận Chính Lan cũng vơi đi. Thứ hai, gã thầm ngán sợ oai danh lừng lẫy của đại sát tinh Hồng Nhất Điểm, nên không muốn chàng đến truy tầm. Phó Duy Khang đủ thông minh để hiểu rằng việc học võ đâu chỉ vài tháng là đủ biến thành vô địch. Nói chung, Phó Duy Khang chỉ muốn được yên thân lăn lóc phấn son.
Nhưng gã không biết rằng mình đã phạm sai lầm khi giết lão già mặt đỏ kia. Dương Châu công tử chẳng phải là cường đạo chuyên nghiệp nên không hề điều tra lai lịch khổ chủ. Gã thấy nơi nào nhà cửa nguy nga, lộng lẫy là vào thôi. Vì vậy, gã không biết lão già mặt đỏ hôm trước là Hồng Diện Tài Thần, bằng hữu thâm giao của chưởng môn các phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Cái bang...
Hồng Diện Tài Thần Quí Thừa Khải còn là ân nhân của vô số hảo hán giang hồ. Võ công của ông rất cao siêu nhưng tính tình rộng rãi, trượng nghĩa, luôn hào phóng với đồng đạo. Đặc biệt, họ Quí còn là kết bái huynh đệ với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Vì vậy, cái chết của tài thần khiến cả võ lâm phẫn nộ. Hàng ngàn cao thủ đổ xô đến Nam Kinh để dự đám tang và điều tra tung tích hung thủ.
* * *
Trước đó, Hoàng Cúc lâu tràn đầy hoan lạc. Chính Lan đã hoàn toàn bình phục và luyện thử chiêu thứ nhất trong ba chiêu kiếm do Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng để lại trong kho tàng Nam Tống.
Chiêu này có tên Thiên Lý Trùng Hồng(2)cực kỳ bác tạp và uyên áo. Dẫu thông minh tuyệt thế, Chính Lan cũng phải mất đến ba tháng vẫn chưa đạt đến mức tùy tâm nhi phát. Đồng thời, chàng cũng đem pho khinh công Hoàng Hạc Khinh Vân và Thái Chân kiếm pháp ra dạy cho các nữ nhân. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình thản nhiên tham gia, cùng rèn luyện với các đại thư. Họ đều yêu thương, tôn kính Chính Lan nên hết lòng rèn luyện chẳng dám xao nhãng một ngày. Nhờ vậy, bản lãnh tăng tiến rõ rệt. Hỏa chân nhân càng gẫn gũi Chính Lan, càng mến yêu chàng hơn. Lão định mở miệng gả ái nữ cho chàng, nhưng Tố Bình không cho. Nàng có tự ái và tin rằng ngày nào đó Chính Lan sẽ yêu mình.
Tháng chín đến mang theo hơi thu và cúc trong vườn nở rộ. Cả nhà bày tiệc trên lầu để thưởng hoa nhân ngày tiết trùng dương chín tháng chín. Ngẫu nhiên, trong hàng ngàn đóa hoa cúc vàng rực kia có một đóa bạch cúc lẻ loi.
Hoàn cảnh năm nay chẳng khác gì mấy trăm năm trước, Hỏa chân nhân chẳng bỏ qua cơ hội, vuốt râu ngâm nga bài “Trùng Dương tịch thượng phú bạch cúc”(3)của đại thi hào Bạch Cư Dị đời Đường.
“Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
Trang hữu cô tùng sắc tự sương.
Hoàn tự kim tiên ca tửu tịnh,
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.”(4)
Năm mỹ nhân vỗ tay hoan hô nhiệt liệt dù giọng Tây Môn Nhỉ khàn khàn, khê đặc, chẳng hay ho chút nào cả. Lão đang đắc ý bỗng thấy tam ngốc Hồ Phùng Tường phá lên cười ngặt nghẽo.
Chân Nhân cả giận mắng:
- Bần đạo chọn được bài thơ hợp tình hợp cảnh như vậy sao ngươi lại cười?
Tam ngốc vẫn cười hô hố, chỉ lên đầu Tây Môn Nhỉ:
- Tóc của chân nhân đỏ quạch như râu bắp chứ đâu có bạc mà đem so với cúc trắng.
Cả nhà ôm bụng cười theo. Hỏa chân nhân ngượng nghịu nói:
- Đúng rồi, bần đạo quên mất điều ấy.
Tiểu Linh Thố chữa thẹn cho phụ thân, nói sang chuyện khác:
- Tỷ phu là người văn võ song toàn, xin hãy ngâm cho tiểu muội nghe một bài.
Bốn nàng kia cũng vui vẻ hối thúc Chính Lan. Chàng mỉm cười ngâm bài từ Túy Hoa Âm của Dị An nữ sĩ Lý Thanh Chiếu, thời Nam Tống:
“Bạc vụ hồng vân sầu vĩnh thú
Thụy não phần kim thú
Giai tiết hựu Trùng Dương
Ngọc chẩn sa thú
Tạc dạ lương sơn tụ
Đồng ly bá tửu hoàng hôn hậu
Hữu ám hương doanh tụ
Mạc đạo bất tiêu hồn
Liêm quyện tây phong
Nhân tỷ hoàng hoa sấn.”(5)
Giọng chàng trầm ấm, có đôi chút thê thiết của gió thu nên diễn tả được hết tình ý của người đàn bà cô quạnh. Tất nhiên ai nấy khen hay. Lần này đến phiên nhị ngốc Hồ Giả trổ tài bình thơ. Gã đặng hắng rồi nói với vẻ sành sỏi:
- Tiểu đệ biết đại ca có ý tặng bài từ này cho Tố Bình cô nương vì chỉ mình nàng là cô đơn lạnh lẽo. Nhưng theo thiển ý của tiểu đệ thì ta nên sửa lại vài chỗ trong câu cuối.
Mọi người hiếu kỳ lắng nghe. Nhị ngốc chẳng chịu nói ngay, nhấp hớp rượu ngon khề khà. Đại ngốc bực bội nhắc:
- Sao ngươi không nói quách ra đi.
Hồ Giả nghiêm trang phân tích:
- Một nhánh hoa cúc thì gầy nhưng cả bụi thì lại khác. Để khỏi gây hiểu lầm, tiểu đệ đề nghị sửa câu cuối thành “Người gầy như con mắm.”
Gã vừa nói xong thì cả bọn ôm bụng cười ngất, không sao nín được. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình vừa dứt trận cười đã hất nguyên đĩa xào vào mặt nhị ngốc. Nàng hầm hầm quát:
- Bổn cô nương xinh đẹp thế này mà ngươi dám gọi là con mắm sao?
Hồ Giả sợ quá, tung mình nhảy xuống lầu, bỏ chạy mất. Tiệc rượu cũng đến lúc tàn. Chính Lan cho gọi ba gã ngốc ra vườn kiểm tra thành tựu khinh công. Chúng luyện đao pháp nên chẳng thể học kiếm thuật của chàng. Chính Lan chỉ dạy chúng khinh công, nếu thân pháp linh diệu nhanh nhẹn thì đao pháp cũng nhờ đó mà thêm lợi hại.
Ngay sáng hôm sau, Chính Lan cử Hán Trung Tam Ngốc Hiệp đi Tô Châu. Chúng có nhiệm vụ mang thư của Kính Hồ Tiên Cơ về cho song thân. Biết gia đình họ Tiêu sa sút, chàng gởi tặng ngân phiếu năm trăm lượng vàng. Ba gã ngốc hí hứng lên đường định bụng sẽ không bỏ qua cơ hội ghé thăm các thanh lâu lừng danh của đất Giang Nam. Chúng đi được bảy ngày thì Hoàng Cúc lâu nhận được tin Hồng Diện Tài Thần bị cường đạo hạ sát. Tây Môn Nhỉ đau lòng, lồng lộn như hổ dữ:
- Trời cao không có mắt nên mới để cho một đại thiện nhân như Quí lão đệ phải chết thảm như vậy. Bần đạo sẽ tìm cho ra tên hung thủ khốn kiếp ấy, nhét vào miệng hắn một trái Đảo Thiên thần đạn.
Chính Lan đọc kỹ phong thư của Quí Thành Lâm, nam tử tài thần, rồi ôn tồn nói:
- Thúc phụ, bản lãnh của Quí lão gia thế nào?
Tây Môn Nhỉ thẫn thờ đáp:
- Võ công y chỉ kém ta chừng một bậc.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Trong thư có nói rõ rằng chưa đến trăm chiêu hung thủ đã bất ngờ đâm chết Hồng Diện Tài Thần. Chiêu kiếm ấy cực kỳ quỉ dị và ác độc. Còn về tuổi tác, Quí công tử nhận định rằng hắn ta còn trẻ. Thúc phụ thử nghĩ xem trong võ lâm đương đại, có cao thủ tuổi tam thập nào đủ sức giết tài thần không?
Hỏa chân nhân cau mày suy nghĩ:
- Bần đạo nắm rõ tình hình võ lâm như lòng bàn tay, nên dám chắc rằng trừ ngươi, chẳng có ai làm nổi việc ấy.
Tiểu Linh Thố góp ý:
- Như vậy, một là Quí công tử đã đoán sai tuổi tác của hung thủ. Hai là có tay cao thủ thiếu niên nào đó gặp kỳ duyên nên võ công cao hơn tuổi tác?
Trại Tây Thi cũng thỏ thẻ:
- Theo ý thiếp, chúng ta phải đến Nam Kinh điều tra mới rõ chân tướng.
Chính Lan gật đầu tán thành.
Sáng mười tám, bảy con tuấn mã phi hết tốc lực về phía nam. Trên đường đi, các mỹ nhân mới nhận ra cách ăn mặc và phong thái của Âu Dương Chính Lan đã được giới trẻ ưa chuộng đến mức nào. Hoàng Hoa Ma Nữ vui vẻ nói:
- Tướng công! Chàng đã trở thành thần tượng của đám hậu bối trong võ lâm rồi đấy.
Chàng cười đáp:
- Chỉ mong họ đừng bắt chước ta lấy đến bốn vợ là được rồi. Lúc ấy nam đa nữ thiểu tất sẽ xảy ra cảnh chém giết để tranh giành.

Hồi 5

Hồ nam thu dạ tầm bằng hữu
Kiểm nghiệm tà dương tróc cuồng đồ

Trưa hôm sau, bọn Chính Lan vừa sang đến bờ nam sông Hoài, đã bị chặn lại. Đó là một hán tử trung niên mặc áo đen. Người gã đẫm ướt mồ hôi và lem luốc cát bụi, chứng tỏ đã kiêm trình không nghỉ. Hán tử cố nén hơi thở dồn dập, kính cẩn hỏi:
- Phải chăng công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp?
Chính Lan gật đầu. Gã mừng rỡ nói tiếp:
- Tiểu nhân là Dạ Trung Báo Cát Tráng, thủ hạ của Hách đại ca, xin bái kiến đại hiệp.
Gã dừng lại lấy hơi:
- Bẩm đại hiệp, cách nay hơn mười ngày, Hách đại ca đột nhập vào Chữ gia trang ở Ngũ Linh Nguyên và đã bị bắt. Tiểu nhân theo lời dặn dò từ trước, định về Hoàng Cúc lâu bẩm báo, không ngờ lại gặp ở đây.
Chính Lan chấn động, lo lắng cho bằng hữu, hỏi lại gã:
- Hách đại hiệp có bị thương tích gì không?
Hán tử buồn rầu đáp:
- Đêm ấy Hách đại ca cùng tiểu nhân và một người nữa tiến vào Chữ gia trang. Không ngờ chúng có trạm canh ngầm dưới đất nên đã phát hiện ngay. Hách đại ca liều mạng đoạn hậu cho tiểu nhân đào thoát để báo tin cho công tử rõ.
Chính Lan cau mày:
- Phải chăng Hách huynh đã phát hiện quái sự nên mới tìm cách điều tra?
- Thưa phải! Sau mấy tháng kiên nhẫn mai phục, bọn tiểu nhân phát hiện một lão già có dung mạo rất giống bức họa đi vào Chữ gia trang. Hách đại ca đã đoán rằng nốt ruồi son kia chỉ là thủ thuật đánh lạc hướng của giới hắc đạo, nên đã quyết định đột nhập.
Chính Lan đã hiểu, chàng nghiêm nghị nói:
- Các hạ cứ tìm quán trọ nghỉ cho lại sức. Tại hạ sẽ đi ngay Hồ Nam để giải cứu Hách huynh. Nếu cần phải san bằng nơi ấy, tại hạ cũng chẳng từ nan.
Dạ Trung Báo mỉm cười:
- Tiểu nhân đã quen bôn ba ngàn dặm, chẳng hề thấy mệt mỏi gì cả. Xin được theo công tử trở về Ngũ Linh Nguyên. Không tận mắt nhìn thấy Hách đại ca được an toàn, Tráng này chẳng yên tâm.
Chính Lan thầm khen ngợi lòng trung nghĩa của Cát Tráng. Chàng quay sang nói với Hỏa chân nhân:
- Thúc phụ! Xin người đưa các nàng đi Nam Kinh trước. Xong việc ở Hồ Nam, tiểu tế sẽ đến ngay.
Năm nàng ấp úng đòi theo, Chính Lan bác ngay:
- Thủ hạ của Thiết Xuyên ở đấy còn rất nhiều, không cần các nàng trợ giúp. Hơn nữa, bọn ta sẽ đi cả ngày lẫn đêm, các nàng chẳng kham nổi đâu.
Tây Môn Nhỉ tán thành:
- Chính Lan nói đúng, bọn ngươi đi theo cũng chỉ vướng chân tay.
Lão trao cho Chính Lan một trái Đảo Thiên thần đạn đen bóng:
- Ngươi hãy cầm lấy bảo bối này mà đối phó với Chữ gia trang. Nếu chúng giết Thiết Xuyên thì cho chúng nếm mùi thần đạn.
Chính Lan mừng rỡ cảm tạ chân nhân rồi cùng Dạ Trung Báo đi ngay. Chàng nóng ruột, lo lắng cho Vô Nhân Kiếm Khách nên đi không ngơi nghỉ, vài trăm dặm lại thay một lần ngựa. Vì vậy, chiều ngày thứ năm đã qua ranh giới Hồ Nam.
Dạ Trung Báo lộ vẻ mệt mỏi nhưng Chính Lan vẫn thản nhiên, dù đã thức trắng bốn đêm.
Công phu Qui Tức Bảo Nguyên Đại Pháp là tuyệt học vô thượng của Thiên Trúc, đến Hoàng Hạc Tú Sĩ còn phải khâm phục. Vì vậy, ông bắt Chính Lan phải khổ luyện môn tâm pháp gia truyền này của dòng họ Âu Dương. Nhờ vậy, tuy suốt ngày ngồi trên mình ngựa thực ra cơ thể Chính Lan luôn có một nửa được nghỉ ngơi. Khi phong bế huyệt đạo và cảm giác toàn thân, chàng có thể nằm bất động hàng tháng mà vẫn khoẻ mạnh.
Dọc đường vẫn có những lúc dừng chân để người ngựa ăn uống. Chẳng bao giờ Chính Lan nhắm mắt trước Cát Tráng. Gã ngủ rồi chàng mới nghỉ ngơi, gã mở mắt thì chàng đã thức tự bao giờ.
Kể cả lúc nghỉ, đôi mắt Chính Lan cũng chỉ khép hờ. Người ngoài nhìn vào cũng sẽ nghĩ rằng chàng còn chưa nghỉ.
Sư phụ chàng, Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp, tự biết đã gây nhiều thù oán với bọn tà ma. Sau này Chính Lan xuất đạo sẽ bị chúng trút giận lên đầu. Do đó, ông ra sức đào luyện chàng trở thành một người luôn cảnh giác, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Thêm bốn ngày đêm nữa trôi qua, Chính Lan và Dạ Trung Báo chỉ còn cách vùng nói Ngũ Linh Nguyên hơn trăm dặm. Cát Tráng bảo chàng:
- Âu Dương công tử, chúng ta phải đi đường tắt mới mong bảo toàn được tung tích. Con đường mé hữu này cũng rộng rãi, dễ đi, nhưng vì xuyên qua những cánh rừng đầy hổ, báo nên ít người qua lại.
Chính Lan mỉm cười:
- Hổ báo thì không sao.
Hai người rẽ vào con đường ấy. Đi được mười dặm đã đến khu rừng già rậm rạp, xanh tươi nhờ mưa hạ.
Bỗng trước mặt vang lên những tiếng quát như sấm:
- Hồng Nhất Điểm đứng lại.
Chính câu nói kia đã cứu chàng thoát chết. Trừ phi được báo trước, chẳng ai có thể biết chàng sẽ đi đường này. Vừa lúc ấy, Dạ Trung Báo nhoài người vung hữu thủ cắm mũi tiểu đao xanh biếc vào lưng chàng. Chính Lan đã cảnh giác nên kịp rạp mình xuống lưng ngựa tránh đòn ám toán. Dẫu sao cũng hơi muộn, lưỡi đao tẩm độc rạch một đường nơi bả vai lưng trái. Chàng chéo tay giáng một chưởng vào ngực tên đê tiện. Gã rú lên thảm thiết, văng khỏi mình ngựa. Đám phục binh đã ùa ra chặn kín phía trước, cách đầu ngựa vài trượng. Tất nhiên phía sau cũng có.
Chính Lan nhận ra trước mặt đông đến ba, bốn chục tên cung thủ, và được thống lĩnh bởi bốn gã trong Tây Vực Bát Hung của Đào Hoa cung.
Chàng lại nghe vết thương ngứa ngáy, cảm giác tê dại lan dần, biết là có độc. Không một phút chần chừ, Chính Lan rút trái Đảo Thiên thần đạn, bấm mạnh vào nốt lồi trên đỉnh rồi ném liền. Thần đạn rơi vào giữa đội hình đối phương và phát ra tiếng nổ long trời lở đất. Máu thịt, cát đá văng tung toé, khói bụi mịt mù và vang dậy tiếng rên la thảm khốc.
Chính Lan thúc ngựa lao đến như bay, trường kiếm lăm lăm, sẵn sàng chém giết để mở đường. Nhưng không còn ai đủ sức và dũng khí để cản chân chàng. Đám phục binh phía sau cũng khiếp đảm, chẳng dám đuổi theo.
Chạy được vài dặm, Chính Lan rẽ vào đường mòn bên trái. Chàng xuống ngựa đuổi cho nó chạy tiếp vào rừng, còn mình thì trở ra, đi sang cánh rừng phía đối diện. Chính Lan vào sâu hơn dặm, thấy một cây thiết mộc rậm rạp, cao lớn chạng ba rộng rãi kín đáo liền tung mình lên trên ấy. Chàng uống vội ba viên linh đan vội rồi vận khí trục độc.
Hoàng Hạc Tú Sĩ không muốn đem một thân công lực hùng hậu vào lòng đất, nên đã kiên nhẫn dùng phép Án Ma Hóa Nguyên đại pháp, ngày ngày xoa bóp huyệt đạo, truyền chân khí cho Chính Lan. Trong suốt hơn mười một năm trời. Ông đã dồn được ba mươi năm tu vi cho vào cơ thể Chính Lan. Nhờ vậy, hiện nay, chàng có đến hơn bốn mươi năm công lực. Bản lãnh còn cao siêu hơn tú sĩ thời trai trẻ. Cũng vì thế mà Chính Lan đã luyện xong lớp thứ bảy của pho nội công Thái Chân Cương Khí. Trong võ lâm, ít ai biết Hoàng Hạc Tú Sĩ xuất thân tứ Đạo giáo. Ngũ Di Nghiệp học võ công của đạo gia, nhưng lại sống và hành hiệp theo tôn chỉ của Khổng giáo nên không hề mặc đạo bào.
Nhờ công ơn tài bồi của ân sư, Chính Lan mới có một tu vi vượt xa tuổi tác như hiện nay. Do đó, chàng đủ sức trục hết kỳ độc ra khỏi cơ thể.
Sau gần canh giờ, Chính Lan mở mắt xả công. Chàng nhíu mày suy nghĩ khá lâu và quyết định lên đường đi Chữ gia trang chứ không quay lại.
Chắc chắn Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên đã bị bắt nên đối phương mới biết họ Hách có một thủ hạ tên Dạ Trung Báo Cát Tráng, và cho người giả dạng.
Chính Lan xem Thiết Xuyên là bằng hữu của mình nên không thể không cứu. Còn như gã đã bị giết thì chàng sẽ báo thù. Hơn nữa, việc cao thủ Đào Hoa cung có mặt ở Hồ Nam chứng tỏ Chữ gia trang đã trở thành kẻ địch của chàng.
Chính Lan mở tay nải, lấy lương khô ăn cho thật no, tìm suối nước tắm rửa rồi thay y phục. Chàng thầm cám ơn Chu Thục Nghi đã bắt mình phải đem theo bộ trường bào xanh thẳm bằng gấm Hồ Châu.
Trường An đại mỹ nhân ỷ mình là biểu muội nên nhõng nhẽo hơn ba nàng kia. Nàng quen cảnh giàu sang nên muốn trượng phu mình được hưởng thụ như bao người khác. Thục Nghi bảo:
- Tướng công nói rằng giá trị của con người là ở cái tâm thiện lương, nhân phẩm chứ không phải do y phục. Vậy thì chàng có mặc áo gấm cũng chẳng hề gì. Trong khi bọn thiếp châu ngọc phủ thân, lụa là che gót, chàng khiêm tốn quá chỉ e không hợp cảnh, hợp tình.
Chính Lan sở đắc đạo Trung Dung nên mỉm cười không tranh cãi, vui vẻ mang theo những gì nàng muốn. Bậc đại trí chẳng bao giờ nên tranh cãi với mỹ nhân.
Ngay chiều hôm ấy Chính Lan đã có mặt ở trấn Vọng Sơn, cách Chữ gia trang ba dặm. Trấn này nằm ở mé đông vùng núi Ngũ Linh Nguyên. Chính Lan ghé vào một tửu quán ở đầu tây của trấn Vọng Sơn. Từ nơi này, chàng có thể ngắm cảnh hoàng hôn trên quần thể núi non hùng vĩ kia.
Trước lúc đến đây, chàng đã vào một tiệm trong trấn, nhờ lão thợ cạo sửa sang bộ râu lởm chởm của chín ngày dong ruổi. Chàng không cạo sạch mà chỉ tỉa tót cho gọn gàng lại. Nhờ vậy, bộ râu mép, râu quai nón xanh rậm kia đã biến chàng thành người xa lạ. Hơn nữa, cách trang phục của Chính Lan đã trở thành truyền thuyết nên chẳng ai ngờ rằng hán tử áo gấm này lại là Hồng Nhất Điểm thư sinh.
Chính Lan vào quán, chọn một bàn dưới mái tây hiên. Chàng quan sát thực khách, thầm tức cười khi thấy ngay cả nơi hoang vu này cũng có người ái mộ mình. Quả thực là có đến ba chàng kiếm sĩ trẻ tuổi đang ngồi một mình một bàn, phong thái ung dung, nhàn nhã, áo vải, mũ học trò đen, có cả tráp gỗ nhỏ. Cả ba đều trang nghiêm, trầm mặc, nhìn về phía cuối trời tây, thỉnh thoảng lại mỉm cười bí ẩn.
Chính Lan bất giác sinh lòng thương hại cho họ. Lịch sử Trung Hoa có biết bao nhiêu anh tài, nghĩa sĩ. Võ lâm cũng chẳng thiếu những bậc hào kiệt lẫy lừng, suốt đời bôn ba vì chính khí. Sao họ không bắt chước nhân cách mà lại bám víu lấy hình thức bên ngoài của một ngôi sao mới tỏa sáng. Chàng tự nhủ từ nay sẽ ăn mặc tùy tiện, vải hay lụa cũng được, có như vậy mới thức tỉnh được lòng say mê mù quáng của lớp đàn em.
Chính Lan ăn xong, nâng chén nhâm nhi, ngắm nhìn ráng chiều rơi trên đỉnh ba ngàn ngọn núi trước mặt.
Ngũ Linh Nguyên là thắng cảnh hùng vĩ nhất Hồ Nam và cả Trung Hoa. Nó có những vẻ đẹp riêng biệt mà Hoàng sơn hay Võ Di sơn không có. Vùng núi này rộng đến hơn ngàn dặm vuông, gần ba ngàn ngọn núi nhọn, hình thù đa dạng, mọc thẳng đứng. Giữa các ngọn núi là những suối nước chảy vòng quanh, trong mát hữu tình. Ngũ Linh Nguyên còn có nhiều thác và khoảng bốn mươi hai động. Đặc biệt nhất là hai cây cầu đá do tạo hóa làm nên, hình dáng cong đều rất đẹp.
Rừng rậm bao phủ gần hết diện tích vùng danh sơn này. Kỳ hoa dị thảo, thú quí sinh sôi nảy nở rất nhiều nhờ khí hậu ôn hòa, mùa hạ thì mát và đông thì ấm áp.
Chính Lan cũng từng được nghe Hoàng Hạc Tú Sĩ kể rằng Sơn Tây là chốn ẩn cư lý tưởng của rất nhiều kỳ nhân, dị sĩ. Đa số bọn họ là người theo đạo Lão Trang nên tìm đến nơi non xanh nước biếc, tĩnh lặng trong lành này mà tu tiên.
Khi hoàng hôn lịm tắt, Chính Lan rời tửu quán, tìm khách điếm nghỉ ngơi.
Cơn mưa thu lúc đầu canh hai càng khiến chàng yên tâm lên đường đến Chữ gia trang. Trời tối đen như mực và ướt át, lạnh lùng. Chính Lan nhờ nhãn lực tinh tường nên vẫn lướt đi như gió thoảng.
Chữ gia trang le lói ánh đèn và thỉnh thoảng vọng ra tiếng chó sủa. Chàng biết họ canh phòng cẩn mật và đang chuẩn bị đón tiếp.
Mục đích của Chính Lan là trước tiên phải cứu cho được Hách Thiết Xuyên, nếu gã còn sống. Vì vậy, chàng không thể bại lộ hành tung quá sớm. Chàng lăn mình dưới bùn nhão để đánh lừa khứu giác bọn chó săn, rồi tiến vào.
Chung quanh Chữ gia trang là một cánh rừng dày độ hai mươi trượng.
Trời mưa lớn, gió to khua động cành lá nên che giấu cho sự di chuyển của Chính Lan. Chàng nhanh nhẹn và linh họat như loài chim đêm, lao từ cànhnày sang cành khác, băng qua dải rừng cây. Chàng đã phát hiện tiếng động của bọn mai phục phía dưới, nhưng chúng lại chẳng thể ngờ rằng đối phương đang đi trên đầu mình. Cơn mưa lạnh giá đã khiến chúng co mình trong lớp áo tơi, run lên bần bật nên chẳng còn tinh tường nữa.
Vào đến chân tường xây, Chính Lan nghỉ ngơi một lát cho lại sức rồi dùng Bích Hổ Công bò lên bức tường cao hai trượng. Chàng nhô đầu nhìn vào trong, thấy bên kia tường là một vườn hoa nhỏ. Xa xa chừng hơn hai chục trượng là toà đại sảnh chính của Chữ gia trang.
Giờ đây, dưới mái hiên trước treo sáu chiếc đèn lồng, rọi sáng khoảng sân rộng. Cách thềm sảnh tám trượng là một chiếc lồng gỗ lớn, loại lồng thường dùng để nhốt thú dữ. Chính Lan căng mắt quan sát, kinh hãi nhận ra trong lồng có một người đang ngồi dựa góc. Thân hình gầy gò kia rất giống Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên.
Chính Lan nhìn lại chung quanh, phát giác trong những dãy nhà gần đấy đều có người mai phục. Chàng thở dài, hiểu rằng Chữ Công Sinh đã đem Thiết Xuyên ra làm mồi, nhử chàng vào bẫy.
Chính Lan nhảy vào trong, len lỏi qua những bụi hoa, ra đến tận bìa vườn. Chàng phục sau một lùm cây, căng óc suy nghĩ, cố tìm ra cách cứu Thiết Xuyên.
Đầu canh ba, cơn mưa tạnh hẳn. Một gã áo đen mở cửa sảnh, xua bầy chó ra ngoài. Sáu con hổ ngao to lớn và dữ tợn này còn lợi hại hơn hai chục võ sĩ.
Thính giác và khứu giác của chúng rất tinh tường, phát hiện được ngay những ai muốn đến gần lồng gỗ.
Dường như đã được huấn luyện chu đáo nên chúng lẩn quẩn quanh chỗ nhốt tù nhân. Chính Lan đành bó tay nằm im một chỗ, bất động như một xác chết. Mười hai năm khổ luyện trên núi Đại Tuyết sơn đã đem lại cho chàng một định lực rất thâm hậu. Nếu không có bầy chó, chàng sẵn sàng chờ đợi cho bọn mai phục mệt mỏi, thiếp đi rồi sẽ ra tay. Nhưng chó thì rất tỉnh ngủ.
Bỗng hai con hổ ngao lớn nhất rời bầy đi về phía vườn hoa. Một ý niệm lóe lên như sét giữa trời đêm. Chính Lan nắm chặt chuôi kiếm rồi giả tiếng chuột rúc rích. Hai con vật hoan hỉ tiến đến gần Chính Lan. Mùi bùn đã không cho phép chúng nhận ra đống lù lù kia là một con người, tò mò đi vào sâu hơn. Không bỏ lỡ cơ hội, khi mục tiêu đã vừa tầm tay, Chính Lan vung kiếm chém bay đầu hai con vật tội nghiệp. Nhờ vậy, chúng chết rất êm ái, chẳng hề sủa lên một lời trách móc.
Chính Lan kéo xác hai con hổ ngao vào sâu hơn nữa và rút tiểu kiếm ra. Chàng chặt phăng tám chiếc đùi, mổ bụng và cố lột bộ da ra khỏi khung xương.
Ngày còn học nghệ ở Tứ Xuyên, chàng thường đi săn thú để lấy thịt ăn và lột da bán, nên thủ pháp thiện nghệ không thua gì bọn đồ tể chuyên nghiệp.
Sau một canh giờ, Chính Lan đã có được hai bộ da chó, đương nhiên còn dính đầy máu và mỡ bên trong. Dẫu sao chàng cũng hài lòng khi khoác bộ da ấy vào người. Dưới ánh sáng nhá nhem yếu ớt này, bọn cung thủ chắc chắn sẽ không phân biệt được, và có lẽ lũ chó kia cũng vậy.
Tuy không chắc chắn lắm nhưng Chính Lan vẫn phải liều. Vì bằng hữu, chàng có thể làm tất cả.
Chính Lan bỏ trường kiếm lại trong vườn hoa, chậm chạp bò ra ngoài, chàng thầm van vái bốn con hổ ngao kia sẽ không sủa quá sớm.
Cuối cùng thì Chính Lan cũng bò được đến gần lồng gỗ. Mùi máu nồng nặc khiến bọn hổ ngao kia thắc mắc, đến gần đánh hơi và bắt đầu liếm láp những vết máu. Chính Lan vội nằm phục sát đất, bế khí bất động, mặc cho lũ chó làm gì thì làm.
Lát sau, bốn con vật chê mùi bùn nên trở về chỗ nằm. Chính Lan mừng như sống lại, thò tay qua khe lồng thăm mạch Thiết Xuyên. Mạch đập rất yếu nhưng họ Hách vẫn còn sống. Chính Lan điểm liền ba huyệt đạo, đề phòng Thiết Xuyên gây ra tiếng động không cần thiết, rồi rút tiểu kiếm cắt song gỗ.
Với bảy thành Thái Chân khí công và thanh kiếm nhỏ sắc bén tuyệt luân. Từng thanh gỗ đứt ngọt như đậu hũ. Chính Lan cắt ngay chỗ Thiết Xuyên đang dựa nên gã ngã ngửa ra ngoài lồng. Tất nhiên chàng đã chờ sẵn.
Trong giây lát, chàng đã chụp bộ da chó thứ hai vào người Thiết Xuyên. Xong xuôi, Chính Lan đặt gã nằm sấp xuống, rồi dùng tả thủ nâng ngực gã lên, mặc cho tay chân buông thỏng như tư thế đang bò.
Với hai chân và một tay còn lại, Chính Lan di chuyển về phía vườn hoa. Bọn hổ ngao kia dường như đã phát hiện quái sự nên bám theo ngửi mãi. Nhưng may thay chúng không sủa mà chỉ lo liếm máu của bộ da trên người Thiết Xuyên.
Chính bốn con chó tò mò kia đã che chắn cho bọn Chính Lan. Đám mai phục nhìn ra cũng chỉ tưởng là cả bầy chó đang kéo nhau đi. Còn may hơn nữa là khi đến gần vườn hoa thì lũ chó chán không theo nữa. Chính Lan thở phào, lột nhanh hai bộ da hôi hám ra khỏi cơ thể mình và Thiết Xuyên rồi lấy dây cột chặt gã vào lưng mình.
Với sức nặng của một người nữa chẳng thể nào ra bằng cách chuyền trên cây. Chàng đánh liều sử dụng đọan đường rải sỏi trắng rộng rãi kia.
Giờ đã gần cuối canh tư, chàng tin rằng bọn mai phục đều ngủ say. Hơn nữa, khinh công của chàng đã đạt đến mức đạp tuyết vô ngấn, chúng khó mà phát hiện được. Dẫu chúng có biết thì trong màn đêm tối tăm này cũng khó mà tập kích trúng mục tiêu. Khoảng cách hai mươi trượng đối với Chính Lan chỉ là vài bước nhảy.
Xuân rồi, gặp nhau ở Chu gia trang, Thiết Xuyên đã nói rõ là con đường này không hề có cạm bẫy. Tuy nhiên, Chính Lan vẫn thận trọng, vận hết nhãn lực quan sát. Chàng lướt đi êm ái còn hơn cánh dơi đêm, vài trượng lại phục xuống nghe ngóng.
Có lẽ do cơn mưa thu lạnh lẽo lúc tối đã ru chúng vào giấc ngủ, hoặc do chúng quá ỷ y vào đàn hổ ngao, nên Chính Lan thoát ra an toàn.
Cuối đường có chạm canh, chính là tòa tiểu đình bằng gỗ ở bên tả. Gã võ sĩ áo đen vẫn còn thức, ngồi trên ghế dựa, quay mặt ra ngoài. Gã chỉ chú ý đến kẻ ở bên ngoài vào nên không ngờ tử thần lại từ trong ra.
Chính Lan âm thầm lướt đến, xạ một đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào huyệt Não Hộ sau đầu gã. Tên hắc y rùng mình chết không kịp ngáp. Chính Lan đã kịp ập vào, đỡ lấy thân hình mềm nhũn kia, không cho rơi xuống đất.
Chàng ghé vào bìa rừng lấy tay nải rồi nhắm hướng đông lướt nhanh. Đến sáng thì chàng rời xa Chữ gia trang được năm chục dặm.
Lúc trưa, Chính Lan đã để ý đến một căn nông xá nằm lẻ loi giữa ruộng kê bên đường. Giờ đây, chàng chạy thẳng đến đây để xem tình trạng của Thiết Xuyên.
Chủ nhân của căn nhà tranh này là một lão già tuổi lục tuần chất phác. Lão đang nấu nước sau bếp, thấy có người đẩy cổng, vội chạy ra xem.
Mặt mũi, y phục của Chính Lan và Thiết Xuyên dính đầy máu chó và bùn đất nên trông rất kinh khiếp. Lão nông phu hồn phi phách tán, run lên cầm cập. Chính Lan chỉ mũi kiếm vào ngựa lão rồi nghiêm giọng:
- Ta có người bạn bị thương, cần nghỉ ngơi và chăm sóc. Lão mà mở miệng là hét thì đừng trách bổn sơn vương độc ác.
Lão ta nghe chàng tự xưng là cường đạo, vội gật đầu lia lịa, chắt tay vái dài:
- Đại vương yên tâm, tiểu nhân chẳng dám trái lệnh.
Thói đời thường như vậy, chẳng có gì là lạ cả. Nếu chàng nói năng mềm mỏng, không chừng lão còn chất vấn này kia và tỏ vẻ không vui. Nhưng bản năng cầu sinh sẽ khiến lão rất ngoan ngoãn phục vụ.
Quả thực vậy, Chính Lan vừa đặt Thiết Xuyên xuống chóng tre thì lão ta đã bưng nước nóng và khăn sạch lên.
Chính Lan cởi hết y phục nạn nhân, dùng khăn nhúng nước lau thật kỹ. Phải đến ba thau mới gọi là sạch sẽ.
Chàng thăm mạch và quan sát trước sau, nhận ra Thiết Xuyên bị cao thủ nào đó dùng chưởng lực âm nhu đả thương. Dấu ấn chưởng ấn chỉ hơi mờ mờ, chứng tỏ công lực của hung thủ rất cao cường. May thay, chàng cũng luyện âm công. Lão Trang chủ trương “nhu thắng cương, nhược thắng cường” nên tâm pháp nội công Thái Âm chân khí chính là bậc thượng thừa của mọi loại âm công.
Chính Lan nghiêm giọng bảo lão già:
- Giờ ta sẽ trị thương cho bằng hữu, lão hãy xuống bếp nấu cháo và không được quấy rầy. Xong việc, bổn sơn vương sẽ thưởng cho ít bạc. Còn như lão bỏ trốn hoặc tri hô thì ta sẽ đốt sạch chiếc chòi này, và kéo lâu là đến hỏi tội.
Lão nông phu bị tia mắt sáng quắc, đầy sát khí của chàng uy hiếp, vội vái dài rồi bước ra.
Chính Lan cho Thiết Xuyên uống năm viên linh đan, dồn chân khí vào người gã để đả thông kinh mạch. Ba khắc sau, mạch vượng lên, chân khí bắt đầu tích tụ lại ở đan điền Thiết Xuyên.
Gã đã thoát chết nhưng phải tịnh dưỡng ít nhất là một tháng. Chính Lan xoa bóp thêm một hồi thì họ Hách tỉnh lại. Gã mở mắt, chăm chú nhìn gương mặt lem luốc của Chính Lan, mỉm cười:
- Ta biết thế nào công tử cũng đến cứu ta.
Câu nói tuy đơn giản nhưng ngập tràn tình bằng hữu. Gã nói thế vì Chính Lan lâm nạn thì giá nào gã cũng liều mình cứu cho được.
Chính Lan mỉm cười xiết chặt tay gã:
- Hách huynh cứ nghỉ ngơi, tại hạ sẽ bưng cháo lên.
Nhưng lão già sợ chết kia đã mau mắn xuất hiện, trên tay là một tô cháo nóng bốc hơi nghi ngút và thơm phức. Lão cười nịnh:
- Bẩm đại vương, tiểu lão đã làm thịt con gà mái tơ để nấu cháo, ăn vào sẽ khoẻ ngay.
Chính Lan gật gù:
- Tối lắm! Lão hãy đút cho bệnh nhân ăn, còn ta phải đi tắm rửa cái đã.
Tất nhiên lão rất vui vẻ, phụng ý thi hành. Chính Lan nháy mắt với Thiết Xuyên rồi ra sau giếng tắm gội, thay y phục.
Lúc chàng trở vào thì Thiết Xuyên đã ăn xong. Lão nông phu ngơ ngác nhìn gương mặt hiền lành, nhân hậu của Chính Lan, không hiểu có phải là gã cường đạo lúc nãy hay không?
Chính Lan vận công cho mắt sáng quắc lên rồi cười nhạt:
- Lão già rồi mà không biết câu “tri nhân tri diện bất tri tâm” hay sao? Bổn sơn vương chính là phật diện xà tâm, giết người không gớm máu đây.
Thế là lão lại ngoan ngoãn và sợ hãi như trước. Chính Lan mỉm cười:
- Danh tính của lão là gì?
- Bẩm đại vương! Tiểu lão là Trần Cửu, con cái chẳng có, vợ thì mới chết được hai năm.
Chính Lan mở tay nải, trao cho lão năm nén bạc:
- Lão hãy cầm lấy năm chục lượng bạc này mà làm vốn dưỡng già. Tối nay bọn ta sẽ rời khỏi đây.
Số bạc này đối với người nghèo rất lớn, dẫu dành dụm cả đời cũng không được. Trần Cửu sụp xuống lạy như tế sao, mếu máo nói:
- Ơn đức của đại vương, tiểu lão xin tạc dạ.
Chính Lan phất tay áo, một luồng kình lực mềm mãi nâng Trần Cửu lên. Lão càng sợ hãi và càng tin chàng là đạo tặc.
Trời vừa tối, Chính Lan đã cõng Thiết Xuyên rời nhà Trần Cửu, bước như bay về hướng đông. Họ Hách còn rất yếu, không thể cưỡi ngựa được nên Chính Lan ngày nghỉ đêm đi, cõng gã đến tận Trường Sa. Chàng biết rằng chỉ có cách này mới thoát được sự truy lùng của Chữ gia trang và Đào Hoa cung.
Ở ngoài cửa tây thành Trường Sa có một tòa trang viện rộng lớn nhưng lặng lẽ, im lìm. Trước cổng không treo bảng nên chẳng ai biết đây là cơ ngơi của một tay đạo tặc đã có thời lừng lẫy suốt bảy trăm dặm Trường giang.
Nê Long Hàn Đình Tân năm nay đã sáu mươi ba, bỏ nghề thủy tặc, cáo lão qui điền được hai năm. Lão từng được Chính Lan cứu mạng nên rất vui mửng đón tiếp ân nhân.
Chính Lan ở lại hai ngày, giao Thiết Xuyên cho Nê Long chăm sóc rồi đi ngay Nam Kinh.
Chính Lan đến nơi đúng trước hôm cúng thất tuần của Hồng Diện Tài Thần.
Quí gia trang giờ đây tràn ngập bằng hữu võ lâm. Có người mới đến, có người mới quay lại và cũng có người ở đây từ ngày đưa ma Quí Thừa Khải.
Những người nhiệt huyết đã họp lại thành một lực lượng, truy lùng khắp thành Nam Kinh và vùng phụ cận để truy tìm hung thủ. Bọn trộm cướp địa phương đều bị tra hỏi gắt gao, nhưng chẳng hề có manh mối gì.
Cơ ngơi của họ Quí rộng đến hàng chục mẫu, phòng ốc nhiều vô số. Vì vậy, khách khứa được bố trí trong những căn tiểu viện biệt lập và tiện nghi. Gã gia đinh đưa Chính Lan vào thẳng nơi ở của bọn Tây Môn Nhỉ.
Hỏa chân nhân cùng đám nữ lang đang nóng ruột lo lắng cho Chính Lan nên rất vui mừng khi thấy chàng xuất hiện. Kính Hồ Tiên Cơ dương đôi mắt u sầu nhìn phu tướng, giọt lệ hân hoan lén trào ra. Nhưng nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Chính Lan như ba nữ nhân kia. Thứ nhất, do bản tánh nàng đằm thắm và kín đáo, thứ hai, nàng mặc cảm vì quá khứ. Uyển Như yêu thương Chính Lan bằng cả trái tim thiếu phụ từng trải, ngượng ngùng dâng hiến mảnh đời đầy những vết hằn.
Chính Lan hiểu được điều ấy. Chàng hôn lên trán ba người kia rồi bước đến ôm Kính Hồ Tiên Cơ, thì thầm:
- Như muội!
Hai tiếng ấy tuy ngắn ngủi, giản đơn nhưng chứa đầy tình ý. Uyển Như sung sướng, ngước mặt lên nhìn chàng, gởi gấm lòng yêu thương qua ánh mắt.
Nàng cựa mình rời vòng tay chàng và nói:
- Để thiếp vào chuẩn bị bồn tắm cho tướng công.
Chu Thục Nghi bật cười khúc khích:
- Tiêu đại thư nói đúng, tướng công còn hôi hám hơn cả gã ăn mày.
Trại Tây Thi nheo mắt chọc ghẹo:
- Té ra Nghi muội đã từng ôm bọn khất cái nên mới biết điều ấy?
Cả bọn phá lên cười, Thục Nghi đỏ mặt, phát nhẹ vào lưng Du Mỹ Kỳ:
- Kỳ thư có cái miệng thật là ác độc.
Bốn mỹ nhân vui vẻ kéo Chính Lan vào phòng tắm.
Hơn khắc sau Chính Lan mới rời được đám thê thiếp, đi lên khách sảnh.
Hỏa chân nhân liền giới thiệu chàng với các chưởng môn. Chính Lan kính cẩn ra mắt và lặng lẽ quan sát từng người.
Phương trượng Thiếu Lâm Tự, Quảng Tâm thiền sư pháp tướng trang nghiêm, râu bạc năm chùm. Chưởng môn phái Võ Đang, Thuần Thanh chân nhân mình hạc xương mai, dung mạo hiền lành. Chưởng môn phái Hoa Sơn, Khánh Hư chân nhân mặt tròn, râu đen, nhãn thần linh lợi. Chưởng môn Nga Mi phái, Đạo Huệ sư thái mặt lạnh như tiền, tuy đã bảy mươi mà da dẻ mịn màng, còn phảng phất nét đẹp thuở thanh xuân. Bang chủ Cái bang, Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn là nhân vật khá bí hiểm, đầu họ Lô lớn gấp rưỡi người thường, đôi mắt không nhỏ nhưng lại thường khép hờ như buồn ngủ, vì vậy lão có nhìn ai thì người ấy cũng chẳng thể biết được.
Hy Văn Cư Sĩ Lăng Thiên Cát tướng mạo phương phi, tuấn tú, trán cao, mắt sáng. Chính Lan đã nghe nhắc đến con người thông minh xuất chúng, kiến văn rộng rãi này. Họ Lăng có tài thu phục nhân tâm, quen biết hầu hết các nhân sĩ võ lâm.Sáu người này đều ở tuổi thất tuần, thân phận rất cao cả.
Nhưng xét về vai vế, Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp ngang hàng với sư phụ của họ. Vì vậy, Chính Lan cũng bằng vai với họ.
Thuần Thanh chân nhân vui vẻ hỏi Chính Lan:
- Chẳng hay lệnh sư đã ẩn cư nơi đâu trong suốt ba chục năm qua?
Chính Lan kính cẩn đáp:
- Bẩm chân nhân, tiên sư đã chọn Tứ Xuyên làm nơi ẩn dật, mới mất được bốn năm.
Chàng không thể nói rõ vì sợ có kẻ sẽ vì thù hận mà mạo phạm đến di thể của Tú Sĩ. Khánh Hư chân nhân ngậm ngùi xen vào:
- Ngũ tiền bối thọ đến hơn trăm tuổi quả là hi hữu. Nay người đã mất, hy vọng công tử sẽ nối chí tú sĩ, tiêu diệt bọn ác ma, chống đỡ võ lâm.
Chính Lan ngượng ngùng cúi đầu nhận mệnh. Hy Văn Cư Sĩ nghiêm giọng:
- Nghe nói công tử còn là con của Nhu Diện Phán Quan Âu Dương Tùng. Dám hỏi lệnh tôn đã ngộ hại thế nào mà công tử lại nghi cho Đào Hoa cung chủ?
Chính Lan là người kín đáo, thận trọng nên chỉ đáp khéo:
- Tại hạ về đến Côn Minh thì song thân được hàng xóm mai táng đã nửa tháng, nên không rõ nội tình. Chỉ đoán rằng hung thủ phải có võ công rất cao cường.
Cư sĩ gật gù, mỉm cười hỏi tiếp:
- Thú thực với công tử, lão phu được võ lâm tôn xưng là người vạn bác, nhưng có một điều vẫn thầm hổ thẹn, đó là công phu Nhất Điểm Hồng của lệnh sư. Chẳng hay đó là loại ám khí gì vậy? Mong công tử chỉ giáo cho, nếu không, lão phu chết vẫn còn thắc mắc.
Gương mặt lão rất thành khẩn, chứng tỏ chỉ vì ham hiểu biết nên hỏi thế thôi. Chính Lan thản nhiên đáp ngay:
- Chư vị đều là bậc trưởng bối võ lâm, tại hạ không dám giấu. Nhưng xin hãy giữ kín giùm cho. Thủ pháp Nhất Điểm Hồng phóng ra những mũi kim bằng hổ phách, vào trong cơ thể sẽ tan biến mất.
Chính Lan bắt buộc phải nói dối vì đây là bí mật sống còn. Thực ra chàng có thể từ chối trả lời, nhưng chàng lại muốn nhân cơ hội này tung hỏa mù, nên mới nói thế. Hy Văn Cư Sĩ mừng rỡ vỗ đùi:
- Có thể mà lão phu nghĩ mãi không ra.
Các chưởng môn đều gật gù thán phục, chỉ trừ Đại Đầu Cái. Chính Lan biết lão không tin, lòng thầm khâm phục con người dị tướng kia.
Rượu thịt được dọn lên và công tử Quí Thành Lâm xuất hiện. Nghe Hỏa chân nhân giới thiệu chàng thư sinh gầy gò kia là Hồng Nhất Điểm, gã vòng tay chào và nói:
- Âu Dương huynh hiện nay là thần tượng của hàng vạn hào kiệt trẻ tuổi, chỉ một lời hô hào cũng có thể khiến họ xả thân tương trợ. Mong Âu Dương huynh ra tay giúp cho.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Tại hạ dẫu bất tài nhưng cũng xin tận lực, còn nói về nhân số thì chẳng lực lượng nào sánh nổi với Cái bang. Tại hạ đến trễ nên không rõ tình hình, mong Quí đại huynh chỉ giáo?
Quí Thành Lâm buồn rầu đáp:
- Gia phụ bị một chiêu kiếm rất quái dị đâm trúng năm huyệt Chu Vinh, Thực Đậu, Bộ Lang, Linh Khư, Ngọc Đường.
Chính Lan kinh hãi nhận ra chỉ còn thiếu hai huyệt Hoa Cái, Quan Môn là tử trạng của Quí tài thần sẽ giống hệt phụ thân chàng. Chính Lan cố trấn tĩnh hỏi tiếp:
- Thế chư vị đã tìm ra lai lịch của chiêu kiếm ấy chưa?
Chàng vừa nói vừa nhìn vào mặt của Hy Văn Cư Sĩ. Lão ngượng ngùng biện bạch:
- Lão phu bất tài không nhìn ra. Nhưng may mà Lô bang chủ đã cho biết đấy là Diêm La kiếm pháp của Diêm La Tẩu, thất truyền đã lâu. Nhưng mấy chục năm nay chẳng thấy cao thủ nào sử dụng cả nên lão phu cũng không dám đồng ý với họ Lôi.
Bang chủ Cái bang vẫn ngồi yên nhấp chén, không hề biện bác. Hỏa chân nhân trầm giọng:
- Nhưng nếu đúng là Diêm La Tam Thức thì hung thủ phải có đủ bốn mươi năm công lực mới thi triển nổi.
Chính Lan tư lự:
- Trước đây, tiên sư đã từng kể về một nhân vật hắc đạo có tên là Thiên Diện đại phu Hà Đăng Long. Lão ta luyện được một loại kỳ dược từ tủy người, có diệu dụng làm tăng tiến công lực rất thần tốc. Nếu mỗi năm uống một viên thì chỉ sau mười năm đã có bốn chục năm công lực. Ba mươi năm trước, Hà Đăng Long giết hại mấy chục lương dân để lấy tủy, bị tiên sư phát hiện và tiêu diệt. Nhưng nghe nói Thiên Diện đại phu vẫn còn một nam tử là Hà Lăng năm nay cũng đã hơn bảy mươi. Có thể hậu duệ họ Hà đã tìm được bí kíp của Diêm La Tẩu, phối hợp với phép luyện Tứ Bội thần đan để đào tạo ra một cao thủ trẻ tuổi.
Hy Văn Cư Sĩ cười mát:
- Lão phu cho rằng công tử chỉ võ đoán thôi. Nếu quả Thiên Diện đại phu có hậu duệ thì sao người ấy không xuất hiện đòi công tử trả món nợ của Hoàng Hạc Tú Sĩ?
Mọi người đều tán thành, lập luận của lão. Chính Lan điềm nhiên hỏi tiếp:
- Quí huynh! Sau hơn tháng điều tra, đã có manh mối gì chưa?
Quí Thành Lâm chán nản đáp:
- Mấy trăm người lùng sục, tìm kiếm mà chẳng được gì. Nhân vật khả nghi nhất lại là Dương Châu công tử Phó Duy Khang, một kẻ võ nghệ kém cỏi, chẳng thể nào là hung thủ được. Gã đến Nam Kinh từ trước ngày xảy ra huyết án, tiêu xài rộng rãi, nổi tiếng khắp chốn yên hoa.
Chính Lan suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Xin Quí đại huynh cho tại hạ được gặp người đã tiếp cận với Phó Duy Khang.
Thành Lâm gật đầu, bảo ả thị tỳ:
- Tiểu Thục, ngươi vào trong mời Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lên đây.
Lát sau, một hán tử tứ tuần vóc dáng trung bình ra đến. Dung mạo gã rất tầm thường, chẳng có gì đặc biệt, nhưng con người này đã từng là tổng bộ đầu phủ Giang Tây, phát rất nhiều vụ án bí hiểm. Hai năm trước, Trịnh Thiều bất mãn thượng cấp, từ quan về phục vụ Hồng Diện Tài Thần. Gã là cháu vợ của Quí Thừa Khải.
Quí Thành Lâm giới thiệu:
- Trịnh biểu đệ! Âu Dương công tử đây có vài điều muốn hỏi ngươi.
Trịnh Thiều gật đầu, vòng tay chào rồi lặng lẽ dương mắt nhìn Chính Lan chờ đợi. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Mong Trịnh huynh cho biết bọn kỹ nữ bình phẩm thế nào về bản lãnh phòng the của Dương Châu công tử?
Trịnh Thiều hơi bất ngờ, mỉm cười đáp:
- Bọn gái lầu xanh đều hết lời ca ngợi Phó Duy Khang là khuê trang đệ nhất dũng sĩ.
Chính Lan gật đầu bảo:
- Các hạ mau điều động nhân thủ tìm cho ra Dương Châu công tử, vây chặt lại và cho người về báo tin.
Quí Thành Lâm sửng sốt:
- Chẳng lẽ lại là gã này!
Chính Lan cười mát:
- Chắc chư vị cũng biết tại hạ đã dung nạp vợ của họ Phó là Kính Hồ Tiên Cơ. Nàng cho biết Duy Khang tuy háo sắc nhưng nguyên dương lại rất kém. Nay y đột nhiên sung mãn như vậy là chuyện khác thường. Hơn nữa, Phó tuần phủ là người nghiêm khắc, keo kiệt, chẳng bao giờ cho Duy Khang đến mấy ngàn lượng vàng để ăn chơi. Tại hạ cho rằng hắn đã được uống kỳ dược nên mới đến Nam Kinh hưởng lạc. Lúc hết tiền gã bèn dở trò đạo tặc. Vì không chuyên nghiệp nên gã đã mò đến Quí gia trang, một nơi không nên đến.
Giang Tây Thần Bộ phấn khởi tán thành:
- Công tử nói rất đúng, chỉ có kẻ mới vào nghề mới giết Hồng Diện Tài Thần để cướp hơn ngàn lượng vàng mà thôi. Hiện nay gã đang có mặt trong Lưu Hương viện, chẳng cần phải tìm kiếm.
Khánh Hư chân nhân thắc mắc:
- Nhưng làm sao chỉ trong vòng vài tháng họ Phó đã có được bốn mươi năm chân khí?
Chính Lan cười nhạt:
- Có thể lão họ Hà kia đã nhẫn tâm cho Duy Khang uống Tứ Bội thần đan một cách bá đạo. Kết quả cũng vậy nhưng sau này Dương Châu công tử sẽ chết rất thảm vì dược lực.
Hỏa chân nhân tính nóng như lửa, đứng lên nói:
- Đúng hay sai cứ giáp mặt Phó Duy Khang là rõ, chúng ta đi thôi.
Chỉ hai khắc sau, toà thanh lâu Lưu Hương viện đã bị vây chặt. Tuy nhiên, mọi người đều ẩn kín, chỉ để một mình Chính Lan ra mặt. Chàng xuống ngựa, bảo gã gia nô gác cửa:
- Các hạ vào trong nói với Dương Châu công tử là có Âu Dương công tử đến tìm.
Nửa khắc sau, Phó Duy Khang ra đến. Cạnh gã là bốn ả kỹ nữ xinh đẹp, lẳng lơ. Họ Phó cau mày hỏi:
- Bổn công tử chưa tìm đến các hạ là may lắm rồi, sao lại còn dám đến đây?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ nghe một lão nhân bảo rằng các hạ đang muốn đòi lại Kính Hồ Tiên Cơ nên đến đây xem thử.
Duy Khang không biết chàng đang dọ hỏi nên sửng sốt đáp:
- Té ra ngươi đã gặp Hà sư phụ?
Chính Lan mừng thầm, hiểu mình đã đoán không sai. Chàng vui vẻ xác nhận:
- Đúng vậy! Hà lão trượng cho biết hiện nay các hạ đã ngộ kỳ duyên, trở thành vô địch và đang tìm tại hạ để so tài. Nếu quả đúng là bản lãnh các hạ cao cường hơn, tại hạ sẽ trả lại Kính Hồ Tiên Cơ.
Nay Chính Lan đã dẫn xác đến tận cửa, Duy Khang chẳng thể chối từ việc rửa hận. Gã cười nhạt bảo:
- Ngươi đừng vội đắc ý, kẻ sĩ không gặp ba ngày đã khác xưa. Hôm nay, bổn công tử sẽ dạy cho ngươi biết thế nào là kiếm thuật.
Gã rút kiếm bước ra đứng đối diện với Chính Lan. Tự biết những chiêu thức thông thường chẳng thể hạ được Hồng Nhất Điểm, Duy Khang dùng ngay chiêu thứ nhất trong Diêm La Tam Thức. Gã dồn toàn lực vào thân kiếm, dở Quỉ Ảnh Thần Bộ lướt đến. Thân ảnh gã chập chờn, như chia làm nhiều bóng khiến Chính Lan không thể biết đâu là hư thực. Chàng đành bảo nguyên thủ nhất, dồn chân khí vào tiểu kiếm chờ đợi.
Cuối cùng, từ trong đám quỉ ảnh kia, Phó Duy Khang ập đến như cơn bão, kiếm chiêu cực kỳ mãnh liệt và quỉ dị.
Đầu gối Chính Lan chẳng hề cử động mà thân hình chàng vẫn bốc thẳng lên không trung như chiếc pháo thăng thiên, và từ trên độ cao hai trượng ấy, chàng bủa lưới kiếm xuống đầu đối thủ. Tuyệt kỹ Nhất Hạc Xung Thiên của Hoàng Hạc Tú Sĩ đã lừng danh mấy chục năm nay. Tuy chỉ là một thế thức khinh công nhưng lại vô cùng diệu dụng, giúp Chính Lan có thể thoát những chiêu thức quá mãnh liệt, và từ trên cao phản kích lại với thế thượng phong. Dương Châu công tử thấy đối phương đột nhiên bay mất như bóng chim, kinh hãi xuất luôn chiêu Diêm La Nhị Thức để đỡ đòn.
Tiếng thép chạm nhau chan chát và Phó Duy Khang văng ngược ra sau hơn trượng, ngực áo của gã bị đâm thủng ba lỗ nhưng không chạm da thịt. Có điều gương mặt anh tuấn kia đã bị kiếm khí rạch một đường trên gò má trái. Duy Khang vuốt máu, tiếc cho dung nhan, giận dữ gầm lên:
- Chính Lan! Ta thề sẽ không tha cho mi.
Gã dồn đủ mười hai thành công lực xuất chiêu Diêm La Tam Thức. Lần này Chính Lan không hề né tránh. Chàng quắc đôi huệ nhãn nhìn thẳng vào màn kiếm quang lạnh lẽo của đối phương và xuất chiêu Thu Vũ Tiêu Tiêu.(6)Kiếm khí từ mũi trủy thủ điểm như mưa vào lưới kiếm dày đặc kia, chặn đứng kiếm lại, và len qua chỗ sơ hở, xạ vào vai phải họ Phó.
Gân vai đứt lìa, Dương Châu công tử rú lên đau đớn, buông rơi vũ khí, nhìn Chính Lan với cặp mắt căm hận và khiếp sợ. Chính Lan nghiêm giọng:
- Duy Khang! Nếu ngươi thành thực trả lời, ta hứa sẽ không giết?
Gã chẳng còn chút dũng khí nào cả, thiểu não nói:
- Ngươi cứ hỏi!
Chính Lan gằn giọng:
- Phải chăng lão nhân họ Hà kia đã cho ngươi uống một loại linh đan rất thần diệu, và dạy ba chiêu Diêm La kiếm pháp?
Chàng nói quá chính xác nên Duy Khang không dám giấu:
- Đúng thế! Lão Hà Đăng Long ấy tự động đến tìm tại hạ, đề nghị chữa bệnh và dạy võ. Lão bảo rằng có mối thù với lệnh sư Hoàng Hạc Tú Sĩ.
Chính Lan gật đầu, quay sang bảo bọn kỹ nữ, gia nô:
- Các ngươi muốn sống thì mau vào cả bên trong, đóng chặt cửa lại.
Bọn chúng sợ hãi, không dám ở lại nghe ngóng nữa. Bây giờ Chính Lan mới hỏi tiếp:
- Có phải chính ngươi đã đánh cướp ba nhà đại phú ở ngoại thành, cách đây hơn tháng hay không?
Dương Châu công tử nhìn quanh không thấy ai, gật đầu thú nhận:
- Chính tại hạ!
Gã vừa nói xong thì có tiếng người quát vang, mấy chục bóng người nhảy qua tường vào vây chặt. Một hán từ vừa khóc vừa chỉ mặt Phó Duy Khang mà mắng:
- Tiểu súc sinh! Quí Thành Lâm ta sẽ lấy đầu ngươi về tế mộ tiên phụ.
Duy Khang kinh hãi nhìn Chính Lan. Chàng lạnh lùng nói:
- Ta hứa sẽ không giết, nhưng ngươi phải đền mạng cho Hồng Diện Tài Thần. Hãy tự lo lấy.
Chính Lan quay lưng bỏ đi. Duy Khang bị vây chặt, tay phải lại bị phế nên không cách nào trốn thoát nỗi căm hờn của Quí Thành Lâm. Chưa đầy nửa khắc gã đã bị đâm chết. Thành Lâm cắt lấy thủ cấp đem về.

Hồi 6

Gian nhân mang nhãn anh hùng khấp
Tự bất đa tình, hựu đắc tình

Trưa hôm sau, Quí gia trang khai đàn cúng bốn mươi chín ngày cho Hồng Diện Tài Thần. Đích thân Quảng Tâm thiền sư và thập bát la hán sẽ tụng kinh cầu siêu.
Trên bàn vong, ngoài trái cây còn có chiếc đầu của Dương Châu công tử Phó Duy Khang.
Chiều xuống thì cuộc tế lễ viên mãn. Quí Thành Lâm cho bày đại yến chiêu đãi quan khách nhất là mấy trăm cao thủ đã khổ công truy lùng hung thủ.
Thành Lâm cao giọng:
- Tại hạ xin mượn chén rượu nhạt để tỏ lòng tri ân chư vị đã hết lòng vì tiên phụ. Nay Âu Dương công tử đã tìm ra hung thủ, giúp tại hạ trả được mối phụ thù, chư vị có thể yên tâm hồi gia, Quí mỗ và toàn gia tộc chẳng bao giờ dám quên ân nghĩa này.
Mọi người hào hứng cạn chén và hết lời khen ngợi Hồng Nhất Điểm.
Quảng Tâm thiền sư hoan hỉ hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại đoán ra Phó Duy Khang là hung thủ?
Mọi người cũng thắc mắc như vậy nên im lặng lắng nghe. Chính Lan ngượng ngùng đáp:
- Thực ra tại hạ cũng chỉ gặp may thôi. Năm kia tại hạ đi ngang một cánh rừng trên đất Thiểm Tây, tình cờ phát hiện mười mấy xác chết. Họ đều bị kiếm hạ sát và xương sống bị chẻ làm đôi. Từ đó, tại hạ suy ra con của Thiên Diện đại phu đang điều chế Tứ Bội thần đan. Tiên sư đã qua đời, vì vậy họ Hà sẽ nhằm vào tại hạ mà đòi nợ. Nhưng lão ta lại ngán sợ công phu Nhất Điểm Hồng, tất sẽ tìm người thế mạng. Người này phải có mối thù với tại hạ thì mới chịu hợp tác với lão ta, lại thêm việc Diêm La kiếm pháp đòi hỏi đến bốn mươi năm công lực, khiến tại hạ càng thêm nghi ngờ. Nay Dương Châu công tử xuất hiện ở Nam Kinh, đột nhiên trở nên khoẻ mạnh, vung tay xài đến mấy ngàn lượng vàng, khiến tại hạ chú ý đến.
Đại Đầu Cái mỉm cười gật gù như khen ngợi. Hy Văn Cư Sĩ thì dơ ngón cái tán thưởng:
- Cơ trí của công tử quả là siêu việt.
Bỗng Chính Lan nghe tiếng truyền âm vo ve bên tai:
- Lão phu là Lô Chính Ngôn có vài lời cảnh báo, không hiểu thiếu hiệp có chịu nghe chăng?
Chính Lan vội đáp:
- Tại hạ xin rửa tai lĩnh giáo, mời bang chủ cứ nói.
- Thiên Diện đại phu là người cực kỳ ác độc và gian xảo. Lão luôn luôn tìm cách hành hạ kẻ thù, đưa họ vào cảnh tan nhà, nát cửa, sống dở, chết dở rồi mới chịu xuống tay kết liễu. Nam tử của lão là Hà Đăng Long, tuy không lộ diện nhưng mười năm nay lại âm thầm chỉ huy một tổ chức hắc đạo rất thần bí, có tên là Phú Quí hội. Hầu hết các vụ cướp bóc lớn đều do bang hội này thực hiện. Cổ nhân có câu hổ phụ sanh hổ tử, lão phu e rằng Hà Lăng cũng tàn nhẫn chẳng kém gì Thiên Diện đại phu. Vì vậy, thiếu hiệp phải hết sức thận trọng khi đối phó với lão, chỉ sơ hở là ôm hận suốt đời.
Chính Lan lo lắng nói:
- Bang chủ là bậc đại trí, xin chỉ giáo lương sách cự địch.
Đại Đầu Cái thở dài:
- Trước mắt, thiếu hiệp cứ tiết lộ thân phận Phú Quí hội chủ của Hà Lăng, rồi công khai khiêu chiến với lão. Đó là cách trói tay, ngăn những thủ đoạn hạ lưu của Hà Lăng. Nhưng dẫu sao cũng phải hết sức cảnh giác vì chưa chắc lão ta đã chịu tuân theo qui củ giang hồ.
Chính Lan hiểu ý, hắng giọng rồi đứng lên vòng tay nói lớn:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Nhân dịp này tại hạ cũng xin tiết lộ một bí mật kinh người.
Quần hào phấn khởi lắng nghe, Chính Lan cao giọng:
- Mấy năm nay, có một tổ chức khủng bố tên là Phú Quí hội âm thầm hiện hữu. Họ thực hiện những vụ giết người, cướp của rất tàn nhẫn và êm thắm. Hà Lăng, nam tử của Thiên Diện Đại Phu, chính là Hội Chủ của Phú Quí hội!
Mọi người ồ lên kinh ngạc. Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều ứng tiếng:
- Âu Dương công tử nói không sai, ngày còn ở nha môn, tại hạ đã từng điều tra những vụ án do Phú Quí hội gây ra! Thủ đoạn của họ vô cùng ác độc và chẳng hề để lại manh mối nào!
Chính Lan nói tiếp:
- Vì chính nghĩa võ lâm, không thể để Phú Quí hội hoành hành, tại hạ chính thức khiêu chiến với Phú Quí hội chủ Hà Lăng tại chân núi Thiếu Thất, vào sáng ngày rằm tháng hai sang năm. Mong chư vị đồng đạo loan báo tin này ra khắp bốn phương.
Quần hào hoan hỉ hứa sẽ truyền bá lời khiêu chiến, trên đường họ trở về cố quận. Đạo Huệ sư thái chưởng môn phái Nga Mi mỉm cười hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại biết được lai lịch của Phú Quí hội chủ?
Mặt bà lúc nào cũng nghiêm lạnh nhưng nụ cười lại rất hiền lành và giọng nói dịu dàng. Chính Lan gượng cười đáp cho qua:
- Tại hạ dốc sức điều tra tung tích kẻ gia thù, nào ngờ vô tình khám phá ra bí mật của Phú Quí hội.
Hy Văn Cư Sĩ dơ ngón cái khen ngợi:
- Xem ra cái danh vạn bác của lão phu phải nhường cho công tử mất rồi.
Lúc tiệc sắp tàn, Quí Thành Lâm trao tặng cho quan khách mỗi người một gói bạc để làm lộ phí. Chẳng ai từ chối vì sợ làm buồn lòng họ Quí.
Chính Lan về đến phòng, đưa món quà ấy cho Chu Thục Nghi cất giữ. Nàng mở ra xem, ồ lên cảm động. Mọi người xúm lại xem thì thấy năm món nữ trang bằng vàng cẩn minh châu và mười tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng. Thục Nghi cầm phong thư đưa cho Chính Lan:
- Tướng công, Quí công tử có thư cho chàng.
Chính Lan mở ra đọc.
“Âu Dương huynh nhã giám!
Đại ân của huynh đài sánh tựa non cao, gia mẫu đã lệnh cho tại hạ dâng số vàng này để tỏ chút lòng thành. Cuộc chiến với Phú Quí hội sẽ vô cùng khó khăn, đòi hỏi nhiều nhân lực và tài lực. Xét ra, Hà Lăng chính là kẻ chủ hung trong cái chết của tiên phụ. Huynh đài mà giết được lão thì hương hồn tiên phụ mới ngậm hờn. Từ nay, Quí gia trang xin tận lực sát cánh với huynh đài.
Thành Lâm bái bút.”
Hỏa chân nhân nghiêm giọng:
- Quí hiền điệt nói không sai đâu, Lan nhi bất tất phải áy náy.
Tây Môn Tử Quỳnh lo lắng hỏi:
- Tướng công! Trong thư, Quí công tử có nhắc đến Phú Quí hội, chẳng hay sự việc thế nào?
Chính Lan bèn kể lại việc mình được Đại Đầu Cái tiết lộ lai lịch kẻ đại cừu. Hà Lăng là hội chủ Phú Quí hội và cũng là người đã giết song thân chàng. Đối phương rất giỏi nghề hóa trang và thủ đoạn vô cùng tàn ác, nên chàng lo ngại cho thân quyến. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình thở dài:
- Tiểu muội học nghề cải sửa dung mạo của Cửu Hoa Bà Bà, từng được nghe kể về bản lãnh dịch dung của Thiên Diện đại phu. Quả thực lão ta có thể biến ra bất cứ người nào để ám hại đối thủ của mình. Phương pháp phòng bị tốt nhất là đặt những mật khẩu để nhận biết nhau, kể cả phu thê, huynh đệ cũng phải đề phòng, không được xao lãng.
Trại Tây Thi góp ý:
- Về mật khẩu, thiếp đề nghị dùng phép cộng tròn số. Ví dụ chúng ta chọn số chín thì một người sẽ nói trước, và người kia nói số thứ hai sao cho đủ chín.
Cả bọn đều tán thành, quyết định sẽ chọn số chín. Sau vài ngày sẽ lấy số khác. Thấy bầu không khí nặng nề, u ám, Chính Lan mỉm cười trấn an:
- Dẫu thuật dịch dung có cao siêu cách mấy cũng phải tìm cho được người có vóc dáng tương đồng với mục tiêu. Chúng ta quá thân thiết với nhau, thuộc lòng phong thái, cử chỉ, lẽ nào lại không phát hiện ra, các nàng cứ yên tâm, đừng quá ưu tư như thế.
Tố Bình vui vẻ xác nhận:
- Tỷ phu nói đúng, việc hóa trang đòi hỏi nhiều điều kiện chứ không phải chỉ ở vẻ mặt? Có những người không thể làm giả được, ví dụ như gia phụ, Hán Trung Tam Nhốc chẳng hạn.
Thục Nghi phì cười:
- Phải rồi! Đầu của ba gã ngốc kia láng bóng, đến chân tóc còn không có, làm sao giả cho giống được?
Tố Bình nói thêm:
- Gia sư từng bảo muốn nhận biết giả chân thì nên chú ý đến hàm răng. Đó là chỗ không thể sửa được, và chẳng ai giống ai.
Kính Hồ Tiên Cơ ngây thơ hỏi:
- Chẳng lẽ gặp ai cũng bắt họ nhe răng ra hay sao?
Cả nhà ôm bụng cười, nỗi lo sợ tan biến cả.
Họ quây quần đến cuối canh hai mới đi nghỉ. Chính Lan giữ lễ với tang gia nên sang nghỉ với Hỏa chân nhân. Chàng xa thê thiếp đã lâu nên rất nhớ, nhưng trong khung cảnh tang tóc này, chẳng thể vui ái ân được. Như vậy, năm mỹ nhân chia nhau ba phòng trong tiểu xá này. Tố Bình riêng một phòng, Tử Quỳnh, Uyển Như phòng thứ hai, Mỹ Kỳ, Thục Nghi phòng thứ ba. Chính Lan trằn trọc, suy nghĩ mãi đến cuối canh ba mới thiếp đi.
Mờ sáng, chàng bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng than khóc thất thanh của đám nữ nhân ở tòa tiểu xá bên cạnh. Chính Lan kinh hãi khoác vội áo, chạy như bay ra cửa, lao về phía hướng ấy. Tiếng gầm giận dữ bi thương của Hỏa chân nhân báo hiệu điềm chẳng lành.
Vào đến nơi, thấy cả năm mỹ nhân vẫn còn sống, nhưng đang ôm nhau khóc vùi. Chàng hốt hoảng hỏi:
- Việc gì đã xảy ra vậy?
Nghe tiếng chàng, đám mỹ nhân buông nhau ra, đưa tay quờ quạng bước đi, khóc gọi:
- Tướng công! Tướng công đâu rồi?
Chính Lan chết lặng, nhận ra họ đều đã mất thị giác. Nhưng không phải tất cả, Tố Bình đã chạy đến nắm tay chàng nức nở:
- Tỷ phu ơi, họ đều bị mù cả rồi.
Cảm giác đau đớn và căm hận xâm chiếm tâm hồn chàng. Chính Lan hiểu ngay rằng Phú Quí hội chủ Hà Lăng đã có mặt ở đây và ra tay ám hại đám thê thiếp của mình. Chàng cố nén lòng, bước đến dắt bốn mỹ nhân ngồi xuống giường rồi vỗ về:
- Các nàng yên tâm, để ta xem thử đối phương đã thi thố thủ đoạn gì?
Hỏa chân nhân run giọng:
- Lão phu đã kiểm tra rồi, đây là thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Hung thủ đã xông mê hương rồi dùng kim cắm vào ba huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suất Cốc trên đầu để phong tỏa nhãn mạch. Sau nửa năm, nếu không tìm ra cách chữa trị, họ sẽ mù suốt đời. Ngươi hãy xem lá thư này sẽ rõ.
Chân nhân đưa cho Chính Lan một tờ hoa tiên.
“Âu Dương tiểu tử. Lão phu rất thích có được một đối thủ lợi hại như ngươi. Kể từ nay, mỗi bước chân của ngươi đều có thể sa vào cạm bẫy. Việc làm mù mắt bốn mỹ nhân chỉ là động tác khởi đầu. Lão phu sẽ giết từng người một để ngươi phát điên mà chết.”
Thư không thủ danh nhưng cũng đủ hiểu ai là tác giả. Chính Lan hít một hơi chân khí, cố trấn tĩnh nói với các nàng:
- Ta vẫn thường bảo các nàng rằng lần này có kẻ đại cừu rất lợi hại, nay sự thực đã chứng minh điều ấy. Lão Hà Lăng kia muốn ta phải chết vì đau khổ nên mới ra tay ám hại thê thiếp. Thủ pháp Kim Châm Bế Mạch thực ra vẫn còn có người giải được, xin bốn nàng hãy bình tâm để ta lo liệu.
Giọng chàng vô cùng tha thiết và bi thương nên đã trấn an được các nạn nhân. Kính Hồ Tiên Cơ dịu dàng nói:
- Chỉ cần tướng công tỉnh táo để đối phó với kẻ thù, sống sót mà sum họp cùng nhau, dẫu phải mù lòa bọn thiếp cũng cam tâm.
Lời nàng đã nhắc nhở cho ba nữ lang kia hiểu rằng sự tình còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu Chính Lan chết đi. Sự tuyệt vọng của họ sẽ khiến chàng chìm đắm trong đau khổ và dễ dàng bị cừu nhân tiêu diệt.
Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ là người cương cường hơn cả. Nàng gạt lệ nói:
- Đúng vậy! Bọn ta là giang hồ nhi nữ chứ nào phải tiểu thư khuê các? Sao lại khóc lóc, bi ai để trúng kế đối phương?
Hai nàng kia cũng gượng cười. Thục Nghi cố nói thêm:
- Tướng công! Thiếp cũng đồng ý với họ, nhưng chỉ sợ không được thấy mặt con thơ.
Chính Lan mừng rỡ hôn lên trán nàng:
- Té ra nương tử đã có hỉ tín rồi ư?
Thục Nghi bẽn lẽn gật đầu.
Lúc này các chưởng môn và Quí công tử đã xuống đến. Họ hỏi han cớ sự và hết lời nguyền rủa Hà lão tặc. Quí Thành Lâm đau đớn nói:
- Vì chuyện của Quí gia trang mà huynh đài mang họa, Lâm tôi vô cùng hổ thẹn.
Chính Lan định nói cho gã biết Hà Lăng cũng là kẻ đại cừu của mình, nhưng lại sợ đối phương đoán ra việc Nhu Diện Phán Quan dùng công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp giả chết, bí mật này là một lợi thế của Chính Lan.
Cha chàng bị bất ngờ nên thọ thương rồi mới bế mạch. Nếu ông đoán trước được nguy cơ, thi triển thần công sớm hơn thì chẳng thể nào chết nổi. Lúc ấy, huyệt đạo toàn thân đóng kín, dời đổi vị trí, dẫu trúng kiếm thương cũng không đến nỗi trừ khi bị đâm vào tim hay óc.
Hy Văn Cư Sĩ buồn rầu hỏi:
- Nay Hà Lăng đã tàn độc như vậy, công tử tính sao?
Chính Lan điềm đạm đáp:
- Tại hạ chưa có chủ ý gì, trước mắt phải lo việc chữa trị cho chuyết thê.
Quảng Tâm thiền sư nghiêm trang nói:
- Thủ đoạn ám hại đàn bà con trẻ thế này thực là đáng giận, chẳng phải là hành vi của người võ lâm. Nếu thí chủ thấy cần, lão nạp sẽ phát võ lâm thiếp, huy động cả giang hồ tiêu diệt bọn Phú Quí hội.
Chính Lan kính cẩn từ chối:
- Cảm tạ thịnh tình của thiền sư, nhưng tại hạ cho rằng chưa đến lúc. Khi nào Phú Quí hội ra tay khuynh đảo võ lâm sẽ tính sau.
Các chưởng môn nói lời chia buồn rồi cáo từ. Chính Lan đã tranh thủ truyền âm với Đại Đầu Cái:
- Mong bang chủ mau chóng đưa tin đến Trường An, Tô Châu, Từ Châu báo cho ba vị nhạc phụ của tại hạ biết tình hình. Tốt nhất là bảo họ tìm nơi lánh nạn ngay.
Lô Chính Ngôn an ủi:
- Lão phu đảm bảo sẽ dấu họ vào chỗ an toàn.
Khách ra cả, Quí Thành Lâm mới hỏi:
- Vì sao công tử không tra xét hung thủ?
Chính Lan lắc đầu:
- Vô ích thôi, Hà Lăng đích thân ra tay thì không bao giờ để lại dấu vết.
Họ Quí suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Nay tứ vị phu nhân đều đã mất thị giác, trở thành người cần được bảo vệ. Tại hạ e rằng Phú Quí hội sẽ cho người phục kích chư vị trở về Nam Dương. Lúc ấy, vướng tay vướng chân làm sao đối phó được? Hay là chư vị cứ ở lại đây và tìm danh y điều trị?
Hỏa chân nhân cười nhạt:
- Chắc chắn đối phương cũng nghĩ như vậy. Bọn ta ở lại sẽ là mục tiêu cho Phú Quí hội thi thố thủ đoạn. Vì vậy, ngay đêm nay sẽ phải âm thầm rời Quí gia trang. Sau khi an trí xong bốn con bé tội nghiệp này, lão phu và Chính Lan sẽ có kế hoạch tấn công.
Quí Thành Lâm đề nghị:
- Trước lúc gia phụ qua đời, tại hạ có mua ba trăm mẫu rừng ở cửa tây thành nằm cạnh bờ sông, trong ấy có tòa biệt viện rất xinh đẹp, tiện nghi, trừ tại hạ và gia mẫu ra, không ai biết đấy là tài sản của Quí gia trang. Hay là chư vị đến đấy mà ẩn mặt?
Chính Lan hỏi sơ địa thế, đường ra vào rồi chấp thuận:
- Tại hạ xin tuân mệnh.
Quí Thành Lâm mỉm cười:
- Tại hạ xin tặng cơ ngơi ấy cho công tử.
Chính Lan chưa kịp từ chối thì gã đã bỏ đi.
Ngay đêm hôm ấy, Chính Lan cõng Uyển Như trên lưng, tay bồng Thục Nghi. Tây Môn Nhỉ và Tố Bình thì ẵm Mỹ Kỳ và Tử Quỳnh. Họ âm thầm rời Quí gia trang đi về nơi ở mới.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều và bốn tỳ nữ thân tín đã chờ sẵn. Sáng ra, một cỗ xe tứ mã, mui kín do Hỏa chân nhân cầm cương và Chính Lan hộ tống chậm rãi rời thành Nam Kinh.
Lúc đi ngang cửa bắc, có một hán tử đang đứng dựa gốc cây nhìn theo cỗ xe, mỉm cười bí ẩn rồi rảo bước.
Ra khỏi thành, Tây Môn Nhỉ vung roi quất cho bốn con ngựa phi nước đại. Đoạn đường quan đạo này rộng rãi và bằng phẳng, nhưng chỉ được hai chục dặm đã hẹp lại và ghồ ghề. Hai bên đường là gò đống ngổn ngang và bụi rậm cao hơn đầu người.
Vừa nghe tiếng dây cung bật, Chân Nhân và Chính Lan đã rải ngay bốn trái Đảo Thiên thần đạn. Hỏa khí nổ vang trời, khói bụi mù mịt, che phủ nhãn tuyến bọn phục binh. Cỗ xe tiếp tục lao như tên bắn, vượt qua đoạn mai phục. Trường tiễn bắn đuổi theo như mưa, cắm chi chít vào thùng xe.
Toán hắc y không dám đuổi theo ngay vì e dè thần đạn. Bốn trái lúc nãy đã sát hại hơn hai chục cung thủ.
Cỗ xe tứ mã chạy thêm vài dặm, rẽ vào đường mòn bên hữu và không thấy trở ra. Khi toán hắc y đến nơi thì cỗ xe trống không, ngựa bị tháo khỏi càng xe. Dấu vó ngựa tỏa ra nhiều hướng khiến chúng phân vân chẳng biết đuổi theo phương nào.
Ít ngày sau, cả giang hồ xôn xao về việc Phú Quí hội chủ Hà Lăng dở trò đê tiện ám hãi võ lâm tứ đại mỹ nhân sa cảnh mù loà. Lão còn đặt phục binh chặn đường, nhưng may mà bọn Chính Lan đã thoát được.
* * *
Gần cuối tháng mười một, trời trở rét đậm, tuyết rơi dày và gió đông thổi mạnh. Dẫu đang buổi trưa mà không gian u ám như chiều tối, vậy mà trên đường quan đạo có một người kỵ sĩ vẫn dong ruổi. Phải nhìn kỹ mới thấy vì gã mặc áo lông và mũ màu trắng, hòa lẫn trong màn mưa tuyết.
Hán tử ngước mặt nhìn rặng Cửu Hoa sơn ở phía trước, ước lượng còn xa đến sáu chục dặm, nên dừng cương trước tửu quán ven đường.
Gã cột ngựa vào thanh gỗ trước sân, phủi tuyết rồi vén màn da bước vào trong. Tiểu nhị ân cần mời mọc khách lạ. Hán tử gọi mâm rượu thịt, ngồi xuống ghế và lột nón lông ra.
Lúc này chúng ta mới có thể nhìn rõ gương mặt xương xương phủ kín bởi bộ râu rậm. Tuy vậy, trông gã không có vẻ dữ tợn vì cặp mắt sâu kia phảng phất nỗi buồn mênh mang. Chỉ có người mang tâm sự nặng nề như Chính Lan mới có ánh mắt đấy. Chàng không hề sợ hãi kẻ thù nhưng lại đau lòng cho bốn người vợ trẻ tội nghiệp. Họ đang sống trong tăm tối, chờ đợi chàng tìm được danh y.
Chính Lan kiêm trình không nghỉ, cố đến núi Cửu Hoa sơn thật sớm để tìm Cửu Hoa Bà Bà sư phụ của Tây Môn Tố Bình. Bà là người duy nhất giải phá được thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Chàng phải gặp bà bà trước khi đám sát thủ Phú Quí hội thủ tiêu bà.
Chính Lan ăn nhiều nhưng uống rất ít. Chàng phải đề dành khí lực đối phó với mọi bất trắc. Xong bữa, chàng gọi tiểu nhị tính tiền và định lên đường. Nhưng bất ngờ ngoài sân vang lên tiếng ai rất quen thuộc:
- Chủ quán đâu, mau mở rộng cửa cung nginh ngọc giá Xà Nữ Vương.
Giọng nói của tam ngốc Hồ Phùng Tường thì chẳng lẫn vào đâu được.
Chính Lan ngồi lại để xem sự thể. Tiếng mãnh hổ gầm vang khiến thực khách run bần bật. Tất nhiên chẳng gã tiêu nhị nào dám ra đón khách.
Và rồi bức màn da ngựa che gió tuyết bị lợi đao cắt đứt, rơi xuống đất. Một cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một toán gồm bảy người, ba nam bốn nữ. Nam là ba gã đầu trọc trơn bóng không một cọng tóc, thân khoác chéo tấm da báo, lưng cài đơn đao trông rất dữ tợn còn bốn nữ thì một cưỡi bạch hổ, ba cưỡi ngựa, mặc Miêu phục, tóc buông xõa.
Tuy trông oai phong, kỳ dị như thế nhưng giờ đây họ đang run lên vì lạnh. Da báo chỉ che được lưng, ngực và hạ thể, còn chân tay trỏ cả ra dưới ngọn gió đông. Miêu phục mỏng manh lại càng chẳng thể giữ ấm cơ thể. Vì vậy, cả bọn kéo tất vào quán, xúm lại chậu than hồng mà sưởi ấm. Lúc này Chính Lan mới nhận ra trên cổ Hán Trung Tam Ngốc Hiệp có quấn một con kim xà chỉ nhỏ bằng ngón tay út. Chàng từng ở Vân Nam nên biết kim xà này cực độc. Có lẽ ba gã ngốc kia đã bị Xà Nữ Vương khống chế bằng cách ấy.
Nhị ngốc Hồ Giả hùng hổ đập bàn quát tháo:
- Các ngươi có mau dọn ra một mâm thượng hạng hay là muốn làm mồi cho bạch hổ?
Tất nhiên chủ quán và tiểu nhị mau mắn bưng rượu thịt lên.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường kính cẩn mời Miêu nữ trẻ đẹp vào bàn trước. Nàng quay lại nên Chính Lan mới biết vòng dây vàng chói quấn quanh đầu cũng là một con rắn, nhưng da nó óng ánh như hoàng kim và có màu đỏ rực trên cái đầu hình tam giác.
Bạch hổ đang nằm chắn ngang cửa cũng gầm lên đòi ăn. Đại ngốc Hồ Đạo Tịnh vội bảo chủ quán lấy cho nó mười cân thịt sống.
Tấm da chắn cửa đã không còn nên gió lồng lộng đưa tuyết vào trong quán. Thực khách lạnh run lên nhưng chẳng dám than phiền.
Xà Nữ Vương cũng thấy lạnh, nàng buông đũa giận dữ nói:
- Ba ngươi đã được phong chức Điện Tiền tướng quân thế mà không kiếm nổi cho bổn nữ vương và ba tỳ nữ tấm áo choàng lông, thật là đáng trách.
Nhị ngốc nhăn nhó đáp:
- Mong nữ vương lượng thứ cho, bọn hạ thần cũng đâu ấm áp gì. Nhưng muốn mua áo lông thì phải có ngân lượng, nay chúng ta chẳng có xu nào, chẳng lẽ đi ăn cướp?
Xà Nữ Vương trợn mắt quát:
- Ta không cần biết, bọn ngươi làm sao có thì thôil Lạnh thế này làm sao đến được Hoàng Cúc lâu?
Chính Lan giật mình, không hiểu tam ngốc đưa đám Miêu nữ này đến đấy làm gì?
Nhị ngốc Hồ Giả nhìn quanh, thấy chỉ mình áo lông của Chính Lan là tốt nhất, gã mừng rỡ đứng lên, chỉ mặt chàng quát:
- Tên râu rậm kia, muốn sống thì mau dâng áo lông cừu cho nữ vương.
Chính Lan mỉm cười:
- Bảy người mà chỉ có một tấm áo e không đủ. Để tại hạ tặng chư vị bảy chiếc áo choàng lông.
Chàng móc ra nén vàng mười lượng, bảo chủ quán:
- Lão cho người đi mua ngay bảy chiếc áo lông tốt nhất, còn dư ta thưởng luôn.
Lão mừng rỡ mở cửa sau, lên lưng con ngựa già, chạy như bay đến trấn gần đấy. Xà Nữ Vương thấy vậy cảm kích bước sang ngồi đối diện chàng:
- Từ ngày rời Miêu Lĩnh, bổn nữ vương mới thấy có một người tốt bụng như các hạ. Hay là các hạ theo hầu ta và nhận chức thừa tướng?
Chính Lan không đáp mà hỏi lại:
- Vì sao nữ vương lại phải rời quê hương, lặn lội ngàn dặm đến Hoàng Cúc lâu?
Miêu nữ buồn rầu đáp:
- Ta nhận di mệnh của tiên sư là Kim Xà phu nhân đi tìm đồ đệ của Hoàng Hạc sư bá. Ân sư bảo rằng ta và chàng có mối lương duyên thiên định. Khi vượt Hoàng hà, tình cờ gặp ba gã ngốc này, được biết họ là em của chàng nên bắt dẫn đi. Họ xấu xí, ngu ngốc như vậy chắc Âu Dương Chính Lan cũng chẳng ra gì. Thực lòng ta chẳng muốn lấy chàng ta chút nào cả.
Chính Lan sửng sốt nhớ lại lời tâm sự của ân sư. Thời trai trẻ, ông từng lưu lạc đến Quảng Tây và kết nghĩa huynh muội với một nữ cao thủ Miêu tộc. Không ngờ giờ đây lại nảy sinh mối lương duyên lạ lùng này giữa chàng và Miêu nữ.
Chính Lan đang mang nặng mối ưu tư về bệnh tình của thê thiếp nên chẳng muốn đa mang thêm. Chàng nghiêm giọng:
- Nữ vương nhận xét không sai, gã Chính Lan kia cũng xấu xí, khờ khạo như ba gã này. Và giờ đây, gã đang bị cường địch truy sát nên bỏ Hoàng Cúc lâu trốn mất rồi. Tại hạ sẽ tặng lộ phí để cô nương trở về cố quận.
Vừa lúc lão chủ quán về đến, đem theo bảy chiếc áo choàng lông thượng hạng. Tam ngốc và bốn Miêu nữ mau mắn mặc vào, nhìn Chính Lan với cặp mắt biết ơn. Chàng mở tay nải lấy ra mười đỉnh vàng hai chục lượng, trao cho Xà Nữ Vương:
- Số vàng này đủ để cô nương trở lại Quảng Tây.
Ánh hoàng kim lấp lánh khiến mắt ba gã ngốc sáng lên. Nhị ngốc bước đến hỏi ngay:
- Nữ vương làm thế nào mà gã này lại dâng nạp nhiều vàng như vậy?
Miêu nữ hân hoan nói:
- Y bảo Chính Lan là một thằng ngốc giống như các ngươi, và hiện đã bị cường địch truy đuổi chạy khỏi Hoàng Cúc lâu. Vì vậy, y tặng lộ phí cho ta trở về Miêu Lĩnh.
Ba gã này tôn kính Chính Lan như thần nhân nên không chịu được lời xúc phạm. Đại ngốc gầm lên:
- Tên khốn kiếp kia. Ngươi dám đặt điều bôi nhọ đại ca của bọn ta phải không? Hồng Nhất Điểm oai trấn võ lâm, tài trí song toàn cả giang hồ đều biết.
Trong đám thực khách cũng có vài hào kiệt trẻ. Họ lập tức lên tiếng tán thành:
- Đúng vậy, Âu Dương công tử là thiên hạ đệ nhất kỳ nam tử, chẳng ai không biết.
Xà Nữ Vương ngơ ngác hỏi Chính Lan:
- Cả những người kia cũng tán dương Chính Lan, sao các hạ lại nói khác đi?
Chính Lan mỉm cười:
- Cô nương thử hỏi họ xem có phải Chính Lan đã bị Phú Quí hội chủ hãm hại cho đến tan nhà, nát cửa hay không?
Một chàng trai trẻ vai mang kiếm bi phẫn nói ngay:
- Đúng vậy, nhưng lão Hà Lăng kia chỉ nhờ quỉ kế và thủ đoạn hạ lưu mà đắc chí, chứ đâu phải nhờ võ nghệ? Âu Dương công tử muốn tránh trò ám toán đê tiện nên mới tạm ẩn mặt, chờ đến kỳ phó ước ngày rằm tháng hai mới hạ sát lão ác ma.
Bỗng từ bên ngoài có tiếng cười ghê rợn vọng vào:
- Không ngờ Hồng Nhất Điểm lại được nhiều người ái mộ đến thế.
Mọi người biến sắc nhìn ra thì thấy một toán nhân mã, đông đến hai chục người, đang đứng xếp hàng trước tửu quán. Tam ngốc điên tiết bước ra quát hỏi:
- Bọn ngươi là chó phương nào mà dám đến đây sủa vậy?
Lão già râu đen đứng hàng đầu cười nhạt:
- Phú Quí hội đây gã ngốc ạ.
Bất ngờ Xà Nữ Vương rú lên lảnh lót. Bạch hổ đang nằm chồm dậy, phóng ngay vào đoàn người kia. Đồng thời, ba Miêu nữ hầu cận cũng mở túi vải xua đàn ong độc ra. Hán Trung Tam Ngốc không bỏ lỡ cơ hội rút đao tham chiến ngay. Phe đối phương tuy đông nhưng bị bầy ong đốt cho tối tăm mặt mũi nên hỗn loạn cả lên.
Chính Lan đoán rằng bọn này đến giết Cửu Hoa Bà Bà, nên lửa giận bừng bừng, quyết không để chúng tẩu thoát. Chàng rút kiếm nhảy qua cửa sổ, vòng ra phía sau, đánh vào lưng chúng. Thanh trường kiếm của Chính Lan hóa thành đạo hào quang lạnh lẽo chặt phăng chiếc thủ cấp và đâm thủng ngực bọn sát thủ. Chưa bao giờ sát khí lại xâm chiếm con người chàng đến thế.
Chính Lan tận dụng pho Hoàng Hạc Khinh Vân, di chuyển như ánh chớp, không để tên nào chạy thoát. Và từ tay tả chàng, những đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng bay ra xói thủng trán đối phương.
Ba gã ngốc kia đã nhận ra chàng, đồng thanh gọi vang:
- Đại ca!
Chúng phấn khởi múa tít loan đao giết liền ba tên sát thủ. Hơn khắc sau, chỉ còn lại lão già áo đen đứng vững, cố chống đỡ những chiêu kiếm mãnh liệt của Chính Lan. Chàng vừa đánh vừa nói:
- Nếu các hạ chịu qui phục, ta hứa sẽ hậu đãi.
Lão nhân nhảy lùi lại, ngửa cổ cười bi thiết:
- Tiếc rằng người của Phú Quí hội không hề biết sợ chết.
Dứt lời, lão trở kiếm đâm thủng ngực trái tự sát.
Hán Trung Tam Ngốc phục xuống tuyết nói:
- Đại ca, bọn tiểu đệ xui xẻo gặp đám Miêu nữ này nên không về kịp thời hạn.
Xà Nữ Vương cũng bước ra ngơ ngác hỏi:
- Vậy phải chăng các hạ là Âu Dương Chính Lan?
Chàng mỉm cười gật đầu. Miêu nữ mừng rỡ nắm tay chàng kể lể:
- Tướng công, thiếp là Liễu Thi Mạn, mừng được gặp chàn.! Ân sư đã di mệnh gả thiếp cho chàng đấy.
Lòng Chính Lan bối rối như tơ vò, chẳng biết nói sao. Ba gã ngốc lại không hiểu ý, bước đến chúc mừng:
- Đại ca quả là tốt phúc, lại lấy thêm được vợ đẹp.
Ba nữ tỳ người Miêu cũng cúi chào:
- Chúng nô tỳ bái kiến thiếu gia.
Đám hào kiệt trẻ trong quán chạy ra bái kiến. Một người đại diện nói:
- Bọn tiểu đệ ngưỡng mộ đại hiệp từ lâu, nay được diện kiến mới thỏa chí bình sinh.
Chính Lan hòa nhã nói:
- Cảm tạ chư vị đã có lòng sủng ái. Nay tại hạ phải đối phó với thủ đoạn đê tiện của Phú Quí hội nên thất thế. Những mong chư vị hỗ trợ bằng cách thủ tiêu đám tử thi và giữ kín chuyện hôm nay.
Chàng trai mập mạp vui vẻ nhận lời:
- Đại hiệp yên tâm, sẽ không một ai biết đại hiệp và bọn Phú Quí hội xuất hiện nơi này.
Chính Lan nói lời cảm tạ rồi hối thúc ba gã ngốc và các Miêu nữ lên đường. Dọc đường, chàng kể lại mối thù với Phú Quí hội cho tam ngốc nghe. Chúng giận dữ gầm lên, chửi mắng Hà Lăng không tiếc lời.
Hơn canh giờ sau, đoàn người đã đi được vài chục dặm. Chính Lan rẽ vào đường mòn xuyên qua rừng mé tả, đưa cả bọn đến một tòa trang viện nhỏ.
Nghe tiếng vó ngựa, một người áo trắng, râu đen, tuổi ngũ tuần chạy ra ngay. Chính Lan lột mũ lông cao giọng:
- Hai năm cách biệt, chẳng hiểu Trân huynh có còn nhận ra Chính Lan này không?
Lão nhân vui mừng khôn xiết, cười vang:
- Ta có thể quên cả tên mình nhưng đối với lão đệ thì chẳng bao giờ, xin mời vào.
Chính Lan lắc đầu:
- Tiểu đệ phải đi ngay Cửu Hoa sơn để tìm Cửu Hoa Bà Bà. Xin cho gởi những người này ở đây, xong việc, tiểu đệ sẽ quay lại.
Liễu Thi Mạn vội nói:
- Tướng công cho thiếp theo với.
Chính Lan nhăn mặt:
- Ta chỉ đi rước người chứ đâu đánh nhau mà nàng đòi theo.
Chàng quay ngựa đi ngay. Trân lão tủm tỉm cười:
- Tức muội yên tâm, trên đời chẳng có ai làm hại nổi Chính Lan đâu.
Đại ngốc ngập ngừng nói:
- Phải chăng các hạ là Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật?
Họ Trân gật gù:
- Chính là lão phu đây.
* * *
Âu Dương Chính Lan rạp mình trên lưng ngựa, phi nước đại trong làn tuyết về hướng núi Cửu Hoa. Chưa gặp mặt Cửu Hoa Bà Bà, chàng chẳng thể yên tâm được.
Chính Lan suy nghĩ đến nàng Miêu nữ ngây thơ Liễu Thi Mạn, lòng càng thêm bối rối. Dù nàng rất xinh đẹp nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào mà đón nhận mối lương duyên. Chính Lan quyết định phủ nhận và bảo nàng trở về Miêu Lĩnh.
Cuối giờ thân, Chính Lan mới đến chân rặng Cửu Hoa. Trong màn tuyết lất phất, chín ngọn núi diễm lệ như chín anh em đứng kề vai nhau. Vì vậy, núi này trước đây được gọi là Cửu Tử sơn hay Lãng Dương sơn. Có lẽ chính nhà thơ Lý Bạch đã đổi tên cho núi này. Ông đã ba lần đặt chân đến đây và từng đề thơ ca ngợi phong cảnh kỳ lạ:
“Tích tại Cửu Giang sơn
Dao vọng Cửu Hoa sơn
Thiên hà quái lục thượng
Tú xuất Cửu Phù Dung.”
Từ đó Lãng Dương Sơn được gọi là Cửu Hoa sơn. Oanh liệt thay lời thơ của bậc đại thi hào, đổi được cả tên của núi non. Cửu Hoa sơn là một trong tứ đại phật sơn của Trung Hoa. Từ thời Đông Hán, chùa chiền đã được xây dựng rất nhiều. Tổng cộng bảy mươi chín ngôi cổ tự, chia nhau hai mươi vạn bậc đá sơn đạo.
Nhưng hôm nay Chính Lan đến đây chẳng phải để viếng chùa chiền, chàng xuống ngựa, phi thân lên ngọn núi thấp nhất, tìm đạo am của Cửu Hoa Bà Bà. Chỉ vài trục trượng, Chính Lan đã lên khu rừng trúc trên sườn núi, bên trong thấp thoáng mái ngói rêu phong. Không nghe động tĩnh gì, Chính Lan yên dạ lướt vào, đứng trước cánh cửa gỗ khép kín, cao giọng:
- Vãn bối là Âu Dương Chính Lan, điệt tế của Hỏa chân nhân, xin bái kiến bà bà.
Cửa am mở rộng, một bà lão tóc đen, mặt phúc hậu, mặc đạo bào xanh xuất hiện. Bà ta tươi cười bảo:
- Té ra thí chủ là tỷ phu của con nha đầu Tố Bình đấy ư? Hãy vào đây!
Bà quay lưng đi vào. Chính Lan kính cẩn theo sau. Tình cờ chàng nhìn xuống đất, nhận ra gót giầy bà bà có màu đỏ tươi. Tố Bình từng kể rằng sư phụ nàng rất ghét màu đỏ. Chính Lan chợt nảy sinh cảm giác bất an, vội dồn chân khí ra song thủ, toàn thân căng lên, sẵn sàng đối phó.
Nhờ vậy, chàng thoát chết vì Cửu Hoa Bà Bà đã quay lại miệng mỉm cười nhưng song chưởng giáng mạnh vào ngực chàng. Khoảng cách quá gần, nếu không đề phòng trước, chẳng cách nào phản ứng kịp.
Nhưng Chính Lan đã cử song thủ đỡ đòn. Bốn bàn tay chạm nhau, chưởng kình nổ vang rền và đối phương văng ngược ra phía sau, máu miệng phun thành vòi, chết không kịp ngáp.
Biết đã rơi vào bẫy, Chính Lan lộn người bay ra khỏi cửa am, rời khỏi khu vực hiểm nghèo. Nhờ phản ứng thần tốc ấy, chàng vào được khu rừng trúc trước khi tiếng dây cung bật. Mấy trăm mũi trường tiễn bắn đuổi theo chạm vào hàng trúc trở lên vô dụng.
Toán phục binh gồm gần trăm kiếm thủ áo trắng rời chỗ ẩn nấp, bỏ cung tên, xông vào rừng trúc truy sát Chính Lan.
Giờ đây, chàng đã như hổ dữ vào rừng nên chẳng coi bọn kia ra gì. Chính Lan kéo mũ lông che kín đầu, nằm phục sát đất, ẩn trong lớp tuyết. Và bằng những đòn bất ngờ, chàng giết từng tên một. Gió bấc mạnh lên khiến không gian mù mịt, lại là lợi thế của Chính Lan. Nhãn lực của chàng tinh tường hơn nên thấy rõ đối phương khi chúng chưa nhận ra chàng. Chỉ hai khắc Chính Lan đã giết được bốn chục tên, máu hồng nhuộm đỏ mặt tuyết trong rừng.
Bỗng bọn sát thủ Phú Quí hội rút cả ra và có giọng khàn khàn vang lên:
- Chính Lan! Lão phu là Hà Lăng đây, ngươi có dám ra thử vài chiêu không?
Chính Lan còn thủ bốn trái Đảo Thiên thần đạn nên không sợ bị vây. Chàng quyết định đối diện với kẻ thù để kết liễu oan cừu, liền rời rừng trúc, bước ra khoảng sân trước cửa đạo am.
Toán bạch y đã biến mất, chỉ còn một lão nhân áo vàng. Dung mạo của lão xa lạ, chẳng hề giống bức hoạ mà Nhu Diện Phán Quan để lại. Chính Lan cười nhạt:
- Lão sợ không địch lại ta nên luôn bày mưu, tính kế ám hại, chứ chẳng dám chờ đến kỳ phó ước.
Hà Lăng mỉm cười âm hiểm:
- Lão phu suốt đời hành sự rất cẩn thận, chẳng kể gì đến đạo nghĩa hay qui củ võ lâm. Vì vậy, hôm nay lão phu sẽ chặt đứt mười ngón tay của ngươi trước, để xem ngươi còn dám đến phó ước nữa không?
Chính Lan lặng lẽ dồn chân khí vào thân kiếm, miệng cười nói:
- Khoan đã! Ta có điều muốn hỏi?
Chưa dứt lời, chàng đã nhảy xổ vào đối phương. Chính Lan đã áp dụng phương trâm dị độc trị độc để chiếm tiên cơ. Hà Lăng đã quá đê tiện, không trừ một thủ đoạn nào, thì chàng chẳng thể giữ mãi thái độ quân tử. Một người thợ săn rình rập, lén bắn ác thú thì cũng chẳng ai trách cả.
Chính Lan xuất chiêu Khai Liêm Kiến Nguyệt, kiếm quang rực rỡ tỏa rộng như ánh trăng rằm, bao trùm cả thân thể Hà Lăng.
Lão tặc bị bất ngờ nên rơi vào thế hạ phong, múa tít trường kiếm bảo vệ toàn thân. Kiếm kình cuồn cuộn quanh người, kín đáo và liền lạc như mặt nước. Rõ ràng công lực của lão hơn hẳn Chính Lan.
Nhưng chiêu vén rèm thấy trăng là tuyệt học của Hoàng Hạc Tú Sĩ, biến ảo vô song. Mũi kiếm điểm hàng trăm lần vào tấm rèm thép kia, vang lên những tiếng tinh tang nối tiếp nhau thành tiếng ngân dài. Và rồi xuyên qua sơ hở, đâm vào tâm thất Hà Lăng.
Vừa nghe lớp chân khí quanh người chấn động, lão ma vội nghiêng mình né tránh, nhờ vậy lão chỉ bị đâm thủng vai trái. Tuy nhiên, cùng lúc ấy, một đạo Huyến Tuyến Nhất Điểm Hồng từ tay Chính Lan đã xạ thẳng vào bụng dưới họ Hà.
Lão ta vẫn đề phòng tuyệt kỹ này, nhưng không ngờ lại bị tấn công vào bàng quang. Do động tác tránh kiếm, lão cũng đồng thời nhấc cao thân hình lên một chút. Vì thế mũi tên máu kia lệch mục tiêu xuyên qua dương vật và phá nát một bên ngọc hành.
Đấy là chỗ dễ gây cảm giác đau đớn nhất trong cơ thể, Hà Lăng rú lên thảm thiết. Tung mình rời đấu trường, miệng quát vang:
- Xạ tiễn!
Trận mưa tên từ bốn hướng bay vào cơ thể Chính Lan. Chàng múa tít trường kiếm che thân.
Bọn cao thủ nằm rải rác chứ không tập trung, nên có dùng đến Đảo Thiên thần đạn cũng chỉ giết được vài tên. Chính Lan tự lượng công lực mình không bằng đối thủ, nếu lão hồi phục lại thì càng khó thoát nạn. Do đó, Chính Lan móc thần đạn tung về phía Hà lão tặc, hỏa khí nổ vang trời nhưng lão ta đã kịp nhảy ra xa ba trượng, rời khỏi tầm sát thương.
Cú nhảy kia càng chứng tỏ bản lãnh kinh thế hãi tục của họ Hà. Chính Lan thở dài, nương theo kiếm quang lao vút xuống chân núi.
Tất nhiên, bọn Phú Quí hội cũng chẳng dám đuổi theo. Chính Lan phi ngựa chạy một mạch về chỗ cư trú của Trân Dật. Tuyết rơi dày sẽ lấp đầy dấu vó ngựa nên chàng không sợ bị truy tung.
Dù đả thương được kẻ thù nhưng lòng chàng lại nặng trĩu nỗi lo âu. Thứ nhất là bản lĩnh Hà Lăng cao siêu hơn chàng dự đoán. Thứ hai, chắc chắn Cửu Hoa Bà Bà đã ngộ hại, chẳng còn ai cứu được bốn người vợ bạc mệnh của chàng thoát cảnh mù lòa.
Chính Lan đến nơi đã là gần cuối giờ dậu. Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật đã bày sẵn tiệc rượu, và mọi người đang quây quần chờ đợi. Nghe tiếng vó ngựa, Liễu Thi Mạn chạy ra trước tiên. Nàng tíu tít hỏi:
- Tướng công có gặp được Cửu Hoa Bà Bà không? Sao vẻ mặt chàng buồn bã như vậy?
Dẫu đang tuyệt vọng, chàng cũng không nỡ gắt gỏng với người con gái sơn dã thuần phúc này. Đôi mắt to tròn, ngây thơ kia chan chứa mối quan hoài thành thực. Chính Lan lắc đầu dịu giọng:
- Không gặp. Nàng cứ vào trong rồi ta sẽ kể cho nghe.
Chính Lan xuống ngựa, bước vào ngồi phịch xuống ghế. Một Miêu nữ lập tức đem khăn sạch đến cho chàng lau mặt. Phát hiện trên áo lông cừu lấm tấm vết máu đen sẫm, Thi Mạn hốt hoảng:
- Phải chẳng tướng công đã chạm trán cường địch? Chàng có sao không?
Chính Lan uống liền ba chén cho ấm bụng rồi kể lại mọi sự. Cuối cùng chàng thở dài thườn thượt, quay sang bảo Liễu Thi Mạn:
- Liễu hiền muội, nay ta lâm vào cảnh hiểm nghèo, chết sống không lường trước được, chẳng thể làm hại lây đến hiền muội. Nàng hãy từ bỏ ý định làm vợ ta và trở về Miêu Lĩnh ngay đi. Trên đời còn biết bao chàng trai tuấn tú, anh hùng, nàng xinh đẹp như vậy, lẽ nào không có được một vị lang quân như ý? Hơn nữa, ta đã có đến bốn vị phu nhân, nàng theo ta chẳng phải là thiệt thòi hay sao?
Liễu Thi Mạn trợn tròn đôi mắt phượng nhìn Chính Lan, sa lệ nói:
- Năm năm trước, ngũ sư bá có đến Miêu Lĩnh thăm gia sư. Người khen tiểu muội xinh đẹp và xin gia sư gả cho đại ca. Ông còn trao lại một mảnh ngọc bội khắc tên Chính Lan để làm tín vật. Đại ca thử nhớ lại xem, lúc qua đời, sư bá đã nói gì?
Thi Mạn tháo sợi dây bạc trên cổ đưa cho Chính Lan. Chàng nhận ra đây là vật mình vẫn mang hồi nhỏ. Khi đã lớn, chàng không đeo nữa, nên dần dần quên mất. Hơn nữa, trước lúc toạ hóa, Tú Sĩ có nói:
- Ta còn một món quà bất ngờ tặng con, sau này sẽ biết.
Bây giờ chàng mới rõ ông đã âm thầm tìm cho chàng một người vợ rất xinh đẹp là Miêu nữ Liễu Thi Mạn.
Liễu cô nương còn giáng thêm một đòn tâm lý nữa. Nàng vui vẻ nói:
- Đại ca biết không, ngày ấy ngũ sư bá còn bảo rằng số đại ca khó có con trai, nên ông chọn tiểu muội vì có tướng sanh quí tửm
Chính Lan ngửa mặt than trời:
- Ta chẳng háo sắc sao cơ tạo cứ đẩy đưa làm kẻ đa mang? Cả đời luôn dính dáng đến tình duyên thì còn đâu khí phách, phong độ của bậc hiệp khách nữa? Sau này chết đi cũng chỉ mang tiếng đa tình mà thôi.
Trân Dật gật gù:
- Đúng vậy, sau này những người chép sử của võ lâm Trung Nguyên sẽ mỉm cười khi thấy quanh lão đệ có quá nhiều bóng hồng nhan.
Nhị ngốc Hồ Giả cười hì hì:
- Ai chê cười mặc kệ họ, bậc đại anh hùng cái thế như đại ca mà không có mỹ nhân bên cạnh, thì sao thành cố sự hay ho được?
Thi Mạn lo lắng hỏi:
- Đại ca nói như thế là có thu nạp tiểu muội hay không?
Chính Lan cười khổ:
- Cả bốn ái thê của ta đang lâm vào cảnh mù lòa, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Thi Mạn giật mình:
- Họ bị đâm mù mắt ư?
- Không. Lão Hà Lăng đã dùng thủ pháp Kim Châm Bế Mạch phong tỏa thị lực của họ, nhưng sau sáu tháng không giải được sẽ mù vĩnh viễn.
Thi Mạn nói liều:
- Phải chăng lão ta đã đâm vào huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suốt Cốc?
Chính Lan giật bắn mình, run giọng hỏi:
- Phải chăng hiền muội cũng biết cách giải phá thủ pháp này?
Thi Mạn mỉm cười tinh quái:
- Chẳng khó gì cả. Nhưng đại ca đã không thu nạp, tiểu muội đành phải về Quảng Tây thôi.
Tam ngốc cười hô hố:
- Đại ca không quì xuống khẩn cầu, còn chờ gì nữa.
Chính Lan nghiêm nghị hỏi Thi Mạn:
- Nàng định chờ ta van xin mới thỏa lòng hay sao?
Miêu nữ nhận ra ánh mắt chàng vừa bi thương, vừa kiên quyết sợ hãi đáp:
- Tiểu muội chỉ nói đùa thôi. Dẫu đại ca không dung nạp, tiểu muội cũng hết lòng cứu chữa cho bốn vị đại tẩu.
Chính Lan dịu giọng:
- Sai rồi, chẳng ai gọi chị em chung thuyền là đại tẩu bao giờ cả, phải gọi là đại thư.
Thi Mạn vui mừng khôn xiết, thỏ thẻ:
- Thiếp đã hiểu!
Trân Dật dơ ngón cái khen ngợi:
- Thủ đoạn của lão đệ quả là cao cường, bảo sao không có nhiều vợ đẹp.
Chính Lan ngượng ngùng biện bạch:
- Thực tâm thì tiểu đệ cũng không dám từ chối di mệnh của tiên sư. Chẳng qua nặng niềm riêng nên chẳng muốn Thi Mạn phải khổ lây đấy thôi.
Thi Mạn cười bảo:
- Hy vọng việc phục hồi thị lực sẽ khiến các đại thư không ghét bỏ thiếp.
Mọi người đều khen phải. Nỗi ưu tư đã biến mất, Chính Lan vui vẻ ăn uống, chuyện trò. Tan tiệc, chàng vào trong tắm rửa, thay áo. Thi Mạn thản nhiên hầu hạ chàng chẳng chút e thẹn. Nàng cầm thanh tiểu kiếm sắc bén, vui vẻ nói:
- Thiếp muốn được thấy rõ dung mạo của tướng công. Bộ râu này đáng ghét quá.
Chính Lan hiểu ý, ngồi xuống ghế cho nàng cạo mặt. Lát sau, dung mạo nhân hậu, dễ mến cố hữu đã hiện ra. Chàng nheo mắt hỏi:
- Nàng có thất vọng không?
Thi Mạn mỉm cười:
- Gia sư từng dạy rằng dáng vẻ con người không quan trọng ở xấu đẹp mà chỉ về thần khí. Tướng công tuy không anh tuấn nhưng thần thái tiêu sái, khí chất tôn qúi, thiếp rất mãn nguyện được nâng khăn sửa túi cho chàng.
Chính Lan kinh ngạc trước kiến thức của nàng sơn nữ. Chàng hiếu kỳ hỏi:
- Nàng tinh thông văn hóa Trung Nguyên cớ sao lại còn xưng là Xà Nữ Vương một cách nực cười như vậy?
Thi Mạn cười khúc khích:
- Thiếp thấy ba gã họ Hồ quá ngốc nghếch nên mới bầy trò cho vui thôi.
Chính Lan đẹp dạ khi thấy nàng vừa kiều diễm vừa thông tuệ, tinh minh như vậy. Chàng kéo nàng vào lòng, hôn lên đôi má mịn màng.
Tài sản của than_long_vn

  #3  
Old 01-05-2008, 03:14 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 7

Miêu nữ thi diệu kế
Lục phượng hoán nhất long

Đến giữa tháng chạp, cả võ lâm đều biết chuyện Phú Quí hội phục kích Hồng Nhất Điểm đại hiệp trên núi Cửu Hoa sơn, và Hà Lăng hội chủ đã bị Âu Dương Chính Lan biến thành hoạn quan. Khắp nơi đều bàn luận việc này và hết lời chê cười, chế diễu Hà lão tặc. Nhưng chẳng ai biết tin này do chính Cái bang loan ra để giáng một đòn tâm lý lên đầu Phú Quí hội. Và cũng chẳng ai hay một tổ chức thần bí tên Bố Y hội vừa ra đời.
Bang hội này gồm những tay giang hồ hồ áo vải đầy lòng nghĩa hiệp. Họ được trả lương rất hậu nên hoan hỉ tham gia. Họ không biết lai lịch hội chủ của mình, nhưng thông qua các cao thủ quen thuộc như Lôi Đao, Vô Nhân Kiếm Khách, Sơn Đông Tử Phòng, Thanh Long Trảo… cũng có thể đoán ra người ấy là Âu Dương Chính Lan.
Lôi Đao Hứa Hoa đi thăm mộ vong thê ở Bình Lang đã về kịp để tham gia Bố Y hội.
Nguyên tắc tổ chức của Bố Y hội cũng giống như Phú Quí hội, nghĩa là âm thầm hoạt động, thay hình đổi dạng liên tục, nhận biết nhau bằng ám hiệu. Chính nhờ lực lượng này mà cuộc tập kích của Phú Quí hội vào Quí gia trang đêm hai mươi tháng chạp đã bị phát hiện.
Nhân được tin mật báo, Chính Lan và Hỏa chân nhân bố trí mai phục quanh mục tiêu. Những đêm cuối năm tiết trời lạnh như cắt da, tuyết rơi mù mịt. Ba mươi bóng đen bịt mặt vượt tường xây, vào hoa viên phía sau phòng của Quí Thành Lâm.
Bất ngờ, hàng trăm ngọn đuốc bừng sáng, soi rõ đấu trường. Chẳng hề khách sáo, Hỏa chân nhân rải ngay ba trái Đảo Thiên thần đạn giết liền nửa số địch nhân, số sống sót vội tản ra và bị chặn đánh.
Chính Lan nhận ra ngoài Phú Quí hội chủ Hà Lăng còn có một cao thủ rất lợi hại. Lão ta đấu với Hỏa chân nhân chẳng hề thua sút. Lát sau, kiếm quang đỏ hồng lên, tố cáo lai lịch của lão. Chính Lan hốt hoảng quát:
- Đào Hoa cung chủ.
Hà Lăng cười ngạo nghễ:
- Đúng vậy, đêm nay các ngươi đừng hòng thoát chết. Bọn ta vào đây chỉ để dụ ngươi xuất hiện đấy thôi.
Chính Lan hiểu ngay lão còn một lực lượng nữa. Nhưng vẫn thản nhiên so gươm với đối phương. Chàng biết nếu đêm nay không giết được lão để trừ hậu họa thì khó mà yên tâm được khi Phú Quí hội đã liên thủ với Đào Hoa cung. Tuy nhiên, Chính Lan tự lượng không có cách nào thắng nổi. Lần này thiếu yếu tố bất ngờ nên Hà Lăng đã chiếm thượng phong. Lão có đến hơn hoa giáp công lực và pho Diêm La kiếm pháp quỉ dị tuyệt luân, chỉ sau trăm chiêu đã áp đảo Chính Lan.
Ngoài kia, lực lượng thứ hai của bọn tà ma đã vào cuộc. Hàng trăm tên sát thủ lợi hại hung hãn ập đến. Và tiếc thay chúng được đón tiếp rất tận tình bởi đàn ong độc phong đất Miêu Cương.
Phe Bố Y hội, do Lôi Đao và Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên thống lĩnh, đã vây chặt không để một tên đào tẩu. Họ điềm nhiên tàn sát phe đối phương, vì trên đầu đã rắc hương dược nên không bị đàn ong tấn công.
Trong này, Hỏa chân nhân râu tóc dựng ngược, thi triển pho Thiên Hỏa Chiếu Vân chưởng pháp, đẩy ra những đạo kình đỏ rực và nóng như thiêu đốt. Đào Hoa cung chủ phải vận Huyết Ảnh Công đến độ chót, toàn thân phủ sương hồng, mới địch lại Tây Môn Nhỉ. Chân nhân giận dữ gầm vang:
- Thang Chí Quân, dù đêm nay ngươi có sống sót thì Đào Hoa cung cũng bị ta san phẳng.
Họ Thang cười nhạt:
- Thế thì lão đừng hòng thoát chết.
Dứt lời, lão bỏ kiếm, dồn thần công vào song thủ, dùng Đào Hoa Mê Tâm chưởng pháp đối đòn với Tây Môn Nhỉ. Chưởng phong chạm nhau nổ vang rền như sấm.
Lúc này, Chính Lan đã trúng liền hai nhát kiếm vào ngực và đùi. Tuy không chạm gân cốt nhưng máu tuôn xối xả. Hà lão tặc đắc ý cười ghê rợn:
- Chính Lan, để xem ai sẽ cứu được ngươi?
Bất ngờ, từ phía tả có mũi tên vàng bay đến. Hà Lăng cười nhạt vung kiếm gạt ám khí. Nhưng đó không phải là mũi tên mà là một linh vật kỳ tuyệt thiên hạ, chẳng biết sợ gươm đao. Hồng Quan Kim Xà quấn lấy lưỡi kiếm và vươn cổ mổ vào mặt đối phương. Động tác ấy nhanh như điện và vô cùng chính xác. Hà Lăng nghe gò má phải tê dại và đau đớn thấu tim, vội buông kiếm tung mình đào tẩu. Chân Chính Lan đã thọ thương nên chẳng thể đuổi theo. Đào Hoa cung chủ thấy đồng đảng bỏ chạy cũng vội tấn công mạnh một chưởng vũ bão rồi lướt đi mất.
* * *
Qua tết, trinh sát Bố Y hội báo về rằng Đào Hoa cung đã không còn một bóng người. Phú Quí hội cũng biệt tăm nhưng lại có tin đồn rằng hội chủ Hà Lăng quyết lấy mạng Hồng Nhất Điểm trong cuộc ước hẹn ngày rằm tháng hai. Chính Lan vì danh dự của sư môn, chẳng thể vắng mặt được. Coi như chàng đã tự se dây trói mình. Chàng không sợ chết nhưng thầm tủi hổ bản lĩnh không bằng người.
Tuy nhiên, ngoài mặt chàng vẫn vui vẻ cùng thê thiếp. Cả bốn mỹ nhân đã thấy lại ánh dương quang, hết lòng yêu mến Miêu nữ Liễu Thi Mạn. Chỉ mình nàng Miêu nữ ngây thơ này là không biết mình sắp góa chồng. Một hôm, Thi Mạn vào phòng Tử Quỳnh, thấy nàng đang nhìn tuyết rơi ngoài song mà lệ đổ như mưa, liền nói:
- Vì sao Tây Môn Đại Thư lại khóc? Phải chăng vì chán ghét tiểu muội?
Tử Quỳnh không dấu được tâm sự nặng nề bèn chia sẻ với nàng:
- Tội nghiệp Liễu hiền muội, em đâu biết rằng chỉ còn hơn tháng nữa tướng công sẽ phải quyết đấu công khai với lão quỉ họ Hà. Chàng như nắm chắc cái chết trong tay rồi đấy.
Thi Mạn mỉm cười:
- Tướng công còn trẻ, tu vi không bằng nên chẳng địch lại lão ma. Nhưng chị em ta phải giúp chàng một tay, chứ sao lại chịu thua?
Tử Quỳnh buồn bã đáp:
- Qui củ võ lâm đâu cho phép như vậy.
Thi Mạn đảo đôi mắt tinh anh kề tai Tử Quỳnh thì thầm. Gương mặt Hoàng Hoa Ma Nữ rạng rỡ hẳn, hôn lia lịa lên má Thi Mạn, cười ra nước mắt:
- Hay lắm! Hiền muội quả là phúc tinh của bọn ta.
Hai nàng kéo nhau sang khuê phòng của ba mỹ nhân kia to nhỏ. Chẳng hiểu Thi Mạn có diệu kế gì mà mây đen tan biến cả.
Phần Chính Lan luyện mãi không xong ba chiêu kiếm của Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng, thất vọng bỏ phế luôn. Chàng quay sang ôn luyện pho Thái Chân kiếm pháp của ân sư.
Gần cuối tháng giêng, bọn người Chính Lan lên đường đến Hà Nam.
Đoàn người nhanh chóng được nhân lên bởi các hào khách đi quan chiến. Họ không bỏ lỡ cơ hội tiếp cận thần tượng Hồng Nhất Điểm và ngắm nghía sáu mỹ nhân xinh đẹp kia.
Trận chiến này vô cùng quan trọng nên thân quyến và bằng hữu của Chính Lan đều tham dự. Nhìn sắc mặt tươi tắn của các vị phu nhân, ai cũng đoán rằng Chính Lan sẽ chiến thắng.
Nhưng bản thân chàng lại không nghĩ vậy. Chính Lan chỉ mong giữ được mạng sống để thê thiếp khỏi phải vấn khăn tang. Chàng nghĩ đến việc dùng Qui Tức Bảo Tâm đại pháp để giả chết. Tuy nhiên, dưới lưỡi gươm của Hà Lăng, khả năng sống sót rất thấp. Lão là người tàn nhẫn tất sẽ không để thân thể chàng được lành lặn. Vì vậy, Chính Lan đã quyết định đổi mạng chứ không chịu sống cảnh tàn phế.
Chàng không biết rằng những người thân của mình đã có kế hoạch khác. Lôi Đao và Vô Nhân Kiếm Khách cùng các cao thủ Bố Y hội chờ chàng ngã xuống là hợp công Hà lão tặc và Phú Quí hội. Họ bất chấp luật giang hồ, quyết liều thân báo thù cho bằng được. Hỏa chân nhân cũng ủng hộ ý kiến này, chấp nhận phế bỏ thanh danh để cứu Chính Lan. Ông vẫn thầm xem chàng là rể nên không để chàng chết được.
Sáng ngày rằm tháng hai, nửa vạn người chen chúc trên chân núi Thiếu Thất để quan sát trận đấu hiếm có. Đấu trường là bãi cỏ rộng ở dưới kia.
Trời vẫn lành lạnh và tuyết rơi nhè nhẹ. Chính Lan cùng các chưởng môn ngồi trên những tảng đá đàm đạo. Khánh Vân chân nhân chưởng môn phái Hoa Sơn cau mày:
- Lạ thực, sao không thấy Hy Văn Cư Sĩ đến tham chiến? Thường thì lão ta chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội như thế này.
Đại Đầu Cái mỉm cười:
- Lão ta sắp đến rồi đấy.
Nhưng toán kỵ mã đang đi tới lại là phe Phú Quí hội và Đào Hoa cung. Hà Lăng vẫn mang mặt nạ cũ nhưng gò má bên phải lõm xuống. Thi Mạn nói với Chính Lan:
- Tướng công, lão ta đã phải cắt phần thịt bị rắn cắn để khỏi chết. Từ nay lão chẳng còn giả dạng được ai nữa rồi.
Chính Lan mỉm cười:
- Đó là công của hiền muội đấy.
Chàng nhìn mặt người thân lần cuối rồi bước ra giữa bãi trống. Hà lão quỉ cũng xuống ngựa, đến đối diện chàng, cách một khoảng hai trượng. Lão ngửa cổ cười vang, chỉ kiếm vào mặt Chính Lan:
- Hồng Nhất Điểm! Hôm nay lão phu sẽ đòi lại món nợ mà Hoàng Hạc Tú Sĩ đã vay ba mươi năm trước.
Tam ngốc buột miệng:
- Thế lão có đòi món nợ bị thiến hay không?
Mấy ngàn người bật cười hô hố khiến Hà Lăng giận tím mặt. Chính Lan xua tay ra hiệu cho họ im lặng rồi cao giọng:
- Còn ta cũng sẽ rửa mối hận của song thân là phu thê Nhu Diện Phán Quan.
Hà Lăng cười ngạo nghễ:
- Té ra ngươi cũng biết rồi ư?
Chính Lan gật đầu, trầm giọng:
- Đúng thế, lão vì kho tàng Nam Tống nên đã sát hại cha mẹ ta. Nhưng lão sẽ chẳng sống sót mà đến được nơi ấy đâu.
Chính Lan rút kiếm thủ thế, tay tả bắt kiếm ấn đặt lên ngực, kiếm chỉ thẳng ra phía trước. Với tư thế ấy, thân hình chàng lướt nhanh về phía đối phương.
Lão ác ma nhếch mép khinh thường xuất chiêu trước để chiếm tiên cơ. Nhưng Chính Lan đã dùng thế Nhất Hạc Xung Thiên bốc thẳng lên cao và chúi đầu xuống phản kích.
Chàng đã mạo hiểm đến mức để cho kiếm kình chạm áo mới bay lên nên tạo được thế bất ngờ. Chiến thuật này đã được chàng tính toán rất chu đáo, lúc Chính Lan lướt đến, toàn thân công lực dồn vào song cước, tay chẳng có chút chân khí nào cả. Vì vậy, sức bật rất mạnh.
Lão ma đầu thấy mục tiêu biến mất, lập tức đảo bộ sang một bên và cử kiếm đỡ đòn. Lão đâu biết rằng Chính Lan đã quyết tâm đồng qui ư tận?
Chàng thản nhiên lao mình vào lưới kiếm dưới chân, đánh hết chiêu Phù Sinh Trường Hận.
Chính Lan không sợ chết nhưng đối phương thì ngược lại. Lão biết có giết được chàng thì cũng mạng vong nên đành chịu thiệt một chút. Họ Hà nhảy lùi thật nhanh, cắn răng chịu một kiếm vào bắp tay trái.
Quần hùng mừng rỡ hoan hô nhiệt liệt. Nhưng lão ác ma đã dở hết tuyệt nghệ và công lực thâm hậu đánh bạt những chiêu kiếm kế tiếp của Chính Lan. Lão đánh đòn nào chắc đòn đó và không cho đối phương có cơ hội đổi mạng.
Sau gần hai trăm chiêu, khí lực Chính Lan giảm sút, hơi thở dồn dập, mặt tái xanh, trên người đã có bốn vết kiếm thương.
Bỗng chàng nhảy lùi xa hai trượng, đứng im chờ đợi. Hà Lăng đắc ý cười dài, hóa thành luồng kiếm quang bay đến, quyết dùng phép ngự kiếm phân thây đối thủ.
Chính Lan mỉm cười lần cuối, dồn hết toàn lực xuất chiêu Phượng Hoàng Liễn Hỏa, biến thành mũi tên xanh biếc lao thẳng vào màn kiếm ảnh của đối phương. Chiêu này chàng đã từng dùng để đối phó với Đào Hoa cung chủ.
Chính Lan chẳng hề kể đến tử sinh, khẳng khái tìm đến cái chết, chàng rung kiếm điểm nhanh, bất chợt nhận ra màn kiếm kình kia không hề có chút lực đạo nào cả và mũi kiếm của chàng dễ dàng xuyên qua, đâm thủng ngực trái đối phương. Hà Lăng ngã ngửa ra chết tốt, mặt mũi nhăn nhó như phải chịu đựng một nỗi đau đớn rất khủng khiếp.
Tiếng hoan hô nổ ra như sấm dậy, thức tỉnh Chính Lan khỏi trạng thái mơ hồ. Chàng sượng sùng vòng tay cảm tạ quần hùng rồi đi về phía thân quyến. Hỏa chân nhân cười ha hả:
- Chính Lan giỏi thật, đến phút cuối mới thi thố thần công tuyệt thế. Ngươi làm bọn ta lo lắng đến đứng tim.
Đào Hoa cung chủ thấy Hà Lăng võ nghệ cao hơn mình mà còn chết thảm dưới tay Chính Lan, cố nén tiếng thở dài, định quay gót bỏ đi. Nhưng Lôi Đao Hứa Hoa đã quát vang:
- Hỡi đồng đạo võ lâm, hãy nhân cơ hội này giết sạch bọn Phú Quí hội đi thôi.
Hai trăm cao thủ Bố Y hội ùa ra, kéo theo hàng ngàn những người nhiệt huyết. Hỏa chân nhân cũng vung chưởng tấn công Đào Hoa cung chủ. Lát sau Hách Thiết Xuyên cũng xông vào liên thủ với chân nhân, đánh cho họ Thang tối tăm mặt mũi, lão chẳng dám kiên trì, đào tẩu ngay tức khắc. Còn hơn trăm gã thủ hạ Phú Quí hội và Đào Hoa cung đều chết sạch. Lôi Đao chặt phăng thủ cấp Hà Lăng, lột mặt nạ xem thử, thì ra là Hy Văn Cư Sĩ.
* * *
Trên đường trở lại Nam Kinh, Chính Lan thú thực việc Hà Lăng đột nhiên mất hết chân khí nên mới bị giết. Liễu Thi Mạn vui vẻ giải thích:
- Thiếp cho rằng dư độc của Hồng Quan Kim Xà vẫn còn trong cơ thể lão ta, và phát tác đúng lúc ấy, tướng công chẳng nên áy náy làm gì. Chẳng lẽ chàng lại muốn bọn thiếp phải khóc chồng?
Hỏa chân nhân cười bảo:
- Cổ nhân có câu “thiên bất dung gian,” lão họ Hà chết như vậy là rất hợp đạo trời.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nhưng vẫn còn cái hẹn rằm tháng tư này với Đào Hoa cung chủ. Lần này không giới hạn chiêu thức, tiểu điệt chẳng thể nào thoát chết như lần trước,
Sơn Đông Tử Phòng bác ngay:
- Công tử yên tâm, sau cái chết của Phú Quí hội chủ Hà Lăng, Đào Hoa cung chủ đã sợ khiếp vía, chẳng dám đến phó ước nữa đâu.
Mọi người đều khen phải. Nhưng Chính Lan chẳng vui lên được chút nào cả. Làm thân hiệp khách không thể dựa vào vận may hay tình thế, mà phải tự lực tự cường. Chàng cảm thấy mình có lỗi với ân sư Hoàng Hạc Tú Sĩ. Suốt đời ông chưa hề biết ngán sợ một ai, và cũng chẳng hề chiến bại.
Về đến Nam Kinh, Chính Lan bắt đầu khổ luyện, xao lãng cả chuyện gối chăn. Hỏa chân nhân hiểu lòng chàng, mở lời trách móc:
- Ngươi tự hào tinh thông Đạo giáo mà sao vẫn còn nuôi lòng háo thắng? Sư phụ ngươi ở tuổi năm mươi mới mang gươm càn quét tà ma nên chẳng ai địch lại. Còn ngươi chưa đến tam thập mà phải đối phó với bọn lão ma đầu, tất phải kém thế. Đơn giản như vậy mà không hiểu được sao?
Chính Lan tỉnh ngộ, nhận lỗi với Chân Nhân, trở về với cuộc sống gia bình thường của gia đình. Chính Lan định giải tán Bố Y hội nhưng Quí Thành Lâm không cho. Gã giữ lại hai trăm cao thủ ấy, phân bố khắp các cơ sở kinh doanh của mình.
Cuối tháng ba, Đào Hoa cung chủ gởi thư bãi chiến, tuyên bố bỏ qua mối phụ thù vì dẫu sao Hoàng Hạc Chân Nhân cũng đã chết. Lão mong chàng bỏ qua hiềm khích cũ, để lão trở lại Đào Hoa cung. Tất nhiên Chính Lan đồng ý.
Đầu tháng năm, tiết trời mùa hạ oi nồng. Chính Lan rời thư phòng ra phía sau hóng mát. Chàng và thân quyến đã chọn ba trăm mẫu rừng cạnh bờ Trường giang này làm nơi cư trú.
Ngoài cơ ngơi rộng rãi, nơi đây còn có cả một vườn hoa xinh đẹp, kỳ tú. Khu rừng chung quanh tạo cho cảnh vật một vẻ yên tĩnh, thanh nhàn. Chính Lan đã có dịp đi quan sát cả khu vực, nhận ra có rất nhiều loại cây khác nhau. Dường như chủ cũ đã trồng dặm thêm để thay thế cho những cây bị đốn, hoặc mục nát. Lão ta thích sự phong phú nên phối hợp cây cối các miền vào đây, nào du, thu, hoàng lan, thủy sơn, xuân, tùng, bách, liễu, đào…
Cách bờ sông chừng trăm trượng có một hồ nước trong vắt, mặt hồ hình tròn đường kính độ năm mươi bước chân lòng hồ được lót đá Đại Lý màu hồng, nước sâu ngang ngực người. Đây là nơi bơi lội, đùa vui trong những ngày hè nắng gắt.
Chung quanh hồ cũng được lát đá và vây kín bởi hàng rào dâm hương hoắc rậm rạp. Chính Lan ngồi xuống thạch đôn, nhìn những đóa hoa đỏ rực rỡ bốn mùa kia, chạnh nhớ đến cố hương. Bên hồ Côn Minh cũng có những bụi cây như thế.
Bỗng chàng nghe có tiếng vật gì gieo xuống thảm lá khô, đoán rằng chú sáo non đã vô tình rơi khỏi tổ. Chính Lan rời khỏi hồ nước đi đến gốc cây xuân già cách đấy vài trượng. Quả thực có con chim non chưa đủ lông cánh đang nằm dưới đất. Chính Lan mỉm cười, nhẹ nhàng nhặt nó, rồi tung mình lên cây. Chàng chuyển tít lên tận ngọn cây, đặt trở lại vào tổ. Cây xuân cổ thụ này cao nhất khu rừng, từ đây có thể nhìn bao quát khắp nơi và thấy cả mặt nước Trường giang. Chàng say mê ngắm dòng sông hùng vĩ trải dài mãi như vô tận về hướng thượng nguồn. Gió sông lồng lộng thổi vào mặt chàng, xua đi cái nóng kinh người.
Chợt Chính Lan nghe tiếng nữ nhân xôn xao nói cười phía dưới, thì ra các nàng đã kéo nhau ra hồ đùa nghịch để tránh nắng.
Trong tòa nhà này giờ đây chỉ còn mình chàng và Hỏa chân nhân là đàn ông. Bọn Lôi Đao, tam ngốc và Hách Thiết Xuyên đã về cố thổ cả rồi. Hỏa chân nhân thì chẳng bao giờ bén mảng đến nơi này. Vì vậy, sáu mỹ nhân thản nhiên trút bỏ xiêm y, chỉ còn tấm yếm mỏng manh. Cả Tây Môn Tố Bình cũng vậy.
Chính Lan đã thấu hiểu tấm chân tình của Tiểu Linh Thố đối với mình và định cưới nàng nên thản nhiên ngắm nhìn, chẳng chút e ngại.
Bào thai trong bụng Thục Nghi đã được sáu tháng. Nàng nhìn vẻ thanh mảnh của chị em với ánh mắt ghen tỵ. Tử Quỳnh vuốt ve chiếc bụng tròn trĩnh của Thục Nghi, vui vẻ nói:
- Nghi muội quả là sung sướng khi sắp được làm mẹ. Bọn ta mong mãi mà chẳng được?
Thục Nghi khoan khoái nhưng giả bộ than thở:
- Mang nặng có gì mà sung sướng, tiểu muội chỉ thấy khổ sở mà thôi.
Trại Tây Thi phá lên cười:
- Thôi đừng giả đò nữa, ta biết Nghi muội rất đắc ý trong lòng.
Thục Nghi đỏ mặt tạt nước vào người Du Mỹ Kỳ. Thế là các mỹ nhân ngư đuổi nhau loạn cả lên, tiếng cười trong vắt vang dội cả rừng cây.
Chính Lan say mê ngắm những thân hình kiều diễm, thầm cảm ơn trời xanh đã ban cho chàng quá nhiều hạnh phúc.
Lát sau, những mảnh yếm ngực đều bị giật đứt, nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Tố Bình còn là xử nử nên thẹn thùng ôm ngực năn nỉ:
- Tiểu muội xin các vị, lỡ tỷ phu ra đến thì sao?
Tử Quỳnh cười ngất:
- Ai chẳng biết ngươi thầm thương trộm nhớ trượng phu của bọn ta? Thôi thì cưới quách cho xong.
Cả bọn đều tán thành vì họ đều yêu mến Tố Bình, không muốn xa nàng. Tiểu Linh Thố thẹn thùng nói:
- Nhưng tỷ phu đâu thèm để ý đến tiểu muội?
Kính Hồ Tiên Cơ mỉm cười:
- Tướng công đã có đến năm vợ, đâu dám mở miệng tỏ tình với ai nữa. Chuyện này để bọn ta thu xếp cho.
Nhưng Tố Bình lại ngoe ngoẩy lắc đầu:
- Tiểu muội chỉ chấp thuận khi các vị chia sẻ bí mật kia. Làm thế nào mà tướng công lại giết được Hà Lăng?
Chính Lan giật mình lắng tai nghe. Ở dưới, Thi Mạn quan sát trước sau rồi nghiêm giọng:
- Việc này tuyệt đối không được để lộ cho tướng công biết. Chính ta đã thả cổ trùng cắn vào tâm mạch của Hà lão quỉ, nhờ vậy tướng công mới sống sót và giết được lão ta.
Chính Lan nghe lòng cay đắng, tủi hổ, chàng không giận họ mà giận mình bất tài. Tiếng Tố Bình lại vang lên:
- Thế mà tiểu muội tưởng Chính Lan là người vô địch?
Thục Nghi giận dữ nói:
- Tướng công mới hai mươi bảy tuổi, làm sao địch lại lão ác ma công lực thâm hậu ấy? Bọn ta chẳng cần đến thanh danh, chỉ cần có chàng mà thôi.
Thi Mạn cười nhạt:
- Trong võ học, chẳng ai dám tự hào mình là vô địch cả. Kẻ đại trí luôn khiêm tốn, lo bảo toàn tính mạng trời ban. Ngay Hoàng Hạc sư bá ngày xưa cũng phải nhờ đến gia sư mới giết nổi Tam Tuyệt Huyết Ma Thang Ưng. Sư bá chẳng bao giờ hổ thẹn về điều ấy, ông tiêu diệt được tai họa cho bách tính và đồng đạo là vui rồi.
Chính Lan như người tỉnh cơn mê, thầm cảm ơn Liễu Thi Mạn. Nàng xuất thân từ chốn núi rừng mà thấu hiểu đạo lý hơn cả kẻ đọc ngàn quyển sách như chàng.
Chính Lan đứng trên chạng ba vận công rú lên cao vút như trút bỏ mọi ưu phiền. Sáu nàng nhận ra chàng, kinh hãi nhìn nhau. Chính Lan phi thân xuống đứng cạnh hồ nước mỉm cười hòa ái:
- Sao các nàng không rủ ta cùng tắm cho vui?
Họ biết chàng không giận, mừng rỡ nói:
- Bọn thiếp tưởng tướng công đang đọc sách.
Chính Lan cởi y phục, bước xuống hồ, đến trước mặt Tố Bình âu yếm hỏi:
- Bình muội có chịu lấy một kẻ bất tài như ta không?
Tố Bình thẹn đỏ mặt, lúng túng che ngực, Chính Lan ôm nàng vào lòng thì thầm:
- Để ta vào thưa với lão gia.
Mọi người vui đùa thêm một lúc nữa mới trở vào. Thay y phục xong, họ kéo nhau lên đại sảnh tìm Tây Môn Nhỉ. Chính Lan kính cẩn nói:
- Tiểu tế muốn gọi lão gia là nhạc phụ đại nhân.
Hỏa chân nhân hoan hỉ gật đầu:
- Trước giờ bần đạo vẫn xem ngươi là rể.
* * *
Ba tháng sau, Thục Nghi lâm bồn, sinh ra một nam hài rất kháu khỉnh. Chẳng giống phong tục thông thường của bách tính, Chính Lan đặt ngay tên con là Âu Dương Hoàng Hạc. Chàng muốn tưởng niệm đến ân sư của mình.
Ngày đầy tháng Hạc nhi cũng là ngày cưới của chàng và sáu vị phu nhân. Cửu phụ chàng là Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt đã sang nhượng hết cơ sở kinh doanh, về Nam Kinh sống chung với chàng. Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh, cha của Mĩ Kỳ, và song thân của Kính Hồ Tiên Cơ cũng vậy. Họ đều đã già nên không muốn xa con cháu.

Hồi 8

Thượng kinh tam thứ phùng mai phục
Hiền phụ tâm trung duy hữu phu

Đầu tháng mười, Quí Thành Lâm đột nhiên đến Âu Dương gia trang tìm Chính Lan. Chàng vui vẻ hỏi:
- Có việc gì mà Quí đại ca lại lo lắng như vậy?
Chính Lan đã kết nghĩa chi lan với Thành Lâm từ mấy tháng trước.
Họ Quí nghiêm giọng:
- Sùng Trinh hoàng đế đang lâm trọng bệnh. Quan bố chánh sứ ty Tích Giang trước đây được tiên hoàng ban cho một nhánh thiên niên Hà Thủ Ô. Nay được lệnh cho quân hộ tống sứ đem về Bắc Kinh để ngài ngự dụng. Kỳ trân này là vật mà khách võ lâm hằng mơ ước. Vì vậy, sẽ khó mà thoát khỏi cảnh chặn đường cướp đoạt. Lâm Bố Chánh là bạn thâm giao của Quí gia trang nên biết rõ uy danh và bản lĩnh của hiền đệ. Ông ta hết lời cầu khẩn, nhờ ta năn nỉ hiền đệ nhận trách nhiệm mang bảo vật đi Bắc Kinh, giữa tháng mười phải đến nơi.
Họ Quí chỉ nói đến đấy và nhìn Chính Lan với cặp mắt thiết tha. Chàng cười hỏi:
- Phải chăng Lâm bố chánh là người giúp đỡ cho việc kinh doanh của đại ca?
Thành Lâm thú nhận:
- Đúng vậy, lão mà mất đầu thì ta cũng gặp khó khăn với quan mới.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Vì đại ca, tiểu đệ xin nhận lời.
Thành Lâm cảm động nói:
- Ta lại chịu ân hiền đệ lần nữa rồi.
Dường như biết trước Chính Lan không từ chối, họ Quí đã mang sẵn bảo vật trong người. Gã móc ra một hộp dài độ gang tay, bề ngang hai lóng, trao cho chàng. Chính Lan thấy không có niêm phong, mở ra xem thử. Chỉ thấy một khúc rễ cây sần sùi, đen nhánh, to bằng ngón chân cái, chàng bật cười:
- Vật này quí giá ở chỗ nào nhỉ?
Thi Mạn đỡ lấy ngửi thử, rồi tấm tắc khen:
- Tướng công không biết đó thôi, đoạn rễ cây này có thể làm tăng hai mươi năm công lực đấy.
Chính Lan giật mình, suy nghĩ một lúc rồi hỏi Thành Lâm:
- Quí đại ca, việc quân cơ làm sao người ngoài biết được mà phải lo sợ?
Thành Lâm bực tức nói:
- Chỉ tại gã quan khâm sai kênh kiệu, bắt Lâm bố chánh phải bày hương án trước cửa dinh rồi oang oang đọc to thánh chỉ. Vì vậy, còn gì là bí mật nữa?
Hỏa chân nhân cười nhạt:
- Vậy thì ta cứ trao cho tên thái giám dở hơi ấy một hộp thiên niên Hà Thủ Ô giả, để hắn nếm mùi đau khổ, và đánh lạc hướng bọn tà ma?
Thi Mạn nói ngay:
- Lão gia nói chí phải, trong rừng quanh nhà cũng có Hà Thủ Ô, tiểu nữ nhuộm đen chúng đi là xong.
Chính Lan tán thành, giữ Thành Lâm ở lại uống rượu. Chỉ ba khắc sau Thi Mạn đã bào chế xong vật thế thân. Nàng tươi cười bảo:
- Đây là thập niên Hà Thủ Ô, được nhuộm bằng Tam Thất nên rất khó phân biệt. Quí đại ca cứ yên tâm mang về báo lại kế hoạch với quan bố chánh.
Thành Lâm cười khà khà:
- Phen này gã thái giám kia sẽ khó toàn mạng.
Họ Quí trao lại cho Chính Lan một tấu chương được niêm kín:
- Trong biểu này nói rõ rằng hiền đệ được cử mang bảo vật về kinh, ta đã đọc qua rồi, cứ yên tâm.
Khách đi rồi, Chu Điện Kiệt mới nói:
- Sao Lâm bố chánh không giao thẳng báu vật cho khâm sứ, nếu mất, lão ấy chịu trách nhiệm?
Tiêu lão gia cha của Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như là một tri huyện về hưu nên hiểu rõ luật lệ, ông khề khà giải thích:
- Chu huynh không hiểu đâu. Vật này có quan hệ đến tính mạng của long nhan nên cả khâm sứ lẫn quan bố chánh đều phải đưa đầu ra gánh vác. Chính vì vậy lão ta mới phải nhờ đến Âu Dương hiền tế.
Hỏa chân nhân bỗng nói:
- Phải chi bần đạo có một được một ít kỳ dược này thì hay biết mấy? Thêm vài mươi dược vị nữa là chế thành Hà Sâm đan tráng dương ích thọ, lưu giữ tuổi xuân.
Các mỹ nhân nghe nói đến diệu dụng trường xuân, lòng hoan hỉ phi thường. Tiểu Linh Thố cười bảo:
- Nếu trong tấu chương kia không ghi rõ kích thước kỳ trân thì chúng ta cứ cắt lấy một đoạn gọi là tự thưởng công.
Tiêu lão gia mỉm cười:
- Bóc ra xem đâu có khó gì? Chỉ cần hơ nóng phía dưới, xi niêm mềm ra, rời khỏi giấy ngay.
Thấy các mỹ nhân quá tha thiết, Chính Lan không nỡ ngăn cản. Chàng cũng biết Sùng Trinh chẳng thể dùng một lúc hết nhánh thiên niên Hà Thủ Ô này. Kính Hồ Tiên Cơ nhận trách nhiệm mở tấu chương ra. Nàng xem qua, mừng rỡ nói:
- Tướng công, trong này không hề ghi rõ kích thước hay trọng lượng gì cả.
Chính Lan mỉm cười bảo chân nhân:
- Vậy nhạc phụ cần bao nhiêu cứ việc cắt.
Tây Môn Nhỉ chẳng hề khách sáo, cắt ngay một đoạn chừng hơn lóng tay. Lão vui vẻ nói:
- Quí lão thái mà được uống vài viên Hà Sâm đan sẽ sống lâu trăm tuổi. Thành Lâm có biết cũng chẳng dám trách bọn ta.
* * *
Sáng ngày hai mươi tháng chín, Chính Lan, Thi Mạn và Tố Bình lên đường đi Bắc Kinh. Tử Quỳnh, Uyển Như, Mỹ Kỳ đều cấn thai nên không được theo. Việc cưỡi ngựa gần ngàn dặm không tốt cho người thai phụ.
Chính Lan giờ đây đã mập mạp hơn trước, trông chàng càng thêm dễ mến. Vẻ nhân hậu, quân tử hiện rõ trên gương mặt và ánh mắt hiền hòa. Thi Mạn và Tố Bình có võ công cao nhất trong sáu mỹ nhân, vì vậy Chính Lan rất yên lòng cho họ theo. Thi Mạn đã bới tóc theo kiểu Hán để khỏi gây sự chú ý của thiên hạ.
Gió thu se lạnh, cảnh vật nhuốm vẻ tiêu điều, hàng ngô đồng bên bờ sông Trường giang đã rụng lá. Chính Lan hứng khởi ngâm nga bài từ Thủy long ngâm của Tân Khí Tật:
“Trời nam ngàn dặm thanh thu
Sông chảy về đông trông mù mịt
Núi ngang tầm mắt
Ngọc trâm xoắn ốc
Lắng chìm sầu hận
Nắng chiếm lầu cao
Tiếng nhạn thống thiết
Giang Nam du tử
Chừ nhìn lại kiếm sắc…”
Ở tuổi trung niên, Tân Khí Tật đến Nam Kinh, cảm khái trước cảnh sắc ảm đạm của trời thu nên làm bài từ này. Thơ của ông hay ở chỗ cảm hứng ngẫu nhiên và bộc lộ tâm tình sâu xa, hào hùng, phóng túng của một chí sĩ ái quốc.
Tây Môn Tố Bình cười khúc khích:
- Cương thổ vững bền, giang san không có ngoại xâm, cớ gì tướng công lại ngâm bài ấy?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nay ở phía bắc, quân Mãn Châu ngày càng hùng mạnh, trước sau gì cũng vượt trường thành. Triều đình nhà Minh nhu nhược, binh quyền nằm cả trong tay thái giám Ngụy Trung Hiền, lão là đầu bếp của thái hậu và là bạn thân của nhũ mẫu tiên hoàng. Chết nỗi Minh Quang Tông chỉ ham mê nghề thợ mộc nên mới giao phó cả cho họ Ngụy. Trung Hiền nắm trong tay ba cơ quan mật vụ Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng tha hồ hãm hại trung lương, cướp bóc của dân. Chính trị đổ nát như vậy, chẳng phải là điềm sắp mất nước hay sao?
Liễu Thi Mạn nghe lời chàng thống thiết và bi phẫn, bất giác đồng tình nói ngay:
- Vậy phen này đến Bắc Kinh chúng ta giết quách lão cẩu thái giám Ngụy Trung Hiền để cứu nguy xã tắc.
Chính Lan quắc mắt:
- Quả thực lòng ta cũng định như thế. Minh Tư Tông Sùng Trinh mới lên ngôi, cũng có ý tiêu diệt Ngụy Trung Hiền mà không đủ sức. Chúng ta sẽ giúp ông một tay.
Tố Bình nhìn trượng phu với vẻ ngưỡng mộ vô bờ. Nàng hân hoan nói:
- Không ngờ tướng công lại nặng lòng với xã tắc như vậy. Nhưng sao chàng lại biết rõ nội tình triều đình?
Chính Lan bùi ngùi đáp:
- Tiêu nhạc phụ chính là người của đảng Đông Lâm vừa bị họ Ngụy tiêu diệt mấy năm trước. Ông thoát chết nhờ sớm từ quan, và đã kể hết cho ta nghe. Vì vậy, ta mới nhận lời đưa kỳ trân đi Bắc Kinh. Ta chọn hai nàng theo là muốn có người trợ giúp, cao thủ dưới trướng Ngụy Trung Hiền đông như kiến, một mình ta khó mà giết được lão.
Thi Mạn vui vẻ nói:
- Cảm tạ tướng công đã tin yêu, bọn thiếp sẽ sát cánh với chàng, dẫu hiểm nguy cũng chẳng từ nan.
Tố Bình mỉm cười:
- Trước mắt phải đến cho được Bắc Kinh. Thiếp nhận ra có khá nhiều người bám theo chúng ta rồi đấy.
Lúc này bọn Chính Lan ở cách Nam Kinh sáu chục dặm. Trời cũng đã trưa, ba người ghé vào phạn điếm dùng cơm. Lát sau có mười mấy kỵ sĩ vào theo, nón rộng vành chụp sát mí mắt để che dấu dung mạo. Thanh danh của Hồng Nhất Điểm đại hiệp lừng lẫy võ lâm, chẳng phải ai cũng dám chạm đến. Có thể họ chỉ là những người hiếu sự, biết chuyện nên đi theo để được chứng kiến những trận đấu long trời lở đất.
Ăn tối xong, phu thê Chính Lan tiếp tục khởi hành. Chàng cau mày bảo:
- Ta vừa nghĩ đến một điều, đó là việc Ngụy Trung Hiền sẽ cho người chặn đường đoạt bảo. Lão biết Sùng Trinh hoàng đế không ưa mình, tất cũng chẳng muốn thánh hoàng khỏi bệnh. Xem ra oai danh của Hồng Nhất Điểm không đủ để dọa khiếp bọn nha trảo của Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Xưởng.
Thi Mạn mỉm cười:
- Chưa chắc chúng đã đoán ra kế “ám độ trần thương” của bọn ta. Có thể chúng sẽ chặn đường đoàn khâm sứ trước. Hi vọng chúng không phát hiện được đoạn Hà Thủ Ô kia là vật giả.
Chính Lan nói với giọng sắc lạnh:
- Dẫu sao cũng phải hết sức cảnh giác và xuất thủ thật nặng tay. Vì giang sơn Đại Minh, chúng ta đành bất kể thủ đoạn!
Tố Bình đắc ý đáp:
- Tướng công chớ lo, mười trái Đảo Thiên thần đạn và bầy cổ độc của chị em thiếp đã sẵn sàng cả rồi.
Chính Lan nhớ đến cái chết của Phú Quí hội chủ Hà Lăng, buột miệng khen:
- Xem ra công phu cổ độc của Mạn muội còn lợi hại hơn cả tuyệt kỹ Huyết Tuyến Nhất Điểm Hồng của ta. Vô hình vô ảnh như vậy ai mà chống nổi?
Thi Mạn lắc đầu:
- Tại tướng công không biết đấy thôi, những người có trên bốn mươi năm tu vi đều có thể dùng lửa tam muội tiêu diệt cổ trùng. Hiện tượng bế tắc chân khí chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn và không giết được các đại cao thủ. Vì vậy, làm sao sánh được với tuyệt học của ngũ sư bá?
Chính Lan đã hiểu, thầm hài lòng rằng công lao rèn luyện của mình không đến nỗi uổng phí. Chàng đã khổ luyện mười hai năm và nhận ba mươi năm công lực của ân sư mới thi triển được thủ pháp Nhất Điểm Hồng, nếu không bằng một con vật bé nhỏ như hạt bụi kia quả là đau lòng.
Ba ngày sau, bọn Chính Lan đến bờ sông Hoài. Từ bến đò này, dòng Hoài giang tiếp tục xuôi đông thêm trăm dặm nữa là đổ vào Hồng Trạch hồ.
Vào thời Nam Tống. Sau một trận lụt khủng khiếp, sông Hoàng Hà đổi dòng. Thay vì chảy vào vịnh Bột Hải, phía bắc bán đảo Sơn Đông, nó lại vươn xuống phía nam, chiếm lấy cửa của sông Hoài, cách cửa sông cũ đến gần ngàn dặm. Từ đó, Hoài giang và Hoàng hà có chung đoạn hạ lưu. Tai họa này đã khiến lê thứ thời ấy điêu đứng, lầm than.
Đò ngang sang đến, bọn Chính Lan đưa ngựa lên. Đám lục lâm bám theo cũng đã đến nơi nhưng không chịu lên đò, chỉ có đám khách thương hồ và lương dân là bạn đồng hành với Chính Lan. Chàng thấy vậy cau mày suy nghĩ rồi bảo hai nàng:
- Dường như đám cô hồn kia đã đánh hơi thấy hiểm nguy nên không chịu đi chung đò với chúng ta. Hai nàng hãy khoác bọc hành lý vào vai và chuẩn bị đối phó.
Đò rời bến, đi sang bờ bắc. Bọn Chính Lan chia nhau đứng ở hai mạn thuyền, chăm chú quan sát mặt sông. Nhờ đã cảnh giác nên khi đò còn cách bờ bên kia chừng mười mấy trượng, Chính Lan nhận thấy có những tiếng động lạ từ sườn bên dưới truyền vào lòng bàn tay, chàng đã vịn vào thành gỗ để nghe ngóng.
Chính Lan cười nhạt, ném một trái Đảo Thiên thần đạn xuống nước. Hỏa khí của Tây Môn Nhỉ quả danh bất hư truyền, nổ ngay dưới nước, tạo thành đợt sóng dữ dội, khiến đò chòng chành, lắc lư.
Tiếng nổ khiến khách trên đò sợ hãi kêu cha gọi mẹ. Vài lát sau, có hơn mười xác người nổi lên. Bọn thủy tặc này đang đục đáy thuyền, bị sức ép giết chết.
Chính Lan nghiêm giọng bảo các trạo phu:
- Chư vị cứ an tâm chèo mau vào bờ, để ta đối phó với bọn cướp sông này.
Bốn hán tử sợ hãi vận toàn lực chèo thật mạnh. Còn cách bờ hai trượng, Chính Lan đã như cánh chim bằng bay thẳng lên bến, lướt nhanh lục soát những bụi lau gần đấy. Bọn cung thủ mai phục lập tức buông tên nhưng thanh trường kiếm trong tay chàng đã gạt phăng tất cả. Chính Lan căm hận thủ đoạn hạ lưu của chúng nên thẳng tay tàn sát. Bảo kiếm vun vút như đạo hào quang ập đến cắm vào cơ thể, hoặc chặt phăng thủ cấp. Tiếng rên la thảm khốc vang lên và trận địa mai phục tan vỡ ngay, chúng quá khiếp đảm trước đường kiếm tuyệt luân nên bỏ chạy cả.
Chính Lan chẳng thèm đuổi theo quay lại đón nương tử. Tố Bình giận dữ nói ngay:
- Tướng công, bọn này chắc là thủ hạ của Hồng hồ thập bát trại, địa bàn này là của bọn chúng.
Chính Lan gật đầu:
- Ta biết, nhưng không hiểu bọn đầu lĩnh trốn đâu cả?
Ba người lên ngựa, kiếm tuốt trần để đề phòng phục binh. Đoạn đường này xuyên qua một khu rừng liễu. Nhưng có lẽ bọn thủy tặc chỉ sở trường trên sông nước lên không dám chặn đường lần nữa.
Lại bốn ngày trôi qua, lộ trình vẫn an toàn, bọn Chính Lan chỉ còn cách thành Từ Châu chừng bảy chục dặm. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình lo lắng nhắc nhở:
- Tướng công, Từ Châu là đất của Đào Hoa cung, có khi nào Thang Chí Quân trở mặt chặn đường chúng ta hay không?
Chính Lan tư lự đáp:
- Ta cho rằng nếu Đào Hoa cung chủ biết tin ta áp tải kỳ trân tất sẽ không bỏ qua cơ hội hai mươi năm công lực sẽ giúp lão trở thành vô địch.
Liễu Thi Mạn ngập ngừng:
- Nhưng làm sao phe hắc đạo lại đoán ra việc chúng ta đưa thiên niên Hà Thủ Ô hồi kinh?
Chính Lan trầm ngâm:
- Có thể chính Ngụy Trung Hiền đã biết quan hệ giữa Lâm bố chánh với Quí gia trang, và cả ân tình của ta và họ Quí. Việc khâm sứ bắt bày hương án ngay cửa dinh và đọc thánh chỉ thật lớn cũng là theo ý của Ngụy thái giám. Mưu kế ấy đã bức bách Lâm bố chánh phải nhờ ta âm thầm hộ tống kỳ trân về Bắc Kinh. Một mặt, họ Ngụy tiết lộ tin này cho đám tà ma được biết, hầu thi hành kế tá đao sát nhân. Vì vậy, nếu Đào Hoa cung chủ xuất hiện thì cũng chẳng có gì lạ.
Tố Bình tán thành:
- Tướng công luận việc rất chính xác. Mật vụ của Ngụy Trung Hiền có mặt khắp nơi, tất không thể không biết về hành vi của Hồng Nhất Điểm cao thủ lẫy lừng của võ lâm.
Chính Lan thở dài:
- Ta chỉ lo cho hai nàng thôi.
Thi Mạn dựng ngược đôi mày liễu:
- Bọn thiếp tuy là nữ nhi nhưng cũng biết chuyện giang sơn là hệ trọng. Phen này dẫu chết cũng cố giúp tướng công hoàn thành trọng trách.
Chính Lan nghe hào khí sục sôi bật cười ha hả:
- Hảo anh thơ! Ta mừng có được nương tử như các nàng.
Thêm hai dặm nữa, đường quan đạo xuyên qua một vùng gò đống lởm chởm, lau lách mọc đầy. Nơi đây mà đặt phục binh thì rất tuyệt.
Liễu Thi Mạn nghiêm giọng:
- Xin tướng công chậm lại, thiếp sẽ cho cổ trùng đi trước dọ thám xem sao?
Chính Lan vẫn lo lắng câu “minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng” nên mừng rỡ gật đầu. Thi Mạn lâm râm niệm chú, lát sau biến sắc nói:
- Tướng công, hai bên đường có rất nhiều người, cách chúng ta chừng bốn mươi trượng.
Chính Lan trầm giọng:
- Đoạn đường hiểm yếu này chỉ dài độ trăm trượng. Chúng ta cứ tiến lên, khi đến gần bất ngờ tung Đảo Thiên thần đạn thị uy rồi phi nhanh. Chúng không biết bọn ta đã phát hiện nên sẽ hoảng loạn.
Ba người vẫn giữ nước kiệu, đi thẳng đến ổ mai phục. Cổ trùng báo hiệu kẻ địch ngay trước mặt, Thi Mạn khẽ ho lên. Đồng thời, nàng và Tố Bình tung hai trái thần đạn vào vệ đường trước mặt.
Hỏa khí nổ vang trời, sát thương thì ít nhưng uy hiếp tinh thần bọn cung thủ và tỏa ra khói bụi mịt mù. Bọn Chính Lan thúc mạnh gót chân vào bụng ngựa, lao như tên bắn. Được vài trượng, hai nàng lại rải thêm thần đạn. Nhờ vậy, bọn Chính Lan vượt qua được đoạn mai phục một cách an toàn. Ba con tuấn mã tiếp tục phi nước đại, chạy về hướng Từ Châu.
Bọn phục binh không dám đuổi theo, nhưng chỉ được mươi dặm phu thê Chính Lan đã bị chặn đường. Lần này không có cung thủ mà là chín người bịt mặt, đứng rải rác thành hàng ngang. Với cách dàn trận như thế, hỏa khí không còn tác dụng nữa. Chính Lan gò lưng, lạnh lùng hỏi:
- Chư vị chặn đường bọn ta với ý gì? Không ngờ Đào Hoa cung chủ lại là kẻ phản trắc khôn lường như vậy?
Lão đứng trước cười ha hả:
- Nhãn quang các hạ quả là sắc bén, chính thị là bổn cung chủ đây!
Như vậy, tám gã còn lại là Tây Vực Bát Hung. Họ Thang gằn giọng:
- Các hạ chỉ cần trao thiên niên Hà Thủ Ô ra hai bên vẫn giữ được hòa khí như cũ, hà tất phải vì chuyện của triều đình mà uổng mạng.
Chính Lan thấy phe đối phương không kéo khăn che mặt xuống, biết rằng cổ trùng sẽ không xâm nhập được, như vậy là lành ít dữ nhiều. Chàng có thể cầm chân được Đào Hoa cung chủ thì hai mỹ nhân cũng không địch lại bát hung.
Nhưng Tiểu Linh Thố xảo quyệt hỏi:
- Tướng công, còn tám người đứng sau lưng Đào Hoa cung chủ là ai vậy?
Thi Mạn cười khanh khách:
- Chắc mặt họ rất xấu xí nên mới phải bịt kín như vậy?
Thực ra tám gã họ Lỗ đều có dung mạo dễ nhìn và rất oai vũ, nên không chịu để mỹ nhân chê bai. Lỗ Nhất cười dâm đãng, lột phăng khăn che mặt:
- Hai nàng nhìn xem ta có hơn gã Hồng Nhất Điểm kia không? Trước sau gì gã cũng chết, hay là buông kiếm về với bọn ta cho khỏi phí uổng đời xuân sắc.
Bảy gã kia cũng không chịu kém kéo khăn che mặt xuống, nhìn hai nàng với ánh mắt thèm khát, Liễu Thi Mạn nghiêng đầu nhìn từng khuôn mặt, mỉm cười duyên dáng. Bỗng nàng quát vang:
- Giết!
Chính Lan biết nàng đã thả cổ trùng, mừng rỡ tấn công ngay. Chàng xuất chiêu Mãn Không Tinh Hà, kiếm quang vùn vụt hàng vạn đốm hàn tinh, cuốn về phía Đào Hoa cung chủ.
Sau mấy tháng phẫn chí khổ luyện, võ công Chính Lan cũng tinh thục hơn xưa. Bản thân chàng không nhận thấy nhưng Thang Chí Quân thì sinh lòng e ngại. Lão vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết của Phú Quí hội chủ Hà Lăng.
Vì vậy, lấp tức có hai gã trong Tây Vực Bát Hung nhảy đến liên thủ cùng cung chủ, đó là Lỗ Nhị và Lỗ Tam. Chính Lan bị ba thanh trường kiếm đẩy văng ra xa và lọt vào vòng vây. Đào Hoa cung chủ có trợ thủ nên hung hãn xông vào, quyết giết cho được Chính Lan. Chàng thấy lão không chịu bỏ khăn che mặt, tất chẳng bị cổ trùng quẫy nhiễu, liền tránh mặt họ Thang, bám sát lấy hai gã Tây Vực.
Cách đấy vài trượng, sáu gã còn lại trong bát hung đắc ý vây chặt hai mỹ nhân. Tố Bình tay kiếm tay chưởng, phối hợp hai pho Thái Chân kiếm pháp và Thiên Hỏa Chiếu Vân thần chưởng. Nàng là nữ nhi nên không phát huy được hết uy thế của pho chưởng pháp dương cương, chưởng kình chỉ có màu hồng nhạt. Liễu Thi Mạn tỏ ra lợi hại hơn, tay hữu thủ trường kiếm tay tả quấn kim xà. Con vật này cực kỳ linh thông, tự biết cách chiến đấu. Nó không sợ gươm đao nên chẳng ngần ngại vươn tấm thân dài ngoằng tấn công đối thủ. Tuy nhiên, hai nàng chẳng thể địch lại sáu gã Tây Vực kia. Có điều chúng đều muốn bắt sống để thỏa mãn thú tính cho nên không hạ độc thủ ngay.
Sau gần trăm hiệp, Thi Mạn xác định cổ trùng đã vào đến tâm mạch đối phương, liền quát lên thánh thót:
- Sát!
Chính Lan biết đã đến lúc, vận toàn lực tránh chiêu của Thang Chí Quân, nhảy vào Lỗ Nhị và Lỗ Tam. Đào Hoa cung chủ lập tức bám theo, cho rằng trong lúc chàng chạm chiêu kiếm với hai gã họ Lỗ sẽ bị khựng lại, để lộ hậu tâm. Nhưng không ngờ chiêu Thu Vũ Tiêu Tiêu của Chính Lan phá tan màn kiếm quang kia rất dễ dàng và chặt phăng thủ cấp của song hung. Thân ảnh chàng tiếp tục lướt đi nên đòn tập hậu của họ Thang hụt mục tiêu.
Đào Hoa cung chủ càng kinh hãi hơn khi thấy hai nữ lang cũng đã giết được bốn gã Tây Vực. Còn lại hai gã cũng đang bị Chính Lan tấn công. Chàng đã thuận đà, lao thẳng về phía họ. Chính Lan đã tính toán rất kỹ quyết giết sạch bát hung trước khi chúng kịp thố lộ ẩn tình. Chàng hóa thành luồng kiếm quang xuất chiêu Nhân Gian Như Mộng chụp lấy hai gã họ Lỗ. Chúng gào lên thảm thiết, đi theo huynh đệ xuống tuyền đài. Đào Hoa cung chủ hồn phi phách tán, quay lưng đào tẩu ngay.
Chính Lan tra kiếm vào vỏ, giang tay ôm hai nàng vào lòng. Chàng tưởng rằng trận này chẳng một ai thoát chết.
Ba người hân hoan lên ngựa phi nhanh đến Từ Châu. Ngày thu vốn ngắn, vầng dương đã tắt lịm, họ vào khách điếm lớn nhất thành nghỉ ngơi. Ở nơi đô hội, sầm uất này, chẳng tên ma đầu nào dám quấy nhiễu họ cả.
Ngày hôm nay, nếu không nhờ hỏa khí của Tố Bình và cổ trùng của Thi Mạn, cả ba đã chẳng còn toàn mạng. Tuy nhiên, nỗi hiểm nguy vẫn còn ở phía trước, cảm giác tử vong càng khiến họ gần gũi nhau hơn, như sợ không còn có dịp nữa.
* * *
Sáng hôm sau, bọn Chính Lan rời Từ Châu, tiếp tục đi lên hướng bắc. Kể từ đây, đường quan đạo chạy song song với Đại Vận hà. Tố Bình nhìn những cánh buồm xuôi ngược trên dòng kinh vĩ đại, vui vẻ hỏi:
- Tướng công, không hiểu giờ này tình hình lão khâm sứ thế nào nhỉ?
Chính Lan cười đáp:
- Nếu lão ta là tay chân của Ngụy Trung Hiền thì sẽ bình an vô sự, ngược lại sẽ phải khốn đốn vì thủy tặc.
Cuối tháng chín, ba người đã đi được thêm sáu trăm dặm mà không gặp trở ngại nào. Trưa hai mươi tám, họ đến vùng sơn địa dưới chân núi Thái sơn.
Ba người say mê ngắm ngọn núi hùng vĩ nhất Trung Hoa. Đông Nhạc Thái sơn chỉ cao gần bốn trăm bảy chục trượng nhưng lại đứng đầu Ngũ Nhạc. Đồng bằng sông Hoàng hà chính là cái nôi của nước Trung Hoa. Vì vậy, suốt các triều đại Hạ, Thương, Chu đã có bảy mươi hai vị hoàng đế đến đây để tế trời. Nghi lễ này được tiếp tục cho đến tận đời nhà Thanh.
Tất nhiên, ngoài sự linh thiêng, Thái sơn còn nhiều vẻ đẹp kỳ diệu khác. Nhưng tác giả xin hẹn hồi sau vì phu thê Chính Lan đang gặp nạn.
Lần này, cường địch không hề mai phục mà đường hoàng tiến đến. Họ đều không cỡi ngựa chứng tỏ cư trú rất gần đây. Đó là một lão đạo sĩ tóc bạc, râu đen, mặt sáng như trăng rằm và bảy đạo nhân tuổi tứ tuần. Tuy nhiên, trên góc trái mé tả của lão đạo sĩ kia lại có một khối u tròn nhô ra, làm mất cả vẻ tiên phong đạo cốt. Đạo sĩ già tươi cười hỏi:
- Bần đạo là Thái Sơn Phủ Quân, chắc công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp?
Chính Lan cười mát:
- Đúng là tại hạ, xin hỏi đạo trưởng có việc gì cần chỉ bảo?
Thái Sơn Phủ Quân nghiêm giọng:
- Bần đạo có đứa tiểu đồ luyện công sai đường, cần nhánh thiên niên Hà Thủ Ô để chữa trị. Mong công tử khai ân ban cho.
Bỗng Chính Lan nghe tiếng Thi Mạn truyền âm:
- Tướng công, bọn đạo sĩ này luyện tà công nên cổ trùng không dám vào.
Chính Lan chợt nhớ đến một nhân vật, mỉm cười hỏi:
- Phải chăng đạo trưởng chính là Độc Giác Thần Ma đất Quí Châu?
Thái Sơn Phủ Quân biến sắc, không còn giữ vẻ hòa nhã giả tạo nữa. Lão bật cười ghê rợn:
- Bần đạo đã không muốn nhắc đến món nợ cũ với sư phụ ngươi là Hoàng Hạc Tú Sĩ, chẳng ngờ ngươi lại đoán ra lai lịch, có chết cũng là đáng kiếp.
Hơn ba mươi năm trước, Độc Giác Thấn Ma giết người như ngóe, bị Ngũ Di Nghiệp tìm đến hỏi tội. Lão khôn hồn không ló mặt ra, mở cửa sau đào tẩu và biệt tăm cho đến bây giờ. Chính Lan cười nhạt:
- Xem ra tôn giá ẩn mặt mấy chục năm, chắc đã luyện thành thần công tuyệt thế, nên mới dám mở miệng hăm dọa đồ đệ của Hoàng Hạc Tú Sĩ?
Phủ Quân đắc ý:
- Đúng thế! Năm xưa bần đạo chạy đến núi Thái sơn, tình cờ bắt được pho bí kíp khoáng cổ tuyệt kim, luyện thành kiếm thuật vô thượng. Nay bần đạo dùng ngươi làm vật thử nghiệm đầu tiên cũng là hợp lẽ báo ứng của trời đất.
Bảy gã đạo sĩ trung niên dương mắt nhìn hai mỹ nhân, xúm lại chỉ trỏ bàn tán rất khả ố. Họ không ngờ tử thần đã nở nụ cười bằng đôi môi anh đào của nữ lang mảnh khảnh kia. Tố Bình ngồi trên mình ngựa nên có thể ném trái Đảo Thiên thần đạn thật mạnh vào mảnh đất cứng dưới chân bọn đạo nhân.
Hỏa khí nổ vang, xé nát da thịt và hất tung bảy xác người lên.
Thái Sơn Phủ Quân chưa kịp đau lòng thương tiếc đồ đệ đã bị Chính Lan tấn công, cả hai mỹ nhân cũng xông vào để kết liễu trận chiến cho mau chóng. Biết đâu đối phương còn có quân tiếp viện?
Nhưng không ngờ bản lãnh của Phủ Quân cao thâm vô lượng. Lão gầm lên như thú dữ, đánh bạt cả ba thanh trường kiếm và ập vào Tố Bình, quyết giết nàng trước để trả thù cho đệ tử. Kiếm chiêu uy mãnh tuyệt luân và nhanh như chớp giật.
Chính Lan kinh hãi vội xuất chiêu Đào Hoa Lưu Thủy, đánh vào mé hữu Phủ Quân, Thi Mạn cũng phóng kim xà vào thân dưới lão ác ma để cản đường tiến. Thái Sơn Phủ Quân sinh trưởng ở Quí Châu nên đâu lạ gì Hồng Quan Kim Xà, phất tay áo đánh bật con vật ra và vẫn tiếp tục tiến lên.
Chính Lan không phá được màn kiếm quang, và nghe tay tê chồn bèn xạ thêm một đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào mặt đối phương. Mũi tên máu kia đã khiến Phủ Quân phải khựng lại, nghiêng đầu né tránh. Nhờ vậy, đường kiếm của lão hơi chậm lại và Tố Bình thoát chết. Nàng chỉ bị mũi kiếm đâm vào bắp tay bên trái.
Chính Lan ước lượng bản lãnh Thái Sơn Phủ Quân còn cao hơn Phú Quí hội chủ Hà Lăng và Đào Hoa cung chủ vài bậc, đành phải dùng lối đánh đổi mạng để đối phó.
Lúc này Thi Mạn đã kéo Tố Bình nhảy ra xa để băng bó vết thương.
Chính Lan vung kiếm xuất chiêu Thiên Địa Bất Nhân.(7)Kiếm vừa chạm nhau chàng đã xạ liền một đạo Nhất Điểm Hồng. Vì phải dồn bốn thành công lực vào tay tả nên đường kiếm yếu ớt, bị đánh bạt ra ngay, đồng thời Chính Lan nghe ngực phải đau nhói. Ngược lại, trán Phủ Quân cũng trúng đòn, không thủng xương đầu nhưng cũng rách da và đau điếng. Lão thầm khiếp sợ vì nếu trúng vào mắt thì xong đời.
Phần Chính Lan biết mình đã gãy một rẽ xương sườn nhưng vẫn kiên dũng ôm kiếm lao vào. Thái Sơn Phủ Quân không dám đổi mạng đành phải đổi đấu pháp. Lão cẩn trọng từng chiêu, chẳng tính đến chuyện gấp rút lấy mạng đối phương nữa. Với công lực thâm hậu và kiếm pháp linh diệu hơn hẳn, trước sau gì lão cũng giết được chàng, hà tất phải liều? Do đó, Chính Lan dễ dàng cầm cự thêm trăm chiêu nữa.
Liễu Thi Mạn đã băng bó cho Tố Bình xong, xách kiếm nhảy vào hỗ trợ cho trượng phu. Nàng khôn ngoan dùng lối du đấu, chập chờn ở vòng ngoài, thỉnh thoảng tập kích một chiêu. Thái Sơn Phủ Quân không hề bối rối, thản nhiên vung tả chưởng đánh bật nàng ra. Chưởng kình nặng như búa bổ nên Thi Mạn không chịu nổi, chỉ sau năm lần va chạm, đã hộc máu tươi, bỏ cuộc.
Chính Lan thấy lão ác đạo công lực quá cao thâm, biết khó thoát chết liền quát vang:
- Hai nàng mau rời khỏi chốn này ngay.
Tố Bình bật khóc:
- Phu thê đồng mệnh, bọn thiếp nguyện chết theo chàng.
Hai người đứng nhìn cuộc tử đấu mà rơi lệ. Chính Lan đã trúng đến tám vết kiếm thương, máu nhuộm đỏ thân hình. Chàng vẫn kiên cường lăn xả vào, chẳng kể tử sinh.
Bỗng Thái Sơn Phủ Quân tung mình nhảy lùi ra hai trượng. Chính Lan đã kiệt lực nên chẳng đuổi theo, đứng lại điểm huyệt chỉ huyết.
Phủ Quân ngửa cổ cười vang:
- Chính Lan! Đã đến lúc kết thúc rồi đấy. Ta sẽ dùng một chiêu tuyệt kiếm để đưa ngươi về chốn suối vàng. Nếu sau chiêu này mà ngươi vẫn còn sống, bần đạo hứa sẽ bỏ đi ngay.
Chính Lan cười nhạt:
- Được! Xuất chiêu đi.
Thi Mạn và Tố Bình hồi hộp theo dõi. Họ hy vọng Chính Lan sẽ qua được chiêu kiếm cuối cùng này. Nếu không, họ sẽ tự sát chết theo chàng. Chính Lan dồn hết toàn lực vào thân kiếm, chỉ xéo lên trời chờ đợi. Đôi mắt chàng chăm chú quan sát hành động của đối phương.
Thái Sơn Phủ Quân dựng kiếm trước ngực lướt đến, lúc còn cách một trượng, lão liền xuất thủ. Thanh trường kiếm của lão bỗng hóa thành chín chiếc mống ngũ sắc, bay đến như ánh sao băng. Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, Chính Lan bỗng nhận ra đối phương đang thi triển chiêu Thiên Lý Trùng Hồng của Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng. Chiêu này chàng không sao luyện thành, đường kiếm yếu ớt, vô lực. Nhưng tất nhiên chàng vẫn thuộc lòng từng thức kiếm và biết rõ nhược điểm của nó. Chính Lan rung kiếm đâm bảy nhát vào màn kiếm ảnh kia. Chín đạo cầu vồng vụt tắt, đường kiếm đã bị chặn đứng. Chàng kiệt sức nên trường kiếm gãy đoạn, có điều chàng đã phá được và vẫn còn sống sót.
Thi Mạn vàTố Bình vui mừng khôn xiết, chạy đến bên phu tướng. Thái Sơn Phủ Quân ngơ ngác như người gặp ma. Lát sau, lão trầm giọng hỏi:
- Vì sao ngươi lại phá được chiêu Thiên Lý Trùng Hồng?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ chỉ gặp may thôi.
Phủ Quân bực bội nói:
- Bần đạo giữ lời, tha cho bọn ngươi lần này. Nhưng ba tháng sau, bần đạo sẽ đến Nam Kinh tìm ngươi.
Chính Lan cười mát:
- Tại hạ sẽ dọn mình để ứng hầu.
Thái Sơn Phủ Quân dậm chân tức tối, bỏ đi về hướng nam, chẳng thèm nhìn đến bảy xác chết đã tan nát kia.
Thi Mạn điểm huyệt chỉ huyết và cho Chính Lan uống linh đan. Nàng cười ra nước mắt:
- Tướng công còn sống là tốt rồi. Chúng ta mau rời khỏi nơi này tìm chỗ dưỡng thương. Nếu gặp kẻ địch khác thì nguy to.
Hai nàng đỡ Chính Lan lên ngựa. Cả ba phi mau lên hướng bắc. Được vài dặm, Chính Lan gục xuống lưng ngựa. Hai nàng vội đưa tay giữ lại rồi cho ngựa rẽ vào rừng. Cũng may là sau trận phá mai phục gần Từ Châu, đám lục lâm bám theo đã bỏ cuộc vì sợ vạ lây. Vì vậy, không ai biết bọn Chính Lan đã thọ thương và đi đâu.
Ngày xưa, quanh Thái sơn rừng rậm bạt ngàn, hổ báo không thiếu. Nó là ngọn núi linh thiêng nên cấm chặt cây, đốn củi.
Hai nàng theo đường mòn vào sâu ba dặm đã tới một tòa miếu cũ, nằm cạnh dòng suối nhỏ. Có nước và có nơi trú mưa là tốt lắm rồi, họ dừng ngựa, bồng Chính Lan xuống.
Tòa cổ miếu này được xây bằng đá núi nên vẫn còn vững chắc. Trên đầu đắp nổi ba chữ “Thần Hổ miếu.” Có lẽ bọn thợ săn đã dựng nên miếu này để hối lộ bọn mãnh hổ.
Thi Mạn bồng Chính Lan còn Tố Bình bẻ cành lá quét sơ nền miếu, và mở toang các khung cửa sổ để xua đuổi mùi ẩm mốc.
Xem ra lũ cọp dữ Thái sơn đã không vui lòng với những lễ vật nhỏ nhoi nên tiếp tục sát hại phường săn khiến họ chán nản chẳng lui tới cúng tế nữa. Như để xác nhận điều này, tiếng hổ gầm vang lên rất gần, Thi Mạn đặt Chính Lan xuống sàn gạch, nói với Hồng Quan Kim Xà:
- Hồng nhi! Ngươi ra ngoài gọi bầy rắn trong rừng đến lập vòng vây quanh miếu.
Con vật linh thông kia rít nhẹ tỏ ý vâng lệnh rồi trườn ra ngoài. Nó cất đầu cao, gáy lên lanh lảnh. Lát sau, hàng ngàn con rắn độc ùn ùn kéo đến nằm im đợi lệnh.
Trong này, Thi Mạn và Tố Bình nhanh tay lột sạch bộ y phục đẫm máu của phu tướng quan sát các vết thương. Tố Bình sa lệ nói:
- Tướng công quả là con người bằng thép mới chịu đựng nổi tám vết thương này, và vẫn còn giải phá được chiêu kiếm cuối cùng.
Thi Mạn nhìn quanh, phát hiện trên án thờ tượng thần hổ có một chiếc thau bằng đồng. Vật này chắc dùng để đựng thịt cúng. Nàng mừng rỡ lấy xuống, chạy ra suối rửa sạch và múc nước đem vào. Hai nàng chẻ ngay chiếc hương án bằng gỗ ra làm củi, nhóm đống lửa sưởi ấm và nấu nước.
Họ vừa khóc vừa rửa vết thương và lau mình cho Chính Lan. Chàng bị chặt gãy bốn rẽ xương ngực và bốn vết còn lại ở phần mềm như bụng đùi. Băng bó xong xuôi mà Chính Lan vẫn mê man, người nóng như lửa. Chàng đã mất máu quá nhiều và vết thương hành cho phát sốt. Tố Bình tình cờ nhìn thấy chiếc hộp vàng đựng thiên niên Hà Thủ Ô, cầm lấy bảo Thi Mạn:
- Hiền muội! Đây là vật duy nhất có thể cứu được tướng công. Nếu chàng mạng vong thì nó cũng chẳng đến được Bắc Kinh. Hay là chúng ta dùng để cứu chàng trước đã? Nếu tướng công trách mắng, ta xin chịu hết.
Thi Mạn mỉm cười:
- Tiểu muội cũng có ý ấy, việc trị bệnh cho hoàng đế chỉ cần một lát mỏng cũng đủ. Nhân dịp này, tiểu muội sẽ nấu cho tướng công món Thất Xà Hà Thủ Ô, không những cứu được mạng mà còn tăng cường công lực nữa. Bình thư nấu nước sẵn đi, tiểu muội ra ngoại chọn rắn.
Nói xong, nàng cắt ngay một lát kỳ trân đút vào miệng Chính Lan. Chàng chỉ ngậm nhưng cũng đủ để bảo toàn sinh cơ.
Lát sau, Thi Mạn trở về với bảy con rắn đủ màu trên tay. Nàng vui vẻ nói:
- Cũng may không thiếu loại nào. Khu rừng này phong phú độc xà chẳng thua gì Miêu Cương.
Nửa canh giờ sau, món thịt rắn nấu Hà Thủ Ô ngàn năm đã xong. Tố Bình đỡ Chính Lan còn Thi Mạn mớm cho chàng. Vì không có chén, muống gì cả, đành ngậm những hớp canh thuốc quí giá kia, đưa vào miệng Chính Lan. Tố Bình khúc khích cười:
- Ôi chao! Trông thật là tình tứ!
Thi Mạn cố mớm cho xong ngụm thuốc cuối cùng rồi đỏ mặt trách Tố Bình:
- Bình thư ác quá, tiểu muội sém chết vì sặc.
Hai nàng đặt Chính Lan nằm xuống, nhẹ nhàng xoa bóp toàn thân. Dần dần, mạch chàng ổn định lại, hơi thở đều đặn. Thi Mạn mừng rỡ nói:
- Kỳ trân đã phát huy diệu dụng, chàng sẽ ngủ rất lâu. Chị em ta có thể yên tâm tắm gội, ăn uống được rồi.
Họ kéo nhau ra suối nước cạnh miếu. Thi Mạn thản nhiên trút sạch xiêm y, chẳng chừa lại mảnh vải nào. Nàng cười bảo:
- Chung quanh đây là vòng vây của hàng vạn độc xà, Bình thư còn e ngại gì nữa?
Tố Bình đỏ mặt, ngượng ngùng noi gương Thi Mạn. Hai thân hình nuột nà, khiêu gợi kia chìm hết trong làn nước trong vắt vì Tố Bình bị thương ở vai. Thi Mạn giúp nàng gột rửa cơ thể, tinh nghịch vuốt ve đôi nhũ phong mơn mởn. Tố Bình rùng mình nhột nhạt, cười khanh khách, trả đũa ngay. Nước suối mùa thu trong và lạnh, hai nàng chẳng dám tắm lâu, lên bờ thay y phục rồi trở lại miếu.
Chính Lan vẫn ngủ say, Thi Mạn gầy thêm củi vì trời đã về chiều. Ánh tà dương không xuyên qua nổi khu rừng rậm rạp. Nàng lấy thêm nước đổ vào thau đồng, hâm lại món Thất Xà Hà Thủ Ô, vui vẻ bảo Tố Bình:
- Tướng công đã dùng hết tinh chất, nhưng nước thứ hai cũng rất bổ dưỡng. Chị em ta ăn hết chỗ thịt rắn này sẽ bổ ích không nhỏ.
Tố Bình nhăn mặt:
- Ta chẳng thể nào nuối nổi đâu.
Thi Mạn giận dỗi bảo:
- Bình thư không ăn tức là có ý chê tiểu muội là kẻ sơn dã man rợ đấy.
Tố Bình đành chịu thua. Thi Mạn mở bọc hành lý lấy ra một gói muối lớn, tươi cười giải thích:
- Đất Miêu Cương rất hiếm muối, vì vậy tiểu muội đã quen tật lúc nào cũng đem theo bên mình.
Quả đúng như vậy, lãnh thổ của người Miêu rải rác từ vùng phía bắc Quảng Tây đến Quí Châu, Vân Nam và rất xa bờ biển, do đó muối quí như vàng. Tố Bình cố nén sợ hãi, cầm khúc thịt rắn chấm muối ăn thử, thì ra hương vị thơm ngọt phi thường. Hai nàng đói bụng nên chén sạch cả nước lẫn cái, nuốt luôn xác Hà Thủ Ô.
Ăn xong, hai nàng nhìn nhau mỉm cười, Tố Bình bỗng lộ vẻ lo lắng:
- Tướng công hồi tỉnh thế nào cũng hỏi đến kỳ trân, hiền muội tính sao?
Thi Mạn cười khúc khích:
- Bổn sơn nhân đã có diệu kế.
Nàng mở tay nải lấy ra một túi lụa, trong đó có một đoạn Hà Thủ Ô giống hệt đoạn đã đưa cho Quí Thành Lâm. Nàng cười bảo:
- Tiểu muội tiện tay làm đến hai khúc, định bụng sẽ lén tướng công tráo lấy nhánh thực, hy vọng bọn thái y không nhận ra. Tướng công mấy phen thua thiệt bọn tà ma cũng chỉ vì thiếu công lực. Chàng mà có được kỳ trân này thì sẽ chẳng còn phải sợ ai nữa?
Tố Bình nhíu mày:
- Nhưng lẽ nào quan thái y lại không phân biệt được?
Thi Mạn xua tay, lấy ra thêm hai lát nữa, ranh mãnh nói:
- Đây là hai miếng thực, chỉ cần dán vào đầu của đoạn giả là xong. Thánh thượng là người yếu đuối, cơ thể không có chân khí nên mỗi lần dùng chỉ được một miếng rất mỏng. Khi họ cắt đến đoạn giả thì chúng ta đã cao chạy xa bay rồi.
Tố Bình ngợi khen:
- Ngươi quả là lắm mưu ma chước quỉ, còn hơn cả ta nữa.
Đêm xuống, hai nàng đến nằm cạnh phu tướng, ôm chàng mà ngủ vùi.
Sáng ra, tiếng chim rừng đánh thức Chính Lan. Chàng mở mắt, nghe cơ thể sảng khoái, các vết thương chỉ còn hơi đau nhức mà thôi. Nhận ra hai người vợ yêu đang ngủ say, chàng nhẹ nhàng gỡ vòng tay họ rời chỗ.
Việc làm đầu tiên của Chính Lan là kiểm tra lại hộp vàng đựng thiên niên Hà Thủ Ô. Chàng thở phào khi thấy bảo vật vẫn còn nguyên vẹn. Có lẽ có con hổ nào đi lạc vào xà trận, bị tấn công nên gầm vang. Hai nàng thức giấc, hân hoan vấn an trượng phu:
- Tướng công thấy người thế nào?
Chính Lan vui vẻ đáp:
- Kinh mạch thông suốt, chỉ thấy mấy rẻ xương là còn đau mà thôi. Các nàng cho ta uống loại kỳ dược nào vậy?
Thi Mạn mau mắn đáp:
- Trong rừng này có rất nhiều loại rắn quí và thảo dược. Thiếp đã dùng chúng để chữa trị cho tướng công.
Tố Bình tiếp lời:
- Kỳ hạn còn đến nửa tháng nữa, chúng ta cứ ở lại đây tính dưỡng vài ngày. Sau đó sẽ cải trang đi Bắc Kinh. Không có ai cản đường, cước trình sẽ rất nhanh.
Chính Lan tán thành và hỏi lại:
- Nhưng biết lấy gì làm lương thực đây? Nàng đâu quen ăn uống kham khổ?
Tố Bình nũng nịu:
- Tướng công chớ xem thường, hôm qua thiếp đã ăn hết nửa thau thịt rắn đấy.
Trong mấy ngày sau đó, bọn Chính Lan vui vẻ chịu đựng cạnh thiếu thốn nhưng vô cùng đầm ấm. Thi Mạn dắt Tố Bình vào rừng hái rau và bắt thú rừng. Tuy nhiên, món ăn chính vẫn là độc xà, rắn càng độc thịt càng bổ dưỡng.
Thi Mạn còn bắt Chính Lan phải nuốt hàng túi mật rắn đáng ghét. Cộng với diệu dụng của kỳ trân, bốn dẻ xương gãy đã liền lại một cách thần kỳ, công lực Chính Lan cũng tăng tiến vượt bậc. Chàng nghe chân khí sung mãn, cứ tưởng do tác dụng của món thịt và mật rắn.
Chiều ngày ba tháng mười, Chính Lan bảo hai nàng:
- Sáng mai chúng ta có thể khởi hành được rồi. Ta đã hoàn toàn bình phục.
Tố Bình thẹn thùng rủ rê:
- Vậy chúng ta ra suối tắm gội sạch sẽ, rồi thiếp mới trổ tài dịch dung được.
Đêm qua có mưa, nước từ trên núi tràn xuống khiến dòng suối chảy mạnh và dâng cao. Chính Lan phải giang đôi tay mạnh mẽ để hai nàng dựa vào, chống lại sức cuốn của dòng nước bạc. Họ thấp hơn chàng cả cái đầu nên chân không chạm đất. Hai mỹ nhân sung sướng vuốt ve những vết sẹo đã kéo da non, bật cười khanh khách. Chính Lan xiết chặt hai thân hình nõn nà kia, mỉm cười:
- Cổ nhân có câu “tạo hóa ố toàn.” Nay ta lấy được đến sáu giai nhân tuyệt thế, hạnh phúc còn hơn thiên tử, chỉ sợ trời xanh ghen ghét không cho được mãi thế này.
Tố Bình bịt miệng chàng trách:
- Sao tướng công lại nói như vậy? Thực ra đây chỉ là sự bù đắp của hoàng thiên cho chàng đấy thôi. Thứ nhất, chàng không có dung mạo tuấn tú. Thứ hai, song thân bị hãm hại, mấy năm nay lại liên tiếp gặp cường địch suýt chết. Như vậy, sao gọi là toàn mỹ mà chàng lo lắng?
Chính Lan hôn lên má nàng khen ngợi:
- Bình muội quả có tài biện bác, ta nào có ưu tư gì về mệnh trời. Trước giờ, ta vốn một lòng quả dục, không ngờ cơ tạo lại đẩy đưa đến tay quá nhiều hoan lạc, bảo sao tâm không áy náy?
Thi Mạn bật cười:
- Đã gọi là mệnh trời thì cứ an nhiên thụ mệnh, cớ chi phải thắc mắc? Tướng công cứ tự nhủ rằng kiếp trước dày công tu hành, gõ thủng đến hàng trăm cái mõ nên kiếp này mới gặp bọn thiếp.(8)
Ba người vui vẻ bơi lội, nô đùa như trẻ thơ, đến lúc đói bụng mới lên bờ.
Đã gần mười ngày không ân ái, thịt rắn lại bổ, Chính Lan động tình dìu hai mỹ nhân vào miếu. Những mảnh gỗ cuối cùng của chiếc hương án ban phát ánh lửa chập chờn, và sưởi ấm cho ba cơ thể thanh xuân. Chính Lan được ăn món Thất Xà Hà Thủ Ô lại càng dũng mãnh hơn xưa, chẳng để ai phải chịu thiệt thòi. Cảnh ái ân nồng thắm không bút nào tả xiết.
Hơn canh giờ sau, ba người chén sạch thau thịt rắn mà vẫn chưa no.

Hồi 9

Long tuyền nhất xuất tà ma khiếp
Đế địa âu dương diệt hoạn quan

Sáng ra, phu thê Chính Lan thức dậy thật sớm lo việc điểm tâm và hóa trang. Tố Bình mở túi bảo bối, lấy ra ba chiếc mặt nạ mỏng như cánh chuồn và hộp phấn màu. Chỉ sau vài khắc, Chính Lan biến thành một lão nhân lục tuần, tóc hoa râm. Tố Bình cắt tóc mình làm râu giả cho chàng. Còn nàng và Thi Mạn dịch dung thành hai hán tử trung niên, da mặt sạm nắng.
Thi Mạn bảo Hồng Quan Kim Xà giải tán xà trận. Ba người lên ngựa đi về hướng bìa rừng. Ra gần đến đường quan đạo, đã thấy người xe qua lại tấp lập. Đó là đám khách thương hồ cùng các xe hàng, đang vội vã đi đến bến đò để vượt sông Hoàng hà. Chính Lan vui mừng nhận ra lá đại kỳ của Phi Ưng tiêu cục. Họ cũng đang hộ tống một xe tiêu nhẹ đi lên hướng bắc. Lão nhân cao lớn cưỡi bạch mã, đi cạnh tiêu xa, chính là tổng tiêu đầu Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn, anh em cô cậu của nhạc phụ chàng Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh.
Trụ sở của Phi Ưng tiêu cục đặt ở Hoàng Châu, sanh ý không lấy gì làm thịnh vượng. Hôm đám cưới Chính Lan, Dương lão có theo Giang Tô đại hiệp đến dự.
Quí Thành Lâm thấy lão là biểu thúc của Trại Tây Thi Du Mỹ Kỳ, liền ngỏ ý giao toàn bộ việc áp tải hàng hóa của Quí gia trang ở mấy tỉnh Giang Nam cho Phi Ưng Kiếm. Lão ta vui mừng khôn xiết, càng biết ơn cháu rể Hồng Nhất Điểm. Bọn Chính Lan phi ngựa ra, chạy đến gần Dương Mẫn.
Chàng hạ giọng gọi:
- Dương biểu thúc, tiểu tế là Chính Lan đây.
Phi Ưng Kiếm bán tín bán nghi, nhìn chàng với vẻ e ngại. Chính Lan mỉm cười nhắc nhở:
- Hôm ấy, biểu thúc đã tặng cho tiểu tế và Mỹ Kỳ một cặp chim ưng bằng bạch ngọc.
Việc này người ngoài chẳng thể biết được, Phi Ưng Kiếm mừng rỡ nói:
- Lão phu ghé Từ Châu, nghe đồn hiền điệt tế áp tải thiên niên Hà Thủ Ô đi Bắc Kinh, dọc đường chạm trán Hồng hồ thập bát trại và Đào Hoa cung, lòng vô cùng lo lắng, không ngờ hiền điệt tế vẫn còn ở đây.
Chính Lan giới thiệu hai ái thê và hỏi:
- Biểu thúc hộ tống tiêu xa đi đến đâu?
Dương lão cười đáp:
- Nhờ sự tín nhiệm của Quí gia trang mà Phi Ưng tiêu cục nổi tiếng khắp Giang Nam, các tài chủ khác cũng đua nhau gửi hàng. Thực ra, cũng là nhờ oai danh Hồng Nhất Điểm đại hiệp của hiền tế đấy. Khi họ biết lão phu là chú vợ của hiền tế, càng bội phần tin tưởng.
Tố Bình cười khúc khích:
- Chắc chắn biểu thúc đã tiết lộ việc ấy?
Phi Ưng Kiếm đắc ý:
- Đúng thế, có được cháu rể như Chính Lan, tội gì phải giấu. Nhưng ta chỉ nói với các đại tài chủ thôi.
Lão hắng giọng rồi kể tiếp:
- Lần này lão phu được Hoàng tài chủ ở Thượng Hải ủy thác đem trăm cân bảo ngọc tây dương đến kinh đô. Số hàng này giao tại cửu hiệu của họ Hoàng, để bán cho các phi tần, hay tiểu thư nhà quyền quí.(9)
Chính Lan nghe lão nói sẽ đi Bắc Kinh, mừng rỡ kể lại nội tình và nhờ lão giúp đỡ. Tất nhiên, Phi Ưng Kiếm rất sẵn sàng. Thế là Phi Ưng tiêu cục có thêm ba tiêu sư nữa.
Như đã nói ở trên, sông Hoàng hà đổi dòng khi vừa qua khỏi thành Khai Phong, ngoặc xuống phía đông Tế Vinh, rồi theo hướng đông nam đổ vào hạ lưu sông Hoài, chảy ra Hoàng Hải. Vì vậy, bến đò sang sông rất gần với Tế Ninh. Phi Ưng Kiếm thấy Chính Lan không có vũ khí, liền sai người chạy vào thành mua một thanh kiếm thật tốt. Dương tổng tiêu đầu muốn tỏ lòng biết ơn cháu rể nên đã cao giọng bảo phó tổng tiêu đầu Phục Hổ Đao Hoa An:
- Hiền điệt hãy chọn thanh gươm tốt nhất, giá cả không hạn chế.
Thi Mạn bỗng đòi đi theo:
- Thiếp chưa đến Tế Vinh lần nào, xin được theo Hoa đại thúc xem qua cảnh vật.
Chính Lan mỉm cười:
- Nàng đã thích thì cứ đi.
Ba khắc sau, Hoa An và Thi Mạn trở lại. Mặt mỹ nhân thì tươi như hoa còn mặt họ Hoa thì lại nhăn nhó như khỉ ăn ớt.
Thi Mạn tươi cười trao Chính Lan một thanh trường kiếm cũ kỹ, cán ngà voi vỏ bằng da lạc đà. Nàng ríu rít kể:
- Thật là may mắn, vừa đến cửa thành đã gặp ngay một gã người Tây Vực đang rao bán kiếm. Gã bập bẹ kể rằng cần lộ phí về Tây Hạ nên mới phải cắn răng bán bảo kiếm gia truyền. Thiếp thấy tội nghiệp chẳng nỡ kỳ kèo thêm bớt, chịu giá hai ngàn lượng bạc.
Hoa An không dằn nỗi lòng tiếc của, mở miệng cằn nhằn:
- Thiếu phu nhân đừng quá nhẹ dạ thì năm trăm lượng gã kia cũng bán.
Phi Ưng Kiếm nghe nói thanh kiếm nuốt mất hai ngàn lượng bạch ngân, lòng đau như cắt nhưng cũng gượng cười:
- Giá cả chẳng quan trọng, quí hồ kiếm tốt là được.
Chính Lan lẳng lặng rút kiếm ra khỏi vỏ, thấy nước thép mờ đục, chẳng hề tỏa ra chút hơi lạnh nào. Chàng biết rõ Thi Mạn là người tinh minh, tất chẳng bao giờ mua lầm, liền chăm chú quan sát thật kỹ. Cuối cùng chàng nhận ra ba chữ mờ mờ nằm dọc thân kiếm, chữ mòn đi và không đủ nét.
Nhưng dựa vào những gì còn lại, chàng cũng đoán ra được đây là thanh Long Tuyền kiếm, một thần vật thời Xuân Thu, từng sánh vai với Can Tương, Mạc Du, Ngư Trường, Thái A…
Chàng búng thử vào thân kiếm, lắng nghe tiếng ngân nga trong vắt và dài dằng dặc. Chính Lan hoan hỉ phi thường nhưng cố nén xúc động và chỉ nói:
- Hảo hiền thê, cám ơn nàng đã tặng bảo vật.
Phi Ưng Kiếm và Phục Hổ Đao đâu biết rõ ẩn tình, nhìn Chính Lan cười mỉa, thầm rủa chàng là một gã nịnh đàn bà, biết vợ mình mua kiếm lầm mà vẫn ngợi khen.
Chính Lan truyền âm nói với Tiểu Linh Thố. Tố Bình hiểu ý, lấy ra hai tấm ngân phiếu ngàn lượng, trả lại cho Hoa An:
- Số bạc kia là xương máu của anh em tiêu sư, chị em thiếp đâu nỡ lấy của họ, mong Hoa đại thúc nhận lại cho.
Chính Lan cũng nói:
- Nếu đại thúc không nhận, Chính Lan tôi xin hoàn lại bảo kiếm.
Dương lão mượn cơ hội ấy cười hì hì:
- Chính Lan đã nói thế, Hoa lão đệ cứ nhận lại bạc cho y được vui.
Phục Hổ Đao khoan khoái nhận lại ngay.
Đò ngang cặp bến, tám tiêu sư đưa xe tiêu và ngựa lên đò. Họ đều là cao thủ hạng nhất của Phi Ưng tiêu cục. Số bảo ngọc này trị giá đến năm vạn lượng vàng nên ai nấy đều lo ngay ngáy. Nay có Hồng Nhất Điểm đồng hành mối lo kia biến mất, họ thầm biết ơn chàng.
Sang đến bờ Bắc, Chính Lan nhận ra hàng trăm gã cẩm y thị vệ đang tra xét khách sang sông. Chàng thì thầm nói với Phi Ưng Kiếm:
- Biểu thúc hãy lựa lời mà đối phó. Hy vọng chúng không biết mối quan hệ giữa biểu thúc và tiểu điệt.
Dương lão giờ đây bắt đầu hối hận vì cái thói nhiều lời. Lão trấn an Chính Lan mà cũng là để trấn an chính mình:
- Ta họ Dương còn nhạc phụ ngươi họ Du, làm sao chúng đoán ra được. Chỉ cần chút lễ vật mãi lộ là xong ngay.
Người, ngựa, tiêu xa lên cả trên bờ, chờ đến phiên tra xét.
Chính Lan thấy bọn thị vệ thân thủ linh hoạt, mắt sắc như dao, biết ngay chúng là cao thủ Đông Xưởng hoặc Tây Xưởng. Lúc hành sự công khai chúng có quyền mặc áo cẩm y thị vệ.
Hàng người phía trước đã qua lọt, Phi Ưng Kiếm cố nặn ra một nụ cười thật dễ mến, nói với gã thị vệ:
- Bọn thảo dân là Phi Ưng tiêu cục ở Hàng Châu, xin bái kiến chư vị thị về đại nhân. Đây là giấy thông hành do tri phủ Chiết Giang cấp!
Lão cung kính đưa ra một quyển sổ mỏng. Gã đội trưởng thị vệ mở ra xem, thấy tấm ngân phiếu hai trăm lượng bạc của Sơn Tây tiền trang, liền nở nụ cười thân ái:
- Bọn ta đông đến hơn trăm, e rằng không đủ uống rượu, mong Dương lão phóng tay thêm chút đỉnh.
Dương Mẫn vui vẻ móc ra thêm tờ trăm lượng, đặt vào quyển sổ thông hành. Gã thị vệ gật gù, vuốt nhẹ đã cuốn tròn hai tờ ngân phiếu vào tay. Gã trả sổ cho Phi Ưng Kiếm rồi cao giọng:
- Cho qua.
Chính Lan thở dài trước cảnh tượng trái tai gia mắt kia. Chàng nghe lòng lặng trĩu ưu tư, lo lắng cho giang sơn. Triều đình đã hủ bại như thế này, còn mong gì chống lại quân Thanh?
Tám năm trước, thừa lúc nhà Minh suy yếu, giặc cướp nổi lên khắp nơi, quân Mãn Châu tấn công Trung Hoa, thắng mười vạn quân Minh, lần đầu chiếm được hết miền Liêu Đông. Quân Minh nhờ đại pháo của Bồ Đào Nha chặn chúng lại bên kia Sơn Hải Quan. Quân Thanh quay sang quấy nhiễu vùng Tây Hạ. Đất nước suy vong, phần lớn do tội của bọn gian thần, tặc tử như bè lũ Ngụy Trung Hiền. Chính Lan chỉ mong đến Bắc Kinh thật sớm, vung ba thước gươm chém đầu lão cẩu thái giám và bọn tay sai.
Vì vậy, khi đến Tế Nam, Chính Lan đã chia tay với Phi Ưng tiêu cục. Họ có xa tiêu nên cước trình chậm chạp.
* * *
Mờ sáng ngày bảy tháng mười, phu thê Chính Lan rời thành Tế Nam.Trời còn sớm, đường vắng người nên họ có thể phi nước đại. Năm ngày sau, họ chỉ còn cách Bắc Kinh bốn trăm dặm.
Thấy hai mỹ nhân lộ vẻ mệt mỏi, Chính Lan đành chậm lại, hòa vào đoàn lữ khách, thong thả dong ruổi. Và khi đến trấn Vĩnh Lộc, ba người dừng cương, ghé vào một phạn điếm dùng cơm.
Hảo Vị phạn điếm nằm ở đầu nam của trấn, cơ ngơi rộng rãi, thoáng mát nên được nhiều lữ khách chiếu cố. Dĩ nhiên, thức ăn của họ cũng phải ngon miệng.
Chính Lan đã từng đến Bắc Kinh hồi ba năm trước nên biết tiếng quán cơm này. Hai mỹ nhân giả trai nên chẳng dám mở miệng, mặc Chính Lan gọi thức ăn.
Ở vùng núi phía bắc Hoàng hà, giờ đã sắp cuối thu, ít ngày nữa tuyết sẽ rơi, nên cảnh vật nhuốm một màu xám xịt, ảm đạm.
Chưa ăn xong bữa cơm trưa, Chính Lan thoáng nghe tiếng vó ngựa rầm rọ vọng đến. Lát sau, xuất hiện một toán cẩm y thị vệ đông độ hai mươi người, áp giải hai chiếc xe tù. Đó là loại xe song mã không mui, mỗi xe chở được hai lồng gỗ nhốt tù nhân. Người tù phải ngồi thò đầu ra ngoài và không thể rút vào.
Trong bốn chiếc đầu lem luốc vì bụi đất và máu kia có ba chiếc rất đặc biệt, chúng không hề có tóc. Chính Lan kinh hãi nhận ra Hán Trung Tam Ngốc. Chúng có vẻ khoẻ mạnh, tỉnh táo hơn người thứ tư. Người này đang gục mặt xuống, tóc lòa xòa phủ kín nên chàng không thấy rõ.
Trưởng toán thị vệ là một lão già râu bạc, da mặt nhăn nheo, sống mũi lệch hẳn sang một bên. Lão ta đã quá già để làm thị vệ, chắc cũng là cao thủ tam xưởng cải trang thôi.
Lão ta cất giọng the thé:
- Chúng ta vào ăn cho nhanh rồi lên đường.
Hai gã thị vệ đánh xe đứng lên, vung roi quất vào đầu bốn tù nhân, lớn tiếng đe doạ:
- Khôn hồn thì ngồi im, để bọn lão gia ăn cho ngon miệng. Nếu la lối, chửi rủa sẽ bị bỏ đói.
Nhát roi kia đã khiến người thứ tư ngẩng đầu lên, quắc mắt nhìn kẻ thù. Chính Lan rụng rời nhận ra bằng hữu của mình, Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên.
Tam ngốc đã về Trường An hú hí với vợ trẻ, còn Thiết Xuyên trở lại Sơn Tây với từ mẫu, vậy vì sao họ lại cùng bị bắt giải lên kinh? Chính Lan tự hỏi như vậy và chàng cũng ngạc nhiên khi thấy toán thị vệ này có thể bắt sống được họ. Như vậy, lão già đeo kim bài trên ngực áo kia ắt phải rất lợi hại.
Lúc này, bọn thị vệ đã ngồi cả xuống lột nón ra. Nhờ vậy, Chính Lan mới nhìn rõ lão trưởng toán có đôi mắt một lớn một nhỏ rất quái dị.
Chính Lan truyền âm nói rõ sự tình cho hai ái thê nghe. Tố Bình liếc về phía bàn đám thị vệ, biến sắc thì thầm:
- Tướng công, lão già kia chính là Âm Dương Quỉ Tẩu Lưu Phong ở đất Phúc Kiến. Pho Âm Dương Lạc Hồn chưởng của lão tỏa độc khí vô cùng lợi hại. Mười năm trước lão chạm trán gia phụ, bị đả bại nên mai danh ẩn tích, không ngờ lại đầu nhập tam xưởng?
Chính Lan gật đầu, tư lự bảo:
- Cướp tù chẳng khó nhưng phải ra tay êm thắm, không để bất cứ tên nào sống sót. Nếu không Ngụy Trung Hiền sẽ biết chúng ta đã đến Bắc Kinh và rải đại quân truy bắt.
Chợt một gã thị vệ thấp béo bước ra, tay cầm bình rượu và một con gà luộc. Gã đến cạnh chiếc xe tù cười hăng hắc:
- Đứa nào mở miệng chửi Hồng Nhất Điểm, đại gia sẽ thưởng cho rượu thịt.
Hách Thiết Xuyên liền phun nước miếng vào mặt gã thị vệ. Nhưng do khí lực cạn kiệt, bãi nước bọt chẳng đến nơi được.
Chính Lan thấy rõ Hán Trung Tam Ngốc nuốt nước miếng ừng ực, trố mắt nhìn miếng thịt gà. Chắc chúng phải chịu đói khát khá lâu rồi.
Nhị ngốc Hồ Giả ngập ngừng bảo:
- Hay là ngươi cho bọn ta ăn uống no bụng, lúc ấy mới có khí lực mà chửi chứ?
Gã thị vệ cười nhạt:
- Đại gia đâu phải là con nít mà mắc lừa?
Nhị ngốc cụt hứng im luôn. Gã thị vệ cười vang trở vào trong quán. Ở ngoài này, tam ngốc bàn bạc với nhị ngốc:
- Hay là chúng ta cứ chửi đại ca vài câu có sao đâu? Thứ nhất là đại ca không hề nghe thấy. Thứ hai, đại ca là người rộng lượng, nếu có biết chúng ta chửi vài câu chắc cũng không nỡ trách. Cổ nhân chẳng có câu cái gì mà… ngộ biến tùng quyền đấy sao?
Nhị ngốc phân vân:
- Xem ra tam đệ nói cũng có lý, ta nhịn đói hết nổi rồi.
Nhưng đại ngốc Hồ Đạo Tĩnh đang bị nhốt chung xe với Thiết Xuyên đã mắng ngay:
- Hai ngươi quả là phường đốn mạt. Sao không nhớ ba năm trước bị quan quân gông cổ đưa về đại lao Hán Trung chờ chém, được Âu Dương đại ca cứu mạng. Nay nỡ vì miếng ăn mà chửi rủa người ơn được ư?
Thiết Xuyên cười nhạt:
- Cứ để chúng chửi. Ta đảm bảo cứ chửi rủa Chính Lan ngàn lời cũng chẳng được miếng nào đâu.
Tam ngốc chụp ngay cơ hội cười hì hì bảo:
- Vậy để ta chửi thử vài câu, xem như đánh cuộc với Hách huynh một chuyến.
Thiết Xuyên chua chát nói:
- Nếu chửi mà thoát chết thì cũng đáng. Bằng chửi để đổi lấy miếng thịt thì sao xứng với danh võ sĩ?
Chính Lan đã nghĩ ra phương thức đoạt tù, liền bước ra ngoài sân, giả đò xem xét móng ba con tuấn mã. Từ đây đến tù xa chỉ cách hơn trượng. Chàng vận công truyền âm nói với Thiết Xuyên:
- Hách huynh, tại hạ là Chính Lan đây.
Thiết Xuyên giật bắn mình, nhìn về phía lão già đang ngồi dưới chân lũ ngựa. Đôi mắt ánh lên niềm hoan hỉ phi thường và chứa chan tình cảm.
Chính Lan liền nói sơ kế hoạch của mình, rồi trở vào quán gọi tiểu nhị tính tiền cơm. Ba người lên ngựa đi ngay không hề nhìn bốn người tù đến nửa con mắt. Nhị ngốc Hồ Giả bỗng lẩm bẩm:
- Lạ thực, hai gã mặt đen kia sao lại có đôi mông tròn trịa đầy đặn thế nhỉ?
Câu nói này không thoát khỏi thính lực của hai mỹ nhân. Tiểu Linh Thố đỏ mặt, hậm hực nói:
- Gã ngốc kia sắp chết mà còn nói bậy, lát nữa sẽ biết tay ta.
Thi Mạn cười khúc khích:
- Có phải chính gã Hồ Giả ấy đã từng gọi Bình thư là con mắm đấy không?
Chính Lan mỉm cười:
- Nhanh chân lên, chúng ta phải đến chỗ mai phục trước bọn thị vệ.
Ba con ngựa tung vó phi mau về hướng bắc. Lúc này, Vô Nhân Kiếm Khách chợt cao giọng gọi:
- Lưu đại nhân, Hách mỗ có chuyện muốn thương lượng.
Âm Dương Quỉ Tẩu ngạc nhiên bước ra hỏi:
- Sao ngươi biết lão phu họ Lưu?
Thiết Xuyên cười mát:
- Thanh danh của Âm Dương Quỉ Tẩu Lưu Phong lừng lẫy võ lâm, lẽ nào tại hạ lại không biết?
- Thế ngươi muốn nói gì?
Thiết Xuyên buồn rầu đáp:
- Tại hạ còn từ mẫu phải phụng dưỡng, chẳng thể vì Hồng Nhất Điểm mà lỗi đạo được. Nay y đắc tội với triều đình, tại hạ đành phải đoạn bào tuyệt giao thôi. Nếu đại nhân khai ân không bắt tội tại hạ và Hán Trung Tam Ngốc, Hách mỗ xin dẫn đường đến chỗ hẹn với Âu Dương Chính Lan.
Ba gã ngốc tròn mắt sửng sốt, không ngờ Thiết Xuyên lại trở mặt bán rẻ Chính Lan. Đại ngốc mở miệng mắng ngay:
- Thiết Xuyên, không ngờ ngươi lại là hạng người xấu xa như vậy, ta thật…
Bỗng gã nhớ lại rằng cả bọn chưa hề hò hẹn với Chính Lan bao giờ. Bốn người kéo nhau đi Bắc Kinh là do bang chủ Cái bang Đại Đầu Cái cho đệ tử đưa thư đến, báo rằng Chính Lan áp tải thiên niên Hà Thủ Ô đi Bắc Kinh, đang gặp rất nhiều cường địch.
Đại ngốc lờ mờ hiểu rằng họ Hách đang âm mưu gì đấy, nên không chửi mắng nữa. Nhưng lại đến lượt nhị ngốc, gã bô bô nói:
- Cháy nhà ra mặt chuột, thế mà lúc nãy dám nên mặt giáo huấn bọn ta.
Tam ngốc cũng đang định chửi tiếp nhị ca thì Thiết Xuyên gầm lên:
- Nếu các ngươi muốn chết vì Chính Lan thì ta cũng chẳng cần, đừng nhiều lời nữa.
Ba gã ngốc im ngay, cho rằng sống dĩ nhiên tốt hơn chết. Sau này họ còn cơ hội tố cáo Thiết Xuyên với Chính Lan. Âm Dương Quỉ Tẩu thấy thái độ nét mặt của Hán Trung Tam Ngốc rất thành thực, liền tin ngay. Lão vui vẻ nói:
- Đông Xưởng chỉ cần bắt được Hồng Nhất Điểm, chư vị chịu khai báo tất sẽ vô can.
Thiết Xuyên ngượng ngùng nói:
- Hắn ta hẹn là không bao giờ sai rồi, chẳng chạy đâu cho thoát được. Trước tiên, mong đại nhân cho bọn tại hạ ăn no cái đã. Đã mấy ngày rồi có được miếng nào đâu?
Lưu Phong cười ha hả:
- Lão phu thật có lỗi, xin chờ một lát.
Lão bảo bọn thủ hạ vào quán mua mấy cân thịt và vò rượu, đút cho bốn tù nhân ăn thật no.
Hai khắc sau, toán thị vệ hớn hở lên đường, chắc mẩm phen này sẽ lập được công to. Âm Dương Quỉ Tẩu càng bội phần hoan hỉ khi nghĩ đến nhánh thiên niên Hà Thủ Ô. Ngụy Trung Hiền đã hứa sẽ thưởng báu vật ấy cho ai giết được Hồng Nhất Điểm. Khoảng giữa giờ thân, đoàn xa mã đi đến một cánh rừng âm u, cách trấn Vĩnh Lộc chừng ba mươi dặm. Hách Thiết Xuyên ra hiệu dừng lại. Gã chỉ vào đường mòn bên hữu nói với Lưu Phong:
- Lưu đại nhân, Chính Lan và hai phu nhân hiện đang ở trong một ngôi miếu cổ cách đây chừng hơn nửa dặm. Võ công y rất cao cường, thính giác tinh tường, mong chư vị cẩn thận cho.
Âm Dương Quỉ Tẩu là người cơ cảnh, liền bảo một tên thị vệ:
- Ngươi vào trước điều nghiên địa hình, nhưng không được đến gần.
Gã thị vệ gầy gò ấy liền xuống ngựa, phi thân vào rừng. Gần khắc sau gã trở lại báo cáo:
- Bẩm đường chủ, quả thực có một ngôi miếu cổ, trong có tiếng người đang trò chuyện. Chung quanh là bãi cỏ trống, không có gì khả nghi.
Quỉ Tẩu hài lòng cắt bốn tên thị vệ ở lại canh giữ tù xa, đưa mười lăm tên vào rừng. Tất nhiên bọn họ phải đi bằng đôi chân vì cưỡi ngựa sẽ dễ bị lộ. Chiều thu trời tối sớm, gió lạnh lồng lộng từng cơn. Bốn gã thị vệ uể oải xuống ngựa, đừng gần nhau tán gẫu, mắt hướng về hai xe tù.
Nửa khắc trôi qua, khi bọn Âm Dương Quỉ Tẩu đền gần cổ miếu thì ngoài bìa rừng phát sinh tai hoạ. Từ trên những tàn cây rậm rạp, ba bóng người lao xuống đầu bọn canh tù. Ánh kiếm mịt mờ lạnh lẽo và nhanh như thiểm điện.
Bốn gã thị vệ kia đang nhìn ra ngoài, nên khi tử thần đến từ phía sau, họ chết mà không biết vì sao. Bốn chiếc thủ cấp lăn lông lốc trên mặt đường và chẳng hề có tiếng kêu than. Ba bóng ấy chính là lão già râu dài và hai hán tử có đôi mông tròn trịa.
Lão nhân vung kiếm phá cũi gỗ và chặt phăng cả xiềng thép. Lão bồng Thiết Xuyên nhảy xuống đất. Ba gã ngốc cứ tưởng hai hán tử kia cũng giúp mình, nào ngờ một gã co giò đạp vào mông nhị ngốc Hồ Giả, gã văng khỏi xe lăn vài vòng, đứng lên ngơ ngác hỏi:
- Sao các hạ lại đạp ta?
Hán tử thứ hai lướt đến, vung tay tát vào mặt gã và rít lên the thé:
- Từ nay ngươi còn dám bình phẩm cơ thể chị em ta nữa hay không?
Lão nhân râu dài nạt ngang:
- Thi Mạn, chúng ta đâu có thời gian để đùa giỡn?
Ba gã ngốc nhận ra giọng Chính Lan, vừa mừng vừa sợ, sụp cả xuống gọi:
- Đại ca, đại tẩu.
Lo sợ nhất vẫn là tam ngốc, gã đã nghĩ ra ý định chửi mắng chàng để kiếm miếng ăn.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Ba ngươi nhặt lấy mấy thanh đao kia, mang Thiết Xuyên ẩn vào chỗ kín đáo, chờ ta diệt trừ xong bọn Âm Dương Quỉ Tẩu.
Nói xong, chàng trao Thiết Xuyên cho tam ngốc rồi cùng hai mỹ nhân đi ngược vào rừng. Đến giữa đường Chính Lan và Tố Bình nhảy lên một tán cây, còn Thi Mạn tiếp tục đi. Gần đến nơi bọn Quỉ Tẩu ẩn nấp nàng mới trèo lên cây.
Lúc này, Lưu Phong và thuộc hạ nhất thời ập vào ngôi cổ miếu đang leo lét ánh đèn kia. Nhận ra không có ma nào, Quỉ Tẩu kinh hãi gầm lên:
- Chết rồi, chúng ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn.
Bọn thị vệ xúm lại quanh lão chờ lệnh. Một tên nói:
- Bẩm đường chủ, trên đường đi nào có ai tiếp xúc với bọn tù nhân đâu? Quả thực trong miếu vẫn còn mùi phấn thoang thoảng. Hay là Hồng Nhất Điểm kịp thời phát hiện ra gã Trương ốm, đã chuồn mất.
Tên thị vệ trinh sát cãi liền:
- Ngươi đừng nói càn. Ta ở cách xa đến năm trượng, làm sao hắn biết được?
Quỉ Tẩu bực bội quát:
- Không cãi nữa. Cứ rút ra ngoài xem tù xa còn hay không?
Lão đi đầu, thận trọng quan sát và dồn công lực vào song thủ phòng bị cẩn mật. Trong rừng thiếu ánh sáng nên chẳng ai phát hiện một màn sương mờ nhạt lơ lửng trước mặt, thản nhiên đi xuyên qua. Đây chính là đàn cổ trùng độc đáo của Thi Mạn. Nàng chờ chúng qua khỏi, thu hồi đám mây cổ độc, rón rén theo sau.
Quỉ Tẩu đi mãi chẳng thấy ai tấn công cũng bị lơi lỏng, rảo bước nhanh hơn. Bất ngờ, từ trên tán cây mé tả, một luồng kiếm quang lạnh lẽo chụp xuống đầu lão ma.
Chính Lan không biết rằng công lực mình đã tăng tiến vượt bậc nên dồn hết sức mình vào chiêu Kim Ô Tây Trầm. Thanh Long Tuyền Kiếm được phổ chân khí, ánh thép tỏa ra xanh biêng biếc.
Quỉ Tẩu kinh hoàng trước chiêu kiếm mãnh liệt, cử chưởng giáp mạnh vào màn kiếm quang kia. Âm Dương Lạc Hồn Chưởng mang hai màu hắc bạch và tỏa mùi hăng hắc. Nhưng do bị động lão chỉ dành được có tám thành công lực, và không sao chặn nổi đường kiếm của đối phương.
Long Tuyền kiếm xé nát chưởng kình, ập vào thân trên Lưu Phong. Lão rú lên ảo não, hai tay bị chặt cụt và thân trước thủng lỗ chỗ như đáy rổ.
Lúc này, Tố Bình cũng đã nhảy xuống tấn công đám thị vệ. Thi Mạn từ phía sau nên khép kín gọng kìm. Nàng phát động cổ trùng, đám thị vệ ôm ngực lảo đảo, trở thành mồi ngon cho phe Chính Lan. Chàng căm hận bọn Đông Xưởng tiếp tay bọn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn triều cương, hà hiếp lương dân, nên giết không thương tiếc. Chỉ nửa khắc sau đã chẳng còn một tên sống sót.
Ba người kéo mười sáu tử thi vào sâu trong rừng, rồi trở ra ngoài gọi Hán Trung Tam Ngốc. Hai chiếc xe tù và bầy ngựa cũng được đưa cả vào rừng. Tóm lại Chính Lan phi tang tất cả để xóa dấu vết. Phe Ngụy Trung Hiền sẽ chẳng bao giờ biết được vì sao thủ hạ mình biến mất.
* * *
Sáng hôm sau có một đoàn lái buôn gồm bảy người áp tải một xe hàng đi lên hướng bắc. Trên xe là một bao da thoang thoảng bốc ra mùi dược thảo. Cây thuốc phơi khô tất chẳng nặng nề gì, bởi vậy xe song mã chạy khá nhanh.
Bọn Đông Xưởng đã chưng dụng xe hàng để chở cũi tù, nên giờ đây bọn Chính Lan mới có mà sử dụng.
Còn thảo dược thì sao? Ba năm trước Chính Lan đi ngang đoạn đường này, nghe tiếng cọp rống từ trong rừng và người la hét cầu cứu, liền chạy vào, kịp thời giết mãnh thú cứu mạng hai lão đại sư già. Họ là người của ngôi miếu trong rừng, trồng cây thuốc bán cho dân. Nhờ thế Chính Lan quen biết họ, và có nơi để bày mưu cứu các tù nhân. Giờ đây Chính Lan chất hết số thuốc khô của miếu lên xe, chở về Bắc Kinh. Đương nhiên Thiết Xuyên và ba gã ngốc đều được cải trang, vũ khí giấu kín dưới gầm xe.
Càng đến gần kinh đô, lực lượng thị vệ xuất hiện càng nhiều. Nhưng chúng không biết rằng nhân số bọn Chính Lan đã tăng gấp đôi, chẳng để ý đến bảy kẻ quê mùa kia.
Gia dĩ, Tây Môn Tố Bình đã dịch dung rất cẩn thận, và mượn cả thẻ thuế thân của bảy người công nhân trong cổ miếu. Vì vậy, bọn Chính Lan đi trót lọt đến Bắc Kinh, đúng ngày rằm tháng mười.
Xe thảo dược cồng kềnh và bộ vó chất phác bắt buộc họ phải trọ trong một khách điếm hạng bét ở ngoại thành phía nam.
Ngay chiều hôm ấy, Tiểu Linh Thố lại hóa trang lần nữa, biến Chính Lan thành một vị lang trung đạo mạo, và Thi Mạn thành một tiểu đồng đeo rương thuốc.
Theo lời dặn dò của Quí Thành Lâm, Chính Lan đến tư dinh của Trương đại học sĩ, người chấp chưởng Văn Hoa Điện.
Sau khi lên ngôi, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã bãi bỏ cơ quan Trung Thư Tĩnh, không dùng tể tướng, đích thân chỉ huy lục bộ Lại, Lễ, Hình, Binh, Hộ, Công. Ông còn lập ra bốn điện Văn Hoa, Vũ Anh, Trung Cực, Kiến Cực và hai các Văn Uyên các, Đông các với các đại học sĩ để làm cố vấn cho ông. Sau đời Minh Thành Tổ, các vua cởi mở một chút, cho bọn đại học sĩ ấy tham dự triều chính, gọi là nội các.
Đến thời Minh mạt, nội các bị đám hoạn quan nắm lần lần. Sùng Trinh lên ngôi, có ý muốn tiêu diệt Ngụy Trung Hiền và bọn hoạn quan nên trọng các đại học sĩ. Vì vậy Trương Nguyên Khải là một trong những người thân tín nhất của thiên tử, có quyền ra vào tử cấm thành bất cứ lúc nào.
Thành Bắc Kinh chia làm hai phần nội thành và ngoại thành. Tư dinh của Trương đại học sĩ nằm ở ngoại thành, cách cửa Ngọ môn chừng hơn dặm. Họ Trương là người liêm khiết nên cơ ngơi giản dị, khiêm tốn. Mảnh đất vua ban khá rộng nhưng đại học sĩ chỉ xây một căn nhà nhỏ ba gian, diện tích còn lại trồng hoa và cây cối.
Chung quanh rào vây là hàng tùng bách, cạnh đông có vài bụi trúc và mấy cây hàn mai. Mùa xuân ở Bắc Kinh rất lạnh nên chỉ có loại mai quí này là trổ bông. Khắp nơi, lác đác những bụi hoa đủ loại, nhưng không hề có giả sơn hay chậu cảnh, và cũng chẳng có những lồng chim sơn son như phủ đệ của các đại thần khác.
Chính Lan buột miệng khen:
- Trương đại học sĩ quả là người quân tử hiếm có.
Thi Mạn mỉm cười:
- Tướng công chưa thấy mặt sao đã vội khen?
Chính Lan ôn tồn giải thích:
- Không phải vì vẻ thanh bạch, giản dị kia mà ta nhận xét như vậy. Nàng thấy không, ở đây cây cỏ đều sinh trưởng rất tự nhiên, không hề bị sửa sang hay thúc ép? Bậc thiện nhân muốn nghe chim hót thì vào rừng, muốn xem cá lội thì đến ao hồ, chứ không thích nhìn cảnh cá chậu chim lồng. Còn như muốn thưởng thức vẻ đẹp của núi non thì chống gậy trúc tìm đến ngũ nhạc, chứ không ngắm mấy hòn đá nhỏ bé mà tự mãn. Họ Trương là bậc thiện nhân ấy đấy.
Thi Mạn gượng đáp:
- Đạo lý cao xa ấy thiếp chẳng dám lạm bàn.
Chợt từ trong nhà có một gã gia đinh trẻ tuổi đi ra, cao giọng hỏi:
- Nhị vị tìm ai vậy?
Chính Lan hòa nhã đáp:
- Dám hỏi Trương đại học sĩ có nhà không? Tại hạ có việc muốn cầu kiến.
Gã gia đinh cau mày hỏi lại:
- Danh tính nhị vị là gì, ở đâu đến?
Chính Lan biết ngay Trương Nguyên Khải có nhà, chàng vui vẻ bảo:
- Các hạ cứ vào bẩm rằng có người của bố chánh sứ ty Tích Giang đến bái kiến.
Gã gia đinh quay vào, lát sau trở ra, kính cẩn mời khách nhập trang. Trương đại học sĩ đang ngồi cạnh bàn bát tiên. Thấy khách vào đến, đứng lên đón chào, mời họ an toạ.
Chính Lan thấy lão dung mạo đoan chính, râu ba chòm đen nhánh, đoán là người mình cần tìm. Chàng cung kính nói:
- Tại hạ được hữu bộ chánh sứ Tích Giang ủy nhiệm mang thiên niên Hà Thủ Ô đến trao cho đại nhân, để dâng lên hoàng thượng.
Chàng trao cho lão bản tấu chương và hộp vàng đựng kỳ trân. Trương đại học sĩ mở ra kiểm tra cẩn thận, gật gù hài lòng. Lão đem cho tên gia đinh đem vào trong cất rồi vui vẻ hỏi:
- Vì sao Lâm bố chánh phải nhờ các hạ, mà không giao cho khâm sứ?
Chính Lan mỉm cười:
- Có lẽ ông ta sợ rằng khâm sứ hớ hênh, không bảo toàn nối báu vật.
Trương Nguyên Khải lắc đầu cười nhạt:
- Họ Lâm đã trúng kế của thiên tuế rồi. Viên thái giám kia là em ruột họ Ngụy, được thánh thượng giao trọng trách mang kỳ trân về. Điều này khiến Ngụy công công khó xử vì ông ta hoàn toàn không muốn nhánh thiên niên Hà Thủ Ô về đến Bắc Kinh, và cũng không thể để bào đệ mất đầu. Do vậy Ngụy công công đã bày mưu, bảo em mình khua chiêng gõ mõ, khiến Lâm bố chánh sợ hãi, nhờ cao thủ âm thầm áp tải bảo vật…
Không chờ lão nói hết câu Chính Lan vung chưởng giáng vào ngực lão ta. Dường như lão đã đề phòng nên tung mình rời khỏi chỗ nhanh như chớp giật và bật cười khanh khách:
- Giỏi cho Hồng Nhất Điểm, xem ra ngươi cũng thông tuệ đấy.
Thì ra Chính Lan có thính giác siêu tuyệt nên đã phát hiện ra tiếng chân nhiều người ở bên ngoài. Cộng với cách họ Trương gọi Ngụy Trung Hiền là Cửu Thiên Tuế công công khiến chàng sinh lòng hoài nghi. Thứ hai, Trương đại học sĩ chẳng thể nào biết được âm mưu của Ngụy Trung Hiền và khâm sứ. Thứ ba, đối phương nói rất lâu mới đổi hơi, biểu hiện công lực thâm hậu chứ chẳng văn nhược như một đại học sĩ.
Chính Lan đánh hụt một chưởng giận dữ gầm lên, rút kiếm lao đến tấn công tên giả mạo kia. Thi Mạn cũng vội múa tít Kim Xà đối phó với bọn thị vệ chúng đã ập vào đến tận trong nhà. Chính Lan nóng ruột vì kỳ trân bị đoạt mất, dồn hết công lực vào chiêu Đại Giang Đông Khứ, kiếm kình lớp lớp cuồn cuộn như sóng Trường giang cuốn đến.
Lúc này, trên tay đối phương đã xuất hiện hai chiếc vòng thép đen tuyền, cạnh có răng cưa, đường kính độ hơn gang, lão múa tít song hoàn, tạo lên màn hắc quang vô cùng kín đáo. Nhưng lão không biết rằng thanh kiếm trong tay Chính Lan lại là thần vật. Long Tuyền kiếm phá tan hắc quang và lướt vào cơ thể của lão. Kẻ xảo quyệt kia rú lên đau đớn, toàn thân đẫm máu, đầu rời khỏi cổ. Chính Lan quay lại hợp sức cùng Thi Mạn. Chỉ vài chiêu đã giết tám tên, đẩy bật bọn thị vệ ra ngoài. Chàng buồn bã nói:
- Kỳ trân đã mất, ta biết ăn nói làm sao với thánh thượng đây?
Thi Mạn cười mát:
- Y đạo của tướng công và thiếp thừa sức cứu thiên tử, trước mắt phải thoát cho được khỏi chốn này.
Dứt lời, nàng rải liền hai trái Đảo Thiên thần đạn rồi kéo Chính Lan thoát ra. Tiếng nổ kinh thiên động địa kia đã khiến bọn thị vệ hồn phi phách tán, chỉ vài tên bỏ mạng nhưng cả đám dạt ra ngay. Phu thê Chính Lan múa tít vũ khí, nương theo khói bụi phi nhanh ra ngoài. Khi bọn thị vệ hoàn hồn thì hai người đã biến mất.Tên thủ lĩnh thị vệ giận dữ quát vang:
- Đuổi theo.
Bọn thị vệ ùn ùn chạy đi lấy ngựa, chia nhau tỏa ra, cố tìm cho được Hồng Nhất Điểm. Nhưng màn đêm đã buông, che chở cho phu thê Chính Lan về đến quán trọ an toàn.
Cả bọn xúm lại hỏi han. Chính Lan buồn bã kể lại việc Ngụy Trung Hiền biết rõ mối quan hệ giữa Lâm bố chánh và Trương đại học sĩ, cho người giả dạng họ Trương đoạt lấy kỳ trân và vây bắt chàng. Vô Nhân Kiếm Khách cau mày:
- Nếu tại hạ không lầm thì lão già sử dụng song hoàn kia là một trong bốn đại ma đầu ở Ngũ Đài sơn. Võ công của anh em Phi Hoàn tứ lão rất lợi hại, mỗi người trong bọn đều có thể sánh với Tây Môn lão gia. Nhưng việc lão ta bị công tử giết bằng chỉ một chiêu khiến tại hạ phân vân.
Thi Mạn và Tố Bình lén nhìn nhau, mỉm cười đắc ý. Chính Lan bác ngay:
- Nếu vậy thì chắc là không phải Phi Hoàn tứ lão. Bản lãnh tại hạ chỉ cao hơn nhạc phụ một bậc.
Thực ra, với bản lãnh hiện tại, chàng cũng khó mà đả bại lão già kia một cách mau chóng được. Chẳng qua đối phương không ngờ chàng có đến hơn hoa giáp công lực và thanh thần kiếm Long Tuyền.
Nhị ngốc ấp úng hỏi:
- Đại ca, nay thiên niên Hà Thủ Ô đã mất, chúng ta còn ở lại đây làm gì nữa?
Chính Lan cười nhạt:
- Phen này ta đến kinh sư cốt là để giết lão cẩu thái giám Ngụy Trung Hiền, dẫu chết cũng chẳng từ nan. Ba ngươi cứ trở về Trường An trước đi.
Ba gã ngốc sợ hãi im lặng, chẳng dám mở miệng nữa. Thiết Xuyên gật gù:
- Quả là một ý tưởng tuyệt diệu. Nhưng trước hết phải vào hoàng cung xem bệnh tình Sùng Trinh thế nào cái đã.
Tây Môn Tố Bình trổ tài Gia Cát:
- Sáng mai, chúng ta cố gắng điều tra cho ra tư dinh của quan thái y, bắt cóc lão và tướng công hóa trang thành lão mà vào cung. Mạn muội sẽ theo chàng để chuẩn bệnh cho hoàng thượng.
Chính Lan lắc đầu:
- Ý của ta lại khác, thiên tử lâm bệnh tất thái y phải túc trực trong cung, không được về nhà, làm sao bắt được lão? Đêm nay ta và Thi Mạn sẽ đột nhập tử cấm thành.
Thiết Xuyên mỉm cười:
- Hoàng cung rắc rối như mê trận, biết thánh thượng nằm ở đâu mà tìm?
Chính Lan dịu giọng:
- Tiêu nhạc phụ từng làm viên ngoại Lang bộ lễ vài năm, người đã chỉ dẫn rõ ràng từng đường đi nước bước. Long nhan bị bệnh tất phải nằm ở cung Càn Thanh, phía sau tử cấm thành.
Tố Bình lo lắng:
- Nếu vậy bọn thiếp cũng đi theo, lỡ tướng công gặp rắc rối còn có người tương trợ. Thị vệ trong cung đông như kiến cỏ, thiếp chẳng an tâm chút nào.
Chính Lan đồng ý:
- Thế cũng được, chư vị cứ nép bên ngoài thành, khi nào nghe tiếng hú thì vào giải vây.
Đầu canh hai đêm ấy, bốn người nai nịt gọn gàng, toàn thân hắc y, đi bọc vòng ngoài để đến mạn tây thành. Hán Trung Tam Ngốc quá nặng nề, không vượt nổi bức tường thành cao ba trượng nên phải ở nhà.
Chưa vào đông mà tiết trời lạnh lẽo, vầng trăng rằm mờ nhạt, ẩn hiện sau lớp mây mù. Nửa canh giờ sau, bọn Chính Lan đã có mặt dưới chân Nguyệt Đàn, rồi từ đó tiến vào thành.
Bắc Kinh có năm đàn để thiên tử tế lễ, đó là Nhật, Nguyệt, Thiên, Địa, Thần Nông. Nhật đàn ở hướng đông. Nguyệt đàn ở hướng tây, Địa đàn ở hướng bắc, còn Thiên đàn và Thần Nông đàn tọa lạc song song với nhau ở hướng nam trong phạm vi ngoại thành và hai bên đường trục chính bắc nam.
Bốn người lần lượt vượt tường thành, tường hoàng thành, đến được phía sau Tử Cấm Thành bên kia tường chính là Ngự Hoa Viên.
Vườn Thượng Uyển này nằm ngang sau lưng tẩm cung, có diện tích độ hơn ngàn trượng vuông. Ở đây, rất nhiều đình, đài, lâu, các, kỳ hoa, dị thảo. Ngoài những loại cây của miền bắc Trung Hoa, còn tùy theo từng thời tiết từng mùa, trồng xen những bồn hoa, cây cảnh phương nam, quan lại các địa phương đã gửi về những tảng đá quí, hình thù kỳ tú nên giả sơn của Ngự Hoa Viên đặc sắc hơn bất cứ vườn cảnh nào.
Nhưng muốn vào được bên trong, trước hết phải vượt qua một hòa nước rộng đến mười sáu trượng, và bức tường sơn màu đỏ tía cao ba trượng. Hào nước này dài sáu dặm, bao bọc cả chu vi tử cấm thành.
Chính Lan ngần ngại hỏi Thi Mạn:
- Nương tử liệu có đủ hơi lặn một mạch sang bờ bên kia không?
Miêu nữ mỉm cười:
- Tướng công yên tâm, thiếp ở cạnh bờ sông Tây Giang nên rất thông thạo thủy tính.
Chính Lan quay sang dặn dò Thiết Xuyên và Tố Bình. Nhưng Tiểu Linh Thố đã phụng phịu nói:
- Đã vào đến đây, lẽ nào tướng công không cho thiếp và Hách huynh theo với. Ở ngoài này chỉ thêm nóng ruột mà thôi.
Chính Lan mỉm cười chịu thua:
- Thôi được, chúng ta cùng đi vậy.
Bốn người tụt xuống mép nước, lặn một hơi đến bụi lau lẻ loi ở bờ bên kia. Chỗ này còn cách chân tường thành đến bốn trượng. Trên mặt thành, bọn cấm quân qua lại tuần tra rất nghiêm chỉnh.
Bọn Chính Lan nhẫn nại ngâm mình dưới dòng nước lạnh buốt, chờ đợi cơ hội. Và khi vầng trăng bị đám mây đen che phủ, họ lao nhanh về phía chân tường.
Chính Lan vận khẩu quyết chữ hấp, thi triển Bích Hổ công trườn lên. Thân hình chàng dán sát vào mặt tường dựng đứng, thoăn thoắt bò đi như thằn lằn. Đến đầu tường, chàng bám chặt lấy mép, và ba người ở dưới lần lượt đu theo sợi dây chão cột ở thắt lưng Chính Lan mà lên. Họ không đủ công lực để thi thố Bích Hổ công.
Lát sau, cả bốn người đều đã bám được cánh bức tường, hồi hộp chờ đợi đám cấm quân cầm đuốc đi qua. May thay, chúng chỉ dương mắt nhìn xuống mặt hào nước nên không phát hiện ra có bốn thân hình đang treo lơ lửng dưới chân.
Chờ ánh đuốc xa hẳn, bọn Chính Lan nhanh chóng vượt tường nhảy xuống bên trong. Chính Lan đi trước một bước êm ái hạ thân và đỡ lấy ba người kia. Trăng lại mờ đi, giúp họ an toàn vượt qua vườn hoa, tiến gần đến mặt sau Càn Thanh cung.
Chính Lan mừng rỡ nhận thấy một phòng ở mé hữu còn sáng đèn, và vọng ra tiếng ho khúc khắc. Không phải là hướng gió nên cánh cửa sổ tròn phía Bắc vẫn mở để phòng bệnh nhân được thông thoáng. Bốn người áp sát, ẩn mình sau bụi hoa mà nhìn vào.
Trên long sàng là một chàng trai tuổi độ mười tám, gương mặt anh tuấn nhưng xanh xao, nhợt nhạt. Ngồi ở mép giường là một mỹ nhân trẻ trung, đang bóp chân cho người bệnh. Đứng hầu là viên thái giám già và quan thái y. Còn cuối phòng là bảy vị đại thần đang ngồi dật dựa trên ghế, mắt nhắm, mắt mở.
Chính Lan truyền âm bảo Thi Mạn:
- Làm sao đuổi được hết đám người kia đi?
Thi Mạn mỉm cười, hé miệng thổi đàn cổ trùng vào phòng và lâm râm niệm chú. Lát sau, trừ Sùng Trinh hoàng đế, mười người kia đều nhất loạt hắt hơi loạn cả lên. Không phải một cái mà là hàng chục cái liên tiếp.
Sùng Trinh mở mắt bực bội phán:
- Các khanh hãy lui cả ra, đừng ở đây quấy nhiễu trẫm nữa. Ta không muốn nghe bất cứ tiếng động nào.
Thế là cả bọn vội rời phòng, hoàng hậu cũng vậy. Họ đi rất xa vì cơn hắt hơi xổ mũi vẫn tiếp tục hoành hành. Trong phòng chỉ còn lại một mình thiên tử. Chính Lan và Thi Mạn lập tức lao qua khung cửa sổ vào trong.
Sùng Trinh kinh hãi nhưng vì nghĩ mình sắp chết vì bệnh hoạn, nên không sợ hãi nữa. Ông giương mắt nhìn hai người áo đen chờ đợi. Thi Mạn chạy ra gài chặt cửa chính, đứng trấn giữ, còn Chính Lan phục xuống nói:
- Khải tấu thánh thượng! Thảo dân là người của quan bố chánh sứ ty Tích Giang Lâm Hưng, được lệnh mang thiên niên Hà Thủ Ô về đây dâng thiên tử.
Sùng Trinh mừng rỡ, gượng ngồi lên rồi hỏi:
- Lâm bố chánh là bằng hữu thâm giao của đại học sĩ Trương Nguyên Khải, sao tráng sĩ không giao kỳ trân cho Trương khanh đem vào cung?
Chính Lan buồn rầu đáp:
- Khải tấu thánh thượng! Thảo dân theo lời Lâm bố chánh, đến tìm Trương đại học sĩ. Nhưng tiếc rằng họ Trương đã biến mất và trong nhà toàn là tay chân của Ngụy Trung Hiền. Lão đã cho người giả làm Trương học sĩ, đoạt lấy bảo vật rồi.
Sùng Trinh đau đớn nói:
- Lão cẩu tặc kia quả là ác độc, phen này mạng trẫm khó vẹn toàn.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Muôn tâu! Thảo dân và chuyết thê đều tinh thông y đạo, dẫu không có thiên niên Hà Thủ Ô cũng sẽ tận lực chữa trị cho long nhan.
Sùng Trinh như người rơi xuống nước với được phao, phấn khởi đáp:
- Hay lắm, các khanh vào được chốn này chắc đều là bậc kỳ nhân, dị sĩ. Trẫm xin phó thác sinh mạng cho hai khanh.
Chính Lan đứng lên, gọi Thi Mạn đến bên long sàng. Hai người thăm mạch, hỏi han bệnh nhân đủ điều. Sùng Trinh nhìn rõ gương mặt kiều diễm của Liễu Thi Mạn, thoáng giật mình. Ông không ngờ chốn giang hồ lại có một mỹ nhân như vậy. Thi Mạn cau mày bảo:
- Tướng công, thiếp cho rằng thánh thượng có triệu chứng trúng độc.
Nàng đến bên chiếc kỷ nhỏ cạnh giường, bưng chén thuốc chỉ còn ít cặn lên ngửi và nếm thử. Thi Mạn nở nụ cười đắc ý:
- Tướng công, trong chén thuốc này chứa một chất độc có tên là Bế Tâm Hoa Tinh. Đối phương đã cho thánh thượng uống mỗi ngày một lượng rất nhỏ, gây triệu chứng suy tim. Đủ trăm ngày thì tâm mạch bế tắc.
Sùng Trinh giận dữ thều thào:
- Không ngờ Từ thái y cũng là tay chân của Ngụy Trung Hiền.
Ông run rẩy hỏi lại:
- Thế hai khanh có giải được chất độc này không?
Thi Mạn mỉm cười:
- Với linh đan của dân phụ và Thái Chân khí công của chuyết phu thì chất độc kia cũng chẳng đáng gì.
Nàng lấy ra bảy viên thuốc màu xanh, trao cho bệnh nhân. Chính Lan vội rót nước. Sùng Trinh nhăn mặt, cố nuốt những viên thuốc đắng như hoàng liên kia. Thi Mạn bảo Chính Lan:
- Tướng công mau dùng chân khí trục hết chất độc ra.
Nàng bước đến khung cửa sổ phía sau vẫy Thiết Xuyên và Tố Bình. Hai người kia mau mắn lao vào, cùng Thi Mạn trấn giữ cửa trước. Sùng Trinh nhận ra Tố Bình xinh đẹp không thua gì Thi Mạn, hiếu kỳ hỏi Chính Lan:
- Họ là ai vậy?
Chàng cười đáp:
- Nam là bằng hữu, nữ là tiện nội.
Sùng Trinh vui vẻ nói:
- Sao khanh không hề khai danh tánh và giới thiệu họ với trẫm cho dễ xưng hô?
Chính Lan đành nói tên cả bọn. Hai khắc sau, chất độc đã bị luồng chân khí hùng mạnh của Chính Lan trục hết ra ngoài cơ thể. Y phục Sùng Trinh ướt đẫm và vô cùng hôi hám. Nhưng ông nghe toàn thân thư thái, hơi thở điều hòa, sức khỏe sung mãn, liền hoan hỷ phán:
- Ơn cứu tử, trẫm chẳng dám quên. Khanh muốn được phong vương, trẫm cũng sẵn sàng chuẩn tấu.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bọn thảo dân vì giang sơn và bách tính nên mới liều thân vào đây. Chỉ mong thánh thượng sớm bình phục, chấn chỉnh triều cương, bảo vệ được sơn hà và tạo phúc cho lê thứ. Thánh thượng làm được như vậy là đã đến đáp được chút công lao của bọn thảo dân rồi.
Sùng Trinh cảm kích phán:
- Trẫm vô cùng mến mộ lòng trung quân ái quốc của chư khanh, nhưng Ngụy Trung Hiền nắm binh quyền trong tay, lại có rất nhiều cao thủ võ lâm dưới trướng, trẫm muốn tiêu diệt lão cũng khó.
Chính Lan mỉm cười:
- Bọn thảo dân sẽ bắt Ngụy Trung Hiền về cho thánh thượng xử tội. Xin long nhan chuẩn bị lực lượng để trấn áp vây cánh của lão ta, nếu không sẽ chẳng kịp trở tay.
Sùng Trinh vui mừng khôn xiết, mở ngăn tủ long sàng, lấy ra mảnh ngọc bài, trao cho Chính Lan:
- Âu Dương hiền khanh hãy giữ kỹ Thiên Tử ngọc bài này để điều động cấm quân của Ngũ Thành Binh Mã Ty, họ là lực lượng trung thành với quả nhân.
Chính Lan miễn cưỡng nhận lấy và cáo từ. Bỗng Thi Mạn cười khúc khích:
- Tướng công, thiếp nghĩ đến đoạn đường trở ra mà ngán ngẩm. Bơi qua hào nước lẫn nữa chắc bọn thiếp chết cóng mất.
Sùng Trinh vội phán:
- Để trẫm bảo Trần công công đưa các khanh ra bằng cửa Thần Võ, hà tất phải khổ cực như vậy?
Chính Lan trầm giọng:
- Nếu thánh thượng tin rằng bọn cấm quân giữ được bí mật thì chẳng sao.
Sùng Trinh cười mát:
- Họ đều là con cháu họ Chu, một lòng trung thành với trẫm.
Ông bước ra cửa, cao giọng gọi:
- Trần khanh!
Mười người lúc nãy chạy đến, thấy thiên tử đã hoàn toàn khang kiện, họ sửng sốt không nói lên lời.
Sùng Trinh mỉm cười:
- Trẫm đã đỡ nhiều, các khanh đang cảm lạnh không nên vào phòng, chỉ mình Trần khanh là đủ rồi. Lát nữa trẫm sẽ gọi sau.
Chín người kia đã hết hắt hơi sổ mũi nhưng chẳng dám kháng chỉ, quay bước trở ra. Lát sau, Trần công công xuất hiện ở cửa Thần Võ phía bắc tử cấm thành.
Lão ta cao giọng:
- Thánh thượng giáng chỉ. Truyền cho các ngươi phải nhắm mắt lại, khi nào ta cho phép mới được mở ra.
Trần công công chăm sóc Sùng Trinh từ thuở lọt lòng nên trở thành người thân tín nhất. Lời lão nói ra chính là kim ngôn của thiên tử. Vì vậy hơn trăm tên cấm quân đều vội nhắm nghiền mắt lại, dù lòng vô cùng thắc mắc.
Nửa khắc sau, Trần công công mới nói:
- Thôi đủ rồi, hãy mở mắt ra và quên chuyện này đi, nếu còn muốn sống.
* * *
Sáng hôm sau, bọn Chính Lan đi ngược trở lại hướng nam, đem xe chở thuốc giấu trong rừng, rồi ra quan đạo chờ đợi. Đến trưa thì đoàn nhân mã của Phi Ưng tiêu cục đến nơi. Bảy người trở thành tiêu sư theo họ vào thành.
Cửa thành thường ngày chỉ có cấm quân, nhưng hôm nay lại thêm mấy chục tên cẩm y thị vệ. Chúng giương đôi mắt cú vọ, quan sát từng lữ khách, thỉnh thoảng chặn lại tra xét. Nhưng chúng quá quen với Phi Ưng tiêu cục nên không hạch hỏi gì. Qua khỏi Thiên đàn, bọn Chính Lan tách ra đi về mé tả.
Đây là khu vực sầm uất nhất Bắc Kinh, tập trung hầu hết những cơ sở kinh doanh đồ sộ. Đường đi lót đá bằng phẳng, rộng đến ba mươi bước chân, ngang dọc thẳng thớn như ô bàn cờ.
Dinh thự của Cửu Thiên Tuế nằm ở đây chứ không phải trong cung, dù Ngụy Trung Hiền là thái giám. Trong suốt sáu năm tại vị, Minh Quang Tông đã giao hết chính sự cho họ Ngụy. Vì vậy uy quyền của lão ta chẳng thua gì thiên tử. Ngụy Trung Hiền công khai sử dụng long xa và nghi trượng của hoàng đế mà chẳng ai dám nói gì trừ các bậc trung thần trong Đảng Đông Lâm.
Họ Ngụy thích được nịnh hót. Một hôm có kẻ gọi lão là Ngụy Thiên Tuế, lão rất hoan hỷ, trọng thưởng cho người ấy. Hoàng đế là Vạn Tuế, còn Trung Hiền là Cửu Thiên Tuế, quả là hợp tình hợp cảnh. Từ đó, lão bắt mọi người phải xưng hô như thế.
Quang Tông băng hà, Hy Tông lên ngôi được một năm thì chết. Em Hy Tông là Tư Tông kế vị tức là Sùng Trinh. Biết tân vương muốn diệt trừ mình, Ngụy Trung Hiền không dám ở lại trong cung, ra ngoài cung mua cơ ngơi thật lộng lẫy và đồ sộ. Từ nơi này, lão điều khiển ba cơ quan mật vụ là Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Xưởng. Cao thủ của tam xưởng tuyển lựa từ hàng ngũ cẩm y thị vệ và giới hắc đạo võ lâm, bản lãnh rất cao cường.
Sùng Trinh yếu thế, nhất thời không làm gì được Ngụy Trung Hiền, nếu vọng động khó mà toàn mạng. Ngược lại họ Ngụy là thái giám nên chẳng thể nào cướp ngôi vua. Trong lịch sử Trung Hoa, bọn hoạn quan nhiều lần lũng đoạn triều chính nhưng chưa có kẻ nào dám lên ngôi hoàng đế. Thứ nhất là sẽ bị cả thiên hạ chống lại. Thứ hai, thái giám không thể có con thì truyền ngôi cho ai?
Nhắc lại, bọn Chính Lan được Hách Thiết Xuyên hướng dẫn vào khu vực có phủ đệ của Ngụy Trung Hiền để quan sát tình hình. Họ Hách ở Sơn Tây gần với Bắc Kinh, thường lui tới nên khá thông thuộc đường lối. Nhưng Ngụy phủ nằm dựa góc phía tây nam của nội thành, chiếm một vùng rộng đến vài chục mẫu, tường cao ba trượng, được canh gác nghiêm mật, thật khó mà vào được.
Vô Nhân Kiếm Khách thở dài nghĩ đến vấn đề khác:
- Phòng ốc, biệt viện hàng trăm gian thế kia, biết họ Ngụy ở đâu mà tìm?
Quả đúng vậy, có vào được cũng chỉ vô ích mà thôi. Bảy người vừa đi vừa quan sát chẳng dám dừng lại vị sợ bị nghi ngờ. Cả bọn tìm khách điếm hạng trung nghỉ ngơi, chờ đêm xuống.
Trong bữa cơm chiều Chính Lan nghiêm giọng:
- Ngụy phủ phòng vệ sum nghiêm, nhân thủ đông đảo, chúng ta có vào cũng chẳng ích gì. Đêm nay, chư vị ở ngoài, mình ta vào là đủ. Nếu ta thất bại mọi người hãy trở lại Nam Kinh dọn nhà đi nơi khác ẩn dật.
Thi Mạn biến sắc:
- Sao lúc trước tướng công đồng ý cho bọn thiếp cùng chung hoạn nạn?
Chính Lan mỉm cười:
- Trước đây, ta định chặn đường tấn công Ngụy Trung Hiền khi lão rời phủ đệ vào triều dự chầu sáng. Nhưng nay Sùng Trinh hoàng đế cho biết họ Ngụy cáo ốm, đã lâu không vào cung nữa. Giết hổ tại hang chẳng dễ dàng gì, một mình ta còn có cơ hội thoát thân hơn.
Tố Bình nháy Thi Mạn rồi thản nhiên nói:
- Tướng công dạy rất phải, bọn thiếp xin tuân mệnh.
Thiết Xuyên trầm giọng:
- Giết Ngụy Trung Hiền thì công tử khó mà thoát ra được. Chi bằng bắt sống lão làm mộc che thân thì tốt hơn.
Chính Lan biết gã lo lắng cho mình. Chàng cảm động đáp:
- Hay lắm, tại hạ sẽ xách cổ Ngụy Trung Hiền chạy thẳng vào Tử Cấm Thành, giao cho thiên tử.
Bàn bạc một hồi lâu, cả bọn mới về phòng nghỉ ngơi. Theo thói quen, Chính Lan ngồi điều tức một lúc. Từ ngày rời miếu Thần Hổ đến nay, chàng không có dịp tọa công. Nay đã đến lúc sinh tử, chàng phải kiểm tra kinh mạch lần cuối để bước vào cuộc chiến. Dược lực của món Thất Xà Hà Thủ Ô hoàn toàn dung hoá, chân khí vô cùng sung mãn, cuồn cuộn từ đan điền tỏa đi khắp nơi.
Chính Lan thấy vậy, thử đưa nội lực đi theo đường lối khẩu quyết lớp thứ tám của Thái Chân tâm pháp. Chàng kinh ngạc nhận ra mình hoàn thành rất dễ dàng, liền luyện ngay sang lớp thứ chín. Hai khắc sau, quanh thân Chính Lan tỏa ra màn sương mỏng màu xanh biếc, và từ mũi chàng, hai luồng khí bắn ra dài hơn gang, rồi lại thu vào.
Thi Mạn, Tố Bình mừng rỡ ôm nhau nhưng chẳng dám gây tiếng động. Lát sau, Chính Lan xả công, nghiêm giọng hỏi họ:
- Phải chăng hai nàng đã cho ta uống nhánh thiên niên Hà Thủ Ô?
Thiên Tử khỏi bệnh, kỳ trân xem như bị Ngụy Trung Hiền đoạt mất, hai nàng chẳng cần phải dấu giếm nữa.
Tố Bình mỉm cười đáp:
- Lúc ấy, tướng công thọ thương trầm trọng, bọn thiếp đành phải ngộ biến tùng quyền. Hoàng đế có chết cũng mặc kệ lão, bọn thiếp chỉ mong sao cứu được chàng thôi.
Chính Lan cảm động, bước đến ôm cả hai vào lòng và thắc mắc:
- Vậy ra nhánh kỳ trân bị cướp kia là giả hay sao?
Thi Mạn cười rúc rích:
- Thưa phải, chỉ có hai miếng mỏng ở đầu là thực mà thôi.
Chính Lan nhớ lại lời Hách Thiết Xuyên, biết lão già sử dụng song hoàn đã giả làm Trương học sĩ kia chính là một trong Phi Hoàn tứ lão ở Ngũ Đài sơn. Như vậy còn đến ba lão nữa và chàng khó mà địch nổi. Chàng từng nghe nói về tuyệt kỹ Phi Hoàn của bốn anh em nhà họ Lý đất Sơn Tây.
Những chiếc vòng đen tuyền kia làm bằng Huyền Thiết rất cứng rắn, lại thêm hàng răng cưa sắc bén có thể chặt gãy cả đao kiếm thông thường. Nối với vòng thép là một sợi thiết luyện dài nửa trượng. Vì vậy, xa gần đều đánh được cả. Ai đã lọt vào vòng vây của Phi Hoàn trận thì khó mà thoát thân.
Cảm giác tử vong đè nặng không làm cho Chính Lan sợ hãi. Mà chỉ khiến chàng gần gũi với thê thiếp. Có thể đây là lần cuối cùng được kề cận họ. Chính Lan dìu hai mỹ nhân đến giường, nhìn họ với ánh mắt đắm đuối và có đôi chút xót xa. Thi Mạn và Tố Bình nào hiểu được ẩn tình, háo hức chìm vào hoan lạc.
* * *
Giữa canh ba, dưới ánh trăng cuối thu khi mờ khi tỏ, bảy bóng người tiến về phía Ngụy phủ. Tường cao nhưng không dày nên bọn quân canh chẳng thể đi lại trên đầu tường, nhưng cứ cách năm trượng lại có một địch lâu và chắc chắn bên trong tường có những toán tuần tra đi lại suốt đêm.
Bọn Chính Lan ẩn nấp sau bụi cây, cách chân tường mười trượng. Nghe tiếng chó sủa, Thi Mạn thì thầm:
- Tướng công phải rắc lên người nhiều Vô Hương phấn mới mong qua mặt được bọn lang khuyển kia.
Nàng rút gói bột phấn rải lên đầu cổ, y phục của Chính Lan.
Nãy giờ mai phục, bọn Chính Lan đã phát hiện qui luật canh phòng của bọn thị vệ địch lâu, cứ ba khắc đổi gác một lần.
Ánh trăng vừa khuất sau đám mây, trời đất vụt tối sầm, Chính Lan lao như tên bắn về phía chân tường. Trong khoảng khắc này, nhãn tuyến của bọn thị vệ mờ đi vì sự thay đổi ánh sáng đột ngột, chẳng thể nhận ra có người vượt bãi đất trống. Gia dĩ, khinh công của Chính Lan nhanh như thiểm điện, lướt đi tựa cánh dơi đêm, chỉ ba bước nhảy đã đến nơi.
Chàng lập tức dán mình vào mặt tường, bò lên địch lâu trên đầu. Sinh tử huyền quang được đả thông, công phu Bích Hổ công càng thêm lợi hại.
Chính Lan mau chóng vượt độ cao ba trượng, một tay bám mép gạch, một tay xạ đạo huyết tuyến điểm hồng vào á huyệt gã thị vệ, rồi mới nhảy vào.
Chàng không giết mà điểm thêm một số huyệt đạo khiến thân thể gã cứng đơ như tượng gỗ, vẫn đứng hiên ngang. Vừa lúc toán tuần tra phía dưới đi ngang qua, thấy người trên địch lâu vẫn đứng gác nghiêm chỉnh, chẳng hề có chút hoài nghi.
Chờ chúng đi khỏi, Chính Lan nhảy xuống đất chứ không dùng cầu thang gỗ. Cũng như bao nhiêu dinh cơ khác, phủ họ Ngụy chẳng thể thiếu vườn hoa chung quanh những kiến trúc. Nhờ vậy, Chính Lan có vật che chắn mà tiến vào. Trên đường đi, chàng gặp rất nhiều chó dữ nhưng chúng chỉ ngửi rồi bỏ đi. Loại Vô Hương phấn này là dược vật độc đáo của người Miêu dùng trong những cuộc săn bắt mãnh thú. Đến cọp beo còn không phát hiện được thì lũ chó có đáng gì?
Chính Lan vượt gần hết hoa viên thì thấy một dãy nhà dài. Có lẽ đây là nơi ở của bọn gia nhân, tỳ nữ. Chàng quyết định bắt một người để hỏi cho rõ chỗ ở của Ngụy Trung Hiền, nếu cứ lần mò mãi đến sáng cũng chẳng tìm ra.
Bỗng cánh cửa gỗ trước mặt hé mở và một ả tiểu tỳ thắt bím bước ra. Cô bé che miệng ngáp, liếc quanh rồi đi thẳng vào vườn hoa, cởi giải quần ngồi xuống. Té ra ả mắc tiểu mà làm biếng xuống bếp nên xả đại ở nơi này.Tiểu tỳ trút xong bầu tâm sự, khoan khoái đứng lên, định trở lại phòng ngủ. Nào ngờ một bàn tay đã bịt chặt lấy miệng và hơi thép lạnh toát ra cần cổ.
Chính Lan lạnh lùng nói:
- Nếu nàng chịu khai ra ngọa phòng của Ngụy Trung Hiền, ta hứa sẽ không sát hại.
Ả tiểu tỳ mới mười lăm, mười sáu nên rất sợ chết, run rẩy khai liền.
Chính Lan hiểu rõ đường đi nước bước và điểm huyệt ngủ, giấu ả vào bụi hoa rậm nhất.
Chính Lan tiến về khu trung tâm, nơi có chín cây hòe cao ngất. Nhờ khinh công tuyệt thế và Vô Hương phấn, chàng qua mắt được bọn thị vệ tuần tra cùng đàn chó. Đến nơi, Chính Lan dừng lại quan sát tòa biệt viện kia. Chín cây hòe nằm cách nhau đều đặn phía trong bức tường vây thấp. Cổng vào bằng song thép rèn nhưng chẳng có ai canh giữ cả. Nếu không được ả nữ tỳ chỉ dẫn, chẳng bao giờ Chính Lan lại nghĩ rằng đây là nơi nghỉ ngơi của Ngụy Trung Hiền.
Bỗng từ trên tán cây rậm rạp vọng ra tiếng cú rúc rất thê lương. Chính Lan giật mình, dương cặp mắt tinh tường nhìn lên. Nhờ vậy, chàng phát hiện có hàng trăm con ác điểu, biểu hiện cho điều xấu kia, đang đậu im lìm trên chín cây hòe.
Chính Lan cau mày suy nghĩ, toát mồ hôi nhớ ra một đại ma đầu có tên là Miêu Ưng Lão Tổ, ẩn cư trên ngọn Quân Đô sơn phía bắc đế đô. Đàn chim cú của lão Phương Kỳ Du vô cùng thông linh và lợi hại. Móng và lông của chúng được tẩm kỳ độc, chỉ sướt da là chết. Những cú đập cánh của chúng cũng tỏa ra độc khí làm mê man kẻ địch.
Chính Lan cân phân lợi hại, nghiến răng tung một trái Đảo Thiên thần đạn lên nóc tả tiểu viện. Một tiếng động kinh hồn làm chấn động cả đêm trăng. Mái nhà sụp xuống, lửa bốc lên ngùn ngụt nhưng chẳng hề có bóng người nào chạy ra. Vậy là đối phương đã dùng kế không thành, dụ chàng vào bẫy. Tuy nhiên, hỏa khí cũng đạt được kết quả là khiến đàn ác điểu sợ hãi, bay đi tán loạn. Chính Lan vừa ném xong thần đạn đã lướt nhanh về phía hữu, nhảy lên một cây cổ thụ cách đám cháy chừng tám trượng.
Lúc này, Ngụy phủ nào động như ong vỡ tổ, đèn đuốc sáng trưng, bọn thị vệ kéo đến đông như kiến. Chúng bủa ra khắp nơi, lùa đàn chó tìm kiếm hung thủ. Chính Lan kiên nhẫn nằm im trên tán cây rậm rạp, chờ Ngụy Trung Hiền lộ diện. Nhưng lão cẩu thái giám kia chẳng hề ló mặt ra, chỉ có bốn lão già xuất hiện. Ba lão già áo xanh tay cầm cặp vòng thép chính là Phi Hoàn tam lão.
Lão thứ tư cao gầy, mặc đạo bào trắng, trên vai đậu một con chim ưng lông đỏ pha vàng. Đôi mắt diều dữ tợn và chiếc mũi cong kia đã nói lên lai lịch của Miêu Ưng Lão Tổ Phương Du Kỳ. Tên đội trưởng thị vệ chạy lại báo cáo:
- Bẩm tứ vị lão gia, bọn tiểu nhân đã cho linh khuyển lục soát khắp nơi nhưng chẳng hề thấy giấu vết hung thủ.
Miêu Ưng Lão Tổ đảo mắt nhìn quanh, chợt chú ý đến cây cổ thụ cao vút kia. Lão cười nhạt, thì thầm với Hỏa Ưng. Con vật lao vút về phía tán cây nơi Chính Lan đang ẩn nấp.
Chàng đã thấy Hỏa Ưng bay về phía mình, liền lộn người xuống phía dưới tung chân quặp lấy cành cây, nhờ vậy qua mắt được linh điểu. Nó bay trở về đậu trên vai chủ nhân.
Miêu Ưng Lão Tổ thất vọng cao giọng bảo bọn thị vệ:
- Chắc đối phương đã kịp thoát ra ngoài, các ngươi phải tích cực tuần tra, không được lơ là.
Đám thị vệ dạ vang, tản ra. Lão Tổ và Phi Hoàn tam lão quay gót đi về hướng nam. Chính Lan lập tức bám theo, hy vọng họ sẽ dẫn chàng đến chỗ ẩn nấp của Ngụy Trung Hiền.
Quả đúng như vậy, nửa khắc sau bốn người kia rẽ vào một tòa tiểu viện. Nơi này cũng giống hệt như hàng trăm kiến trúc khác, chẳng có gì đặc biệt cả.
Chính Lan thầm thán phục cơ trí của lão cẩu thái giám kia. Hèn gì họ Ngụy không khuynh đảo cả triều đình?
Miêu Ưng Lão Tổ đẩy cửa bước vào. Chính Lan chờ đủ nửa khắc mới dám vào theo. Chàng rút thanh trủy thủ mỏng như lá lúa, đút vào khe cắt then. Vũ khí này không có tên nhưng vô cùng sắc bén, và đã là vật tùy thân mấy chục năm của Hoàng Hạc Tú Sĩ.
Then sắt đứt rồi, Chính Lan nhẹ nhàng lách vào trong. Chàng giật mình nhận ra tòa tiểu viện này hoàn toàn không có vách ngăn phòng, trống trơn chẳng một bóng người.
Chính Lan đoán ngay trong này phải có tầng ngầm. Chàng bò trên mặt sàn, nghiêng tai lắng nghe, đến góc trong cùng đột nhiên phát hiện có tiếng người trò truyện. Chính Lan đưa tay vuốt mặt sàn, tìm ra khe của nắp hầm.
Chàng cắm lưỡi trủy thủ vào khe, lê dần đi để tìm then cài. Cuối cùng, lưỡi trủy thủ dừng lại, Chính Lan dồn chân khí vào lưỡi thép. Cắt đứt then sắt một cách êm ái. Vuông cửa hầm bật lên, để lộ cầu thang đi xuống. Tiếng người trò truyện rõ mồn một. Chứng tỏ Ngụy Trung Hiền đang có mặt ở nơi này. Chính Lan mau chóng vượt mười ba bậc thang gỗ, ẩn vào chỗ tối. Cách cách chàng vài trượng là bọn Miêu Ưng Lão Tổ và một lão già béo phị, mắt híp.
Sùng Trinh hoàng đế là người có tài họa đạo nên đã phác họa chân dung kẻ phản thần để Chính Lan nhận diện. Chàng biết mình chẳng thể nào địch lại bốn lão đại ma đầu kia, nhưng lòng đã xem nhẹ chuyện sống chết nên không chùn bước. Chính Lan chỉ tiếc một điều rằng chàng chỉ mang theo có một trái Đảo Thiên thần đạn và đã sử dụng rồi. Trái cuối cùng đang nằm trong tay Tây Môn Tố Bình.
Giờ đây, Chính Lan chỉ còn cách liều mình giết cho được Ngụy Trung Hiền chỉ bằng một chiêu, sau đó phó mặc cho số mệnh. Chàng tưởng niệm lần cuối đến bóng hình người thân, dồn toàn lực vào thanh Long Tuyền kiếm, lao vút về phía chiếc bàn bát tiên. Bốn lão nhân đều là ma đầu thành danh, phản ứng cực kỳ thần tốc, lập tức vung chưởng chặn đường. Vì vậy, Chính Lan không đạt được nguyện vọng của mình, cố giết cho được Ngụy Trung Hiền, Miêu Ưng Lão Tổ nhanh tay đẩy ngã Cửu Thiên Tuế nên lão thoát chết, chỉ mất cánh tay tả. Lão cẩu thái giám kêu gào như heo bị thọc huyết. Chính Lan phun vòi máu vào mặt Phương Kỳ Du, vung kiếm chém liền. Bốn lão ma đầu vây chặt Chính Lan, quyết chẳng để chàng đến gần Cửu Thiên Tuế.
Sáu chiếc vòng đen nhánh bay ra, tấn công thượng hạ, tả hữu của Chính Lan. Chàng múa tít bảo kiếm đánh bạt Phi Hoàn và đưa tả thủ đón chiêu chưởng của Lão Tổ. Chưởng kình chạm nhau nổ lùng bùng, khóe miệng Chính Lan lại ứa máu. Chàng biết mình không đủ sức, đành bỏ ý định sát hại Ngụy Trung Hiền, toàn tâm đối phó với bốn lão ác ma.
Thanh Long Tuyền kiếm dệt quanh thân chàng, chặn đứng những đợt tấn công của phe đối phương. Phi Hoàn đại lão rít lên:
- Hồng Nhất Điểm, mối thù của tứ đệ, đêm nay ngươi phải trả thôi.
Sáu chiếc vòng thép vây chặt Chính Lan tấn công tới tấp, chẳng cho chàng một cơ hội phản công. Lâm nguy bất loạn, Chính Lan dở pho Thái Chân kiếm pháp đối phó. Miêu Ưng Lão Tổ đã nhanh chóng lướt ra phía ngoại, chặn đứng đường thoái lui của đối phương. Lão liên tục dở pho Miêu Ưng Thần Thức, phối hợp chưởng trảo tập kích Chính Lan.
Xét về cán cân lực lượng thì chàng thua chắc, nhưng còn một yếu tố mà phe đối phương chẳng ngờ đến, đó là việc Chính Lan không sợ chết. Ngược lại, bốn lão ác ma đến với Ngụy Trung Hiền vì lợi lộc, nên chẳng bao giờ chịu bán mạng mình.
Chính Lan khẳng khái đi vào tử địa, chính khí ngời ngời, làm tăng thêm sức mạnh. Chàng nghiến răng xuất chiêu Hiểu Phong Tàn Nguyệt, lao vào Phi Hoàn nhị lão Lý Kim Trì.
Hoàng Hạc Tú Sĩ danh lừng vũ nội chẳng phải vì công lực thông thần, mà trước tiên, nhờ kiếm pháp ảo diệu tuyệt luân. Chính Lan dồn hết công lực vào chiêu kiếm, quyết lấy mạng nhị lão để giảm bớt áp lực. Nếu không chàng khó mà duy trì được lâu hơn.
Nhị lão múa tít song hoàn, cố chống chọi chiêu kiếm lăng lệ kia. Ba lão còn lại cũng vội tấn công tả hữu, hậu tâm để hỗ trợ.
Lý Kim Trì không đỡ nổi chiêu kiếm thần kỳ, ngực thủng năm lỗ, hồn về chín suối. Nhưng lưng Chính Lan cũng lãnh một chưởng của Miêu Ưng Lão Tổ và hai vết thương gây ra bởi Phi Hoàn. Lớp cương khí thái chân đã bảo toàn được phủ tạng nhưng da thịt rách toang, đau đớn vô vàn. Chính Lan hít một hơi chân khí, lao vào người thứ ba trong Phi Hoàn tứ lão. Chàng xuất chiêu Thúy Phong Như Thốc bảo kiếm hóa thành ngàn mũi tên thổi vào cơ thể đối phương. Với hơn sáu mươi năm công lực, khí thế của kiếm chiêu tựa như cơn bão biển Đông. Tam lão Lý Tú Khanh rú lên thảm khốc, ôm ngực trái lăn ra. Tất nhiên Chính Lan cũng phải trả giá, lưng chàng trúng thêm một chưởng và hai vòng thép nữa.
Lúc này, máu miệng Chính Lan ứa ra không ngớt, chàng quay ngoắt lại, nhảy xổ vào Miêu Ưng Lão Tổ. Phương Kỳ Như nghe lạnh gáy, có cảm giác như mình đang đối phó với quỉ dữ. Lão dồn toàn lực vào song chưởng để đón chiêu kiếm mãnh liệt. Nhưng con người không biết sợ chết kia vẫn lao đến như cơn lốc. Chính Lan đã dùng đến chiêu Tinh Hà Lộ Khởi, thân ảnh hòa vớI kiếm quang, như cánh có giữa bầu trời, bay vào ngực họ Du. Miêu Ưng Lão Tổ liên tiếp vỗ ra những đạo chưởng kình hung hãn. Cố chặn đối phương lại. Lão thấy rõ Chính Lan trúng chưởng phun ra từng vòi máu, nhưng chàng vẫn kiên cường lướt tới. Kiếm ảnh trùng trùng như sao trời uy hiếp bốn phương tám hướng. Lão Tổ hồn phi phách tán, phiêu thân đào tẩu. Nhưng mũi Long Tuyền kiếm đã kịp rạch một đường dài từ vai trái xuống sướn phải. Lão Tổ hự lên, quay lưng chạy mất.
Còn lại Chính Lan với Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ. Lão mỉm cười đanh ác, vì thấy đối phương toàn thân đẫm máu, lưng chàng nát bét vì thương tích, thân trước đẫm máu đào vì chưởng kình. Chính Lan lảo đảo, cơ hồ đứng không vững, trong khi đại lão vẫn còn nguyên vẹn. Lý Hiểu Lộ cười hăng hắc:
- Khá khen cho Âu Dương tiểu tử, một mình chống lại bốn tay đại cao thủ. Nhưng giờ đây sức mỏi hơi tàn, liệu ngươi còn sính cường được chăng?
Nói xong, lão múa tít song hoàn xuất chiêu sát thủ quyết lấy mạng Chính Lan. Chàng mất máu quá nhiều, chân khí cạn kiệt, nhếch mép cười chấp nhận số mệnh. Trong lúc tối hậu, Chính Lan mơ hồ nhớ đến khẩu quyết của chiêu Nam Thiên Nhị Thức, vung kiếm đánh đại. Chàng điểm liền tám mươi mốt nhát vào màn hắc quang, nào ngờ đắc thủ. Đại lão trúng một kiếm vào ngực phải, rú lên đau đớn, quay lưng đào tẩu.
Chính Lan sững sờ, không ngờ chiêu Lạc Nhật Lân Đầu(10)lại lợi hại vô song như vậy. Chàng hít một hơi chân khí điểm huyệt chỉ huyết, uống liền bảy viên linh đan, rồi ngất ngưởng bước về phía Ngụy Trung Hiền. Lão đã mê man bất tỉnh vì bị chặt cụt cả cánh tay tả.
Chính Lan nén đau, bồng lão rời mật thất, đi lên mặt đất.
Chàng ngờ ngàng nhận ra khắp Ngụy phủ đén đuốc sáng trưng, tiếng ngựa hí vang trời. Nơi nơi xảy ra cuộc chiến giữa bọn thị vệ áo vàng và đám cấm quân.
Theo kế hoạch chàng đã bàn với Sùng Trinh hoàng đế, thì khi nào chàng bắt được, hoặc giết được Ngụy Trung Hiền thì quân của Ngũ Thành Binh Mã Ty mới tiến vào Ngụy phủ. Vậy mà tại sao họ lại khởi sự sớm hơn dự định?
Chính Lan sờ lại thắt lưng, phát giác không còn Thiên Tử ngọc bài, sau cơn ái ân nồng nhiệt với hai ái thê, chàng đã không để ý đến vật ấy. Có lẽ Thi Mạn và Tố Bình đã dùng ngọc bài điều động quan quân khi thấy chàng đi quá lâu. Chính Lan thầm cảm kích, vì nếu họ không làm như vậy, chàng khó có thể thoát khỏi nơi này. Chính Lan dồn hết sức tàn. Loạng choạng ôm Ngụy Trung Hiền bước đi. Chỉ được vài mươi trượng, chàng kiệt lực khụy xuống.
Nhưng có một bóng người đã lao đến đỡ đần, đó là Liễu Thi Mạn. Nàng cố nén lo âu thét vang:
- Đã bắt được Ngụy Trung Hiền.
Dứt lời, nàng vực Chính Lan dậy, nức nở gọi:
- Tướng công, tướng công.
Chính Lan mỉm cười chìm vào cơn mê.
Tài sản của than_long_vn

  #4  
Old 01-05-2008, 03:23 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 10

Tuyệt xứ phùng sinh vân mộng giản
Vu hồ hào kiệt hội cố nhân

Chính Lan thọ thương quá trầm trọng, mê man bất tỉnh suốt nửa tháng trời chẳng hề mở mắt, cơ thể chàng ngày càng hư nhược, hơi thở mong manh.
Biết chàng khó thoát chết, bọn Thi Mạn gạt nước mắt đưa chàng trở lại Nam Kinh, may ra còn kịp gặp vợ con.
Sùng Trinh hoàng đế rộng rãi cấp cho chiếc xe tốt nhất của hoàng cung, ban thưởng rất nhiều ngọc ngà, châu báu, và cho năm mươi giáp sĩ hộ tống.
Vô Nhân Kiếm Khách và Hán Trung Tam Ngốc thay nhau làm xà ích. Thi Mạn, Tố Bình túc trực trong xe chăm sóc bệnh nhân. Hai nàng khóc đến nỗi mắt sưng húp, hoa dung thiểu não, hốc hác hẳn đi.
Trời đã vào đông, tuyết rơi mù mịt và lạnh thấu xương. Cũng may đây là xe của vua nên thùng xe rộng rãi, tiện nghi, có cả lồng than hồng để sưởi ấm và nấu nướng.
Chính Lan chỉ uống toàn nước cháu nấu với sâm già. Thi Mạn cố cứu trượng phu, cho chàng dùng rất nhiều linh đan. Nhờ vậy, bệnh tình không nặng nề thêm, hy vọng Chính Lan cầm cự được cho đến lúc về nhà.
Giữa tháng mười một, đoàn người vượt Từ Châu, đi vào đoạn đèo Vân Mộng. Nơi đây cách xa Từ Châu hơn hai trăm dặm nên không sợ Đào Hoa cung tập kích. Hơn nữa, việc Chính Lan thọ thương được giữ kín, chắc họ Thang không dám chặn đường.
Sắp đến ngọ mà bầu trời xám xịt, gió bấc lồng lộng gào thét, thổi trận mưa tuyết vào lưng lữ khách xuôi nam. Bọn Thi Mạn lầm lũi tiến lên đèo. Mé tả là sườn núi Vân Mộng sơn, mé hữu là vực thẳm Vô Để Uyên nổi tiếng.
Chưa có ai xuống được đáy vực mà sống sót để trở lên. Nếu ném một tảng đá thì phải rất lâu sau mới nghe tiếng động vang lên.
Gần đến đình đèo, bất ngờ từ đám loạn thạch mé tả, hàng ngàn mũi trường tiễn xé gió bay vút đến, cắm vào cơ thể bọn cấm quân. Hán Trung Tam Ngốc múa tít bảo đao hộ thân và che chở cho xe ngựa. Tố Bình vội tung trái Đảo Thiên thần đạn cuối cùng vào bọn mai phục. Đồng thời, Hách Thiết Xuyên quất đôi ngựa phi nước đại.
Ba gã ngốc lao theo, còn đám cấm quân chết không sót một tên. Nhưng lên đến đỉnh đèo, Thiết Xuyên nhận ra đường quan đạo đã bị chặn ngang bởi một thân cây lớn, chẳng thể nào vượt qua được. Gã thở dài tuyệt vọng, khi thấy hàng trăm tên cao thủ áo trắng dương cung chĩa vào xe.
Có tiếng cười ghê rợn vang lên:
- Để xem bọn ngươi làm cách nào thoát khỏi tuyệt lộ này?
Người nói chính là Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân. Tố Bình đứng trên càng xe mắng liền:
- Lão có giỏi thì đơn đấu với tướng công của ta, sao lại bày trò mai phục đê tiện như vậy?
Nhưng nàng không dọa được lão vì cạnh họ Thang còn có một lão già mũi két, mắt diều, trên vai, có con chim ưng lông đỏ. Lão ta chính là Miêu Ưng Lão Tổ ở Quân Đô Sơn. Ngoài ra còn có Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ và Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Bốn người ấy liên thủ thì dù Chính Lan có khoẻ mạnh cũng không mong thoát chết.
Hách Thiết Xuyên kiến văn rộng rãi nên nhận ra ngay lai lịch của đối phương. Gã hạ giọng bảo Tố Bình:
- Nàng và Thi Mạn cố cõng Chính Lan đào tẩu, ta và ba anh em họ Hồ sẽ đoạn hậu cho.
Tố Bình cười nhạt:
- Có chạy cũng không thoát, thà liều mình đánh trận cuối cùng rồi chết chung với trượng phu còn hơn.
Chính Lan đang sắp chết, nàng cũng chẳng còn ham sống nữa.
Bỗng trong xe Thi Mạn thẳng thốt kêu lên:
- Tướng công đã hồi tỉnh.
Có lẽ tiếng nổ long trời của trái Đảo Thiên thần đạn đã đánh thức chàng. Chính Lan thều thào hỏi:
- Chuyện gì vậy Mạn muội?
Thi Mạn sa lệ đáp:
- Chúng ta bị Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân vây chặt trên đỉnh đèo Vân Mộng. Chắc là lành ít dữ nhiều.
Tố Bình đã chui vào xe, ôm lấy Chính Lan nức nở:
- Phen này chúng ta cùng dắt tay nhau xuống suối vàng mà thôi.
Chính Lan lặng lẽ suy nghĩ, nghiêm giọng bảo:
- Hai nàng mau truyền cho ta ít chân khí và bảo Thiết Xuyên nói đối phương chờ một lát.
Thi Mạn vén màn xe nói với họ Hách, còn Tố Bình dựng Chính Lan ngồi lên, truyền công lực vào mệnh môn. Phe Đào Hoa cung đã nắm chắc phần thắng nên chẳng vội gì, chấp nhận chờ đợi.
Nửa khắc sau, Chính Lan đã hồi phục được hai thành, dắt tiểu kiếm vào bụng, tay xách Long Tuyền kiếm bước xuống xe. Chàng đã nhận ra Miêu Ưng Lão Tổ và Phi Hoàn đại lão nhưng vẫn thản nhiên.
Chính Lan cao giọng bảo Thái Sơn Phủ Quân:
- Vũ tiền bối, kỳ hạn ba tháng chưa đến sao tiền bối lại có mặt nơi này?
Phủ Quân cười mát:
- Bần đạo nghe nói công tử sắp chết nên đến xem thử thế nào.
Phi Hoàn đại lão gầm lên:
- Hồng Nhất Điểm, ngươi hãy đến mạng ba em của ta.
Chính Lan rút bảo kiếm ra khỏi vỏ, chậm rãi tiến lên, đối diện bốn lão ác ma. Họ đang đứng dưới chân sườn núi, vì vậy, vị trí của Chính Lan rất gần bờ vực. Chàng giơ cao thanh kiếm và nói:
- Đây chính là thanh Long Tuyền bảo kiếm thời thượng cổ. Nếu các vị đồng ý tha cho sáu người thân của tại hạ thì sẽ được thanh kiếm này và sinh mạng của Âu Dương mỗ. Nếu không, Lan này sẽ hủy ngay bảo vật.
Dứt lời, chàng chém mạnh vào tảng đá cạnh đấy. Lửa xanh bắn ra và tảng đá nứt đôi, mà thanh kiếm không hề sứt mẻ. Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân đều là kiếm khách nên hoan hỉ phi thường. Nhưng Lý Hiểu Lộ gạt phăng:
- Lão phu có đôi phi hoàn này là đủ rồi, chẳng cần bảo kiếm làm gì.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đến đây để lấy mạng ta chứ đâu phải vì sáu kẻ vô can kia?
Phủ Quân và Đào Hoa cung chủ bàn bạc chớp nhoáng. Vũ Diên quay sang phủ dụ đại lão, rồi nghiêm giọng:
- Được, bần đạo đồng ý tha cho thân quyến của ngươi. Nhưng ngươi phải thề sẽ để kiếm lại và nhảy xuống vực tự sát.
Thi Mạn, Tố Bình kinh hãi kêu lên:
- Tướng công, bọn thiếp thà chết chứ không bỏ chàng.
Thiết Xuyên cũng nói:
- Tại hạ chẳng phải là kẻ ham sống, công tử bất tất phải làm như vậy.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu các ngươi không nghe lời ta mà đi ngay thì chẳng còn là thê thiếp, bằng hữu gì nữa hết. Hai nàng đang mang thai, sao không lo giữ gìn hương hỏa cho ta mà lại tính chuyện chết oan?
Thi Mạn và Tố Bình sửng sốt vì họ nào có mang thai nghén gì? Thiết Xuyên cũng biết điều ấy, lặng người suy nghĩ. Chính Lan giận dữ quát:
- Đi mau đi, một năm sau quay lại cúng tế là đủ rồi. Đừng để ta phải nói nhiều.
Tố Bình và Thi Mạn quì xuống vái tạ:
- Kiếp này không còn sum họp, xin hẹn kiếp lai sinh chắp cánh uyên ương.
Ba gã ngốc cũng sụp xuống khóc ồ ồ:
- Đại ca đi đi, bọn tiểu đệ hứa sẽ đốt cho đại ca thật nhiều giấy tiền vàng bạc, để dưới âm ty có rượu mà uống.
Thiết Xuyên thì ngửa cổ cười bi thiết:
- Hảo bằng hữu, hẹn sớm gặp lại nhau.
Y nghĩ sau này sẽ liều mình báo phục, dẫu chết cũng vui lòng.
Chính Lan quay sang nói với phe đối phương:
- Tại hạ thề có hoàng thiên rằng sẽ trao bảo kiếm và tự sát, ngay sau khi bọn họ đi khỏi. Mong chư vị mở đường cho.
Người võ lâm rất trọng lời thề, nhất là một bậc đại hiệp khách như Chính Lan. Đào Hoa cung chủ lập tức phất tay ra hiệu nhường đường. Bọn cung thủ liền kéo thân cây sang một bên để xe và ngựa đi qua. Hai mỹ nhân cứ mãi quay lại, lệ tuôn như suối, luôn miệng gọi tướng công.
Chờ họ đi xa, Chính Lan tra kiếm vào vỏ, đặt xuống đất rồi tung mình nhảy vào khoảng không mù mịt của vực thẳm.
Vô Để Uyên có nghĩa là vực không đáy, nhưng mỗi khi đông đến tuyết phủ dày hàng trượng. Chính Lan đã tính đến điều này nên mới dám liều mình để cứu thê thiếp, bằng hữu. Hy vọng dẫu mong manh nhưng còn hơn cả đám chết trong tay kẻ địch.
Chính Lan dồn hết công lực vào đôi chân để chịu đựng va chạm. Nhưng từ độ cao hơn trăm trượng rơi xuống, dù tuyết dày và xốp, xương đầu gối của chàng cũng sai khớp. Thân hình Chính Lan lún sâu vào lớp tuyết, ngập cả đầu.
Chàng cố nén đau, dùng tay bới tuyết trườn lên. Sửa lại khớp xương xong, chàng thở phào lướt lên miệng vực, chỉ thấy tuyết bay mù mịt mà thôi. Đã quyết tìm cái sống trong cái chết nên Chính Lan chẳng hề tuyệt vọng.
Chàng nghỉ ngơi một lúc rồi bắt đầu thám hiểm đáy vực. Tiểu kiếm cầm sẵn trong tay, Chính Lan chậm rãi bước đi. Dù còn rất yếu đuối nhưng nhãn quang chàng vẫn tinh tường, nhờ tác dụng của thiên niên Hà Thủ Ô. Nếu không có kỳ trân này, chàng đã chết từ lâu rồi. Thi Mạn tinh thông chất độc nhưng y thuật không cao minh lắm. Nàng nóng ruột nên cho Chính Lan uống quá nhiều linh đan và sâm quí, đâu biết rằng trượng phu luyện Qui Tức BảoTâm đại pháp nên cơ thể tự nhiên giảm hoạt động để phục hồi. Thấy mạch yếu, hơi thở mong manh, nàng cứ ngỡ phu tướng sắp chết. Chính tiếng nổ của hỏa khí đã khiến chàng rời khỏi trạng thái đông miên của môn tuyệt kỹ hãn thế kia.
Nhắc lại, Chính Lan đi nửa vòng đáy vực, bỗng phát hiện một cửa hang rộng rãi. Chàng mừng rỡ vì đã có chỗ ẩn thân. Dù sao cũng chẳng thể ở mãi dưới cơn mưa tuyết lạnh lùng. Chàng biết mình phải tịnh dưỡng mấy tháng mới mong phục hồi công lực để thoát khỏi chốn này.
Nước uống thì đã có tuyết, vật thực là lũ độc xà, cóc nhái nhung nhúc khắp nơi. Nếu hang khô ráo, chàng có thể tạo ra lửa mà sưởi ấm và nướng thịt.
Chính Lan thận trọng bước vào, ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ ảo của hàng ngàn thạch nhũ trên trần và sàn hang. Có những vú đá hình thành từ trăm vạn năm trước, trên dưới giao nhau thành cây cột khổng lồ.
Cuối hang là một khoảng rộng bằng phẳng, khô ráo, và kỳ diệu thay có cả dấu vết con người. Chàng lờ mờ nhận ra trong góc động có chiếc giường đá, liền bước đến xem thử. Vật đầu tiên chàng nhận thấy là hộp gỗ đựng bùi nhùi và cục đá lửa lớn bằng nắm tay. Chính Lan phấn khởi đập chúng vào nhau liên tục, tiếp tục quan sát, chàng phát lại phát hiện một đống cành khô ở chân vách động.
Lát sau, đống củi mục cháy bùng lên, tỏa ra sức nóng, làm ấm lòng kẻ cô đơn. Chính Lan trở ra ngoài bắt vài con độc xà và nhặt thêm ít củi nữa. Tuy chúng ướt át nhưng vẫn có thể cháy được. Còn việc làm thịt rắn thì chàng đã học của Liễu Thi Mạn.
Ánh lửa soi sáng cảnh vật, giúp Chính Lan nhận ra vách đá cuối động được khoét sâu một mảng vuông vức, cách mặt đất gần trượng. Và trong khoảng trống ấy, một xác người ngồi ngay ngắn theo tư thế kiết đà. Chàng hiếu kỳ rút cây củi đang cháy đến nơi quan sát, thấy da thịt của tử thi đã khô quắt lại sát xương mặt, chỉ có hàng râu năm chòm và mái tóc đen nhánh là vẫn chỉnh tề. Chính Lan là người trung hậu, thủ lễ nên sụp xuống lạy ba lạy, thầm khấn:
- Vãn bối vô tình lạc bước vào đây, quấy nhiễu chốn yên nghỉ của tiền bối, xin anh linh lượng thứ cho.
Lúc quì lạy, chàng đã đặt cây đuốc củi khô xuống sàn. Ánh lửa chập chờn nhưng cũng đủ soi sáng chân vách trước mặt. Nhờ vậy, Chính Lan nhìn thấy bốn chữ “sàng hạ hữu kinh.” Chỗ này rất tối tăm, chữ viết lại nhỏ, nếu chàng không qùy lạy, khó mà thấy được bốn chữ ấy.
Chính Lan hiểu ngay dưới chiếc giường đá kia có lưu lại chân kinh, bí kíp gì đó. Chàng xách đuốc đến nơi xem xét, và tìm ra một khung cửa nhỏ, vuông vức, mỗi bề độ hơn gang. Chính Lan lôi ra một chiếc rương đồng, tiết diện gần bằng khung cửa đá, dài khoảng hai gang. Rương không có khóa nhưng quanh nắp được gắn kín bằng nhựa cây. Chính Lan dùng tiểu kiếm cạo sạch lớp keo ấy, mở nắp rương ra. Vòn vẹn chỉ có một phong thư, vài nén vàng, một quyển kinh và tấm áo tơ mềm mại, đen bóng. Chính Lan mở phong thư, phát hiện thêm một chiếc mặt nạ da người rất tinh xảo.
Chàng đặt sang một bên, đọc thư trước đã.
“Lão phu là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đất Thiểm Tây, từng phò tá Vương Dương Minh đánh giặc Trần Hào. Nhưng quen thói tiêu dao tự tại, lão phu không nhận chức tước mà tiếp tục ngao du, hành hiệp. Trong ba mươi năm ngang dọc, với pho Cuồng Lãng chưởng pháp, lão phu tiêu diệt không biết bao nhiêu ác nhân trong võ lâm, nổi danh Báo Ứng Lang Quân. Đến năm sáu mươi tuổi, lão vô cùng hối hận, lão phu giết lầm một người vô tội, nhảy xuống Vô Để Uyên tự sát. Nào ngờ trời xanh chưa cho chết nên lão phu ở lại nơi này sám hối. Chẳng nỡ để tuyệt học thất truyền, lão phu lưu lại bí phổ cho đời sau. Chỉ mong kẻ hậu sinh thụ giáo tuyệt kỹ này trở thành Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại, tạo phúc cho giang hồ. Nhưng nhớ đừng giết oan người vô tội?
Trọng Phú Lan di chí.”
Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp chỉ say mê kiếp thuật nên thờ ơ với quyền chưởng. Vì vậy, Chính Lan cũng chẳng khá hơn. Sau ba năm phiêu bạt, chạm trán nhiều cường địch, chàng thức ngộ rằng chưởng pháp lợi hại chẳng kém gì kiếm thuật. Chàng hiếu kỳ dở chân kinh ra đọc. Bỗng một ý niệm bừng lên khiến chàng choáng váng. Phải chăng Báo Ứng Lang Quân đã tìm ra lối xuất nhập nên mới có giấy mực mà viết di thư và quyển bí kíp này? Lão nhảy xuống vực thẳm tự sát thì làm gì có văn phòng tứ bảo? Chàng hồi hộp lướt nhanh từng trang, đến cuối mới thấy lời ghi chú:
“Sau mười năm rèn luyện chân kinh, đủ sức đánh ra trăm chưởng liên tục thì có thể phối hợp với khinh công mà trở lên miệng vực.”
Chính Lan vô cùng thán phục bản lãnh của Báo Ứng Lang Quân, quyết cố công rèn luyện pho Cuồng Lãng thần chưởng. Chàng đã có hơn sáu mươi năm công lực, chẳng cần phải mất một khoảng thời gian lâu như vậy.
Phần đầu của bí phổ là tâm pháp Đồng Tử Nhất Nguyên Công. Chính Lan đã có vợ nên chẳng thể luyện được, lật qua phần khẩu quyết Cuồng Lãng chưởng pháp và Ngự Phong thân pháp.
* * *
Hơn năm sau, trên bến đò bờ bắc sông Hoài xuất hiện một chàng trai tuổi tam tuần, mặt đẹp như ngọc. Bộ trường bào màu xanh có vẻ cũ kỹ nhưng tấm áo choàng tơ đen trên vai óng ánh như mới dệt xong. Đặc biệt, chàng ta không hề có vũ khí hay hành lý, đôi giầy vải dưới chân đã rách mũi, lộ cả ngón ra.
Chàng ta bước vào tửu quán, gọi một mâm cơm nhỏ và bầu rượu. An xong chàng nhâm nhi chén rượu, nhìn về phía rừng liễu xanh mướt đằng đông. Trời đã vào xuân, tiết trời ấm áp, hoa cỏ tốt tươi và cảnh vật đầy sức sống. Bỗng chàng ta tức cảnh sinh tình, ngâm nga nho nhỏ bài Ức Dương Liễu(11)của Bạch Cư Dị.
“Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn,
Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân.
Giao ức thanh thanh giang ngạn thượng,
Bất tri phan chiết hà thị nhân?”(12)
Giọng ngâm quen thuộc kia là của Âu Dương Chính Lan. Chàng đã thoát khỏi vực sâu và tái xuất giang hồ với dung mạo của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Thật là tấu xảo khi chàng và Lang Quân lại trùng tên.
Chàng đang trên đường trở lại Nam Kinh sum họp với gia đình. Mất nén vàng mà Báo Ứng Lang Quân để lại không đủ để mua ngựa cỡi, chàng đành đi bộ và ngủ ngoài trời. Sau hơn năm giam mình dưới đấy vực sâu tĩnh mịch, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về kiếp nhân sinh, đạo tâm sáng láng hơn xưa nên ung dung trong mọi hoàn cảnh.
Thấy thực khách lục tục đứng lên, Chính Lan biết đò ngang sắp sang đến, bèn tính tiền rồi bước ra.
Chàng mừng rỡ khi thấy Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Lão đang đứng chắp tay sau lưng, buồn bã nhìn dòng nước chảy về Đông. Phải chăng lão u sầu về cái chết của Hồng Nhất Điểm?
Thân phụ Từ lão đã thọ ân cứu mạng của Hoàng Hạc Tú Sĩ. Vì vậy, lão theo di mệnh, một lòng trung thành với đồ đệ của Tú Sĩ. Nhưng Chính Lan bỗng nhận ra Từ Kính Nhan không đứng một mình, quanh lão còn có bảy tám cao thủ nữa. Y phục của họ đều giống nhau, đều là võ phục xanh nhạt, lưng thêu đóa hoa sen trắng. Chàng thận trọng dừng bước, không đến nhận người quen nữa. Lát sau, đò ngang cặp bến, Sơn Đông Tử Phòng cùng đám thanh y võ sĩ dẫn ngựa lên thuyền. Lạ lùng thay, chẳng ai dám đồng hành với họ. Thuyền rời bờ, Chính Lan nghe người sau lưng nói với giọng căm hận:
- Bọn Bạch Liên giáo ngày càng lộng hành, thật chướng tai gai mắt. Từ khi Hồng Nhất Điểm đại hiệp tạ thế đến nay, bọn chúng công khai khuynh đảo võ lâm, chẳng coi ai ra gì cả.
Chính Lan quay lại, nhận ra người vừa nói là một chàng trai mập mạp, tuổi độ hai bốn, hai lăm, áo thư sinh vải thô, lưng đeo trường kiếm nhưng tay tả kè kè tráp gỗ. Chính Lan nghe lòng ấm lại khi thấy còn có người mến mộ mình. Chàng mỉm cười hỏi thử:
- Dường như huynh đài có tác phong giống như Âu Dương công tử?
Chàng trai đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:
- Tại hạ từ lâu vẫn ngưỡng mộ Âu Dương đại hiệp, cố noi gương người, ăn mặc giản dị và khổ luyện võ nghệ. Mọi người đều chê cười rằng Lâm Chấn Hạo này quá béo, chẳng thể giống được Hồng Nhất Điểm.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bắt chước hình dáng, cử chỉ sao bằng bắt chước nhân phẩm? Quí hồ một lòng giáng ma vệ đạo là đủ rồi.
Lâm Chấn Hạo cười buồn:
- Tiểu đệ hiếu võ nhưng chưa gặp được minh sư, bản lãnh có hạn, làm sao hiên ngang, lẫm liệt như Hồng Nhất Điểm?
Chính Lan bất giác có cảm tình với chàng trai trung hậu này. Họ Lâm cũng vậy, gã vui vẻ hỏi:
- Tứ hải giai huynh đệ, xin huynh đài cho tiều đệ biết tính danh?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ là Trọng Phú Lan.
Chấn Hạo thấy chàng rách rưới, lại không hề có hành lý, đoán rằng túi đối phương đang cạn. Gã hòa nhã nói:
- Tiểu đệ sẽ mướn thuyền con sang sông, không chờ đò nữa. Mong Trọng huynh cùng đi cho vui.
Chính Lan nóng lòng trở về nhà nên đồng ý ngay. Đò lớn do quan lại địa phương quản lý, có thể chở được người, ngựa và xe hàng. Còn khách bộ hành, thường vượt sông bằng những chiếc thuyền câu nhỏ của đám ngư dân gần bờ, đương nhiên giá cả đắt gấp ba.
Trong lúc thuyền con sang sông, Chính Lan trò truyện với họ Lâm, được biết gã quê Trường Sa, con út của một nhà đại phú, mê kiếp giang hồ nên bỏ nhà phiêu bạt đã gần năm nay. Chấn Hạo học võ của Động Đình Thần Kiếm, bản lĩnh chỉ ở vào hàng nhị lưu, tam lưu.
Trong cuộc đàm đạo, Chấn Hạo tỏ rõ lòng kính ngưỡng đối với thần tượng Hồng Nhất Điểm. Chính Lan thầm hổ thẹn, bỏ qua chuyện khác:
- Tại hạ mới xuất đạo nên không rõ tình hình võ lâm. Mong các hạ chỉ giáo cho.
Chấn Hạo thở dài kể:
- Ba tháng sau ngày Âu Dương đại hiệp nhảy xuống vực thẳm không đáy ở Vân Mộng sơn. Bạch Liên giáo dương cờ gióng trống, nhanh chóng bành trướng khắp nơi. Nghe nói giáo chủ Bạch Liên giáo là Thái Sơn Phủ Quân, còn ba chức phó dành cho Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão và Miêu Ưng Lão Tổ. Tháng mười năm ngoái, Âu Dương gia trang ở Nam Kinh đột nhiên phát hỏa. Quan quân kéo đến thì ba trăm mẫu rừng đã biến thành biển lửa.
Chính Lan nghe như sét đánh bên tai, chết điếng người. Lâm Chấn Hạo không nhận ra, tiếp tục nói:
- Cuộc hỏa hoạn đã thiêu hủy mọi dấu vết nên chẳng biết ai còn ai mất, và ai là hung thủ. Có điều, sau đó ít lâu, người ta thấy Hán Trung Tam Ngốc Hiệp, Vô Nhân Kiếm Khách, Sơn Đông Tử Phòng, Lôi Đao… xuất hiện trong hàng ngũ Bạch Liên giáo. Những cao thủ này chẳng hiểu sao lại phục vụ cho những kẻ đã đẩy Hồng Nhất Điểm xuống vực sâu?
Chính Lan giật mình kinh hãi, chìm vào trong suy tưởng, cố giải thích hiện tượng quái dị kia. Chàng hiểu rõ tính tình cương liệt của Lôi Đao Hứa Hoa và Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Họ thà chết chứ không chịu nhục. Vậy điều gì đã khiến họ phải hành động như vậy? Phải chăng Bạch Liên giáo đã bắt thê tử chàng làm con tin để uy hiếp họ?
Chính Lan bình tâm lại đôi chút, hỏi họ Lâm:
- Các hạ có biết tổng đàn của Bạch Liên giáo nằm ở đâu không?
Chấn Hạo lắc đầu:
- Đạo quán của Bạch Liên giáo nằm rải rác khắp ba phủ Sơn Đông, Giang Tô, Huy Châu, nhưng chẳng ai biết rõ bộ phận đầu não ở địa phương nào.
Chính Lan thất vọng, thẫn thờ bảo:
- Vậy biết tìm ở đâu bây giờ?
Lâm Chấn Hạo sửng sốt hỏi:
- Chẳng lẽ Trọng huynh lại muốn đối đầu với Bạch Liên giáo?
Chính Lan cười mát:
- Đúng vậy, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân, lẽ nào lại để bọn tà ma lộng hành?
Võ lâm cũng như triều đình, đều có người chép sử. Chỉ khác ở chỗ là chốn giang hồ lưu giữ sử sách bằng cách truyền khẩu. Sự tích trong vòng trăm năm vẫn được các bô lão ghi nhớ và kể lại cho bọn tiểu bối. Vì vậy, danh tiếng của Báo Ứng Lang Quân vẫn chưa phai mờ. Trọng Phú Lan chỉ hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ có ba mươi tuổi, thành tích lẫy lừng, lẽ nào lại bị lãng quên?
Phàm là người học võ, bao giờ cũng được sư phụ kể lại cho nghe những truyền thuyết võ lâm, đặc điểm các phái, cũng như qui củ giang hồ. Lâm Chấn Hạo cũng trải qua quá trình ấy nên nhận biết ngay. Gã ngẩn người ấp úng:
- Nhưng Báo Ứng Lang Quân đã chết được hơn bảy chục năm rồi mà?
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy, tại hạ là đời thứ hai.
Chấn Hạo nhìn chàng nghi ngại:
- Nếu quả là đúng thế thì là phúc lớn của võ lâm. Nhưng hiện các hạ có sánh nổi với Âu Dương đại hiệp hay không mà dám đụng đến Bạch Liên giáo?
Lúc này thuyền con đã bắt kịp, đi song song với đò ngang. Chính Lan loáng thoáng nghe một tên trong đám giáo đồ Bạch Liên giáo nói:
- Mẹ kiếp! Chiếc đò quỉ quái này bơi chậm như rùa! Nếu chúng ta không đến được Vu Hồ kịp thời hạn sẽ bị phó giáo chủ phạt nặng đấy!
Tên thứ hai cười nhạt:
- Đến sớm hơn chưa chắc đã là điềm tốt. Bọn Bố Y hội phòng thủ rất chặt chẽ, vào được cũng phải tốn máu xương không ít.
Chính Lan hiểu rằng bọn này đang trên đường đến căn cứ của Bố Y hội ở Vu Hồ. Chàng thắc mắc, không hiểu ai là người lãnh đạo của họ, quyết định đến tận nơi xem thử. Hơn nữa, họ vốn là thuộc hạ của chàng, chẳng thể để đám hào kiệt ấy lâm nguy được.
Thuyền con vượt lên, cặp bờ nam trước đò ngang. Chính Lan vòng tay nói:
- Cảm tạ Lâm các hạ đã cho quá giang. Xin cáo biệt.
Lâm Chấn Hạo vội nói:
- Trọng huynh định đi đâu?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bạch Liên giáo đang chuẩn bị tấn công căn cứ Bố Y hội ở Vu Hồ. Tại hạ muốn đến đấy giúp họ một tay.
Lâm Chấn Hạo là con nhà đại phú, thế mà không chịu an hưởng cảnh giàu sang cũng do lòng hiếu sự và khao khát dọc ngang. Nay gặp được một nhân vật bí ẩn, gã chẳng thể bỏ qua, liền ấp úng nói:
- Mong Trọng huynh cho tiểu đệ theo cùng. Tiểu đệ tuy bất tài nhưng không biết sợ chết là gì.
Chính Lan cảm động, gật đầu:
- Nếu các hạ đã có lòng giáng ma vệ đạo, tại hạ xin tuân mệnh.
Chấn Hạo phấn khởi kéo Chính Lan vào Hoài Nam trấn mua hai con tuấn mã. Họ phi nước đại về hướng tây nam, cố đến Vu Hồ thật sớm.
Ba hôm sau, đúng ngày rằm tháng ba, hai người đến trấn Vu Hồ. Ăn tối xong, Chấn Hạo mua ít đồ nhắm và rượu ngon, gởi ngựa rồi cùng Chính Lan đến khu rừng đào cạnh hồ.
Chính Lan phi thân một vòng xem phe Bạch Liên giáo đã có mặt chưa. Nhưng có lẽ chưa đến ngày nên chẳng có mống nào. Chàng yên tâm trở lại với Chấn Hạo. Chính Lan dõi mắt nhìn hòn đảo giữa hồ, đoán rằng sau đám liễu dày kia là căn cứ của Bố Y hội.
Từ bờ đến đảo xa hàng dặm, muốn thông báo cũng chẳng có cách nào. Chính Lan đành nằm lại chờ đợi. Anh tà dương mùa xuân đỏ rực, xuyên qua cành là soi rõ gương mặt thuần hậu, thiện lương của Chấn Hạo. Chàng cảm thấy gã chính là hình ảnh mình ngày mới xuất đạo. Chính Lan chợt nảy sinh ý định tài bồi cho họ Lâm. Chàng hỏi gã:
- Lâm lão đệ sở đắc những tuyệt học nào?
Chính Hạo bẽn lẽn đáp:
- Tiểu đệ học được sáu thành pho Hoa Sơn kiếm pháp và vài chiêu quyền cước.
Động Đình Thần Kiếm vốn là đệ tử tục gia của phái Hoa Sơn.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đệ thử trổ tài cho ta được mở rộng thêm kiến văn.
Thấy chàng xưng hô thân mật, Chấn Hạo dạn dĩ hơn, rút kiếm thi triển ba mươi sáu chiêu kiếm.
Phái Hoa Sơn phát nguyên từ phái Toàn Chân, cũng nằm trong hệ thống đạo giáo. Thái Chân kiếm pháp của Hoàng Hạc Tú Sĩ là tuyệt học của Mã Ngọc chân nhân đại đệ tử của Vương Trùng Dương giáo chủ của Toàn Chân đáng được coi là võ thuật chính thống. Vì vậy, Chính Lan thấy hết những sơ hở của pho Hoa Sơn kiếm pháp kia. Dẫu sao, thiên bẩm của Hách Đại Thông sư tổ phái Hoa Sơn cũng không bằng đại sư huynh Mã Ngọc. Hai người cùng ở trong Toàn Chân thất tử nhưng căn cơ khác xa nhau.
Tuy Mã Ngọc chết sớm, giáo phái tan tác nhưng sở học của ông vẫn được lưu truyền cho đến đời Chính Lan. Chàng bèn chỉ điểm, bổ khuyết những khiếm khuyết cho Lâm Chấn Hạo. Chàng kiên nhẫn giảng giải từng chiêu, nên đến nửa đêm kiếm thuật của họ Lâm đã hoàn bị hơn trước. Gã mừng rỡ khôn cùng, say sưa luyện tập dưới ánh trăng vàng, cuối canh tư mới chịu lăn ra ngủ.
Sáng ra, Chấn Hạo chạy bổ vào trấn mau mấy mòn điểm tâm và rượu thịt, cung phụng cho sư phụ. Gã nhìn chàng bằng cặp mắt kính ngưỡng:
- Trọng huynh quả là bậc kiếm tiên, tiểu đệ học nửa ngày đã tiến bộ bằng mấy năm khổ luyện.
Thực ra, gã chẳng quá lời, vì kiếm pháp có quá nhiều sơ hở, luyện hoài cũng thế thôi. Động Đình Thần Kiếm mở võ trường để mưu sinh, đệ tử đông hàng trăm, làm sao dạy cho chu đáo từng người được?
Chính Lan thấy họ Lâm to béo phục phịch, bộ pháp chậm chạp, liền dạy cho gã một đoạn khẩu quyết trong pho Hoàng Hạc Khinh Vân, chàng dùng kiếm đánh dấu những bộ trên mặt đất bắt gã phải bước theo càng lúc tốc độ càng nhanh. Lâm Chấn Hạo hiếu võ thành tật nên chuyên cần luyện đến bở hơi tai, cuối cùng cũng nắm được yếu quyết của bộ pháp. Chính Lan hài lòng bảo:
- Nếu Lâm lão đệ chú tâm khổ luyện, muốn bảo toàn mạng sống cũng chẳng khó gì.
Đêm xuống, trăng mười sáu trải ánh sáng trên mặt hồ, gió xuân hiu hiu làm gợn sóng, trông như hàng ngàn con rắn bạc. Chính Lan buồn bã nhìn vầng nguyệt lơ lửng trên mặt nước mênh mông, nhớ đến thê tử sống chết phương nào chưa rõ. Chàng đau lòng khôn xiết thở dài, gởi gắm nhớ thương vào bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn(13)của Trương Cửu Linh:
“Hồ thượng sinh minh nguyệt
Thiên thai cộng thử thì
Tình nhân oán dao dạ
Cảnh tịch khởi tương tư
Diệt chúc liên quang mãn
Phi y giác lộ ti
Bất kham danh thủ tặng
Hoàn tẩm mộng giai kỳ.”(14)
Lâm Chấn Hạo cũng được học hành đàng hoàng nên hiểu được tình cảm của Chính Lan. Gã rụt rè hỏi:
- Phải chăng Trọng huynh nhớ nhung hình bóng mỹ nhân nơi quê nhà?
Chính Lan gượng cười, không đáp và bảo gã:
- Lâm lão đệ, chúng ta tìm cách vào đảo thôi. Bờ hồ quá rộng, biết bọn Bạch Liên giáo đến từ hướng nào?
Chấn Hạo tán thành:
- Trọng huynh yên tâm. Lúc chiều, tiểu đệ đã ghé nhà lão ngư phủ hỏi mướn thuyền. Nơi ấy cách đây không xa.
Hai người đi về hướng tây, lát sau đã đến một túp chòi lá ven hồ. Chấn Hạo đưa lão chủ thuyền hai chục lượng bạch ngân, vui vẻ dặn dò:
- Nếu chúng ta không trở lại trả thuyền, lão cứ việc mua chiếc thuyền mới mà sử dụng.
Số bạc này gấp đôi trị giá chiếc thuyền câu nên lão dân chài này rất hoan hỉ, thầm vái hai vị thượng khách chết mất xác cho xong.
Chính Lan và Chấn Hạo chèo nhanh về phía hòn đảo giữa hồ. Vừa được hơn nửa chặng đường đã nghe tiếng quát tháo ở phía đông. Chính Lan chèo nhanh về hướng ấy, nhận ra hai mươi chiếc thuyền dài đang tiến đến đảo, và đang bị các cung thủ Bố Y hội bắn chặn. Ngoài tên thường họ còn dùng loại tên có quấn vải tẩm dầu ở mũi để đốt thuyền của Bạch Liên giáo. Những mũi tên ấy bay vun vút như dệt lưới, nên đã có ba chiếc thuyền bốc cháy, và mười mấy gã thanh y trúng tên, gào lên thảm khốc. Nói chung, người trên đảo nhờ thuật xạ tiễn điêu luyện đã chặn được bước tiến của đối phương.
Nhưng bất ngờ nhà cửa trên đảo bốc cháy ngùn ngụt. Chính Lan than thầm, đoán rằng Bạch Liên giáo đã gài nội ứng vào Bố Y hội. Đám cháy đã khiến người trên đảo phải phân tán lực lượng để cứu hỏa. Vì vậy, phòng tuyến mỏng đi. Phe Bạch Liên giáo thừa cơ tiến lên.
Chính Lan nghe tiếng chim ưng đập cánh trên cao, ngẩng đầu nhìn lên, nhận ra tám con thần điêu khổng lồ của Đào Hoa cung đang bay vút về phía đảo và sắp hạ cánh. Các cao thủ Bố Y hội vội dương trường cung bắn chặn. Nhờ vậy, mười mấy chiếc thuyền kia đến được mép đảo. Chính Lan kinh hãi đốc thúc Chấn Hạo chèo nhanh. Hai người đặt chân lên đảo thì Bố Y hội đã rút vào trung tâm cố thủ. Chính Lan nóng ruột nắm tay Chấn Hạo kéo đi như bay, tìm đến nơi đang vang lên tiếng reo hò, và lửa cháy rực trời.
Cuộc chiến đang diễn ra quanh một tòa thạch thất rất kiên cố, hình dáng kỳ lạ. Nó không vuông vức mà lại được xây thành hình bát giác, tường vây bên ngoài bằng đá, chỉ thấp ngang ngực người. Nhờ có chỗ ẩn thân kín đáo, hơn trăm cao thủ Bố Y hội cầm chân được đối phương.
Nhưng ở hướng chính nam, một nhóm người đang tiến lên như vũ bão. Chính Lan nhận ra Phi Hoàn đại lão và bảy lão nhân lùn của Đào Hoa cung. Hôm nay họ mặc võ phục vàng, ngực thêu đóa sen trắng lớn bằng hai bàn tay. Riêng Phi Hoàn đại lão có thêm ngân khôi trên tóc. Song hoàn và bảy thanh tiểu kiếm vun vút dệt lưới loang loáng dưới ánh lửa rực rỡ của đám cháy. Có bốn năm căn nhà gỗ gần thạch thất đang phát hỏa.
Chính Lan thấy họ sắp đến gần phòng tuyến của Bố Y hội, liền gầm lên:
- Có Báo Ứng Lang Quân đến đây.
Dứt lời, thân hình chàng lướt tới, đánh thủng hàng ngũ Bạch Liên giáo. Song thủ chàng tung ra hàng loạt chưởng kình liên tiếp, đánh văng thân thể những gã cản đường. Tiếng gào thét rên la vang dội cả mặt hồ.
Tám lão ma đầu kinh hãi quay lại chặn đánh chàng trai lạ mặt. Lý Hiểu Lộ phóng đôi song hoàn, tấn công từ xa. Chính Lan dùng thế Nhất Hạc Xung Thiên quen thuộc, bốc cao hai trượng, xuất chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Không phải hai chưởng mà là mười tám đạo chưởng phong nối tiếp nhau như sóng dữ. Phép đánh khoái chưởng nhanh như chớp giật này khiến đại lão chới với, trúng liền hai đòn vào ngực, máu phun thành vòi. Bảy lão lùn Đào Hoa cung vội hợp chưởng tấn công Chính Lan. Chưởng phong có màu hồng nhạt của Đào Hoa Mê Tâm chưởng pháp bảy đạo chưởng kình hội tụ vào thân chàng, mãnh liệt như cuồng phong.
Chính Lan vỗ mạnh song chưởng vào khoảng không, dùng Ngự Phong Thân Pháp bốc lên cao thêm nửa trượng nữa, thoát khỏi phạm vi của lưới chưởng, và không chờ đối phương kịp đổi hơi, chàng lao xuống xuất chiêu Thăng Thượng Hoa Phi. Ba mươi sáu đạo chưởng kình liên tiếp giáng xuống như búa bổ, vỗ trúng ngực ba lão tống hôn sứ giả.
Cuồng Lãng Thần Chưởng ảo diệu ở chỗ hư thực khó phân. Trong ba mươi sáu đạo chưởng kình kia, nặng nhẹ hoàn toàn khác nhau, được đánh ra với tốc độ cực nhanh nên đối phương không tài nào phán đoán nổi. Ba lão già tội nghiệp kia rú lên thảm thiết, lăn lông lốc như trái cầu, chết không kịp trối.
Bốn lão sứ giả còn lại và Phi Hoàn đại lão trợn mắt kinh hoàng trước bản lình thần sầu quỉ khốc của người lạ mặt. Họ nhảy lùi lại quát hỏi:
- Ngươi là ai mà dám giả dạng Báo Ứng Lang Quân?
Chính Lan cười nhạt:
- Bổn nhân là đệ nhị đại của Lang Quân, có trọng trách tiêu diệt sạch bọn tà ma như lũ ngươi.
Nói xong, chàng vung chưởng đánh liền. Lúc này phe Bố Y hội đã thừa thế phản công. Lâm Chấn Hạo cũng sát cánh với họ. Phe Bạch Liên giáo thiếu cao thủ chủ chốt nên bị áp đảo.
Sơn Đông Tử Phòng câm như hến vung kiếm tấn công những người anh em cũ. Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ biết lão ta bị ép buộc nên chẳng nỡ xuống tay, chỉ tìm cách bắt sống.
Cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều cũng có mặt ở đây.
Họ Trân thấy Sơn Đông Tử Phòng đang đánh với Thanh Long Trảo, liền lén phóng một viên thiết liên tử vào huyệt Ngưu Tỵ ở đầu gối phải của lão. Họ Từ khụy xuống, bị Thanh Long Trảo điểm huyệt, vác vào thạch thất.
Nhắc lại, Chính Lan dở pho Cuồng Lãng Thần Chưởng đấu với năm lão ma đã hơn trăm chiêu mà vẫn chưa giết được ai. Đối phương sợ hãi chàng nên dùng phép du đấu, tránh đòn trực diện và tấn công sau lưng.
Chính Lan thầm tính toán, xông vào Phi Hoàn đại lão. Họ Lý vội nhảy lùi, để bốn lão sứ giả tập kích hậu tâm Chính Lan. Nhưng việc tấn công đại lão chỉ là động tác giả, chưởng kình rất yếu ớt. Thực lực dồn cả vào song cước đưa chàng bay ngược về sau bọn sứ giả. Với vị trí thuận lợi này, Chính Lan xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch, hàng loạt chưởng kình như sóng dữ vỗ vào đầu đối phương. Bốn lão lùn trúng đòn gục ngã, xương đầu vỡ vụn.
Phi Hoàn đại lão hồn phi phách tán, co chân đào tẩu nhưng đã bị Chính Lan chặn đầu. Chàng cười lạnh lẽo bảo:
- Lý Hiểu Lộ, trước khi nhắm mắt lão sẽ biết ta là ai.
Dứt lời, chàng xuất chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn, chưởng kình thu gọn, nối nhau khoan vào màn hắc ảnh của song hoàn. Đôi vòng sắt bật khỏi tay đại lão, nhường đường cho một mũi tên máu bắn vào mắt lão, xuyên thủng não bộ. Công phu này đã tố cáo lai lịch của Chính Lan, nhưng họ Lý đã chết, chẳng thể khai báo với ai được nữa.
Chính Lan xoay qua hỗ trợ bọn Bố Y hội kết liễu chiến trường. Hơn trăm gã đao thủ Bạch Liên giáo đều chết sạch.
Bọn Thanh Long Trảo kéo đến tạ ơn tương trợ. Chính Lan nhìn những gương mặt thân quen, lòng bồi hồi xúc động. Nhưng chàng chưa dám nhận họ mà hỏi ngay:
- Chư vị tìm ra kẻ nội gián đã phóng hỏa chưa?
Thanh Long Trảo ngượng ngùng:
- Bẩm đại hiệp chưa ạ?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu không tìm ra kẻ ấy thì đừng mong gì chống lại Bạch Liên giáo.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều nghiến răng đáp:
- Đại hiệp dạy rất phải, tại hạ thề sẽ lôi cổ tên khốn khiếp ấy ra ánh sáng.
Chính Lan sợ Bạch Liên giáo dùng con tin để uy hiếp nên tuyệt đối không dám tiết lộ lai lịch. Trong thân phận Báo Ứng Lang Quân, chàng dễ đối phó với chúng hơn. Chàng lạnh lùng nói:
- Tại hạ tình cờ đi ngang đây, thấy bọn Bạch Liên giáo đáng ghét nên ra tay tiêu diệt, giờ xin cáo biệt.
Bọn Bố Y hội thấy võ nghệ của chàng còn cao siêu hơn cả Chính Lan, lòng vô cũng kính phục, hết lời cảm tạ chàng và Lâm Chấn Hạo.
Họ Lâm đắc ý phi thường vì có dịp được dương danh. Đồng thời trong trận vừa qua, gã thấy bản lĩnh mình lợi hại hơn hẳn, lòng vô cùng khoan khoái. Cả năm nay gã chỉ dám trừng trị vài gã lưu manh, vô danh tiểu tốt, giờ giết được đến bảy tám tên đao thủ Bạch Liên giáo, bảo sao gã không hoan hỉ?
Chấn Hạo vui vẻ nói:
- Tại hạ và Trọng huynh đã thề sẽ quét sạch tà ma, nếu chư vị biết tổng đàn của Bạch Liên giáo ở đâu xin chỉ giáo cho.
Thanh Long Trảo buồn rầu đáp:
- Bọn lão phu tìm kiếm đã lâu nhưng không thành công, có lẽ phải nhờ đến Cái bang mới được.
Chính Lan nhân dịp ấy dọ hỏi:
- Chư vị tìm tổng đàn Bạch Liên giáo làm gì? Tại hạ mới hạ sơn nên không rõ ân oán giang hồ.
Đặng lão bùi ngùi kể:
- Hội chủ của bổn hội là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, tên gọi là Âu Dương Chính Lan. Hơn năm trước, người đến Bắc Kinh tiêu diệt bọn Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc. Chính Lan thọ thương trậm trọng, trên đường về bị bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo bây giờ phục kích, bỏ mạng dưới vực sâu. Sau đó, đối phương tập kích Âu Dương gia trang, dùng chim ưng rải độc phấn, bắt sống được toàn bộ gia quyến của Chính Lan. Bọn lão phu ngày đêm tìm kiếm nơi giam giữ để cứu họ ra.
Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật nhăn nhó, tiếp lời:
- Đáng sợ nhất là việc Bạch Liên giáo đã dùng các con tin cưỡng bách những người thân của bọn tại hạ trở thành kẻ thù, trở kiếm chống lại anh em.
Chính Lan cố nén thương tâm, hỏi thêm:
- Chẳng lẽ chẳng một ai thoát khỏi trận tập kích ấy?
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lúng túng nhìn quanh, thấy chỉ toàn những người thân thiết, liền hạ giọng:
- Đại hiệp có ân lớn, bọn tại hạ chẳng dám giấu diếm, chỉ mong người giữ kín dùm cho. Quả thực có một người thoát khỏi vòng vây, nhảy xuống Trường giang tìm đến Quí gia trang.
Chính Lan vui mừng khôn xiết, cố tỏ vẻ lãnh đạm:
- Đã có nội gián trên đảo, việc ấy đâu còn gì bí mật nữa?
Đỗ Vĩnh Huy biện bạch:
- Đại hiệp lầm rồi, việc này chỉ có vài người biết thôi. Người ấy được đưa đến đây, giấu vào mật thất trước khi Bố Y hội tụ quân.
Té ra trong tòa thạch thất kia có hầm ngầm. Chàng hài lòng, hờ hững hỏi:
- Thế người ấy là ai?
Thanh Long Trảo thì thầm:
- Ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn. Nàng quen với chất độc nên không bất tỉnh ngay, kịp phá vòng vây chạy về phía bò sông. Dù bị trúng một chưởng vào lưng nhưng vẫn về đến Quí gia trang mới gục ngã.
Trịnh Thiều buồn bã tiếp lời:
- Tiếc rằng phu nhân cứ mãi mê man, cơ thể ngày càng hư nhược.
Chính Lan biến sắc, nhưng nhờ mang mặt nạ nên không ai phát hiện. Chàng nói thật chậm để không run giọng:
- Tại hạ có học qua y đạo, chữa trị được tất cả các loại chưởng thương. Nếu chư vị thấy cần, tại hạ sẽ ra tay cứu ngũ phu nhân.
Bốn người nhìn nhau ái ngại, sợ câu nam nữ hữu biệt. Trân Dật bi phẫn bảo:
- Chẳng lẽ vì chút tiểu tiết mà để ngũ phu nhân phải chết oan? Chính Lan là người độ lượng, chắc ở chốn suối vàng cũng hiểu cho bọn ta.
Ba người tán thành, Thanh Long Trảo vội nói:
- Lão phu cùng Trân lão đệ, Đỗ lão đệ ra tập họp anh em, trước là để kiểm tra thương vong, sau là để giữ bí mật việc trị thương. Trịnh đệ mau đưa Trọng đại hiệp vào thạch thất.
Chấn Hạo đi theo bọn Thanh Long Trảo vì không tiện đến nơi cấm địa. Giang Tây Thần Bộ đưa Chính Lan vào trong. Nửa ngoài là khách sảnh, ngăn với phần sau bởi một bức vách dày. Chính Lan hiếu kỳ hỏi:
- Đây là cơ ngơi của ai mà kiểu dáng kỳ lạ vậy?
Trịnh Thiều vội đáp:
- Bẩm đại hiệp, mười năm trước Bát Quái môn đặt căn cứ ở nơi đây. Tà phái này thường bắt cóc trinh nữ để hiến tế nên bị quân triều đình tiêu diệt. Tại hạ từng được tri phủ Giang Tây cử sang phối hợp với lực lượng bộ đầu An Khánh để điều tra, nhờ vậy mới biết rõ nơi đây.
Trịnh Thiều móc chìa khóa mở cánh cửa thép dày, vào rồi khóa lại ngay. Khu trong bày biện như khuê phòng của nữ nhân. Có giường hoa, có bàn phấn và kệ sách.
Họ Trịnh bước đến trước kệ sách, rút ra vài quyển rồi thò tay vào ấn một nút bí mật nào đấy. Chiếc giường trải nệm gấm kia tự động chạy sang một bên, để lộ nắp hầm. Xuống hết mười bậc thang, gã lại mần mò điều động cơ quan, nắp hầm sập xuống và có tiếng di chuyển về chỗ cũ của chiếc giường bên trên.
Chính Lan vô cùng thán phục người đã thiết kế ra cơ quan tinh xảo này. Căn hầm có kích thước rộng như tòa nhà bên trên, trần được chống đỡ bằng cột đá xây vững chắc. Chính Lan ngước lên, nhận ra một khe hở rộng hai gang chạy suốt nóc hầm. Gió và ánh sáng lọt vào từ đây. Té ra bức tường ngăn phía trên là hai lớp song song. Ngay dưới đường thông gió ấy có một chiếc giường gỗ. Người đang nằm thiêm thiếp chính Liễu Thi Mạn. Còn cô gái ngồi cạnh giường chẳng ai khác hơn Miêu nữ Tiểu Cúc tỳ nữ của nàng.
Chính Lan thắc mắc:
- Cô bé kia là ai vậy?
Trịnh Thiều bỗng đỏ mặt, ngượng ngùng:
- Nàng ta là Tiểu Cúc, tỳ nữ của ngũ phu nhân. Đêm ấy, nàng sang Quí gia trang thăm tại hạ nên không có mặt ở nhà. Nhờ vậy, mới có người chăm sóc ngũ phu nhân.
Chính Lan hiểu ngay họ Trịnh yêu thương nàng Miêu nữ kia nên lén lút hẹn hò.
Tiểu Cúc thấy người lạ vào, vội đứng lên. Bụng nàng nhô cao và cũng là lý do vì sao Giang Tây Thần Bộ đỏ mặt. Nếu là lúc khác, Chính Lan đã buông lời chọc ghẹo họ Trịnh. Nhưng giờ đây chàng đang bồi hồi, lo lắng cho Thi Mạn, nên chẳng nói gì, ngồi xuống mép giường thăm mạch. Chàng cau mày bảo Tiểu Cúc:
- Cô nương hãy lật sấp bệnh nhân, vén lưng áo nàng lên cho ta xem thử?
Tiểu Cúc là người Miêu nên không câu nệ lễ nghi, mau mắn làm theo lời chàng. Trịnh Thiều thở dài, bỏ lên trên, phó mặc cho số phận.
Chính Lan đã nhận ra lai lịch của chưởng thương. Tuyệt kỹ Tỳ Bà Am Thủ này là của Độc Giác Thần Ma tức Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Chàng suy nghĩ, cân nhắc một lúc lâu, cởi hết áo Thi Mạn ra, xoa bóp hai mươi bốn huyệt đạo trước sau. Luồng chân khí hùng hậu của chàng làm sống lại đường kinh mạch sắp khô cứng, giúp chân khí của Thi Mạn từ từ lưu chuyển. Chính Lan lại nhờ Tiểu Cúc giữ nàng ngồi lên để chàng truyền nội lực.
Nửa canh giờ sau, mồ hôi Chính Lan toát ra như tắm nhưng khí huyết của bệnh nhân đã điều hoà, mặt thoáng sắc hồng. Chỉ cần tĩnh dưỡng mươi hôm, Thi Mạn sẽ hồi phục như xưa.
Chính Lan bảo Tiểu Cúc:
- Cúc nhi, ngươi mặc lại áo cho phu nhân đi.
Còn chàng bước xuống giường ngồi cạnh vách tĩnh tọa. Khi chàng mở mắt ra thì chung quanh có năm người đang chờ đợi. Nghĩa là có thêm Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Họ sụp xuống vái lạy:
- Ơn cứu tử ngũ phu nhân, bọn tại hạ nguyện làm thân khuyển mã để đáp đền.
Chính Lan bình thản đáp:
- Chút công lao nhỏ mọn, chẳng đáng để chư vị bận tâm, xin mời đứng lên.
Sơn Đông Tử Phòng nghiêm giọng:
- Đại hiệp là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân, chắc là một lòng vì võ lâm mà càn quét tà ma. Bọn lão phu muốn tôn người là hội chủ Bố Y hội để tiêu diệt Bạch Liên giáo, mầm đại họa của võ lâm.
Chính Lan mỉm cười:
- Chắc các vị muốn lợi dụng ta để báo thù cho Hồng Nhất Điểm chứ gì?
Từ lão không hề bối rối, gật đầu ngay:
- Đại hiệp đoán không sai, nhưng thực ra hai bên cùng có lợi. Nếu đại hiệp cứu được thân quyến của Âu Dương công tử, bọn lão phu xin dâng năm vạn lượng hoàng kim còn như giết luôn được ba lão Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ, Miêu Ưng Lão Tổ sẽ được thêm hai vạn lạng vàng cho mỗi thủ cấp.
Số vàng khổng lồ kia quả là vô cùng hấp dẫn, khó ai cưỡng lại được. Chính Lan đoán ngay Quí Thành Lâm là hậu thuẫn cho bọn họ. Chàng cười mát:
- Còn chư vị sẽ khoanh tay chờ kết quả hay sao?
Đỗ Vĩnh Huy nóng nảy đáp:
- Làm gì có chuyện ấy, bọn tại hạ sẽ giao sinh mạng mình cho đại hiệp sai phái, dẫu chết cũng chẳng sờn lòng.
Chính Lan gật gù:
- Thế thì được, tại hạ sẽ suy nghĩ về đề nghị của chư vị. Nhưng trước tiên xin cho biết kế hoạch hành động trước đã.
Từ lão vuốt râu đáp:
- Hòn đảo này có vị trí rất tốt, nếu phòng thủ chu đáo hơn bọn Bạch Liên giáo khó mà vào được. Nay nội gián chưa tìm ra có dọn đi nơi khác cũng vô ích. Chờ ngũ phu nhân bình phục, chiêu mộ lại đàn độc phong đang tản mác quanh nhà cũ, nơi này càng vững chắc hơn. Thứ hai, bọn lão phu sẽ phong tỏa căn cứ, không cho ai ra cả, như vậy Bạch Liên giáo sẽ không biết rõ nội tình, tất kéo quân đến một lần nữa. Chúng ta dùng kế dĩ dật đãi lao, nắm chắc phần thắng lợi.
Chính Lan im lặng tán thành và tò mò hỏi:
- Vì sao các hạ lại không rời bỏ Bạch Liên giáo sớm hơn?
Từ Kính Nhan thở dài:
- Lão phu và bọn Hách Thiết Xuyên đâu biết rằng ngũ phu nhân còn sống và anh em Bố Y hội tụ họp nơi này, nên đành nhẫn nhục chịu sự khống chế, chờ cơ hội cứu gia quyến của Âu Dương công tử.
Chính Lan vẫn còn thắc mắc:
- Vì sao Bạch Liên giáo không giết hết con tin mà lại lưu lại làm gì? Võ công của bọn Lôi Đao, Thiết Xuyên đâu đáng để Bạch Liên giáo phải nhọc công lôi kéo?
Sơn Đông Tử Phòng ngượng ngùng thú nhận:
- Đại hiệp luận việc rất chính xác. Bạch Liên giáo giữ lại con tin để sau này uy hiếp Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Ông ta đã bất ngờ đào tẩu giữa đường và hăm dọa sẽ kéo Hỏa giáo ở Tây Vực vào Trung Nguyên. Hỏa khí của họ vô cùng lợi hại, vì vậy Thái Sơn Phủ Quân không dám đụng chạm đến con tin, và giữ kín hạ lạc tổng đàn.
Chính Lan yêu thương Hỏa chân nhân, xem ông như cha mẹ ruột của mình, nên rất hân hoan. Chàng vui vẻ nói:
- Nếu đúng như vậy thì giờ này Hỏa chân nhân đã sắp vào đến Trung Nguyên, chúng ta không đơn độc nữa rồi.
Bỗng chàng trở nên tư lự, im lặng rất lâu và tuyên bố:
- Tại hạ sẽ ở đây cho đến lúc ngũ phu nhân bình phục, sau đó sẽ trả lời dứt khoát.
Cả bọn rời mật thất, trở lên mặt đất. Chính Lan và Lâm Chấn Hạo được bố trí ở ngay trong khách sảnh tức nửa ngoài của tòa nhà bát giác.
Sáng mười tám tháng ba, Sơn Đông Tử Phòng đến bàn bạc với Chính Lan:
- Muốn tìm ra nội gián, phải mời cho được Ma Nhãn đầu đà Nhiếp Văn Sở ở Mỹ Nhân Cốc, cạnh dòng sông Ô Giang. Lão ta có thuật nhiếp hồn rất cao cường, hỏi ai cũng lòi ra sự thật. Ngoài ra, lão còn thiện nghề độc dược, rất có ích cho chúng ta.
Chính Lan có biết nhân vật tà quái ấy, chàng cười bảo:
- Chưa chắc vàng ròng đã thu phục được Ma Nhãn đầu đà, ta sẽ cùng đi với Từ các hạ.
Từ lão cũng có ý ấy, mừng rỡ chấp thuận ngay. Hai người lên thuyền con rời đảo, vào trấn lấy ngựa của Chính Lan và Lâm Chấn Hạo, đi về hướng đông.
Trên đường đi, Từ lão kể lể:
- Ma Nhãn đầu đà vốn là người dân tộc Xá, tướng mạo cổ quái, xấu xí nên mặc cảm, ít khi ra khỏi Mỹ Nhân Cốc.
Chính Lan bật cười:
- Lão ta như vậy sao lại đặt tên nơi ở là Mỹ Nhân Cốc?
Từ Kính Nhan giải thích:
- Thứ nhất trước cửa cốc có một ngôi mộ cổ bằng đá, trên bia có khắc độc một chữ Ngu. Thứ hai, dân gian vùng Ô giang có truyền tụng rằng Hạng Vũ đã đem xác Ngu Cơ Từ Chi Hạ theo mình, lúc cùng đường mới chôn nàng ở sơn cốc, và ngôi mộ cổ kia chính là của Ngu Cơ. Vì vậy, sơn cốc kia được gọi là Mỹ Nhân cốc đã hàng trăm năm nay. Khi Ma Nhãn đầu đà chọn nơi ấy làm chỗ ẩn cư thì vẫn giữ nguyên tên cũ.
Trưa hôm sau, Chính Lan và Sơn Đông Tử Phòng đến Mỹ Nhân cốc. Quả nhiên, ngay mé hữu của cốc là một ngôi mộ cao hơn đầu người, chung quanh cỏ mọc đầu, kẽ đá kín rêu xanh. Lạ lùng thay, dưới gốc hàng liễu gìa có cột đàn ngựa độ bảy con. Và trong cốc vọng ra tiếng quát tháo, tiếng rên la. Hai người vội xuống ngựa, lướt vào bên trong. Trước mặt họ là bãi chiến trường khốc liệt giữa một tăng nhân tóc dài cổ đeo vòng niệm châu tay cầm thiền trượng với sáu lão già mặc Miêu phục, sử dụng Miến Đao. Đứng vòng ngoài là một bà lão người Miêu gầy như que củi. Cuộc chiến vẫn quân bình nên Chính Lan và Từ lão ẩn sau một bụi cây quan chiến. Người lão luyện giang hồ chẳng bao giờ vội vã can thiệp khi chưa thật cần thiết. Từ Kính Nhan hạ giọng:
- Sáu lão già mặc Miêu phục kia chính là Nam Hoang lục tà. Không hiểu họ có oán thù gì với Ma Nhãn đầu đà mà lại đến đây?
Chính Lan gật gù tán thưởng thần lực và pho trượng pháp ảo diệu của Ma Nhãn đầu đà. Bản lãnh họ Nhiếp có thể so với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Một mình lão tả xung hữu đột giữa vòng vây của lục tà mà chẳng hề nao núng. Bỗng bà lão người Miêu mặc y phục xanh đỏ diêm dúa kia cười lên the thé:
- Nhiếp Văn Sở, hai mươi năm không gặp, xem ra lão tiến bộ hơn xưa. Nhưng bổn động chủ sẽ cho lão nếm mùi bảo bối.
Dứt lời, từ trong ống tay áo mụ ta bay ra hai con rết có cánh, thân dài ba gang, lưng đen bụng đỏ. Cặp rết giương đôi cánh bay vào trận, phủ sương độc xuống đầu Ma Nhãn đầu đà. Lão ta có vẻ úy kỵ chất độc kia, vung trượng cố đánh bạt đi. Sơn Đông Tử Phòng thấy cặp rết bay, nhận ra lai lịch đối phương.
Lão nhăn mặt bảo:
- Té ra mụ già kia là Ngô Công động chủ ở Nam Lĩnh. Mụ ta nổi danh vua độc vật ở Miêu Cương. Phen này Ma Nhãn đầu đà nguy rồi.
Chính Lan từng được nghe Liễu Thi Mạn kể chuyện đất Miêu nên biết cả bảy người kia. Nam Hoang lục tà tàn ác hại người, có giết đi cũng chẳng sao.
Nhưng Ngô Công động chủ Bội Liên kia lại là cháu ruột của Kim Xà phu nhân sư phụ Thi Mạn. Bà ta tính tình kiêu ngạo, lạnh lùng nhưng không có ác tính gì cả. Nếu chàng nói ra lai lịch thì Ngô Công động chủ sẽ rút lui ngay, nhưng chàng lại không dám. Giữ kín thân phận là điều kiện tiên quyết để đối phó với Bạch Liên giáo.
Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã yếu thế, trúng một đao vào vai trái. Chính Lan không dám chần chừ, lướt nhanh vào trận. Trước tiên, chàng vung chưởng đánh văng cặp Tứ Dực Ngô Công đi. Chưởng kình nặng như búa bổ khiến đôi rết đau đớn và sợ hãi, bay về với chủ nhân.
Kế đó, Chính Lan bốc thẳng lên không trung, giáng chưởng xuống đầu ba lão trong lục tà. Chiêu Hải Thượng Hàng Long chỉ gồm chín đạo chưởng phong nhưng mãnh liệt vô song. Ba lão người Miêu đâu biết chàng là ai, thản nhiên múa đao chống cự. Khi chưởng kình ập xuống như núi đổ thì mới thức ngộ ra hiểm cảnh. Nhưng đã quá muộn màng, họ gào lên, rồi gục chết.
Bản lãnh hiện nay của Chính Lan còn cao cường hơn cả Hoàng Hạc Tú Sĩ và Báo Ứng Lang Quân ngày trước. Nhất là pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp càng bội phần lợi hại. Nguyên do là vì chàng luyện Thái Âm chân khí, chưởng kình âm nhu, mềm mại, phát ra rất êm ái, khi chạm mục tiêu đối phương mới phát hiện ra nó mãnh liệt đến dường nào.
Ma Nhãn đầu đà thừa cơ nhảy lùi, tròn mắt nhìn chàng trai lạ mặt. Ông không tin rằng có kẻ lại giết được tam tà chỉ trong một chiêu. Và Chính Lan đã xóa tan nghi vấn ấy bằng chiêu chưởng thứ hai. Song thủ của chàng xoáy tít, vỗ liền ba mươi sáu thức trong chiêu Quần Ngư Dược Ba, đánh thủng luồng độc phấn của ba lão còn lại. Thân ảnh chàng như mũi tên lao vút qua màn phấn trắng, giáng chưởng vào ngực đối phương. Hai chiêu giết sạch Nam Hoang lục tà, Ngô Công động chủ sợ đến nhũn cả tứ chi. Bà càng kinh hoàng khi thấy đại sát tinh trẻ tuổi kia bước về phía mình.
Nhưng chàng ta lại nở nụ cười hiền hoà:
- Vì sao động chủ lại theo Nam Hoang lục tà đến chốn này?
Chung nương ngỡ ngàng đáp:
- Lão thân có một người sư muội bị Bạch Liên giáo bắt giam. Lục Tà bảo rằng họ biết vị trí tổng đàn, và nếu lão thân giúp họ giết được Ma Nhãn đầu đà, thì lục tà sẽ hợp lực cùng lão thân đến đấy cứu Liễu nha đầu.
Chính Lan không ngờ bà ta lại nặng tình với Liễu Thi Mạn như vậy. Chàng cảm động nói:
- Động chủ muốn Thi Mạn thì xin đi theo tại hạ.
Ngô Công động chủ hân hoan gật đầu. Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã được Từ lão băng bó xong. Lão bước đến lạnh lùng nói:
- Lão phu chẳng phải kẻ vô ơn, nhưng không thích người ngoài xen vào chuyện của mình. Các hạ đến đây chắc có dụng ý?
Tính lão cổ quái đến mức này thì quả là hiếm có. Sơn Đông Tử Phòng bối rối trình bày ý định của mình. Nào ngờ Đầu Đà cười nhạt:
- Lão phu đã chán sống và không muốn dính vào ân oán giang hồ. Nếu nhị vị muốn đòi lại mạng này, lão phu sẵn sàng tự sát cho sạch nợ.
Từ Kính Nhan chết điếng người, chẳng biết phải đối phó thế nào với lão quái vật này. Đến Ngô Công động chủ còn phải than trời:
- Thực ta chưa thấy trên đời có ai lại cổ quái hơn lão.
Vậy mà Chính Lan lại thản nhiên ngâm nga:
“Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất minh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung.”(15)
Ma Nhãn đầu đà biến sắc hỏi ngay:
- Các hạ ngâm bài Điểu Minh Giản(16)này có ý gì?
Chính Lan ung dung đáp:
- Bốn năm trước, tại hạ đi ngang cánh rừng ở chân núi Thái Bạch. Tình cờ có cứu được một gã tiều phu thoát khỏi nanh vuốt mãnh hổ. Gã liền mời tại hạ về nhà chơi, say sưa suốt ba ngày. Gã thường ngâm nga bài thơ ấy nên tại hạ thuộc lòng. Cả hai đứa con trai nhỏ bé của gã cũng thuộc, chúng rất kháu khỉnh và thông tuệ. Gã tiều phu ấy kể rằng vì tình yêu đối với người vợ hiện tại mà bị thân phụ đuổi đi. Lòng lúc nào cũng nhung nhớ cố hương mà chẳng dám về.
Ma Nhãn đầu đà như người bị chùy sắt nện vào, lảo đảo ôm ngực. Lão run rẩy hỏi:
- Các hạ có gặp vợ của hắn không?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Có chứ, nàng ta quả là một hiền phụ hiếm có, đối với trượng phu một lòng kính cẩn và yêu thương. Dù cảnh nhà có nghèo khó vẫn luôn cười, cần mẫn chăm sóc con thơ.
Ma Nhãn đầu đà sa lệ lẩm bẩm:
- Tội nghiệp Vân nhi, té ra ta mới là kẻ hồ đồ.
Lão quì xuống vái tạ:
- Ơn cứu mạng khuyển tử, lão phu xin đê đầu bái tạ. Mong công tử chỉ chỗ để lão phu đi rước con cháu về.
Chính Lan mỉm cười:
- Tôn giá cứ viết thư, tại hạ hứa trong vòng ba tháng sẽ đưa được gia đình Nhiếp Tường Vân về đây. Trước mắt, mong tôn giá đến Vu Hồ giúp Bố Y hội tìm ra nội gián. Việc này rất cấp bách, mong tôn giá giúp cho.
Ma Nhãn đầu đà khẳng khái nói:
- Lão phu xin tuân mệnh.
Và lão ngượng nghịu cười:
- Thực ra thì lão phu cũng rất xấu hổ khi đến đấy. Công tử rước dùm là thượng sách.
Lão đã nói thực lòng mình, vì mười năm trước, con trai lão là Nhiếp Tường Vân đã chuộc một kỹ nữ về làm vợ. Đầu đà nổi lôi đình đuổi cả hai đi. Sau đó, lão sống trong niềm ray rứt khôn nguôi, tính tình trở nên quái dị. Nay nghe nói nàng kỹ nữ kia rất hiền thục và sanh cho lão hai đứa cháu trai, đầu đà mừng như sống lại. Nhưng bảo lão đến tận nơi rước về thì biết ăn nói làm sao đây?
Ma Nhãn đầu đà vác sáu tử thi quăng xuống Ô giang, giao sơn cốc lại cho lão bộc già, thu xếp hành lý đi theo Chính Lan. Tất nhiên Ngô Công động chủ cũng tháp tùng.
Chiều hôm sau, bốn người về đến Vu Hồ. Ngay đêm ấy, Ma Nhãn đầu đà thi triển Nhiếp Hồn đại pháp, tra hỏi từng người. Khi đến lượt Kim Hoàn Đao Trương Lân thì gã cắn lưỡi tự sát. Không còn ai khác, mọi người yên tâm, hết lời tán dương đầu đà. Nhiếp lão đã giải tỏa được nỗi niềm riêng nên rất vui vẻ, hòa đồng, không khó chịu như trước nữa. Nhưng Chính Lan vẫn khăng khăng giữ kín bí mật sống còn của mình, tiếp tục đóng vai Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại.
Hai ngày sau, Tiểu Cúc lên báo rằng Thi Mạn đã hồi tỉnh, bắt đầu ăn uống đều đặn. Sơn Đông Tử Phòng dắt Ngô Công động chủ xuống mật thất thăm nàng. Chính Lan thản nhiên đi theo.
Chung nương vừa thấy Thi Mạn đã chạy đến ôm và khóc lóc:
- Tội nghiệp sư muội, mới đôi mươi mà đã góa chồng, lại còn bệnh hoạn suýt chết thế này.
Bà liến thoắng kể lại cho nàng nghe câu chuyện ở Mỹ Nhân cốc. Thi Mạn cũng không ngờ vị sư tỷ khô khan này lại là người đầy tình nghĩa như vậy.
Trịnh Thiều giới thiệu Chính Lan với nàng:
- Bẩm phu nhân, đây chính là Trọng đại hiệp, người đã chữa trị vết chưởng thương cho phu nhân.
Khi tỉnh lại, nàng đã được tỳ nữ Tiểu Cúc kể lại cho nghe. Giờ thấy mặt ân nhân, lòng càng thêm hổ thẹn. Chàng trai anh tuấn, tài ba kia đã đụng chạm đến thân thể nàng. Nhưng do bản chất sơn dã, phóng khoáng, nàng không đặt nặng vấn đề nam nữ hữu biệt, nhanh chóng xua tan nỗi băn khoăn trong lòng. Thi Mạn vòng tay nói:
- Tiểu muội cảm ơn đại hiệp đã cứu mạng.
Chính Lan nhìn gương mặt gày gò, hốc hác, lòng yêu thương bừng cháy. Chỉ muốn bước đến ôm nàng vào lòng. Nhưng hoàn cảnh không cho phép, chàng đành gượng cười, nói vài câu khách sáo:
- Phu nhân chớ có bận tâm vì việc ấy. Tương trợ đồng đạo là nghĩa vụ của người hiệp khách.
Thi Mạn buồn bã bảo:
- Khẩu khí của đại hiệp chẳng khác gì tiên phu lúc còn sinh thời.
Chính Lan giật mình, tự nhủ sẽ cẩn trọng hơn.
Những ngày sau đó, Bố Y hội rộn ràng dốc sức xây dựng lại căn cứ và tuyến phòng thủ. Ngô Công động chủ đến khu rừng quanh Âu Dương gia trang, chiêu mộ đàn độc phong của Thi Mạn đưa về Vu Hồ.
Bà và Ma Nhãn đầu đà trở thành hộ pháp của Bố Y hội. Đầu tháng tư, Thi Mạn đã hoàn toàn bình phục, Chính Lan lặng lẽ rời Vu Hồ, không nói một lời từ biệt. Lâm Chấn Hạo bị bỏ lại, vui vẻ tham gia Bố Y hội.

Hồi 11

Tam ngốc thuỳ chi tam nghĩa sĩ
Đào hoa vĩnh bất kiến đông phong

Chàng đi rồi, các cao thủ đầu não họp lại bàn bạc. Sơn Đông Tử Phòng vò đầu bứt tóc nói:
- Tính cách của Trọng Phú Lan quả là khó hiểu, gã nghèo kiết xác mà vẫn dửng dưng trước số vàng khổng lồ chúng ta đã đề nghị. Mất gã còn ai để đối phó với bọn ma đầu Bạch Liên giáo.
Thanh Long Trảo tiếp lời:
- Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy đã đi núi Thái Bạch rước gia đình Nhiếp Tường Vân, đồng thời đón cả Hỏa chân nhân. Trước mắt, chúng ta cứ tôn ngũ phu nhân làm hội chủ, cố thủ nơi này, chờ Tây Môn lão gia đến rồi sẽ tính.
Lâm Chấn Hạo có ơn với Bố Y hội nên được giao chức đường chủ, có mặt trong cuộc họp. Gã rụt rè nói:
- Hôm kia Trọng huynh có hỏi mượn tại hạ ba trăm lượng bạc, nói là để mua sắm y phục, nào ngờ y lại bỏ đi.
Từ lão nóng ruột hỏi ngay:
- Thế Trọng đại hiệp cón nói gì nữa không?
Họ Lâm bỗng đỏ mặt, ấp a ấp úng:
- Trọng huynh còn cười và nói đùa rằng: “Nếu ta không trả nổi, Lâm lão đệ cứ đòi ngũ phu nhân.”
Thi Mạn mỉm cười:
- Không sao, tiểu muội thọ đại ân của Trọng đại hiệp, dẫu ngàn vàng cũng sắn sàng hoàn lại cho Lâm huynh.
Sau đó, Bố Y hội kiện toàn tổ chức, ráo riết huấn luyện thủ hạ.
Một hôm, Thi Mạn đi đến khoảng sân rộng phía đông của đảo xem anh em Bố Y hội luyện võ. Lúc này Lâm Chấn Hạo đang tỉ thí với Trịnh Thiều. Công lực họ Lâm tuy kém hơn nhưng kiếm pháp kín đáo, thân pháp biến ảo, linh diệu nên cầm đồng với Trịnh Thiều. Thi Mạn sững sờ nhận ra họ Lâm đang thi triển bộ pháp trong Hoàng Hạc Khinh Vân của Chính Lan. Nàng chăm chú quan sát và tin rằng mình không thể lầm lẫn, vì bản thân Thi Mạn cũng biết tuyệt kỹ này.
Chờ hai người ôn luyện xong, Thi Mạn cho mời họ Lâm vào tòa thạch thất hỏi chuyện. Chỉ có sư tỷ nàng là Ngô Công động chủ tham dự. Chấn Hạo rụt rè hỏi:
- Chẳng hay hội chủ có điều gì chỉ giáo?
Thi Mạn dịu giọng:
- Xin Lâm đường chủ cho bổn nhân biết đã học pho thân pháp kia của ai?
Chấn Hạo thở phào, vui vẻ đáp:
- Chính Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã dạy cho thuộc hạ, y còn bổ khuyết cho pho Hoa Sơn kiếm pháp, nhờ vậy tại hạ mới địch lại Trịnh Thần Bộ.
- Thế Lâm đường chủ gặp Trọng Phú Lan ở đâu?
- Bẩm hội chủ, ở bờ bắc sông Hoài. Dường như y đi từ hướng bắc xuống, và chẳng hề có hành lý gì cả.
Thi Mạn cho gã lui ra và gọi Miêu nữ Tiểu Cúc vào. Nàng nghiêm giọng bảo:
- Cúc nhi, em hãy kể lại chi tiết việc Trọng đại hiệp trị thương cho ta. Y đã chạm vào những chỗ nào trên cơ thể và sắc diện lúc ấy ra sao?
Thực ra, Trịnh Thiều đã bảo Tiểu Cúc giấu giếm bớt sự thực, để Thi Mạn đỡ hổ thẹn. Tiểu Cúc xoa chiếc bụng tròn trĩnh của mình, uể oải vặn lưng rồi mỉm cười:
- Nô tỳ thấy y tự nhiên chẳng khác gì các thầy mo của người Miêu chúng ta. Y đụng chạm, xoa bóp toàn thân chẳng có chút ngượng ngùng. Nhưng tiểu muội có cảm giác rằng y không hề nổi tà tâm, động tác y dịu dàng, như sợ làm phu nhân bị đau vậy.
Thi Mạn chấn động, lặng người nhớ lại phong thái cử chỉ của Báo Ứng Lang Quân. Ánh mắt của gã nhìn nàng lúc nào cũng trìu mến và dạt dào yêu thương. Thi Mạn đang đau khổ, thương nhớ Chính Lan nên không hề để ý đến gã, nay hồi tưởng lại, Thi Mạn rùng mình nhận ra họ Trọng có nhiều điểm giống Chính Lan. Nhưng tiếng tăm của Vô Để Uyển lừng lẫy đã lâu, chưa ai xuống được mà toàn mạng trở lên, huống hồ Chính Lan đang thọ trọng thương, làm sao sống nổi?
Nỗi phân vân khiến Thi Mạn đau lòng vô hạn, dòng châu tuôn lã chã. Nhưng chính Ngô Công động chủ đã là người gỡ rối cho nàng, bà hỏi Tiểu Cúc:
- Cúc nhi, lúc họ Trọng chữa thương cho Liễu sư muội thì Hồng Quan Kim Xà đang ở đâu, và thái độ của nó thế nào?
Tiểu Cúc gãi đầu cố nhớ lại, ngơ ngác đáp:
- Đúng là có chuyện lạ, lúc ấy xà nhi quấn quanh thanh gỗ giăng mùng ở góc giường bên ngoài, gần đầu của phu nhân. Vậy mà Trọng Phú Lan chẳng hề sợ hãi, ngồi ngay xuống mép giường chuẩn mạch, và xà nhi nằm im thin thít. Nô tỳ vì quá mệt mỏi nên không chú ý đến hiện tượng ấy.
Chu nương phân vân bảo:
- Liễu sư muội, chẳng lẽ Chính Lan còn sống?
Thi Mạn cũng mong như vậy, ôm lấy Ngô Công động chủ khóc ròng. Khi quá mừng rỡ, nữ nhân cũng khóc nhiều như lúc thương tâm. Dù chưa chắc chắn lắm nhưng Thi Mạn cũng quyết tâm đi tìm Trọng Phú Lan để kiểm chứng. Hai người bàn bạc một hồi, chạy đến phòng của Chính Lan tìm kiếm.
May thay chàng còn để lại đôi giầy rách. Cặp Tứ Dực Ngô Công là kỳ vật của đất Miêu Cương, ngoài độc tính vô song còn có tài đánh hơi rất tuyệt diệu.
Thi Mạn cho mời Sơn Đông Tử Phòng đến, nói cho lão biết phát hiện của mình. Từ lão hoan hỉ phi thường, bật cười khanh khách:
- Lão phu cũng đã bắt đầu nghi ngờ Báo Ứng Lang Quân là Chính Lan. Chiếc răng cửa hàm dưới của gã mẻ một miếng, chẳng khác gì Hồng Nhất Điểm. Khi Ma Nhãn đầu đà bảo rằng Báo Ứng Lang Quân mang mặt nạ, lão phu càng khẳng định thêm.
Thi Mạn giao sự vụ Bố Y hội cho lão rồi cùng Ngô Công động chủ rời đảo. Ngoài Từ lão và Tiểu Cúc ra, chẳng ai biết họ đi đâu.
* * *
Nhắc lại, Chính Lan thấy Thi Mạn đã bình phục, quyết định lên đường đến Lạc Dương, nhờ Đại Đầu Cái, bang chủ Cái bang, giúp đỡ trong việc tìm kiếm nơi giam giữ con tin. Thứ hai, chàng sẽ dùng thân phận Báo Ứng Lang Quân chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo, dụ cho Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ và Miêu Ưng Lão phải xuất hiện.
Bỗng chàng nhớ đên Đào Hoa cung, tự hỏi lẽ nào một nơi có địa thế hiểm yếu, và cơ ngơi đồ sộ như vậy, lại không được chọn làm tổng đàn Bạch Liên giáo? Chàng quyết định đi Thái An một chuyến để dọ thám xem sao. Nếu không có kết quả, sẽ đến Lạc Dương.
Mười ngày sau, Chính Lan có mặt ở Từ Châu. Chàng dùng cơm trưa xong, lên đường tìm đến Đào Hoa cung. Trước đó, chàng đã mua một thanh trường kiếm với giá ba chục lượng. Chàng không thể sử dụng tiểu kiếm vì sợ lộ thân thế. Cuộc chiến trước mắt rất nguy hiểm, phải có vũ khí mới phát huy hết được sở học.
Cuối giờ mùi, Chính Lan đã rời xa thành Từ Châu được bốn chục dặm. Trước mặt là một cánh rừng rậm râm mát, chàng thúc ngựa phi mau, định nghỉ chân một lúc, và để tuấn mã gặm ít cỏ xanh.
Đến nơi, Chính Lan xuống ngựa, ngồi dựa gốc cây, mặc cho con ngựa nhấm nháp trên bãi cỏ ven rừng. Chợt từ hướng bắc có tiếng chân chạy thình thịch và tiếng vó ngựa khua vang. Chàng ngước lên, nhìn thấy ba bóng người áo xanh chạy đến. Theo sau họ là đoàn kỵ sĩ, cũng áo xanh. Đóa sen trên ngực tố cáo họ đều là thủ hạ Bạch Liên giáo nhưng không hiểu sao lại truy sát ba người chạy bộ?
Khi ba gã đến gần, chàng mới biết họ là Hán Trung Tam Ngốc. Vì đầu chúng chít khăn nên chàng khó nhận ra. Ba gã ngốc đều mang thương tích, thở hổn hển như trâu rống, rẽ vào chỗ Chính Lan đang ngồi. Mục tiêu của họ là túi da đựng nước trên tay chàng. Nhị ngốc Hồ Giả vung đao hăm dọa:
- Mau đưa túi nước cho bọn lão gia.
Chính Lan mỉm cười, ném cho gã. Hồ Giả uống một ngụm, đưa cho đại ngốc rồi nói oang oang:
- Uống đi rồi đánh một trận cuối cùng, có chạy cũng chẳng thoát được đâu.
Lúc ba gã uống sạch túi nước thì đoàn nhân mã kia tràn đến. Tổng cộng khoảng hai mươi tên và dẫn đầu bởi một cặp nam nữ áo xanh, thắt lưng vàng. Đám còn lại đều mang thắt lưng đen như bọn tam ngốc, suy ra vai vế hai người ấy cao hơn.
Chính Lan ngỡ ngàng nhận ra gã đại hán vạm vỡ ấy là Lôi Đao Hứa Hoa. Chàng không hiểu chuyện gì xảy ra, lặng lẽ chờ xem diễn biến.
Hứa Hoa và đám giáo đồ Bạch Liên giáo xuống ngựa vây chặt lấy Hán Trung Tam Ngốc, vô tình vây cả Chính Lan vào giữa.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường ngoác miệng chửi liền:
- Hứa Hoa, ngươi đúng là đồ súc sinh mạt hạng. Đại ca vừa mới chết chẳng bao lâu, ngươi đã vì nữ sắc, quyền lực mà phản bội anh em. Bọn ta tuy vô học, ngốc nghếch nhưng có chết đi cũng chẳng xấu hổ khi gặp đại ca dưới chốn suối vàng.
Chính Lan nghe lòng đau nhói, quan sát dung mạo Lôi Đao. Gã mập hơn trước, nhưng mặt xanh, mắt thâm quầng, có lẽ nữ nhân lẳng lơ, khêu gợi đứng cạnh gã chính là nguyên nhân.
Hứa Hoa bị chửi quá nặng, giận tím mặt nói:
- Mỗi người một chí hướng, làm sao trách ta được? Nay Bạch Liên giáo hùng mạnh nhất võ lâm, lại giam giữ vợ con Chính Lan ở đâu không rõ, chẳng lẽ ta cứ phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai hàng thần lơ láo mãi sao? Chính Lan có đến sáu vợ, Hứa mỗ tìm cho mình một người ưng ý chẳng lẽ lại không được?
Đại ngốc khôn ngoan hơn nên đấu dịu:
- Ngươi nói vậy cũng phải, mỗi người một chí hướng, chẳng thể ép được. Vậy ngươi hãy tha cho bọn ta về quê cũ có được chăng?
Lôi Đao cười nhạt:
- Bọn ngươi làm gì có quê hương mà về. Ta biết rõ các ngươi định đến núi Cửu Hoa, gia nhập Hồng Điểm hội để chống lại Bạch Liên giáo.
Chính Lan không ngờ lại có một bang hội như vậy. Nữ nhân kia tiếp lời họ Hứa:
- Các ngươi bỏ đi không sợ giáo chủ hạ sát vợ con Chính Lan hay sao?
Nhị ngốc cười hì hì:
- Này cái con mụ mông to kia, ngươi đừng hòng hù dọa bọn lão gia vô ích. Sơn Đông Tử Phòng đã cho bọn ta biết rằng Bạch Liên giáo chẳng bao giờ dám đụng đến con tin. Hỏa chân nhân cùng các cao thủ Hỏa giáo sắp vào đến Trung Nguyên rồi. Mụ và gã khốn kiếp kia cũng không thoát chết đâu.
Nữ nhân giận dữ quát:
- Giết bọn chúng cho ta.
Mười tám tên áo xanh theo ả xông vào, Lôi Đao cũng chẳng hề ngập ngừng, dở pho đao pháp lừng danh tấn công đại ngốc. Chính Lan nhận ra gã chẳng hề nương tay, chàng vừa phẫn hận vừa chua chát khôn cùng. Ba gã ngốc đã thọ thương từ trước nên lâm ngay vào thế hạ phong. Nhưng chúng vẫn liều mạng chiến đấu rất kiên cường.
Chính Lan thấy đại ngốc bị bảo đao của Hứa Hoa rạch thêm một đường nơi bắp tay tả, chàng giận dữ gầm vang, lướt đến trận địa. Chưởng kình lớp lớp theo nhau giáng vào màn đao quang, đánh bật thanh đao khỏi tay Hứa Hoa và vỗ vào ngực gã. Lôi Đao hự lên, văng ngược ra sau, lăn lông lốc trên mặt cỏ, mê man bất tỉnh. Chiêu Nguyệt Anh Thu Phong này, Chính Lan chỉ dùng có năm thành công lực nên họ Hứa không chết.
Nhưng chiêu thứ hai lại nặng nề gấp đôi, đánh gãy xương vai, xương lồng ngực của ả lẳng lơ kia, rồi chàng hạ thân xuống lao vào hàng ngũ bọn giáo đồ, thi triển phần thượng của pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp.
Pho tuyệt chưởng này có đến tám mươi mốt chiêu, gồm chín chiêu phách không chưởng và bảy mươi hai chiêu phối hợp, gồm đủ quyền, cước, chưởng, trảo. Tuy là phần thượng, dành cho người công lực yếu kém, chưa đủ sức phát ra phách không chưởng, nhưng cũng vô cùng biến ảo, lợi hại. Nhất là đối với kẻ có đến hơn hoa giáp công lực như Chính Lan. Thủ cước chàng liên tiếp đưa ra hàng loạt đòn, nối nhau như sóng Trường giang. Với phép khoái chưởng tuyệt luân này, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo làm sao địch nổi?
Chúng bỏ chạy thì bị Hán Trung Tam Ngốc chặn lại. Cuối cùng, chẳng còn một ai sống sót cả. Chính Lan dừng tay, nhìn về phía Lôi Đao, phát hiện nhị ngốc đang định chặt đầu Lôi Đao. Chính Lan quát vang:
- Dừng tay, không cần phải giết gã.
Chút tình nghĩa ngày xưa khiến chàng đau đớn, không muốn Lôi Đao chết. Nhị ngốc bực bội hỏi lại:
- Kẻ đã táng tận lương tâm, lừa thầy phản bạn như vậy làm sao tha được?
Chính Lan tần ngần nhớ đến câu “quân tử cố cùng.” Lôi Đao là người thiếu ý chí, không giữ được đạo nghĩa khi lâm vào cảnh khốn cùng. Vậy mà ba gã ngốc kia vẫn một lòng một dạ chung thủy với người đã chết. Phải chăng Khổng Phu Tử hoàn toàn đúng khi bảo rằng kẻ khờ dại, mộc mạc gần với đức nhân hơn? Chàng quắc mắt bảo:
- Ta bảo tha là tha.
Anh mắt uy nghiêm của chàng khiến nhị ngốc sợ hãi, không dám cãi lệnh. Ba gã định quì xuống vái tạ. Chính Lan xua tay hỏi ngay:
- Phải chăng ba vị vừa đào thoát khỏi Đào Hoa cung?
Đại Ngốc đáp:
- Bẩm đại hiệp phải.
Chính Lan hỏi thêm:
- Vậy ba vị có dám đoán chắc rằng Đào Hoa cung không phải là nơi giam giữ tù nhân?
Nhị ngốc quả quyết:
- Bẩm đúng vậy, anh em tại hạ được tự do đi lại nên đã dò xét khắp cung, hoàn toàn không thấy một nhà lao nào cả.
Chính Lan biết gã nói đúng. Nếu không Bạch Liên giáo đâu dại gì để tam ngốc ở đấy. Chàng bảo chúng:
- Mua cướp lấy ba con tuấn mã rồi rời nơi này mau.
Ba gã vâng dạ nhưng lại chạy đến lục soát lưng áo các tử thi, gom góp vàng bạc. Chính Lan mỉm cười thông cảm, chàng đã trải qua cảnh thiếu thốn nên hiểu rằng tiền bạc rất cần khi dong ruổi ngàn dặm. Tất nhiên là cả tam ngốc và Lôi Đao đều không mang bọc hành lý. Nhị ngốc bèn bỏ tất cả vào tay nải của Chính Lan. Gã cười hề hề:
- Số ngân lượng này xem như để bồi thường tiền thuốc men cho anh em tại hạ.
Đại ngốc biết điều hơn, đỡ lời em mình:
- Dĩ nhiên đại hiệp cũng có phần.
Chính Lan phì cười:
- Nhanh chân lên, đừng cà kê nữa.
Bốn con ngựa phi nước đại về hướng đông. Được vài chục dặm thì trời tối, may mà vừa lúc đến một tiểu trấn.
Chỉ nửa canh giờ sau, ba gã ngốc đã tắm rửa, băng bó xong, và còn kịp ra ngoài mua sắm vài bộ y phục. Bốn người quây quần quanh mâm cơm trong một quán trọ, đại ngốc lễ phép hỏi:
- Xin ân công cho biết tính danh?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan.
Ba gã này dốt đặc nên chẳng thể nào biết đến thanh danh một người đã chết bảy chục năm. Nhị ngốc bỗng bùi ngùi nói:
- Bọn tại hạ cũng có một vị đại ca tên Lan như ân công, tiếc rằng người đã chết được hơn một năm rồi.
Chính Lan cảm động, ngắt lời gã:
- Hồng Điểm hội là tổ chức nào vậy?
Đại Ngốc cất tiếng:
- Trong khoảng một tháng nay, giang hồ truyền tụng về Hồng Điểm hội ở Cửu Hoa sơn. Nghe nói họ là những hào kiệt trẻ tuổi, từng tôn xưng Hồng Nhất Điểm Âu Dương Chính Lan làm thần tượng, nay thấy đại ca của bọn tại hạ chết thảm, thân quyến mười mấy người lại bị Bạch Liên giáo bắt giam, họ phẫn nộ, đồng lòng chung sức để đòi lại công đạo cho Hồng Nhất Điểm. Họ chưa có hội chủ, nên định ngày đầu tháng năm sẽ mở đại hội để cử người tài đức.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường đắc ý cướp lời:
- Bọn ta là nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, lại nổi danh hiệp khách từ lâu. Phen này chắc chắn sẽ chiếm được ngôi hội chủ.
Chính Lan cười khẩy:
- Võ nghệ tam vị có địch lại bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo hay không mà dám mơ tưởng đến chức hội chủ?
Ba gã ngốc bẽn lẽn cúi đầu. Nhị ngốc lẩm bẩm:
- Nếu anh em tại hạ không xứng đáng thì trong đám thiếu niên kia cũng chẳng có ai hơn được.
Lần này thì tam ngốc tỏ ra thông minh hơn. Gã nhìn Chính Lan nở nụ cười cầu tài:
- Hay là ân công lên làm hội chủ Hồng Điểm hội, với bản lĩnh của người thì đâu sợ gì bọn Thái Sơn Phủ Quân?
Hai gã kia cực lực tán thành, Chính Lan cười mát:
- Có một người vừa nói tên ra đã trở thành hội chủ ngay, chẳng cần phải so tài, đọ sức. Đó là ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn.
Ba gã ngốc ủa thật lớn, lắp bắp nói:
- Té ra ngũ đại tẩu không bị bắt sao?
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy. Hiện giờ nàng ta đang ở Vu Hồ với Sơn Đông Tử Phòng, Thanh Long Trảo, Thiên Thủ Thư Sinh và hai trăm anh em Bố Y hội.
Đại ngốc mừng rỡ nói:
- Thế thì bọn tại hạ sẽ đi ngay Vu Hồ, không đến với Hồng Điểm hội nữa.
Chính Lan bác ngay:
- Không được, ba vị bắt buộc phải tham gia Hồng Điểm hội, dù có được bầu làm hội chủ hay không. Sau đó sẽ đưa Hồng Điểm hội phối hợp cùng Bố Y hội mà đối phó với Bạch Liên giáo.
Chàng kể lại mọi việc ở Vu Hồ, dặn dò kỹ lưỡng ba gã ngốc về kế hoạch hành động. Hán Trung Tam Ngốc bỗng có cảm giác như đang được đại ca Chính Lan chỉ bảo, bất giác nhất nhất tuân theo.
Mười một ngày sau, bọn Chính Lan đến trấn Lăng Dương gần chân núi Cửu Hoa. Sáng mai đã là ngày khai mạc đại hội của Hồng Điểm hội. Nơi đây, đang diễn ra một hiện tượng kỳ lạ nhất lịch sử võ lâm. Hàng ngàn chàng trai tuổi trên dưới ba mươi áo học trò vải thô, mũ thư sinh đen, vai mang kiếm tràn ngập khắp nơi. Có nhiều người giống Âu Dương Chính Lan đến nỗi ba gã ngốc phải sa lệ vì thương nhớ đại ca. Tuy nhiên, họ đều rất ít khi nở nụ cười, ấnh mắt long lanh thù hận, mặt lạnh như tiền.
Chính Lan vô cùng cảm động nhưng lại càng bội phần lo lắng. Họ có lòng nhiệt huyết nhưng thiếu bản lĩnh và kinh nghiệm để đối phó với tà ma. Không chừng, chính người của Bạch Liên giáo sẽ trà trộn vào và trở thành hội chủ. Không có Sơn Đông Tử Phòng ở đây, chàng đành phải dựa vào Hán Trung Tam Ngốc để cứu vãn tình hình. Người quá đông nên bọn chàng không tìm được chỗ trọ. Chính Lan suy nghĩ rồi bảo:
- Chúng ta cứ lên thẳng núi Cửu Hoa mà nghỉ ngơi. Nhân tiện tìm hiểu xem ai là người đã triệu tập đại hội này.
Nhị Ngốc khen phải:
- Đúng thế, bọn tại hạ thừa danh nghĩa để tham gia ban tổ chức.
Ánh tà dương mùa hạ đỏ rực trải vàng trên chín ngọn núi, khiến Cửu Hoa sơn càng thêm diễm lệ.
Chính Lan hỏi thăm đường, ngạc nhiên khi thấy căn cứ của Hồng Điểm hội nằm ngay trên nền cũ của tòa đạo am nơi Cửu Hoa Bà Bà từng ẩn dật. Bốn người gởi ngựa nhà tiều phu, phi thân lên núi. Khoảng rừng trúc trên bình đài giờ đây đã bị chặt sạch, và những thân trúc ấy đã biến thành mấy chục căn tiểu xá vây quanh một khoảng đất rộng ở giữa có lôi đài bằng tre. Cuối đường sơn đạo có bốn hán tử đứng gác. Họ hòa nhã vòng tay chào và hỏi:
- Sáng mai đại hội mới khai mạc, chư vị lên núi làm gì?
Nhị ngốc vênh mặt đáp:
- Bọn tại hạ là Hán Trung Tam Hiệp, nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, muốn tham gia việc tổ chức đại hội.
Gã chột mắt cười khẩy:
- Tam vị bấy lâu phục vụ cho Bạch Liên giáo, còn tư cách gì mà xưng là em của Âu Dương công tử?
Đại ngốc giận dữ nói:
- Bọn chúng đem sinh mạng thê tử của đại ca bọn ta ra làm áp lực. Là phận em, Hán Trung Tam Hiệp đành phải nhẫn nhục, có thế mà ngươi cũng không hiểu sao?
Chính Lan không muốn dài dòng lôi thôi, truyền âm chỉ bảo cho đại ngốc, gã hiểu ý nghiêm giọng:
- Nay anh em ta đã điều tra ra hạ lạc thân quyến của đại ca. Bọn ngươi không mau đưa vào yết kiến những nhân vật chủ chốt, thì đừng trách sao Hán Trung Tam Hiệp tàn nhẫn?
Gã cao gầy biến sắc, dịu giọng:
- Vậy để tại hạ chạy vào trong bẩm báo.
Gã rảo bước về phía căn trúc xá trong cùng. Lát sau trở ra, kính cẩn mời khách vào.
Căn trúc xá này tuy thoạt nhìn có vẻ cũng giống như những căn khác, nhưng vào rồi mới biết nó sâu gấp đôi. Gian ngoài là khách sảnh rộng rãi, được ngăn bởi một tấm rèm làm bằng những đoạn trúc ngắn xâu với nhau. Ngoài này đèn nến sáng rực nhưng sau rèm hoàn toàn tăm tối. Hán tử cao gầy mời bọn Chính Lan ngồi xuống quanh chiếc bàn gỗ mộc, rồi cung kính vòng tay, hướng vào bức rèm trúc thưa rằng:
- Bẩm ngũ vị lão gia, khách đã đến.
Như vậy, bộ phận đầu não có đến năm người. Hán tử lui ra ngoài, và từ sau bức rèm có tiếng người già nua vọng ra:
- Chư vị bảo rằng biết được hạ lạc thân quyến của Hồng Nhất Điểm đại hiệp xin cứ trình bày cho bọn lão phu nghe thử.
Chính Lan vội truyền âm chỉ dẫn. Nhị ngốc liền cười nhạt:
- Tin này cực kỳ quan trọng, đâu thể dễ dàng tiết lộ cho những người không rõ lai lịch. Biết đâu chư vị là người của Bạch Liên giáo thì sao?
Người kia bật cười quái dị:
- Còn lão phu thì lại nghi ngờ bọn ngươi vâng lệnh Thái Sơn Phủ Quân đến đây dò xét.
Đại ngốc bỗng cười vang:
- Thôi đi lão Đại Đầu Cái kia, đừng giả ma giả quỉ nữa, đến lòng trung nghĩa của Hán Trung Tam Hiệp mà còn nghi ngờ thì làm sao tổ chức được Hồng Điểm hội?
Người kia gằn giọng:
- Giỏi cho ba gã ngốc, làm sao bọn ngươi lại nhận ra lão hóa tử ta? Nếu không nói rõ thì đừng hòng thoát khỏi chốn này.
Đại ngốc ung dung nói:
- Chỉ cần quan sát bọn gác cửa là nhận ra ngay thôi. Tên thì chột, tên thì cà nhắc, tên thì mất mấy ngón tay, tên thì ngễnh ngãng. Hơn nữa, cách chúng cúi đầu chào đúng là của đám ăn mày.
Đại Đầu Cái lặng yên một lúc, cười khà khà:
- Lão phu không tin bọn ngốc tử này lại đột nhiên trở nên thông minh mẫn tiệp như thế, phải chăng chàng thiếu hiệp kia đã mớm lời cho các ngươi. Hắn là ai vậy?
Chính Lan mỉm cười đáp ngay:
- Tại hạ là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Xin chư vị chưởng môn đừng nghi ngại, ra đây cùng nhau đàm đạo.
Dường như Đại Đầu Cái rúng động vì câu nói, lão run giọng hỏi:
- Chẳng lẽ nhãn lực của các hạ lại nhìn thấu cả bóng tối.
Chính Lan lắc đầu:
- Không rõ lắm, nhưng dựa vào chiếc đầu trọc và ba búi tóc đạo sĩ cũng có thể đoán ra ai đủ tư cách ngồi ngang hàng với bang chủ Cái bang.
Mấy người bên trong cười vang, vén rèm bước ra, quả thực chính là chưởng môn các phái bạch đạo. Thuần Thanh đạo trưởng chưởng môn phái Võ Đang dơ ngón tay cái khen ngợi:
- Thí chủ quả xứng danh truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân.
Năm vị chưởng môn an tọa. Đại Đầu Cái chăm chú quan sát Chính Lan, nghiêm giọng hỏi:
- Vì sao Trọng thiếu hiệp lại đi chung với Hán Trung Tam Hiệp đến đây?
Chàng bèn kể lại việc mình đi ngang Thái An, tình cờ cứu được ba gã ngốc. Lão vẫn còn nghi ngờ, bảo chàng:
- Phiền thiếu hiệp cho bọn lão phu xem thử tấm áo choàng kia.
Chính Lan thản nhiên cởi nút thắt, trao cho lão. Đại Đầu Cái sờ nắn rồi dí mép áo vào ngọn lửa của cây nến trên bàn. Lạ thay lớp vải đen bóng kia không hề bốc cháy. Đại Đầu Cái gật gù:
- Gia sư từng kể rằng Hắc Tằm Bảo Y không sợ lửa, mưa chẳng thấm, quả là vật báu thế gian.
Quảng Tâm thiền sư lên tiếng:
- Báo Ứng Lang Quân vắng mặt đã bảy mươi năm, chắc đã tạo hóa từ lâu. Lão nạp mạo muội muốn biết Trọng thí chủ tìm được di học trong trường hợp nào?
Báo Ứng Lang Quân xưa kia luôn mang mặt nạ và không xưng tên, nên chẳng ai biết Trọng Phú Lan là tên thật của lão ta. Do đó, Thiền Sư lại tưởng đó là tên họ của Chính Lan. Chàng đã chuẩn bị từ trước nên kính cẩn đáp:
- Tại hạ quê ở Tứ Xuyên, năm hai mươi tuổi lên núi Đại Thê sơn hái thuốc, tình cờ tìm thấy nơi tạo háo của Báo Ứng Lang Quân. Nhờ vậy tại hạ luyện thành pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp và khinh công Ngự Phong Thân Pháp, hạ sơn được ba tháng nay.
Đại Thê sơn ở phía đông nam Tứ Xuyên, cách Vân Mộng sơn đến hơn ngàn dặm, nên chẳng ai nghi ngờ chàng là Chính Lan được.
Nhưng Đạo Huệ sư thái lại nói một câu làm chàng giật mình:
- Tứ Xuyên quả là vùng đất địa linh nhân kiệt. Âu Dương công tử thì xuất phát ở Đại Tuyết sơn, còn Trọng thí chủ thì học nghệ ở Đại Thê sơn.
Chính Lan cố tỏ vẻ thản nhiên:
- Tại hạ có biết ngọn núi ấy ở phía tây bắc Tứ Xuyên, cách Đại Thê sơn gần ngàn dặm.
Chàng hỏi lại họ:
- Vì sao chư vị chưởng môn lại nảy ra ý định thành lập Hồng Điểm hội?
Khánh Hư chân nhân hắng giọng rồi kể:
- Trọng thí chủ mới xuất đạo nên không biết công trạng của Âu Dương công tử đối với võ lâm và bách tính. Người này tuổi trẻ, tài cao, nhân phẩm xứng danh kỳ hiệp. Âu Dương công tử vì thù riêng mà giết chết Phú Quí hội chủ Hà Lăng tức Hy Văn Cư Sĩ Lăng Thiên Các. Bọn bần đạo có giao tình với cư sĩ nên đem thi thể về mai táng. Nào ngờ khi khâm liệm mới phát giác ra một danh sách bí mật. Nghĩa là Phú Quí hội từ lâu đã âm mưu khuynh đảo võ lâm, gài nội gián vào các môn phái, chờ ngày cướp ngôi chưởng môn. Nhờ danh sách ấy, các phái đã tiêu diệt được mầm mống nội loạn, nhưng vì danh dự nên chẳng tiết lộ ra. Sau này, Âu Dương công tử lại đến Bắc Kinh tiêu diệt bè lũ Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc, được lê thứ Trung Hoa hết lời ca ngợi. Nhưng chàng ta thọ trọng thương, bị bức bách phải đem nạp mình và bảo kiếm Long Tuyền ra chuộc mạng cho thê thiếp và bằng hữu. Nay thê tử và thân quyến của Hồng Nhất Điểm bị Bạch Liên giáo giam cầm, khiến cả võ lâm phẫn nộ. Bọn bần đạo chẳng thể khoanh tay, bèn bàn bạc lập ra Hồng Điểm hội, qui tụ anh hào để tiêu diệt Bạch Liên giáo.
Chính Lan cười mát:
- Chưa tìm được nơi giam giữ con tin, dẫu triệu tập cả vạn người cũng vô ích thôi.
Đại Đầu Cái tủm tỉm cười:
- Thiếu hiệp tưởng cái bang là một lũ vô dụng hay sao?
Chính Lan hoan hỉ phi thường:
- Té ra bang chủ đã tìm ra rồi ư? Họ bị giam giữ ở địa phương nào vậy?
Đại Đầu Cái lạnh lùng:
- Chư vị bảo rằng biết rõ tọa lạc của họ, sao còn hỏi làm gì?
Chính Lan cười đáp:
- Quả đúng như vậy, nhưng chỉ hai người thôi.
Chàng bèn kể lại việc Liễu Thi Mạn đang ở Vu Hồ, và Hỏa chân nhân đi Tây Vực cầu viện. Đạo Huệ sư thái mừng rỡ nói:
- Hay lắm, chờ Tây Môn thí chủ vào đến, chúng ta phối hợp khởi sự được rồi.
Chính Lan không tán thành:
- Tại hạ cho rằng chúng ta phải cứu thân quyến của Chính Lan trước đã. Đêm dài lắm mộng, biết đâu Bạch Liên giáo sợ hãi, di chuyển tù nhân đi nơi khác thì sao?
Đại Đầu Cái rầu rĩ nói:
- Họ bị giam cầm ở một nơi hiểm địa, phải có bậc đại cao thủ êm thắm đột nhập, bảo vệ các con tin, thì lực lượng bên ngoài mới tiến vào được. Nếu không, phút chót bọn Bạch Liên giáo kề đao vào cổ vợ con Chính Lan, vậy chúng ta có dám xuất thủ hay không?
Nhị ngốc nãy giờ chẳng được nói câu nào, chụp lấy cơ hội, vỗ ngực xưng tên:
- Bang chủ cứ chỉ rõ địa điểm, dẫu long đàm hổ huyệt, anh em tại hạ cũng không hề chùn bước.
Đại Đầu Cái cười khẩy:
- Để ta nói cho bọn ngốc các ngươi được rõ, nơi ấy là một sơn cốc bốn vách dựng đứng cao năm chục trượng, đường vào hẹp bằng bốn bước chân. Hai bên vách đá của đoạn đường mười trượng ấy đều có những khoảng lõm chứa mười tám đao thủ. Chỉ cần một tên lên tiếng báo động là kế hoạch giải cứu tù nhân thất bại. Tình hình như vậy đấy, mong Hán Trung Tam Hiệp liệu mà hành động.
Ba gã ngốc tái mặt, le lưỡi, ngồi im thin thít. Chính Lan tư lự hỏi:
- Sơn cốc ấy ở đâu?
Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn hờ hững đáp:
- Phong Nhân cốc trong núi Hành sơn, phủ Hồ Nam.
Hán Trung Tam Ngốc nghe nói đến chỗ ở của người cùi hủi, kinh hãi rú lên ghê sợ. Nhị ngốc buột miệng lẩm nhẩm:
- Thế thì thê tử Âu Dương đại ca đã lây bệnh phong rồi, còn cứu về làm gì nữa?
Chính Lan đã học qua y đạo nên biết rằng bệnh phong không lây. Chàng khẳng khái nói:
- Tại hạ tự tin có thể tiến vào một cách êm thắm, bảo vệ an toàn cho tù nhân. Khi nghe tiếng hú của tại hạ, lực lượng bên ngoài có thể yên tâm tiến vào.
Quảng Tâm thiền sư e hèm rồi nói:
- Thí chủ có nhiệt tâm nhận lấy sứ mạng nguy hiểm, bọn lão nạp rất cảm kích. Nhưng vì việc này có liên quan đến sinh mạng của gia quyến Âu Dương công tử, lão nạp đành mạo muội muốn thử xem bản lãnh của thí chủ đến đâu.
Thiền sư cẩn trọng như vậy cũng là phải đạo. Mười năm luyện tập chẳng thể xem là đáng kể. Chính Lan nghiêm giọng:
- Tại hạ thừa hưởng của Báo Ứng Lang Quân mười viên thiên niên Tuyết Liên Tử, nên có hơn sáu mươi năm công lực trong người. Thiền Sư không cần phải nương tay.
Năm vị chưởng môn giật mình kinh hãi, không ngờ chàng trai này lại có tu vi thâm hậu như vậy. Tuy nhiên, họ vẫn phải thử thách mới yên lòng giao nhiệm vụ được. Cả chín người ra khoảng đất trống phía trước. Bọn đệ tử Cái bang lập tức đốt đuốc sáng trưng. Phương trượng Thiếu Lâm hiền hòa nói:
- Lão nạp sẽ dùng pho Giáng Ma thần chưởng. Mời thí chủ xuất thủ trước.
Chính Lan vòng tay chào rồi xuất chiêu Đông Hải Phù Lâu. Chàng sợ năm vị chưởng môn nhận ra Thái Chân khí công nên không sử dụng thủ pháp vô thanh, cố tình để chưởng phong phát ra ào ạt, mãnh liệt như giông bão.
Thiền sư vội cử chưởng đón chiêu, chưởng kình chạm nhau nổ vang rền. Quả thực đối phương cũng có công lực hơn hoa giáp như ông. Nhưng đáng khâm phục hơn cả là việc Trọng Phú Lan đánh liền một hơi tám mươi mốt chưởng. Chiêu thức của gã lại biến ảo phi thường, khiến Quảng Tâm thiền sư phải đem hết tài ba ra chống đỡ. Lúc Trọng Phú Lan dừng tay thì Quảng Tâm thiền sư đã bị đẩy lùi hai trượng. Ông không hề giận mà hoan hỉ tán dương:
- Bản lĩnh của Trọng thí chủ hơn lão nạp đến mấy bậc, thật đáng khâm phục.
Chính Lan vòng tay đáp:
- Thiền sư xuất thủ mà không nuôi sát khí trong lòng, nhờ vậy tại hạ chiếm được chút tiện nghi.
Thuần Thanh đạo trưởng cười bảo:
- Xem ra tà chẳng bao giờ thắng chính. Âu Dương công tử mất rồi thì có Trọng thí chủ nối gót.
Mọi người trở lại tòa trúc xá bàn bạc kế hoạch, đến nửa đêm mới đi nghỉ.
* * *
Sáng ngày đầu tháng năm, gần ngàn chàng trai tứ xứ nô nức thượng sơn, vây quanh ba mặt lôi đài. Đó là những người ngưỡng mộ Hồng Nhất Điểm, quyết xả thân báo thù cho chàng. Ngoài ra còn có sáu, bảy trăm hào khách hiếu kỳ đến để quan chiến cho mãn nhãn. Mới đầu giờ thìn mà ánh dương quang gay gắt, ai cũng đội mũ rộng vành nên khó nhìn rõ dung mạo.
Mặt sau của lôi đài dựa sát vào vách núi và có phên tre che phủ. Người ngoài chẳng thể ngờ rằng phía sau phên tre là một động khẩu rộng rãi, và có năm người đang ngồi nhìn ra.
Sự xuất hiện bất ngờ của Báo Ứng Lang Quân và Hán Trung Tam Ngốc đã làm thay đổi đôi chút kế hoạch của các vị chưởng môn. Họ sẽ để ba gã ngốc họ Hồ đứng ra điều khiển đại hội, và mượn danh nghĩa ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn mà qui tụ anh tài. Nghĩa là chẳng cần phải thượng đài tỷ thí võ công.
Giữa giờ thìn, Hán Trung Tam Ngốc từ trong trúc xá đi ra, hiên ngang thượng đài. Ba chiếc đầu bóng loáng kia chẳng lạ gì với võ lâm, quần hào liền xôn xao bàn tán. Hôm nay, Hồ thị tam huynh đệ y phục chỉnh tề, mày râu nhẵn nhụi, cử chỉ ung dung đúng mực. Cả ba vòng tay chào cử toạ, rồi đại ngốc sang sảng nói:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Bọn tại hạ xin thông báo một tin vui, đó là việc Âu Dương ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn cùng Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ may mắn thoát khỏi cuộc tập kích của Bạch Liên giáo hồi tháng mười năm ngoái.
Quần hùng mừng rỡ hoan hô vang dội. Đại ngốc dừng lại, chờ họ bớt phấn khích rồi mới nói tiếp:
- Chính vì nhận được tin này, anh em tại hạ đã tức tốc ly khai Bạch Liên giáo, về đây tham gia đại hội này. Tại hạ trộm nghĩ ngũ đại tẩu chính là người thích hợp nhất với chức hội chủ Hồng Điểm hội, không hiểu cao kiến của chư vị thế nào?
Tất nhiên đa số đồng thanh tán thành. Tuy nhiên, không hiểu sao lại có mấy trăm người im lặng, và từ trong đám ấy có kẻ phi thân lên lôi đài. Gã vòng tay nói với quần hào:
- Cung bẩm chư vị anh hùng, việc ngũ phu nhân an nguy thế nào chẳng ai biết được. Biết đâu Hán Trung Tam Ngốc là nội gián của Bạch Liên giáo phái đến nói quàng, nói xiên để phá đại hội. Chi bằng chúng ta cứ tiến hành như đã định, bầu ra một hội chủ. Nếu sau này Âu Dương ngũ phu nhân xuất hiện, chức hội chủ kia sẽ giao lại cho nàng.
Biến cố bất ngờ này không nằm ngoài dự kiến của các chưởng môn, chắc chắn Bạch Liên giáo sẽ cho người đến tham dự, biến cuộc tỷ võ huynh đệ thành một trường sát kiếp. Nhưng Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã cải trang thành một thư sinh áo vải, đứng ngay sát lôi đài, chờ cơ hội ra tay ngăn chặn. Quần hào đa số là những chàng trai trẻ tuổi, hiếu danh, hiếu sự nên tán thành ý kiến của gã lạ mặt kia. Được Đại Đầu Cái truyền âm chỉ điểm, nhị ngốc Hồ Giả điềm nhiên nói:
- Kính cáo đồng đạo, bọn tại hạ có phải là gian tế của Bạch Liên giáo hay không, cuối đại hội sẽ rõ trắng đen, giờ chúng ta cứ theo ý kiến của vị huynh đài kia mà thực hiện.
Nhưng hán tử kia lại chẳng chịu buông tha chỉ mặt Hán Trung Tam Ngốc mà quát vang:
- Hỡi đồng đạo, chúng ta hãy giết ba gã phản trắc này để tế vong linh Hồng Nhất Điểm đại hiệp, rồi sẽ tiến hành đại hội sau.
Mấy trăm đồng đạo của gã ở dưới nhất tề ủng hộ:
- Giết!
Và chúng ùn ùn kéo lên, khiến năm vị chưởng môn kinh hãi. Như vậy là họ phải xuất đầu lộ diện để giải vây cho Hán Trung Tam Ngốc. Đại Đầu Cái bực tức lẩm bẩm:
- Chúng ta sai lầm khi coi thường cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân. Phen này, diệu kế “ban chư ngật hổ”(17)chẳng thu hoạch được bao nhiêu thắng lợi.
Nhưng các vị chưởng môn chưa kịp rời chỗ ẩn nấp đã nghe tiếng nam nhân rú lên kinh khiếp và cả tiếng quát thánh thót của nữ nhân:
- Dừng tay, bổn nương là Âu Dương ngũ phu nhân đây.
Lúc này trên lôi đài đang xảy ra quái sự, gã hán tử Bạch Liên giáo bị một con rắn vàng óng, dài độ hơn nửa trượng quấn quanh người, và từ mé tả lôi đài, hai bóng nữ nhân nắm tay nhau phi thân lên, đứng trên sàn tre. Nữ nhân thấp hơn dỡ nón rộng vành, để lộ dung mạo xinh đẹp và u buồn của mình. Nàng vòng tay cúi chào:
- Âu Dương quả phụ Liễu Thi Mạn xin bái kiến chư vị anh hùng.
Tuy ít người biết mặt nàng nhưng Hồng Quan Kim Xà là chiêu bài xác thực nhất. Quần hào phấn khởi hô vang:
- Âu Dương phu nhân.
Hán Trung Tam Ngốc chạy đến quì xuống, mếu máo gọi:
- Đại tẩu!
Thi Mạn bảo chúng đứng lên rồi quay xuống nói với đồng đạo:
- Tiện thiếp xin bảo đảm anh em họ Hồ không phải là gian tế của Bạch Liên giáo.
Nàng đã nói thế thì còn ai dám vu khống tam ngốc nữa. Thi Mạn quay sang lạnh lùng chỉ gã hán tử đang bị kim xà khống chế:
- Gã kia, ngươi mới là người của Bạch Liên giáo. Nếu không khai thực, ta sẽ cho linh xà hạ thủ ngay.
Hồng Quan Kim Xà rít lên ghê rợn, thò chiếc lưỡi ghớm ghiếc liếm mặt nạn nhân. Hắn sợ đến nhũn người, chẳng còn chút dũng khí nào nữa, run giọng gật đầu:
- Phu nhân tha mạng, kẻ hèn này quả đúng là thủ hạ của Bạch Liên giáo.
Quần anh ồ lên phẫn nộ. Thi Mạn cao giọng nói tiếp:
- Chư vị một lòng với vong phu, khiến tiện thiếp muôn vàn cảm kích, nghe tin vội đến đây ngay. Trên đường đi, tiện thiếp phát hiện một số người có hành tung khả nghi, liền theo dõi và khám phá ra chúng là người của Bạch Liên giáo. Nghĩa là, giờ đây chúng đang trà trộn vào trong quần hào, mong chư vị cảnh giác và sẵn sàng đối phó. Âm mưu của chúng là biến cuộc thượng đài thành cảnh chém giết man rợ, phá hoại đại hội. Để tránh việc ấy, tiện thiếp xin nhận chức hội chủ Hồng Điểm hội. Hào kiệt nào muốn tham gia, xin cứ ở lại để được phiên chế vào cơ ngũ. Đối với bọn gian tế, tiện thiếp đã có cách phân biệt, chư vị cứ yên tâm.
Quần hùng hoan hỉ reo hò. Một người đại diện nói:
- Tại hạ kính chúc bổn hội kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.
Mọi người gân cổ gào theo:
- Kỳ khai đắc thắc, mã đáo thành công.
Bỗng từ vòng ngoài có tiếng người vọng vào:
- Phải chăng mục đích của Liễu hội chủ là tiêu diệt Bạch Liên giáo?
Thi Mạn hỡ hững đáp:
- Đúng như thế.
Người kia ngửa cổ cười vang:
- Vậy thì lão phu là phó giáo chủ Bạch Liên giáo xin chính thức khiêu chiến, xem hội chủ có đủ tài chặt chiếc đầu này mà tế cờ hay không?
Dứt lời, người ấy và ba trăm người nữa lột nón, cởi áo ngoài, để lộ tấm thanh bào truyền thống của Bạch Liên giáo.
Quần hào kinh hãi dạt ra, rút vũ khí thủ thế. Họ chẳng thể xuất thủ ngay, vì đối phương đã theo đúng qui củ giang hồ khiêu chiến với hội chủ Hồng Điểm hội. Nếu nàng từ chối và ra lệnh loạn chiến thì họ mới dám xông vào, nhưng như thế thì quả là mất mặt. Thi Mạn vô cùng bối rối, quay sang hỏi ý sư tỷ là Ngô Công động chủ. Chung nương thì thầm:
- Cùng lắm chị em ta liên thủ mà đối phó. Sư muội cứ phong cho ta làm phó hội chủ là danh chính ngôn thuận ngay.
Thi Mạn buồn rầu đáp:
- Tiểu muội nằm liệt giường mấy tháng trời, tuy đã hết bệnh nhưng võ công chỉ mới khôi phục được một nửa. Bản lãnh của Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân rất cao cường, dẫu cả hai liên thủ cũng không địch lại đâu.
Bỗng nàng nghe tiếng ai vo ve bên tai:
- Ngũ phu nhân cứ việc nhận lời, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân đây.
Thi Mạn vui mừng khôn xiết, cười khanh khách:
- Thang Chí Quân, lão đã tới số nên mới dám đến đây. Mau thượng đài để đền tội.
Đào Hoa cung chủ đã đem tới núi Cửu Hoa ba trăm cao thủ kiên dũng nhất, đủ sức tiêu diệt gần ngàn gã trẻ tuổi dở hơi kia. Nay thấy Liễu Thi Mạn xuất hiện, lão cố tình bức bách nàng giao đấu để bắt sống nàng về làm con tin, sau đó mới ra tay tàn sát.
Thực ra, lão là người háo sắc nên rất thèm khát sáu người vợ của Chính Lan. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân tức giáo chủ Bạch Liên giáo lại kiêng nữ sắc và còn có chút phẩm chất của bậc niễu hùng, nên cấm họ Thang đụng đến. Giáo chủ bảo rằng khi nào diệt trừ được Hỏa chân nhân lão mới giao các mỹ nhân cho Thang Chí Quân.
Đào Hoa cung chủ đắc ý bước về phía lôi đài, nhẹ nhàng tung mình lên như đám mây vàng lơ lửng. Họ Thang mặc võ phục vàng đúng cương vị phó giáo chủ. Nào ngờ, từ vòng ngoài cũng có tiếng ai quát vang như sấm:
- Khoan đã, xin đại tẩu nhường gã chết bầm kia cho tiểu đệ.
Hàng rào người bị xô vạt bởi một hán tử thân cao bảy thước, da dẻ đen đủi. Gã chạy thình thịch về phía lôi đài, bám mép đài trèo lên, quì xuống trước mặt Liễu Thi Mạn, chống một tay thi lễ:
- Tiểu đệ là Hồng Nhị Điểm Âu Dương Tiểu Ngưu xin bái kiến ngũ đại tẩu.
Thi Mạn bối rối vì không biết gã khổng lồ này chui ở đâu ra? Nhưng nhìn dung mạo, chất phác, quê mùa của gã, nàng thấy yên tâm, gượng cười:
- Ngưu đệ bất tất phải đa lễ như vậy.
Tiểu Ngưu đứng lên, quay sang chỉ mặt Đào Hoa cung chủ dặn dò:
- Lão cứ đứng đấy, để ta tự giới thiệu với quần hùng cái đã.
Họ Thang cũng tò mò nên gật đầu chấp huận. Tiểu Ngưu quay xuống vòng tay chào cử tọa rồi nói oang oang:
- Tại hạ vốn là một đứa trẻ cô nhi, bị bỏ rơi trên một chiếc thúng, trôi dạt đến cửa sau Âu Dương gia trang bên bờ hồ Côn Minh. Lúc đó, tại hạ mới lên hai, được vợ chồng Âu Dương trang chủ nhận làm dưỡng tử, năm ấy Chính Lan đại ca đã lên bốn. Tám năm sau, đại ca lên núi học võ, chỉ còn lại mình tại hạ ở nhà với song thân. Năm tại hạ mười tuổi, bị một vị kỳ nhân bắt về Hoành Đoạn sơn, và trở thành đệ tử của ông ta. Chín tháng trước, gia sư tạ thế, tại hạ trở lại Côn Minh thì mới biết phu thê Âu Dương trang chủ đều đã chết thảm, Chính Lan đại ca nổi danh Hồng Nhất Điểm, báo được gia thù nhưng cũng đã bị đám đầu sỏ Bạch Liên giáo hại chết. Vì vậy, tại hạ xưng danh Hồng Nhị Điểm, thề không đội trời chung với bọn Bạch Liên giáo.
Tiểu Ngưu nói tiếng Bắc Kinh không rành, đôi lúc phải dùng đến phương ngữ Vân Nam, khiến người nghe phải nặn óc mới hiểu được. Tuy nhiên, vẻ trung thực, chất phác của gã đã thuyết phục được quần hào. Họ vui vẻ hét vang:
- Hồng Nhị Điểm, hãy cố giết cho được lão Đào Hoa cung chủ, sát!
Hàng ngàn cánh tay dơ lên, Tiểu Ngưu cũng vậy. Nhưng chiếc trường bào thư sinh vá víu của gã, chắc mua ở cửa hàng đồ cũ nào đấy, nên chật chội so với thân hình quá khổ, bung chỉ rách tung. Ngực Tiểu Ngưu lộ ra mớ lông đen sì. Quần hào cười vang, còn Hồng Nhị Điểm ngượng ngùng lột mớ giẻ rách ấy ra, quăng xuống sàn đấu, nói giả lả:
- Chư vị thông cảm cho, tại hạ bị lường gạt nên mới mua nhầm tấm áo mục này.
Gã quay sang bảo Thi Mạn:
- Nếu tiểu đệ giết được lão chết tiệt kia, mong đại tẩu thưởng cho vài bộ áo mới.
Thi Mạn thẹn thùng nói:
- Ta hứa, nhưng Ngưu đệ phải cẩn trọng, lão ta rất lợi hại.
Chính Lan đã nhận ra đứa em nuôi ngốc nghếch của mình, lòng rất hân hoan, năm ấy, song thân chàng lên Đại Tuyết sơn thăm, có kể lại việc Tiểu Ngưu mất tích khi đang đi câu cá. Gã bơi rất giỏi nên không thể chết đuối được, chắc là do ham chơi mà bỏ nhà đi phiêu bạt mà thôi. Không ngờ Tiểu Ngưu cũng đi học võ như chàng.
Lúc này, Tiểu Ngưu xăm xăm bước đến trước mặt Đào Hoa cung chủ, mắng chửi xối xả:
- Lão già khốn nạn, khốn kiếp kia, thì ra lão là một trong những kẻ bức bách đại ca ta phải nhảy xuống vực thẳm đấy ư? Hôm nay, Hồng Nhị Điểm ta sẽ xé xác lão ra.
Thang Chí Quân giận tím mặt, vung chưởng đánh liền. Độc vụ màu hồng của Đào Hoa Mê Tâm chưởng ào ạt cuốn đến. Thi Mạn cả kinh thét lên:
- Ngưu đệ coi chừng độc khí.
Tiểu Ngưu vẫn không hề sợ hãi, vung quyển lao vào lưới chưởng. Thân hình gã to lớn, thô kệch mà bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, và quyền phong thổi vù vù đầy uy lực. Quyền chưởng chạm nhau nổ vang rền, chẳng ai lùi lại bước nào, tiếp tục xông vào giáp chiến. Rõ ràng là Tiểu Ngưu không hề sợ độc, thân thể rắn chắc, trúng liền mấy chưởng mà vẫn thản nhiên. Gã hoàn toàn chẳng biết sợ chết là gì, hùng hục như con dã tượng vùng Vân Nam, trả lại Đào Hoa cung chủ một quyền đau điếng.
Họ Thang bị đẩy lùi hơn trượng, giận dữ gầm lên, thi triển Huyết Ảnh ma công đến độ chót, toàn thân bao phủ bởi luồng Huyết Vụ đỏ hồng. Tiểu Ngưu thấy đối phương biến mất trong luồng khí quái dị, kinh hãi quay lưng bỏ chạy, miệng la oai oái:
- Ái mẹ ơi, ma quỉ hiện hình.
Đào Hoa cung chủ chẳng buông tha xuất chiêu Đào Hoa Đoạt Khách, đánh thẳng vào lưng gã ngốc. Quần hùng lo lắng ồ lên, tưởng rằng Tiểu Ngưu khó thoát chết. Nhưng bất ngờ, từ dưới mép tả lôi đài, một bóng người đã bay vút lên giáng chưởng xuống đầu Đào Hoa cung chủ, không những chặn đứng được chiêu sát thủ kia mà còn đẩy họ Thang văng ngược về phía sau nửa trượng.
Lão kinh hoàng nhìn người mới đến, gằn giọng hỏi:
- Ngươi là ai mà dám xen vào chuyện của Bạch Liên giáo?
Người kia cười nhạt:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân đời thứ hai thế thiên hành đạo, quét sạch tà ma.
Dứt lời, chàng ập đến tấn công tới tấp. Hàng loạt đạo chưởng kình phách không nối nhau như sóng dữ, không để đối phương có cơ hội đổi hơi. Thủ pháp liên hoàn khoái chưởng thiên hạ vô song này khiến Thang Chí Quân rợn tóc gáy. Lão vận toàn lực chống đỡ, nhưng chỉ đến chưởng thứ chín mươi đã đuối sức, trúng liền bốn đòn vào ngực.
Đào Hoa cung chủ tung mình lui đến tận mép đài mé tả, rút trường kiếm ra. Chính Lan nhìn tư thế khởi đầu, đoán ngay đối phương sắp xuất chiêu Thiên Lý Trùng Hồng trong pho Nam Thiên Kiếm Pháp. Có lẽ Thái Sơn Phủ Quân đã dạy họ Thang chiêu này để được quyền độc chiếm thanh Long Tuyền bảo kiếm?
Thân ảnh Thang Chí Quân ẩn trong màn kiếm quang sáng bạc, lướt đến như tia chớp. Lão tin chắc rằng Báo Ứng Lang Quân chẳng thể sống sót dưới chiêu kiếm thần diệu này.
Chính Lan mỉm cười lạnh lẽo, múa tít song thủ lao thẳng vào màn kiếm quang. Chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn chuyên dùng để đối phó trong những trường hợp như thế này, ba mươi sáu đạo chưởng kình hội tụ thành những quả đấm thép vỗ vào lưới kiếm.
Hai mươi chín phát chưởng đều bị kiếm kình xé nát và Đào Hoa cung chủ vẫn không dừng bước. Nhưng khi lão còn cách đối phương nửa trượng, sắp đến tầm với của mũi kiếm thì bỗng phát hiện bảy luồng chân khí êm ái xuyên qua đúng những sơ hở của chiêu kiếm, giáng vào cơ thể của lão. Thang Chí Quân hự lên, văng ngược về phía sau, máu miệng phun thành vòi, ngã vật trên mặt sàn tre. Lão chưa chết, gượng bò dậy, thều thào hỏi:
- Sao ngươi lại biết… được sơ hở… của kiếm chiêu?
Chính Lan bước đến gần, truyền âm bảo lão:
- Ta là Âu Dương Chính Lan đây lão ngốc ạ.
Họ Thang uất ức thét lên nhưng tả thủ Chính Lan đã vỗ một chưởng, đánh nát lồng ngực, kết liễu đời lão ác ma.
Đồng thời, phía dưới có tiếng quát vang:
- Sát!
Hàng ngàn người nhất tề ập vào chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo.
Hán Trung Tam Ngốc, Tiểu Ngưu, Ngô Công động chủ cũng nhảy xuống tham gia. Ba trăm gã áo xanh kia đều là tay hảo thủ nên coi thường đám quân ô hợp. Nào ngờ, chỉ nửa khắc sau, chúng đã hiểu rằng phe đối phương có đến mấy trăm cao thủ bạch đạo bản lĩnh cao siêu.
Thì ra các vị chưởng môn đã đưa năm trăm đệ tử kiệt xuất nhất đến Cửu Hoa sơn, mong quét một mẻ lưới lớn. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân không đến mà chỉ phái phó giáo chủ là Thang Chí Quân đi mà thôi. Nay đã có Báo Ứng Lang Quân ra mặt đứng mũi chịu sào, năm vị chưởng môn vì đại kế lâu dài vẫn ẩn mình không xuất hiện.
Chính Lan giết xong Đào Hoa cung chủ, không tham gia cuộc hỗn chiến ở dưới, mà quay sang hỏi Thi Mạn:
- Phu nhân mới bình phục, sao lại khinh xuất bôn ba ngàn dặm đến đây làm gì?
Giọng chàng nghiêm lạnh, hàm ý trách móc, nhưng ánh mắt không giấu được vẻ quan hoài. Thi Mạn vẫn chẳng dám khẳng định đối phương có phải chồng mình hay không, nên lúng túng, chẳng biết nói sao. Nàng im lặng một lúc, mạnh dạn hỏi:
- Ma Nhãn đầu đà bảo rằng đại hiệp mang mặt nạ, chẳng hiểu có đúng hay không?
Chính Lan chẳng ngờ nhãn lực của lão Nhiếp lại sắc bén như vậy, giả đò giận dữ:
- Đúng vậy, cả hai đời Báo Ứng Lang Quân đều mang mặt nạ này. Tuy nhiên, tại hạ rất biết ơn nếu phu nhân không tiết lộ bí mật này ra cho cả thiên hạ biết.
Thi Mạn quan sát vết mẻ ở chiếc răng cửa hàm dưới, trống ngực đánh thình thình. Nàng chẳng kể gì đến vẻ khó chịu của đối phương, tủm tỉm cười:
- Tiểu muội thọ ơn cứu mạng của Trọng huynh, muốn được diện kiến một lần.
Chính Lan than thầm, biết rằng người vợ tinh quái của mình đã sinh lòng ngờ vực. Chàng suy nghĩ rất nhanh, cười nhạt đáp:
- Tại hạ bị ràng buộc bởi qui củ rất khắc khe là chỉ được phép cho ái thê của mình thấy mặt. Nếu phu nhân chấp nhận lấy Trọng mỗ thì việc để lộ diện mạo rất dễ dàng được thực hiện.
Ngón đòn lợi hại này của Chính Lan đã khiến Thi Mạn choáng váng. Khi chưa nắm chắc lai lịch đối phương, nàng chẳng thể nào liều lĩnh được? Thi Mạn cố trấn tĩnh hỏi lại:
- Trọng huynh không thấy thiệt thòi khi lấy một góa phụ như tiểu muội sao?
Báo Ứng Lang Quân thản nhiên nói:
- Tại hạ nghe giang hồ truyền tụng rằng Âu Dương Chính Lan đã từng thu nạp Kính Hồ Tiên Cơ, vợ cũ của Dương Châu công tử. Thế thì việc tại hạ kết duyên với phu nhân đâu phải chuyện lạ? Sao, ý của nàng thế nào?
Chính Lan dứt lời, nhìn Thi Mạn bằng cặp mắt khát khao, tình tứ rồi hạ giọng:
- Thú thực với phu nhân, Trọng mỗ từ ngày trị thương cho nàng đến nay, lòng lúc nào cũng mơ tưởng đến hình bóng của nàng.
Chính Lan không cần phải đóng kịch mới nặn ra được ánh mắt nồng nàn ấy. Chàng thực tâm muốn xiết chặt người vợ yêu vào lòng, nói muôn vàn lời dịu ngọt và dìu nàng vào cuộc ái ân thắm thiết.
Thi Mạn rùng mình, thẹn đỏ mặt và giận dữ nói ngay:
- Mong Trọng đại hiệp cẩn ngôn cho.
Nàng lướt về phía gã thủ hạ Bạch Liên giáo, thu hồi kim xà rồi tung mình xuống dưới, tham gia trận chiến.
Chính Lan thở phào nhẹ nhõm. Nhưng lòng đau đớn vô hạn, chỉ muốn gọi nàng trở lại và thú thực ẩn tình. Nhưng sau khi tận mắt chứng kiến sự phản bội của Lôi Đao Hứa Hoa, chàng hầu như không còn dám tin vào ai nữa. Trong năm vị chưởng môn đang ngồi sau bức phên tre kia, liệu có ai âm thầm bán mình cho Bạch Liên giáo hay không? Nếu chỉ có riêng hai vợ chồng với nhau, chắc chàng đã không giấu giếm Thi Mạn.
Chính Lan thẫn thờ nhìn xuống chiến trường, hài lòng khi thấy phe ta toàn thắng. Lợi hại nhất vẫn là Tiểu Ngưu, gã tả xung hữu đột, liều lĩnh lao vào lưới đao, vung quyền cước đánh bay những gã áo xanh xấu số. Da thịt Tiểu Ngưu bền chắc lạ thường, đao kiếm chém vào chỉ để lại những vết đứt không sâu và càng khiến gã thêm hung hãn.
Chính Lan yên tâm, đi vào động khấu phía sau lôi đài, dặn dò Đại Đầu Cái vài câu, rồi rời Cửu Hoa sơn.

Hồi 12

Vũ hạ pháp sư phùng tử nạn
Cốc trung chữ thị ngộ oan gia

Chính Lan đi xuống hướng nam, mục tiêu của chàng là Phong Nhân cốc ở nam nhạc Hành sơn. Chàng khởi hành ngay vì muốn tránh mặt Thi Mạn, chứ không phải vì gấp gáp. Việc giải cứu tù nhân đòi hỏi một lực lượng hùng hậu và sự bố trí chu đáo. Chàng sẽ đến trước nhưng vẫn phải chờ các vị chưởng môn và đệ tử của họ. Trong tay chàng đã có tín phù của Cái bang để liên hệ với đám hóa tử đang giám sát bên ngoài Phong Nhân cốc.
Tám ngay sau, Chính Lan có mặt trong một tửu quán ở vùng ranh giời giữa Hồ Bắc và Hồ Nam. Có lẽ do địa thế ấy mà tiểu trấn này có tên là Nam Bắc trấn. Đại Đầu Cái hẹn với chàng rằng đúng trưa ngày rằm tháng năm sẽ có mặt. Còn đến bảy ngày nữa nên Chính Lan chẳng vội vàng, thong thả ăn uống.
Chính Lan có thói quen ăn xong mới uống vài chén rượu. Chàng chậm rãi nhấm nháp từng hớp nhỏ, ngắm nhìn đám mây trắng trôi nổi trên bầu trời mùa hạ xanh thăm thẳm. Hình bóng những người thân hiện về khiến lòng chàng quặn thắt. Trong lúc chàng giam mình dưới đáy vực, Hoàng Hoa Ma Nữ Tây Môn Tử Quỳnh, Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như và Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ đã hạ sinh được ba nữ hài tử đến nay chúng đã tròn mười tháng tuổi.
Tội nghiệp cho chúng và Hạc nhi, còn thơ ấu mà đã phải chịu cảnh giam cầm khổ ải, và cả năm người vợ đầu ấp tay gối kia nữa. Họ lấy chàng, chẳng hưởng được mấy ngày hạnh phúc đã phải vấn khăn tang. Chính Lan bỗng chán ngán cảnh oán thù chồng chất, tranh danh đoạt lợi của chốn võ lâm. Chàng tự nhủ sau khi cứu được họ, sẽ đưa tất cả đi tìm một chốn non xanh nước biếc mà ẩn dật. Trang Tử từng nói: “Cố gắng làm điều thiện cũng gần như háo danh.” Vậy thì chàng còn lưu luyến giang hồ làm gì nữa?
Ai bảo rằng rượu có thể giải sầu. Càng uống, càng nghe lòng buồn da diết, Chính Lan bùi ngùi ngâm nga nho nhỏ:
“Cổ lai vạn sự đông lưu thủy
Biệt quân khứ hề hà thời hoàn
Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian
Tu hành tức kỵ phỏng danh san
An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quí
Sở ngã bất đắc khai tâm nhan.”(18)
Triết học Lão Trang luôn luôn bàng bạc trong thi văn Trung Hoa, và rõ nét nhất qua con người và thi phẩm của Trích Tiên Lý Bạch. Tư tưởng thoát tục, vô vi chính là chỗ ẩn náu cuối cùng của nhân sinh trong cuộc đời biến loạn, vô thường này.
Chính Lan rót thêm chén nữa, suy nghĩ về trường hợp của Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sơn Đông Tử Phòng kể rằng trước đây lão và họ Hách ở chung trong thủy trại Hồng Trạch hồ, nhưng cách đây hai tháng, Thiết Xuyên đã bỏ đi đâu không rõ. Chính Lan kết giao với gã đã lâu, hiểu rõ cơ trí con người trầm lặng này. Chàng cho rằng Thiết Xuyên ly khai Bạch Liên giáo, để dễ bề tìm kiếm nơi giam giữ tù nhân. Chàng thở dài nghĩ đến Lôi Đao Hứa Hoa, uống cạn chung rượu, gọi tiểu nhị tính tiền.
Rời quán được vài dặm, thấy từ góc đông nam mây đen vần vũ kéo đến, Chính Lan vội thúc ngựa phi mau, tìm chỗ trú ẩn. Thấy phía trước có tòa nhà lớn nằm mé tả đường quan đạo Chính Lan phi mau đến đấy và rẽ vào.
Tòa nhà này nằm chơ vơ nơi bìa rừng, cổng chính xiêu vẹo cỏ mọc đầy sân. Bốn bức tường xung quanh đã sụp đổ cả. Chỉ còn những cây cột là còn vững chắc, đỡ lấy giàn mái ngói đã dột nát. Thì ra đây là đại diện của một ngôi chùa bỏ hoang.
Chính Lan định bụng sẽ ngủ lại nơi này nếu mưa kéo dài đến tối. Từ ngày rời vực thẳm, trở lại nhân gian, chàng đã quen với cảnh gội gió dầm sương, ăn quán ngủ đình.
Chàng đi dạo một vòng phế tích phát hiện nhà bếp vẫn còn kín đáo, liền dẫn tuấn mã vào nơi đây. Chính Lan là người nhân hậu, luôn chăm sóc người bạn đường của mình.
Cơn mưa ập đến, theo gió bay vào đến tận giữa chùa, và nhỏ qua hàng trăm lỗ thủng trên mái ngói. Chính Lan ngao ngán quan sát, thấy chỉ có khoảng trống dưới bệ thờ là khô ráo. Chàng mừng rỡ vung chưởng thổi sạch cát bụi, chui vào đấy nghỉ ngơi. Tấm áo choàng Hắc Tằm Bảo Y có thể thay thế cả chiếu lẫn chăn, quả là vật vô cùng hữu dụng. Đêm qua trời đẹp, đường bằng phẳng nên Chính Lan đi luôn đến sáng, giờ này chàng mệt mỏi chìm vào giấc ngủ.
Khoảng giữa canh một, Chính Lan giật mình thức giấc vì tiếng ngựa xe khua động trước sân, và cả tiếng người trò chuyện. Hình như có đoàn xa mã nào ghé vào đây trú ẩn, vì trời vẫn còn mưa như trút nước.
Lát sau, đám người kéo vào chùa, bật hỏa tập đốt đuốc, tìm chỗ không dột mà cắm. Chính Lan nhờ ánh đuốc ấy mà phát hiện mặt trước bệ thờ có vết nứt rộng bằng bề ngang một ngón tay. Chàng ngồi lên, thận trọng ghé mắt quan sát. Bọn mới đến có khoảng mười người, mặc y phục của các tiêu sư.
Chàng đặc biệt chú ý đến lão già to béo, mặt xanh, râu dài đến ngực. Hai chiếc khoen vàng lủng lẳng trên thùy châu tố cáo rằng lão là người dân tộc Di ở vùng Vân Quí.
Chính Lan cau mày suy nghĩ, và nhớ đến một nhân vật có tên Chiêu Thống(19)pháp sư Hoàng Bỉnh Lân. Lão ta là thầy phù thủy cao cấp nhất của toàn thể người Di, dù họ sống ở Vân Nam hay Quí Châu, Tứ Xuyên, Quảng Tây.
Hoàng Bỉnh Lân cũng là đệ tử độc môn nhưng chỉ chuyên tâm nghiên cứu một ngành duy nhất, đó là mê dược. Thuốc mê của lão không giết người nhưng lại rất khó đối phó, chỉ cần hít phải một lượng rất nhỏ cũng đủ bất tỉnh, dẫu có Tỵ Độc Châu trong người cũng vô ích. Độc dược xuất phát từ nọc độc vật, còn mê dược lại điều chế từ thảo mộc.
Chiêu Thống pháp sư thường qua lại giữa các tỉnh vùng tây nam để chữa bệnh cho người Di. Nhờ y thuật cao minh, lão được đồng bào xem như thánh lão. Chính Lan sinh trưởng ở Vân Nam, học nghệ tại Tứ Xuyên nên có nghe nhắc đến Hoàng Bỉnh Lân.
Lúc này, Chiêu Thống Pháp Sư đã yên vị ở một chỗ ít dột nhất. Lão bực bội than thở:
- Năm nay thời tiết thật quái lạ, mới đầu mùa đã mưa như thác lũ. Thật là khốn khổ cho thầy trò chúng ta. Từ đây đến Phong Nhân cốc còn đến ba trăm dặm, tha hồ dầm dãi nắng mưa. Nếu không có nghiêm lệnh của giáo chủ, ta đã giết quách bọn Hỏa chân nhân cho xong nợ.
Chính Lan choáng váng, không ngờ trong cỗ xe tiêu kia lại là nhạc phụ của mình. Một gã bập bẽ nói:
- Sư phụ ở Vân Nam sung sướng còn hơn thổ vương, tội gì phải nhận lời mời của Bạch Liên giáo?
Gã nói tiếng Hán không rành, chứng tỏ cũng là người Di. Chính Lan cũng thắc mắc như vậy nên lắng tai nghe câu trả lời của pháp sư:
- Ngươi tưởng ta vì ngàn lượng vàng mà nhận lời hợp tác với Thái Sơn Phủ Quân hay sao? Bạch Liên giáo chủ nuôi dã tâm làm hoàng đế, nhân lúc Minh triều suy yếu mà đoạt lấy cơ đồ. Lão đã hứa sẽ cắt cho ta bốn tỉnh tây nam để thành lập vương quốc của người Miêu. Chính vì vậy ta mới giúp lão bắt Hỏa chân nhân và bốn cao thủ Hỏa giáo ở Chương Phàn.
Chính Lan đã hiểu ra cớ sự, thầm lo lắng cho Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, gã đi đón Tây Môn Nhỉ, chẳng hiểu có gặp hay không mà chẳng được nhắc đến.
Ưu tư thứ hai của chàng là âm mưu phản loạn của Bạch Liên giáo. Nay quân Mãn Thanh đang uy hiếp biên thùy phía bắc, nếu Bạch Liên giáo khởi sự, tình hình càng thêm nguy ngập. Chính Lan nghe cơn giận sôi lên, quyết giết cho được Thái Sơn Phủ Quân. Giờ đây, bao nhiêu tư tưởng cầu an, thoát tục đã hoàn toàn tan biến cả. Đạo gia chủ trương thanh tịnh vô vi nhưng chẳng phải là không làm gì cả. Đối với vận mệnh giang sơn và hạnh phúc của lê thứ, họ sẽ tận lực trong khả năng của mình. Lúc sinh thời, Trang tử từng đem tài biện luận sắc bén của mình để ngăn chặn những cuộc chiến phi nghĩa của các vua chư hầu. Chính Lan không có tài biện thuyết mà chỉ có ba thước gươm thiêng.
Chàng gạt bỏ những ý niệm xa xôi, chú tâm suy nghĩ, cố tìm cách cứu cho được bọn Hỏa chân nhân. Chính Lan thân hoài tuyệt học nhưng lúc nào cũng khiêm tốn, thận trọng. Chàng không biết rõ bản lĩnh của Chiêu Thống pháp sư, và chẳng chắc mình chống lại nổi mê dược của lão, liền quyết định dụ lão ra ngoài.
Cuối canh hai, cơn mưa dịu đi nhưng vẫn chưa tạnh, Chiêu Thống pháp sư và mười tên đệ tử ngồi dựa cột ngủ gà ngủ gật. Chính Lan nhẹ nhàng rời bỏ bệ thờ, đi lối sau, vòng ra sân trước. Chàng len lỏi đến cạnh tù xa, sờ nắn thử thùng xe. Hóa ra chúng được phủ đồng lá rất kiên cố ở bên ngoài lớp gỗ. Chính vì vậy nên chẳng cần ai canh gác cả.
Lúc này tù xa đang ở tư thế quay ra ngoài, cửa sau hướng vào chùa để dễ kiểm soát. Nhờ thế, khi Chính Lan rút kiếm, thọc vào mông ngựa thì cặp tuấn mã đau đớn hí vang, kéo xe tù phóng nhanh. Chàng cũng lao theo nhưng ra đến cổng thì tung mình lên bám lấy vòm tam quan còn sót lại. Chiêu Thống pháp sư và đám thủ hạ kinh hãi rời chùa. Hoảng Bỉnh Lân thét vang:
- Có kẻ cướp xe tù.
Võ công của lão cao cường nhất nên nhanh chân hơn, ra đến cổng trước tiên. Chính Lan không bỏ lỡ cơ hội, bủa chưởng xuống đầu đối phương. Họ Hoàng là tay lão luyện, lúc nào cũng cảnh giác nên kịp thời cử song chưởng đón chiêu. Có điều, trong lúc bất ngờ lão chẳng thể nào dồn hết toàn lực được.
Trong khi ấy Chính Lan đã huy động đến mười hai thành công lực vào chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Chưởng kình chạm nhau nổ lùng bùng, Chiêu Thống Pháp Sư văng ngược về phía sau. Lão trúng năm đòn cực mạnh vào ngực và bụng, xương cốt gẫy vụn, chết ngay tức khắc.
Mười gã hán tử người Di ra đến nơi, thấy sư phụ thảm tử sau chỉ một chiêu, kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Chính Lan lướt đến, chụp cổ một tên, xách gã và xác Chiêu Thống pháp sư vào chùa. Chàng lạnh lùng hỏi:
- Thuốc giải mê dược đâu?
Hán tử run lên cầm cập:
- Bẩm đại vương, ở trong người gia sư.
Chính Lan giật tung áo pháp sư, phát hiện hai túi da hươu lớn bằng bàn tay. Chàng lại hỏi:
- Túi nào là giải dược?
Gã người Di mau mắn đáp:
- Túi cột dây hồng là thuốc mê, còn túi cột dây trắng là giải dược.
Chính Lan bế khí, mở túi thứ nhất, bốc một ít bột mịn, màu bụi đất, búng vào mặt hắn ta. Hán tử gục ngã ngay, Chính Lan bỏ ít bột màu hồng trong túi dây trắng vào miệng gã, quả nhiên cứu được.
Hán tử nhìn chàng bằng cặp mắt khiếp sợ, van xin. Chính Lan hỏi thêm:
- Bọn ngươi xuất phát từ tổng đàn Bạch Liên giáo phải không?
Gã ngơ ngác đáp:
- Không phải, sư phụ nhận được thư của Bạch Liên giáo, liền đưa bọn ta đi Chương Phàn mai phục ngay.
Vẻ thành thực của gã hiện rõ trên gương mặt quê mùa. Chính Lan dịu giọng:
- Vì sao bọn ngươi thấy ta giết sư phụ mà lại bỏ chạy chứ không báo thù?
Hán tử ngượng ngùng đáp:
- Ông ta tuy là thầy nhưng lại thường bắt học trò phải đưa vợ đến hầu hạ, cho nên ai cũng ấm ức trong lòng. Nay lão chết đi, người Di cũng chẳng hề nuối tiếc.
Chính Lan mỉm cười:
- Vậy thì ngươi hãy về với vợ mình đi, ta tha cho đó.
Gã mừng như sống lại, chạy thẳng một nước, dù trời tối đen và vẫn còn mưa nho nhỏ.
Chính Lan bỗng nhìn thấy mấy bọc hành lý để rải rác. Chàng đoán tay nải bằng gấm xanh kia là của Chiêu Thống pháp sư, liền mở ra xem. Ngoài y phục còn có phong thư và tờ ngân phiếu ngàn lượng vàng. Nhận ra dấu của tiền trang Từ Châu, chàng lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ Thái Sơn Phủ Quân đang ở nơi ấy? Nhưng Hán Trung Tam Ngốc đã lục soát hết Đào Hoa cung rồi mà?
Chính Lan cất vào người, định bụng sẽ đến tiền trang Từ Châu hỏi xem đã bán tờ ngân phiếu này cho ai? Chàng lật đống y phục, xem thử còn gì nữa không, thì phát hiện vài nén vàng và một tấm đồng bài nặng chịch, to hơn bàn tay. Không kịp xem kỹ, Chính Lan nhét luôn vào bụng, mau chóng trở ra ngoài, rút tiểu kiếm chặt đứt ổ khóa, bồng từng tù nhân vào.
Cơn mưa đã tạnh hẳn, Chính Lan tập trung đuốc lại và xem xét. Chàng mừng rỡ khi thấy có cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy. Bốn người kia là Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ và ba lão già người Tây Vực, tuổi tác chắc nhỏ hơn chân nhân. Mặt mũi họ lem luốc, y phục nhàu nát, hôi hám, nhưng trên người không có vết thương nào. Cả năm đều chẳng mang giầy và chỉ mặc áo mỏng, chứng tỏ họ bị bắt khi đang ngủ. Người Hỏa giáo không sợ độc nhưng chẳng chống nổi thuốc mê của pháp sư.
Chính Lan lục tìm trong đống tay nải của bọn hán tử người Di, thấy có rượu và lương khô rất nhiều. Chàng bốc thuốc giải, nhét vào miệng từng người rồi để rượu vào. Thần diệu thay, chỉ nửa khắc sau họ đã trở mình, mở mắt. Chính Lan nghiêm giọng:
- Chư vị thử vận khí điều tức xem sao?
Năm người lặng lẽ nghe lời, ngồi lên tọa công. Gần canh giờ trôi qua, họ vươn vai đứng lên. Hỏa chân nhân thấy xác Chiêu Thống pháp sư kinh hãi hỏi:
- Các hạ là cao nhân phương nào lại giết được lão phù thủy này?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ nhờ đánh lén mà thành công chứ chẳng có tài cán gì cả.
Đỗ Vĩnh Huy đã nhận ra Báo Ứng Lang Quân. Gã mừng rỡ bước đến vái dài:
- Không ngờ cái mạng nhỏ này lại được Trọng huynh cứu sống lần nữa.
Quả đúng như vậy vì nếu tháng trước chàng không xuất hiện ở Vu Hồ thì gã cũng khó sống dưới tay Bạch Liên giáo. Vĩnh Huy hoan hỉ giới thiệu:
- Tây Môn lão gia, đây chính là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đã chữa trị thương thế cho Âu Dương ngũ phu nhân.
Chân nhân vui vẻ vỗ vai Chính Lan:
- Bần đạo nghe họ Đỗ hết lời tán dương thiếu hiệp, lòng cũng muốn gặp. Không ngờ trên đường về Vu Hồ lại bị Chiêu Thống pháp sư hạ thủ. Lúc tỉnh lại nhận ra Hoàng Bỉnh Lân, bần đạo mở lời thuyết phục lão. Mới nói được có vài câu đã bị lão búng mê hồn phấn vào xe, bất tỉnh luôn. Cuối cùng lại được thiếu hiếp giải cứu. Thật là trời cao có mắt.
Chân nhân chỉ ba lão già Tây Vực rồi giời thiệu:
- Họ là Hỏa giáo tam hộ pháp, sư đệ của lão phu!
Chính Lan thấy râu tóc, da dẻ của họ cũng đỏ như Tây Môn Nhỉ, nhưng vẻ mặt ngơ ngáo, mắt láo liên tinh nghịch. Chàng mỉm cười tự nhủ: “Không hiểu ba lão này có giống Hán Trung Tam Ngốc hay không nhỉ?”
Tam vị hộ pháp lúng túng xiết lại giải lưng quần. Một lão gượng cười:
- Bọn bần đạo nhịn đói đã lâu, nếu thiếu hiệp có gì ăn thì hay quá.
Chính Lan gật đầu, bước đến góc xa, xách những túi rượu và lương khô đến. Vĩnh Huy chạy đi gom những mảnh gỗ rải rác trong chùa, chất thành một đống, đút bốn bó đuốc vào. Tuy ẩm ướt nhưng đều đã mục nát, chỉ lát sau đống củi cháy bừng.
Chờ họ ăn no Chính Lan mới hỏi:
- Chân nhân và tam vị hộ pháp có mang theo Đảo Thiên thần đạn hay không?
Tây Môn Nhỉ buông đũa, thở dài:
- Bần đạo vì Bình nhi mà hai mươi năm rồi không trở lại Tây Vực, xao nhãng việc cúng tế sư tổ. Xét môn qui thì là kẻ có tội, nên bị trưởng giáo sư huynh trách mắng thậm tệ. Bần đạo hết lời van xin, cuối cùng trưởng giáo cho tam vị hộ pháp vào Trung Nguyên hỗ trợ, nhưng lại không ban cho hỏa khí. Nếu muốn chế tạo, phải mất nửa năm là ít.
Người thâm thấp là tứ hộ pháp Bạch Tuân. Lão đã no nê nên hào khí can vân:
- Bốn huynh đệ ta liên thủ, lo gì không quét sạch Bạch Liên giáo? Thiên Hỏa Tứ Tượng trận uy lực thế nào chắc nhị sư huynh đã biết?
Thì ra Hỏa chân nhân là nhị hộ pháp của Hỏa giáo. Tây Môn Nhỉ gật gù nhưng lại thở than:
- Nhưng biết đối phương nhốt tù nhân ở đâu mà tìm bây giờ?
Chính Lan chậm rãi nói:
- Tại hạ biết.
* * *
Đầu canh ba đêm rằm tháng năm, có một toán hắc y nhân tiến về phía Phong Nhân cốc, trong dãy núi Hành sơn. Nam nhạc Hành sơn là một trong những danh sơn của Trung Hoa. Nhưng đám hắc y nhân này đến đây chẳng phải để thưởng thức cảnh trăng treo đầu núi. Họ tản ra, ẩn mình sau những bụi cây, giám sát cửa ra vào Phong Nhân cốc. Và có một người nhanh nhẹn tiến vào đường độc đạo nhỏ hẹp và đầy hung hiểm kia. Gã núp mình sát vào vách đá, tung một nắm bột mịn rồi ve vẩy song thủ, tạo ra những trận gió nhẹ, đưa mê hồn phấn bay vào đến tận cuối đường.
Lát sau, gã nghe tiếng thân người ngã xuống nền đá, liền trở ra vẫy tay gọi đồng bọn. Năm bóng người lướt đến ngay. Ánh trăng rằm soi rõ dung mạo của họ. Đó là Chính Lan, Hỏa chân nhân, Thiểm Điện Thần Kiếm và ba lão già họ Bạch. Sáu người chạy vào đường cốc đạo, phát hiện mười tám thi thể nằm im như đã chết trong những ngách nhỏ hai bên vách. Bọn Hỏa chân nhân trụ lại để trấn giữ cửa cốc, chỉ mình Chính Lan đột nhập vào trong.
Trăng vàng chênh chếch đằng đông nên vùng đất dưới chân vách núi ấy không được soi sáng. Chính Lan men theo mé hữu mà đánh một vòng. Đường chàng đi chỉ toàn là cây cối, vì người trong cốc không dám làm nhà sát vách cốc, đề phòng đá trên vách lở ra, rơi xuống đầu. Nhờ vậy, Chính Lan có thể ung dung thám thính những căn nhà gỗ từ phía hậu.
Chàng không thấy một người cùi hủi nào, mà chỉ toàn bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Khi đến căn nhà gỗ đồ sộ ở cuối, nằm đối diện với cửa cốc, cách chân vách tám trượng, Chính Lan biết rằng đây là nơi cư trú của bọn thủ lãnh Phong Nhân cốc, liền êm thắm áp sát.
Trong nhà đèn vẫn sáng, và có bốn lão gìa áo vàng đang ngồi uống trà. Tuổi tác họ độ hơn sáu mươi, dung mạo phảng phất giống nhau. Người nào cũng răng hô, mũi tẹt, trán thấp và ánh mắt vô cùng tà quái.
Lão có nốt ruồi trên sống mũi thở dài thườn thượt:
- Chán thật, không hiểu đến bao giờ mới thoát khỏi kiếp canh tù này đây? Đã ba tháng rồi tiểu đệ không biết mùi nữ nhân là gì cả.
Lão râu bạc mỉm cười:
- Nếu tứ đệ ngứa nghề thì ngày mai anh em ta rời cốc, đến Trường Sa vài ngày. Tù nhân bị nhốt kỹ trong thạch lao, cửa cốc lại phòng bị nghiêm mật, có gì phải lo lắng? Hơn nữa, có ai mà lại ngờ rằng họ ở trong chốn đáng sợ này?
Lão không râu nhăn nhó:
- Đại ca, sao chúng ta không trở lại Chữ gia trang mà phải đầu nhập Bạch Liên giáo làm gì cho khổ thân?
Thì ra lão râu bạc chính là Chữ Công Sinh, trang chủ của cơ ngơi mà Chính Lan đã cứu Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sau khi giết chết Phú Quí hội Hà Lăng, Chính Lan định tấn công Chữ gia trang, nhưng trinh sát báo về rằng không còn một bóng người. Ngờ đâu huynh đệ Chữ trang chủ lại qui phục Bạch Liên giáo và trấn giữ Phong Nhân cốc này.
Nhắc lại, lão râu bạc tức Chữ Công Sinh vui vẻ đáp lời người em:
- Tam đệ, anh em chúng ta chưa kịp khởi nghiệp đã đụng phải gã Hồng Nhất Điểm. Nay Thái Sơn Phủ Quân hùng tâm vạn trượng, tài trí hơn người, trước sau gì cũng tạo dựng được cơ đồ. Lúc ấy, Chữ thị tứ huynh đệ trở thành khai quốc công thần, vinh hiển biết bao? Ba em cố nhẫn nại một chút.
Lão quay sang bảo lão mặt đen:
- Nhị đệ ra sau kiểm tra lại thạch lao rồi hẵng ngủ. Hôm nay đến phiên ngươi đấy.
Chữ nhị gia gật đầu, đứng lên đi về phía sau. Chính Lan phấn khởi bám theo sát nút. Chàng thấy lão tiến về phía vách đá, hí hoáy mở một cánh cửu bằng gỗ đai sắt. Lão vào trong chỉ một chút rồi trở ra.
Chính Lan chờ lão đi khuất, lướt đến bên cánh cửa, dồn toàn lực vào tiểu kiếm, chặt đứt ổ khoá. Nỗi thương nhớ vợ con rộn rã trong lòng, chàng lướt vào như tia chớp, công lực dồn hết ra song thủ, sẵn sàng giết sạch những kẻ cản đường. Nhưng chẳng có tên ngục tốt nào cả, và trên ổ rơm cuối động có bốn người già đang nằm co quắp dưới ánh đèn dầu leo lét. Họ chính là các trưởng bối của chàng, Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt, Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh và phu thê Tiêu trang chủ. Không thấy vợ con đâu, Chính Lan hơi thất vọng. Vậy là Bạch Liên giáo đã giam họ ở một nơi khác. Xem ra, cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân quả là thâm hiểm, đáng mặt gian hùng.
Chính Lan trở ra ngoài, đứng trước cửa thạch lao hú vang dội cả sơn cốc. Tiếng hú cao vút như muốn trút nỗi căm hờn lên tận trăng vàng.
Bốn lão già họ Chữ và gần trăm tên Bạch Liên giáo hồn phi phách tán, xách vũ khí chạy đến. Chính Lan đã đóng chặt cửa nhà tù, hiên ngang chờ đợi. Dưới ánh đuốc rực rỡ của đối phương, nhãn thần chàng bừng bừng sát khí. Chữ Công Sinh thấy chàng chỉ có một mình, lão hỏi ngay:
- Tiểu tử kia, ngươi là ai và vào đây bằng lối nào vậy?
Chính Lan lạnh lùng buông từng tiếng:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân, kẻ đã giết Phi Hoàn đại lão và Đào Hoa cung chủ đây. Bọn ngươi mau dọn mình đền tội.
Anh em họ Chữ biến sắc, không hiểu thực hay hư. Họ gầm lên hung dữ, nhất loạt xông vào. Trên tay họ là những cặp búa lưỡng nguyệt phủ dài độ năm gang lưỡi mỏng và sắc như dao cạo.
Phép đánh búa đã thất truyền từ lâu, không ngờ anh em họ Chữ lại học được. Chính Lan thấy khí thế đối phương như thác lũ, bốc lên không trung xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch. Lưới chưởng nối nhau giáng xuống như sấm sét. Tuyệt kỹ Nhất Hạc Xung Thiên đã tạo thế thượng phong cho chàng.
Lão già có nốt ruồi trên sống mũi, công lực kém nhất nên không giữ nổi vũ khí, và trúng hai chưởng vào vai hộc máu chết ngay. Hồn của lão chắc mau chóng lên đường đến thăm những kỹ viện ở Trường Sa cho thỏa chí.
Lúc này, bọn Hỏa chân nhân đã vào đến nơi, phóng tay chém giết. Những đạo chưởng kình đỏ rực thiêu đốt da thịt bọn Bạch Liên giáo, khiến chúng đau đớn kêu khóc vang trời, xem ra, bản lĩnh ba lão hộ pháp họ Bạch cũng chẳng kém gì Hỏa chân nhân. Chính Lan để bọn họ đối phó với anh em Chữ Công Sinh, còn chàng gọi Thiểm Điện Thần Kiếm và vài người nữa vào thạch lao, cõng tù nhân ra.
Cuối cùng, ba lão họ Chữ và đám giáo đồ Bạch Liên giáo đều bị giết sạch.
Bọn Chính Lan đưu bốn lão nhân về Vu Hồ tĩnh dưỡng. Liễu Thi Mạn cũng đã có mặt ở đây, khóc vùi khi gặp lại Hỏa chân nhân và các trưởng bối. Nàng nhìn Chính Lan bằng cặp mắt ai oán, nghi hoặc, nhưng không nói một lời, chàng cũng quay đi, bỏ về tòa nhà bát giác mà tránh mặt.
Chính Lan ngồi nhìn qua song cửa, ngắm mặt nước mênh mông của Vu Hồ, nhớ đến những người còn đang bị giam cầm. Chàng biết đã đến lúc mình phải thố lộ lai lịch với người thân. Bốn tù nhân kia vừa kiệt lực, vừa tuyệt vọng nên bệnh tình ngày càng xấu đi. Sự xuất hiện của chàng sẽ là liều thuốc hồi xuân đối với họ. Hơn nữa, chàng không còn chịu đựng nổi ánh mắt đau khổ của Thi Mạn nữa.
Chàng đang suy nghĩ miên man thì Hỏa chân nhân bước vào. Ông nhìn chàng chăm chú rồi run rẩy nói:
- Chính Lan, chẳng lẽ ngươi định để bọn ta chết cả rồi mới chịu lộ mặt hay sao?
Giọt lệ già nua hiếm hoi lăn trên gò mà nhăn nheo. Lão nhân cổ quái này đã yêu thương chàng như con ruột của mình. Chính Lan không kiềm nổi niềm xúc động, sụp xuống khóc gọi:
- Lão gia!
Hỏa chân nhân nghe bọn Thi Mạn và Sơn Đông Tử Phòng nêu lên những nghi vấn rằng Báo Ứng Lang Quân có thể là Âu Dương Chính Lan, liền ngẩn người suy nghĩ và linh cảm rằng họ nói đúng. Tính lão nóng như lửa nên tìm đến kiểm tra ngay. Lão biết chàng rất tôn kính, yêu thương mình, tất không dám giấu. Tuy nhiên, khi chàng thừa nhận lão mới hết thấp thỏm. Tây Môn Nhỉ vui mừng khôn xiết, đỡ chàng lên, xiết chặt vào lòng, hạ giọng thì thầm:
- Hài nhi, ta vẫn không tin rằng ngươi lại vắn số như vậy? Nếu không vì bọn nữ nhân sinh đẻ, bệnh hoạn liên miên thì ta đã đến Vân Mộng sơn, lần xuống Vô Uyên Để tìm ngươi rồi.
Lão nói đến đây thì ở ngoài có tiếng nữ nhân bật khóc, và Liễu Thi Mạn bước vào. Chính Lan gỡ mặt nạ chạy đến ôm nàng. Cả hai khóc vùi, không nhận ra có nhiều người đã bước vào theo Thi Mạn.
Tài sản của than_long_vn

  #5  
Old 01-05-2008, 03:27 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 13

Tuyệt bích nan phan nhân vi điểu
Thê thê hồ thuỷ nhân vi ngư

Gần tháng sau, Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn chủ nhân kiêm tổng tiêu đầu Phi Ưng tiêu cục cùng hai tiêu sư, xuất hiện trong tiền trang thành Từ Châu. Chưởng quĩ tiền trang là một lão già người Sơn Tây, họ Ngụy, đích thân ra đón khách. Dương Mẫn vui vẻ đưa cho Ngụy lão xem một tờ ngân phiếu trị giá ngàn lượng vàng:
- Lão phu được giao bảo tiêu một hòm gỗ đi Bắc Kinh mà không được biết có gì ở bên trong. Vị tài chủ kia hào phòng chịu giá ngàn lượng vàng thù lao, lão phu thấy lạ nên muốn nhờ Ngụy lão huynh kiếm tra giùm.
Ngụy Hành cầm lấy xem xét, gật gù bảo đảm:
- Dương tổng tiêu đầu cứ yên tâm. Tờ ngân phiếu này đúng là của bổn hãng. Người đổi tiền là Tề đại tài trong thành này.
Phi Ưng Kiếm hoan hỉ cảm tạ rồi cáo từ, trở về khách điếm.
Canh tư đêm ấy, ngài đại phú đất Từ Châu đang ngủ say thì bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng gọi:
- Tề Trung Tín, Tề Trung Tín.
Lão giật mình mở mắt, chạm phải đôi nhãn quang sáng quắc và xanh biếc một cách ma quái. Thần thức họ Tề lập tức mê mẩn, mơ hồ và tiếng nói lại vang lên:
- Giáo chủ Bạch Liên giáo hiện đang ở đâu?
Tề Trung Tín đáp ngay:
- Núi Độc Giác ở Sơn Đông.
Người kia hài lòng bảo:
- Tốt lắm, ngươi hãy ngủ đi.
Họ Tề ngoan ngoãn nhắm mắt ngủ say. Hai bóng đen rời Tề gia trang, lẫn vào bóng đêm mất dạng.
Sáng hôm sau, đoàn nhân mã đông đảo của Phi Ưng tiêu cục lên đường đi về hướng bắc, chiều ngày mười sáu tháng sáu dừng chân ở cửa nam thành Tế Ninh. Từ đây có thể nhìn thấy núi Độc Giác, cách xa chừng mười dặm về phía tây.
Ngọn núi này có tên như vậy vì hình dáng giống như con tề ngưu Vân Nam đang nằm, chĩa sừng lên trời. Phần phía bắc có đỉnh cong thoai thoải tựa chiếc lưng, phần phía nam là một đỉnh núi đá bốn bề tròn trịa, sừng sững như cột chống trời. Nhưng vì nó chỉ cao độ sáu chục trượng nên được gọi là Sừng Tề Ngưu. Vách đá xung quanh hoàn toàn không có thảo mộc, nhưng trên rìa đỉnh, thấp thoáng bóng cây cối, đường kính đỉnh núi rộng chừng mười mấy trượng.
Phi Ưng tiêu cục không vào thành hay ngụ trong quán trọ, mà lại mướn một tòa nông xá rộng rãi. Họ dỡ những rương hòm trên tiêu xa đem vào nhà, và tháo ngựa, tháo bánh xe ra bày la liệt, chuẩn bị sửa chữa. Lần này, họ áp tải những xe tiêu, loại có mui kín, dành cho thứ hàng hóa kỵ nước.
Mấy năm nay, dân tình đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi nên sanh ý của tiêu cục rất thịnh vượng. Vì vậy, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo đã quen mặt với Phi Ưng Kiếm chẳng thèm để ý đến làm gì.
Thái Sơn Phủ Quân là người đa mưu túc trí, rải thủ hạ khắp các đạo quán, âm thầm chỉ đạo chứ không xuất đầu lộ diện. Phi Hoàn đại lão, Đào Hoa cung chủ đều chết dưới tay một cao thủ lạ mặt là Báo Ứng Lang Quân. Lại thêm Chiêu Thống pháp sư mất tích, Phong Nhân cốc bị quét sạch, chứng tỏ Hỏa chân nhân đã đưa cao thủ Hỏa giáo vào Trung Nguyên và đang phản công. Phủ Quân ráo riết chiêu mộ anh tài, huấn luyện thủ hạ, bành trướng thực lực Bạch Liên giáo để chuẩn bị đối phó với phe Tây Môn Nhỉ và chuẩn bị khởi nghĩa. Lão sợ uy lực của Đảo Thiên thần đạn nên xem đám thê nhi của Chính Lan là bùa hộ mạng. Ngày nào còn nắm được con tin, bọn Hỏa chân nhân chẳng dám công khai đối địch.
Nhắc lại, sau khi đem hết mười mấy chiếc rương vào trong, Phi Ưng Kiếm và tám tiêu sư quây quần bên chiếu rượu. Họ đều là người quen của chúng ta, đó là Âu Dương Chính Lan, Liễu Thi Mạn, Ma Nhãn đầu đà, Ngô Công động chủ, Hỏa chân nhân và ba vị hộ pháp Hỏa giáo.
Còn bốn chục đệ tử tiêu cục đang hý hoáy cạnh tiêu xa ngoài sân là cao thủ Bố Y hội. Có mặt Thiểm Điện Thần Kiếm, Giang Tây Thần Bộ và gã béo Lâm Chấn Hạo nữa. Họ cảnh giới cho những bên trong bàn bạc.
Đêm xuống, Chính Lan, Ngô Công động chủ và Ma Nhãn đầu đà rời nông xá, đi về hướng Độc Giác sơn. Mục đích của họ là thám thính chứ không phải đánh nhau. Khinh công của cả ba đều rất cao cường nên chẳng ngại ánh trăng làm lộ tung tích. Ba khắc sau, họ đã đến khu rừng rậm quanh núi Độc Giác, nằm phục xuống bìa rừng nghe ngóng.
Ngô Công động chủ thả một con trong cặp rết bốn cánh ra, con còn lại vẫn quấn lấy tay bà. Mỗi lần nhận được tín hiệu của con rết trinh sát, con thứ hai vẫy cánh, rít nhẹ lên. Tín hiệu cứ liên tục bay về, chứng tỏ đường vào có rất nhiều mai phục. Gần khắc sau, chắc con Tứ Dực Ngô Công kia đã vào đến vòng phòng thủ của lũ Miêu Ưng, nên bầy cú rúc lên ghê rợn. Chung nương vội niệm thần chú thu hồi linh vật. Bà hạ giọng thì thầm:
- Công tử, xem ra Bạch Liên giáo phòng bị rất nghiêm mật, chúng ta tiến vào là bị bầy ác điểu kia phát hiện ra ngay.
Bà tôn trọng Chính Lan nên xưng hô như vậy, đúng ra phải gọi bằng muội phu. Chính Lan trả lời:
- Sư tỷ ở lại đây cảnh giới, tiểu đệ và Nhiếp lão sẽ vào bắt một tên khai thác. Biết đâu, nhờ Nhiếp Hồn đại pháp của Nhiếp lão mà tìm ra vị trí nơi giam giữ tù nhân?
Đầu đà gật đầu:
- Việc ấy không khó, chỉ mong công tử bảo trọng.
Chính Lan mỉm cười, tiến vào rừng, đầu đà theo sau. Chàng vận hết thính giác tìm kiếm, lướt từ gốc cây này sang bụi rậm khác. Cuối cùng, chàng phát hiện tiếng thở của gã sát thủ ngoài cùng.
Chính Lan êm ái áp sát. Khi còn cách chừng hơn trượng, chàng bứt một chiếc lá cây, dồn chân khí vào, búng về phía gã giáo đồ. Chiếc lá xé gió bay xẹt qua miệng hố. Gã giật mình ngồi dậy nhìn quanh và rồi đứng hẳn lên.
Chính Lan xạ ngay hai đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào huyệt Đại Bao và huyệt Bộ Lang. Đồng thời, thân hình chàng nằm dài ra, lướt trên mặt cỏ, bay đến đỡ lấy, đặt gã nằm dài trong lòng hố.
Khoảng cách giữa các điểm mai phục chỉ cách nhau chừng hai trượng, nhưng trong rừng nhiều bụi rậm nên những tên giáo đồ gần đấy chẳng hề phát hiện được quái sự. Ma Nhãn đầu đà mừng rỡ lướt đến, nằm phục trên miệng hố, truyền âm bảo Chính Lan giải huyệt rồi bắt đầu nhiếp hồn nạn nhân. Lão thì thầm bảo:
- Ngươi hãy nói nhỏ cho ta biết giáo chủ nhốt tù nhân ở đâu?
Gã kia ngoan ngoãn hạ giọng:
- Trên đỉnh Sừng Tê Giác.
Như thế là quá đủ, đầu đà thôi miên cho gã ngủ say. Sáng mai, khi tỉnh giấc, gã sẽ phát hiện trên áo có hai dấu máu đen sạm mà không hiểu vì sao?
Chính Lan và đầu đà hân hoan lướt ra ngoài, kéo Chung nương đi xuống hướng nam. Dưới ánh trăng vằng vặc, cây cột đá kia đứng sừng sững như thách đố bọn Chính Lan. Chỉ có cạnh nối với phần núi phía bắc là có trạm canh, phía sau chẳng có một bóng người. Cần gì phải trông coi khi mà khỉ vượn cũng chẳng thể trèo lên vách đá dựng đứng, trơn tru ấy?
Chính Lan sững người nhìn lên đỉnh núi đá, mắt long lanh ướt rượt.Không phải chàng sợ mình không lên được, mà là thương cho thê tử. Trên ấy mùa đông chắc là lạnh lắm.
Ngô Công động chủ thở dài:
- Chỉ có chim mới bay lên được trên ấy.
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy, nhưng tiểu đệ đã học được cách bay của loài cầm điểu.
Ba người quay trở lại cửa nam thành Từ Châu. Người ở nhà vẫn thức để chờ đợi. Chính Lan vui vẻ nói ngay:
- Lão gia, tiểu điệt đã tìm ra họ, đêm mai chúng ta sẽ khởi sự.
Chàng liền trình bày kế hoạch của mình. Ai nấy đều hoan hỉ vô hạn. Tứ hộ pháp Bạch Tuân gãi tai lẩm bẩm:
- Chẳng hiểu tiểu tử này có điên không nhỉ?
Sáng hôm sau, Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn vào thành Tế Ninh thật sớm, lão mang theo một đôi giày vải cũ, vào tiệm giầy lớn nhất thành, mua một đôi mới bằng da hươu thật tốt có kích thước giống giày cũ. Sau đó, lão tìm đến lò rèn của Trương lão cửu, người đã có bốn mươi năm kinh nghiệm, và nổi tiếng nhờ chế tạo ra những loại ám khí tinh xảo.
Đến trưa, Dương lão hài lòng trở về, đưa cho Chính Lan xem một đôi giày có đế lót thép, mũi chĩa ra ba mấu sắc như vuốt chim ưng. Lão đắc ý khoe:
- Điệt tế biết không, lão họ Trương đã bảo đảm rằng có đâm vào đá cũng không gãy, không mòn.
Chính Lan đẹp dạ, mỉm cười:
- Cảm tạ biểu thúc.
* * *
Đêm ấy, bọn Chính Lan gồm mười hai người, đem theo dây chão, thúng mây, đến mặt sau của chiếc sừng đá cao sáu chục trượng. Trăng mười bảy soi sáng vách đá sừng sững, như hỗ trợ cho Chính Lan. Chàng xỏ đôi ủng da vào chân, đứng trên bốn đôi tay của Hỏa chân nhân và ba lão hộ pháp người Tây Vực. Họ vận toàn lực, tung chàng lên độ cao năm trượng, song song với vách đá. Mượn đà ấy, Chính Lan điểm mũi giày có mấu thép vào sườn núi, song thủ vỗ mạnh vào không khí, tiến lên vùn vụt.
Những người ở dưới nhìn lên có cảm giác như một cánh dơi khổng lồ đang cố vượt đỉnh núi. Họ vừa thán phục, vừa lo lắng, sợ chàng rơi xuống vì không đủ hơi. Nhưng Chính Lan luyện Qui Thức Bảo Tâm đại pháp từ nhỏ, thời gian bế khí dài gấp mấy lần người khác. Cộng với hơn sáu mươi năm công lực, chàng liên tục đẩy những đạo chưởng kình, như những cú đập cánh của loài chim.Chính Lan đã từng vượt thoát khỏi vực thẳm Vân Mộng sơn cũng bằng cách này. Nhưng vách vực thẳm còn có đất mềm, chàng có thể cắm ngập bàn tay vào đấy, treo mình nghỉ ngơi. Còn ở đây chỉ toàn là đá núi cứng rắn, nên mũi giày thép chạm vào bắn ra những tia lửa nhỏ. Căn bản của phép đề khí là nín thở. Chỉ cần đổi hơi là chân khí đứt đoạn, rơi xuống ngay.
Nhưng còn một nỗi lo nữa, đó là những mấu thép ở mũi giày. Khi chàng còn cách đỉnh núi mấy trượng thì hai mấu sắt ở mũi giày bên tả gãy rời. Thân hình chàng mất đà tụt xuống ngay, Thi Mạn kinh hãi rú lên, cũng may Ngô Công động chủ đã kịp bịt miệng sư muội lại.
Còn các cao thủ lão thành thì cử song thủ, sẵn sàng phóng chưởng đón Chính Lan. Và may thay, chàng đã trụ lại được, bằng cách vỗ liền mười sáu chưởng mãnh liệt. Thân hình chàng lại tiếp tục bốc lên, vượt đoạn đường còn lại, hạ thân xuống mép vực.
Mọi người thở phào, ngước lên chờ đợi. Lát sau, một sợi dây bằng tơ, đầu cột cục đá, được Chính Lan thả xuống. Trịnh Thiều bắt lấy, cột một đầu dây chão vào. Chính Lan kéo lên, buộc vào gốc cây gần đấy rồi giật ba cái. Tây Môn Nhỉ và ba sư đệ lập tức nắm lấy đường dây đi lên. Có được điểm tựa vững chắc, họ thượng sơn rất dễ dàng, nhanh chóng.
Năm người thận trọng tiến vào khu rừng tùng trên đỉnh sừng tê giác, đến được một tòa nhà bằng đá hình bát giác, giống hệt như thạch thất ở Vu Hồ. Chính Lan thì thầm:
- Lão gia, té ra Bát Quái môn đã từng đặt căn cứ ở nơi này.
Bỗng có tiếng khóc oa oa của trẻ thơ vọng ra, khiến mọi người phấn khởi. Họ rảo một vòng, chỉ phát hiện được hai phụ nhân già nua đang ngủ trong căn nhà bếp bằng gỗ. Có lẽ họ là người phục vụ cho tù nhân hơn là canh giữ. Chính Lan không nỡ giết, chỉ rắc ít bột mê hồn phấn vào mũi họ. Hai người này sẽ ngủ say ít nhất là bốn ngày. Lúc ấy, bọn chàng đã rời khỏi Sơn Đông rồi.
Họ quay lại cửa chính của tòa nhà quái dị. Chính Lan rút tiểu kiếm chặt phăng khóa sắt, đẩy cửa bước vào. Có tiếng nữ nhân run rẩy hỏi:
- Bọn ngươi muốn gì mà vào đây lúc nửa đêm? Đừng hòng tính chuyện làm càn, chị em ta thà chết chứ không chịu nhục đâu.
Đó chính là giọng nói của Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình. Đã bàn bạc từ trước, Chính Lan không dám lên tiếng ngay để họ khỏi hoài nghi. Hỏa chân nhân bật hỏa tập, nói như sắp khóc:
- Bình nhi ơi, phụ thân đến cứu bọn ngươi đây.
Lúc tối ông đã gội đầu, tẩy sạch thuốc nhuộm để lộ râu tóc đỏ hung. Nhờ vậy, chẳng thể lẫn với ai được. Tố Bình mừng rỡ reo lên:
- Phụ thân, bọn hài nhi mỏi mòn chờ mong giây phút này.
Nàng chạy đến ôm ông khóc sướt mướt. Bốn nàng kia cũng ôm con thơ bước lại nghẹn ngào, tức tưởi. Chân nhân hỏi ngay:
- Các con vẫn bình an chứ?
Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ lên tiếng:
- Bọn tiểu nữ thì không sao chỉ tội cho lũ trẻ.
Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như nói:
- Để tiểu nữ đốt đèn lên cho sáng.
Nàng bồng tiểu hài đến chiếc bàn nơi góc nhà, lấy hỏa tập châm đèn. Chỉ được tự do có một tay nên nàng rất lúng túng. Bỗng phía sau có tiếng ai thân quen:
- Như muội đưa ta ẵm con cho.
Một mãnh lực vô hình nào đó khiến nàng ngoan ngoãn trao đứa bé cho người ấy. Uyển Như rơi vào trạng thái mơ hồ, kỳ lạ, đờ đẫn quay lại châm đèn.
Khi ngọn tọa đăng tỏa sáng lên, Uyển Như ngước nhìn người đàn ông ẵm con mình. Nước mắt nàng trào ra, miệng lẩm bẩm:
- Tướng công từ âm cảnh về thăm thê tử đấy ư? Sao chàng không về thăm sớm hơn, để bọn thiếp đỡ nhớ nhung?
Chính Lan ứa lệ, xiết chặt nàng vào lòng, hôn tới tấp lên mắt, lên môi. Uyển Như sung sướng òa khóc nức nở. Đứa bé trên tay cũng giật mình khóc theo. Bốn mỹ nhân kia quay lại, thấy cảnh tượng ấy đều ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả. Kính Hồ Tiên Cơ vẫn ôm chặt lấy Chính Lan, như sợ chàng biến mất, và thất thanh gọi lớn:
- Các em ơi, mau đến đây giữ tướng công lại.
Bốn người kia lật đật chạy đến, chăm chú nhìn gương mặt Chính Lan.
Chàng đã mập hơn xưa nhưng vẫn là nét mặt của người mà họ ngày đêm thương tiếc. Chính Lan cũng nhìn những dung nhan gầy gò, hốc hác kia bằng ánh mắt chan chứa yêu thương. Chàng dịu giọng bảo:
- Ta vẫn còn sống, các nàng đừng sợ.
Tây Môn Tử Quỳnh hét lên:
- Tướng công.
Rồi nàng ngất lịm, nếu Tố Bình không kịp đỡ thì Tử Quỳnh đã ngã xuống sàn nhà. Hỏa chân nhân cười ha hả, xóa tan nỗi nghi ngờ của họ:
- Hắn là Chính Lan của các ngươi đấy. Người còn sống chứ không phải là ma đâu.
Các nàng bừng tỉnh, xúm lại kêu khóc. Chân nhân vội nói:
- Đừng khóc nữa, nếu bọn Bạch Liên giáo nghe được thì phiền lắm, về đến nhà tha hồ mà nhõng nhẽo.
Thế là họ chỉ dám nức nở tỉ tê thôi. Bọn Chính Lan cấp tốc dẫn họ ra mép núi phía sau, đưa xuống bằng thúng mây.
Nửa tháng sau, đoàn người về đến Vu Hồ. Ngày hội trùng phùng hạnh phúc không bút nào tả xiết.
* * *
Căn cứ Vu Hồ được củng cố thành một nơi bất khả xâm phạm. Vòng ngoài là hàng rào hỏa dược sẵn sàng nổ tung để xé tan xác đối phương. Kế đó là phòng tuyến của các tay thiện xạ. Ngoài ra đàn độc phong ngày đêm tuần tra mặt nước quanh đảo, mau chóng phát hiện kẻ lạ mặt.
Gần cuối tháng bảy, một đệ tử Cái bang đến Vu Hồ trao thư của Đại Đầu Cái. Bang chủ Cái bang viết rằng đã phát hiện tù xa đưa Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên về Hồng Trạch hồ.
Chính Lan lập tức khăn gói lên đường cứu bằng hữu. Chàng đưa Tây Môn Tố Bình và ba vị hộ pháp Hỏa giáo theo chàng. Tài hóa trang của nàng và bản lĩnh cao cường của các hộ pháp sẽ hỗ trợ Chính Lan rất nhiều.
Sau hơn tháng tịnh dưỡng, các mỹ nhân đã hoàn toàn hồi phục, kiều diễm như xưa. Niềm vui tương phùng với trượng phu đã là kỳ dược đối với họ. Tiểu Linh Thố được tháp tùng Chính Lan, lòng vui như mở hội. Nhưng bề ngoài vẫn cố giữ vẻ thản nhiên. Sau lần tưởng chừng góa bụa, và cùng chia sẻ cảnh giam cầm, tình cảm giữa các mỹ nhân càng thêm thắm thiết.
Thế mà Chu Thục Nghi vẫn giận dỗi nói:
- Tướng công chẳng bao giờ cho thiếp đi đâu cả, chàng thực là bất công.
Chính Lan mỉm cười:
- Nàng định đem cả Hạc nhi đi đánh nhau với Bạch Liên giáo hay sao?
Thục Nghi nhớ lại rằng mình còn vướng bận con thơ, thẹn thùng cúi mặt không ganh tỵ nữa.
Năm người bọn Chính Lan rời Vu Hồ vào buổi sáng. Đến bữa cơm chiều, Hỏa chân nhân hào hứng nói:
- Bần đạo suốt đời làm gì cũng hỏng, chỉ đắc ý duy nhất có một việc là đã chọn Chính Lan làm rể. Ngày ấy bị Chiêu Thống pháp sư bắt nhốt vào xe tù bọc đồng kín mít, tưởng chừng đã bỏ mạng, vậy mà trời xui đất khiến thế nào lại gặp hắn giữa đường.
Sơn Đông Tử Phòng biến sắc lẩm bẩm:
- Tù xa kín mít ư?
Lão run giọng bảo mọi người:
- Nếu xe tù kín đáo như vậy làm sao đệ tử Cái bang lại nhìn thấy Hách Thiết Xuyên?
Tiêu trang chủ cha của Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như là người làu thông binh pháp, hiểu ngay ý của Từ Kính Nhan. Ông giật mình nói:
- Chẳng lẽ đây là kế điệu hổ ly sơn của Bạch Liên giáo?
Cả nhà chết lặng, nhìn Sơn Đông Tử Phòng với ánh mắt dò hỏi. Từ Kính Nhan vuốt râu tư lự:
- Lão phu chỉ lo xa thế thôi chứ không chắc chắn lắm. Nhưng chẳng thà tin là có còn hơn không tin? Giả như Bạch Liên giáo cố tình để Cái bang nhìn thấy Hách Thiết Xuyên, dụ chúng ta đến cứu, thì sẽ có hai trường hợp xảy ra. Một là chúng sẽ mai phục dọc đường, hoặc ở Hồng Trạch hồ. Hai là chúng sẽ đánh úp căn cứ này.
Thương trường cũng như chiến trường, Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt đã nhiều năm lăn lộn, cạnh tranh, đầu óc chẳng phải tầm thường, lão cười nhạt bảo:
- Thế thì, một mặt chúng ta cho người đi hỗ trợ Chính Lan, một mặt gài bẫy ở đây.
Hỏa chân nhân rầu rĩ nói:
- Chúng ta chẳng có đủ cao thủ để chia làm hai cánh.
Chợt có người vào báo:
- Bẩm lão gia, trạm canh ở bờ hồ báo về rằng Hán Trung Tam Ngốc và một gã khổng lồ, xin vào bái kiến ngũ phu nhân.
Liễu Thi Mạn bẽn lẽn nói:
- Chết thật, ta quên khuấy mất bốn gã ngốc này, bỏ chúng lại Cửu Hoa sơn.
Hỏa chân nhân mừng rỡ bảo hán tử:
- Mau cho thuyền rước họ vào đây.
Mấy khắc sau, Âu Dương Tiểu Ngưu và Hán Trung Tam Ngốc vào đến. Đại ngốc nói oang oang:
- Nghe tin các đại tẩu đã được cứu thoát khỏi cảnh lao lung. Lô bang chủ liền giải tán Hồng Điểm hội. Bọn tiểu đệ vội tìm đến đây.
Thi Mạn vui vẻ giới thiệu mọi người với Tiểu Ngưu. Gã khổng lồ này kính cẩn bái kiến, nhưng vẻ mặt buồn vời vợi. Tiểu Ngưu nghiêm giọng:
- Xin các đại tẩu cho tiểu đệ vào thắp hương cúng đại ca.
Du Mỹ Kỳ cười khúc khích:
- Làm gì có bàn thờ mà cúng với tế?
Tiểu Ngưu đứng phắt dậy, gầm lên:
- Ta thấy các vị góa chồng mà mặt tươi như hoa nở, phấn son lòe loẹt, lòng này đã không vui. Nay cả bàn thờ cũng chẳng có thì quá lắm rồi. Tiểu Ngưu thật đau lòng cho hương hồn đại ca.
Nhị ngốc Hồ Giả cũng nói:
- Cổ nhân dạy rằng “tối độc phụ nhân tâm” quả thực chẳng sai. Anh em tại hạ xin phép cáo từ.
Gương mặt đau khổ của mấy gã ngốc kia khiến cả nhà phá ra cười nắc nẻ. Nhưng có một người không cười mà lại đùng đùng nổi giận, đó là Trường An đại mỹ nhân Chu Thục Nghi. Nàng chỉ mặt chúng mà mắng rằng:
- Ai cho phép bọn hồ đồ các ngươi mỉa mai, xỉa xói bọn ta? Cái gì mà phấn son lòe loẹt với lòng dạ đàn bà. Để chờ tướng công về đến ta sẽ bảo chàng đánh đòn bọn ngươi.
Tin Chính Lan còn sống được giấu kỹ nên bốn gã ngốc này không biết. Chúng ngơ ngác nhìn mọi người. Hỏa chân nhân thấy tội nghiệp, cười bảo:
- Chính Lan còn sống và đã cải trang thành Báo Ứng Lang Quân.
* * *
Nhắc lại, bọn Chính Lan rời Vu Hồ, đi về hướng đông bắc để đến Hồng Trạch hồ. Bạch Liên giáo phát triển rất nhanh, tín đồ lên đến hàng mấy vạn. Vì thế, cao thủ cũng đông đảo. Bọn Chính Lan không dám sơ suất, cải trang thành khách thương hồ, hòa lẫn với dòng người trên đường quan đạo mà đi.
Nhưng khi họ rẽ phải thì chỉ còn lại một mình. Số thương khách kia tiếp tục ngược bắc chứ chẳng đến Hồng Trạch hồ làm gì cả!
Tích Giang là vùng đất duyên hải, cỏ cây xanh tốt, khí hậu ôn hòa nên cảnh trời thu không đến nỗi thê lương, ảm đạm như phương bắc. Ngô đồng bắt đầu rụng lá, hàng phong cũng lắc đác đổi sắc đỏ hồng. Ba vị hộ pháp Hỏa giáo suốt đời sống ở đất Tây Vực lạnh giá, hoang vu, nay hoan hỉ nói cười. Chỉ trỏ, tán dương phong cảnh dọc đường. Râu tóc của họ đã được nhuộm đen, nhưng da mặt vẫn hồng hào như say rượu.
Chiều hôm sau, năm người còn cách mục tiêu chừng sáu chục dặm. Trước mặt họ, đường quan đạo vươn cao, men theo sườn ngọn núi Đan sơn.
Tây Môn Tố Bình thấy địa thế ấy, nhớ đến đèo Vân Mộng sơn, rùng mình bảo:
- Tướng công, nếu Bạch Liên giáo đặt phục binh trên đèo thì sao? Thiếp sợ lắm.
Chính Lan gật đầu, dừng cương, ngắm nhìn hiểm địa. Dưới ánh tà dương, rừng phong non trên sườn núi cạnh đèo trông diễm lệ và hiền hòa biết mấy. Nhưng những tảng đá khổng lồ nằm cheo leo trên đỉnh vách khiến chàng nảy sinh cảm giác bất an. Chính Lan nhủ thầm: “Việc mình nhận được thư của Cái bang và đi Hồng Trạch hồ hoàn toàn bí mật, lẽ nào đối phương lại biết được mà đặt mai phục?”
Tuy nhiên, Tiểu Linh Thố đã nói tiếp:
- Đường đèo dốc đứng, lên đến đỉnh thì trời cũng đã sẩm tối, hay là chúng ta nghỉ lại nơi này, chờ sáng khởi hành cũng được.
Chính Lan nhìn ánh mắt nặng trĩu ưu tư của ái thê, không nỡ từ chối. Chàng gật đầu, nhìn quanh rồi bảo:
- Vậy chúng ta quay lại tòa miếu Sơn Thần.
Trước khi đến chân đèo, bọn chàng đã đi qua một ngôi miếu, nằm trong cánh rừng mé hữu. Năm người quay ngựa, đi ngược lại hai dặm, rẽ vào rừng.
Tòa cổ miếu này tuy bị bỏ phế nhưng chưa đến nỗi điêu tàn, mái ngói, vách gỗ cửa nẻo vẫn nguyên vẹn. Tiểu Linh Thố vui vẻ bảo:
- Phiền ba vị sư thúc vào rừng kiếm ít dã vị, điệt nữ và tướng công lo việc quét dọn.
Ba lão hí hứng đi ngay. Việc săn thú rừng cũng là dịp để họ nô đùa, nghịch ngợm. Tố Bình nhìn theo dáng đi nhún nhảy của họ, mỉm cười:
- Ba người này tuổi đã sáu mươi mà tính tình như trẻ thơ vậy.
Ăn uống xong, năm người trò chuyện đến khuya mới ngủ. Như chúng ta đã biết, Chính Lan luyện Qui Tức Bảo Tâm đại pháp nên rất tỉnh ngủ. Giữa canh tư, chàng giật mình ngồi dậy vì phát hiện tiếng chân người, liền báo động cho Tố Bình và ba lão họ Bạch. Họ mau chóng rời cổ miếu, tung mình lên những tàn cây gần đấy chờ đợi.
Lát sau, phe đối phương đã đến nơi. Nhưng khi còn cách hai trượng, chúng chĩa những ống đồng dài về phía tòa miếu cổ và nhất tề khai hỏa. Những luồng lửa đỏ rực đan lưới chụp lấy mục tiêu, trong chớp mắt đã đốt cháy lớp vách gỗ. Khiến miếu lâm thần bốc cháy ngùn ngụn. Ba mươi hán tử trút hết số dầu trong hỏa đồng, đắc ý đứng nhìn kết qủa. Ánh lửa rực rỡ soi rõ dung mạo của một lão già cao lớn, đang đứng phía sau, đó là Miêu Ưng Lão Tổ Phương Kỳ Du. Năm con ngựa cột gần đấy sợ hãi hí vang mà chẳng có ai trong miếu xông ra. Lão Tổ dày dạn kinh nghiệm, biết ngay có quái sự. Lão nghiến răng quát vang:
- Rút lui!
Nhưng có năm bóng người đã từ những tàn cây lao xuống. Người tấn công Miêu Ưng Lão Tổ là Chính Lan. Chàng dồn hết công lực vào chiêu Hải Thượng Hàng Long, quyết lấy mạng đối phương. Nhưng do chàng phải vượt qua khoảng cách hai trượng nên lão ma có đủ thời gian ứng phó. Lão cử song thủ, vỗ liền bốn chưởng đỡ đòn. Chưởng kình chạm nhau nổ ì ầm, song phương dội ra.
Phần Tiểu Linh Thố và ba lão hộ pháp tấn công bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Chúng đã buông ống đồng, rút đao chống cự. Nhưng những luồng chưởng phong nóng rực của tuyệt kỹ Thiên Hỏa Chiếu Vân đã thiêu đốt cơ thể bọn chúng. Ba lão họ Bạch thấy đối phương dám dùng hỏa khí hại mình, động nộ tàn sát không thương tiếc. Tố Bình cũng múa tít trường kiếm đâm chém chẳng nương tay. Hỏa chân nhân đã hết lòng tài bồi cho ái nữ, nên bản lĩnh nàng cao cường nhất trong đám thê thiếp của Chính Lan.
Bên kia, Chính Lan đã dở pho Cuồng Lãng thần chưởng, đánh cho Miêu Ưng Lão Tổ thất điên bát đảo. Lão trúng ba chưởng, máu miệng rỉ ra ướt cả hoàng bào.
Bỗng một tên giáo đồ rút còi sắt thổi mạnh. Tiếng còi cầu viện cao vút, xé tan màn đêm. Chính Lan kinh hãi, không dám kéo dài cuộc chiến nữa. Chàng xuất chiêu Nguyệt Ảnh Thu Phong. Vỗ liền bốn mươi chín đạo chưởng kình. Miêu Ưng Lão Tổ cắn răng tiếp chiêu, nhưng chỉ được ba mươi bảy chưởng đã kiệt lực. Đúng lúc ấy, Hỏa Ưng lao như mũi tên bay thẳng vào mặt Chính Lan để cứu nguy cho chủ nhân.
Chàng không còn cách nào khác, đành vung chưởng đánh văng linh điểu, nhưng vẫn không dừng bước tiến. Tuy nhiên, trong sát na ngắn ngủi ấy, Lão Tổ cũng đã kịp hít một hơi chân khí, có sức mà chống đỡ. Lão thoát chết nhưng máu miệng trào ra như suối, nhảy lùi hơn trượng.
Chính Lan giận dữ quát vang, định lao theo. Nhưng chàng phát hiện tiếng vó ngựa rầm rộ khua động đêm trường, chứng tỏ viện binh rất đông đảo. Chàng lo cho Tố Bình nên bỏ mặc Miêu Ưng Lão Tổ đào tẩu, lướt về phía nàng, vung chưởng đánh chết liền hai tên, và đốc thúc bốn người rút lui.
Họ chạy sâu vào cánh rừng, chẳng mấy chốc đã mất dạng. Nhãn lực Chính Lan rất tinh tường, rút kiếm chặt phăng gai góc, dẫn Tố Bình và ba lão họ Bạch đào thoát.
Mấy khắc sau, thấy phe đối phương không truy sát, năm người dừng chân, trèo lên một cây cổ thụ cao vút nghỉ ngơi. Lục hộ pháp Bạch Quí cười khanh khách:
- Cũng may mà Âu Dương hiền điệt kịp thời phát hiện, nếu không chúng ta thành heo quay cả rồi.
Ngũ hộ pháp Bạch Trung cau có bảo:
- Chúng ta là người của Hỏa giáo mà bị chết vì lửa thì còn ra thể thống gì nữa. Nghĩ lại càng thêm tức, không hiểu Bạch Liên giáo lấy đâu ra loại hỏa khí ấy?
Chính Lan suy nghĩ rồi đáp:
- Từ thời Bắc Tống, ở Biện Kinh đã có một bộ phận quân khí tên gọi Mãnh Hỏa Du Tác, chuyên chế tạo những hỏa đồng phun lửa, dùng nguyên liệu là dầu mỏ. Triều đại nhà Minh vẫn duy trì bộ phận ấy. Nhưng sau khi mua được súng thần công của người Bồ Đào Nha, việc chế tạo hỏa đồng không được coi trọng nữa. Có lẽ Bạch Liên giáo đã đánh cắp từ kho quân khí, hoặc mua lại của bọn tham quan trong bộ binh.
Tố Bình thỏ thẻ:
- Tướng công, xem ra chúng ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn của Bạch Liên giáo rồi, chàng tính sao đây.
Chính Lan tư lự bảo:
- Ta cũng biết như vậy. Nhưng đường về chắc chắn đã bị đối phương chặn đứt, trở lại còn nguy hiểm hơn tiến lên. Hơn nữa, khu rừng này không rộng lắm, chỉ sợ sáng mai là đại quân vây chặt, muốn thoát ra cũng khó.
Nói xong, chàng trèo tuốt lên ngọn cây, quan sát tứ phía, thở dài khi thấy những ánh đuốc chập chờn. Chính Lan trở xuống nói:
- Chúng ta phải đi ngay trước khi đối phương khép kín vòng vây. Cứ đi về hướng đông, đến được Đại Vận hà rồi sẽ tính sau.
Năm người mau chóng khởi hành, chẳng dám diên trì. Khu rừng này đa số là cây phong nên thay lá khi vào thu. Vì vậy, khắp nơi trải đầy lớp lá khô vàng, gãy vụn dưới gót chân bọn Chính Lan. Một ý niệm thoáng lóe lên, chàng liền thúc giục:
- Mọi người nhanh chân lên.
Chàng cũng tăng tốc lực, trường kiếm vun vút mở lối. Nhờ vậy, khi họ rời khỏi bìa rừng phía đông, vượt qua khoảng cỏ rộng, thì quân của Bạch Liên giáo mới kéo đến. Chúng dàn hàng ngang, chờ đợi. Chỉ riêng hướng này đã có hơn trăm tên, chứng tỏ quân số Bạch Liên giáo bao vây khu rừng kia rất đông đảo. Bọn Chính Lan dừng lại, nấp sau bụi rậm rạp nghỉ ngơi và quan sát.
Lát sau, họ nghe tiếng còi sắt vang lên, và bọn giáo đồ Bạch Liên giáo nhất tề châm lửa. Ở đây tuy ngược gió nhưng lửa vẫn lan đi theo thảm cỏ khô. Chỉ có hướng tây là sức lửa mãnh liệt nhất, nhờ ngọn thu phong.
Tiểu Linh Thố tròn mắt nhìn cánh rừng đấy khói lửa, xiết chặt tay phu tướng. Tứ hộ pháp Bạch Tuân thở phào:
- Âu Dương hiền điệt quả là người cơ trí, hai lần thoát chết cháy trong gang tấc.
Chính Lan điềm đạm bảo:
- Chúng ta đi thôi.
* * *
Chiều hôm sau, bọn Hỏa chân nhân đến nơi thì quân Bạch Liên giáo đã rút hết, và cánh rừng dưới chân đèo Đan sơn cũng chỉ còn trơ những thân cây đen nám, ẩn hiện trong làn khói mịt mù. Liễu Thi Mạn biến sắc hỏi:
- Lão gia, chẳng lẽ Bạch Liên giáo đã dùng hỏa công để thiêu chết tướng công rồi?
Tây Môn Nhỉ vội trấn an:
- Khoan vội kết luận, chờ ta hỏi thăm thử xem sao?
Lúc này, ở vệ đường có một đám lương dân đang tụ tập, nhìn cánh rừng mà rầu rĩ. Họ là những tiều phu, thường vào đây chặt củi, đổi gạo, nay rừng cháy rụi, biết lấy gì làm sinh kế?
Hỏa chân nhân xuống ngựa, bước đến hỏi họ:
- Chư vị có biết vì sao cánh rừng lại bốc cháy hay không?
Một lão già vạm vỡ buồn rầu đáp:
- Đêm qua, khu vực này bỗng xuất hiện mấy trăm kỵ mã, vó ngựa khua vang, khiến tiểu đệ không ngủ được, chạy ra xem thử. Nhờ vậy mới thấy họ vây kín khu rừng này và phun lửa đốt.
Tây Môn lão gia chết điếng người, quên cả cảm ơn, quay lại với đoàn nhân mã. Họ gồm có tám người, cải trang thành một đoàn Sơn Đông mãi võ, mang theo một xe chiêng trống, đạo cụ. Nghe Hỏa chân nhân thuật lại, Thi Mạn bật khóc nức nở, những người kia thì cúi mặt. Nhưng Hồng Nhị Điểm đại hiệp Âu Dương Tiểu Ngưu lại thản nhiên nói oang oang:
- Ngũ đại tẩu quả là mau nước mắt. Đại ca rơi xuống vực thẳm còn không chết, lẽ nào lại bỏ mạng vì lửa đỏ? Gia sư từng kể rằng tấm áo khoác của Báo Ứng Lang Quân không hề sợ lửa, mở rộng ra che kín được hai ba người. Họ mà thoát ra thì ai mà cản nổi.
Hỏa chân nhân mừng rỡ khen:
- Không ngờ một gã ngốc như ngươi mà cũng có lúc sáng suốt. Chúng ta thử đến phía đông khu rừng xem thử có dấu vết gì không?
Thực ra, vì chân nhân quá lo lắng cho Chính Lan nên quên khuấy mất tấm áo choàng bằng tơ Hắc Tằm. Bảo vật này không chống nổi đao kiếm nhưng kỵ lửa thì tuyệt vời.
Cuối cùng, họ phát hiện sau một bụi rậm cách khu rừng hai chục trượng, có dấu chân của năm người. Cả bọn hân hoan, bỏ cả xe song mã lại, đuổi theo dấu vết bọn Chính Lan.
Trong lúc ấy, phu thê Chính Lan và ba lão già họ Bạch đã có mặt tại một khách điếm cạnh hồ Cao Bảo. Cũng may, trong trận hỏa thiêu miếu lâm thần, Tố Bình kịp khoác tay nải vào vai nên tiền bạc, y phục của nàng và dụng cụ hóa trang vẫn đấy đủ.
Hồ Cao Bảo thông với Hồng Trạch hồ bằng Đại Vận hà. Từ đây, bọn Chính Lan có thể đón thuyền xuôi nam một cách an toàn. Nhưng Chính Lan quyết tâm cứu cho được bằng hữu, nên tiếp tục đi lên phía bắc. Chàng nghiêm giọng bảo Tố Bình:
- Ta vì nghĩa bằng hữu nên không thể bỏ mặc Thiết Xuyên được. Nương tử và tam vị sư thúc cứ trở về Vu Hồ trước đi.
Tố Bình nhất quyết đòi theo:
- Thiếp thà chết chung với tướng công chứ chẳng thể yên tâm về nhà chờ đợi được.
Chính Lan cảm động bảo:
- Thôi được, nhưng nàng phải ở yên trên thuyền, không được theo vào hổ huyệt.
Tố Bình đồng ý, cùng trượng phu bàn bạc kế hoạch hành động. Năm người rời khách điếm, ra bến đò đón khách đi Hồng Trạch hồ, sáng hôm sau đã đến nơi. Bờ đông của hồ có một khu chợ rất sầm uất. Ngoài tôm cá còn có những mặt hàng của người tây dương từ bờ biển đưa vào. Do đó, nơi này cực kỳ phồn vinh, tấp nập, quán xá, lâu điếm nhiều vô số kể. Bạch Liên giáo cũng có tai mắt ở đây, nhưng chẳng thể nào giám sát được hết khách vãng lai.
Bọn Chính Lan chia làm hai nhòm, lần lượt vào khách điếm mướn phòng. Chính Lan tìm đến xóm chài, hỏi mua một chiếc thuyền câu. Đếm ấy, năm người lên thuyền, chèo về hướng tây. Mặt hồ giờ đây lung linh hàng trăm ngọn đèn của đám dân chài, nên chẳng ai nghi ngờ gì cả.Trọng địa của bọn thủy tặc Hồng Trạch hồ, cũng là sào huyệt của Bạch Liên giáo, nằm ở phía tây nam của hồ. Những kiến trúc chính đều nằm cả trên bờ, còn dưới nước là bến đậu thuyền bè. Bến này được vây quanh bởi một hàng rào gồm những thân cây dài, cắm thẳng xuống đáy hồ, ló khỏi mặt nước hơn trượng.
Và trên đầu vòng rào ấy, cứ cách ba trượng là một chòi canh bằng gỗ. Khoảng cách giữa các thân cây hẹp đến nỗi đầu người không qua lọt. Lại có một đoàn thuyền thân dài, qua lại tuần tra, đuổi những thuyền câu nào vô tình lạc vào phạm vi năm chục trượng.
Đêm đến, hàng trăm ngọn đuốc dầu mỏ được thắp lên, soi sáng cả một vùng nước quanh thủy trại. Với cách phòng thủ nghiêm mật ấy, khó có ai vào được bằng đường thủy. Thuyền của bọn Chính Lan lảng vảng ở khoảng cách cho phép, quan sát tình hình thủy trại. Ba lão hộ pháp Hỏa giáo phải nấp trong mui thuyền, chẳng dám ló mặt ra. Thường thì mỗi thuyền câu chỉ có tối đa là hai người.
Chính Lan dặn dò Tố Bình cùng ba người kia rồi trườn xuống nước. Chàng có ống sậy trong người nhưng không sử dụng, mà lặn một hơi đến tận chân hàng rào. Khả năng kỳ diệu này là kết quả của mười mấy năm trời rèn luyện Qui Tức Bảo Tâm đại pháp. Trừ chàng ra, khó có người thứ hai làm được như vậy.
Đến nơi, Chính Lan nhẹ nhàng trồi lên, đổi hơi hụp xuống ngay. Chàng rút tiểu kiếm cắt một đoạn thân cây, tạo thành lỗ hổng vừa một người chui qua. Chàng cẩn thận lặn xuống tận đáy hồ, cắm khúc gỗ vừa cắt ra, vì sợ nó nổi lên gây sự nghi ngờ.
Sau đó, Chính Lan luồn qua hàng rào, và trồi lên giữa những chiếc thuyền đậu bên trong. Chàng len lỏi bơi về phía bờ hồ. Hơn khắc sau đã có mặt trong vườn hoa phía tả tòa đại sảnh. Chính Lan chui vào giữa những bụi cây rậm rạp, ngồi vận công cho cơ thể nóng lên. Chờ y phục bớt ẩm ướt, chàng lướt nhanh vào trong. Khu vực này được vây quanh bằng bức tường dày, cao hơn trượng, trên đỉnh có sàn gỗ để bọn võ sĩ đi lại tuần tra. Còn phía ngoài tường là một hào nước rộng bốn trượng, dưới thả hàng trăm con cá sấu Trường giang. Đấy là lý do vì sao Chính Lan phải vào bằng đường bến thuyền.
Chàng thận trọng nương theo từng bụi cây, từng góc nhà, luồn lách khắp nơi, cố tìm cho ra chỗ giam giữ Thiết Xuyên. Cuối cùng, chàng nhìn thấy một tòa nhà kiên cố, cửa bằng gỗ dày đai sắt, có hai giáo đồ áo xanh đứng gác.
Dưới ánh đuốc chập chờn, chúng nghiêm trang, bất động như hai pho tượng. Đây là công trình bền chắc nhất trong thủy trại, có thể là nhà lao. Chính Lan đoán vậy nên bò đến nấp sau hàng rào. Vị trí này chỉ cách hai hán tử áo xanh chừng trượng rưỡi. Không thấy toán tuần tra nào cả Chính Lan vững bụng xuất thủ. Chàng rút tiểu kiếm, vận toàn lực bay về phía cửa nhà lao, trong chớp mắt đã chặt phăng thủ cấp của một tên và xạ đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng xuyên thủng tim tên thứ hai.Chàng đỡ cho hai tử thi nằm xuống một cách êm ái, rồi lục túi chúng tìm chìa khoá. May thay nó nằm ở thắt lưng của một trong hai gã. Chính Lan mở khoá, lách vào. Không gian tối đen như mực, chàng phải bật hỏa tập soi đường.
Chung quanh vách là những ổ rơm dày và có người nằm phục trên ấy. Riêng Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên thì bị trói đứng vào một chiếc cột gần vách cuối của tòa thạch lao. Chàng mừng rỡ lướt đến định cắt đứt dây trói, đưa họ Hách ra ngoài.
Chàng thò tay vào mũi Thiết Xuyên, kinh hãi nhận ra gã đã tuyệt khí. Trong cơn đau đớn, phẫn nộ, tai chàng bỗng nghe tiếng hỏa tập bật lách cách. Âm thanh này Chính Lan đã được nghe khi bọn Bạch Liên giáo dùng hỏa đồng thiêu hủy miếu lâm thần ở chân đèo Đan sơn. Sau mấy lần suýt chết, bản năng sinh tồn của Chính Lan càng thêm mạnh mẽ, chàng phản ứng rất thần tốc, dù lòng chưa kịp nghĩ đến.
Thân hình Chính Lan bốc thẳng lên không trung như chiếc pháo thăng thiên. Kịp thời thoát khỏi lưới lửa của mười cây hỏa đồng. Thì ra bọn tù nhân nằm quanh đấy lại là người của Bạch Liên giáo giả mạo.
Thân hình Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên bốc cháy ngùn ngụt. Nhưng gã đã chết từ lâu nên không còn cảm thấy đau đớn nữa.
Chính Lan bay lên đến nóc thạch lao, vung chưởng đánh thủng mái ngói, lao thẳng ra ngoài. Nếu không có công lực thâm hậu và khinh công quán thế, chàng đã bỏ mạng bởi mười cây hỏa đồng lợi hại kia. Khi đột nhập thủy trại bằng đường thuỷ, chàng đã phải bỏ lại áo choàng Tỵ Hỏa Bảo Y trên thuyền.
Lúc này, toàn thủy trại sáng rực đèn đuốc, tiếng reo hò như ong vỡ tổ, mấy trăm giáo đồ Bạch Liên giáo đã vây chặt thạch lao, giương cung chờ đợi.
Trước khi phe đối phương nhận ra chàng trên nóc nhà, Chính Lan đã vận toàn lực nhảy xuống đầu bọn cung thủ ở mặt trước thạch lao. Chiêu Thủy Thượng Hoa Phi gồm ba mươi sáu thức chưởng mãnh liệt, giết liền tám tên giáo đồ Bạch Liên.
Chính Lan hạ thân, lao vào hàng ngũ cung thủ mà tàn sát. Lúc này cung tên đã trở thành vô dụng, chúng rút đao chống cự. Chính Lan nghiến răng đem bảy mươi hai chiêu cận chiến trong pho Cuồng Lãng thần chưởng mở đường máu, chạy về phía cửa trước thủy trại. Chỉ cần lao được xuống nước là chàng sẽ thoát nạn.
Thân hình chàng lướt đi như cơn bão, quyền cước liên tục tung ra những đòn mãnh liệt và chuẩn xác. Đám giáo đồ Bạch Liên liều chết cản đường, bị đánh văng lông lốc, rên la thảm thiết. Chính Lan vừa ra đến phía sau tòa đại sảnh bằng gỗ thì chạm trán cường địch. Đó là bảy lão tống hôn sứ giả Đào Hoa cung. Họ bày kiếm trận, để chặn đường Báo Ứng Lang Quân. Bảy lão lùn kia chưa gặp chàng lần nào, nhưng chàng thì đã gặp mười bốn vị sứ giả khác, nên chẳng lạ gì kiếm trận. Đấy là lợi thế của chàng. Chính Lan bốc thẳng lên không giáng liền bốn chưởng vào trận thế.
Chàng không tấn công đối phương mà lại đánh vào những phương vị họ sắp di chuyển đến. Cổ nhân có câu “tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng,” áp dụng vào trường hợp này càng chí lý. Bốn lão sứ giả nhỏ bé kia trúng đòn ngã gục.
Ba lão còn lại căm hận xông vào, tiểu kiếm trên tay họ loang loáng dưới ánh đuốc, chứa đầy sát khí. Tuy hung hăng như vậy nhưng trông họ như những đứa trẻ đang giận dữ. Thế mà trong ba mươi năm qua, những con người nhỏ bé này đã giết hàng trăm người để bắt mỹ nhân về cho cung chủ. Vì vậy, Chính Lan chẳng thể nương tay được. Chàng xuất chiêu Đông Hải Phù Lâu, chưởng ảnh mờ mờ, chưởng kình cuồn cuộn như sóng biển ập vào cơ thể lão lùn trước mặt. Lão ta vẫn kiên cường lao đến, như không biết sợ chết là gì.
Hai lão kia chia nhau tấn công tả hữu, gài thế đồng qui ư tận. Tuy nhiên, gặp phải đối thủ có khinh công quá cao cường, đấu pháp ấy hoàn toàn phá sản. Thân hình Chính Lan bốc lên thêm vài thước, tránh thoát đòn hợp công, và tiếp tục lao đến phía trước. Ba đạo chưởng phong cuối cùng của chiêu Đông Hải Phù Lâu đã giáng vào cơ thể lão sứ giả trước mặt, đẩy văng xa hai trượng.
Chính Lan không quay lại mà tiến thẳng lên, tìm đường thoát thân. Nhưng số đối phương quá đông, chàng không thể cầm cự mãi được. Lại thêm có bốn tên giáo đồ Bạch Liên bỏ mạng, và trên cao có tiếng quát:
- Báo Ứng Lang Quân, ngươi còn mong đào tẩu nữa không?
Chàng ngước lên, thấy Miêu Ưng Lão Tổ, cùng hai lão già đầu hói, đứng trên lan can lầu. Lão ta bị chàng đánh trọng thương, chắc chưa thể tái chiến được. Nhưng hai lão kia là ai mà cũng mặc áo vàng, thắt lưng bạc như phó giáo chủ.
Chính Lan chẳng còn thời gian suy nghĩ thêm, tiếp tục mở đường máu. Chàng còn cách bến thuyền đến hơn hai mươi trượng nữa.
Chợt vòng vây phía trước dãn ra, nhường đường cho hai gã khổng lồ. Chúng cao lớn chẳng kém gì Âu Dương Tiểu Ngưu, tay cầm ngũ mang chùy nặng năm mươi cân, trông rất uy mãnh. Gai chùy lại lóng lánh sắc xanh của chất độc. Tóc chúng không búi mà như bết lại quanh đầu.
Chính Lan xuất thủ ngay để chiếm tiên cơ. Chiêu Lãng Đả Quần Thạch giáng vào ngực hai đối thủ, nhưng chỉ đẩy chúng lùi vài bước chứ không đả thương được. Chàng kinh hãi đoán rằng dưới bộ y phục bằng vải kia là một lớp giáp kiên cố. Hai quái nhân gầm gừ, vung chùy lao đến, bộ pháp nhanh nhẹn và chiêu thức cũng cực kỳ hiểm độc.
Chính Lan vội thi triển pho Ngự Phong Thân Pháp, liên tục bốc cao, giáng chưởng vào đầu bọn chúng. Nhưng dường như hai chiếc thủ cấp kia có phủ một lớp gì đó bên ngoài mái tóc, nên chưởng kình không đánh vỡ đầu chúng được.Chính Lan biết rằng không còn có thể giấu diếm lai lịch được nữa, xuất chiêu Vân Vụ Mãn Thiên. Chưởng ảnh trùng trùng ẩn hiện, tạo thành đám mây mù vây chặt cả hai gã quái dị kia. Chúng chẳng hề sợ hãi, vẫn múa chùy xông đến. Hai đạo chưởng kình không mạnh lắm vỗ vào ngực, chỉ đủ làm cho chúng khựng lại. Nhưng từ trong đám mây chưởng ảnh lại có hai ánh hồng bay ra như tia chớp xạ thẳng vào mắt chúng.
Mắt là nhược điểm muôn đời của người học võ, dẫu có luyện thành Kim Cương Bất Hoại cũng vậy thôi. Hai quái nhân ôm mặt rú lên thảm thiết, ngã ngửa ra mặt đất, lăn lộn, co giật một hồi mới chịu chết.
Miêu Ưng Lão Tổ kinh hoàng thét lên:
- Té ra ngươi là Hồng Nhất Điểm.
Chính Lan chẳng còn úy kỵ gì nữa, bật cười vang dội:
- Đúng vậy, chính là ta đây.
Hai lão hói đầu đứng cạnh Lão Tổ liền hú lên cao vút, và tám gã quái nhân nữa chạy đến. Chính Lan thở dài, biết đêm nay lành ít dữ nhiều. Công lực chàng đã hao tổn trầm trọng, khó mà tiếp tục chấp nhận cách xa luân chiến này nữa. Chàng suy nghĩ rất nhanh, không xông đến bọn quái nhân mà lao về phía hữu, vung chưởng đánh thủng vách gỗ tòa mộc lâu, chui luôn vào đấy.
Chính Lan chụp chiếc đèn tọa đăng ném mạnh vào những bức màn trướng bằng tre, rồi đánh thủng vách đối diện thoát ra ngay. Lực lượng Bạch Liên giáo đã dồn cả về phía bên kia Mộc Lâu nên bên này rất ít người. Dĩ nhiên chúng chẳng thể nào cản nổi bước tiến của đại sát tinh Hồng Nhất Điểm. Chính Lan không ham chém giết mà chạy khắp thủy trại, châm lửa đốt những căn nhà bằng gỗ.
Năm nay tiết trời khô hạn, đã vào thu mà chỉ lác đác vài trận mưa. Vì vậy, ngọn lửa bùng lên rất nhanh. Gần khắc sau, thủy trại biến thành một đám cháy khổng lồ.
Lúc này, trên mặt nước Hồng Trạch hồ lại phát sinh quái sự. Một chiếc bè chuối phủ đầy lục bình lờ lững trôi về phía hàng rào gỗ. Bọn phòng vệ đang quay cả về phía trong quan sát đám cháy nên không để ý đến. Chiếc bè vừa chạm chân rào thì phát nổ. Do chủ ý của người bố trí hỏa dược, toàn bộ sức công phá đều hướng vào phía trong, đánh sập hàng rào phá hủy hàng thuyền đậu bên ngoài.
Không chỉ có tiếng nổ kinh thiên động địa hay sức công phá mãnh liệt, mà còn kèm theo muôn ngàn tia lửa của pháo hoa, bao trùm một nửa bến thuyền. Tất nhiên những chiếc thuyền bốc cháy ngùn ngụt.
Và từ bóng đêm ngoài kia, ba chiếc thuyền con lao đến như tên bắn. Mười ba cao thủ nhảy lên những chiếc thuyền chưa kịp cháy, tiến vào trong. Trên đường đi, họ phóng tay chém giết, khí thế như chẻ tre. Đáng sợ nhất là tám đạo chưởng kình đỏ rực như lửa của bốn lão già râu đen. Sau đó đến cây thiết côn của gã khổng lồ.
Trước cảnh khói lửa ngập tràn thế này, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo chẳng còn chút dũng khí nào cả, đua nhau nhảy xuống nước đào tẩu.
Những người mới đến chính là bọn Hỏa chân nhân. Nhờ tài truy tung của Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều. Họ đã bám theo đúng dấu vết của Chính Lan. Họ Trịnh còn tìm ra cả nơi chàng mua thuyền câu, nhờ vậy mới biết Chính Lan đột nhập thủy trại bằng đường mặt nước. Bọn Hỏa chân nhân lập tức mướn hai chiếc thuyền, chèo đến sào huyệt đối phương. Lúc ấy, Tây Môn Tố Bình đang đứng trên mũi thuyền nhìn những ánh đuốc rực rỡ trong thủy trại mà bồi hồi lo lắng. Gặp được viện binh, nàng mừng như sống lại, hối thúc Tây Môn Nhỉ tìm cách cứu Chính Lan.
Sự tình là như thế, giờ đây chúng ta hãy trở lại với cuộc chiến.
Âu Dương Tiểu Ngưu vừa đặt chân lên bờ đã gọi vang:
- Đại ca, có Tiểu Ngưu đến tiếp viện đây.
Thi Mạn, Tố Bình cũng hét đến lạc giọng:
- Tướng công, tướng công.
Miêu Ưng Lão Tổ đã điều tám quái nhân ra đối phó với những kẻ địch mới đến. Còn hai lão già đầu hói chỉ huy cuộc truy sát Chính Lan. Họ biết rằng chàng sắp kiệt lực và đã trúng một mũi trường tiễn.
Miêu Ưng Lão Tổ căm thù Chính Lan đến tận xương, nên để mặc sào huyệt cháy rụi, đốc thúc thủ hạ bám theo chàng.
Đã mấy lần Chính Lan định vượt tường đào thoát, đều bị trận mưa tên cản lại. Chân khí suy giảm, chưởng kình không đủ sức đánh bạt trường tiễn, nên chàng thọ thương.
Lâm nguy bất loạn, Chính Lan lao thẳng về phía tây nam, nơi mà vẫn còn những công trình chưa bị đốt.
Lúc hai lão hói và hơn trăm quân chạy đến, ra sức lùng khắp nơi. Miêu Ưng Lão Tổ xuất hiện, quát vang:
- Đằng nào chúng ta cũng bỏ căn cứ này, hãy phun lửa đốt sạch khu vực, tất nhiên Hồng Nhất Điểm phải lòi ra.
Năm mươi cây hỏa đồng lập tức biến bảy tòa biệt viện thành đuốc lửa. Lúc này Chính Lan đang tĩnh dưỡng trên mái ngói tòa nhà cao nhất.
Chàng tranh thủ những giây phút hiếm hoi để uống linh đan và chăm sóc vết thương. Chính Lan sợ mất máu nên không dám rút mũi tên ở bắp tay trái ra, mà dùng tiểu kiếm chặt cụt đi. Nhưng đối với ba vết đao sau lưng, chàng chẳng thể với tới được.
Chờ lửa bốc lên đến mái, Chính Lan mới tung mình xuống đất, tiến về phía đối phương. Miêu Ưng Lão Tổ mừng rỡ nói:
- Hay lắm, đúng là cháy nhà ra mặt chuột, ngươi tận số rồi.
Chính Lan không để ý đến câu nói ấy mà bình thản hỏi:
- Hai lão hói đầu kia là ai vậy?
Lão tổ cười hăng hắc:
- Họ là Trung Ly song thần ở Hồ Bắc, ngươi không nhận ra sao?
Chính Lan khẽ chấn động:
- Té ra Ngô thị huynh đệ. Tại hạ nghe danh đã lâu, muốn thử vài chiêu có được chăng?
Nhất thần Ngô Hiển lạnh lùng đáp:
- Ngươi định kéo dài thời gian để chờ bọn Hỏa chân nhân vào cứu ngươi đấy ư? Làm sao họ vượt qua nổi đám Thạch Thể Thiết Chùy quái nhân của chúng ta?
Nhưng từ ngoài đã vọng vào ba tiếng nổ kinh hồn. Miêu Ưng Lão Tổ biến sắc bảo:
- Nhị vị còn chần chờ chi nữa mà không thanh toán Hồng Nhất Điểm cho xong đi? Với Đảo Thiên thần đạn thì chẳng ai cản nổi bước chân của Tây Môn lão quỉ đâu.
Chính Lan thầm thắc mắc không hiểu nhạc phụ mình lấy đâu ra hỏa khí. Khi chàng rời Vu Hồ thì lão cũng chưa bắt tay vào việc chế tạo.
Trung Ly song thần lo lắng cho đám quái nhân, bèn trút hận lên đầu Chính Lan. Hai lão vung cây thiết tiêu đen tuyền xông vào tấn công chàng. Bản lĩnh của họ không thua kém gì Miêu Ưng Lão Tổ nên khí thế cực kỳ mãnh liệt.
Chính Lan đã thọ thương nơi tay tả nên chẳng thể thi triển chưởng pháp, bèn dùng pho Thái Chân kiếm pháp mà đối phó. Tay trái chàng buông thõng chứ không bắt kiếm ấn, và máu từ vết thương nhuộm đỏ vai áo. Hiện tượng này khiến song thần hoan hỉ, vì chẳng còn sợ chàng sử dùng tuyệt kỹ Nhất Điểm Hồng.
Sáo dài, kiếm ngắn nên hai luồng sáo quang như phủ kín Chính Lan. Mảnh thép mỏng, nhọn và sắc cả hai bề, luôn hăm he đâm thủng ngực đối phương. Nhưng kiếm pháp vốn là sở trường của Chính Lan. Chàng ung dung dệt màn kiếm quang quanh thân, chống đỡ những đòn hiểm ác của song thần. Thiết tiêu chạm vào kiếm, ngân nga không dứt.
Đã gần trăm chiêu mà vẫn chưa hạ được chàng. Trung Ly nhất thần giận dữ rú lên như quỉ dữ. Đó cũng là ám hiệu để nhị thần cùng phối hợp đánh chiêu Song Long Thôn Ngọc. Hai cây trường tiêu hóa thành hai con rồng đen, vươn móng vuốt chụp vào cơ thể Chính Lan, cả trước lẫn sau.
Chân khí kiệt quệ, chẳng thể dùng khinh công tránh né, Chính Lan đành thi triển chiêu Tàn Phong Quyển Vũ. Thân hình chàng xoay tít như cơn gió xoáy, kiếm phong cuồn cuộn đánh bạt những mũi tiêu chết chóc. Nhưng lực bất tòng tâm, Chính Lan không đủ công lực để giữ cho mà kiếm ảnh liền lạc, kín đáo như mong muốn, trúng liền hai đòn vào lưng và ngực.
Vết thương ở phía sau rạch từ vai hữu xuống hông tả. Còn vết thương phía trước vắt ngay lồng ngực. Tuy chỉ cắt đứt da thịt nhưng máu tuôn xối xả. Song thần đắc ý nhìn thân thể rách nát, đẫm máu của đối phương mà bật cười ngạo nghễ.
Hai lão ác ma đả thương Chính Lan xong đã gian hoạt lùi lại ngay, và vẫn giữ vị trí tả hữu chứ không đứng chung. Họ cứ ngỡ Hồng Nhất Điểm đã trở thành cá nằm trên thớt, chờ hóa kiếp. Nào ngờ, Chính Lan lướt thẳng về phía nhất thần, xuất chiêu Mãn Không Tinh Hà, tạo ra làn mây hàn tinh lấp lánh.
Tất nhiên cước bộ chàng chậm chạp nên nhị thần đã ập đến sau lưng, trước khi chàng tiếp cận nhất thần Ngô Hiển. Ngô Hồng Châu mừng rỡ xuất chiêu Cửu Tiêu Đoạt Phách. Nhằm vào chín huyệt đạo từ gáy đến thắt lưng Chính Lan.
Tuy nhiên, khi mũi tiêu còn cách thân sau đối phương vài gang, lão bỗng nghe bụng dưới đau đớn khủng khiếp và chân khí tan biến cả. Nhị thần gào lên ghê rợn, ôm bụng quị xuống.
Thì ra Chính Lan đã dùng kế thanh đông kích tây, giả đò tấn công nhất thần nhưng lại nhắm vào nhị thần. Ưu thế của chàng là cánh tay tả dù thọ thương nhưng vẫn còn khả năng thi triển tuyệt kỹ Huyết Tuyến Điểm Hồng. Chàng chỉ cần chĩa ngón tay út về phía sau, chờ cơ hội xuất thủ. Bàn tay, cánh tay chàng hoàn toàn bất động, đối phương chẳng thể biết mà đề phòng.
Bí mật của tuyệt kỹ này luôn được giữ kín, nên nhị thần mới trúng kế.
Nhắc lại, nhất thần thấy bào đệ sắp đâm thủng lưng Chính Lan, phấn khởi múa hắc tiêu chống đỡ chiêu kiếm. Thấy kiếm ảnh mịt mù, hàn tinh giăng mắc, lão thầm e ngại nên thủ nhiều hơn công. Chỉ cần chặn đứng được chàng là nhị thần Ngô Hồng Châu sẽ thành công.
Nào ngờ em lão lại lăn ra chết đột ngột. Tiếng thét đau đớn của nhị thần khiến lão rúng động, đường tiêu chậm lại, và lộ ra sơ hở. Chính Lan là bậc thầy trong kiếm đạo, lập tức thọc kiếm vào đấy. Mũi kiếm của chàng đâm thủng sườn trái đối phương. Nhưng Ngô lão quỉ đã kịp vung tả thủ vỗ một chưởng vào ngay ngực Chính Lan, đẩy chàng văng xa gần trượng.Trúng đòn này Chính Lan hộc ra một vòi máu nóng, tay chân bải hoải.
Chẳng còn chút khí lực nào. Bằng ý chí của người hiệp sĩ, chàng cố gượng đứng lên.
Nhất thần tuy thọ thương nhưng công lực vẫn còn sung mãn. Lão lướt đến xem qua thi thể của nhị thần, thấy bào đệ đã tuyệt khí, đau đớn gầm lên:
- Hồng Nhất Điểm, lão phu sẽ bằm xác ngươi ra để trả thù cho nhị đệ.
Nhưng lão chưa kịp xuất thủ thì hai vật tròn tròn, lớn bằng trái bưởi đã rơi vào hàng ngũ bọn giáo đồ Bạch Liên, ở vòng ngoài đấu trường, và phát nổ vang trời. Dù chỉ giết được có vài tên nhưng cũng đủ dọa cho chúng chạy vắt giò lên cổ.
Đồng thời, có mười mấy bóng người lướt đến như tên bắn. Nhất thần thấy Miêu Ưng Lão Tổ cũng đã đào tẩu, hậm hực bỏ ý định sẽ giết Chính Lan, sợ chậm chân sẽ không thoát chết. Hơn nữa, lão cho rằng với vết chưởng thương kia, Hồng Nhất Điểm cũng khó sống. Nhất thần chụp lấy xác nhị thần phi thân mất dạng.
Bọn Hỏa chân nhân đến nơi thì Chính Lan đã quị ngã. Thi Mạn, Tố Bình ôm chàng than khóc, bị Hỏa chân nhân gạt ra:
- Mau tránh chỗ cho ta xem thử.
Ông nhét vào miệng chàng một nắm linh đan, và quát mọi người đi lấy nước. Lát sau, Âu Dương Tiểu Ngưu vác cả một lu sành về đến. Chân Nhân dở khóc dở cười:
- Ngươi định tắm cho Chính Lan hay sao vậy?
Tiểu Ngưu ngượng ngùng phân bua:
- Không vác cả lu thì lấy gì mà đựng?
Chân nhân lấy tiểu kiếm trong tay Chính Lan rạch nát y phục chàng ra.
Mọi người ứa lệ nhìn thấy những vết thương chằng chịt.

Hồi 14

Mạt lộ anh hùng hồi cố thổ
Lương sơn hoạ khởi bạch liên vong

Mười hai ngày sau, Chính Lan đã được đưa về Vu Hồ, và đến giữa tháng tám thì thương tích trên người đã kéo da non. Nhưng than ôi, chân khí của chàng không sao vượt qua nổi huyệt Đản Trung ở Mạch Nhâm. Hơn sáu mươi năm công lực đã trở thành vô dụng. Phát chưởng của Trung Ly nhất thần đã phong tỏa tâm mạch Chính Lan, biến chàng thành một phế nhân.
Nếu Chính Lan chưa từng được ăn nhánh thiên niên Hà Thủ Ô thì mạng chàng cũng chẳng còn. Hỏa chân nhân đã tận lực mà không sao chữa trị được cho rể quí. Lão buồn rầu than thở:
- Không ngờ lão quỉ họ Ngô kia lại luyện được công phu Triệt Mạch Thủ. Bần đạo đành phải bó tay, thật đáng thẹn vô cùng.
Chính Lan không những mất võ công mà còn yếu ớt hơn thường nhân, vì hơi thở đứt đoạn, lồng ngực đau nhói. Chàng cố giấu niền tuyệt vọng, an ủi chân nhân:
- Lão gia đã tận lực mà không thành công, ắt do mệnh trời định sẵn, hà tất phải băn khoăn? Tiểu tế cũng chẳng lưu luyến chốn võ lâm. Cần gì đến võ công nữa.
Ma Nhãn đầu đà vẫn ở Vu Hồ, con cháu đã về đến Mỹ Nhân cốc. Một là, lão hổ thẹn với con dâu về chuyện mười năm trước. Hai là, đầu đà muốn tung hoành cho thỏa chí tang bồng, bù đắp cho mấy chục năm ẩn cư. Ba là, Chính Lan đã cứu mạng cho con lão, lẽ nào lại bỏ mặc chàng trong hoàn cảnh mạt lộ?
Nhiếp Văn Sở mân mê chuỗi niệm châu, tư lự bảo:
- Theo lão phu được biết trong thiên hạ chỉ có một người duy nhất giải trừ được Triệt Mạch Thủ, đó là Tàn Diện Ma Thủ Tưởng Thụ Thành. Mười sáu năm trước lão ta đột nhiên biến mất, không hiểu còn sống hay đã chết?
Chính Lan nói ngay:
- Năm ấy họ Tưởng phân thây một nữ nhân ở Tứ Xuyên, bị tiên sư chặt đứt tay trái!
Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh thở dài:
- Thế thì có tìm ra lão ta cũng vô ích. Lan nhi là đồ đệ của Tú Sĩ, lẽ nào họ Tưởng lại chịu ra tay cứu mạng?
Không ai để ý rằng sắc mặt Âu Dương Tiểu Ngưu thoáng tái xanh.
Chính Lan không muốn mọi người thương tâm, vui vẻ bảo Tử Quỳnh:
- Nương tử hãy chuẩn bị một vài món bánh mứt để cả nhà uống trà thưởng trăng.
Tiết Trung Thu đã qua được hai hôm. Các mỹ nhân vì lo lắng cho bệnh tình của trượng phu nên quên cả lễ tết. Tử Quỳnh bẽn lẽn nói:
- Bọn thiếp sơ xuất, không mua bánh mứt gì cả, mong tướng công dùng đỡ rượu thịt.
Hỏa chân nhân cười ha hả:
- Rượu thịt càng tốt, ta rất sợ ngọt.
Mọi người ra vườn hoa, ăn uống trò chuyện đến tận cuối canh hai mới tan tiệc. Trại Tây Thi Du Mỹ Kỳ dìu chàng về phòng. Nàng định trở ra thì Chính Lan giữ lại. Chàng háo hức cởi áo mỹ nhân, gầy cuộc truy hoan.
Hơn tháng nay, Chính Lan không gần gũi thê thiếp nên Mỹ Kỳ hân hoan đáp ứng. Nhưng chỉ mới khởi sự, Chính Lan đã nghe tim đập mạnh, đầu óc choáng váng và khó thở. Chàng nằm phục trên cơ thể nóng bỏng, mời gọi kia mà ứa lệ. Chàng không còn là một hiệp khách và cũng không đủ sức để làm một nam nhân. Mĩ Kỳ cảm nhận được những giọt lệ anh hùng đang rơi trên ngực mình, liền xiết chặt phu tướng, dịu dàng an ủi:
- Tướng công mới khỏi bệnh nên chẳng thể bằng với lúc bình thường. Chàng chỉ tĩnh dưỡng một thời gian nữa là sẽ như xưa.
Chính Lan nằm xuống cạnh ái thê, nhắm mắt như muốn ngủ. Thực ra đang dìm mình trong nỗi thống khổ vô bờ.
Những ngày sau đó, Chính Lan chẳng còn nghĩ đến chuyện ôm ấp ai nữa. Chàng vẫn vui vẻ nói cười nhưng không giấu được ánh mắt thê lương. Ai cũng biết Chính Lan ngày càng gầy đi vì không còn ham sống nữa. Họ cũng cười với chàng nhưng sau lưng ôm mặt khóc ròng.
Sáng ngày cuối tháng tám, sáu mỹ nhân thức giấc, kéo đến chăm sóc phu tướng, thì thấy chàng không có trong phòng, và trên nệm giường có một mảnh hoa tiên, ghi mấy dòng chữ vụng về, thô kệch.
“Gia sư chính là Tàn Diện Ma Thủ. Tiểu đệ không nỡ nhìn đại ca chết dần mòn nên liều mạng đưa đến gặp gia sư. Nếu người chịu khai ân thì nửa năm sau đại ca sẽ lành lặn trở về. Bằng không, tiểu đệ cũng sẽ cõng quan tài đại ca về Vu Hồ. Chư vị đừng tìm kiếm uổng công. Gia sư không muốn ai biết địa điểm người ẩn cư. Chư vị theo đến chỉ hại cho đại ca mà thôi.
Tiểu Ngưu bái bút.”
Sáu nàng òa lên khóc lóc, nhưng Hỏa chân nhân lại mỉm cười:
- Phải mừng chứ sao lại khóc? Gã ngốc Tiểu Ngưu xem Chính Lan như bào huynh, tất sẽ hết lời van lạy Tàn Diện Ma Thủ cứu mạng. Lão họ Tưởng chỉ có mình Tiểu Ngưu là đồ đệ chân truyền, lẽ nào lại nỡ tuyệt tình.
Thi Mạn hớn hở bảo:
- Lão gia nói rất chí lý. Chúng ta chỉ cần cho người đi theo, âm thầm hộ vệ là đủ. Trước đây, Tiểu Ngưu có nói rằng gã học nghệ ở Hoành Đoạn sơn, chắc không sai đâu.
Giang Tây Thần Bộ nói ngay:
- Truy tung là nghề của tại hạ, xin chư vị yên tâm.
* * *
Thì ra, canh ba đêm ấy, Tiểu Ngưu vào phòng Âu Dương Chính Lan, điểm huyệt chàng, đặt tờ hoa tiên lên giường, rồi cõng đại ca rời khỏi Vu Hồ. Gã sinh trưởng bên hồ Côn Minh nên bơi giỏi như cá. Chẳng cần thuyền bè cũng đưa được Chính Lan vượt quãng đường hơn dặm mặt nước.
Lên đến bờ, Tiểu Ngưu cõng Chính Lan chạy một mạch tới sáng, rời xa Vu Hồ ba chục dặm. Gã dừng chân ở một đoạn bờ sông vắng vẻ, giải huyệt cho đại ca. Chính Lan mở mắt nhìn quanh ngạc nhiên hỏi:
- Sao ta lại ở đây?
Tiểu Ngưu đỡ chàng ngồi dậy rồi cười hì hì:
- Tiểu đệ muốn đưa đại ca về hồ Côn Minh thăm mộ song thân!
Chính Lan giật mình, nhớ ra rằng mình đã ba năm không về cố quận chăm sóc mộ phần. Chàng mỉm cười gật đầu:
- Nhị đệ nói phải, ta quả là đứa con bất hiếu. Nhưng sao ngươi không bàn với ta mà lại đi đột ngột thế này?
Tiểu Ngưu biện bạch:
- Nếu nói cho ra, chỉ sợ các đại tẩu chẳng cho đi, viện cớ đại ca đang bệnh hoạn. Nhưng tiểu đệ đã viết thư để lại, họ sẽ thông cảm thôi.
Chính Lan biết mình không sống được bao lâu nữa, cũng muốn thắp cho phụ mẫu nén hương cuối cùng. Chàng gạt bỏ ưu tư, vui vẻ bảo:
- Mặc kệ họ nghĩ sao cũng được, huynh đệ ta đi thôi.
Tiểu Ngưu đã kịp vơ vội y phục của Chính Lan nhét vào tay nải ở đầu giường, nên chàng có trường bào thay tấm áo ngủ. Chính Lan thấy có cả tiểu kiếm, tấm đồng bài, và ngân phiếu ngàn lượng vàng đã tịch thu của Chiêu Thống pháp sư liền giắt vào bụng.
Tiểu Ngưu lại cõng Chính Lan chạy thêm mấy dặm, đến bến thuyền. Hai người đi đường thủy, ngược dòng Trường giang mà về Vân Nam.
Hai tháng sau, Tiểu Ngưu và Chính Lan mới đến được hồ Côn Minh. Mấy tháng trước Tiểu Ngưu đã ghé qua, nhờ người coi sóc nên mộ phần sạch cỏ, không đến nỗi điêu tàn, sụp đổ.
Hàng xóm cũ thấy hai nam tử của phu thê Âu Dương Trang Chủ trở về liền kéo đến hỏi han. Họ đi rồi, Chính Lan nhìn nền nhà cũ, bảo Tiểu Ngưu:
- Ta sẽ cho xây lại gia trang. Khi ta chết, nhị đệ hãy đưa thê tử của ta về đây sinh sống.
Tiểu Ngưu gượng cười, nói lảng sang chuyện khác:
- Đại ca có nhớ anh em chúng ta đã nô đùa vui vẻ suốt một thời thơ ấu ở bờ hồ này không?
Chính Lan gật đầu:
- Nhớ chứ, ta và ngươi đã bị tiên phụ đánh biết bao nhiêu vì tội ham chơi mà không chịu về dù trời đã tối.
Hai người cùng ôn lại những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, đến trưa mới về nhà một bằng hữu của Nhu Diện Phán Quan. Đào lão là một vị quan về hưu, không biết võ công, kết giao với Âu Dương Tùng qua thi phú.
Đào Kính nghe giới thiệu, hoan hỉ chào đón, giữ lại dùng cơm. Chính Lan định đổi ngân phiếu ngàn lượng vàng ở một tiền trang trong thành Côn Minh, đưa cho Đào lão sáu ngàn lượng bạc, nhờ gọi thợ xây dựng lại Âu Dương gia trang. Tất nhiên Đào Kính vui vẻ nhận lời.
Ăn xong bữa, Tiểu Ngưu nói với Chính Lan:
- Đại ca, tiểu đệ muốn đưa đại ca đi thăm gia sư. Người cũng ở gần đây thôi.
Chính Lan sửng sốt:
- Sao trước đây ngươi bảo rằng sư phụ đã chết ở Hoành Đoạn sơn?
Tiểu Ngưu cười hề hề:
- Gia sư đã dọn về ngọn núi Vân sơn ở phía tây thành Côn Minh. Người không muốn ai biết danh hiệu nên dặn tiểu đệ nói như thế.
Chính Lan nhíu mày:
- Thế lệnh sư là bậc kỳ nhân nào vậy?
Tiểu Ngưu lúng túng đáp:
- Gia sư là… Phật Tâm chân nhân.
Chính Lan thông thuộc tình hình võ lâm trong vòng trăm năm trở lại đây, vậy mà chưa hề nghe qua danh hiệu này. Chàng tủm tỉm cười, nói đùa:
- Cửu ngưỡng, cửu ngưỡng, ta phải đến bái kiến mới được.
Tiểu Ngưu mừng rỡ, cõng Chính Lan đi về hướng tây. Gần canh giờ sau, hai người đã có mặt trước một tòa cổ miếu trên sườn núi Vân sơn.
Tiểu Ngưu ngoác miệng gọi to:
- Sư phụ, đồ nhi đã về đây.
Cánh cửa gỗ mở toang và xuất hiện một đạo sĩ râu tóc bạc trắng, tay áo bên trái phất phơ vì cụt đến bả vai, và dung mạo xấu xa vì bị rạch nát đến hàng chục vết sẹo dọc ngang! Nhưng đôi mắt lộ kia nhìn Tiểu Ngưu với vẻ yêu thương trìu mến. Lão cười ha hả, để lộ hàm răng nhọn hoắt và đáng sợ:
- A, Ngưu nhi về đấy ư? Ta đang nhớ đến ngươi, không ngờ thật là linh ứng.
Tiểu Ngưu đặt Chính Lan đứng xuống vui vẻ đáp:
- Đồ nhi cũng nhớ ân sư nên nhân dịp đưa đại ca về viếng mộ song thân, liền ghé Vân sơn vấn an.
Chính Lan vòng tay thi lễ:
- Vãn bối là Âu Dương Chính Lan, bào huynh của Tiểu Ngưu. Hôm nay vãn bối đến đây, trước là bái kiến, sau là bái tạ đạo trưởng đã dạy dỗ gia đệ.
Lão đạo gật gù:
- Té ra là nam tử của Nhu Diện Phán Quan Âu Dương Tùng. Bần đạo có nghe Tiểu Ngưu nhắc đến hoài. Xin mời vào trong dùng trà.
Tòa miếu cũ này có ba gian, ngăn cách bằng hai hàng cột tròn đen bóng. Gian chính giữa là điện thờ Tam Thanh. Gian bên tả cũng có bệ thờ nhưng không rõ thờ vị thần nào. Còn gian bên hữu có chiếc bàn gỗ và vài chiếc ghế.
Đạo nhân rót trà. Tiểu Ngưu vừa nhấp xong một chén đã nói ngay:
- Sư phụ, gia huynh bị trúng một đòn Triệt Mạch Thủ, mong người vì đồ nhi mà ra tay chữa trị dùm.
Lão đạo biến sắc hỏi:
- Pho độc chưởng kia do ai thi triển.
Chính Lan từ tốn đáp:
- Bẩm đạo trưởng, người ấy là Trung Ly nhất thần Ngô Hiển.
Lão đạo trầm ngâm bảo:
- Ngươi thử đưa tay cho bần đạo chuẩn mạch xem sao?
Chính Lan nhấc ghế ngồi lại gần, đặt cả hai tay lên bàn. Đạo nhân kiểm tra kinh mạch một hồi lâu, lạnh lùng hỏi:
- Ngươi là đệ tử của bậc cao nhân nào mà trong người có đến hơn một hoa giáp công lực?
Tiểu Ngưu kinh hãi, đáp thay Chính Lan:
- Gia huynh là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan.
Lão đạo quắc mắt nạt:
- Nói láo! Báo Ứng Lang Quân chuyên luyện Đồng Tử Nhất Nguyên Công, là tâm pháp dương công. Còn trong người tiểu tử này lại là nội công âm nhu của đạo gia.
Chính Lan điềm đạm bảo Tiểu Ngưu:
- Nhị đệ, ta đã biết đạo trưởng đây là Tàn Diện Ma Thủ, và không có ý định giấu diếm sư thừa.
Chàng quay sang nói với lão đạo:
- Tưởng tiền bối, tại hạ chính là đồ đệ của Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp. Nếu tiền bối chưa quên được mối hận chặt tay năm xưa, cứ việc giết tại hạ mà báo phục.
Tiểu Ngưu sụp xuống ôm chân sư phụ khóc lóc:
- Sư phụ ơi! Đồ nhi chịu ơn dưỡng dục, cưu mang của họ Âu Dương, lòng luôn xem Chính Lan là bào huynh. Xin ân sư thương đồ nhi mà bỏ qua hận cũ. Nếu không, đồ nhi sẽ tự sát chết theo đại ca thôi.
Gã vừa nói vừa khóc ồ ồ như trâu rống. Tàn Diện Ma Thủ yêu thương Tiểu Ngưu như con ruột của mình, hiểu rõ tính ương bướng của gã. Lão thở dài bảo:
- Ngưu nhi đừng khóc nữa, sư phụ không giết đại ca của ngươi đâu.
Tiểu Ngưu mừng rỡ, vớ ngay tà áo Quỉ Diện lau nước mũi, đứng lên cười toe toét:
- Đa tạ ân sư, xin người chữa trị luôn cho đại ca, nếu y chết vì bệnh thì đồ nhi không còn ai là thân thích cả.
Quỉ Diện gầm lên:
- Phế ngôn! Ta không giết gã là phúc lắm rồi, ngươi còn dám đòi hỏi ta cứu đồ đệ của kẻ thù nữa sao?
Tiểu Ngưu thấy sư phụ nổi lôi đình, sắc diện vô cùng hung dữ, bèn bẽn lẽn im bặt. Chính Lan đứng lên, vòng tay nói:
- Cảm tạ tiền bối đã rộng lượng, tại hạ xin cáo biệt.
Thân thể chàng quá hư nhược, chỉ đi được vài bước đã loạng choạng chực ngã xuống. Tiểu Ngưu vội chạy đến đỡ, đau đớn bật khóc và lên tiếng trách móc ân sư:
- Sư phụ thấy chết mà không cứu, sao gọi là người tốt được?
Tàn Diện Ma Thủ nghe đồ đệ thân yêu nói thế, lòng đau như cắt, run rẩy bảo:
- Ngưu nhi, con có biết rằng Hoàng Hạc Tú Sĩ đã sai lầm khi chặt tay của ta hay không?
Chính Lan biến sắc bảo Tiểu Ngưu dìu mình quay lại chỗ ngồi. Chàng nghiêm giọng nói với Tưởng lão:
- Ẩn tình thế nào xin tiền bối nói rõ, nếu quả đúng là tiên sư hành động hồ đồ, tại hạ sẽ hoàn lại công đạo cho tiền bối.
Tàn Diện Ma Thủ lắc đầu, mỉm cười chua xót, như muốn nói rằng mọi sự bồi hoàn đều đã quá muộn màng. Lão bồi hồi kể:
- Bần đạo chính là Đường Vĩnh Lộc bào đệ của Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục. Hai mươi năm trước, gia huynh đi ngang Âm sơn, tình cờ đả thương nam tử của Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính, bị lão bắt giam. Phùng cung chủ bèn gửi thư đến tổng đàn Vô Ảnh hội ở ngoại thành Hàm Dương, bắt bổn hội đem ngàn lượng vàng và một bảo vật nữa đến Âm sơn chuộc mạng hội chủ. Bần đạo là em ruột, nên được cử đi. Không ngờ, giữa đường bần đạo lại gặp một nữ nhân rất xinh đẹp, và bị nàng quyến rũ. Chưa đến Âm sơn nàng ta đã hạ độc bần đạo, rồi mang vàng và bảo vật trốn mất. Bần đạo tỉnh lại, hối hận vì tính nhẹ dạ của mình, liền cào nát mặt mũi, đổi tên là Tưởng Thụ Thành, quay lại truy tầm nữ nhân xảo quyệt kia. Manh mối duy nhất là gốc gác Tứ Xuyên của nàng. Sau bốn năm phiêu bạt, bần đạo nổi danh Tàn Diện Ma Thủ và cuối cùng cũng tìm ra ả hồ ly Phan Lợi Lợi kia. Bần đạo bắt ả, đem ra một cánh rừng vắng cạnh bờ sông Mạnh giang tra hỏi. Nhưng hỡi ơi, ả thú nhận đã đánh mất tấm Cửu Thiên đồng bài và tiêu sạch ngàn lượng vàng. Thế là bần đạo không còn hy vọng cứu được bào huynh, liền nổi lôi đình băm xác ả họ Phan. Tình cờ lúc ấy lão quỉ Hoàng Hạc Tú Sĩ đi ngang, chưa hỏi rõ đầu đuôi đã chặt phăng tay trái của bần đạo. Nhờ tung ra một trái Vô Ảnh Yên Cầu, bần đạo mới thoát thân được. Khi trở lại Hàm Dương nhận tội thì Vô Ảnh hội đã tan rã mất rồi. Bần đạo nhớ lại lời khai của ả Phan Lợi Lợi rằng đã đánh rơi đồng bài ở đất Vân Nam, liền cố gượng sống đi về đây tìm kiếm.
Chính Lan nghe xong câu chuyện thương tâm ấy, quì xuống lạy Tàn Diện Ma Thủ ba lạy rồi nói:
- Lỗi lầm của tiên sư, tại hạ xin gánh hết. Tiền bối cứ tùy nghi xử trí.
Chàng lại quay sang bảo Tiểu Ngưu:
- Nhị đệ, đây là việc riêng của sư môn đại ca, ngươi không được xen vào. Nếu không ta cũng cắn lưỡi tự sát ngay.
Tiểu Ngưu gật đầu nhưng khóc lóc thảm thiết. Bỗng gã nín bặt, chạy đến níu áo sư phụ và nói:
- Ân sư, bản lĩnh của Chính Lan đại ca còn cao siêu hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ ngày xưa. Hay là ân sư cứ chữa trị cho đại ca lành bệnh, rồi y sẽ cùng đồ nhi đến Âm sơn cứu sư bá về?
Tàn Diện Ma Thủ nghi hoặc hỏi lại Chính Lan:
- Có thực là võ công của ngươi lại cao siêu đến mức ấy sao?
Chính Lan ngượng ngùng:
- Nếu phối hợp cả tuyệt học của Báo Ứng Lang Quân thì quả thực là tại hạ có hơn tiên sư một bậc.
Lão đạo suy nghĩ một lúc rồi thở dài:
- Thực ra thì dẫu có võ công tuyệt thế cũng vô ích. Vì chẳng ai biết vị trí của Thiên Ảo cung. Nếu có Cửu Thiên đồng bài trong tay, đến Âm sơn gặp người của họ, mới được đưa vào.
Chính Lan đang quì, chống tay đứng lên. Lúc chàng co gối, thấy bụng bị cấn bởi một vật cứng, nhớ đến mảnh đồng bài trong người, hồi hộp hỏi:
- Bẩm tiền bối, chẳng hay Cửu Thiên đồng bài có hình dáng thế nào?
Tàn Diện Ma Thủ buồn bã đáp:
- Đó là di vật của Cửu Thiên Đế Quân, đệ nhất kỳ nhân thời nhà Nguyên. Mặt trước có bốn chữ Cửu Thiên lệnh bài, bằng giáp cốt văn tự, mặt sau có hoa văn rắc rối, nhưng được cho là họa đồ dẫn đến Cửu Thiên đế cung.
Chính Lan mừng rỡ móc đồng bài ra đặt xuống trước mặt lão nhân:
- Xin tiền bối xem thử có phải vật này không?
* * *
Năm ngày sau, Chính Lan hoàn toàn hồi phục. Tàn Diện Ma Thủ đã dùng tuyệt kỹ châm cứu có một không hai của mình đả thông Nhâm Mạch cho chàng. Tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng vẫn còn trong túi Chính Lan. Điều kiện đã đủ, ba người phấn khởi chuẩn bị đi Âm sơn đón Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục.
Giờ đây, Chính Lan đã lấy lại được lòng ham sống, tinh thần trở nên minh mẫn, chàng hỏi Tiểu Ngưu:
- Nhị đệ, ngươi nói thực cho ta biết đã viết gì trong bức thư để lại?
Tiểu Ngưu cười hì hì đọc lại nguyên văn. Chính Lan suy nghĩ rồi bảo:
- Vậy chắc chắn Tây Môn nhạc phụ sẽ dẫn người bám theo. Có thể họ tìm đến Hoành Đoạn sơn nên chưa tới đây. Nhưng với tài truy tung của Giang Tây Thần Bộ, trước sau gì họ cũng tìm ra nơi này. Ta sẽ viết thư để lại cho họ yên tâm.
Nhưng chàng vừa viết xong thư thì Tàn Diện Ma Thủ đã nói:
- Bần đạo sẽ không đi Âm sơn mà chờ Hỏa chân nhân đến giải thích cho ông yên tâm trở lại Vu Hồ. Sau đó, lão phu sẽ về Hàm Dương, qui tụ anh em đồng môn, xây dựng lại tổng đàn Vô Ảnh hội. Khi hai người đón được hội chủ, cứ đưa thẳng về đấy.
Chính Lan vui vẻ tuân mệnh cùng Tiểu Ngưu lên đường. Ma Thủ trao cho chàng bức chân dung của Đường Vĩnh Phục và lộ phí đi đường. Gần giữa tháng chạp, hai anh em mới đến được trấn Sa Hồi, dưới chân rặng Âm sơn.
Âm sơn là dãy núi dài nằm dọc theo nhánh tả Hoàng hà, trên lãnh thổ nội Mông. Dòng nước vàng đục kia vượt qua khỏi Âm sơn mới rẽ phải, xuyên qua vùng thảo nguyên mênh mông. Vượt quá Bao Đầu hai trăm dặm, Hoàng hà lại rẽ phải xuống phía nam, tạo nên khúc uốn lớn có dạng nửa hình chữ nhật.
Mùa đông vùng tây bắc cực kỳ giá lạnh, tuyết rơi nhiều và các ao hồ, suối nhỏ đều đóng băng. Chính Lan cùng Tiểu Ngưu co ro trong áo choàng lông, xuống ngựa bước vào tửu quán trong trấn. Tửu khách hầu hết là người Mông, người Hồi, nhưng chủ quán lại là một phụ nhân Hán tộc. Tuổi bà chưa đến năm mươi, nhan sắc cũng khá mặn mà. Ba ta chính là người phụ trách trạm tiền tiêu của Thiên Ảo cung.
Trong bức thư gởi Vô Ảnh hội hai mươi năm trước, Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính đã dặn sứ giả của đối phương đến đây liên lạc. Chính Lan gọi một mâm rượu thịt, ba chục chiếc bánh bao. Ăn uống no nê rồi chàng mới bước đến quầy nói chuyện với chủ quán.
Chính Lan điềm đạm nói:
- Tại hạ là sứ giả của Vô Ảnh hội, mang Cửu Thiên lệnh bài và ngàn lượng hoàng kim đến Thiên Ảo cung chuộc mạng hội chủ.
Nữ lang sửng sốt hỏi:
- Sao chư vị lại trễ nải đến hai chục năm vậy?
Chính Lan từ tốn đáp:
- Mong đại nương thông cảm cho.
Bổn hội đã cử người đi từ ngay lúc nhận được thư. Nhưng nửa đường, vị sứ giả ấy làm thất lạc lệnh bài, mãi đến nay mới tìm ra được.
Nữ lang chúm chím cười:
- Ta là Đào Tuệ San, bốn mươi ba tuổi và chưa có chồng. Các hạ danh tính là gì?
Chàng mỉm cười:
- Tiểu đệ là Âu Dương Chính Lan, xin bái kiến Đào đại tỷ.
Đào cô nương hài lòng bảo:
- Lan đệ cho ta xem Cửu Thiên lệnh bài?
Chính Lan lấy ra trao cho bà ta. Đào Tuệ San xem kỹ, trả lại Chính Lan rồi nói:
- Lan đệ cứ ngồi uống rượu, ngu tỷ sẽ báo về cung. Lát nữa sẽ có người ra rước.
Chính Lan tủm tỉm hỏi:
- Mong Đào đại tỷ cho biết Đường hội chủ có được khang kiện hay không?
Đào cô nương mỉm cười:
- Hiền đệ yên tâm, lão ta còn sống và rất vui vẻ.
Thấy ánh mắt bà là lạ, chàng băn khoăn trở lại bàn. Mãi hơn canh giờ sau mới có bốn lão già lụ khụ xuất hiện. Họ đưa anh em Chính Lan đi vào vùng chân núi Âm sơn. Cả dãy núi dài mấy trăm dặm, giờ đây bị tuyết phủ trắng đỉnh, trông vô cùng thê lương ảm đạm. Tiểu Ngưu buột miệng nói:
- Đại ca, chốn này lạnh giá, buồn tẻ còn hơn bãi tha ma của Trung Nguyên, sao những người của Thiên Ảo cung lại sống nổi nhỉ?
Một trong bốn lão già bật cười:
- Ngươi lầm to rồi, bổn cung là chốn đào nguyên thế ngoại, bốn mùa hoa nở, suối reo chim hót, làm sao buồn tẻ được?
Bốn lão dừng cương trước một tòa sơn trang, nằm dựa chân ngọn núi cực nam của dãy Âm sơn.
Từ trong trang, hai tỳ nữ xinh đẹp đội tuyết chạy ra đón chào. Lão nhân mặc áo cừu đen nghiêm giọng bảo bọn Chính Lan:
- Cung chủ đang bế quan luyện công, hai ngày nữa mới có thể tiếp khách. Hai ngươi cứ ở lại khách xá này chờ đợi.
Nói xong, cả bốn lão quay ngựa đi ngay. Chính Lan cau mày nhưng không nói gì. Một ả tỳ nữ vui vẻ bảo:
- Nhị vị đi thẳng vào sảnh sẽ có người đưa về phòng, bọn nô tỳ dẫn ngựa xuống chuồng?
Huynh đệ Chính Lan nghe lời, bước vào cửa lớn. Quả nhiên lại có hai nữ tỳ nữa xuất hiện. Trong cái lạnh cắt da này, ai cũng mặc áo ngự hàn trắng muốt, chẳng điểm xuyến được gì cho khung cảnh ảm đạm. Có điều, nhan sắc của các tỳ nữ cũng khá xinh đẹp, khiến Tiểu Ngưu cởi mở tấm lòng. Gã là trai chưa vợ nên xuân tình rạo rực, nhìn hai ả kia không chớp mắt. Phía sau khách sảnh là hai dãy phòng đối diện nhau. Ả tỳ nữ có lúm đồng tiền xinh xắn trên má trái đẩy cửa căn phòng đầu tiên, mời khách vào. Chậu than hồng đỏ rực ở giữa phòng tỏa luồng hơi ấm áp. Ả thứ hai có chiếc răng khểnh, duyên dáng nghiêng mình:
- Bọn nô tỳ là Tiểu Ngọc, Tiểu Xuân được lệnh hầu hạ nhị vị. Nếu cần gì xin cứ kéo dây chuông ở đầu giường.
Tiểu Ngưu không bỏ lỡ cơ hội, cười hề hề đáp:
- Tại hạ cũng có chữ “tiểu” như hai cô nương. Âu Dương Tiểu Ngưu chính thực họ tên, còn đây là gia huynh Chính Lan.
Tiểu Xuân che miệng cười ranh mãnh:
- Ngưu thì đúng rồi nhưng tiểu thì e rằng không phải?
Tiểu Ngưu ngượng ngùng gãi tai, Chính Lan cứu nguy cho hắn bằng cách hỏi Tiểu Ngọc:
- Trong Thiên Ảo cung có được bao nhiêu nữ nhân xinh đẹp như nhị vị?
Được khen là mỹ nữ, Tiểu Ngọc sung sướng đáp ngay:
- Công tử quá lời, bọn nô tỳ đông đến hai trăm, nhưng chẳng ai xứng với danh hiệu mỹ nhân cả.
Tiểu Xuân khẽ ho, nhắc nhở Tiểu Ngọc cẩn ngôn. Hai ả xin phép cáo lui.
Chiều hôm ấy họ mới quay lại với mâm cơm rượu. Chính Lan nếm thử mỗi thứ một miếng, không thấy gì lạ mới cùng Tiểu Ngưu ăn uống. Ăn xong, chàng tư lự bảo:
- Nhị đệ, ta linh cảm rằng Đường hội chủ đã gặp chuyện chẳng lành, và Thiên Ảo cung đang bày binh bố trận đối phó với bọn ta.
Tiểu Ngưu thản nhiên đáp:
- Tiểu đệ đi với đại ca, chẳng biết sợ ai cả.
Nói xong, gã xếp chén đũa vào mâm, bẽn lẽn nói:
- Để tiểu đệ bưng đi trả nhà bếp cho rộng chỗ.
Chính Lan thấy đôi mắt láo liên của gã, phì cười:
- Ngươi muốn tìm mấy ả tỳ nữ thì cứ việc đi, nhưng nhớ giữ lời, đừng cởi mở ruột gan cho họ biết là được rồi.
Tiểu Ngưu hí hửng đi ngay. Chính Lan còn lại một mình, mở cửa sổ ngắm nhìn cảnh tuyết rơi. Chàng nhớ những lần cùng Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên uống rượu, thưởng tuyết trên quán Tước lâu Sơn Tây. Họ Hách là bằng hữu duy nhất của chàng. Hai hàng lệ hiếm hoi lén trào ra khoé mắt. Chính Lan thề sẽ giết Thái Sơn Phủ Quân, tiêu diệt Bạch Liên giáo để trả thù cho Thiết Xuyên, và cũng để trừ hậu họa cho xã tắc.
Đêm đông dần buông, gió bắc gào thét từng cơn, thổi những bông tuyết vào mặt Chính Lan. Chàng thở dài khép cửa sổ, quay về giường. Lúc thay áo, chàng rút mảnh Cửu Thiên lệnh bài nặng chịch đặt lên nệm giường. Bỗng lòng hiếu kỳ hối thúc, chàng cầm lên, đem đến cạnh giá nến xem xét. Từ ngày sở hữu nó đến nay, chàng chưa hề quan sát kỹ lưỡng. Nay sắp phải trao cho Thiên Ảo cung, chàng muốn tìm hiểu thử.
Mặt trước lệnh bài quả nhiên có bốn chữ gồm những nét rất lạ. Mặt sau cũng khắc nổi những hoa văn rắc rối. Thấy trên kệ sách ở vách tả có văn phòng tứ bảo, Chính Lan lấy xuống, mài mực rồi dùng viết lông đồ lên mặt sau, và in vào giấy trắng. Như vậy, chàng có được hình ngược của hoa văn. Chính Lan nhìn bản in thấy chỉ có mấy chục nét, hiểu rằng đã thiếu sót, định làm lại. Bỗng chàng giật mình vì cảm nhận được vẻ quen thuộc của những đường nét trên bản sao.
Chính Lan chăm chú quan sát và bóp trán suy nghĩ. Cuối cùng, chàng đã nhớ ra những đường gãy khúc kia biểu hiện chín ngọn núi cao thấp không đều của Cửu Hoa sơn khi đứng ở hướng đông nhìn về tây.
Để kiểm tra lại, Chính Lan rửa sạch lệnh bài bằng rượu rồi sờ mó những hoa văn. Thì ra những đường ấy cao thấp không đều, và những nét thấp chỉ có tác dụng là rối mắt thiên hạ.
Chính Lan sao lại lần nữa, thấy kết quả cũng giống thế, yên tâm dùng tiểu kiếm cạo cho các hoa văn bằng nhau. Đồng đen còn hiếm hơn vàng, trong ngoài đều đen tuyền như nhau, chỉ cần đánh bóng một lượt xóa đi độ nhám nhúa của mấy đường vừa cạo là có thể yên tâm.
Chính Lan học thuộc bản sao xong cũng đốt luôn. Giờ đây, chàng là người duy nhất biết vị trí của Cửu Thiên huyền cung. Không phải vì chàng tham lam những bảo vật hay bí kíp nơi ấy, mà vì muốn đề phòng việc trao lầm gươm cho kẻ ác. Chàng sợ Thiên Ảo cung cũng nuôi dã tâm như Thái Sơn Phủ Quân, trở thành tai họa cho võ lâm và giang sơn. Chính Lan chờ mãi không thấy Tiểu Ngưu vào phòng, đành đi ngủ trước.
Mãi gần sáng gã mới xuất hiện, tóc tai rối bù, y phục xốc xếch và mặt dính đầy phấn son. Tiểu Ngưu lăn ra ngủ vùi đến tận cuối giờ thìn.
Gã ngồi dậy, thấy Chính Lan đang nhìn mình cười cợt, bẽn lẽn nói:
- Đại ca, dường như trong Thiên Ảo cung thiếu nam nhân thì phải. Bốn ả tỳ nữ kia quấn lấy tiểu đệ không rời.
Chính Lan nheo mắt hỏi:
- Thế nhị đệ có bị họ khai thác, tra vấn gì không?
Tiểu Ngưu đắc ý cười khà khà:
- Đại ca chớ xem thường tiểu đệ. Ngưu này chẳng hề tiết lộ điều gì, mà còn điều tra ra một việc quan trọng. Đó là sự có mặt của đoàn sứ giả Bạch Liên giáo trong Thiên Ảo cung. Chúng gồm có bốn người không rõ danh tánh, đến trước bọn ta ba ngày, nghỉ đây một đêm rồi dời vào cung ngay.
Chính Lan gật gù, hỏi thêm:
- Các tỳ nữ có thố lộ vị trí Thiên Ảo cung cho ngươi biết không?
Tiểu Ngưu lắc đầu:
- Họ không nói, nhưng tiểu đệ tin rằng đêm nay sẽ thành công.
Nói xong gã bỏ đi, dáng điệu rất vênh váo, tự tin. Chính Lan ở lại với nỗi suy tư của mình. Chàng đoán rằng Thái Sơn Phủ Quân e ngại Đảo Thiên thần đạn của Hỏa chân nhân nên cho người đến mời Thiên Ảo cung liên thủ.
Thực ra, những hỏa khí mà Tây Môn Nhỉ sử dụng ở Hồng Trạch hồ, cách nay mấy tháng chỉ là những ống đồng nhồi thuốc nổ rất thô sơ, sức công phá thua xa thần đạn. Nhưng chàng lại thắc mắc, không hiểu Thiên Ảo cung có công phu gì lợi hại, đến nỗi Bạch Liên giáo phải mời mọc?
Trưa đến, ăn cơm xong, hai huynh đệ Chính Lan ngồi nói chuyện phiếm. Giờ giữa mùi, Tiểu Xuân chạy đến bảo:
- Nhị vị ra khách sảnh, cung chủ đã giá lâm!
Chính Lan và Tiểu Ngưu thay y phục, khoác cả tay nải lên vai, rồi bước ra đại sảnh. Cạnh chiếc bàn gỗ dài đã có mười người ngồi sẵn. Chiếm chủ vị là một lão nhân phương phi, bệ vệ, da mặt đỏ hồng, tóc và bộ râu ba chòm đen nhánh, không một sợi bạc.
Trời lạnh thế này mà lão ta không mặc áo lông, chắc là để khoe bộ trường bào màu đỏ, thêu nổi hình long phụng bằng chỉ vàng.
Hồng y lão nhân cười ha hả:
- Mời nhị vị an toạ. Bổn tòa nghe các hộ pháp bẩm báo, vội xuất quan đến đây ngay.
Chính Lan vòng tay chào rồi ngồi xuống đầu bàn đối diện. Tiểu Ngưu bắt chước cử chỉ của chàng chẳng sai một nét. Thiên Ảo cung chủ lại chỉ người ngồi bên cạnh và nói:
- Hai mươi năm qua, Đường hội chủ trở thành khách quí của bổn cung, cùng bổn tòa kết tình bằng hữu. Nay quí hội đã đưa Cửu Thiên lệnh bài đến, bổn cung chẳng dám lưu khách nữa.
Người ấy là một lão nhân tuổi độ sáu mươi, có dung mạo tương tự như bức vẽ của Tàn Diện Ma Thủ. Đường Vĩnh Phục lạnh lùng bảo:
- Đường Vĩnh Lộc và các trưởng bối trong Vô Ảnh hội đâu cả lại giao nhiệm vụ này lại cho hai ngươi. Và vì sao lại trễ đến hai mươi năm như vậy?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Sự việc rất dài dòng, thuật lại chỉ làm mất thời giờ. Mong hội chủ chờ về đến Hàm Dương rồi sẽ rõ.
Đường Vĩnh Phục cười nhạt:
- Lão phu đã quá quen với Thiên Ảo cung, chẳng muốn về Hàm Dương nữa. Hai ngươi cứ để lại Cửu Thiên đồng bài rồi trở về đi.
Chính Lan cười mát đáp:
- Việc ấy không khó, chỉ cần các hạ chứng minh được mình là Đường Vĩnh Phục, hội chủ Vô Ảnh hội.
Họ Đường giận dữ đập bàn:
- Chẳng lẽ lúc lên đường, Đường Vĩnh Phục không miêu tả dung mạo của lão phu cho các ngươi nhận diện hay sao?
Chính Lan thản nhiên đáp:
- Đúng là có, nhưng sau hai mươi năm, gương mặt hội chủ đã thay đổi, vì vậy thuộc hạ phải kiểm chứng mới được.
Chàng nói rất có lý nên lão ta cứng họng. Thiên Ảo cung chủ cười khà khà:
- Âu Dương sứ giả đây nói cũng phải. Để xác nhận thân phận, Đường lão đệ chỉ cần đọc mấy câu khẩu quyết trong pho nội công tâm pháp bí truyền của Vô Ảnh hội.
ĐườngVĩnh Phục gật đầu tán thành, đọc ngay một tràng dài. Tiểu Ngưu đá chân Chính Lan, ra hiệu rằng đúng là tuyệt học bổn môn. Nhưng chàng đã có chủ ý nên nghiêm giọng:
- Trước khi đi, Đường hộ pháp đã dặn dò thuộc hạ yêu cầu hội chủ đọc lại đoạn mở đầu của quyển Kim Châm Y Giải. Đó là điều kiện duy nhất.
Đường Vĩnh Phục bối rối đáp:
- Đã lâu ta không sử dụng đến y thuật nên không thể nhớ được?
Chính Lan mỉm cười đứng lên, lấy đồng bài ra cầm trên tay rồi nói với Thiên Ảo cung chủ:
- Phùng cung chủ đã biết tại hạ là Hồng Nhất Điểm mà còn bày trò thay mận đổi đào này sao? Nếu không thành thực thương lượng, tại hạ sẽ hủy ngay bảo vật.
Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính tái mặt, nhưng trấn tĩnh ngay. Lão cười ha hả, dơ ngón tay cái khen ngợi:
- Quả chẳng hổ danh đệ nhất anh hùng đất Trung Nguyên. Bổn tòa xin bái phục.
Chính Lan cười nhạt:
- Tại hạ không có thói quen dông dài, xin cung chủ cho biết tình hình của Đường hội chủ.
Phùng Cung Chủ thở dài đáp:
- Đường lão đệ cứ chờ đợi mãi chẳng thấy ai đến chuộc về, ngỡ rằng bào đệ sanh tâm phản trắc, buồn rầu uống rượu mãi. Họ Đường lại không quen với khí hậu khắc nghiệt của Âm sơn, chỉ năm năm sau đã chết vì bệnh phổi. Bổn tòa cũng sinh lòng hối hận, cho người đến núi Vị sơn ở Hàm Dương báo tin. Nào ngờ tổng đàn Vô Ảnh hội chẳng còn một bóng người. Bổn tòa xin đem thanh danh ra bảo chứng cho lời nói của mình.
Chính Lan trầm giọng:
- Trong lá thư mà cung chủ gởi cho bổn hội, tuyệt nhiên không hề qui định thời gian đến chuộc mạng hội chủ. Nay Đường hội chủ chết rồi, cuộc trao đổi xem như không thành, và phần lỗi thuộc về Thiên Ảo cung. Vì vậy, bọn tại hạ sẽ trao ngàn lượng vàng để chuộc xác về. Còn như cung chủ muốn có Cửu Thiên lệnh bài, phải chấp nhận thêm một điều kiện.
Thiên Ảo cung chủ hân hoan bảo:
- Bổn tòa sẵn sàng hoàn lại di cốt mà chẳng cần vàng bạc gì cả. Nhưng xin các hạ cho biết điều kiện kia.
Chính Lan dịu giọng:
- Thái Sơn Phủ Quân gầy dựng Bạch Liên giáo là có ý tạo phản, soán đoạt cơ đồ Đại Minh và lên làm hoàng đế Trung Hoa. Nay lão bị tại hạ sát hại gần hết những cao thủ chủ chốt như Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão, Âm Dương Quỉ Tẩu, Trung Ly nhị thần, Chiêu Thống pháp sư… nên mới tìm đến Thiên Ảo cung cầu viện. Giả như Thái Sơn Phủ Quân nhờ cung chủ dựng nên vương nghiệp, liệu có nghĩ đến công lao mà trọng thưởng hay lại giết đi như Tống Thái Tổ từng làm? Còn như Bạch Liên giáo thất bại, tông môn Phùng thị sẽ mang tiếng phản loàn, lưu xú vạn niên. Tại hạ có bấy nhiêu lời phế phủ, mong cung chủ xem xét, chém sứ, đoạn giao với Bạch Liên giáo. Đấy chính là điều kiện để tại hạ dâng nạp Cửu Thiên lệnh bài.
Nghe chàng nói xong, bốn lão già ngồi chung bàn kinh hãi đứng bật dậy. Một lão vòng tay nói:
- Mong cung chủ đừng nghe lời xúc xiểm của gã mà làm tổn thương đến tình giao hảo của đôi bên.
Phùng cung chủ mỉm cười trấn an:
- Chư vị cứ yên tâm ngồi xuống, bổn tòa có cách giải quyết ổn thỏa.
Bốn lão sứ giả Bạch Liên giáo nghe lời, trở lại ghế ngồi. Bất ngờ, Thiên Ảo cung chủ che miệng húng hắng ho. Và bốn lão nhân già lụ khụ đang ngồi đối diện với các sứ giả Bạch Liên giáo cử chưởng đánh liền.
Tám đạo chưởng kình lạnh giá và trắng như tuyết, giáng vào ngực bọn sứ giả, đánh chúng văng vào vách sảnh, máu phun thành vòi, chết ngay tức khắc.
Thiên Ảo cung chủ cười khanh khách:
- Tứ vị trưởng lão vì không ưa bọn phản loạn nên tự ý ra tay, bổn tòa càng dễ thương lượng với công tử.
Chính Lan thầm ghê sợ cho tâm địa tàn ác của Phùng Thiệu Đính. Chàng cũng mừng vì mình đã phá hủy họa đồ trên Cửu Thiên lệnh bài, nếu không sẽ hối hận suốt đời. Chàng lạnh lùng bảo:
- Cung chủ hành động quyết đoán, mau lẹ như vậy, tại hạ xin nghiêng mình bái phục. Khi nào có hài cốt Đường hội chủ trong tay, tại hạ sẽ dâng lệnh bài.
Thiên Ảo cung chủ cười đáp:
- Khi biết công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, bổn tòa đã tiên liệu trước rằng không qua mặt nổi, nên đã cho đem theo di cốt của họ Đường.
Lão cúi xuống nhấc một túi lụa dày màu vàng đặt lên bàn, đẩy về phía Chính Lan. Chàng mở ra, thấy có một hũ sành đựng cốt, hài lòng cột lại.
Tiểu Ngưu bỗng nói:
- Đại ca, làm sao biết đây có phải là tro của Đại sư bá, hay xương chó, heo, cọp, khỉ gì đấy.
Chính Lan phì cười:
- Trừ khi Đường hội chủ còn sống, chứ đã chết thì ai lại đưa hài cốt giả làm gì?
Thiên Ảo cung chủ nghiêm giọng:
- Các hạ quả là đóa kỳ hoa hiếm có, võ nghệ, cơ trí đều xuất chúng cả. Nếu chư vị không gấp gáp lên đường, xin mới giá lâm tệ cung chơi ít ngày.
Chính Lan đặt Cửu Thiên lệnh bài lên bàn, vòng tay:
- Cảm tạ lòng ưu ái của cung chủ, nhưng xin hẹn dịp khác. Giờ đây anh em tại hạ phải lên đường ngay.
Hai người rời khách sảnh, xuống chuồng lấy ngựa phi mau. Tiểu Ngưu cứ ngoái lại nhìn bốn ả tỳ nữ với ánh mắt lưu luyến. Chính Lan thúc giục:
- Nhị đệ nhanh chân lên, chúng ta phải đi xa nơi này trước khi lão cung chủ gian hiểm kia đổi ý.
Hai mươi ngày sau, huynh đệ Chính Lan về đến Vị sơn. Lúc ấy là chiều ba mươi tết. Tổng đàn Vô Ảnh hội đã được sửa sang lại một phần, nhưng nhân số mới qui tụ được năm sáu người. Họ khóc than cho số phận của Đường hội chủ, căm hờn chửi mắng Thiên Ảo cung!
Sáng mùng một tết, Chính Lan và Tiểu Ngưu rời Hàm Dương, lên đường về Vu Hồ. Nhưng vừa đến Trường An, họ đã bị một đệ tử Cái bang chặn lại:
- Bẩm đại hiệp, bang chủ bổn bang có thư.
Chính Lan mở xem, nhận ra nét chữ quen thuộc của Đại Đầu Cái. Đọc xong, chàng nghiêm nghị bảo:
- Các hạ có thể lui được rồi, tại hạ sẽ đi Lạc Dương ngay.
Gã hóa tử đi rồi, Tiểu Ngưu hỏi Chính Lan:
- Đại ca, trong thư nói gì vậy?
Chàng nhíu mày đáp:
- Lô Bang Chủ nói rằng Bạch Liên giáo dồn lương tích thảo trên núi Lương Sơn, chuẩn bị tạo phản. Cái bang và các phái bạch đạo quyết định tấn công, trừ tai họa cho giang sơn. Họ cần có cao thủ để đối phó với Thái Sơn Phủ Quân nên đã mời ta.
Tiểu Ngưu nhăn nhó:
- Chúng ta đi đã mấy tháng trời, sao không về Vu Hồ cho các đại tẩu an tâm rồi hãy đi Sơn Đông?
Chính Lan mỉm cười:
- Ta cũng muốn thế, nhưng các phái đã lên đường đến Từ Châu, chỉ chờ ta có mặt là khởi sự.
Tiểu Ngưu buột miệng trách:
- Đại ca suốt đời chỉ lo gánh vác chuyện nước non. Với võ lâm, mấy lần suýt chết, sao không nghĩ đến thê tử một chút?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nhị đệ, trước khi sư phụ qua đời, người có bảo rằng khí thế nhà Minh đã tuyệt, non sông sẽ rơi vào tay rợ phương bắc vì có kẻ làm phản. Dẫu mệnh trời đã định thế, nhưng ta cũng quyết tận lực chứ chẳng chịu buông xuôi.
Tiểu Ngưu ngơ ngác hỏi:
- Đại ca, nếu quả thực lão trời già có đủ quyền năng để xếp đặt vận mệnh con người và đất nước, sao lão ta không làm cho thiên hạ thái bình, người người no ấm?
Chính Lan phì cười:
- Làm gì có lão trời già, trời non gì đâu. Chẳng qua đó là cách gọi cái đạo lý tối cao đã chi phối vạn vật. Các hoàng đế cuối triều Minh không làm sáng tỏ được đạo trời nên bách tính Hoa Hạ phải chịu tai ương.
Tiểu Ngưu gãi đầu:
- Đại ca nói năng khó hiểu quá, tiểu đệ nhức cả óc.
Hai anh em vào phạn điếm dùng cơm, rồi đi về hướng chính đông. Ba ngày sau họ đã đến Lạc Dương, vào tổng đà Cái bang.
Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn mừng rỡ đón chào:
- Lão phu cứ lo rằng không gặp được công tử. Lương Sơn phòng vệ cực kỳ nghiêm mật, chỉ mình công tử mới đủ bản lĩnh xâm nhập vào.
Dùng cơm trưa xong, ba người lên đường đi Sơn Đông. Phần lớn chiều dài Lương Sơn Bạc nằm dọc theo ranh giới Sơn Đông, Giang Tô theo hướng tây bắc đông nam. Bọn Chính Lan đến Từ Châu, đi vòng ra mặt đông của Thủy Bạc. Núi Lương sơn nằm lệch về hướng này, chỉ cách bờ chừng mười mấy dặm. Tất nhiên, khu vực cửa ngõ này được Bạch Liên giáo canh phòng cẩn mật, phe bạch đạo chẳng thể đóng quân được.
Nhưng còn có một nơi mà Thái Sơn Phủ Quân không kiếm soát được. Đó là dòng Đại Vận hà chảy song song với Lương Sơn Bạc. Trên con sông đào vĩ đại này, thuyền bè qua lại tấp nập ngày đêm. Vì vậy, năm trăm cao thủ Bạch đạo trú ẩn trong cánh rừng liễu bên kia Đại Vận hà rất an toàn.
Giữa tháng giêng, Đại Đầu Cái đưa anh em Chính Lan lên thuyền con, sang bờ đông. Ngược bắc chừng vài dặm, thuyền rẽ vào một nhánh sông nhỏ thông với Vận hà. Gần ngã ba sông, Chính Lan thấy hai chiếc thuyền rất lớn, trên mũi thuyền cắm cờ thủy quân Tích Giang. Hiện tượng này chẳng có gì bất thường vì gần nửa chiều dài dòng Vận hà thuộc phạm vi trách nhiệm của họ.(20)
Qua khỏi hai chiến thuyền, là một chiếc quan thuyền xinh đẹp, dường như dành cho gia quyến của bậc đại thần nào đấy vì có tiếng trẻ thơ khóc oa oa. Lạ thay, Đại Đầu Cái lại bảo gã hán tử chèo thuyền ghé vào. Ông tung mình lên mũi quan thuyền và bảo Chính Lan:
- Công tử lên đi, còn chờ gì nữa?
Chính Lan và Tiểu Ngưu vội lên theo. Lô bang chủ mở cửa khoang, nhưng không vào mà lại nhường cho Chính Lan đi trước. Ai đó reo lên mừng rỡ:
- Tướng công.
Và chàng bị vây chặt bởi sáu người vợ trẻ. Họ cười nhưng lệ mừng ướt mặt, còn bốn đứa tiểu hài kia òa khóc, bò đến tìm mẹ.
* * *
Đêm hôm sau, có một chiếc thuyền con len lỏi qua đám gò nổi, lau sậy, tiến về phía ngọn núi Lương Sơn. Năm nay tiết trời cực kỳ giá lạnh, đã giữa tháng giêng mà eo biển Bột Hải vẫn còn đóng băng. Vùng phía nam Hoàng hà tuyết rơi mù trời, che mờ cả vầng trăng mười sáu. Tất nhiên, nước ở Lương Sơn Bạc cũng lạnh cắt da. Thế mà, ba người trên chiếc thuyền nhỏ kia chẳng hề mặc áo lông. Có lẽ họ sợ vướng víu khi cần phải bơi dưới nước. Ba người ấy là Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Chính Lan và Tiểu Ngưu.
Trên người Chính Lan là một bộ y phục rất kỳ lạ mũ trùm đầu, áo quần liền lạc, bó sát cơ thể và đen bóng. Các mỹ nhân đã cắt chiếc áo choàng bằng tơ Hắc Tằm, may thành bộ y phục này. Nhờ vậy, Chính Lan không sợ lửa và có thể ngâm mình dưới nước hàng giờ mà không chết cóng.
Cuối canh ba, thuyền vào đến gò đất cuối cùng. Từ đây đến chân núi Lương sơn còn hơn dặm nữa. Mặt nước hoàn toàn thoáng đãng, không vật che chắn, nên chỉ mình Chính Lan bơi vào. Trân Dật và Tiểu Ngưu sẽ đợi ở gò đất cho đến khi có tín hiệu. Chính Lan chỉ mang theo tiểu kiếm và hỏa dược.
Trong chiếc bao bằng tơ Hắc Tằm không thấm nước này có mười ống đồng nhồi thuốc nổ, trông chúng giống như những viên đại pháo ngày xuân.
Tuy không bằng thần đạn nhưng cũng thừa sức đốt cháy những kho quân lương, và dọa cho bọn Bạch Liên giáo thất kinh hồn vía.
Chính Lan sinh ra cạnh hồ Côn Minh, bốn tuổi đã biết bơi. Cộng với công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp, thủy tính của chàng đáng gọi là vô địch.
Có được bộ y phục gọn gàng, kỳ diệu này, Chính Lan cảm thấy mình thoải mái như cá dưới nước, nhắm hướng Lương Sơn mà lặn một mạch. Thỉnh thoảng chàng trồi lên để đổi hơi và định hướng. Mấy chục chiếc thuyền tuần tra đi ngang qua đầu chàng mà không hề hay biết. Hai khắc sau, Chính Lan vào đến bở, nhảy lên ẩn vào khe đá. Chàng hài lòng nhận ra cơ thể chỉ bị ướt đôi chỗ.
Chính Lan đã có lần cùng Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như đến đây tìm kho tàng Nam Tống, nên rất thông thuộc đường lối. Chàng lướt nhanh như cánh chim đêm đến khu vực phía tay hữu. Bạch Liên giáo khởi sự tất sẽ tiến lên hướng bắc, đánh chiếm đế đô. Vì vậy, kho lương thảo sẽ phải nằm ở vị trí thuận lợi, dễ bốc dỡ để đưa ra đường quan đạo hướng đông, hoặc Đại Vận hà.
Đường cạnh mép nước khá bằng phẳng nhưng luôn luôn có những toán tuần tra, Chính Lan đành phải di chuyển trên sườn núi. Lát sau, chàng nhìn thấy năm căn nhà rất lớn, nằm cách nhau sáu trượng để phòng hỏa hoạn. Đã dự liệu trước tình hình này, những ống hỏa dược của Tây Môn Nhỉ đều có ngòi rất dài. Chính Lan dùng tiểu kiếm cắt cho chúng có thứ tự ngắn dần đi, nhờ vậy sẽ nổ cùng một lúc. Chung quanh các kho lương cũng có người canh giữ, nhưng chủ yếu là gác ở cửa chính quay mặt ra ngoài. Phía sau là con đường để toán phòng vệ đi tuần.
Chờ bọn giáo đồ đi qua, Chính Lan lướt đến vách phía sau của kho đầu tiên, cắt một mảnh ván và chui vào. Té ra đây là kho gạo. Chàng bật hỏa tập đốt ống đồng có ngòi dài nhất, đặt trên đống bao. Cứ như thế, chàng lần lượt gài hỏa dược hết cả năm kho, trở lên sườn núi chờ xem kết quả. Nhớ đến tảng đá vuông vắn trước cửa kho tàng, Chính Lan phi thân lên đấy. Chàng vừa đến nơi thì hỏa khí phát nổ gần như cùng một lúc.
Năm kho quân lương bốc cháy ngùn ngụn vì vách bằng gỗ và mái lợp lá. Tiếng chuông, tiếng mõ tre báo cháy vang dội cả vùng Thủy Bạc. Bọn giáo đồ Bạch Liên giáo cuống cuồng đổ xô vào dập lửa. Nhưng chỉ vô ích mà thôi.
Chính Lan nhận ra Thái Sơn Phủ Quân, Miêu Ưng Lão Tổ đều xuất hiện để chỉ huy việc cứu hỏa. Chàng quyết định nhân cơ hội này thiêu hủy luôn các kiến trúc khác trên núi, liền lướt như bay đến Tụ Nghĩa đường.
Lúc này, phe bạch đạo đã nhất tề tấn công tiền trạm của Bạch Liên giáo ở bờ đông, cướp thuyền chèo vào núi Lương sơn. Dĩ nhiên họ bị mấy chục chiếc thuyền con, và chốt mai phục trên gò nổi, ngăn chặn lại.
Đã đến lúc Tiểu Ngưu và Trân Dật ra tay. Hai người âm thầm từ trong đánh ra, từ sau đánh tới. Tiểu Ngưu như con trâu nước bất ngờ trồi lên lật úp thuyền của phe địch. Còn Thiên Thủ Thư Sinh mò đến làm thịt bọn cung thủ trên gò đất. Thủ pháp phóng ám khí của họ Trân cực kỳ linh diệu, bọn lục lục thường tài kia làm sao tránh nổi?
Quân số Bạch Liên giáo ở căn cứ Lương sơn đông đến hai ba ngàn người nhưng chỉ là một đội quân ô hợp, được huấn luyện sơ sài thiếu hẳn bản lĩnh và dũng khí. Chúng thấy trọng địa bốc cháy ngút trời, hỏa dược nổ vang như súng thần công của quan quân, chẳng còn lòng dạ nào mà chiến đấu. Do đó, quần hùng tiến vào rất mau lẹ.
Nhắc lại, Chính Lan đeo bọc hỏa khí, tay thủ tiểu kiếm, chạy ngược lên. Khi có biến, sào huyệt chính được bảo vệ sum nghiêm, đâu đâu cũng có người trấn giữ. Dù không muốn, Chính Lan cũng phải chém giết để mở đường. Cuối cùng, chàng cũng đến được mục tiêu, đốt cháy tòa mộc lâu đồ sộ phía sau Tụ Nghĩa đường. Nhưng vòng vây đã khép chặt, Trung Ly nhất thần quát lớn:
- Hồng Nhất Điểm, hôm nay là ngày tận số của ngươi.
Nói xong, lão cho mười hai gã quái nhân xông vào tấn công Chính Lan.
Nhất thần tung mình lên một tảng đá, ngồi xếp bằng, đưa cây thiết tiêu đen tuyền lên miệng, thổi khúc mê hồn. Tiếng sáo ma quái kia làm cho tinh thần Chính Lan xáo trộn, mơ hồ. Ngược lại, bọn quái nhân càng hung hãn và dũng mãnh hơn. Những cây chùy gai vun vút giáng xuống thân thể đối phương những đòn sấm sét.
Chính Lan kinh hãi, dùng công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp phong bế nhĩ lực, rồi múa tít song chưởng đánh bạt bọn quái nhân ra. Mất thính giác, xem như giảm nửa võ công, nhất là khi trước sau, tả hữu đều có địch nhân.
Chính Lan đã đụng độ hàng trăm trận, kinh nghiệm dày dạn, liền đề khí, bốc cao hơn trượng, vỗ bốn chưởng chặn đứng đường chùy của hai gã khổng lồ và giết chúng bằng hai đạo Huyết Tuyết Điểm Hồng, rồi chàng lại bốc lên cao để tránh đòn tập kích sau lưng.
Chỉ lên xuống vài lượt, chàng đã loại được sáu tên. Trung Ly Nhất Thần vội thay đổi âm giai, bọn quái nhân đồng thời vung tả thủ chống đỡ, đánh Chính Lan bay ngược trở lên. Đòn bất ngờ này khiến chàng thọ thương vì va chạm với luồng hợp chưởng.
Nhưng một ý niệm loé lên, Chính Lan tiếp tục lao xuống, song thủ múa tít dệt nên màn lưới chưởng mềm mại và kín đáo. Sáu quái nhân lại cử chưởng đánh liền, luồng lực đạo mãnh liệt ấy giáng vào màn chưởng ảnh phía trước Chính Lan, đẩy chàng bay đi như chiếc diều đứt dây. Tuy nhiên, điểm rơi của chàng lại là tảng đá mà Trung Ly nhất thần đang ngồi thổi sáo.
Với khoảng cách xa đấu trường đến năm trượng, Ngô Hiển cảm thấy an toàn nên lim dim đôi mắt, chú tâm điều khiển bọn quái nhân. Tiếng thét cảnh báo của đám giáo đồ Bạch Liên giáo khiến nhất thần giật mình, vung thiết tiêu đối phó. Tiếc rằng, Chính Lan đã rút tiểu kiếm và xuất chiêu Phù Sinh Trường Hận. Kiếm ảnh loang loáng dưới ánh lửa hồng, trông như có sắc máu tươi. Tiêu kiếm chạm nhau vài tiếng rồi thôi, thủ cấp của họ Ngô rơi khỏi cổ. Chính Lan chụp lấy cây trường tiêu bằng huyền thiết, lao xuống núi.
Bọn giáo đồ Bạch Liên giáo dương cung bắn theo nhưng không xuyên qua nổi màn hắc quang quanh người Chính Lan. Chàng hài lòng vì thấy thiết tiêu rất vừa tay và cứng rắn vô song. Với vũ khí này, chàng có thể thi triển kiếm pháp mà không gặp trở ngại gì.
Chính Lan xuống đến chân núi thì cuộc chiến đã đến hồi khốc liệt. Thái Sơn Phủ Quân và Miêu Ưng Lão Tổ liên thủ đối phó với bảy đại cao thủ mà vẫn thản nhiên. Năm vị chưởng môn bạch đạo, Hỏa chân nhân và Ma Nhãn đầu đà đều là những đại cao thủ hạng nhất, nhưng do thanh Long Tuyền kiếm và kiếm thuật tuyệt luân của Phủ Quân, trận thế vẫn quân bình.
Chính Lan không vội nhập cuộc, đứng trên một tảng đá quan sát kiếm pháp của Thái Sơn Phủ Quân. Càng xem, chàng càng thêm thán phục lão ác ma Vũ Diên. Quả thực lão ta đã tiến một bước dài trong kiếm đạo. Đường kiếm nhẹ nhàng, linh hoạt như thuận tay mà đánh, và luôn nhằm vào đúng sơ hở của đối phương. Khi công thì nhanh như thiểm điện, khi thủ thì vững vàng như núi Thái. Về kiếm ý, rõ ràng Phủ Quân đã luyện hết pho tuyệt kiếm của Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng.
Chàng suy nghĩ, đắn đo rất lâu, hiểu rằng Thái Chân kiếm pháp không có chiêu nào đủ sức giết được đối phương. Chàng quyết định dùng chính Nam Thiên Kiếm Pháp để ra tay. Chiêu Phất Thủy Phiêu Miêu nay chắc chắn lão cũng biết, và chàng đã có diệu kế.
Chính Lan vận công quát vang như sấm:
- Thái Sơn Phủ Quân, Hồng Nhất Điểm ta đến đây.
Chính Lan rời sườn núi, phi thân đến đấu trường. Hỏa chân nhân và Ma Nhãn đầu đà biết chàng sẽ tấn công Bạch Liên giáo chủ nên lao vào cầm chân Miêu Ưng Lão Tổ. Phủ Quân bị năm chưởng môn vây chặt, thầm lo ngại khi thấy đại kình địch xuất hiện. Chính Lan đến nơi, các chưởng môn mới dừng tay. Chàng lạnh lùng bảo Thái Sơn Phủ Quân:
- Độc Giác Thần Ma, đêm nay ta sẽ vì bách tính Trung Hoa và hương hồn Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên mà tiêu diệt lão.
Thái Sơn Phủ Quân ngạo nghễ đáp:
- Bản lĩnh được bao nhiêu mà dám ngông cuồng?
Chính Lan cười nhạt:
- Ta chỉ là kẻ bất tài nhưng cũng đủ sức thiêu hủy cơ nghiệp của lão. Sau trận này, để xem lão còn dám nuôi mộng làm hoàng đế nữa hay không?
Lời chàng đánh trúng vào nỗi đau của phủ quân. Lão căm hận lao đến như ánh chớp. Kiếm kình lồng lộng, cuốn những hoa tuyết theo người, trông như khối bông mềm mại đang trôi. Thái Sơn Phủ Quân đã dùng đến chiêu sát thủ cuối cùng, và không ngờ rằng đối phương chờ đợi điều này.
Chính Lan không hề di động, đứng yên đón chiêu. Chàng cũng dùng chính chiêu Phất Thủy Phiêu Miêu mà đối phó. Sắt thép ngân dài, và Bạch Liên giáo chủ rú lên thảm khốc, khụy xuống quì trên mặt tuyết, ngực thủng chín lỗ. Mọi người kinh hãi nhận ra ngực áo Chính Lan cũng rách đúng chín điểm cùng bộ vị như đối phương. Thái Sơn Phủ Quân thều thào than thở:
- Bần đạo quên rằng… ngươi từng… giải phá được… chiêu Thiên Lý Trùng Hồng.
Miêu Ưng Lão Tổ không ngờ giáo chủ chết ngay chiêu đầu, tâm thần bấn loạn, trúng một chưởng của Hỏa chân nhân. Y phục lão bốc cháy và Ma Nhãn đầu đà đã kịp bồi thêm một trượng, đập vỡ sọ lão ác ma.
Mọi người mừng rỡ xúm quanh Chính Lan. Quảng Tâm thiền sư hoan hỉ hỏi:
- Âu Dương thí chủ làm thế nào mà hạ được Thái Sơn Phủ Quân một cách dễ dàng như vậy?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ và phủ quân cùng sử dụng một chiêu kiếm giống nhau. Có điều thiết tiêu dài hơn Long Tuyền kiếm nửa gang nên tại hạ chỉ rách áo, còn lão thì bỏ mạng.

Hồi 15

Chu lão thi diệu kế
Tiểu nghưu đắc hiền thê

Cái chết của Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên đã khiến kế hoạch tạo phản của Bạch Liên giáo chậm lại một thời gian dài. Mãi đến năm Bính Ngọ, tức năm Sùng Trinh thứ chín, Bạch Liên giáo mới khởi sự. Nhưng sự kiện khá xa xôi, chúng ta khoan nhắc đến, mà hãy trở lại với Âu Dương Chính Lan!
Sau trận đại phá Bạch Liên giáo ở Lương sơn, thanh danh Hồng Nhất Điểm đại hiệp càng lẫy lừng hơn trước. Chính Lan được tôn xưng là Trung Nguyên đệ nhất cao thủ, nhưng chàng chẳng hề hãnh diện, tự mãn. Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ đã tiết lộ cho Chính Lan biết rằng bản lĩnh của Thiên Ảo cung chủ còn cao cường hơn Thái Sơn Phủ Quân. Nguyên do là trong Thiên Ảo cung có trồng một cây thiên niên Tuyết Đào từ mấy đời nay. Nào ngờ, ba năm trước khai hoa kết trái. Nhờ vậy, Phùng Thiệu Đính luyện ba pho tuyệt học cổ truyền đến mức đại thành. Lão ta có mối giao tình với Hỏa giáo Tây Vực, thường qua lại hàn huyên tâm sự nên chưởng môn đại sư huynh của Hỏa giáo mới rõ sự việc này, và tiết lộ cho Tây Môn Nhỉ biết.
Chính Lan từng gặp Thiên Ảo cung chủ, thức ngộ rằng đối phương hùng tâm tráng chí không nhỏ, chắc chẳng chịu bỏ qua cơ hội, khi Trung Hoa đang rối ren, loạn lạc thế này. Thái Sơn Phủ Quân tạo phản được thì Thiên Ảo cung chủ cũng vậy. Hơn nữa, chàng âm thầm lo ngại họ Phùng phát hiện hoa văn trên Cửu Thiên lệnh bài bị xoá, tất sẽ tìm mình hỏi tội. Vì vậy, Chính Lan chuyên cần khổ luyện võ công, đồng thời chỉ bảo cho Tiểu Ngưu cùng thê thiếp. Võ học của Vô Ảnh hội chẳng phải tầm thường, nhưng do Tàn Diện Ma Thủ chỉ còn một cánh tay nên khó mà làm cho một gã ngốc như Tiểu Ngưu nắm được tinh túy của quyền chưởng. Thứ hai, do thân thể gã quá to lớn, nặng nề nên khinh công dở tệ. Thứ ba, Tiểu Ngưu là một gã lười và hay thối chí. Tuy nhiên, dưới sự dạy dỗ, đôn đốc của Chính Lan thì gã chẳng dám biếng nhác chút nào cả. Dung mạo chàng giống hệt mẫu thân, nhất là ánh mắt. Do đó, đối với Chính Lan, Tiểu Ngưu vừa yêu thương vừa sợ hãi.
Cuối tháng tư, Quí Thành Lâm đến tìm Chính Lan, lão buồn rầu bảo:
- Triều đình suy yếu nên dân tình đói khổ, giặc cướp như rươi, ta chẳng biết phải làm thế nào để duy trì việc kinh doanh của tiên phụ, thật đáng hổ thẹn.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Dám hỏi đại ca rằng tài sản quí hay mạng người quí hơn?
Thành Lâm ngơ ngác đáp:
- Tất nhiên mạng người phải trọng hơn.
Chính Lan gật gù nói tiếp:
- Vậy thì đại ca hãy vì ba trăm sinh mạng dòng họ Quí, thu hồi vốn liếng, dời nhà về bờ biển Quảng Đông sinh sống, mở đường buôn bán với Giao Châu, Nam Dương. Sau này, dẫu quân Mãn Thanh có chiếm được Trung Hoa thì cũng còn đường rút lui.
Thành Lâm mừng rỡ bảo:
- Hay lắm, lời của hiền đệ như ánh dương xua tan mây mù trong lòng ngu huynh. Quảng Châu vốn là cố quận, ta rất vui được trở về đấy.
Và lão ngập ngừng hỏi chàng:
- Thế còn hiền đệ thì sao?
Chính Lan trầm ngâm đáp:
- Gia quyến xin gởi gấm cho đại ca, phần tiểu đệ sẽ đi sau một bước.
Quí Thành Lâm biết chàng chẳng chịu khoang tay nhìn giang sơn rơi vào tay rợ phương bắc, tất sẽ liều mình. Lão buồn rầu nói:
- Lịch sử Trung Hoa luôn luôn là sự cạnh tranh giữa người Hán và các giống rợ chung quanh. Nay Trung Nguyên suy kém, rợ Mãn hùng mạnh lên, ắt lại như quân Mông ngày trước vào đây thành lập triều Nguyên. Vận nước, vận trời đều đã thế, hà tất hiền đệ phải chống lại. Nếu ngươi có mệnh hệ gì thì thê tử ra sao đây?
Chính Lan mỉm cười:
- Đại ca yên tâm, tiểu đệ là người học đạo, chỉ tận lực chứ không cưỡng cầu, thấy vô vọng, tất sẽ lui ngay chứ chẳng thí mạng làm gì.
Thành Lâm gật đầu:
- Ta tin vào hiền đệ.
* * *
Mấy ngày sau, một gã lái buôn tìm đến Vu Hồ trao một phong thư cho Hỏa chân nhân. Đang là bữa điểm tâm nên cả nhà đều có mặt đông đủ, Tiểu Linh Thố cười bảo:
- Sao phụ thân đọc xong lại có vẻ lo lắng như vậy? Tây Môn Nhỉ cau mày đáp:
- Giáo chủ sư huynh đã dời thánh điện vào Lan Châu, và kết thông gia với Thiên Ảo cung. Hôn lễ sẽ cử hành vào ngày hai mươi tháng sáu sắp tới. Giáo chủ đòi ta và tam vị sư thúc phải về dự.
Tứ hộ pháp hỏa giáo Bạch Tuân thắc mắc:
- Lạ thực, Tây Vực là gốc rễ bao đời của Hỏa giáo, vì cớ gì sư huynh lại phải dời vào Trung Nguyên nhỉ.
Lục hộ pháp Bạch Quí ranh mãnh nói:
- Sau này quân Mãn Thanh kéo vào Trung Nguyên. Chúng ta tha hồ đánh nhau với bọn Lạt Ma.
Câu nói này khiến Chính Lan chột dạ, nhưng không nói ra.
Thời gian khá cấp bách, Hỏa chân nhân và ba lão họ Bạch khởi hành ngay trưa hôm ấy. Họ đi rồi, Chính Lan bảo Sơn Đông Tử Phòng:
- Từ lão thử liên hệ với Cái bang hỏi xem tình hình vùng tây bắc thế nào, và động tĩnh của Thiên Ảo cung ra sao?
Sáu ngày sau, phân đà Nam Kinh mang thư của Đại Đầu Cái đến Vu Hồ. Thì ra Thiên Ảo cung cũng đã rời vào đến tận Bình Lang, dựng cơ ngơi mới trên núi Lang sơn nơi mà Chính Lan đã tiêu diệt kẻ thù của Lôi Đao Hứa Hoa. Thiên Ảo cung chủ và Hỏa giáo giáo chủ đã gởi thiệp mời chưởng môn các phái Trung Nguyên đến dự lễ ngày đại hỉ, tổ chức ở Bình Lang.
Danh vọng của Hỏa giáo và Thiên Ảo cung rất lớn, vì vậy, các bang phái chẳng dám chối từ. Đại Đầu Cái tỏ ý lo ngại, mong Chính Lan có mặt để phòng khi đối phương bày gian kế tóm gọn võ lâm.
Chính Lan đọc thư cho cả nhà nghe rồi hỏi Tố Bình:
- Nương tử, nhan sắc của ái nữ chưởng giáo thế nào?
Tiểu Linh Thố mỉm cười:
- Thiếp nghe phụ thân kể rằng nàng ta không xấu nhưng thân hình thô kệch, khôi vĩ. Vì vậy, chẳng ai dám lấy Hải Tụy Nhàn cả.
Tiểu Ngưu cười hì hì:
- Tiểu đệ to xác nên rất ái mộ những vị cô nương khôi vĩ. Giá mà biết sớm hơn, tiểu đệ sẵn sàng hỏi Hải tiểu thư làm vợ.
Sơn Đông Tử Phòng vuốt râu hỏi Chính Lan:
- Lão e rằng Thiên Ảo cung đã dùng mỹ nam kế lôi kéo Hỏa giáo vào cuộc. Nếu không có dã tâm, làm gì có việc cả hai lực lượng ấy di dời vào cả Trung Nguyên. Một là họ muốn xưng vương, chiếm lấy ba tỉnh tây bắc. Hai là họ sẽ tiếp tay cho quân Mãn Thanh.
Tây Môn Tố Bình sợ hãi nói:
- Chẳng lẽ Hỏa giáo lại hành động hồ đồ như vậy?
Chính Lan thở dài đáp thay Từ lão:
- Từ ngàn xưa, miếng đỉnh chung vẫn là mục tiêu của nhiều người. Vùng tây bắc vốn chẳng phải đất Trung Hoa. Do đó, mỗi khi triều đình trung ương suy yếu lại có kẻ muốn tách ra thành lãnh thổ riêng. Nay Thiên Ảo cung chủ và giáo chủ Hỏa giáo đều là người tài ba lỗi lạc, thế lực hùng mạnh, tất chẳng bỏ lỡ cơ hội.
Tố Bình rầu rĩ lắc đầu:
- Chắc không phải do tham vọng. Mà vì hạnh phúc của ái nữ nên giáo chủ sư bá mới dấn thân vào vũng nước đục đấy thôi.
Tử Quỳnh hỏi ngay:
- Sao giáo chủ không gả Hải Tụy Nhàn cho một đệ tử nào đấy?
Tố Bình cười khổ:
- Giáo qui không cho phép người đồng giáo lấy nhau.
Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ bật cười:
- Tướng công, hay là chúng ta tổ chức đánh cướp tân nương. Trước là phá vỡ liên minh, hai là để Tiểu Ngưu có được vợ xứng đôi.
Ý kiến này quả là tuyệt diệu, được mọi người tán thành. Chính Lan cẩn thận hỏi lại:
- Bình muội, tính tình của Tụy Nhàn thế nào?
Tiểu Linh Thố trấn an:
- Thiếp nghe ba vị sư thúc kể rằng Hải sư tỷ cao lớn hơn cả nam nhân, nhưng tính nết thuần hậu, hiền lành. Nàng giỏi võ công và rất khoẻ, nhưng chẳng bao giờ gây gổ với ai.
Tiểu Ngưu khoan khoái cười vang:
- Thế thì được, tiểu đệ chỉ sợ nàng dữ dằn như các đại tẩu đây thì nguy to.
Thục Nghi trợn mắt:
- Con trâu nước kia, sao ngươi dám chê bai chị em bọn ta?
Tiểu Ngưu sợ nhất là nàng, nên tái mặt, ấp úng:
- Tiểu đệ chỉ nói đùa thôi, chư vị xinh đẹp và hiền lành nhất thế gian.
Giọng điệu nịnh hót của gã khiến mọi người phì cười. Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như thỏ thẻ góp lời:
- Thiếp chỉ sợ Hải giáo chủ đích thân đưa tân nương về nhà chồng, làm sao chúng ta cướp được kiệu hoa?
Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt khề khà nói:
- Lão phu có một kế mọn, mong Từ lão và mọi người thẩm xét xem sao.
Chu lão bèn nói ra, ai nấy đều thán phục. Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh khoan khoái bảo:
- Kế di hoa tiếp mộc này qủa là kỳ diệu.
* * *
Hai tháng sau, đúng ngày mười hai tháng sáu, Chính Lan, Tây Môn Tố Bình và Tiểu Ngưu có mặt ở chân núi Thiên Thủy sơn cách thành Lan Châu sáu dặm.
Hôm nay, Hồng Nhị Điểm Âu Dương Tiểu Ngưu trông oai vệ và chỉnh tề. Bộ võ phục màu lam rất vừa vặn với thân hình hộ pháp của gã. Hàng râu mép xanh rì càng tăng thêm phần lịch lãm. Trông gã có vẻ giống người đi cầu hôn hơn là đi dự đám cưới, vì trên tay là một rương gỗ cẩn xà cừ rất sang trọng.
Nghe Tây Môn Tố Bình tự giới thiệu, bọn đệ tử Hỏa giáo mừng rỡ đưa họ lên núi. Hỏa chân nhân được tin con gái và rể quí đến dự lễ cưới, lòng vừa hoan hỉ, cũng vừa kinh ngạc. Lão đang chỉ huy việc trang hoàng đại sảnh, chuẩn bị cho lễ Vu Qui của cháu gái, vội chạy ra cửa đón. Tây Môn Nhỉ rất tự hào về chàng rể của mình, định nhân dịp này giới thiệu Chính Lan với toàn giáo.
Quả thực là mọi người đều nhìn Âu Dương Chính Lan với cặp mắt ngưỡng mộ vô bờ. Ai cũng biết chàng là đệ nhất cao thủ Trung Nguyên, chiến tích lẫy lừng, cả người võ lâm lẫn thường dân đều biết tiếng. Nhưng con người và phong thái của Chính Lan cực kỳ giản dị, tự nhiên và dễ thân cận, tha nhân nhìn chàng, chẳng hề thấy xa cách, mà có cảm giác như đôi mắt ấm áp kia đang cười với họ.
Hỏa chân nhân cười ha hả:
- Quí hóa thực, không ngờ hiền tế lại chịu khó lặn lội đường xa, đến đây dự ngày vui của bổn giáo khiến bần đạo được nở mày, nở mặt.
Chính Lan mỉm cười:
- Tuy không được mời nhưng tiểu tế là rể của Hỏa giáo, lẽ nào lại dám vắng mặt.
Tố Bình phụng phịu trách:
- Phụ thân chỉ khen có mình tướng công thôi sao? Hài nhi cũng là người có lòng chớ bộ.
Chân Nhân phì cười:
- Bình nhi đã có chồng mà còn dám nhõng nhẽo với ta ư? Ta khen ngợi Chính Lan tức là ngươi cũng được thơm lây đấy. Mau theo ta vào bái kiến giáo chủ sư bá.
Chân Nhân dẫn ba người đi xuyên khách sảnh, ra vườn hoa phía sau. Hàng trăm gian lều da xinh xắn nằm ôm lấy sườn núi, ẩn hiện dưới tàn lá rậm rạp của rừng tùng. Và chót vót trên đỉnh núi chính là tòa thánh điện thiêng liêng của Hỏa giáo kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ và da, trông giống như ngọn lửa đang bốc cao.
Tây Vực là đất thảo nguyên, dân cư sinh sống bằng nghề chăn thả gia súc. Thời tiết Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt, có vùng hạn hán kéo dài đến mấy năm liền sông, hồ, ao, suối đều cạn nước, trở thành đất chết. Lúc ấy, người phải lùa gia súc đi phương bắc, và mang theo tất cả tài sản của mình. Tất nhiên bọn Chính Lan chẳng lên thánh điện làm gì. Chân nhân đưa họ vào tòa nhà lớn nhất ở cuối vườn hoa. Phu thê giáo chủ và Hải tiểu thư đang ngồi ở tiền sảnh bàn bạc gì đó. Tây Môn Nhỉ hoan hỉ nói:
- Giáo chủ sư huynh, tiểu nha đầu Tố Bình cùng phu quân mang lễ vật đến mừng ngày đại hỉ của Nhàn nhi.
Hải giáo chủ vui vẻ bảo:
- Không ngờ vợ chồng Bình nhi lại có lòng như vậy, ta vô cùng hoan hỉ.
Tố Bình vội giới thiệu:
- Bẩm giáo chủ và phu nhân đây là chuyết phu Âu Dương Chính Lan và gia đệ Âu Dương Tiểu Ngưu.
Hải giáo chủ cười khà khà:
- Lão phu vẫn ngưỡng mộ oai danh của điệt tế, nay diện kiến càng thêm yêu mến. Tây Môn sư đệ quả là khéo chọn rể.
Chính Lan kính cẩn đáp:
- Bọn tiểu điệt có chút lễ vật chúc mừng, mong giáo chủ sư bá thu nhận cho.
Tiểu Ngưu bước đến, đặt rương gỗ lên bàn rồi mở nắp. Mười món nữ trang bằng vàng cẩn bảo ngọc tỏa sáng lấp lánh trên nền vải nhung đen. Chúng trị giá không dưới ngàn lượng vàng. Giáo chủ phu nhân và Tụy Nhàn chưa bao giờ thấy vật gì đẹp hơn thế mừng rỡ ồ lên. Hải phu nhân buột miệng tán dương:
- Chúng còn đẹp và quí giá hơn cả lễ vật nghinh hôn của Thiên Ảo cung nữa.
Hải giáo chủ vội hắng giọng nhắc nhở phu nhân đừng vạch áo cho người xem lưng, và ông cười ha hả để khỏa lấp:
- Vợ chồng ngươi tặng lễ vật hậu thế này khiến ta thêm áy náy. Nào sao không ngồi xuống đi?
Lúc này, Tụy Nhàn đã phát hiện ra ánh mắt của chàng khôi vĩ kia đang nhìn mình say đắm. Nàng thẹn thùng cúi mặt, thầm nghĩ vẩn vơ: “Phải chăng trời đã sinh người ấy để dành cho ta? Bên cạnh chàng, ta thực sự là một nữ nhân nhỏ bé.”
Nhưng sắp đến ngày xuất giá, Tụy Nhàn chẳng dám suy nghĩ nhiều, chỉ dám nhìn Tiểu Ngưu bằng ánh mắt ai oán tiếc nuối. Phần Tiểu Ngưu cũng vậy, gã rất mặc cảm khi đứng cạnh những nữ nhân bình thường, trông chẳng xứng đôi chút nào cả. Nay gặp Tụy Nhàn cao lớn hơn người, dung nhan lại mặn mà, thùy mị, bảo sao Tiểu Ngưu không say đắm như điếu đổ?
Tố Bình nhìn thấy gã cứ nhìn Tụy Nhàn đắm đuối, chẳng biết e dè ai cả, vội đá mạnh vào ống quyển của gã. Tiểu Ngưu đau điếng, quay về với thực tại.
Trong mấy ngày sau đó, Tố Bình luôn luôn quấn quít với Tụy Nhàn, bắt nàng đưa đi dạo cảnh Thiên Thủy sơn. Nhưng không hiểu sao lần nào họ cũng gặp huynh đệ Chính Lan. Tất nhiên Tố Bình chạy đến trò chuyện với phu tướng, và để Tụy Nhàn đàm đạo với Tiểu Ngưu.
Người Tây Vực rất dạn dĩ nên Tụy Nhàn vui lòng làm quen với Hồng Nhị Điểm đại hiệp. Phu thê Chính Lan cũng ngồi gần đấy để làm bình phong cho đôi trai tài gái sắc.
Cổ nhân có câu gần đèn thì sáng. Tiểu Ngưu được Chính Lan hết lòng dạy bảo nên tâm trí khai mở rất nhiều. Gã lại rắp tâm noi gương đại ca, cử chỉ ung dung, phóng dật và dễ mến. Gã nhớ lời dặn dò của Chính Lan, nên chẳng dám nói nhiều, chỉ gởi gắm ân tình qua ánh mắt. Phương pháp này xem ra vô cùng công hiệu, chỉ sau năm ngày, Hải cô nương đã xem Tiểu Ngưu là nam nhân hấp dẫn nhất thế gian. Nàng sa vào lòng gã nức nở nói:
- Âu Dương công tử, chỉ tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá muộn màng. Hai ngày nữa tiểu muội đã phải lên kiệu hoa về nhà chồng rồi.
Tiểu Ngưu cảm động xiết chặt thân hình phổng phao của đại mỹ nhân. Gã nghiêm giọng hỏi:
- Lòng ta đã nguyện phải lấy cho được nàng, dẫu chết cũng chẳng chịu bó tay. Nếu Nhàn muội thực lòng yêu thương ta thì việc lấy nhau chẳng khó gì.
Tụy Nhàn đang đê mê trong vòng tay to như cột đình của Tiểu Ngưu, gật đầu ngay:
- Tùy công tử xếp đặt, tiểu muội cũng chẳng thể sống thiếu chàng được. Tiểu Ngưu cúi xuống hôn lên má nàng rồi thì thầm gì đó.
Tình tự thêm một lúc, Tụy Nhàn trở về biệt viện, tìm giáo chủ phu nhân.
* * *
Theo đúng chương trình đã thống nhất với Thiên Ảo cung, trưa ngày mười bảy tháng sáu, Hỏa giáo bày đại yến tống tiễn tân nương, để sáng hôm sau cô dâu lên đường về nhà chồng.
Cuộc vui này chỉ toàn là người trong giáo phái, họ vui say đến tận nửa đêm mới tàn tiệc. Hải giáo chủ trở về phòng, khoan khoái uống chén trà thơm do giáo chủ phu nhân pha cho. Uống xong, lão lăn ra ngủ li bì, đến tận sáng hôm sau vẫn chưa tỉnh giấc.
Giáo chủ phu nhân thản nhiên cho khiêng trượng phu ra xe, đốc thúc đoàn xa mã lên đường. Ngoài nhị vị hộ pháp, còn có năm mươi chức sắc của Hỏa giáo nữa. Tất nhiên, phu thê Chính Lan và Tiểu Ngưu cũng có mặt. Chỉ vắng có hai người đó là ngũ hộ pháp Bạch Trung và lục hộ pháp Bạch Quí! Hỏa giáo chủ đã tỉnh giấc khi vượt sông Hoàng hà. Ông bực bội hỏi:
- Sao ngũ sư đệ và lục sư đệ không đi theo chúng ta?
Giáo chủ phu nhân tủm tỉm cười:
- Chắc họ cũng say mèm như ông chứ gì?
Thực ra, hai người ấy không hề có mặt trong cuộc vui đêm qua.
Đường xa đến bốn trăm dặm, xe hoa lại chẳng thể chạy như ăn cướp được, do đó, phải nghỉ lại dọc đường hết hai đêm, sáng ngày hai mươi mới đến được Bình Lang. Đoàn người ngựa dừng chân nơi cánh rừng thưa ở cửa tây thành, chờ họ đàng trai tới rước. Hải giáo chủ thấy chẳng có ma nào của Thiên Ảo cung ở điểm hẹn này, giận dữ nói:
- Nhị sư đệ, ngươi chạy đến Lang sơn báo cho họ biết rằng tân nương đã đến.
Tây Môn Nhỉ mau mắn phi ngựa đi ngay. Ba khắc sau, lão quay lại mặt mày tái mét:
- Bẩm giáo chủ, Thiên Ảo cung đã rút sạch, chẳng còn một mống nào cả!
Hải giáo chủ tưởng như sét đánh ngang tai, trợn mắt lắp bắp:
- Thế là thế nào? Còn khách khứa thì sao?
- Bẩm sư huynh, họ đang tụ tập dưới chân núi Bình Lang.
Hải giáo chủ đấm ngực kêu trời:
- Lão thất phu họ Phùng kia đã hại chết ta rồi. Không những Nhàn nhi lỡ một đời xuân sắc mà cả thanh danh của Hỏa giáo cũng bị vùi dưới bùn đen.
Giáo chủ phu nhân cũng gào khóc như cha mất, nhưng nếu nhìn kỹ thì sẽ thấy mắt bà ráo hoảnh. Lát sau, phu nhân nắm áo giáo chủ mếu máo:
- Ông tự hào là người đa mưu túc trí, sao không nghĩ ra cách vãn hồi cục diện đi?
Hải giáo chủ vò đầu bứt tóc:
- Chỉ còn một cách tìm ngay ra một chú rể khác, mời khách vào thành dự hôn lễ mới xong.
Lão nhìn quanh, chỉ thấy có Chính Lan và Tiểu Ngưu là người ngoài giáo phái, liền hỏi:
- Âu Dương điệt tế, chẳng hay lệnh đệ đã có gia thất chưa?
Chính Lan mỉm cười:
- Gia đệ vẫn còn phòng không chiếc bóng, nếu được giáo chủ chọn làm rể đông sàng, thì thật là đại phúc. Chỉ sợ Hải tiểu thư chê hắn thô lỗ mà thôi.
Giáo chủ mừng rỡ, đến bên xe hoa, vén rèm lên hỏi:
- Nhàn nhi, nay họ Phùng đã bội hôn, con có đồng ý lấy Âu Dương nhị công tử hay không?
Tụy Nhàn bẽn lẽn đáp:
- Hài nhi tùy phụ thân sắp đặt.
Giáo chủ gật đầu hài lòng, nhưng vẫn còn lo lắng:
- Nhị sư đệ mau trở lại Lang sơn lưu khách lại, chúng ta còn phải vào thành sắp xếp yến tiệc. Gấp gáp quá chưa chắc đã có chỗ đủ rộng rãi.
Chính Lan vui vẻ nói:
- Sư bá yên tâm, gia cửu phụ có sở hữu một tòa đại tửu lâu trong thành này. Tiểu điệt sẽ đi thu xếp ngay.
Nói xong, chàng kéo Tiểu Ngưu đi vào thành. Hỏa chân nhân thì phóng ngựa đến Lang sơn.
Hơn khắc sau, tiếng pháo cưới nổ vang rền, một đoàn người đông đảo tiến ra cửa tây. Đi đầu là Chính Lan, Tiểu Ngưu và các vị chưởng môn bạch đạo, kế tiếp là long đầu, thủ lĩnh của mười mấy bang hội khác. Theo sau là một trăm tay nhạc công y phục mới toanh. Tiếng đàn sáo dặt dìu với tiếng pháo rộn rã, khiến bách tính đổ ra xem. Hải giáo chủ ngỡ ngàng, không hiểu Chính Lan đã làm thế nào mà có ngay nghi lễ long trọng như thế? Nhất là bộ y phục tân lang trên người Tiểu Ngưu, vừa vặn như đã đặt may sẵn vậy. Nhưng giáo chủ chẳng còn thời gian để suy nghĩ, vội vòng tay chào các chưởng môn.
Trong hàng ngũ các chưởng môn có một lão già lạ mặt, mặc đại bào mới rất sang trọng. Lão bước ra vái chào phu thê giáo chủ rồi sang sảng nói:
- Lão phu là Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt, cửu phụ của anh em nhà Âu Dương, xin thay mặt đàng trai. Kính thỉnh phái đoàn thông gia nhập thành.
Hải giáo chủ gượng cười, nói giả lả vài câu khách sáo, rồi ra lệnh cho phe mình khởi hành. Xe hoa đi trước, có tân lang cỡi ngựa song song, kế đến là đàng trai và đàng gái. Phái đoàn Hỏa giáo cảm thấy như đang đi trong mơ, vì hai bên đường treo đầy những đèn hoa chúc đỏ thắm và bách tính hô vang:
- Cầu chúc Âu Dương nhị công tử và Hải cô nương bách niên giai lão.
Hải giáo chủ lờ mờ hiểu ra mình đang rơi vào một vở tuồng được dàn dựng sẵn. Nhưng ông hoàn toàn hài lòng khi thấy đám cưới con gái mình lại được tổ chức linh đình như vậy. Giáo chủ phu nhân thì khỏi nói, bà cười toe toét luôn miệng không sao ngậm lại được.
Khi đến tòa tửu lâu đồ sộ, mới thấy hết được vẻ huy hoàng của hôn lễ. Hơn ngàn thực khách ngồi chật ních hai trăm bàn tiệc. Họ đều là những người có danh phận trong võ lâm. Ai nấy đều vui say, và chẳng hề nhắc đến Thiên Ảo cung một lần nào cả. Hải giáo chủ sung sướng đến nỗi say mèm, chẳng còn nhớ là mình bị lừa nữa.
* * *
Khi trở về tổng đàn Hỏa giáo ở Lan Châu, Hải giáo chủ cho gọi ngũ, lục hộ pháp lên hỏi chuyện. Ông nghiêm khắc nói:
- Vì sao Thiên Ảo cung lại đột ngột rút khỏi Lang sơn, hai người mau kể cho ta nghe thử.
Bạch Trung không hề sợ hãi, cười khanh khách:
- Sư huynh biết không, tiểu quỉ Chính Lan quả là thần thông quảng đại, điều động được cả võ lâm. Đêm mười tám, tiểu đệ và lục sư đệ đến nơi thì hơn ngàn khách mời đã sẵn sàng cả rồi. Cuối canh hai, họ giả làm quan quân, bất ngờ kéo lên núi Lang sơn, khua chiêng gõ trống vang trời, hệt như sắp làm cỏ Thiên Ảo cung. Tiểu đệ và Bạch Quí lên trước, tung liền mười tám trái Đảo Thiên thần đạn. Tuy chẳng ai chết, nhưng họ Phùng lại tưởng quan quân đem cả đại pháo đến, liền đốc đệ tử bỏ núi đào tẩu.
Lục hộ pháp ôm bụng cười ngấp, cướp lời sư huynh:
- Lúc quần hào lên đến nơi, thả cho gà vịt, heo bò chạy tán loạn. Cảnh ấy thật không nín cười được.
Hải giáo chủ đập bàn, hầm hầm quát:
- Hai ngươi thật là quá lắm, dám qua mặt lão phu, tự ý làm càn.
Bỗng ông sực nhớ ra:
- À, ta quên mất. Lại còn thêm cái tội ăn trộm Đảo Thiên thần đạn nữa chứ. Bảo bối ấy ta giấu kín trong phòng, sao hai ngươi lại lấy được?
Bạch Trung cười hì hì:
- Sư huynh tuy là giáo chủ, nhưng bọn tiểu đệ chẳng dám cãi lời đại sư tẩu. Mong sư huynh lượng thứ cho.
Hải giáo chủ biến sắc:
- Té ra chính bà ấy đã chủ sở ư?
Ông cho hai sư đệ lui ra, rồi vào phòng bàn bạc với phu nhân. Hai ngày sau, Hỏa giáo dọn lều trở lại đất Tây Vực. Tòa đại sảnh là tài sản của một đệ tử người Hán giàu có, được hoàn trả lại cho lão.
Ba vị hộ pháp họ Bạch được lệnh mang thư đi Vu Hồ, và sẽ ở lại bảo vệ Hải tiểu thư. Họ đã mến cảnh Trung Nguyên nên vui vẻ khởi hành.
* * *
Cuối tháng tám, tam vị hộ pháp đến Vu Hồ, trao thư cho nhị sư huynh là Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Không hiểu trong thư viết gì mà chân nhân lộ vẻ ưu tư, mời Chính Lan và các lão nhân lên bàn bạc. Ông còn bảo Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều đi gọi Quí Thành Lâm đến.
Mấy khắc sau, họ Quí xuất hiện, thấy gương mặt mọi người nặng nề như đưa đám, gã rụt rè hỏi:
- Chẳng hay đã xảy ra sự cố gì trọng đại mà chư vị có vẻ lo lắng như vậy được?
Chính Lan mỉm cười:
- Đại ca cứ ngồi đi đã.
Chờ Thành Lâm nhấp mấy hớp trà, chàng mới hỏi tiếp:
- Chẳng hay việc thu hồi tài sản ở phương bắc đã tiến hành đến đâu rồi?
Quí Thành Lâm đắc ý nói:
- Ta đã sang nhượng được hầu hết các cửa hiệu, mối lái, thu hồi được hai phần ba tài sản. Cộng với số vốn của Chu cửu phụ và Du đại thúc, ta đã thành lập được một đội thương thuyền ba chục chiếc và xây dựng xong mười kho hàng, cửa hiệu ở Quảng Châu.
Thì ra Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt và Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh đã hùn hạp với họ Quí để làm ăn.
Hỏa chân nhân tiếp lời Chính Lan:
- Thế còn nơi ăn ở thì thế nào?
- Bẩm bá phụ, tiểu điệt đã mua hai tòa trang viện rất lớn ở cạnh bãi biển phía nam.
Tây Môn Nhỉ là bái huynh của Quí tài thần nên Thành Lâm xưng hô như vậy.
Chân nhân gật gù:
- Tốt lắm, hiền điệt hãy về thưa với lão thái, rồi đưa cả gia tộc đi ngay Quảng Châu, nếu chậm trễ tai họa sẽ không lường nổi. Đám thê tử Chính Lan cũng sẽ đi cùng Quí gia.
Thành Lâm ngơ ngác hỏi lại:
- Quân Mãn Thanh chưa phá nổi Sơn Hải Quan, đâu cần phải cấp bách như vậy?
Chân Nhân cười khổ:
- Rợ Mãn chưa vào nhưng lực lượng tiên phong của chúng đã có mặt, và một trong những mục tiêu đầu tiên chính là Quí gia trang.
Thành Lâm sợ hãi thưa:
- Mong bá phụ nói rõ hơn cho tiểu điệt được tỏ tường.
Hỏa chân nhân tư lự kể:
- Đại sư huynh của bần đạo là giáo chủ Hỏa giáo đã viết thư, tiết lộ một bí mật kinh người. Đó là việc Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính đã được quân Mãn Thanh hứa sẽ cắt cho ba tỉnh tây bắc. Đổi lại, họ Phùng phải dốc hết lực lượng khuấy rối Trung Nguyên. Hiện nay, Thiên Ảo cung chủ đã luyện thành tuyệt học, đồng thời đào tạo được ba trăm gã Ảo Quỉ vô cùng lợi hại. Bọn Ảo Quỉ này vốn là người của bộ tộc Ngạc Luân Xuân ở phía bắc dãy Âm sơn. Họ không cao lớn nhưng vô cùng dũng mãnh và hiếu chiến. Phùng lão quỉ đã dùng dược vật làm tăng sức mạnh cũng như tính khát máu của họ. Lão còn đem khinh công Thiên Ảo Thân Pháp và sáu chiêu trong pho Ảo Kiếm ra huấn luyện bọn Ảo Quỉ. Do đó, chúng trở thành những sát thủ cực kỳ khó chịu.
Chân nhân dừng lại, nhấp hớp trà thấm giọng, rồi kể tiếp:
- Đáng sợ nhất là việc Thiên Ảo cung chủ đã mời được lão đại ác ma Biển Bức Lão Tổ bào huynh của Miêu Ưng Lão Tổ. Lão này tên gọi Phương Liên Khai, ẩn cư ở vùng núi đá vôi cách Âm sơn ba trăm dặm. Đàn dơi của lão đông đến mấy vạn con, mỗi con chỉ nhỏ bằng con chim sẻ, nhưng rất hung dữ và khát máu. Răng và móng của chúng đều có độc, chỉ cào trầy da là nạn nhân khó sống. Với hai vũ khí Ảo Qủi và Biển Bức, Thiên Ảo cung sắp làm cỏ các phái Trung Nguyên.
Thành Lâm gượng cười:
- Nhưng tiểu điệt chưa nghe được điều gì liên quan đến Quí gia trang cả
Hỏa chân nhân khề khà:
- Từ từ rồi ta sẽ nói đến. Chắc Quí hiền điệt cũng biết rằng làm nên cơ nghiệp thì ai cũng phải có vốn liếng. Người Mãn chỉ hứa hẹn suông chứ đâu cung cấp tài chính cho Thiên Ảo cung. Vì vậy, lão họ Phùng quyết định nhân dịp này đưa đội quân ma quỉ đi vơ vét của cải khắp nơi. Mà Quí gia trang được xưng tụng là giàu có nhất Trung Hoa, liệu bọn chúng có chịu bỏ qua hay không?
Quí Thành Lâm tái mặt, đứng lên nói:
- Chết thật, tiểu điệt phải về thu xếp ngay mới được.
* * *
Hơn tháng sau, Thiên Ảo cung chủ và Biển Bức Lão Tổ đưa quân đến Nam Kinh. Họ ém lại ở cánh rừng ngoại thành, cho trinh sát vào dọ thám mới biết gia tộc họ Quí đã dọn đi đâu không rõ, trang viện thì treo bảng bán. Cả căn cứ Vu Hồ cũng chẳng còn một bóng người.
Hai lão ác ma vô cùng thất vọng, đành chuyển sang tấn công những mục tiêu khác. Trong suốt tháng chín, họ càn quét các nhà đại phú vùng Giang Nam, cướp được gần chục vạn lượng vàng. Không có một ai sống sót để làm nhân chứng cả. Chiến dịch giết người, cướp của với qui mô lớn này, đã làm chấn động võ lâm và bách tính.
Bước sang tháng mười, Thiên Ảo cung làm thêm mười mấy vụ thảm sát nửa ở ba phủ Hồ Bắc, Hồ Nam, An Khánh. Hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang dốc toàn lực truy lùng mà chỉ hoài công.
Quảng Tâm thiền sư và Thuần Thanh đạo trưởng vội đến Lạc Dương tìm Đại Đầu Cái.
Lô bang chủ đã nhận được thư của Chính Lan nên biết rõ nội tình, nói lại cho hai vị chưởng môn kia nghe. Phương trượng Thiếu Lâm buồn rầu nói:
- Không ngờ trong lúc vận nước suy vi thế này mà bọn ma đầu lợi hại kia lại xuất hiện. Nay Âu Dương thí chủ âm thầm qui ẩn, biết lấy ai diệt trừ ma chướng đây?
Đại Đầu Cái mỉm cười:
- Đâu thể trông cậy mãi vào Chính Lan, chúng ta phải tự lực tự cường mà thôi. Lão phu sẽ thông tri cho hai phái Hoa Sơn, Nga Mi biết mà chuẩn bị.
Qua đầu tháng mười một, những vụ cướp kia bỗng thưa đi. Và Thiên Ảo cung chính thức chọn ngọn núi Phụng sơn cách thành Hứa Xương hai mươi dặm để làm căn cứ. Phùng cung chủ đã gởi thiệp mời các phái võ lâm đến dự lễ khai cung vào ngày rằm tháng tư. Sự kiện này càng khẳng định những điều Chính Lan đã tiết lộ. Nay Thiên Ảo cung đã vào đến đất Hà Nam trung tâm điểm của võ lâm, bảo sao bốn phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Cái bang và Hoa Sơn không lo lắng?
Nhưng họ không có bằng cớ để chứng minh Thiên Ảo cung là hung thủ của mấy chục vụ cướp vừa qua, đành im hơi lặng tiếng chờ đợi diễn biến của cục diện giang hồ. Năm vị chưởng môn bạch đạo âm thầm họp lại ở Lạc Dương. Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn là người đa mưu túc trí nhất bọn, nêu lên nghi vấn của mình:
- Lão phu không lạ gì dã tâm của Thiên Ảo cung, chỉ thắc mắc vì sao họ không tổ chức lễ khai đàn ngay, mà lại hẹn đến tận rằm tháng tư?
Đạo Huệ sư thái chưởng môn phái Nga Mi lên tiếng:
- Bần ni cũng suy nghĩ mãi mà không tìm ra đáp án. Từ nay đến sang xuân có nhiều ngày đại cát, tốt lành hơn ngày rằm tháng tư, vì sao lại không được chọn?
Khánh Hư chân nhân, chưởng môn Hoa Sơn phái, tư lự nói:
- Bần đạo cho rằng chính sự biến mất của Âu Dương thí chủ đã khiến họ Phùng lo ngại. Trước khi nắm chắc rằng đủ sức giết Hồng Nhất Điểm, lão ta không dám mới quần hào đến Phụng sơn. Nếu hôm ấy Chính Lan xuất hiện, đòi mạng của Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục, lão bắt buộc phải nhận lời tỷ thí công bằng, lỡ thua thì cơ nghiệp nát tan.
Thuần Thanh ung dung bảo:
- Chân nhân luận việc rất có lý. Nhưng bần đạo lại có cảm giác rằng Thiên Ảo cung đang dùng kế hoãn binh để chuẩn bị cho một âm mưu gì đấy.
Đạo Huệ sư thái mỉm cười:
- Bần ni không tin rằng bản lĩnh của Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính lại vô địch như lời Hồng Nhất Điểm thí chủ đã nhận xét. Năm phái chúng ta đều có những bậc trưởng lão tuổi gần bách tuế, lẽ nào lại không hơn một người tuổi bảy mươi như họ Phùng? Nay Âu Dương thí chủ rời bỏ giang hồ, chúng ta phải tự lo thôi. Chờ đợi không bằng chủ động, bần ni đề nghị Quảng Tâm thiền sư phát võ lâm thiếp, mời hào kiệt thiên hạ đến dự đại hội công cử minh chủ. Thiên Ảo cung chủ tự hào võ công quán thế tất sẽ đến dự. Lúc ấy, các phái đưa cao thủ ra tranh tài với họ Phùng, giết chết lão là xong.
Lời nói của sư thái đánh trúng vào khát vọng thầm kín trong lòng cử toạ. Năm phái đều có truyền thống hơn trăm năm, từng là cột trụ chống đỡ võ lâm. Thế mà, mấy năm nay, họ chỉ là ánh sao mờ bên cạnh bậc kỳ hiệp Âu Dương Chính Lan. Giang hồ chỉ nhắc đến Hồng Nhất Điểm đại hiệp, chứ không còn nhớ đến họ nữa.
Các đệ tử Phật môn hoặc đạo gia vốn không màng danh lợi. Nhưng bốn người này lại là chưởng môn, gắn liền với vinh nhục của giáo phái, nên đạo tâm chẳng khỏi vướng bụi trần.
Khánh Hư chân nhân phấn khởi tán thành:
- Bần đạo ủng hộ cao kiến của Đạo Huệ sư thái.
Quảng Tâm thiền sư và Thuần Thanh đạo trưởng cũng không phản bác, riêng Đại Đầu Cái thận trọng nói:
- Lão phu chỉ sợ chúng ta vẽ phụng thành gà thì nguy to. Nếu không có trưởng lão nào của bạch đạo thắng nổi Thiên Ảo cung chủ, thì hóa ra chúng ta đã tự ý dâng chức minh chủ cho lão ta. Và trong cương vị ấy, họ Phùng càng dễ khống chế võ lâm.
Đạo Huệ sư thái cười nhạt:
- Bang chủ yên tâm, trước khi đến Lạc Dương, bần ni đã thuyết phục được sư thúc là Lãnh Diện thần ni xuất quan. Bà tiềm tu trên đỉnh Nga Mi sơn đã sáu mươi năm, võ công đạt đến mức đăng phong tháo cực, chẳng thể nào thua Phùng Thiệu Đính được.
Lô bang chủ hiểu ngay rằng Đạo Huệ sư thái đã quyết dương danh phái Nga Mi, ông cười mát, không nói gì nữa.
Cuối cùng, các phái chọn ngày rằm tháng giêng sẽ cử hành đại hội, địa điểm là núi Hoa sơn.
Tài sản của than_long_vn

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
au duong chinh la 4vn, au duong chinh lan, au duong chinh lan 1, auduongchinhlan hoi1, Âu dương chinh lan


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™