Nhà văn Trần Thùy Mai: Viết văn là một cách thương yêu...
Trần Thùy Mai
Nhờ viết, cuộc đời tôi được mở rộng. Tôi vượt qua giới hạn chật hẹp của chính mình... Viết văn với tôi là một cách thương yêu với chính mình và những người xung quanh...Tôi chỉ muốn nói với các bạn viết trẻ rằng, văn học không bao giờ dễ dãi, nhà văn Trần Thùy Mai tâm sự.
Trần Thùy Mai
Người bán linh hồn
Người đàn bà ngồi trên chiếc ghế chạm trổ,đẹp lộng lẫy với cái mũi dọc dừa cao quý và đôi lông mày vút lên như hai cánh hạc.
Đó là nữ chủ nhân gallery Kình Dương.Vào 8 giờ tối nay,gallery sẽ mở cửa lần đầu. Chừng hai trăm nhân vật trong thành phố đang chuẩn bị đến dự lễ. Những người giàu tưởng tượng bị hình ảnh con nhân sư trên tấm thiệp thu hút, còn những người thực tế và tò mò thì bị hấp dẫn bởi tin đồn rằng gallery Kình Dương, tọa lạc nơi một tòa nhà bốn tầng đồ sộ, ngay một mặt phố lớn, sẽ là ngã tư của các đường dây buôn bán tranh quốc tế, và sở dĩ nó có được sức mạnh đó chính vì có một thế lực ngầm rất lớn đằng sau nữ chủ nhân xinh đẹp.
Suốt hơn tháng nay ,những gì liên quan đến Kình Dương đều trở thành chất men kích thích tính hiếu kỳ của mọi người: sắc đẹp của Tuyết N., lai lịch miếng đất và nguồn tiền xây dựng ngôi nhà, những họa sĩ và nhà thơ thường lui tới đó, những bức tranh sẽ được trưng bày... Tất cả đều khơi nguồn cho những câu chuyện nóng bỏng với nhiều chi tiết thêu dệt chẳng khác nào truyện cổ tích.
Tuyết N. cũng hiểu rõ rất nhiều ánh mắt đang nhìn về phía mình, vì vậy, nàng đốc thúc đàn em phải tổ chức lễ khai trương thực chu đáo, không được để xảy ra một sơ xuất nhỏ nào. Nàng muốn ngày mai, mọi chi tiết của buổi lễ sẽ được trầm trồ trên cửa miệng của mọi người dân thành phố, tạo thành một thanh thế vô giá cho nàng.
Tuyết N. ngồi nhìn, chân đặt lên cái đôn thấp bọc nệm. Bàn chân nàng trắng, nhỏ và nuột nà, làn da ở gót mỏng và ửng hồng, nằm ngay ngắn như một bảo vật trên tấm nệm nhung.
“Hầu hết thời gian của buổi tiệc đứng, chị sẽ ngồi ở đây” viên đạo diễn dặn dò. “Tất cả việc đón tiếp đã có người lo. Chị chỉ có một nhiệm vụ duy nhất, là phải đẹp”. Tuyết N. gật đầu, nàng mỉm cười với đạo diễn, nụ cười cao sang và quyến rũ như một thứ hào quang vụt sáng khiến anh ta cúi đầu thuần phục.
Giữa lúc ấy ngoài cửa có tiếng lao xao, Tuyết N. quay đầu lại, cử chỉ ngoái đầu làm căng lớp áo mỏng khiến một phần bộ ngực tươi tắn như hiện ra đập vào mắt người đàn ông đang cúi xuống. Y không rời mắt khỏi nàng, miệng kêu lớn:
- Hôm nay không tiếp khách nữa đâu nhé, bà chủ và tôi ai cũng bận lắm.
- Cho tôi vào gặp bà chủ đi. Một chút thôi, không mất nhiều thời giờ đâu.
Gã bảo vệ khinh khỉnh nhìn cô gái. Ánh mắt gã đàn ông lướt qua với vẻ bỉ thử như ánh mắt người ta thường ném lên những món hàng thứ phẩm trên sạp chợ hạ giá; cuối cùng thì ánh nhìn anh ta cũng tươi lên đôi chút khi dừng lại nơi đôi mắt to đen với hàng lông mi dày và cong, trông man dã và nồng nàn.
“Này cô em, biết điều thì xéo đi thôi. Ở đây...”
Chỉ mất một giây để tính toán, cô gái quay ngoắt lại, bỏ đi. Con phố lớn trước gallery Kình Dương có nhiều ngõ nhỏ, các ngõ cũng được trải nhựa đường, có thể nói là những con đường nho nhỏ dù chẳng có tên.
Cô gái đi thẳng vào, rồi bước qua cái cửa nhỏ dẫn vào phòng trong.
Trái ngược với gian bên ngoài xinh xắn, căn phòng này tiều tụy và luộm thuộm, đồ đạc chỉ có độc một chiếc giường đôi với mấy cái ghế nhỏ xíu, nhỏ đến nỗi có thể lầm là mấy chiếc đòn. Một cái giá vẽ nằm trong góc, chung quanh là rất nhiều tranh vẽ lở dở, dựng bừa bãi ở chân tường. Một cửa sổ nhỏ phía sau đủ cho một luồng ánh sáng tỏa xuống, soi rõ gian buồng ảm đạm.
Trên cái giường bừa bộn, một người trẻ tuổi ngồi dựa vào vách. Chàng đang nguệch ngoạc những nét phác thảo trên một phiến giấy trắng. Ánh sáng từ cửa sổ đọng lại trên bờm tóc quăn rũ trước trán và sống mũi thanh tú. Cô gái dừng lại trên ngưỡng cửa, ánh mắt cô đầy vẻ yêu thương.
Chàng trai ngước lên, thấy cô, chàng không giấu được vẻ vui sướng. Quẳng cả bút và giấy xuống giường, chàng reo lên và vươn tay ra; cô gái như con mèo nhảy thót vào lòng chàng.
Họ ôm nhau rất lâu, bất động, những cánh tay càng lúc càng riết chặt. Mũi họ hít càng lúc càng sâu vào lồng ngực mùi da thịt của nhau, một nỗi hứng khởi sâu sắc và mãnh liệt làm cả hai như bay lên, bay mãi.
Khi không thể riết chặt hơn nữa, cô gái buông tay ra, ngã vật xuống giường. Cô vùng dậy, lao vào góc phòng, lục lọi trong chiếc tủ cũ và lôi ra một bộ váy màu tím vốn bị nhét trong một góc. Cô vuốt vuốt mớ váy áo, chất thun tốt còn mới nhanh chóng duỗi ra, cho thấy bộ y phục còn khá đẹp và sang trọng.
Đấy là bộ cánh Na sắm từ thuở mới ra trường,đã từ lâu không động đến.
“Em làm gì vậy?” Chàng trai hỏi. Cô gái vắt bộ y phục lên thành ghế, bắt đầu ngồi xuống trước gương, chải tóc, kẹp gọn lên, đôi mắt vốn đã to và sáng càng long lanh hơn.
- “Tuấn ơi, sáng nay bà chủ nhà có đến không?”
- “Có” - Vẻ mặt Tuấn đang vui chợt cau lại. “Mụ ta thật láo, nhất định chỉ muốn gặp em thôi. Na à, có phải ý mụ ta xem anh là một gã vô tích sự không?”
- Không phải thế đâu, chẳng qua là vì em đã dặn mụ ấy không được làm phiền anh về những chuyện tầm thường.
Có người đang muốn dành thuê căn hộ hai người đang ở.
Hai nghìn rưỡi đô cho ba năm, số tiền đó có thể không đáng kể với nhiều người, nhưng với đôi tình nhân họa sĩ này là một thách thức quá lớn. Vì vậy Na đã giấu chàng con số mà nàng cho là quá kếch sù ấy để chàng khỏi khiếp hãi.
Nàng đứng vụt dậy, chạy đến sau lưng Tuấn kéo mạnh bức màn, để lộ một bức tranh sơn dầu cỡ lớn. Trong tranh là một phụ nữ bán khỏa thân: đó là Na, dưới nét cọ tài hoa của người đàn ông yêu nàng. Vẫn mái tóc ấy, đôi mắt ấy, vẫn thân thể mỏng manh ấy nhưng dường như là một Na khác: bất cứ ai đứng trước bức tranh cũng bồi hồi xúc động mà không hiểu vì sao. Họ không biết đã có một ngọn lửa cháy rực từ nỗi say đắm của người họa sĩ, ngọn lửa thần ấy chiếu lên thân thể người đàn bà để soi sáng cho người ta thấy phần linh hồn ẩn sâu đằng sau da thịt. Cả bờ vai mỏng và đôi vú nhỏ - mà những gã đàn ông dung tục vẫn đánh giá như thứ hàng chất lượng kém - ở đây cũng hiện nguyên hình với vẻ đẹp khắc kỷ xót xa mà người ta thường gặp ở những tranh thánh thời Trung Cổ.
Na tiếc đau tiếc đớn khi nghĩ đến chuyện phải rao bán bức tranh, nhưng chẳng còn cách nào khác. Nàng tự an ủi rằng rồi đây nó sẽ được lưu giữ trong sưu tập của một người am hiểu hội họa.Rồi biết đâu đấy,một ngày kia nó sẽ vào nằm ở một bảo tàng,và tình yêu của nàng được ký thác trong đó sẽ còn mãi mãi cùng với giấc mơ bất tử mà nghệ sĩ nào cũng từng ấp ủ.
Na và Tuấn yêu nhau từ năm đầu tiên học chung ở trường nghệ thuật. Tuấn là sinh viên trội bật nhất, còn Na ở trong đám đông những cây cọ trẻ tầm thường làm nền cho lớp học. Nàng luôn khổ tâm vì những ngón tay không quyền năng, chúng bất lực không giúp nàng diễn tả những rung cảm thuần khiết nhất trong lòng nàng. Nàng cũng từng vẽ người mình yêu, nhưng bức chân dung ấy lúc nào nàng cũng giấu kỹ trong một góc tủ. Mỗi lần nhìn thấy nó, nàng lại xấu hổ, bởi cũng là mái tóc rũ trước trán, cũng là gương mặt với vẻ đẹp đàn ông, nhưng chẳng có một tí gì là quyến rũ và sức sống. Gương mặt thiên thần của người mẫu khi bị nhốt vào tranh đã hóa thành một bộ mặt thô thiển, nông cạn và chẳng có tí linh hồn.
Sự kém tài là nguyên nhân khiến nàng dần dần xem người yêu như một thần tượng.Về sau khi đã sống chung, nàng là người yêu, người bạn, người phục vụ và bảo vệ chàng, ngủ cùng giường với chàng ban đêm, nấu ăn cho chàng ban ngày, làm người mẫu thường xuyên cho chàng vẽ, bởi chàng chẳng có tiền thuê mẫu, mà cũng không muốn vẽ ai ngoài nàng.
*
Khi nàng bước vào đại sảnh, đoàn thiếu nữ tiếp tân đã xong phần luyện tập của mình, đang ngồi nơi hai dãy tràng kỷ dài dọc theo vách. Nữ chủ nhân Tuyết N. đang bước từng bước uyển chuyển trên tấm thảm nhung màu huyết dụ, tiến về phía chiếc ghế lớn với dáng dấp như một nữ hoàng đang tiến đến chiếc ngai của mình. Theo sau Tuyết N., gã đạo diễn không rời mắt khỏi từng cử động.
Giữa lúc đó người nữ khách xộc vào. Tuyết N. cau mày lại:
“Tôi đã bảo với cô rồi. Tranh trưng bày đã chọn xong từ hơn mười ngày. Giờ này tôi không tiếp các họa sĩ nữa”.
Từ lúc vào, Na đã cố đè nén cho trái tim mình đừng đập rộn lên dưới cái vỏ lạnh lùng kiêu ngạo; giờ đây lồng ngực nàng lại loạn xạ lên với nhịp tim thon thót. Nàng cố giữ bình tĩnh:
- Thưa bà, nghe nói mới lúc nãy họa sĩ B.D, họa sĩ T.Đ.N vẫn còn cho người đưa tranh đến.
Tuyết N. cười, tiếng cười nàng nghe như tiếng thủy tinh và sứ chạm nhau, sang trọng nhưng rất lạnh lẽo. “Họa sĩ B.D, họa sĩ T.Đ.N? Cô là ai mà dám so với những tên tuổi ấy? Gallery của tôi chỉ nhận giới thiệu những tranh thật xịn, tác phẩm lớn của các danh họa”.
- Thưa bà, tôi đến đây không phải vì tôi, mà vì một người khác. Một thiên tài, thưa bà. Nếu bà nhìn thấy... Bà sẽ không thể ngoảnh mặt đi. Người ta đồn rằng bà là tri âm của các họa sĩ, bà phát hiện và khơi dậy những tài năng.
Nói rồi nàng quả quyết rút trong ngực áo ra một tấm ảnh. Đấy là ảnh chụp bức tranh lớn mà Tuấn đã vẽ, bức tranh mà chàng trai tâm đắc và yêu quý nhất trong suốt quãng đời từ khi cầm cọ đến giờ. Na cầm nó bằng hai tay, run run đưa cho người đàn bà.
Tuyết N. đã ngồi trên cái ngai lộng lẫy, bà ta liếc qua phiến ảnh trên tay cô gái. “Thiên tài của cô đâu, sao hắn ta không đích thân đến đây?”
Na ngắc ngứ không nói ra lời. Nàng sợ làm phật lòng người đàn bà nếu nói ra sự thật, rằng Tuấn không bao giờ chịu cúi mình cầu lụy các gallery; rằng anh cảm thấy phải đặt tài năng mình dưới sự mặc cả của những đầu nậu là nhục nhã; rằng nàng muốn gánh lấy cái phần tục lụy của nghệ thuật để cho tâm hồn anh khỏi bị tổn thương. Làm sao giải thích chuyện này với Tuyết N.? Na lúng túng và lặng im. Dù sao bà chủ Tuyết N. đã chịu bắt lời nói chuyện với mình, đấy đã là điều đáng mừng rồi.
Tuyết N. nhìn tấm phóng ảnh một lúc, rồi trả lại cho Na.
- “Thưa bà ...?”
- “Cô bảo tác giả là một thiên tài. Nhưng tôi chưa nghe tới tên y bao giờ cả”.
- “Thưa bà, thiên tài nào khi đầu cũng đã từng là người vô danh... Nhưng nếu bức tranh này được treo ở gallery trong đêm khai mạc, thì nó có rất nhiều cơ may lọt vào mắt xanh của những nhà buôn tranh có cỡ; có thể họ sẽ mua nó với một giá lớn, lúc đó Kình Dương sẽ có cả lợi nhuận lẫn tiếng tăm, vì người ta sẽ hiểu rằng đây là nơi giới thiệu với họ những giá trị mới”.
Những mơ ước nóng bỏng trong lòng khiến cả lời lẽ lẫn vẻ mặt Na nhuộm một vẻ say sưa đầy thuyết phục. Ngồi trên bệ, dưới chân bà chủ, gã đạo diễn lặng lẽ quan sát cô, vẻ chán chường dần tan biến trên khuôn mặt y.
Tuyết N. đáp lời cô gái bằng một cái nhún vai:
- Cô nói đúng, nếu một gã vô danh tiểu tốt được treo tranh ở đây, ngày mai người ta sẽ nhìn y kính nể như nhìn một bậc thầy.
- Thưa bà, bà có thể giúp được một tài năng trong cơn khốn khó, xin bà đừng tiếc công. Nếu bán được tranh, chúng tôi sẽ nhớ ơn bà mãi mãi.
Người đàn bà quay đi. “Tôi không biết ai có tài mà lại phải chịu khốn khó. Tôi làm nghệ thuật, không phải lập trại tế bần”. Dứt lời, bà ta ném một cái nhìn sắc sảo về phía gã đạo diễn; thế là gã này chồm dậy, chụp lấy cườm tay Na, kéo ngược nàng ra khỏi đại sảnh.
- Với bọn người này, cô phải mua sự đồng ý của chúng. Không đủ sức mua thì thôi, đừng van xin. Phải nói thách giá của mình để chúng khiếp hãi, đừng gợi lòng thương của chúng, vô ích.
“Tôi chịu thôi. Tôi không thể...” Na nghẹn ngào. Người đàn ông lắc đầu:
- Cô có đem theo sổ tay không? Không có thì một mẩu giấy cũng được. À, phía sau bức ảnh ấy, được rồi. Tôi đọc cho cô ghi cái này. Có thể đó là một cơ hội cuối cùng...
Gã đọc cho Na ghi một địa chỉ Email trước khi hai người ra đến cánh cửa lớn, nơi gã buông tay cho Na một mình bước ra, như một con bọ rơi ra khỏi chiếc hộp vàng.
*
Tên vệ sĩ ngồi trên bậc thềm, bộ quần áo của hắn dày, lùng thùng và có vô số túi; những đường xếp và túi lớn trên y phục giúp hắn giấu kín những vũ khí nho nhỏ làm bằng thép quý. Hắn chỉ giấu nhẹm chúng vì yêu cầu mỹ quan thôi, chứ ai cũng biết Hùng Rô không bao giờ đi đến đâu với hai bàn tay không.
Gian phòng hắn đang ngồi rộng và sâu hút, ở cuối phòng là một giàn cửa kính lớn nhưng những tấm màn dày đã ngăn hết ánh sáng bên ngoài, thành thử mọi thứ chỉ còn được chiếu sáng bởi bốn ngọn đèn mắt cáo nhỏ xíu gắn lút vào bên trong trần nhà. Giữa phòng, trên chiếc ghế bành lớn, một người đàn ông mảnh dẻ ngả mình; Mái tóc và cái mũi đổ bóng xuống che hầu hết những đường nét khác của khuôn mặt. Lúc này đây, người đàn ông đang cầm hờ hững trong tay một điếu xì gà lớn gắn vào cái tẩu bằng ngà, vốn là một cổ vật. Y rít thuốc bằng vẻ đủng đỉnh của một con mèo già đang thu mình. Mỗi lần điếu thuốc cháy đỏ, chút ánh sáng bừng lên hắt ánh lửa vào đôi mắt lim dim trên khuôn mặt gầy. Màu xanh lờ mờ nơi những gốc ria trên mép sát cạnh màu hồng sậm của đôi môi mỏng.
Một người đàn ông vào trạc tuổi đã gần sáu mươi mà còn có màu môi như vậy, kể cũng kỳ lạ. Gã vệ sĩ ngồi dưới chân y, mắt cũng lim dim, gã đang khoan khoái và thèm thuồng vì hít phải mùi thơm tỏa ra từ điếu thuốc kia: mùi thơm của một vườn nhãn chín.
Một màn hình vi tính đặt cạnh chiếc ghế bành giúp người đàn ông có thể nhìn thấy cảnh tượng ngoài đại sảnh từ trong căn phòng kín. Trên màn hình, Tuyết N. đang cười mãn nguyện. Người đàn ông nhìn nụ cười ấy với khuôn mặt bất động, nhìn vẻ mặt ấy chẳng ai có thể hiểu y đang nghĩ gì.
Rút chiếc điện thoại di động trong túi ra, y mở đọc các email đang được gửi tới, cũng với vẻ mặt đóng kín.
Bỗng y dừng lại, đôi mắt lim dim hơi mở to ra nhìn vào màn hình nhỏ xíu của điện thoại. “Hùng Rô!” Nghe tiếng gọi, gã vệ sĩ to lớn đứng phắt dậy. Thấy chủ chỉ về phía màn hình máy vi tính, y hiểu ý ngay, tắt mạch phím đang truyền dẫn từ đại sảnh, mở sang mục check mail. Chốc lát, bức tranh người thiếu nữ đã hiện ra. Qua ánh sáng của màn hình tinh thể lỏng, những đường nét của người trong tranh như tỏa hào quang làm chói mắt người nhìn.
“Hùng Rô!” Người đàn ông lại gọi. Tiếng gọi khàn khàn phát ra từ thân hình lép kẹp đó lại có sức mạnh khiến cái thân thể to lớn dềnh dàng của Hùng Rô phải tuân theo răm rắp.
Hùng Rô đi ra cửa.
Mấy phút sau, có tiếng giày cao gót hấp tấp gõ lách cách ngoài hành lang. Rồi cánh cửa mở, Tuyết N. lách qua tấm màn nhung tiến vào.
Nàng đến bên chiếc ghế bành, ngồi dựa vào lòng người đàn ông:
- Anh muốn xem bức tranh đó sao? Em đã từ chối rồi. Một bức tranh tầm thường. Em không chịu nổi những gì tầm thường, trong gallery của em, tất cả phải là tranh của những tên tuổi lớn.
Tuyết N. ép sát mình vào thân người đàn ông, chiếc soirée cổ rộng xếp nếp hững hờ, thân thể nàng tươi mát và gợi mở như mâm cỗ hoan lạc. Người đàn ông đưa một tay lên ngực Tuyết N., tay kia vẫn tiếp tục cầm điếu xì gà. Tuyết N. khép nhẹ mắt , nàng mơn trớn y bằng cả thân thể, vẻ mặt và giọng nói rủ rỉ như những giọt mật. “Em chọn đủ số tranh, con số này phù hợp với cung số của anh trong năm nay, thầy chiêm tinh đã dặn lui dặn tới không được làm sai, nguy hiểm lắm anh à”. Người đàn ông gật đầu, vẻ mặt không lộ vẻ tán thành hay phản đối. Tuyết N. lay nhẹ vai y,nũng nịu:
- Vậy em gọi Hùng Rô quay lại nhé?
Người đàn ông lắc đầu. Tuyết N. hất mạnh bàn tay y ra, đứng phắt dậy, ngồi dịch ra khỏi lòng y. Nàng kêu lên như xé tai:
- Vậy mà anh nói tôi là chủ gallery này!
Người đàn ông vẫn điềm đạm hút thuốc. “Anh không hiểu em muốn gì. Coi chừng, khi giận dữ trông em xấu hẳn đi”.
- Em muốn một là anh tôn trọng quyền làm chủ của em ở đây, hai là đừng nhìn mặt em nữa.
- Thực sao? Anh cứ nghĩ em thích ở vị trí hiện nay hơn là quay về cái quán karaoké nơi anh gặp em lần đầu.
Người đàn bà im lặng quay lưng. Khi nàng ra tới đại sảnh, da mặt nàng xám ngoét kỳ dị đến nỗi gã đạo diễn sững sờ khi nhìn thấy nhân vật chính của mình.
*
“Tại sao cô không đưa tranh đến đây?”. Người đàn ông hỏi. Khi ngồi ngay ngắn, trông gã đầy uy lực. Dù thân hình gầy guộc và khuôn mặt xanh xao, giọng nói gã lớn, mạnh và âm vang.
Cô nàng họa sĩ nghèo không thể không cảm thấy xao xuyến trước sự tráng lệ của gian phòng, trông như một u cung. Ở đây, tất cả toát ra cái vẻ lấn át lạnh lùng, như một con thú khổng lồ đang chực há mồm nuốt chửng lấy nàng.
Na cảm thấy vướng ở cổ họng, nàng không nén được mấy tiếng ho khúc khắc. “Tôi chờ một lời thỏa thuận. Người của ông bảo rằng chẳng những nhận trưng bày, ông còn muốn mua đứt bức tranh”.
Người đàn ông nhếch mép. “Cô muốn bao nhiêu?”
Trái tim Na lồng lên, đập rộn rã trong lồng ngực. Cố giữ vẻ mặt lạnh lùng, cô thốt lên với vẻ khinh khỉnh:
- Hai nghìn rưỡi đô, thưa ông.
Người đàn ông ngả lưng vào thành ghế, y bắt đầu bẻ các đốt ngón tay khiến chúng kêu lên lốp bốp. Mặt y không đổi sắc, ánh mắt đảo từ đầu đến chân người phụ nữ trước mặt.
- Cô tưởng đây là Hồng Kông hoặc Singapore sao? Hai nghìn rưỡi đô cho tác phẩm của một họa sĩ chưa hề tiếng tăm?
Na không chuẩn bị cho mình một thái độ nào tiếp theo, nên nàng khựng lại. Rồi đôi mắt nàng đột ngột sáng lên, lần này là ánh sáng của một niềm tin mạnh mẽ thực sự:
- Hôm nay nếu ông mua nó, ngày mai Kình Dương sẽ sánh vai với những nơi ông vừa nhắc.
Người đàn ông cười hoài nghi, mắt không rời ánh chớp trên mặt cô gái. Y buông sõng:
- Được rồi. Tôi mua. Tôi trả cho cô ba nghìn, không kém một xu.
Na bất ngờ quá, cô không kìm chế được nỗi vui sướng, hai tay ôm lấy mặt.
Chờ cho cô ngửng lên, gã đàn ông nói tiếp:
- Với một điều kiện. Cô là người mẫu của bức tranh phải không? Tôi muốn cả bức tranh và cả cô. Ba ngàn đô, cả hai. Cô hiểu chứ?
Bên tai Na như có một thanh sắt đang nung đỏ chợt bị dụi và nước lạnh.
Cô lùi lại một bước, vẻ như muốn tát mạnh vào mặt gã đàn ông, nhưng gã đang ở ngoài tầm tay cô.
- Ông nói gì thế? Ông có điên không?
Người đàn ông mỉm cười không đáp .
Na hụt hẫng, quay ngoắt lại, bỏ đi với vẻ mặt hầm hầm ghê tởm.
Người đàn ông điềm tĩnh nhìn theo.
Bước chân Na chếnh choáng như người ngủ mơ vừa tỉnh. Trước mắt cô hiện ra hình ảnh Tuấn, giờ này đang miệt mài vẽ trong căn phòng nhỏ.
Ngày mai, một người giàu có sẽ đến chồng tiền thuê nơi ấy.
Lúc sắp bước ra khỏi phòng, bỗng nhiên Na òa lên khóc thảm thiết, rồi nàng quay lại, những giọt lệ căm hờn ứa ra từ đôi mắt lửa cháy.
Người đàn ông khẽ gật đầu.Lặng lẽ,y ngắm nghía vẻ đau khổ của cô gái với vẻ khoái trá,như người ta nhấm nháp một cốc rượu vang khai vị. “Lại đây, em bé - Y quay sang nói với tên vệ sĩ - “Lúc nào ta cũng khâm phục phụ nữ ngày nay, họ quyết định trong vài giây những gì mà ngày xưa phải đắn đo nhiều tháng trời”.
Na lắc đầu. “Tôi đồng ý, nhưng không phải bây giờ. Hai giờ sau tôi sẽ quay lại.”
Dù trí óc mê mụ và đau buốt, Na vẫn còn nhớ bây giờ là năm giờ chiều.Như lệ thường giờ ấy dù đang đi đâu họ cũng quay về bên nhau.Nàng pha cà phê và hai người ngồi nhìn ra khoảng trời xanh trên cửa sổ;Họ nói với nhau về những niềm hy vọng, những bức tranh đang ấp ủ,những chuyến đi xa trong tương lai......
Giờ đây nàng phải về. Nàng muốn gặp Tuấn,bởi nàng biết lát nữa đây khi đã bán mình,sẽ không có gì như trước nữa,không bao giờø có lại một giờ ngọt ngào như thế.
Trên ghế bành, gã đàn ông không tỏ vẻ gì nôn nóng. Y bảo:
- Được thôi. Hai giờ sau cô sẽ trở lại, mà này, đừng mặc bộ váy ngớ ngẩn này, hãy mặc cái gì khác. Luộm thuộm cũng được, rách rưới cũng được, tôi rất thích cái vẻ thiên thần vô lại của cô, chớ có tìm cách tỉa tót nó.
Na đi rồi, Hùng Rô nhìn chủ:
- Biết đâu cô ả sẽ chuồn thẳng.
Gã chủ lắc đầu:
- Con bé cần tiền đến cháy da.Món tiền của ta là sợi dây đã buộc vào cổ nó.
Hùng Rô cười hềnh hệch:
- Giá quá cao. Một đứa con gái lép kẹp, có gì là hấp dẫn? Tệ hơn những con mái bèo nhất.
- Chú lầm. Người phàm ăn không thể hiểu cái thú ẩm thực của người sành. Chú có thấy cái eo của con bé không? Ta chưa thấy đứa con gái nào có cái eo nhỏ như thế.
- Eo nhỏ thì sao?
Trong lúc hai thầy trò nói chuyện thì bên ngoài, Tuyết N. đang đi đi lại lại. Giờ đây, dáng vẻ nàng là dáng vẻ của con hổ cái bị thương.
Một cô giúp việc trẻ tay bưng khay rượu đến nói thầm vào tai nàng. Tuyết N. chăm chú nghe rồi cười gằn:
-Đồ điếm!
Mắt Tuyết N. phát ra những tia sáng hung hãn. Rồi như chợt nghĩ ra,nàng bỗng dịu vẻ mặt,nhoẻn một nụ cười đắc ý.Thấy nụ cười ấy,cô bé giúp việc sợ hãi nhìn quanh, rồi bưng khay đi.
Tuyết N. gọi với theo:
-Gọi Hùng Rô ,bảo ta có việc cần gặp y.
*
Quãng đường từ gallery tuy không xa, nhưng đôi chân lẫn lộn khiến Na loanh quanh mãi giữa những con đường nhỏ. Nàng vừa đi vừa khóc rồi cuối cùng câm nín, lặng lẽ, mắt ánh lên nỗi đau đớn gan lỳ .
Khi Na về đến trước nhà, chẳng còn giọt nắng nào trước hiên, và trên da mặt nàng cũng chẳng còn một giọt máu.
Có tiếng động ở phòng trong. Na giật mình,theo thói quen, nàng lo lắng, có thể Tuấn sẽ nổi cơn giận khi thấy nàng đã lén đi với bộ váy đỏm dáng này, chắc chắn là đến những nơi chàng không thích.
Trong phòng, chàng trai đang cắm cúi vẽ, lưng quay về phía cửa sổ.
“Na! Na ơi!” Chàng kêu to khi nghe tiếng chân nàng, mắt vẫn không rời bức vẽ. “Anh đã gặp vận đỏ rồi. Anh đã nói mà. Thần may mắn đã đến!”’
“Anh nói sao?” Na kêu lên, tưởng chừng tim vỡ ra. Có thể nào? Nàng phấp phỏng ....
“Một người đàn bà, em ạ, một người đàn bà tuyệt đẹp, bà ta bảo rằng gallery của bà ấy sẽ rất vinh dự giới thiệu bức tranh của anh. Bà ta đến bằng xe hơi! Anh chưa bao giờ nhìn thấy ai đẹp và lịch lãm như bà ấy! Gã vệ sĩ dẫn đường cho bà ta còn bảnh hơn một ông chủ!”
Tuấn không ngừng tay dập những tảng màu lên khung vải. Na chạy tới, nhìn vào bức tranh lớn chàng đang tô sửa. Chợt nàng hét lên, chết điếng.
Đó là bức tranh về nàng, giờ đây Tuấn đang vội vã trét những đường nét mới lên. Vẫn màu nền đó, vẫn dáng người đó, nhưng thay vì mái tóc xõa rối là mái tóc búi cao quý phái, và bộ ngực nữ tu giờ đây đã hóa thành bộ ngực đồ sộ mỡ màng của nữ chủ nhân gallery Kình Dương.
*
Đúng tám giờ tối gallery Kình Dương được cắt băng khánh thành. Tháp sâm banh tuôn trào, những khách mời nâng ly, lót tay bằng những chiếc khăn lụa trắng nõn.
Trước cổng gallery, xe hơi đậu bóng loáng dọc vệ đường. Trong buổi tiếp tân, nữ chủ nhân Tuyết N. tươi tắn và sung mãn, xuất hiện như một bông hoa bằng pha lê rực rỡ dưới ánh đèn chùm muôn màu chiếu sáng. Bên cạnh nàng là một gương mặt mới, một họa sĩ còn trẻ nhưng được lưu ý nhiều nhất vì vẻ hào hoa lãng mạn và cả vì bức tranh đang được trưng bày ở chỗ sáng nhất, quan trọng nhất trong đại sảnh. Đó là bức vẽ về nữ chủ nhân gallery, kết quả của sự chắp nối dị dạng vô hồn, trông giống như một thứ côn trùng đang biến thái dở dang. Mặc dù vậy, nhiều người đã tấm tắc khen ngợi nó, một số nhà phê bình hội họa còn phát hiện ra nơi đây một bút pháp mới đầy sáng tạo, pha trộn giữa hư và thực.
Hai giờ khuya, Tuấn mới về đến nhà. Thứ men quyến rũ của vinh quang lần đầu thấm vào hồn anh, khiến chân anh cứ lâng lâng như đang đi trên mây khói.
Ngả lưng một lúc lâu Tuấn mới nhận ra Na không có trong căn hộ, những xống áo của nàng treo trên vách cũng biến mất. Tuấn nhổm dậy, nhìn kỹ lại quanh phòng. Chiếc lược, chiếc bút chì tô môi, chiếc mũ vải gai màu beige của nàng cũng không còn nữa.
Tuấn bồn chồn, muốn đi tìm Na nhưng đã quá khuya. Đi lui đi tới một lúc, anh chợt kéo tấm màn trước kia vẫn che bức tranh lớn...
Nơi khoảng trống mà bức tranh để lại, Na đã đặt một cái bàn nhỏ, trên bàn là bức chân dung của anh mà trước đây nàng đã vẽ: một bộ mặt thô thiển, nông cạn và chẳng có tí linh hồn.
Trước bức tranh là một bát nhang mới, trên đó cắm cây nhang đang còn cháy dở.
Kể từ hôm đó, người trong phố chẳng ai còn thấy Na ở đâu nữa.
Còn Tuấn thì càng ngày càng nổi tiếng. Sự nghiệp của chàng không phải chỉ ngừng ở gallery Kình Dương.
T.T.M
2003
Dù đã thấy nhau trên webcam nhiều lần, song Miên không thể không lúng túng khi lần đầu gặp Bent. Trong webcam anh trông trẻ hơn bên ngoài. Khi đối diện, nhìn những nếp nhăn nhỏ trên trán, Miên đoán chừng anh cũng phải lớn hơn mình đến chục tuổi.
"Sao anh đến mà không báo, làm em không kịp mua hoa?", "Anh muốn dành cho em một ngạc nhiên bất ngờ. Vậy mà em vẫn biết". Bent cười, ôm choàng lấy Miên... Miên lúng túng bởi thấy mọi người đang quay lại nhìn mình. Đây là sân bay một thành phố nhỏ, rất nhiều người quen... Mà mình có giữ ý thái quá chăng, đây đâu phải một người lạ. Con người này và mình đã hiểu nhau từng li từng tí hơn một năm nay rồi.
Tự nhủ mình thế nên khi taxi đi được ba phần tư con đường từ sân bay vào thành phố thì Miên đã xua được gần hết cảm giác ngại ngùng. Miên nhớ lại lời cô bạn tham mưu: "Tất cả những ai quen nhau trên mạng khi lần đầu gặp gỡ đều cảm thấy một chút thất vọng. Ai vượt qua được cảm giác ban đầu đó thì còn, mà không được, thì coi như tiêu luôn". Liếc nhìn Bent, Miên thấy sau phút nồng hậu ban đầu, giờ anh cũng đang ngồi im, đôi mắt xanh lơ bối rối. Biết đâu chừng anh ấy cũng đang thất vọng... Bỗng cảm giác thân quen từ hơn ba trăm bức email chợt tràn ngập trong Miên, cô rụt rè đưa tay cầm lấy tay Bent... Anh quay lại, mỉm cười thật hiền, thế là phút lóng ngóng ban đầu đã qua đi.
Xe dừng trước khách sạn, Bent nhìn Miên, ngạc nhiên. Như đã nói trong email, anh tính sẽ ở lại nhà Miên. Trong không gian mạng anh đã đánh thức Miên dậy mỗi buổi sáng, uống cà phê với cô, đưa cô đến sở làm. Buổi tối Miên nấu cơm đợi anh về, anh vừa ăn vừa luôn miệng khen ngon... Ăn xong anh còn làm việc thêm ba tiếng đồng hồ trên máy tính, đêm nào Miên cũng phải nhắc anh đi ngủ sớm.
Vậy mà bây giờ Miên đưa anh đến một khách sạn! Miên lúng túng giải thích: Ở đây không giống trên mạng. Muốn được ở chung một nhà thì còn phải qua nhiều công đoạn lắm.
***
Khách sạn Hoa Tím nằm bên sông, nhỏ xinh và sạch sẽ, xây dựng đơn giản nhưng đẹp nhờ cảnh thiên nhiên bao quanh. Chọn khách sạn này, Miên đã hỏi thăm thông tin từ nhiều bạn bè trong ngành du lịch. Theo lời các bạn Miên, khách sạn này trông có vẻ giống một nơi ở ẩn, không có tiếng gõ cửa lúc đêm khuya. Trong lúc chờ Bent lên phòng cất hành lý và tắm, Miên đọc lại thực đơn để đặt bữa tối. "Theo em thì chị đừng gọi món vả chua. Sợ người nước ngoài chưa quen bụng với đồ ăn lên men của xứ mình". Cô gái ở khách sạn e dè đề nghị. Miên nghĩ cô ta có lý, nhưng món ăn này cô đã nhiều lần tả với Bent trong những bữa ăn chung trên mạng. Anh vẫn thường hỏi mỗi khi ngồi vào bàn ăn tưởng tượng giữa hai người. Vậy hôm nay cũng nên để anh nếm thử một chút, Miên tự nhủ, mình sẽ cẩn thận bảo anh ăn ít thôi.
Bữa ăn tối tuyệt vời. Một dĩa nhạc Schubert nhẹ nhàng tha thiết. Bàn ăn đặt bên cửa sổ. Xa xa là nhịp cầu lấp lánh đèn soi bóng trên sông. Bent ăn ngon miệng, anh đánh sạch cả dĩa vả chua. Đúng là bên ngoài trông anh hơi thô, bụng đã hơi mập, không lung linh như trong trí tưởng tượng của Miên. Nhưng cái quan trọng là mình phải biết mình muốn gì!
Ba mươi sáu tuổi, Miên không còn trẻ. Cuộc hôn nhân đầu đời đổ vỡ làm cô trở thành lầm lì khép kín hơn mười năm. Hơn mười năm sau khi chia tay Tuấn, Miên không quen thân được với một người đàn ông nào, chỉ vì luôn bị ám ảnh: họ lại sắp nói dối, sắp nói dối...
Sau này, khi công tác ở bộ phận đối ngoại có lần Miên nghe một khách nước ngoài than vãn: "Ở đây thật lạ, đôi khi chỉ một chuyện đơn giản, lý do đi trễ chẳng hạn người ta cũng không chịu nói thật". Ấn tượng về Tuấn bỗng quay lại, Miên bất giác lạnh người. Mười năm trước, điện thoại di động chưa phổ biến như bây giờ. Lần nào cô đi công tác, Tuấn cũng gọi điện cho cô mỗi đêm. "Anh đang ở đâu?". "Ở nhà, xem tivi, nhớ em lắm!". Miên xuýt xoa khuyên chồng đi ngủ sớm... Một hôm tình cờ nghe lọt vào trong điện thoại một âm thanh lạ, cô tò mò kiểm tra tổng đài, phát hiện ra số điện từ đó Tuấn gọi là số điện của một hộp đêm... Lúc đó, cô lạnh da gà, mỗi chân lông đều sởn ốc.
Từ đó Miên thận trọng, thận trọng thái quá đến nỗi chẳng tìm được cho mình một người đàn ông nào khác. "Muốn có tình yêu thì phải mở lòng ra chứ" - Bạn gái khuyên. Họ giới thiệu Bent. "Anh ấy là người tốt. Những người Việt qua bên đó công tác đều được Bent giúp đỡ. Thật thà như đếm và dễ tính vô cùng". Mấy dòng lý lịch trích ngang đó làm Miên tạm yên tâm. Khoảng cách xa làm Miên không bị ám ảnh bởi nỗi sợ đàn ông, rồi sự cô đơn làm cho trò chơi lứa đôi trên mạng dần dần trở nên một nửa cuộc sống.
Bây giờ Bent ngồi đây. Miên bắt đầu thôi không nhìn thấy cái bụng đã hơi mập, mái tóc bắt đầu thưa và những nếp nhăn nhỏ trên trán. Bây giờ cô thấy ánh mắt anh cởi mở, miệng cười thân thiện, những câu nói đùa hóm hỉnh thật dễ thương, đúng là hình ảnh đã thấy qua những bức thư. Những bức thư luôn kết thúc bằng dòng chữ ấm áp: "Lots of love from Bent" rồi "Lots of kisses from Bent "- rất nhiều tình yêu và cái hôn từ Bent.
"Anh muốn đến thăm nhà em, nơi anh đã đến nhiều lần lắm rồi". Bent bảo. Miên do dự. Bây giờ trời đã tối. Hàng xóm sẽ nghĩ sao khi thấy cô đột ngột xuất hiện với một ông Tây cao lêu đêu.
"Để mai đi anh", Miên hẹn. Miên đưa Bent đến một quán cà phê nhạc để anh có thể nghe Beethoven và uống một ly Brandy như anh vẫn thường miêu tả về những buổi tối một mình. Một nghệ sĩ vĩ cầm đang chơi nhạc cạnh cái lò sưởi cũ hắt lên một thứ ánh sáng ấm áp. Khi nghe hết bài Sonate moonlight, Bent đặt tay lên vai Miên, rồi cánh tay anh quàng quanh vai cô.
Họ chưa dám nói gì về tương lai, bởi cả hai đều cảm thấy trước hết phải làm sao cho những gì trong không gian mạng bước ra ngoài cuộc đời. Họ tiếp tục câu chuyện thường nói: những món ăn, thời tiết, những bộ phim rồi những dự tính cho tương lai, những kỷ niệm trong quãng đời quá khứ...
Miên bất giác bật ra một câu từ đâu đó sâu trong tâm tưởng: "Em chỉ mong lúc nào anh cũng nói thật với em về mọi chuyện". Bent mỉm cười: "Tất nhiên. Nói dối là một tội trọng, anh sẽ không bao giờ hạ mình làm chuyện đó".
***
Một tuần sau Bent đi. Miên hỏi cảm tưởng, Bent cười: "More than I can dream" - Còn hơn những gì anh có thể mơ. Anh ôm Miên thật chặt khi chia tay, lần này Miên không còn thấy ngượng ngùng nữa. "Anh sẽ quay lại chứ?". "Tất nhiên" Anh cúi xuống hôn từ biệt. Miên vòng hai tay quanh người anh siết chặt, cái bụng hơi cồm cộm của anh chạm vào dưới ngực, một cảm giác ngộ nghĩnh và thân thương. Bent chỉ vắng có hai hôm đi đường, sau đó lại trở về ngay với Miên... trên mạng. Những bức thư lại tiếp tục. Bây giờ hơi khác đi, những bức thư kết thúc bằng "Warmest hugs from Bent" - Bent ôm hôn thắm thiết. Sao thế, Miên cười thầm, bây giờ anh đã nhiễm ngôn ngữ chính trị rồi chắc?
Bốn tháng sau, đột nhiên Bent gửi mail hỏi Miên về giá đất, giá nhà. "Anh định sống ở đây sao?", "Tại sao không? Đi đi về về giữa hai châu lục, đó là cuộc sống mà ở đây nhiều người mơ ước". Một tháng trời, Miên đi hỏi rồi mail cho Bent cả một danh sách giá cả đủ loại đất từ mặt tiền đường phố đến đất rẻo ở ven sông.
Bent thì miệt mài làm việc. Bây giờ anh làm việc đến mười ba giờ một ngày, nhiều đêm ngủ gật bên máy tính. Kể với Miên, Miên xót cả ruột. Miên chẳng biết làm gì để giúp anh ngoài những lời chăm sóc. Nhớ ăn nhiều trái cây, ăn nhiều cá, nhớ cẩn thận khi lái xe trên đường. Thư của anh thưa hơn trước. Hai hôm một bức, rồi ba bốn hôm. Chỉ vì muốn có một chỗ ở đẹp mà anh phải hy sinh nhiều thế... Mỗi lần mở hộp thư không thấy Bent, Miên buồn hẫng cả người. "Bent, không cần phải vất vả thế, mình có thể ở trong căn nhà nhỏ của em mà!". Nhưng Bent bảo: "My dear do not be sad, we have to see what the future has in mind for us" - Đừng buồn em ạ, hãy chờ xem tương lai... Vậy là Miên lại thấy tin tưởng, lại vui...
***
Rồi tháng chín đến, mùa du lịch bắt đầu và bỗng nhiên đèn nickname của Bent tắt hẳn trên mạng. Trước đó Bent đã nói với Miên dự định tháng chín này về Huế. Hay là anh đã lên đường? Nhưng sao anh không nói gì với Miên? Anh muốn dành một ngạc nhiên bất ngờ?
Lòng Miên tưng bừng vui, cô lau dọn căn nhà nhỏ, mua thức ăn chất đầy tủ lạnh rồi dạo phố sắm cho mình vài bộ cánh mới. Lần này không phải quá e dè nữa, có thể để Bent về đây ăn cơm với mình, anh có vẻ thích hợp với cơm Á Đông, món vả chua anh còn xơi được cả dĩa nữa là.
Chuông điện thoại reo. Miên cầm máy, chắc chắn là Bent, ai có thể gọi vào giờ khuya khoắt như thế này.
"Cám ơn chị...", đó là tiếng bà chủ miếng đất - một trong những miếng đất mà Miên đã đi hỏi cách đây mấy tháng. "Tôi đã bán được miếng đất nặng vía cho ông Tây đó rồi, muốn gặp chị để gửi chút hoa hồng...".
Sao có thể như vậy được? Vậy là Bent đã về, nhưng đang ở đâu?
Miên gọi điện đến khách sạn Hoa Tím. Liên tục nghe trả lời: "Ông Bent Johnson có ở đây, nhưng ông ấy đi chưa về". Một cuốc taxi đến khách sạn, Miên được cô gái ở quầy tiếp tân mời ngồi chờ. Một tiếng, hai tiếng. Đây là lần đầu Miên ngồi đây vào buổi tối. Trông vẻ căng thẳng của Miên, cô gái làm ở khách sạn đến ngồi cạnh cô, bắt chuyện.
Miên nhìn kỹ cô gái: Đây chính là cô gái lần trước đã góp ý về món vả chua... Hôm ấy thu mình trong chiếc áo dày cộp trông cô có vẻ chất phác, nhưng giờ này với chiếc áo hai dây mềm mại trông cô thật sexy với khuôn mặt tuổi hai mươi và khóe môi đầy nhục cảm. Nghe Miên bảo là cùng làm việc với Bent, cô tâm sự:
"Chị làm việc được với Bent thật giỏi... Chưa thấy ai kỹ tính như anh ấy. Khiếp, mua có miếng đất nhỏ tẹo mà cũng hỏi lui hỏi tới giá cả, thuê phiên dịch đọc giấy tờ, lại còn bảo đã tham khảo nhiều nguồn tin... Em bực mình, dọa bỏ luôn, ảnh mới chịu dứt khoát ký giấy".
Mười ngày sau Bent làm đám cưới với cô dâu nhỏ hơn chú rể hơn ba mươi tuổi. Miên cũng nhận được thiếp mời. Dù vẫn còn khản giọng, sưng mắt, trán còn chưa hết mùi dầu gió, Miên cũng mặc chiếc áo đầm mới mua đi dự tiệc. Dù sao đi nữa, cũng đến để chúc mừng Bent quả thực đã được "nhiều hơn mơ ước", bởi dù sao, anh đã giữ lời, anh không hề nói dối khi bảo Miên: "Hãy chờ xem tương lai...".
Tôi sang Pháp với Miên và ông Tú. Tham dự một chương trình giao lưu văn hóa trong vòng mười ngày, đối với tôi chẳng có gì quan trọng, ông Tú cũng vậy. Tới ngày đi, quơ vội mấy bộ quần áo bỏ vào vali là xong.
Cả hai chúng tôi đều đi nước ngoài đã nhiều lần. Nhưng với Miên là lần đầu, mới được một giải thưởng diễn viên xuất sắc nên được chọn đi. Cô hào hứng, hồi hộp, cứ vài hôm lại điện cho tôi, hỏi xem nên đem cái gì, khí hậu bên đó ra sao. Gọi nhiều đến nỗi tôi phát bực. Được cái may, cô có giọng nói thật dễ thương, không thì tôi đến chết vì stress.
Ông Tú hoàn toàn không nói được tiếng Pháp, còn tiếng Anh thì chỉ biết “very good” và “number one”. Miên có chịu khó học nói năm ba câu bập bẹ nhưng nghe thì chưa rèn luyện gì cả nên xem như điếc đặc. Tôi phải gánh trách nhiệm làm tai nghe miệng nói cho cả đoàn. Ông Tú là trưởng đoàn, tôi tất nhiên phải lo phục vụ ông rồi; còn Miên biết thân phận mình nên lo o bế tôi rất sớm. “Qua đó có gì khó khăn là Miên nhờ anh đó nghe!”.
Biết tôi ghiền thuốc lá nên Miên ưu ái tặng tôi luôn hai tút “con mèo”. Ai đã đi nước ngoài đều biết mấy thứ này đắt hơn hẳn trong nước và chưa chắc kiếm được thứ mình thường dùng, hay hơn hết là đem theo cho chắc. Tôi cảm động, món quà rất đúng ý, người tặng quà lại nhỏ nhẹ dễ thương. Tôi cố giữ vẻ mặt lầm lì (từ ngày vào nghề đạo diễn, tôi đã tập cho được cái vẻ hắc ám nặng nề này để các cô nàng diễn viên phải sợ mà nghe lời răm rắp). Cầm hai tút thuốc, lòng âm thầm rung động nhưng tôi vẫn lạnh lùng, buông hai tiếng cụt lủn: “Bày đặt!”.
Sân bay Charles de Gaulle đông nghịt người, cứ như một mê cung, hết đường rẽ này lại lối ngoặt kia. Ông Tú đủng đỉnh mặc tôi xoay mọi việc, còn Miên thì cứ bíu lấy tôi, tay và vai đầy những hành lý. Cái vali của nàng to thế, lại thêm hai cái túi du lịch khổng lồ. Tôi mặc kệ, tảng lờ. Mấy cô gái trẻ này lúc nào cũng tính chuyện nhờ vả người này người kia nên cứ đóng hành lý vô tư, chẳng cần đếm xỉa đến qui định của sân bay mà cũng chẳng màng nghĩ xem mình có đủ sức mang vác không. Tôi nhủ thầm thế nào mình chẳng phải đỡ Miên một tay, nhưng trước hết hãy cứ để mặc nàng xoay xở cho biết thân một lúc cái đã.
Miên cũng biết thân thật nên không dám kêu ca, cứ một tay kéo cái vali và cái túi, tay kia mang một túi kếch sù khác, trông vẻ mặt cam chịu đến cả đá nhìn thấy cũng mủi lòng. Ông Tú hết nhìn Miên ái ngại lại nhìn tôi, ý muốn tôi giúp nàng nhưng ngần ngừ không dám mở miệng. Tôi đang định qua khỏi khúc quanh này sẽ ra tay nghĩa hiệp thì bỗng một người đàn ông tóc nâu xuất hiện.
“Tôi là Claude Vallons, chào các bạn”. Vừa dứt câu chào anh ta liền ôm hôn thắm thiết hết ông Tú đến tôi, rồi đến Miên, Miên vội vã thụt lùi tránh cái ôm hôn của ông Tây. Claude nhớ ra, vội bảo: “Xin lỗi”, rồi nhanh nhẹn cúi xuống hai tay đỡ lấy cả hai cái túi Miên đang vác nặng. Miên mừng quá, ấp úng nói: “Merci”.
Tôi hơi ngượng, vội đưa tay kia ra cầm luôn cái vali Miên đang kéo. Miên tung tẩy hai tay đi tung tăng, vừa đi vừa nói như có ý cho tôi nghe: “Ông Tây này tử tế quá!”. Hơi chột dạ, nhưng để tạo không khí cởi mở bước đầu, tôi nhanh nhẩu dịch ngay câu nói của Miên cho Claude Vallons nghe. Claude hai vai khoác hai cái túi nhẹ nhàng như không, nghe tôi nói liền quay lại cười. Miên lúng túng đỏ mặt, lần đầu tiên tôi thấy nàng thật dễ thương.
Sau một giờ trên chuyến bay nội địa, Vallons đưa chúng tôi đến Strasbourg. Một thành phố đẹp tuyệt với những con đường xinh xắn và những trụ đèn viền đầy hoa leo. Bữa ăn đầu tiên, Claude hỏi tôi muốn đến quán Việt Nam hay quán ăn Pháp. Miên láu táu:
- Sang đây thì ăn thử đồ Tây cho biết chứ thức ăn Việt Nam thì muốn ăn lúc nào chẳng được.
Tôi vừa dịch vừa biên tập câu của Miên: “Cô Miên đây ngỏ ý muốn thưởng thức những món ăn độc đáo và tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Pháp”. Khuôn mặt tươi vui của người đang tiếp khách phương xa càng tươi thêm, lập tức Claude đưa chúng tôi đến nhà hàng Cheval Blanc - tuy tên là nhà hàng Ngựa Trắng nhưng bốn phía vách lại trang trí đầy những hình vịt bay, dấu hiệu đặc trưng của thiên nhiên vùng Alsace. Chiều hôm đó, sau cuộc đi thăm Bảo tàng Strasbourg, Miên nhăn nhó bảo tôi:
- Lúc trưa em sai lầm quá. Không ngờ đồ ăn Tây khó ăn đến thế. Em ăn chẳng được mấy miếng, bây giờ đói lả người.
Ông Tú nghe vậy gật gù góp thêm:
- Mình cũng vậy, nhất là lúc anh chàng Claude giới thiệu các món phó mát đặc biệt quý hiếm làm bằng sữa dê núi, mình không tài nào nuốt được.
Tôi cười khinh khỉnh:
- Bởi vậy đừng có láu táu, muốn ăn gì, mua gì thì hỏi tôi đây này. Đã dặn rồi mà lại...
Miên cười như biết lỗi:
- Em quên! Mà thôi tối nay đừng ra ăn quán nữa, để em lo...
Miên đem theo trong vali cả một túi gạo mười cân, cả nồi cơm điện, cả ruốc, nước mắm, chà bông, tôm rim ngọt. Phút chốc phòng Miên trở thành phòng ăn cho cả đoàn. Ông Tú được bữa cơm hợp khẩu vị, hớn hở ra mặt. Miên bô bô: “Đấy, dân mít nhà ta, không có nước mắm và bột ngọt thì dù cao lương mỹ vị cũng không nuốt nổi, phải không anh?”.
Tôi làm mặt nghiêm nhưng rồi cũng phải gật gù tán thưởng vì Miên nấu ăn ngon thật. Ông Tú bảo nhỏ tôi: “Này, cậu vẫn còn độc thân phải không? Cô bé này hay đấy, cứ tưởng chỉ biết văn nghệ văn gừng, không ngờ đảm đang nhanh nhẹn thế!”.
Người ta bảo đường vào trái tim người đàn ông phải thông qua dạ dày, quả đúng thật. Bữa cơm ngon làm tôi quên gần hết những ấn tượng bực bội khi phải vừa dịch vừa biên tập những câu nói quê mùa của nàng.
***
Claude đến đón Miên rất sớm, từ trước tám giờ là giờ mà ở đây người ta mới lò mò xuống phòng ăn để điểm tâm. Miên mặt tái lét chạy qua gõ cửa phòng tôi:
- Anh đi với em, chứ em biết gì mà nói năng.
- Có cần nói năng gì đâu, hôm nay vì em phải diễn cho nên Claude đưa em tới nhà hát trước để chuẩn bị mà. Anh đi thì bỏ ông Tú cho ai.
- Anh thì chỉ lo cho sếp thôi, không quan tâm tới phụ nữ... - Miên ấm ức - Đi một mình với ông Tây em sợ lắm.
- Ông ấy không ăn thịt em thì thôi, sợ cái gì?
Miên năn nỉ quá, rồi tôi cũng mềm lòng đi với nàng, thật là mệt vì thế có nghĩa là đưa Miên đến nơi xong lại phải hộc tốc quay về để tháp tùng ông Tú. Thấy tôi chịu đi Miên mừng quá, hấp tấp nhảy lên ôtô, xui xẻo đầu va mạnh vào cửa xe, cô ngã ngồi xuống nệm choáng váng. Claude vội lấy tay xoa đầu Miên, miệng không ngớt hít hà. Đau quá nên Miên quên cả rụt rè, cứ để mặc cho Claude xoa chỗ đầu u.
Thấy Claude galăng với Miên như vậy bỗng nhiên tôi hơi khó chịu. Hình như máu ích kỷ của người đàn ông núp dưới chiêu bài dân tộc nổi lên trong tôi. Claude bảo Miên:
- Cái cửa xe thật đáng trách, làm đau một phụ nữ xinh đẹp thế này.
Mặt Miên ngớ ra, quay sang nhìn tôi. Tôi bỗng bực mình vô cớ, bảo:
- Ông ấy bảo cô này chắc không mấy khi đi ôtô, thật tội nghiệp.
Đã đau lại còn xấu hổ, Miên tự ái quay đi nơi khác, mắt bắt đầu đỏ lên. Thấy vậy, Claude chẳng hiểu chuyện gì, càng lộ vẻ lo lắng. Vẻ quan tâm này thì không cần dịch, Miên có thể cảm thấy được. Tự nhiên tôi tức anh ách, không hiểu vì sao.
Sau một tuần Miên đã biết tự mình đi xe điện về quảng trường L homme de Fer để vào siêu thị Printemps mua sắm với cái vốn tiếng Pháp bập bẹ của nàng. Đi đâu tôi cũng đi theo giúp đỡ Miên chỉ trừ vào Printemps. Nguyên tắc của tôi là không bao giờ cùng đi với các người đẹp vào những nơi mua sắm. Hơn nữa, hệ thống siêu thị này, với cái tên có nghĩa là mùa xuân, đã nổi tiếng vì lời nhận xét của chính dân Pháp: mùa xuân của quý bà nhưng là mùa đông của quý ông!
Một chiều, đang tập trung trí óc để sửa chữa phần kịch bản chuẩn bị phối kết với kịch bản của Claude Vallons, tôi tình cờ nhìn qua cửa sổ thấy Miên dạo phố vừa về, không phải từ hướng có đường xe điện mà từ trên ôtô của Claude bước xuống. Tôi bỏ bút, chú ý nhìn, quan sát vẻ mặt tươi roi rói của hai người; trời đang mưa phùn, Claude hai tay xách hai túi còn Miên thì cố nhón cao lên để cầm dù che hộ Claude, coi bộ yêu đời lắm.
Một lát sau Miên đập cửa phòng tôi, khoe mấy cái áo da vừa mua ở siêu thị. Tôi lầm lì nhìn lướt qua rồi bảo:
- Người phương Tây rất thoải mái trong quan hệ nam nữ, nhưng phong tục Việt Nam mình nó khác em ạ! Nhất là trong khi mình đang đi trong một đoàn công tác, ít nhiều cũng là đại diện của nước mình...
Miên ngớ ra nhìn tôi, rồi chợt hiểu, cô hỉnh mũi:
- Anh coi em là hạng người nào mà nói thế? Em đi từ Printemps ra gặp Claude đậu xe trước mặt đường. Ông ấy chở hộ em một đoạn, có gì đâu, anh đừng hiểu lầm em.
- Lẽ ra em phải từ chối mới phải. Một mình lên xe của người đàn ông mới quen đâu phải là cách xử sự của người phụ nữ Việt Nam.
Miên đang cầm cái áo da trên tay, ném phịch xuống ghế:
- Thì bữa trước anh bảo em ông ấy có ăn thịt em đâu mà sợ.
Tôi bí nhưng cũng không chịu thua:
- Trước khác, bây giờ khác! Trước là đi làm việc, có lộ trình đàng hoàng. Bây giờ là đi tự do...
Miên phụng phịu:
- Vậy thôi, từ nay chỉ khi nào có anh em mới gặp ông ấy để anh khỏi hiểu lầm.
Nghe vậy tôi vừa ý lắm, dù hơi ép Miên một chút, may mà nàng cũng ngoan.
Chiều hôm sau tôi và Claude cùng nhau phối kết kịch bản. Một kịch bản được hình thành từ hai câu chuyện cổ một Việt, một Pháp xen kẽ nhau. Cuối buổi làm việc, Claude lộ vẻ buồn ra mặt, hỏi tôi:
- Hôm nay sao không thấy cô Miên đến.
Tôi giải thích với Claude là các buổi diễn của Miên đã xong rồi nên nàng không phải tham dự nữa. Đưa tôi về, chàng ta dừng xe nhìn lên lancan tầng ba, một cái nhìn xao xuyến lặng lẽ. Khi bắt tay tạm biệt, chợt Claude bảo tôi:
- Cô Miên diễn thật tuyệt. Hình ảnh Mỵ Châu qua vai diễn của cô ấy làm tôi xúc động vô cùng. Tôi gần như bị ám ảnh về sự chân thành và trong trắng của người phụ nữ Việt Nam...
Tôi siết chặt tay Claude cảm ơn, tảng lờ như không biết đến những gì khắc khoải đằng sau lời tán thưởng rất thành tâm đó.
Nhưng Claude nói tiếp:
- Tôi có ý định mời cô Miên ở lại ít lâu để trao đổi kinh nghiệm với các diễn viên nhà hát trẻ ở đây. Tôi có thể giúp cô ấy xin gia hạn visa...
Lại còn thế nữa! Rắc rối thật rồi. Tôi cố tìm cách lịch sự để giải thích cho Claude hiểu là tôi có nhiệm vụ đưa cả đoàn đi đến nơi, về đến chốn theo ngày qui định. Tôi cũng nói thêm nhận xét của riêng tôi là Miên vẫn còn non nớt chưa có nhiều kinh nghiệm lắm, ở đoàn kịch của tôi còn nhiều diễn viên khác có thể đóng góp hữu hiệu hơn cho các chương trình giao lưu...
***
Tôi chẳng nói gì với ông Tú nên ông chẳng biết gì về đề xuất của Claude. Mà có biết chắc chắn ông cũng nói như tôi hoặc là chỉ ừ hử rồi đẩy sang cho tôi giải quyết. Sau mấy buổi gặp mặt và tiếp tân lúc mới sang, giờ đây ông khá nhàn, đang trông cho mau đến cuối tuần để đến ngày kết thúc chuyến thăm Pháp, ông sẽ bay sang Đức thăm con đang học bên ấy.
Ngày cuối cùng, đang đóng gói hành lý tôi nghe tiếng chuông điện thoại reo. Claude gọi tôi, giọng tha thiết:
- Ông Vinh, nhờ ông dịch ra tiếng Việt cho Miên hiểu. Tôi muốn nói như thế này: “Cô Miên, nếu tôi không được gặp lại cô thì tôi chết mất!”.
Tôi quay qua Miên. “Claude gọi em đấy”. “Ông ấy nói gì, hở anh?” - Miên hỏi, vẻ thờ ơ, nàng đang bận nhét các thứ quà cáp mua được vào đáy chiếc vali chật hẹp. Tôi cố vắt óc để bịa: “Ông ấy nói những buổi diễn của em như vậy xem như tạm được, mong lần sau em sẽ khá hơn và không sai sót nữa”. Miên hỉnh mũi: “Cái ông Claude này hay nhỉ, nói năng cứ như là ông nội người ta không bằng. Nhờ anh dịch giùm: “Bái bai, chẳng có lần sau đâu nhé!”.
Lẽ nào dịch thế được, chắc chắn tôi chẳng muốn chọc giận đối tác của mình. “Claude, Miên bảo cô ấy sẽ nhớ mãi Strasbourg, nước Pháp và những ngày làm việc với ông. Cô ấy sẽ không bao giờ quên ông...”.
Tôi thực tình hào phóng những lời lẽ tình cảm với Claude. Sợ gì đâu, ngày mai tôi đã đưa Miên về nước rồi.
***
Ông Tú bay sang Đức lúc 8 giờ sáng, tôi phải đưa ông lên sân bay và lo các thủ tục cho ông, vì vậy tôi bảo Miên chuẩn bị hành lý lên Charles de Gaulle cùng một lúc, mặc dù phải đến 12 giờ máy bay về Việt Nam mới cất cánh.
Như mọi lần, nàng ngoan ngoãn nghe lệnh tôi, không dám kêu ca gì. “Mình chưa chào ông Claude, thế có phải không?” - Miên hỏi. Tôi nghiêm nghị: “Hôm qua anh đã đại diện cả đoàn tạm biệt ông ấy rồi. Vậy là đủ”.
Ông Tú vào phòng cách ly rồi, tôi và Miên ngồi chờ làm thủ tục về Việt Nam. Tôi đọc báo còn Miên uể oải thỉnh thoảng lại che miệng ngáp vặt. Thời gian trống trải làm tôi bỗng nhiên thèm thuốc chi lạ. Vẫn còn mấy điếu con mèo, tôi nhìn quanh, tìm phòng dành cho người hút thuốc. Miên bảo:
- Anh hút thuốc dữ quá, hại phổi lắm.
Tôi cười, chống chế:
- Không sao, anh sắp bỏ rồi.
Từ phòng hút thuốc bước ra, tôi nhìn về phía lối vào, chợt ồ lên một tiếng! Claude xuất hiện, tay cầm vali:
- Tôi có kế hoạch đi nghỉ ở Thái Lan nhưng nay tôi đổi ý, muốn đi Việt Nam. Tôi cần có thêm chi tiết, không khí và cảm hứng cho vở kịch sắp tới...
Mặt tôi tươi cười nhưng trong bụng thầm rủa: “Quỉ tha ma bắt!”. Claude bước vào quầy làm thủ tục, nói gì đó với cô nhân viên sân bay, cô liền rà lại trên sơ đồ ghế ngồi. Tôi hiểu là Claude đã yêu cầu sắp chỗ cho ba chúng tôi ngồi bên nhau.
Mười tám giờ đồng hồ ngồi trên máy bay đối với tôi thật dài. Claude ngồi giữa tôi và Miên. Tôi thấp thỏm không sao ngủ được. Trước khi đi Đức, ông Tú đã giao cho tôi trách nhiệm thay ông làm trưởng đoàn. Tôi phải chịu trách nhiệm với đoàn viên đến cùng. Suốt đêm tôi ngồi không ngủ, mặc dù tiếp viên đem đến nào gối nào mền... Claude cũng mở mắt yên lặng, chỉ có Miên ngủ say vặt vẹo trên ghế cho đến mãi khi máy bay hạ cánh xuống Bangkok.
Sân bay Bangkok mới xây lại, lộn xộn, khác hẳn quang cảnh lúc chúng tôi transit lần đi. Tôi lấy hành lý từ băng chuyền, chất lên xe đẩy. Phía sau tôi, Miên chới với theo mấy túi hàng, Claude nhanh tay lấy hết giúp nàng, chất lên xe đẩy của mình. Miên hai tay thong thả, vừa bước theo Claude vừa cười bảo tôi:
- Có ông Tây này đỡ quá.
Tôi nhủ thầm: ”Mình sơ ý thật!”. Bám sát theo Claude, tôi quyết tâm thực hành chức năng giám sát của trưởng đoàn. Claude và Miên bắt đầu nói chuyện với nhau, theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Tôi chú tâm nghe hai người nói chuyện, bụng mừng thầm: chẳng cần phải giữ, rào cản ngôn ngữ đã bảo vệ Miên cho tôi rồi. Chợt cơn thèm thuốc lại nổi lên, tôi phải vào phòng hút thuốc.
Chỉ trong thời gian hút chừng nửa điếu thuốc mà không ngờ Claude và Miên đã bỏ tôi một đoạn khá xa. Quỉ thật, sao Miên dám không đứng lại chờ tôi. Đẩy xe đến chỗ tập kết chờ check in đi Việt Nam, tôi thấy hai người đã ngồi đấy rồi. Miên bảo như phân trần:
- Túi xách của em ở trên xe đẩy của Claude. Em ra hiệu bảo chờ anh nhưng Claude bảo anh biết chỗ này rồi.
Tôi khịt mũi. “Claude nói gì làm sao Miên hiểu được?”. Thấy tôi lạnh tanh, Miên lo lắng, nói lí nhí:
- Em cũng thử nói chuyện với Claude một chút. Câu nào không hiểu thì đoán mò...
- Việc gì phải thế. Cứ chờ anh cùng đi, cần nói gì anh sẽ giúp cho.
Miên “Dạ”. Lại yên lặng. Cân hành lý xong, ba người ngồi yên, không ai nói với ai câu nào. Sao lạ thế?
Tôi nhìn đồng hồ. Lại thèm thuốc. Cơn thèm thuốc mạnh hơn nỗi phập phồng về trách nhiệm trưởng đoàn. Vào phòng kín, tôi gắng hút nhanh nửa điếu còn lại rồi vội ra. Claude và Miên đâu mất, ngẩng cổ nhìn lên, tôi thấy hai người đã ở trên băng chuyền lên phòng cách ly. Miên đứng bậc thang phía trên quay xuống, Claude đứng phía dưới, hai khuôn mặt nhìn vào nhau, bốn bàn tay múa liên tục. Tưởng đang phác họa một tiết mục gì, hóa ra họ đang nói chuyện. Trong bụng tôi cười thầm...
Vào máy bay. Tôi làm thủ tục sau nên ngồi một mình. Trước đó ba hàng ghế, Miên ngồi gần Claude. Bốn bàn tay vẫn liên tục ra hiệu, không im lìm như lúc có tôi lúc nãy.
Hai giờ đồng hồ sau, máy bay đáp xuống Nội Bài.
Tôi đi rất vội mới bắt kịp hai người ở băng chuyền nhận hành lý. Claude có vẻ hớn hở như người vừa trúng cá cược, còn Miên thì hai mắt đỏ hoe.
- Sao vậy em? Em có sao không?
Tôi lo lắng hỏi Miên, lần đầu tiên trút bỏ được cái vẻ lầm lì quan trọng để thốt lên với nàng một lời thật âu yếm.
Miên nắm lấy tay tôi:
- Em không ngờ anh ạ, lúc ở Pháp nhiều khi em thấy Claude thật chán vậy mà thực ra anh ấy lại là người rất có tâm hồn... Cảm ơn anh thật nhiều, anh không đề xuất em đi chuyến này thì em không gặp được con người dễ thương như vậy.
Mặt tôi từ tái chuyển sang đỏ, rồi tím lịm đi.
Claude thì đang mải lo nhặt những gói hành lý của Miên đặt lên xe đẩy của mình. Tôi hậm hực nghĩ: làm sao Miên hiểu hắn ta nói gì mà dám quả quyết là có tâm hồn hay không!
Bên ngoài đang mưa, những hạt bụi li ti bay khắp trời. Bỗng chợt nhớ câu thơ của Trần Dần:
Mưa rơi
Không cần phiên dịch!
Bộ phim “Trăng nơi đáy giếng” đang nóng trong đời sống văn hóa, vì vai chính – cô giáo Hạnh do diễn viên Hồng Ánh thể hiện, đã được trao giải thưởng Diễn viên Xuất sắc tại Liên hoan phim quốc tế Dubai. Thế nhưng, cái tài của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn cũng được chắp cánh trên tác phẩm của nhà văn Trần Thùy Mai. Vinh danh bộ phim “Trăng nơi đáy giếng” không thể không đọc lại nguyên tác – một truyện ngắn đậm chất Huế!
Trăng nơi đáy giếng
"Tôi xin mình, mình dẹp giùm tôi mấy cái bàn thờ này đi. Chuyện mê tín dị đoan, đâu hay ho gì".
Giọng thầy Phương vẫn từ tốn như thường lệ, nhưng đôi bàn tay liên tục gõ xuống bàn chứng tỏ tâm trạng thầy đang bức xúc. Cô Hạnh chỉ lặng lẽ nhìn: người đàn ông này đã là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa đời người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh đối với cô, vậy mà nay cô phải trái ý ông. Ý nghĩ đó làm cô rơm rớm nước mắt.
Hơn mười mấy năm, họ đã sống chung nơi căn hộ bé nhỏ này. Mỗi sáng, người trong xóm đều thấy cô Hạnh xách tô ra đầu ngõ mua bún cho chồng. Những hôm mưa lâm thâm, cái dáng gầy của cô co ro, tay cô cầm chiếc nón cố che cho kín tô bún, chứ chẳng nhớ che đầu. Thầy Phương người nho nhã, mảnh mai, trắng trẻo. Vốn là con nhà dõng dõi, lại được cưng từ nhỏ nên thầy kén ăn, phải chăm từng li từng tí.
Nói là kén ăn, không phải là thầy đòi hỏi cao lương mỹ vị, mà chỉ cần những thứ đơn giản thôi, nhưng phải biết ý mới chiều được. Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần đĩa bông bí chấm nước tôm kho đánh, nhưng nước tôm phải thật sánh, thật thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu dịu mùi hương ngọt ngào. Đêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi dưỡng, nhưng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rượu.
Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa hoa, nhưng sạch như lau như li. Tính thầy Phương rất sợ bẩn. Trong bếp, phòng tắm, những cái chậu đủ màu được cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng, tất cả đều khô ráo, sạch sẽ. Cái chậu rửa mặt ấy còn tinh tươm quá, này coi chứ chứ... chậm con là vì quá sạch đấy" - các bà hàng xóm đùa. Trong khu tập thể này, các bà đều là cán bộ, việc cơ quan, việc nhà cứ ùn lên, ai cũng bết bát, chẳng có thời giờ nào mà chiều chồng. Các ông chồng trong xóm nào là chẻ củi, đi chợ, đón con, chẳng từ một việc gì, chỉ riêng thầy Phương được hưởng ngoại lệ. Thực ra, đâu có phải vì thế mà hơn mười năm không có con. Cô Hạnh thừa biết điều đó nên nghe người ta đùa, cô chỉ cười...
Ở đầu ngõ, ngay cổng vào khu tập thể là nhà bà Thu, thư ký Công đoàn trường Thuận Đạt. Ngày ấy, bà Thu hội ý xong với Ban chấp hành Công đoàn trường và quyết định đến thăm chính thức cô Hạnh. Vì lý do tế nhị của cuộc thăm viếng, bà đã cẩn thận chờ cho đến lúc thầy Phương đạp xe ra khỏi, bà mới vào. Bà tìm cách nói với cô Hạnh: "Cô Hạnh này, người ta đồn anh Phương có vợ nhỏ, Công đoàn và Đảng uỷ đã tiến hành kiểm tra, thật đáng tiếc, việc này hoàn toàn chính xác". Cô Hạnh nghe, ngồi nhìn thẳng vào mắt bà Thu, không tỏ vẻ ngạc nhiên. Trái lại, bà Thu kinh ngạc đến hụt hẫng trước vẻ bình thản của người vợ bất hạnh: bà cứ tưởng cô Hạnh sẽ ngất đi, hoặc ít ra cũng níu lấy bà mà hỏi vặn đủ điều. Nhưng không, cô cứ lặng lẽ, dịu dàng, dường như cố nén nỗi khó chịu vì bị quấy rầy!
Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách. - Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm tổ chức? Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông Phương đã có một người đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra, ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.
"Không phải dễ dàng mà thuyết phục được anh ấy - Bởi vì anh ấy quá thương tôi. Hơn nữa, là người có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ, ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế? Chị có biết như vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào con đường hủ hoá!"
Cô Hạnh khóc. "Vâng. Có thể là như vậy, nhưng lúc ấy tôi không nghĩ gì hết. Tôi chỉ muốn anh ấy sung sướng". Vâng, khi người ta thực lòng thương yêu nhau, có điều gì mà không thể hy sinh. Một cô gái quê bỗng chốc được cô Hạnh chăm lo từng li từng tí: từng chục trứng gà, từng chai mật ong được chuyển về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình. Rồi đến ngày cô được đền bù: Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phương quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nước mắt vì sung sướng...
Nhưng giờ đây, ngồi trước mặt bà Thu, cô mới thấy chuyện đời không đơn giản. Sắp đến kỳ bầu tín nhiệm hiệu trưởng rồi... Ông Phương bảo: Chức hiệu trưởng là cái gì... Bỏ, bỏ hết. Với tôi, chỉ cần mình vui lòng. Tôi chấp nhận mất tất cả.
Ông nói thế, nhưng rồi không giấu được vẻ buồn. Lại cái vẻ buồn trầm lặng làm xót lòng cô. Cả đời ông sống nghiêm nghị, không để ai nói tiếng nặng tiếng nhẹ bao giờ. Giờ đây, tưởng tượng tới khuôn mặt những người lâu nay vẫn đố kị với ông... Họ sẽ hả hê biết bao trước cái tội lỗi rành rành của vị Thủ tướng đáng kính. Họ sẽ rung đùi, cười khẩy chờ ông đứng lên nhận tội... Để rồi khoái trá xúm lại tổ khổ ông, như bầy sói túm lại xé con mồi...
Quả thật, cái tin "ông Phương hai vợ" vừa được tung ra, đã có vài ba người rắp ranh ngắm nghé cái ghế ông đang ngồi. Cuộc bầu tín nhiệm được tổ chức vào đầu tháng 3, được dự kiến như là ngày chôn vùi luôn sự nghiệp của ông hiệu trưởng nổi tiếng quản lý giỏi, đã đưa trường Thuận Đạt thành một trường tiên tiến dẫn đầu tỉnh trong hơn năm năm. Người ta chờ ông Phương đứng dậy rút lui và tự kiểm điểm, nhưng sao lâu quá chẳng thấy động tĩnh gì... Sốt ruột quá, một vị đứng dậy cắt ngang lời ông Phương khi ông còn đang trình bày "chương trình hoạt động" mà ông dự kiến sẽ thực hành trong thời gian tới. Chuyện năng lực của anh Phương thì còn gì phải bàn nữa, dài dòng làm chi mất thời gian. Chỉ có điều, dư luận đang râm ran chuyện gia đình anh, anh em tui rất hoang mang. Vì, lãnh đạo thì không chỉ có tài mà phải có đức...
Ông Phương không nói, chỉ lặng yên bình thản nhìn kẻ địch thủ đang hân hoan, đắc thắng, rồi lại bình thản nhìn cái vẻ hân hoan, đắc thắng đó xẹp xuống, nhăn nhúm lại như một quả bóng xì xuống thất vọng. Bởi vì cô Hạnh đã đứng dậy đưa ra trước Hội đồng tờ giấy chứng nhận ly hôn giữa cô và ông Phương cùng tờ giấy đăng ký kết hôn giữa ông Phương với vợ mới. Lúc đó cả hội trường mới biết rằng, trên pháp luật, ông Phương chẳng có lỗi gì... Nghĩa là cái chức hiệu trưởng của ông, lấy búa tạ mà nện cũng không thể nào rung rinh nổi.
Không rung rinh nổi, nhưng người ta vẫn cứ tìm cách nện. Lòng người đầy ham muốn, đâu có buông tha cho ông Phương qua cửa ải một cách dễ dàng như thế. Vì vậy, trọn năm sau, ông Phương quả là lao tâm khổ tứ, ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Lại một lần nữa, bà Thu phải đến thăm riêng cô Hạnh. "Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dư luận để bảo vệ chị, nhưng mà người ta không thể thông cảm như tôi. Nói chị đừng buồn, hoàn cảnh chị rất gay. Chị đã phạm pháp mà không biết: sống chung như vợ chồng với chồng của người khác!
Cô Hạnh sững sờ. Giờ đây ông Phương có còn là chồng của cô nữa đâu? Cô nhìn thằng bé đang thiêm thiếp ngủ trong tay run rẩy. Cô biết, người ta đang lôi tuột ông ra khỏi tay cô. Cô sẽ phải xa ông, bất giác, cô ôm chặt lấy cu Nhứt, như cố níu giữ cái phiên bản của người đàn ông mà cô tôn thờ...
***
Lại một lần nữa, tôi phải năn nỉ anh. Tôi không đành lòng thấy anh cứ gầy rộc đi, mắt hõm, râu mọc xanh cả cằm. "Quân tử ứ hự đã đau, Tiểu nhân dùi đục đập đầu như không". Anh vẫn thường nói thế. Con người anh tinh tế, tự trọng, chịu sao nổi bao nhiêu lời ong tiếng ve. Đành lòng dốc hết tiền của góp trong người mười mấy năm mua một căn nhà ở ngoại ô cho anh ấy đưa cô Thắm lên. Lúc ấy, Thắm lại đang có thai. Thương tôi, anh ấy không chịu rời đi, tôi phải cắn răng làm mặt giận, cấm lửa nhịn đói suốt mấy ngày...
Anh đi rồi, căn nhà trống đến khủng khiếp. Đi làm về, tiếng mở cửa tiếng bước chân tôi cứ vang lên lạnh lẽo như từ thế giới nào. Vào đến gian bếp, nhìn thấy chiếc may ô của anh còn sót lại trên dây phơi, tôi sụp xuống, nức nở khóc...
Thỉnh thoảng anh cũng về thăm tôi. Nhưng anh về một chút rồi lại đi. Tôi không dám trách. Sắp đến đại hội chi bộ, phải giữ gìn. Anh có muốn nấn ná tôi cũng giục anh đi cho được. Anh bảo: "Mình đừng buồn. Tôi nói với mình đinh ninh từ khi chưa ly hôn. Nay cũng thế, tôi ở bên ấy nhưng thực ra chỉ có mình mới là vợ của tôi". Tôi nghe, chỉ biết khóc. Vợ chồng mà gặp nhau lén lút như thế này, cái số tôi sao mà trớ trêu? Có hôm bị bệnh nằm một mình không dám nhắn chồng, tôi đành nhắn người mời bà đồng Thơi đến chích lễ giải cảm. Bà Thơi vừa nặn máu cho tôi vừa bảo: "Khí đen tụ ở giữa hai chân mày. Cái uất nén trong lòng mà thành bệnh". Tôi lắc đầu: "Tôi không uất, không phiền. Chỉ vì mệt mỏi quá". Cô Thơi sửa lại áo khăn thắp nén hương giữa trời. Hôm ấy rằm, trăng sáng. Cô Thơi niệm khấn rồi cầm chén nước trong bảo tôi uống. "Để tôi xin cho chị một quẻ Thánh". Cô Thơi xủ quẻ rồi nói: "Quẻ của chị là quẻ lộng giả thành chân. Đêm trăng nơi đáy giếng, thấy bóng chẳng thấy hình. Cứ theo quẻ này giả hoá thực, thực hoá giả, giả thực thực giả khó lường". Tôi cũng không tin mấy, chỉ cảm thấy dễ chịu vì có người quan tâm. "Việc gì thực hay giả, mà giả thực liên quan gì đến bệnh cảm của tôi?". Cô Thơi nghiêng đầu như làm duyên, cặp môi son hé cười: "Lời Thánh sâu xa, nhiều khi đến việc mới hiểu".
Đại hội Chi bộ đã qua, anh lại được tín nhiệm cao. Tôi mừng. Tôi nhắn Thắm chăm sóc anh cho chu đáo. Không có ai khó chăm như anh. Cái gì cũng phải sạch, phải tinh tươm. Áo quần gấp xong nhớ đặt vào tủ, ngay ngắn, bộ nào sắp mặc thì đặt cuối giường chứ đừng đặt đầu giường. Chỗ anh ấy ngồi viết thì phải tinh tấn, ngăn nắp, đừng qua lại nhiều làm phiền anh. Tôi dặn gì, Thắm cũng nhất nhất vâng dạ. Thấy Thắm ngoan, tôi mừng.
Tết đến, tôi lo mua nếp gói bánh. Năm nay nhà đông phải gói nhiều. Đang loay hoay tìm mua lá dong, chợt nghe nói bà Thu sắp có dịp về quê, tôi lật đật sang nhờ bà ấy mua giúp. Vào đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phương, rồi tiếng Thắm. Một giỏ quà, ý chừng đồ đi tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cười: Không có tôi thì anh chị còn mỗi người một nơi đến bao giờ? Nhưng mà nói vậy chứ không nhận quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy, chút quà xin chị nhận cho, của thảo lòng thành". Tôi rụng rời, không nhận ra được giọng cô gái quê thơ ngây chất phác sáu năm về trước... Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cười: "Chị ấy tưởng thế thôi chứ thực ra trước khi bà thím giới thiệu với chị thì anh Phương đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo, trách gì chẳng thành đôi". Họ cười, tiếng cười vui vẻ râm ran trong đêm yên ả...
Tôi rút lui, suýt ngã khi xuống thềm. Rồi cứ đi trong đêm như người ngây, mãi đến lúc bước vào một ngôi nhà, ngửi thấy mùi nhang trong không gian, và nhận ra mình không hiểu từ lúc nào đã đến nhà cô đồng Thơi. Tôi ngồi sụp xuống nền nhà mà khóc, nhớ lại lời cô nói với tôi đêm trăng hôm nào. "Nín đi em. Em giỏi nín đi. Rồi cô soi cho, cho thấy hết tiền oan nghiệp chướng". Cô cứ tỉ tê khóc, cô nạt: "Sao lại khóc? Mất gì đâu mà khóc. Cái mất, thực ra đã mất từ lâu rồi. Chừ còn ôm huyễn mộng mà kêu trời như con đười ươi ôm cái ống tre rỗng mà cười một mình giữa núi". Lời cô Thơi làm tôi tỉnh ra. "Tôi sai rồi, còn oán ai. Người ta là vợ chồng, đã có con cái. Còn tôi... tôi chỉ là một vật thừa..." Cô Thơi hứ một tiếng, đỏng đảnh: "Đã thương thì thương cho trót, đã vót thì vót cho tròn. Đã giữ thì giữ riết luôn, đã cho thì cho đứt". Tôi bỗng ngượng ngùng, không khóc được nữa. Ừ, đã cho thì cho đứt luôn, sao tôi đã nói hy sinh mà còn tiếc nuối. Nhưng là người có máu có thịt, làm sao bỗng chốc cắt lìa? Tôi đâu có phải Thánh mà một phút dứt bỏ nửa cuộc đời... Không, không phải nửa cuộc đời, anh là cả cuộc đời tôi...
Tết năm ấy, tôi sốt li bì, suốt ba tuần rụng gần nửa đầu tóc. Chiều mồng ba tết, mở mắt ra, thấy anh Phương và Thắm ngồi trước giường. Tôi thở dài, se sắt. Tôi mong gặp một mình anh, một lần. Để tôi mơ ước được mạnh trở lại, được để dành cho anh cái thau sạch, cái khăn sạch, lựa cho anh củ khoai thật bùi thơm ăn khuya, đọc sách. Nhưng anh không dám đến đây một mình... Tôi ứa nước mắt nhìn hai vợ chồng - vâng, họ mới là hai vợ chồng. "Tôi hiểu cả rồi. Hai người không phải lo cho tôi. Cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống được". Thắm giặt khăn lau mặt cho tôi. Anh Phương không nói gì, cũng chẳng dám tỏ thái độ gì. Tôi cố bình thản che nỗi xót xa. Tôi mất anh rồi, sự thực đã như thế từ lâu mà giờ này tôi mới bẽ bàng nhận ra...
Tháng sau, Thắm sinh con thứ hai, lần này là con gái. Cu Nhứt về ở với tôi, thằng bé bồng theo một con chó con. Căn nhà tưng bừng lên vì tiếng trẻ con cười, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi như người sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi. "Như thế thì cu lầm với mẹ hai. Ba bảo cu: Mẹ cả, mẹ hai, hai mẹ đều là mẹ cả, mà!". Tôi bật cười. Cu Nhứt thông minh y như ba nó. Cái mắt sáng, cái da trắng, cái chân mày nét ngang, tất cả đều là của anh. Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng. Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con, tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa...
Lại tháng chạp, tôi đến cô Thơi xin cho cu Nhứt cái bùa đeo cổ để đeo đi chơi tết. Cô Thơi mới tạc pho tượng ông hoàng đứng trên mây, vừa rước lên bàn, thắp nhang xong thì quay ra thấy tôi. Đưa bùa cho tôi xong, cô bấm quẻ dịch rồi bảo: Chiều lòng chị thì rước cho chị, chứ chị xin nhằm giờ không vong, vật tuy có nhưng mà vô dụng.
Tôi băn khoăn về nhà. Ngày xưa, anh Phương thường trách tôi mê xem bói. Anh không biết đó là chỗ dựa tinh thần của những người đàn bà hay bối rối như tôi... Đến cửa, tôi giật mình khi thấy Thắm. Cu Nhứt quấn mẹ đẻ, cười rúc rích. Thắm khẽ khàng thưa gửi:
- Trình chị, em đã cai bú cho bé, nay xin chị cho cu Nhứt về nhà ăn tết với em.
Tôi khựng lại, đau đớn. Một lát sau tôi đeo cái bùa vào cổ cho cu Nhứt:
- Đeo cho em kẻo đi đường gió máy. Mà ăn tết xong mồng mấy mới cho em về?
Thắm không nói gì, chỉ nhìn tôi, một cái nhìn khó hiểu.
Thằng bé đi rồi, còn lại con chó con luẩn quẩn với tôi. Đã một năm, giờ nó đã choai choai, láng mượt. Cu Nhứt dặn: "Mẹ cả nuôi cẩn thận cho cu". Bao nhiêu thứ dành cho thằng bé, giờ xẻ hơn nửa cho nó. Thui thủi vào ra, chỉ có nó và tôi.
Từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông càng ngóng. Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng người...
Rằm tháng giêng. Con chó đột nhiên bỏ đi đâu mất. Tôi tìm ngất ngơ quanh xóm chẳng thấy. Lòng cồn cào lại càng nhớ, càng thương cu Nhứt. Góp được một chục trứng gà, tôi lững thững đạp xe đi thăm con. Lâu lắm mới đến nhà mới, tôi ngạc nhiên vì nó lạ hẳn so với cái thời hai vợ chồng đến mua. Cây cỏ mọc xanh trong sân, một mái hiên rộng được cơi thêm ra, thoáng mát. Tôi từ từ bước, phân vân như đi vào một ngôi nhà lạ.
Cu Nhứt đang chơi ở hiên sau. Vừa đùa với quả bóng, thằng bé vừa hát: "Trên trời cao, có muôn ngàn ánh sao... Nhưng mặt trời chỉ có một mà thôi. Và mẹ em chỉ có một trên đời. ..". Thấy tôi, thằng bé reo lên, chạy ùa vào lòng tôi... Nhưng nó bỗng khựng lại, đưa mắt nhìn vào trong, rồi cầm tay, thỏ thẻ: "Mẹ Thắm bảo con, thời này mà còn mẹ cả, mẹ hai, nghe cổ hủ lắm. Vậy con gọi bằng gì?". Tôi ôm cái đầu nhỏ bé vào lòng, chỗ có trái tim phập phồng đau đớn. "Thôi thì... Con hãy gọi bằng bác... Bác tệ quá, hôm qua đã làm mất con chó Cún của con". "Ồ, không mất, bác ơi, nó đây này!". Con cún từ sau vườn chạy tới, nhảy lon ton, vẫy đuôi rối rít. Ôi, cả con chó cũng bỏ tôi tìm về đây mất rồi!
Bàng hoàng, tôi đứng dậy, bước đi. Rỗi bỗng quay lui, tôi dạo một vòng sau nhà, như muốn nhìn tận mắt cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý nhất của một đời tôi... Sau sân, anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi giặt một đống quần áo đủ loại, đánh đánh chà chà trên sân xi măng. Chưa bao giờ thấy anh trong tư thế như vậy nên tôi sững sờ, ngẩn cả người không sao nói một lời. Không hiểu sao đã chịu đựng bao nhiêu điều nặng nề, mà giờ đây tôi lại không kham nổi cái cảnh tượng hết sức bình thường thế này? Thắm đang ngồi dỗ con, thấy tôi vào chỉ cười, hất hàm về phía đức ông chồng: "Làm trai, học sẩy học sàng. Đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn". Tôi ngẩn ngơ như người mất hồn, lẩn thẩn nói: "Ngày trước ở với tôi, anh ấy chẳng phải động tay tới việc gì. Tôi đi vắng mà trời mưa, anh ấy cũng chỉ lôi giùm tôi cái áo trên dây phơi, chứ cái quần để mặc cũng không hề đụng đến". Thắm khủng khỉnh: "Em thấy chị cũng sạch chứ đâu có bẩn. Mà người quân tử có sợ bẩn thì dùng khoèo mà khoèo, rồi dùng xà phòng mà rửa khoèo cũng được chứ sao? Tôi cảm thấy như có quả đấm giáng vào giữa mặt, lảo đảo, trời đất chung quanh tối sầm. Cố gắng về đến nhà, tôi lăn ra mà khóc, khóc thảm thiết. Láng giềng nghe tiếng hờ trời hờ đất chạy sang hỏi: "Ai chết thế?". Tôi không nói được gì, không nghĩ được gì, trong tâm trí chỉ có mỗi một hình ảnh: thần tượng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên bể nước. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận chìm tôi, tức tưởi, mê man...
Lại một lần nữa, tôi ốm nặng, tóc rụng lả tả trên gối, nhưng không báo với ai để khỏi ai bận lòng.
Đấy là chuyện đời chồng trước của tôi...
***
Người trong xóm cứ tưởng cô Hạnh phen này chết vì mấy lần cô bắt chuồn chuồn, cấm khẩu. Họ ngạc nhiên khi thấy cô không thuốc men gì mà lại đi đứng như thường. Cô xin về hưu non, cuốc đất, làm vườn, lại sống cái đời cần cù và đạm bạc như thuở nào. Sáng sáng, họ lại thấy cô mua bún bò, bưng vào ngược con ngõ, những bữa trời mưa lâm thâm cô kéo chiếc nón che tô bún, quên cả che đầu.
Rồi trước hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cười hiền lành: Áo thằng cu. May cho cu mặc tết".
Nếu ai tò mò đi theo cô vào căn nhà vắng lặng, có thể thấy ngay giữa nhà là một bàn thờ đồ sộ mà cô gia công trang hoàng như một cung điện rực rỡ vàng son. Giữa bàn thờ là tượng một người đàn ông đẹp đẽ phương phi, tay cầm kiếm, chân đạp lên mấy tầng mây. Có hỏi thì cô thì thầm: "Ông Hoàng Bảy, trấn thủ tỉnh Thừa Thiên".
Rằm, mồng một, cô chất hương hoa đầy thánh điện của cô, rồi ra nhà bà đồng Thơi lễ bái. Nghe đâu bà đồng Thơi bảo rằng số cô Hạnh không theo ông Phương được trọn đời vì người âm ưng, mà người âm này vai vế lớn lắm, con thứ bảy của Đức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô Hạnh đã được một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay.
"Nhờ có Thánh cứu, chứ không thì mấy trận đau, hắn đã chết trọc óc chứ mô còn tới chừ". Bà Thơi nói. Cô Hạnh cười, vẫn cái cười dịu dàng, không còn buồn thảm như xưa, mà phảng phất một vẻ mơ màng - vẻ mơ màng thường thấy trên gương mặt những người lãng trí. "Sắp tới tháng Ba rồi, phải không chị? Tháng Ba ni chị cho em đi về chầu điện Hòn Chén". Bà Thơi nghe cô Hạnh nói, hài lòng gật đầu. "Ừ, tháng Bảy giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ. Lễ hội tháng Ba này em cũng nên về chầu Đức Mẫu cho phải đạo dâu con".
Đầu tháng Ba, ông Phương bỗng về thăm vợ cũ. Từ đó, người ta thấy ông qua lại luôn. "Năm lần bảy lượt tôi nói với mình, mình dẹp cái trò mê tín đó đi giùm tôi. Vì cái chuyện đồng bóng lễ bái của mình mà tôi mang tiếng nhiều lắm rồi, dù gì thì mình cũng là vợ cũ của tôi, một hiệu trưởng, một đảng viên...". Cô Hạnh chẳng nói gì, đang lo đặt đĩa khoai luộc nóng hổi lên bàn thờ. Trông dáng vẻ cô ân cần chẳng khác gì trước đây chăm chút cho ông. Cử chỉ đó làm ông Phương thêm bực tức . "Mình muốn trách khéo tôi phải không? Mình biết là đâu phải tôi muốn thế, chính mình đã muốn hy sinh cho tôi... Tôi xin mình, hãy vì tôi lần nữa...".
Cô Hạnh đã đặt xong đĩa muối chấm khoai, thủng thỉnh ngồi xuống, nhìn ông Phương với đôi mắt rộng lượng như thể từ trên cõi tiên nhìn xuống thế giới nhỏ bé của loài người. "Hôm qua ông đã gặp bà Thơi phải không? Thảo nào bà ấy bảo tôi có muốn quay về với ông thì để bà ấy xin cho cái lễ chẻ đôi chiếc đũa đồng tiền, li dị với ông Hoàng...".
"Mình đừng giận tôi, thuở ấy người ta còn khắt khe, mình cũng biết hơn ai hết. Giờ đây quan niệm về đời tư cũng cởi mở hơn trước, thỉnh thoảng tôi lại về thăm mình. Để mình thui thủi thế này tôi cũng chẳng đành lòng".
Cô Hạnh nhìn ông Phương một lát rồi cười. Cái cười mơ màng lâu nay vẫn ẩn hiện trên gương mặt cô. "Ông à, thực ra tôi không giận ông. Nhưng chuyện ông nói thì không thể được. Tôi đã vì ông đến nửa đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi yên phận tôi. Xưa tôi là vợ mình, chỉ biết có mình, nay đã là vợ ông Hoàng, chỉ biết có ông Hoàng. Tôi đã nói với bà Thơi, tôi không cúng, không chẻ đũa, bẻ tiền chi hết, tôi không bỏ ông Hoàng vì ông ấy đỡ đần tôi khi thập tử nhất sinh, ông ấy không bỏ tôi, không ruồng rẫy tôi bao giờ...".
"Nhưng làm gì có cái gọi là ông Hoàng, làm gì có cái bóng ma ấy, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của bà thôi, bà có biết không?". Ông Phương phát thịnh nộ, không tự chủ được nữa, đập mạnh tay xuống bàn mà nói như quát. Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh lập cập vào nhau, rồi bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng cũ. Đến lúc ấy ông Phương vẫn không nhận ra rằng từ khi bị cô Hạnh bắt gặp ngồi giặt đồ bên bể nước, trong mắt cô, ông chỉ còn là một tượng thần đã mất hết linh thiêng.
Người trong xóm thấy ông Phương phóng xe ra ngược con ngõ, áo và tóc ướt từng vạt nước trà vàng vàng, mặt bừng bừng lửa giận. Hai hôm sau, việc đến tai bà Thu. Bà lắc đầu an ủi: "Chị ấy tốt bụng nhưng lý trí không vững nên tâm nó loạn. Trước đã bày ra chuyện phong kiến cổ hủ, nay lại sinh ra trò mê tín dị đoan. Thôi thì mặc ý chị ấy, tôi cũng hết phép".
Cô Hạnh chẳng quan tâm đến ai, cứ vào ra trong ngôi nhà vắng tanh với nụ cười mãn nguyện của một người đàn bà hạnh phúc. Chiều hôm ấy cô thung dung đi chợ chọn mua vải may chiếc áo dài mới để tháng Ba này ngược sông Hương trảy hội mùa xuân.
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?" Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại." Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.
o O o
Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì:
- Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:
- Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H.
Rồi bà cười hả hả:
- Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da.
Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...
Cô ruột tôi giận lắm bảo:
- Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng
Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói:
- Ðừng!
Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa:
- Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.
Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo:
- Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?
Tôi chỉ lắc đầu...
o O o
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi:
- Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.
Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch:
- Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?
Thầy hỏi:
- Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong.
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?
Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng:
- Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng.
Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày:
- Này, đừng nghịch.
Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi.
- Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.
Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại:
- Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy.
Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh:
- Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?
Tôi cự:
- Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.
Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu:
- Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có.
Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo:
- Không can gì.
- Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?
Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu:
- Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó
Tôi động lòng, hỏi:
- Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.
Thầy cười:
- Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây.
Tôi vái thầy mà thưa:
- Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
- Anh không thích phong lan nữa sao?.
- Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan.
Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo:
- Thích ghê, em chưa thấy bao giờ.
Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
- Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.
Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo:
- Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.
Tôi hãi hồn, vội nói:
- Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.
Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu:
- Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.
o O o
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà.
Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.
Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.
Tôi im lặng, một lát sau mới bảo:
- Khó tin.
- Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra. - Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.
Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi:
- Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.
Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu:
- Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu...
Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn.
- Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi.
Quay sang Lan, tôi nạt:
- Ði về!
Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc:
- Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?.
Tôi cau mặt:
- Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?.
- Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.
- Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.
Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi.
- Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?.
Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa...
- Em có thích nghe chuyện cổ tích không?.
- Thích.
Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ:
- Sao có người làm được như thế?.
Tôi gật đầu:
- Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: “Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua.”
Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng.
- Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?.
Tôi bảo:
- Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con.
Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá.
- Thôi, về đi em.
Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
o O o
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo:
- Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.
- Không có lửa, sao có khói, ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.
Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức:
- Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.
Con ma nữ đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát:
- Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.
Tôi cuống quýt:
- Bác bảo con làm sao được?.
- Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.
Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ.
- Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng.
Tôi thở dài:
- Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám.
Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo:
- Sao con bỏ học?.
Tôi nói:
- Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.
Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy:
- Bạch thầy.
Thầy tôi bảo:
- Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.
Tôi nói:
- Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.
Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi:
- Tâm không an, có cầu cũng vô ích.
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.
- Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?.
Thầy nhìn vào mắt tôi:
- Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.
Tôi lắc đầu:
- Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.
o O o
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến.
- Chú Ninh!.
Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan.
- Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại....
Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan.
“Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...
Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi....”
Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng.
- Cứ khóc đi con! - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.
Tôi nức nở:
- Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?
Thầy bảo:
- Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?
Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.