Trương Thanh mặt bộ y phục bằng da nai, dĩ nhiên bộ y phục đó, là vật của Bành Đại Nương, rộng và dài.
Dài, có thể cắt ngắn, còn rộng thì trong nhất thời họ chẳng có thì giờ sửa chữa cho vừa vặn. Để giảm cái phùng phình của bộ y phục, Trương Thanh lấy một đường dây cột ngang mình.
Y phục da nai, mặc trên núi cao, có cái công dụng ngừa khí lạnh, song có cần gì bộ y phục đó, Trương Thanh vẫn nghe nóng trong người, nóng đến khó chịu. Nhiệt độ đó, do tâm tư sanh ra, bao nhiêu lo âu, sợ hãi dập dồn, xáo trộn lòng nàng, rồi khẩn trương lại từng phút từng tăng, nàng còn nghĩ gì đến ngoại vật nữa?
Nàng nóng nảy vô cùng, nóng nảy bên trong đánh đuổi cái lạnh bên ngoài, giả như hiện tại, không gian không lạnh, chắc chắn nhiệt độ trong người nàng bốc cao hơn, làm nàng điên mất. May nhờ cái lạnh bên ngoài hạ thấp nhiệt độ của nàng, nàng nghe nhẹ phần nào.
Bao nhiêu nghi vấn hiện ra trong đầu óc, nghi vấn chung quy cũng là nghi vấn, nàng không tìm được một giải đáp cho bất cứ nghi vấn nào, dù là miễn cưỡng.
Vượt qua một quãng đường dài, nàng vẫn còn cau mày.
Trong khi đó, chốc chốc, Bành Đại Nương lại lẩm nhẩm:
– Đã chết! Chết rồi! Tại sao ngươi chết dễ dàng thế?
Trương Thanh biết rõ, bà đang nghĩ đến Độc Cô Minh. Nàng tự hỏi:
“Bà ta có liên hệ như thế nào với Độc Cô Minh? Tại sao bà lo nghĩ quá độ về cái chết của Độc Cô Minh? Cái chết đó ảnh hưởng làm sao đến bà?”.
Núi quá cao, tuyết phủ đầu, trên tuyết còn có mây, mây như liền với trời.
Một nơi vừa huyền bí, vừa rùng rợn, ai đến đây rồi, hùng tâm dũng khí cũng phải giảm nhiều, nếu không mất hẳn. Trừ ra một ít người, từng sống tại đây, từng quen mặt biết những kẻ ẩn dật rải rác quanh vùng, số ít đó may ra còn thản nhiên được trước sắc thái hùng vĩ của vùng núi non chớm chở.
Đi một lúc lâu, họ đến trước sơn cốc.
Quanh năm suốt tháng, tuyết phủ dày trước sơn cốc, nghiễm nhiên trở thành một bức bình phong, che kín bên trong. Sau bức bình phong, có con đường nhỏ, hẹp, đường cũng lợp tuyết trắng xóa. Qua khỏi con đường đó là vào đến sơn cốc.
Hiện tại, giữa con đường nhỏ hẹp đó, con beo trắng ngày nào nằm ngay trên tuyết. Trông thấy Trương Thanh, nó nhìn thẳng vào mặt nàng, ánh mắt của nó hiện rõ cái ý thù địch. Nó lại gầm lên, như để báo động mà cũng để chuẩn bị tinh thần sắp sửa tái chiến với nàng.
Bành Đại Nương bước tới, cao giọng mắng:
– Súc sanh có cút đi không? Làm gì ngăn chặn lối đi của ta?
Con beo vẫn trừng mắt nhìn Trương Thanh, như tỏ cái ý là không chấp nhận cho nàng vào sơn cốc.
Bành Đại Nương đấm một đấm vào cổ nó, quát:
– Ta đưa người vào, là ta chịu trách nhiệm, ngươi có biết không? Hãy tránh ra cho ta đi!
Con beo «gừ gừ» mấy tiếng, rồi nép qua bên đường, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn Trương Thanh.
Bành Đại Nương vẫy tay, Trương Thanh bước tới liền, song nàng cố tránh xa xa con beo.
Cả hai đi tới. Không lâu lắm, họ đi hết con đường hẹp, đến một khoảng trống. Nơi đây, vẫn có tuyết phủ đầy, song cây to, tàng lớn, hoa không thiếu.
Cây vẫn xanh tươi, hoa vẫn nở đẹp. Cây và hoa chừng như không hề biết là có bốn mùa tám tiết trong một năm, hoa chỉ nở theo ý muốn của chủ nhân, bất cứ loại hoa nào, bất cứ thời gian nào ...
Đẹp! Còn gì đẹp hơn cảnh tuyết có hoa? Bởi những cảnh đó hi hữu là cái chắc. Dưới trần, hoa có nở, nhưng dưới trần làm gì có tuyết?
Tuyết chung quanh, tăng cái sắc thái khiết tinh cho hoa, hoa nở đẹp làm tiêu tan cái vẻ lạnh của tuyết. Do đó, người ngắm hoa, ngắm tuyết thích thú vô cùng, không hề nghe lạnh.
Trương Thanh buộc miệng tán:
– Đúng là một thắng cảnh!
Bành Đại Nương mỉm cười:
– Nơi đây nào có gì đáng gọi là thắng cảnh đâu? Cô nương vào sâu bên trong mới thấy những cái đẹp đáng ngắm!
Bà tiếp:
– Bên trong hoa toàn giống lạ, hoa nở đủ bốn mùa, hoa cũng nở sái mùa được như thường, chừng như hoa ở đây muốn nở lúc nào cũng được, tùy theo cái ý của chủ nhân. Hoa nở lại lâu tàn, đó mới là một điều lạ lùng nhất.
Bà tặc lưỡi tán:
– Tuyết Lão Thái Thái quả thật là con người phi thường, chẳng những về vũ thuật bà là một tay tuyệt vời, mà luôn về các môn học khác, như y học chẳng hạn, bà cũng là người lỗi lạc. Cả cái thuật trồng hoa, bà cũng tinh tường hơn bất kỳ ai!
Nhưng, cái đẹp trước mắt, dù hấp dẫn đến đâu cũng không làm sao khiến cho Trương Thanh xao lãng ý niệm về Quan Sơn Nguyệt.
Nhìn cảnh đẹp, bất quá nàng khen tặng một vài lời, rồi tâm tư nàng cũng hướng trở lại con người đã khắc ghi hình bóng sâu đậm trong ký ức nàng. Cho nên, Bành Đại Nương khoa trương tài học uyên bác của Tuyết lão thái thái, nàng có nghe gì đâu?
Cả hai cùng đi cùng đi tới ...
Xa xa, cạnh cội lão tùng, ẩn ước có hai bóng người đang ngồi, như cùng nhau tỉ tê tâm sự.
Một, là nữ lang, vận chiếc áo màu hồng. Một kia, là chàng trai khôi ngô, anh tuấn, vận chiếc áo xanh.
Trương Thanh giật mình, đưa tay chà mắt, tự hỏi:
“Ta có lầm chăng? Nếu không phải Quan đại ca của ta, thì là ai chứ?”.
Nàng khích động phi thường, chạy nhanh tới, vừa chạy vừa gọi:
– Quan đại ca!
Nhưng, nàng sững sờ, cấp tốc dừng chân lại ngay.
Nàng dừng chân đột ngột, nàng sững sờ, chẳng khác nào đang chạy rồi bị con beo trắng chận đường. Bởi, Quan Sơn Nguyệt lúc đó, giương tròn mắt nhìn nàng, nhìn như một người xa lạ, bình sanh chưa hề gặp nhau lần nào.
Trương Thanh nghe con tim nhói lên, qua phút giây sửng sốt lại bước tới, nắm tay chàng, khóc thành tiếng:
– Quan đại ca! Đại ca lành thương thế rồi phải không? Tại sao đại ca không quan tâm đến tiểu muội?
Quan Sơn Nguyệt rút tay về, chỉ nhìn nàng chứ không nói tiếng nào. Ánh mắt của chàng ngơ ngơ ngác ngác như chẳng hề nhận ra nàng là ai.
Trương Thanh càng khóc lớn hơn.
Trời! Trải qua bao nhiêu gian khổ, vượt ngàn dặm đưa chàng đến đây, tìm danh sư chữa trị độc cho chàng từ cái chết trở về cái sống. Làm tất cả cho chàng, để đánh đổi được cái gì? Một sự lạnh nhạt đến hãi hùng! Chàng đáp lại cho nàng sau bao nhiêu vất vả vì chàng như vậy đó sao? Chàng đáp lại tình nàng trong mấy năm dài chung sống bên cạnh nhau như vậy đó sao?
Bành Đại Nương thức tỉnh nàng ngay:
– Tiểu cô nương! Đừng gây dao động cho hắn. Cô nương không trông thấy đôi mắt của hắn sao? Hắn còn nhìn gì được nữa, mà có nhận hay không nhận ra cô nương?
Trương Thanh giật mình, nhìn kỹ đôi mắt của Quan Sơn Nguyệt. Đôi mắt lờ đờ, mất thần thấy rõ. Nàng nghĩ, có thể chàng mất luôn mọi tri giác khác.
Một con người mất cả tri giác còn có phản ứng gì trước mọi tiếp xúc? Con người đó, tuy còn biết đi, đứng, biết ăn ... song có khác gì hình gỗ?
Trong khi đó, nữ lang áo hồng lạnh lùng nhìn Bành Đại Nương, gằn từng tiếng:
– Bành Cúc Nhân! Ngươi to gan lắm đấy! Sư phụ ta đã mấy phen cho ngươi biết cái ý của người là chẳng bao giờ chấp nhận cho ngươi đưa nàng kia vào cốc. Tại sao ngươi cãi lời sư phụ ta? Ai cho phép ngươi tự tung tự tác thế chứ?
Bành Đại Nương «hừ» một tiếng:
– Ta làm việc gì, ta chịu trách nhiệm về việc đó, không ai mượn ngươi can dự vào!
Trương Thanh nghi quyết nữ lang là Khổng Linh Linh. Nàng hấp tấp hỏi:
– Khổng tiểu thơ! Quan đại ca của tôi làm sao thế này?
Đúng như nàng đoán, nữ lang chính là Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh cười lạnh một tiếng:
– Ngươi không thấy chi hết sao, lại còn phải hỏi ta? Rành rành trước mắt ngươi đó mà?
Trương Thanh dù ngu xuẩn đến đâu cũng nhận ra ác cảm trong giọng nói của Khổng Linh Linh. Tuy nhiên, nàng cố nhẫn nại, trầm tĩnh thốt:
– Tôi hỏi, là hỏi về tình huống của chàng, tôi muốn biết chàng có hy vọng khôi phục nguyên trạng hay không ...
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Ngươi là chi của hắn, lại tỏ ra qua quan tâm như vậy?
Trương Thanh giật mình. Nàng phải đáp làm sao đây?
Bành Đại Nương gỡ rối cho nàng, bà điểm nụ cười lạnh, đáp thay:
– Nàng là vị hôn thê của thiếu niên đó. Vợ quan tâm đến chồng là lẽ đương nhiên!
Khổng Linh Linh biến sắc mặt, cao giọng hỏi dồn:
– Có chắc như vậy không?
Trương Thanh đỏ mặt. Đành rằng, nàng yêu Quan Sơn Nguyệt, nàng nuôi mộng trở thành vợ chàng. Cái ý nghĩ đó đã đến với nàng trong mấy năm qua, chứ chẳng phải mới đây. Như vậy là nàng rất quen với tiếng vợ, tiếng chồng, thế mà giờ đây, Bành Đại Nương nói đến cái việc nàng đã nghĩ đến từ lâu, nàng vẫn thấy thẹn như thường. Tuy sự thực là thế, dù chưa thành hôn, dù chưa được Quan Sơn Nguyệt chánh thức đáp ứng, nó vẫn là sự thực.
Đang nuôi mộng, nàng có thể phủ nhận lời tuyên bố của Bành Đại Nương chăng? Phủ nhận là đi ngược lại nguyện vọng của nàng, điều đó hẳn nàng không thể làm rồi! Còn thừa nhận? Tựa vào đâu, nàng dám thừa nhận một việc lớn lao? Vả lại hôn nhân là điều tối trọng trong một đời người, hôn nhân không thể được thừa nhận đơn phương, trừ khi có sự đồng ý của đối phương.
Không phủ nhận, không thừa nhận, nàng thừ người ra đó.
Bành Đại Nương một lần nữa giải nạn cho nàng. Bà nhếch nụ cười mỉa hỏi:
– Điều đó có quan hệ gì đến ngươi, sao ngươi muốn đi sâu vào đời tư của kẻ khác?
Chừng như Khổng Linh Linh sôi giận về Trương Thanh nhất là sau khi Bành Đại Nương tuyên bố như vậy. Nàng sôi giận, phải tìm cách phát tiết niềm phẫn nộ đó.
Chưa kịp trút nó lên đầu Trương Thanh, nàng lại bị Bành Đại Nương móc xéo, bất giác hét to:
– Bành Cúc Nhân! Ngươi ỷ trượng vào đâu lại dám buông những lời như thế với ta?
Bành Đại Nương cũng nổi giận:
– Câm ngay! Ngươi là cái quái gì, dám có thái độ khinh miệt đối với ta? Ta vì nể trọng Tuyết Lão Thái Thái, nên thường thường nhẫn nhịn, để cho ngươi có chút mặt mày, ngươi tưởng là mình cao quý lắm sao? Cho ngươi biết, đến thân phụ ngươi kia, gặp ta rồi còn phải nghiêng mình tỏ vẻ cung kính, chẳng hề dám gọi đến tên ta. Ngươi nên xét lại cái bé nhỏ của ngươi, khép mình trong khiêm cung từ tốn, có như vậy mới hưởng lộc lâu dài đó, cô bé ngu!
Khổng Linh Linh biến sắc mặt trắng nhợt, chỉ tay thẳng vào mặt Bành Đại Nương rít lên:
– Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân! Đừng đem sự việc giang hồ hống hách dọa khiếp ta. Ta chỉ biết, ngươi chỉ xứng đáng làm một tên nô lệ cho sư phó ta, đã là tỳ bộc của sư phó ta, ngươi phải tuân theo mạng lịnh của ta. Ta ra lịnh cho ngươi rời ngay nơi này!
Nàng gằn từng tiếng:
– Ta bắt buộc ngươi ly khai ngay nơi này ngay, ngươi có nghe không?
Bành Đại Nương trầm giọng:
– Tại đây, không một ai ra lịnh đối với ta, trừ Tuyết Lão Thái Thái!
Khổng Linh Linh trợn tròn đôi mắt, tròng mắt như chực lọt ra ngoài. Nàng quát:
– Sư phó ta đang bế quan, nhập định. Ta thay mặt người, chiếu liệu trong ngoài. Ta bảo ngươi có bằng lòng cút hay không?
Bành Đại Nương quát trả:
– Dù có Thái thái ở đây, Thái thái cũng không dùng cái tiếng cút đối với ta.
Xú liễu đầu, ngươi ngông cuồng quá độ, ta phải giáo huấn ngươi! Đừng trách sao ta nghiêm khắc đấy!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng, vụt đứng lên, tung ra một chưởng. Chưởng kình lao thẳng đến mặt Bành Đại Nương. Chưởng kình đi rất nhanh, ngoài sức tưởng tượng của Trương Thanh.
Bành Đại Nương chẳng hề biến đổi thần sắc. Bà chỉ hụp đầu xuống một chút, nhường cho chưởng kình bay lướt qua bên trên.
Khổng Linh Linh khoanh tay trước ngực, nghiêng nghiêng mình điểm nụ cười lạnh, gằn từng tiếng:
– Phi Thiên Dạ Xoa! Nghĩ kỹ lại đi! Giá như người muốn làm một cuộc thực nghiệm, ta sẽ cấp thời cho ngươi biết cái thú vị của cuộc thực nghiệm đó.
Một chưởng vừa rồi, giáng đúng vào mặt Bành Đại Nương, trong cơn bất ngờ, bà lãnh đủ, dư lực còn làm cho bà ngả xuống nhưng thân vừa chạm đất, bà vụt đứng lên ngay. Năm ngón tay còn lưu dấu nơi mặt bà, bà đưa tay xoa vào chỗ đó, ánh mắt rực lửa căm hờn, bà vung tay, đồng thời quát:
– Tiểu liễu đầu, ta nhất định phải trả cho kỳ được cái chưởng của ngươi, trả không được ta thề không làm người nữa!
Chưởng kình bay tới, nhắm vào ngực Khổng Linh Linh bắn vào.
Khổng Linh Linh ung dung mở vòng tay, đưa ra một cánh tay, quét song chưởng của Bành Đại Nương ra ngoài, đoạn nhanh như chớp, xoay nửa bàn tay, chụp vào mạch môn của Bành Đại Nương. Nàng cao giọng thốt:
– Bành Cúc Nhân! Nếu ta không nể mặt sư phụ ta, thì ngay trong phút giây này, ngươi mất mạng đấy!
Nàng vung tay:
– Cút đi, cho đừng bẩn mắt ta!
Bành Đại Nương bị hất dội ra xa ngã ngồi xuống đất. Bà trừng mắt nhìn Khổng Linh Linh, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng.
Trương Thanh mục kích vũ công của Khổng Linh Linh, thấy nàng hạ Bành Đại Nương quá dễ dàng, bất giác kinh hãi. Nàng nhận thức ngay tài nghệ của nàng, đem so sánh với vũ công của Khổng Linh Linh, còn quá kém xa, cách nhau như vực với trời.
Nàng nghĩ:
“Quan đại ca sát hại thân phụ nàng, có thể là nàng chưa hay biết sự việc đó. Một ngày nào, chắc Quan đại ca khó sống được với nàng! Với vũ công đó, nàng thừa sức áp đảo Quan đại ca!”.
Càng nghĩ, nàng càng kinh khiếp, lo ngại cho tánh mạng Quan Sơn Minh trong tương lai. Có lẽ gần đây thôi, hung tin kia rồi cũng sẽ đến tai Khổng Linh Linh.
Bành Đại Nương ngồi thừ người trên mặt đất lâu lắm, bà mới rú lên một tiếng, rồi phun ra mấy bún máu tươi. Phun máu rồi, bà ngã ngửa người, mãi đến lúc đó bà mới thấm đòn.
Trương Thanh cấp tốc nhảy vọt đến nơi, ôm bà hòi gấp:
– Đại nương ... đại nương có sao chăng?
Nàng đưa tay sờ ngực Bành Đại Nương.
Từ nhỏ, nàng từng nhìn phụ thân chữa trị cho nhiều người, nàng cũng hiểu được phần nào về y thuật, nên việc quan sát tình trạng của Bành Đại Nương giờ đây, đối với nàng chẳng khó khăn gì.
Tuy không đủ tài chữa trị những chứng bịnh nặng nề, ít nhất nàng cũng biết qua một vài phương cứu cấp.
Nhờ đó, trong khoảng đường dài ngàn dặm tìm đến Cô Lôn Sơn nàng săn sóc chu đáo Quan Sơn Nguyệt, giúp chàng chi trì đến nơi đến chốn.
Nghe tim Bành Đại Nương một lúc, nàng hiểu ngay vì bà xúc nộ cực độ, nên máu ngưng lưu động, ứ lại, sau khi khôi phục bình thường máu ứ đó bà phải mửa ra, có mửa ra, bà mới khỏe người. Chứ sự thực, bà chẳng hề thọ thương, qua chưởng lực của Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh cũng biết vậy, nên đứng xa xa, nàng nhìn Trương Thanh điểm nụ cười lạnh:
– Ngươi yên trí, mụ ấy chẳng sao đâu, bất quá mụ giả vờ như chết rồi, làm cho ngươi lo rối lên vậy thôi! Hãy cõng mụ rời khỏi sơn cốc đi!
Trương Thanh ngẩng mặt lên, tha thiết van cầu:
– Khổng tiểu thơ! Xin tiểu thơ để cho tôi vào gặp Tuyết Lão Thái Thái. Tôi muốn hỏi thái thái về bịnh tình của Quan đại ca tôi!
Khổng Linh Linh trầm lạnh gương mặt, lắc đầu!
– Không được đâu! Sư phụ ta chẳng bao giờ chấp nhận cho ngươi vào gặp mặt đâu! Sư phụ ta đặc biệt dặn dò ta như thế, đừng để cho ngươi vào. Giả như ngươi cãi lịnh, cứ bước tới thì ta có quyền hạ sát ngươi liền. Sư phụ ta sẽ không trách cứ ta gây án mạng tại sơn cốc. Cho ngươi biết như vậy để giữ mình.
Trương Thanh kêu lên:
– Trời! Tại sao thái thái hận tôi đến thế?
Khổng Linh Linh hét lên:
– Ta không hiểu! Ta chẳng hiểu chi hết! Ngươi hãy đi đi, nếu không đi, ta động thủ ngay!
Trương Thanh thừa hiểu, nếu có cuộc động thủ, thì phần chắc cái bại về nàng. Do đó, nàng vừa bi thương, vừa căm hận, bế xốc Bành Đại Nương, nàng khóc to, van cầu Khổng Linh Linh:
– Tiểu thơ! Tiểu thơ! Quan đại ca tôi ...
Khổng Linh Linh bực quá, song cố gượng buông một câu:
– Ngươi yên trí! Có sư phụ ta chiếu cố đến hắn, hắn chẳng chết đâu mà sợ!
Trương Thanh toan nói gì thêm, bỗng Bành Đại Nương vùng khỏi vòng tay nàng, rồi như cơn điên nổi lên, bà nhào tới Khổng Linh Linh. Bà vùng mạnh quá, trong lúc bất ngờ, Trương Thanh mất thăng bằng, không kềm vững kịp thân mình đành ngã xuống đất.
Khổng Linh Linh cũng không phòng bị, thấy Bành Đại Nương nhào tới, kinh hãi quơ tay gạt ngang, gạt như người thường chứ chẳng thành chiêu thức gì cả.
Tuy nhiên, cái gạt đó cũng khá mạnh, đủ hất tung Bành Đại Nương lên cao, rơi xuống ngoài xa mấy thước.
Nhưng Bành Đại Nương cũng đánh được một tát tay vào mặt Khổng Linh Linh. Bàn tay bà chạm vào mặt nàng vang lên một tiếng «bốp» rất lớn chứng tỏ cái tát đó rất mạnh.
Rơi xuống, Bành Đại Nương may mắn chạm chân kịp trên mặt đất giữ cho khỏi ngã, bà chập choạng mấy bước mới đứng vững. Bà nhìn Khổng Linh Linh, cất tiếng cười vang:
– Tiểu liễu đầu! Chung quy ta cũng đánh trả được ngươi một chưởng!
Gương mặt Khổng Linh Linh nhìn rõ dấu năm ngón tay, dấu tay đỏ hồng hiện trên gương mặt trắng nhợt, bên má bị tát sưng vù lên biến mặt nàng thành một bộ mặt mẫu tử.
Nàng giận quá nhún chân vọt theo Bành Đại Nương, vung hai tay đánh ra tới tấp.
Bành Đại Nương không tài nào tránh kịp, những huyệt đạo trên người một số lớn bị Khổng Linh Linh đánh trúng.
Một tiếng «bình» vang lên, Bành Đại Nương ngã nhào.
Khổng Linh Linh lướt tới, đạp một chân lên ngực bà, gằn từng tiếng:
– Bành Cúc Nhân! Hôm nay ta cho ngươi chết không đất chôn! Xác ngươi sẽ bị sài lang hổ báo cấu xé!
Bị điểm huyệt khắp thân mình, Bành Đại Nương chẳng những không cử động được, mà cũng không phương thốt một tiếng nào, bất quá trong ánh mắt rực lên cái ý chí quật cường bất khuất. Ánh mắt đó bắn sang Khổng Linh Linh những tia lửa phẫn nộ cực độ.
Khổng Linh Linh rút chân lên rồi đá mạnh vào Bành Đại Nương.
Bà lăn đi mấy vòng.
Trương Thanh trông vào tình cảnh đó, hết sức bất nhẫn cấp tốc lướt tới cạnh Bành Đại Nương, vừa ôm bà lên vừa nhìn Khổng Linh Linh, cất giọng thiết:
– Khổng tiểu thơ! Dù sao thì Bành Đại Nương cũng là một nhân vật thành danh trên giang hồ. Tiểu thơ muốn giết người, cứ giết, xin đừng làm nhục người!
Khổng Linh Linh phẫn nộ:
– Ngươi tránh đi nơi khác để mụ ấy mặc ta xử trí. Chẳng những ta giết mụ, mà ta còn hành hạ mụ đủ điều trước khi giết mụ!
Trương Thanh kêu lên:
– Khổng tiểu thơ! Tiểu thơ không nên làm thế!
Khổng Linh Linh lạnh lùng:
– Nhưng ta lại muốn làm thế!
Nàng vươn tay tới giật Bành Đại Nương vuột khỏi vòng tay của Trương Thanh.
Trương Thanh toan chồm tới giật lại, nhưng Khổng Linh Linh vung bàn tay kia đập mạnh vào vai nàng, làm người chập choạng lùi lại mấy bước mới đứng vững.
Khổng Linh Linh lại điểm thêm mấy huyệt nữa trên mình Bành Đại Nương.
Bành Đại Nương xuất hạn ướt đầu ướt mặt, da thịt rung như bị phong giật, đôi mắt láo liên. Chừng như bà ta đau đớn lắm.
Khổng Linh Linh quăng Bành Đại Nương xuống đất rồi mỉm cười đắc ý, tuy nàng cười nhưng ánh mắt bốc rực ý niệm tàn độc.
– Tiểu thơ không nên đối xử với bà như thế! Hãy giải huyệt cho bà đi, tiểu thơ!
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Nếu ngươi còn léo nhéo ta sẽ cho ngươi nếm chút tư vị như mụ ấy đấy!
Trương Thanh đã quá sức nhẫn nại, không cần giữ lễ độ nữa vừa vung tay đánh tới một chưởng vừa hét:
– Ngươi khát máu thì cứ giết luôn ta đi!
Khổng Linh Linh thoát một vòng tay, hất cái chưởng của Trương Thanh qua một bên, đoạn nhanh như chớp xoay bàn tay chụp vào mạch môn của Trương Thanh, gằn từng tiếng:
– Ngươi thấy chưa?
Rồi nàng bật cười lạnh rợn tiếp:
– Ta chỉ chờ ngươi nói lên câu đó! Ta chỉ chờ ngươi xuất thủ! Ngươi biết tại sao không? Chỉ vì sư phụ ta có dặn, đừng bao giờ hành động trước, mà phải chờ người ta xuất thủ đánh mình, mình mới được phản công. Nếu cần, cũng có thể giết người được. Bây giờ, ta có giết ngươi luôn cũng chẳng sao, bởi ta có lý do rồi.
Nói là làm. Nàng cử cao một cánh tay định đánh tới, nhắm đúng vầng trán của Trương Thanh.
Bỗng, từ phía sau lưng Khổng Linh Linh, một tràng cười hắc hắc vang lên, tiếp theo đó một bóng người lướt tới. Người đó nhanh như chớp vung chưởng đánh bật cánh tay Khổng Linh Linh qua một bên, đồng thời đẩy nàng ra ngoài xa hơn năm bước.
Trương Thanh nghe luồng khí lạnh truyền nhanh vào cơ thể, làm nàng rung người lên. Nàng kinh hãi, ngẩng mặt nhìn, nhưng nhìn rồi lại càng kinh hãi hơn, muốn rú một tiếng lớn, nhưng lưỡi líu lại không rú được.
Người đó nhìn Trương Thanh, ánh mắt ấm dịu vô cùng.
Nhưng ánh mắt ấm dịu đó không làm cho Trương Thanh an tâm được. Bởi, hình dáng của người đó hết sức kỳ dị. Mớ tóc rối bồng lên, gương mặt chằng chịt những xẹo to có, nhỏ có, ngang có, dọc có. Riêng đôi mắt là có thần. Mớ tóc lốm đốm bạc chứng tỏ niên kỷ của người đó đã quá ngũ tuần.
Và, người đó là một nữ nhân. Có lẽ xưa kia quái nữ nhân cũng là một trang sắc nước hương trời, cho nên ngày nay, dù mang mớ tóc rối bồng điểm trắng, dù gương mặt chằng chịt những vết sẹo, vẻ đẹp còn phảng phất nơi bà.
Bà vận bộ y phục rách nát, mường tượng một nữ gia nhân của ai trong vùng núi non này. Nhưng là nữ gia nhân, sao bà lại có vẻ vũ công ghê gớm thế?
Khổng Linh Linh trấn định tâm thần rồi, nhìn lại nữ nhân già, xấu, bất giác kêu lên:
– Mụ điên! Sao mụ lại trốn được ra đây? Sư phụ biết được thì mang khổ đấy! Mụ không sợ bị rút gân à?
Đã điên, thì còn sợ gì? Nếu người đó là một bà điên, Khổng Linh Linh còn giảng lý, còn hăm dọa làm gì? Có đúng là bà ấy điên thật sự chăng? Hay là dáng vẻ của bà ta xấu xí, dơ dáy, khôi hài quá mà nàng gọi là điên?
Trương Thanh không thể hiểu nổi sự tình, nàng chú ý theo dõi những diễn biến chuyển giữa bà ta và Khổng Linh Linh.
Nghe Khổng Linh Linh hăm dọa như vậy, lão xú nữ chừng như sợ hãi, từ ừ nép mình về một chỗ, cách cục diện xa xa ...
Trương Thanh biến sắc.
Thế ra bà ta điên thật! Tuy điên, bà vẫn có một điểm nhỏ lý trí, nhờ vậy, bà mới biết sợ trước lời hăm dọa của Khổng Linh Linh.
Điều mà Trương Thanh vừa phát hiện, là bà ấy vẫn chịu dưới hệ thống của Khổng Linh Linh. Nếu thế, nàng chẳng còn hy vọng gì nơi bà ta nữa!
Lão xú nữ rời xa cục diện rồi, Khổng Linh Linh lại bước tới, gần Trương Thanh cười lạnh thốt:
– Ngươi đừng hy vọng mụ điên ấy cứu ngươi! Chẳng bao giờ mụ ấy dám trái lịnh ta!
Nàng nhấc cánh tay lên, trong tư thế sắp sửa xuất chiêu.
Trương Thanh biết rõ, không làm sao đủ nghinh chiến với Khổng Linh Linh.
Dù có xuất thủ phản công, bất quá chỉ là một việc liều lĩnh, gượng gạo, nàng chẳng mong gì hòa chứ đừng nói là thắng.
Một phương cách duy nhất giúp nàng thoát nạn, là cầu viện nơi lão xú nữ kia. Nhưng, làm sao cầu viện nơi bà ta, khi bà ta là một người điên, Khổng Linh Linh lại sẵn sàng hăm dọa, ngăn chặn bà?
Nàng khẽ đưa mắt liếc về phía bà.
Quả nhiên, nữ nhân điên đáp ứng sự cầu cứu của nàng qua ánh mắt tha thiết đó, bà ta kêu lên mấy tiếng, âm thanh khàn khàn nghe chẳng rõ bà ta muốn nói gì. Đoạn, bà bước tới, đứng chắn trước mặt Trương Thanh đưa lưng về nàng, mặt hướng sang Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh nổi giận hét to:
– Mụ điên! Tránh ra, tránh mau đừng xen vào việc của ta!
Nữ nhân điên chẳng rõ vì điên hay quật cường, lắc đầu, tỏ cái ý không tránh đi đâu cả.
Khổng Linh Linh lại hét:
– Thế là mụ tự tìm cái chết đấy, đừng trách ta nhé!
Bàn tay nàng chớp lên, chưởng phong phát ra, vút tới nữ nhân điên liền.
Nữ nhân khẽ xoay hai bàn tay của bà, nghinh đón chưởng phong của đối phương.
Như lần trước, một tiếng «bình» vang lên, Khổng Linh Linh bị bà đẩy lui về phía hậu.
Bây giờ Khổng Linh Linh giật mình, nàng bắt đầu nhận thức nữ nhân điên lợi hại phi thường. Từ trước, nàng có ý khinh miệt bà và cứ tưởng là trong cốc, ngoài Tuyết Lão Thái Thái ra chẳng còn ai là đối thủ của nàng. Nhưng, nữ nhân điên đã chứng minh sự trái ngược, qua hai lần hất dội nàng, hất dễ dàng, như hất một trẻ nít. Công lực đó, trên hẳn nàng, chẳng những trên một bậc, mà chắc chắn là phải trên nhiều bậc.
Tủi nhục cho nàng hơn nữa là người hơn nàng, chỉ là một kẻ điên, hình thể không còn giống con người nữa! Nàng quật cường, cao ngạo, trong tình thế đó, cũng cảm thấy hơi gờm gờm, và đương nhiên phải dè dặt.
Nàng «hừ» lạnh một tiếng, thốt:
– Mụ điên! Mụ dám bênh vực người ngoài chống đối lại với ta! Được rồi!
Ta sẽ tố cáo với sư phụ. Thử xem mụ có lời gì nói với sư phụ!
Nàng quay mình bước đi ngay.
Chừng như nữ nhân điên rất sợ cái việc nàng đem sự tình mách lại với Tuyết Lão Thái Thái, nên cấp tốc lướt tới, nắm áo nàng giữ lại. Bà lí nhí những gì, chẳng ai nghe rõ, song nhìn qua thần sắc của bà, ai ai cũng hiểu đại khái là bà van cầu nàng đừng đi mách sư phụ.
Bất thình lình, Khổng Linh Linh chớp tay, điểm nhanh vào một huyệt đạo dưới nhũ hoa của bà.
Nữ nhân điên không phòng bị, tự nhiên hứng đúng ngón tay của nàng. Bà đau quá, rú lên một tiếng lớn, ôm ngực ngã xuống.
Khổng Linh Linh để mặc bà nằm tại đó, cấp tốc quay mình nhảy đến trước mặt Trương Thanh, tấn công tới tấp.
Bắt buộc Trương Thanh phải nghinh chiến, song bất quá ở trong cái thế chẳng đặng đừng, nàng phải chống trả, chứ thừa hiểu là mình còn kém Khổng Linh Linh rất xa.
Đánh với sự miễn cưỡng, thì còn mong gì cứu vãn tình hình? Cùng lắm là nàng kéo dài thời gian một vài phút giây vậy thôi, dù có bại cũng không bại gấp.
Chỉ qua ba chiêu đầu, đến chiêu thứ tư thì Trương Thanh bị Khổng Linh Linh đánh bạt ra xa.
Trong khi nàng lảo đảo chực ngã, Khổng Linh Linh bật cười ghê rợn, tung tiếp theo một chưởng kình rất mãnh liệt. Chưởng phong vút đi, vù vù, cuốn gấp đến nàng.
Vừa lúc đó, nữ nhân điên đứng lên, cố gượng đau lướt tới đứng chận mơi khoảng trung gian, cũng như lần trước, đưa tay tiếp đón kình phong của Khổng Linh Linh.
Nhưng, công lực của bà kém giảm qua sự điểm huyệt của Khổng Linh Linh, lần này, bà không ngăn chặn được khí thế của Khổng Linh Linh, trái lại còn bị nàng bắn tung ra xa, lảo đảo chân, lại ngã xuống.
Ngã xuống rồi, bà vẫn sợ Trương Thanh bị Khổng Linh Linh sát hại, dùng hai chân dậm xuống mặt đất, lấy thế bật mình đứng lên, đoạn nhảy tới.
Bà đứng chắn giữa song phương, lưng trở về Trương Thanh, mặt hướng sang Khổng Linh Linh. Bà tỏ rõ ý chí cương quyết ngăn chặn Khổng Linh Linh hạ thủ đoạn tàn độc đối với Trương Thanh.
Khổng Linh Linh sôi giận cực độ, quát lớn:
– Mụ điên! Thế là mụ nhất định chống đối ta! Mụ muốn chết, ta cho chết luôn! Ta giết mụ rồi, sẽ giết nàng ấy sau!
Nàng thốt xong, vung tay liền.
Nữ nhân điên đưa tay nghinh đón. Bây giờ, bà không còn mạnh mẽ như lúc vừa xuất hiện, bị lực đạo của Khổng Linh Linh đánh sang, bà nghe toàn thân bị chấn dội rất mãnh liệt.
Tuy đón được chưởng kình của Khổng Linh Linh, bà vẫn chao chao người, phải cố gượng lắm mới đứng vững lại được.
Trương Thanh hết sức bất nhẫn thấy nữ nhân điên mấy lượt can thiệp giải cứu cho nàng, đến nỗi phải bị đánh nặng, nàng bước tới nắm áo bà, kéo về phía nàng, thốt qua niềm khích động:
– Bà! Bà khỏi cần tiếp trợ tôi! Bà cứ để cho nàng giết tôi đi!
Nàng đinh ninh là mình phải chết nơi tay Khổng Linh Linh, nên buột miệng than:
– Gia gia ơi! Đáng lý con không nên vi lịnh Gia Gia, con không nên đến đây!
Từ nay, Gia gia không còn gặp lại con nữa. Thanh nhi cam tội bất hiếu với Gia gia ...
Nữ nhân điên bỗng biến sắc mặt, cất giọng khàn khàn kêu lên:
– Thanh ... Thanh nhi ...
Có lẽ đây là lần đầu tiên, nữ nhân điên nói thành lời, cho nên Khổng Linh Linh hết sức lấy làm lạ.
Nhưng, cảm giác đó chỉ hiện lên một thoáng thôi, nàng chẳng quan tâm đến sự biến đổi thần sắc của nữ nhân điên, bởi nàng chỉ trọng đến việc hạ sát Trương Thanh, nàng lướt tới, sắp sửa tấn công.
Trương Thanh chưa kịp phản ứng, nữ nân điên lại rít lên liên tiếp mấy lượt.
– Thanh ... Thanh nhi ...
Đồng thời, bà bất chấp thương thế do chưởng kình của Khổng Linh Linh gây nên vừa rồi, vọt mình tới, nghinh đón thế công của Khổng Linh Linh liền.
Thọ thương, bà đã mất khá nhiều khí lực, chẳng rõ tại sao đột nhiên bà trở nên mạnh mẽ phi thường, vung tay đánh ra mấy chưởng, bức Khổng Linh Linh lùi lại mấy bước.
Khổng Linh Linh vừa thẹn vì bị bà bức thoái, vừa giận bà vừa chận hành động của nàng, hét lên một tiếng lớn, thay đổi thủ pháp xuất phát mấy chiêu vô cùng nguy dị.
Nữ nhân điên cố tránh né, song không tài nào thoát khỏi chưởng pháp tân kỳ của đối phương, loay hoay một chút, bà hứng trọn một chưởng kình nơi ngực.
Chưởng kình đó khá mạnh, làm bà chấn động toàn thân, đảo đảo người rồi ngã xuống, máu tươi từ miệng vọt ra, bà không còn đứng nổi.
Một chẳng làm, hai chẳng thôi, Khổng Linh Linh lướt theo ngay. Nàng cử cao cánh tay, toan giáng xuống một chưởng, kết liễu tính mạng nữ nhân điên.
Bỗng có tiếng quát đâu đây vang lên:
– Không được vọng động!
Một giọng nghiêm lạnh tiếp nối:
– Sao ngươi cố ý sát hại bà ta?
Khổng Linh Linh dừng tay ngay, cánh tay đó không thể giữ lơ lửng nửa chừng, nàng buông thõng xuống.
Câu nói vừa dứt âm vang, một lão ẩu từ xa lao vút mình tới như bay, tay cầm một chiếc quảy màu đen, bóng nhoáng.
Vừa đến nơi, lão ẩu dộng đầu quảy xuống đất cộp cộp, đồng thời quở:
– Linh Linh! Ngươi to gan lắm đấy nhé! Dám đánh người trọng thương ngay tại sơn cốc của ta!
Khổng Linh Linh kinh hãi ra mặt, đưa tay rung rung chỉ Trương Thanh, thốt:
– Sư phụ! Bành Cúc Nhân vi lịnh sư phụ, tự ý đưa nàng đó đến cốc, đệ tử mấy lượt giảng giải, mụ Bành không chịu nghe, bắt buộc đệ tử phải vâng theo lời của sư phụ phân phó từ trước, định sát hạ cả bọn họ ...
Lão ẩu lại dộng đầu gậy xuống đất cộp cộp, quát:
– Ta nói, bất quá để chứng tỏ là ta không thích ai đến đây quấy nhiễu ta vậy thôi, nào có phải là thực sự ta bảo ngươi sát nhân? Người ta lỡ đến đây, đành rằng vi lịnh của ta, song họ cũng chẳng đến đỗi phạm tội chết? Ngươi há chẳng biết là Tuyết Thần Cốc không hề nhiễm mùi máu tanh chứ? Tại sao ngươi dám gây cuộc đổ máu trong cốc?
Khổng Linh Linh giật mình, sững sờ một lúc, đoạn hấp tấp phân trần:
– Đệ tử chẳng thấu đáo ý tứ của sư phụ, cho nên nghe sao thì thi hành vậy, thành đắc tội với sư phụ. Tuy nhiên, Bành Cúc Nhân chưa chết, sư phụ ạ. Bất quá bà ấy bị đệ tử điểm huyệt mà thôi. Thực sự thì đệ tử cũng chẳng quyết tâm làm khó khăn chi cho bà ấy!
Lão ẩu «hừ» một tiếng, sắc mặt còn lộ vẻ phẫn hận:
– Ngươi không làm chi khó khăn đến người, thế sao ngươi lại dùng thủ pháp tuyệt độc đánh người đến lệch gân sai khớp xương như vậy? Khi ta truyền cho ngươi thủ pháp «Phân Cân Thố Cốt», ta có căn dặn ngươi, không nên khinh thường, sử dụng bừa bãi ...
Khổng Linh Linh xám mặt:
– Vì bà ấy vô lễ, dám buông lời xúc phạm đến sư phụ!
Trương Thanh lập tức kêu lên:
– Khổng tiểu thơ đừng vu oan cho Bành đại nương! Lúc nào Bành đại nương cũng tôn kính lão thái thái, là bậc tiền bối đáng được đời trọng vọng, thì làm gì bà ấy dám vô lễ với lão thái thái?
Có mặt lão ẩu, Khổng Linh Linh chẳng dám hung hăng như trước, tuy không dám làm gì, nàng cũng trừng mắt căm hờn nhìn Trương Thanh.
Lão ẩu «hừ» một tiếng, rồi điềm nhiên như thường, chẳng biểu lộ một cảm nghĩ nào. Bà nhìn xuống nữ nhân điên đang nằm bất động, cạnh miệng máu giọt ứ đọng, máu sắp đông đặc lại, ngả màu đen đen. Bà cao giọng hỏi:
– Việc gì, ta cũng có thể bỏ qua, nhưng ta muốn biết tại sao ngươi đánh bà này trọng thương?
Khổng Linh Linh cúi đầu:
– Lúc đệ tử toan giết nàng đó, bất thình lình bà ấy xuất hiện, can thiệp ... Bà ấy là một mụ điên ...
Nàng chưa dứt câu, lão ẩu quét chiếc quảy ngang qua, trúng lưng nàng.
Nàng ngã nhào xuống đất.
Lão ẩu hét lớn:
– Mụ điên? Nữ nhân điên? Ai cho phép ngươi gọi như vậy?
Khổng Linh Linh đau quá lăn đi mấy vòng, song chẳng dám đứng lên vừa khóc vừa thốt:
– Đệ tử còn biết gọi như thế nào? Nghe sư phụ gọi sao, đệ tử gọi vậy ...
Lão ẩu quát chận:
– Ta gọi sao mặc ta, ngươi không được gọi theo như vậy! Ngươi có biết nàng là ai chăng?
Khổng Linh Linh vẫn khóc:
– Con không biết bà ấy là ai? Sư phụ có bao giờ nói cho con biết đâu?
Lão ẩu hơi lắng dịu cơn thịnh nộ, gương mặt thoáng lộ vẻ buồn:
– Nàng là con gái của ta đó. Con gái độc nhất của ta đó!
Khổng Linh Linh biến sắc.
Nàng ngưng khóc ngay, lẩm nhẩm:
– Thực tình đệ tử không biết ...
Lão ẩu «hừ» một tiếng:
– Câm! Hãy cút đi! Cút luôn vào đơn phòng, nếu ta không gọi ngươi chẳng được ra khỏi nơi đó!
Khổng Linh Linh mất cả vẻ hung hăng, lồm cồm ngồi dậy, rồi đứng lên, bước đi liền.
Trương Thanh trố mắt nhìn sự việc xảy ra hết sức kinh dị. Nàng không tưởng là Tuyết Lão Thái Thái có một người con, người con đó lại là một nữ nhân điên.
Nàng muốn hỏi gì, lại thôi, rồi nhìn lão ẩu bước tới giải huyệt cho Bành Đại Nương.
Bành Đại Nương cử động được rồi, lẩm nhẩm:
– Lão Thái Thái! Tôi ...
Lão ẩu khoát tay:
– Khỏi nói chi hết. Ta đã hiểu rồi. Ta không trách ngươi thì được rồi!
Bành Đại Nương trầm gương mặt, nhìn sang Trương Thanh kín đáo vẫy tay, cái ý của bà ta là bảo nàng bước tới đến bái kiến Tuyết Lão Thái Thái.
Trương Thanh không kịp làm gì cả, lão ẩu đả quay mình, bước về phía nữ nhân điên, rồi ngồi xuống bên cạnh bà ấy, vừa xoa nắn vừa thốt:
– Hương nhi! Con có sao chăng? Con rời mật thất, ra đây làm gì, đến nỗi phải bị nàng hạ độc thủ ...
Nữ nhân điên nhờ lão ẩu xoa nắn một lúc, tỉnh lại ngay. Bà buông từng tiếng một, dù bà muốn nói gì đó, trọn câu liền nưng cố gắng mãi cũng thốt đứt đoạn:
– Thanh nhi ... Thanh ...
Lão ẩu lộ vẽ khích động vô cùng. Bà tiếp:
– Hương nhi! con đã nói được rồi sao? Tốt lắm, con!
Nữ nhân điên cứ gọi mãi hai tiếng Thanh nhi, ánh mắt của bà ươn ướt.
Lão ẩu lại đưa tay áo qua mắt bà, dịu giọng tiếp:
– Hương nhi! con cũng khóc được nữa à?
Bà cung cung kính kính tiếp luôn:
– Tạ ơn Trời Phật, làm cho con gái già bỗng nhiên lại nói được khóc được!
Cầu xin ơn trên phù hộ cho nó, một ngày nào đó, khỏi bịnh. Thật nó đáng thương hại quá chừng!
Nữ nhân điên mấp máy môi, muốn nói gì nữa, song lão ẩu hấp tấp hơn, gọi bà:
– Hương nhi! Con đã nói được như trước rồi, con hãy gọi mẹ đi, mẹ đây con ạ! Hơn hai mươi năm rồi, có khi nào con gọi mẹ một tiếng đâu? Gọi đi con, mẹ đây con!
Nữ nhân lần này thì khóc thật sự, nước mắt chảy ra thật nhiều chứ không ươn ướt như trước. Giọng nói của bà thấp quá, yếu quá, chừng như bà không còn một điểm sinh lực. Nhưng bà, không gọi lão ẩu, lại gọi Trương Thanh:
– Thanh nhi ... Thanh nhi ...
Lão ẩu gắt nhẹ:
– Mẹ đây, sao con không gọi, con lại gọi ai?
Nữ nhân điên càng khóc lớn:
– Mẹ ... Thanh nhi của con ... Thanh nhi ...
Trương Thanh nghe bà ta cứ gọi tên nàng mãi, nàng hết sức kỳ quái. Nàng muốn hỏi lắm, song nghĩ lại, bà ta có tỉnh hẳn chưa, hay vẫn còn đêm điên dại dại?
Nếu bà còn điên dại, thì nàng hỏi cũng vô ích. Hơn nữa, lão ẩu ở một bên đó, nàng ngại quá, nào dám hỏi han gì?
Bỗng, lão ẩu đưa tay điểm huyệt cho nữ nhân điên hôn mê đi, đoạn bà đứng lên gọi Trương Thanh:
– Bế mẹ ngươi, đi theo ta!
Trương Thanh biến sắc. Mẹ nàng? Nàng tưởng chừng vừa nghe một tiếng sét, nàng không tin là lão ẩu có nói như vậy với nàng. Nàng lẩm nhẩm:
– Mẹ tôi? Mẹ tôi đó sao?
Lão ẩu nổi giận quát to:
– Cha con ngươi đã làm cho thân thể nó ra như vậy, còn chưa vừa lòng sao?
Ta nghĩ tàn độc như bọn ngươi là cùng, dù báo cũng chẳng tàn độc hơn cha con ngươi! Nếu cha ngươi dẫn xác đến đây, ta sẽ xé xác cha ngươi ra thành vạn mảnh cho mà xem!
Trương Thanh sững sờ. Nàng như từ cung trời rơi xuống. Nàng có hiểu gì đâu? Bà ấy nói gì? Tại sao cha con nàng có liên quan đến con gái của bà?
Từ ngày nàng khôn lớn, gia gia nàng cho biết là mẹ nàng mất từ lúc nàng còn thơ ấu. Mẹ đã mất rồi, còn mẹ nào ở tại đây?
Nàng ngây người như pho tượng, đứng đờ tại đó.
Lão ẩu lại quát:
– Sao ngươi thừ người ra đó? Chưa chịu cõng nó đi theo ta? Hay là ngươi hiếm có xấu xí? Nó chẳng đáng là mẹ của ngươi phải không?
Gương mặt của Tuyết Lão Thái Thái biến sắc xanh dờn. Niềm phẫn nộ nơi bà sôi sục cực độ.
Trương Thanh kinh hoàng, hấp tấp cúi xuống, ôm xốc nữ nhân điên, lão ẩu đi trước, nàng bám sát phía hậu. Sau cùng, là Bành Đại Nương, bà cũng lẵng lặng đi theo.
Khi mọi người rời khỏi cục trường, Quan Sơn Nguyệt vẫn còn đứng đó. Đối với mọi diễn tiến chung quanh chàng vừa qua, chàng chẳng hay biết chi cả.
Nhưng, những diễn tiến đó, lại có mối liên quan trọng đại với chàng, sau này ...
Bế nữ nhân điên đi theo lão ầu, Trương Thanh nghĩ ngợi miên man về sự tình. Nhiều nghi vấn nổi lên trong tâm tư nàng, nhưng nàng làm sao tìm được những giải đáp?
Vừa suy nghĩ, vừa bước đi, khi nàng ngẩng đầu lên, nàng mới hay là mình đã đến trước một dãy nhà, có nhiều phòng.
Tuyết Lão thái thái bước vào trước, chỉ tay về phía trước giường cây, bảo:
– Đặt mẹ ngươi lên đó, ngồi một bên, canh chừng nó. Ta vào trong biện liệu mấy món thuốc, chữa trị cho nó. Phải nhớ, nó là mẹ của ngươi, ngươi nên dằn lòng chịu khó với nó.
Thốt xong, bà bước đi liền.
Bành đại nương lấy làm lạ, bước tới, hỏi:
– Mẫu thân của cô nương đây sao? Nếu thế thì chẳng hóa ra Tuyết Lão Thái Thái là ngoại tổ mẫu của cô nương sao?
Trương Thanh lắc đầu:
– Thật ra, tôi cũng chẳng biết sự tình như thế nào, đại nương ơi! Từ ngày tôi khôn lớn đến nay, tôi chưa hề thấy mặt mẹ tôi, Gia gia tôi thì bảo là mẹ tôi chết từ lúc tôi còn nhỏ. Bây giờ, lão Thái thái nói thế, tôi hết sức hoang mang ...
Bành Đại nương chớp mắt:
– Chẳng khi nào Tuyết Lão Thái Thái nói ngoa đâu. Phải có một nguyên nhân như thế nào, lão Thái Thái mới nói như vậy. Bà điên kia, hẳn phải đến núi này từ lâu, bà lại không nói năng được, thần trí hỗn loạn, do đó lão Thái Thái mới gọi là bà điên, và quản thúc trong phòng kín. Mãi đến bây giờ, ta mới biết được bà ấy là con gái của lão Thái Thái.
Trương Thanh đỏ mặt, lệ thảm chực tuôn tràn, rung rung giọng thốt qua xúc động:
– Tôi hy vọng đó là mẫu thân tôi, dù mẫu thân tôi có điên cuồng xấu xí, tôi cũng kính yêu như thường. Tôi thiếu vắng tình mẹ từ nhỏ, nhìn thấy gia đình người khác mẹ thương con, con kính mẹ, lòng tôi hết sức đau buồn ...
Tuyết Lão Thái Thái đã trở lại với nhiều thứ thuốc. Nghe Trương Thanh nói đoạn cuối, bà nhìn nàng lạnh lùng hỏi:
– Ngươi bất chấp nó xấu xí, nó điên cuồng?
Trương Thanh rơi lệ:
– Thương mẹ, là thương công ơn sanh dưỡng, chứ nào phải thương hình dạng, thương tình trạng? Mẹ xấu xí cũng là mẹ, mẹ điên cuồng là do bịnh, do căn, điều đó có ảnh hưởng gì đến tình mẫu tử? Nếu bà ấy là mẫu thân của tôi, tôi vẫn xem bà đẹp hơn tiên nữ trên cung trời, bà sáng suốt ngang bậc hiền bậc thánh.
Chừng như Tuyết Lão Thái Thái xúc động vì lời nói của nàng. Vẻ lạnh lùng nơi mặt bà tan biến dần, rồi bà tỏ lộ niềm thương cảm, thở dài, nhẹ giọng:
– Ngươi còn lương tâm! Ngươi hơn cha ngươi nhiều! Cha ngươi chẳng có một điểm nhỏ lương tâm! Ngày xưa, mẹ ngươi cũng đẹp như như ngươi, bởi nó đẹp nên cha ngươi mới yêu quí, và kết hôn với nó. Nó vì ngươi nên ra thân thể đó!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Lão ... Thái thái ... sự việc ngày trước như thế nào?
Tuyết Lão Thái Thái hừ một tiếng:
– Sau này, nếu có dịp, ta sẽ nói cho nghe. Bây giờ ngươi hãy lo chữa trị cho mẹ ngươi. Đúng là một cơ hội may mắn hiếm có!
Bà dùng khoa châm chích chữa trị cho nữ nhân điên. Việc làm hết sức khó khăn, tế nhị. Bà còn nhờ Trương Thanh và Bành đại nương phụ giúp.
Trong khi mọi người chăm chú chữa trị cho nữ nhân điên, Khổng Linh Linh đột nhiên bước vào. Vẻ phẫn hận còn hiện lên gương mặt nàng. Không ai biết nàng đã vào phòng. Nàng bước đến sau lưng Tuyết Lão Thái Thái, ánh mắt nàng ngời sát khí. Nàng đưa tay lên, bàn tay nhắm trúng hậu tâm của Thái thái.
Đương nhiên, chiêu chưởng đó phải trúng đích, tiếng chạm vang lên vô cùng quái dị.
Tuyết Lão Thái Thái chúi tới, ngã mình trên người nữ nhân điên, nhưng liền sau đó, bà quay nhanh mình lại, trừng mắt nhìn Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh vận dụng toàn công lực bình sanh đánh lén sư phụ, nhất định là sư phụ phải chết ngay với chiêu chưởng trí mạng đó, ngờ đâu Thái thái chẳng việc gì. Bất giác, nàng sợ hãi đến xám mặt, lùi lại từ bước, từ bước.
Tuyết Lão Thái Thái để cho nàng lùi đến khung cửa, đoạn cao giọng gọi nàng:
– Linh Linh! Hiện tại, ta bận vận công chữa trị bệnh nhân không thể phân tâm nghĩ đến tội phản nghịch của ngươi. Đó là một cơ hội duy nhất cho ngươi rời ngay nơi này, trốn đi càng xa càng có lợi cho ngươi, trốn đến nơi nào ta không còn tìm ra ngươi được. Đi đi, nếu ngươi còn muốn sống sót trên trần thế này!
Thốt xong, bà tiếp tục dùng châm, chích vào huyệt đạo của nữ nhân điên.
Bà làm cái việc chữa trị đều đều, tựa hồ chưởng lực của nàng đệ tử phản nghịch không gây nên một ảnh hưởng nhỏ nào nơi bà.
Khổng Linh Linh kinh hoàng rú lên một tiếng phóng chân chạy đi. Đúng là nàng chạy chết.
Chứng kiến cảnh đó, Bành đại nương sững sờ đến ngây người, khi bà tỉnh hồn thì Khổng Linh Linh đã chạy mất dạng rồi, bà hét lên một tiếng lớn cấp tốc đuổi theo.
Nhưng, Tuyết Lão Thái Thái gọi giật bà lại:
– Cúc nhân! Trở lại!
Bành đại nương chẳng dám cãi lời Thái Thái, dừng chân ngay, rồi quay mình trở vào phòng, cất giọng căm hờn:
– Tiện tỳ đã sanh tâm bội phản, sao Thái Thái không để cho tôi đuổi theo, bắt nàng trị tội ...
Tuyết Lão Thái Thái nhẹ thở dài:
– Công lực của ngươi không bằng nó, có đuổi theo cũng vô ích, chẳng những thế, nó có thể sát hại ngươi nữa đấy!
Bành đại nương không phục sự nhận xét đó, nhưng chẳng dám nói gì, chỉ hỏi:
– Tại sao Thái Thái dung tha cho nàng ra đi dễ dàng như vậy?
Tuyết Lão Thái Thái toan đáp, bỗng biến sắc mặt, rồi há miệng phun mấy bụm máu tươi. Bà không đứng vững nổi, phải ngồi xuống ghế.
Bành đại nương kinh hãi, hấp tấp hỏi:
– Thái Thái! Thái Thái có sao chăng?
Tuyết Lão Thái Thái cố gắng ức chế cơn trào lòng, nhẹ giọng đáp:
– Chẳng sao đâu! Cúc Nhân, ngươi không nên quá lo ngại. Bây giờ, ngươi vào trong đơn phòng của ta, lấy chiếc bình màu đỏ, ta để trên giá nơi phía đông.
Đi lấy gấp cho ta!
Bành đại nương vọt mình đi liền.
Tuyết Lão Thái Thái nhắm mắt lại, dưỡng thần, sắc mặt của bà biến đổi đáng sợ.
Trương Thanh đứng một bên, khẩn trương cực độ, song nàng còn biết làm gì hơn? Nàng cũng chẳng dám hỏi han gì, ngại làm kinh động Thái thái trong khi bà còn yên tịnh.
Không lâu lắm, Bành đại nương trở lại, với hai bàn tay không. Bà hấp tấp kêu lên:
– Thái Thái ơi! Trong đơn phòng, mọi vật dụng đều xáo trộn, chiếc bình đó chẳng biết biến mất từ lúc nào, tôi tìm mãi không thấy!
Tuyết Lão Thái Thái biến sắc, mở mắt ra, trầm giọng:
– Con tiện tỳ đó, quả thật tàn độc!
Trương Thanh lấy trong mình ra một chiếc bình thốt:
– Tôi có loại «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» đây, lão Thái thái! Loại thuốc này chuyên trị nội thương, công hiệu vô cùng!
Tuyết Lão Thái Thái đưa tay gạt tay nàng, căm giận:
– Ta thà chết chứ không khi nào chịu dùng thuốc của phụ thân ngươi!
Bà giận, nói lên phải lớn tiếng, vì nói lớn nên tiêu hao công lực, bà lại mửa ra mấy bụm máu tươi nữa. Bây giờ thì bà kiệt sức, không còn gượng ngồi được, từ trên ghế bà ngã xuống nền.
Bành đại nương cấp tốc bước tới, nâng Thái Thái, nhưng biết làm sao đây để cứu Thái Thái?
Lúc đó, nữ nhân điên không còn quằn quại vì đau đớn nữa, nên nằm yên.
Sở dĩ bà không nghe đau, bởi Tuyết Lão Thái Thái đang bị thương thế hoành hành, không tiếp tục công việc châm chích tại các huyệt đạo còn thừa lại.
Trương Thanh thấy bà nằm yên, liền buông tay kiềm chế, đoạn rốc miệng bình, lấy ra hai hoàn thuốc màu trắng, nhét vào miệng Tuyết Lão Thái Thái. Nàng gọi Bành đại nương:
– Đại nương tìm cho chút rượu đi. Thuốc này phải có rượu dẫn, mới mau có công hiệu.
Bành đại nương lộ vẻ khó khăn:
– Trương cô nương! Tôi ngại không ổn đấy! Bởi cái tánh của Thái Thái, tôi biết quá rõ ...
Trương Thanh nghiêm sắc mặt:
– Không sao! Nhất thiết mọi hậu quả, đã có tôi hứng chịu. Tôi không thể nào ngơ nhìn người sắp chết mà không cứu, trong khi còn hy vọng cứu.
Bành đại nương chẳng biết làm sao, phải đi tìm rượu.
Có rượu rồi, Trương Thanh đổ luôn vào miệng Thái thái. Nàng ngồi xuống bên cạnh bà, xoa nắn cho máu lưu thông đều đều.
Không lâu lắm, Tuyết Lão Thái Thái tỉnh lại. Nhìn thoáng qua tình hình, bà đã biết rõ sự việc diễn tiến như thế nào. Bất giác, bà sôi giận, vung tay đánh ra một chưởng, đồng thời cao giọng hét:
– Tử liễu đầu! Sao ngươi dám lấy thuốc đó giải cứu ta? Giải cứu ta là ngươi hại ta đó, ngươi có biết không?
Trúng chưởng của Thái thái, Trương Thanh nhào ngửa, nhưng nàng có kể chi đau đớn, miễn sao cứu tỉnh được Thái thái thì thôi. Nàng rung giọng van cầu:
– Thái thái ơi! Xin hiểu giùm tôi! Đó là loại thánh dược uống vào là thương thế dịu lại liền!
Tuyết Lão thái thái lại quát:
– Câm ngay! Cha ngươi tài ba chi đó mà ngươi dám cho là thánh dược những thứ vô dụng do hắn chế ra?
Trương Thanh không nói gì nữa, bật khóc.
Bành đại nương nghĩ đến một câu nói gì cho tình thế bớt căng thẳng:
– Lão Thái Thái nên thương xót Trương cô nương, nàng có thành tâm ...
Tuyết Lão Thái Thái nạt luôn:
– Ngươi cũng câm miệng lại cho ta nhờ! Năm xưa hắn tuyệt tình cùng Hương nhi của ta, ta có phát thệ là sẽ tìm hắn trị tội. Bây giờ, ta dùng thuốc của hắn, thì làm sao ta trị tội hắn?
Trương Thanh thốt qua nức nở:
– Thái thái! Tôi chẳng biết ngày trước Gia gia tôi đắc tội với Thái thái như thế nào, tôi chỉ biết là hôm nay tự tôi, tôi muốn làm một cái gì hợp đạo lý với Thái thái, điều đó do chính cá nhân tôi, chứ chẳng phải để chuộc tội cho Gia gia tôi đâu. Bởi tôi đâu có biết oan cừu gì giữa Thái thái và Gia gia tôi, mà tôi toan cởi mở? Hơn nữa, tôi vì mẹ, vì Quan đại ca, hai người đó còn cần nhờ Thái thái chiếu cố, vạn nhất họ có bề gì, thì chắc chắn là tôi ...
Nàng làm sao dàm gọi Tuyết Lão Thái Thái là bà ngoại? Mặc dù bà chính là ngoại tổ mẫu của nàng, muốn gọi như vậy ít nữa nàng cũng phải chờ lịnh cha, hay gần một bên đây, phải có bà cho phép mới được chứ.
Tuyết Lão Thái Thái nhìn lên chiếc giường, nơi nữ nhân điên nằm bất động.
Bà khẽ thở dài, thần sắc hòa dịu lại. Rồi bà nhẹ giọng thốt:
– Oan nghiệt! Đúng là oan nghiệt! Trọn đời ta, ta gặp toàn là oan nghiệt!
Đoạn bà đứng lên, từ từ bước đến cạnh giường, nắm tay nữ nhân điên nghe mạch một lúc. Sau cùng, bà gật đầu, mặt lộ niềm vui, bà tiếp:
– Tốt lắm! Hương nhi qua cơn nguy rồi! Chỉ hận tử liễu đầu đó xuống tay quá độc, làm cho ta không thể cứu chữa Hương nhi lành mạnh đúng thời gian mong muốn! Như thế này, Hương nhi, phải chịu khổ mấy hôm nữa.
Những mũi châm còn cắm trên mình nữ nhân điên, Tuyết Lão Thái Thái nhìn qua một lượt, rồi từ từ rút từng mũi một, trao cho Bành đại nương bảo:
– Ngươi đem những mũi châm này, chôn dưới đất, nhớ chôn thật sâu nhé.
Xong rồi, ngươi lấy rượu xoa khắp người Hương nhi, phải nhẹ tay, đừng làm cho nó kinh động tỉnh lại.
Bà quay qua Trương Thanh bảo:
– Ngươi theo ta vào đơn phòng, xem con tiện tỳ đó đã đánh cắp của ta những thứ thuốc gì?
Trương Thanh biết ngay Tuyết Lão Thái Thái muốn nói riêng với nàng sự tình chi đó, nên không do dự đi theo bà liền.
Nàng còn do dự thế nào được? Giả như bà có hận thù với Gia gia nàng, thì việc đó thuộc về thời gian trước, nàng hoàn toàn vô can mà! Huống chi mẹ nàng còn kia, nàng là cháu ngoại, thì lão Thái thái có nỡ nào làm hại nàng?
Nhưng, ra đến bên ngoài cửa bỗng nàng nhớ đến một việc. Lập tức, nàng chạy đi như bay về phía cửa động.
Tuyết Lão Thái Thái gọi giật lại:
– Tiểu liễu đầu! Ngươi chạy đi đâu thế?
Trương Thanh vừa chạy vừa đáp:
– Quan đại ca của tôi, ở tại cội tùng, tôi sợ Khổng Linh Linh hạ độc thủ ...
Tuyết Lão Thái Thái «hừ» một tiếng:
– Tiểu tử đó, có chết cũng chẳng sao, làm gì ngươi lo bấn loạn lên như vậy?
Mặc bà nói chi thì nói, nàng cứ chạy đi.
Quan Sơn Nguyệt vẫn còn đứng tại cội tùng.
Từ xa Trương Thanh đã trông thấy chàng rồi, bất giác nàng thở phào, nhẹ nhõm, như trút khỏi lồng ngực một tảng đá to.
Cội tùng bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, trên thân tùng, có dấu chưởng rành rành, sâu độ vài tấc. Có thể là Khổng Linh Linh chạy ngang qua đây, định hạ sát Quan Sơn Nguyệt, song chẳng biết tại sao, nàng cải biến chủ ý thay vì đánh người, nàng lại đánh vào cây. Do đó, mới có dấu chưởng.
Nhìn chiều sâu của dấu chưởng Trương Thanh hết sức kinh khiếp. Nàng lè lưỡi, lắc đầu, rồi lẩm nhẩm:
– Khổng Linh Linh! Ngày nay ngươi nương tình với Quan đại ca ta, ngày sau nếu gặp ngươi ta sẽ tha chết cho ngươi một lần, để đáp lại sự khoan dung của ngươi hôm nay!
Tuyết Lão Thái Thái đã theo sau nàng, lúc đó ra đến nơi nghe nàng nói thế, cười lạnh hỏi:
– Công phu của ngươi được bao nhiêu, dám nói đến việc ngày sau giết được nó? Đừng nuôi mộng!
Trương Thanh trố mắt, nhìn bà, một lúc lâu thốt:
– Tuy hiện tại, tôi không bằng nàng, song với thời gian qua Thái thái sẽ chỉ điểm cho tôi, tôi lo gì không chế ngự nổi nàng?
Tuyết Lão Thái Thái biến sắc mặt:
– Sao ngươi biết là ta sẽ chỉ điểm cho ngươi?
Trương Thanh điềm nhiên:
– Trừ ra Thái thái không muốn trị tội một đồ đệ phản nghịch thì thôi, chứ ngược lại thì chắc chắn là Thái thái sẽ chỉ điểm cho tôi học thành tài!
Tuyết Lão Thái Thái sôi giận:
– Không trị tội nó? Ta hận nó vô cùng, bắt được nó là ta lột da xé xác nó ngay! Tánh nó tàn độc, ta vốn biết từ lâu, nhưng ta không ngờ nó tàn độc cả đối với ta! Một ngày nào đó, ta sẽ tìm nó trị tội nó!
Trương Thanh lắc đầu:
– Thái thái giấu giếm tôi làm gì? Một chưởng của nàng đã làm cho nội thể của Thái thái chấn động mạnh, mạch lạc hầu như đứt đoạn, bất quá trong nhất thời Thái thái cố trấn định tinh thần để dọa nàng chạy đi, làm sao Thái thái chế ngự nàng nổi sau này. Điều đó, tôi thấy rõ ràng Thái thái không che dấu nổi đôi mắt tôi đâu!
Tuyết Lão thái thái hét:
– Ngươi cho rằng ta đã thành phế nhân?
Trương Thanh lại lắc đầu:
– Không hẳn là phế nhân, song dù sao thì vũ công của Thái thái cũng kém giảm ít nhiều, chắc chắn là không phương gì phục hồi nguyên trạng được. Do đó cái việc trị tội phản đồ. Thái thái phải ủy thác cho tôi đảm nhận!
Tuyết Lão Thái Thái vẫn phẫn nộ như trước:
– Tại sao?
Trương Thanh chỉnh sắc mặt:
– Bởi vì, tôi là máu huyết của Thái thái, vũ học của Thái thái, truyền lại cho cháu ngoại, thiết tưởng cũng là một điều hợp lý. Ngày nay, Khổng Linh Linh chưa biết được sự liên hệ giữa Thái thái và tôi, song một thời gian sau, nàng sẽ biết, nàng sẽ oán hận Thái thái hơn, nàng sẽ đến đây tìm Thái thái, có cần gì Thái thái cất công đi tìm nàng?
Tuyết Lão thái thái nổi giận:
– Nó tìm ta rồi ta sợ nó à?
Trương Thanh đổi giọng lại dịu hiền, không còn rắn rỏi, nghiêm lạnh như trước. Nàng thốt:
– Thái thái không khí khái như thế. Bởi, sự việc cô cùng quan trọng, liên hệ đến sự tồn vong của con người. Thái thái không sợ nàng, nhưng nếu Thái thái có mệnh hệ nào, thì mẹ tôi còn nương tựa vào đâu? Tôi nghĩ, chỉ có tôi ra mặt đối phó với nàng là hợp lý nhất!
Tuy cao niên, Tuyết Lão Thái Thái vẫn còn quật cường như lúc thiếu thời, bà nhất định trừng trị Khổng Linh Linh cho kỳ được và phải chính tay bà trừng trị, bà mới hả giận. Song, Trương Thanh hết lời thuyết phục, dần dần bà nguôi nóng, sau cùng bà thở dài, thốt:
– Ngươi giống mẹ không sai một điểm nhỏ nào. Mẹ ngươi ngày trước, cũng ương ngạnh, cũng độc đáo, muốn làm gì thì làm, tùy ý mà làm, ai nói chi cũng chẳng chịu nghe! Bởi hành động theo nhiệm tánh đó, giờ nó ra thân hình như vậy!
Bà trầm ngâm một chút, lại tặc lưỡi, rồi gật đầu:
– Mà thôi! Ngươi muốn vậy, ta cũng chiều theo vậy. Ta sẽ truyền vũ công cho ngươi, song với điều kiện!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Điều kiện gì, hở Thái thái?
Tuyết Lão thái thái căm hờn:
– Ta truyền vũ công cho ngươi, ngươi không được nhận hắn là Gia gia ngươi nữa!
Trương Thanh thoáng biến sắc, kêu lên:
– Sao lại có điều kiện đó, hở Thái thái? Tôi không nhận người làm Gia gia nữa thì chẳng hóa ra tôi nghịch lý sao? Huống chi, người đã nuôi dưỡng tôi từ thuở nhỏ ...
Đến lượt Tuyết Lão Thái Thái biến sắc.
Bà chưa kịp nói gì, Trương Thanh tiếp luôn, gương mặt hiện rõ vẻ khổ sở:
– Tôi chỉ sợ Gia gia tôi sẽ không nhận tôi là con!
Tuyết Lão thái thái «ạ» lên một tiếng:
– Tại sao?
Trương Thanh đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt, tiếp:
– Gia gia tôi không cho tôi đến đây. Người bảo rằng, nếu tôi cãi lời người, thì cầm như tình phụ tử đoạn tuyệt rồi. Song, vì tình trạng của Quan đại ca, tôi không thể không đến đây tìm Thái thái, tôi đến đây là tôi đã cãi lời Gia gia tôi, cho nên tôi sợ người sẽ chẳng tha thứ cho tôi!
Tuyết Lão Thái Thái vụt bật cười ha hả:
– Hay! Trương Vân Trúc! Hay lắm! Đúng là cái báo ứng tuần hoàn! Ngày trước, ngươi đoạt con gái của ta, ngày nay ngươi mất con gái! Luật chí công! Chí công!
Bà lập lại hai tiếng «chí công» chẳng biết mấy lược.
Trương Thanh nào biết sự tình ra sao mà dám dàn giải. Nàng chỉ lắc đầu, cười khẽ, hỏi:
– Tại sao Thái thái hận Gia gia tôi cực độ như vậy?
Trương Thanh đinh ninh là Thái thái sẽ hét lên, sẽ mắng oang oang, mắng không tiếc lời, song lạ lùng thay, bà lại giữ sự trầm tịnh, bất quá bà thở dài mấy tiếng trầm ngâm một hồi lâu, như để hồi ức lại sự việc của bao nhiêu năm về trước. Cuối cùng, bà đem đoạn cố sự thuật lại cho Trương Thanh nghe.
Cách hai mươi lăm năm ...
Quang cảnh trong Tuyết Thần Cốc không tịch mịch như bây giờ. Cốc chủ là Tuyết Dục Dân, một thần y, tuy khứ thế, cái phong quang rạng rỡ của thế gia vẫn còn, dưới sự điều khiển gia vụ khéo léo của người vợ đảm là Lâm Kinh Hồng.
Lâm Kinh Hồng, thuở ấu niên, từng được bậc dị nhân truyền thọ vũ công, khi về làm vợ Tuyết Dục Dân, bà nghiễm nhiên là một cao thủ vũ lâm.
Vũ công của bà, y thuật của Tuyết Dục Dân tạo thành một thanh danh lừng lẫy cho Tuyết Thần Cốc một thời.
Từ ngày về nhà chồng, Lâm Kinh Hồng lại học thêm y thuật, dần dần bà cũng nổi danh luôn như chồng, có điều kém chồng phần nào vậy thôi.
Giòng họ Tuyết trải qua mấy đời, mang một ác bịnh, tiền nhân đã dùng mọi thứ thuốc linh nghiệm trên đời, song vẫn không chữa dứt hẳn. Chứng bịnh đó trở thành di truyền, đến đời Tuyết Dục Dân đã nổi danh là một thánh thủ, một thần y, cũng chẳng làm sao tự chữa trị cho mình dứt hẳn bịnh. Lão ta không còn hy vọng gì tự cứu, đành để chứng bịnh hoành hành cho đến chết.
Tuy nhiên, trong những năm cuối cùng, lão gia tâm nghiên cứu mọi phương pháp để chữa trị, lão có tìm ra được một vài phương pháp, song chưa kịp thực hiện thì lại mạng chung.
Bởi chứng bịnh di truyền, người trong họ Tuyết rất hiếm hoi. Đến Tuyết Dục Dân thì hai vợ chồng chỉ sanh được một gái thôi. Đó là nữ nhân điên, tên Tuyết Y Hương.
Y Hương sanh ra, kháu khỉnh lúc nhỏ, dần dần lớn lên, đẹp đẽ vô cùng.
Tuy dòng dõi thế gia, y Hương chỉ thích vui chơi, không chịu học vũ công cũng không nghiên cứu y thuật.
Lâm Kinh Hồng thương con, không nở cưỡng bức Y Hương học tập, đành để cho Y Hương học được bao nhiêu thì học, tùy cái hứng của con.
Khi Tuyết Y Hương vừa tròn mười chín tuổi, thì bắt đầu từ đó, biến cố xảy ra tại Tuyết Thần Cốc, gần như liên tục. Qua những biến cố đó, sơn cốc trở thành tịch mịch như nay.
Một hôm, bỗng có một thiếu niên xuất hiện quanh vùng Côn Lôn Sơn. Thiếu niên đó tên là Trương Vân Trúc, văn tài uyên bác, vũ học cao thâm lại tinh tường y thuật. Ngoài ra, họ Trương còn có dung mạo phi phàm, một dung mạo lý tưởng của hầu hết các thiếu nữ đến độ xuân thì ...
Y là người từ phương xa đến, cái đó lẽ dĩ nhiên rồi, bởi nếu là người địa phương, thì hẳn Lâm Kinh Hồng phải biết.
Sở dĩ y đến đây, là vì vùng Côn Lôn Sơn sản xuất nhiều loại dược thảo quý, y đang cần mấy loại dược thảo đó để chế luyện vài món thuốc.
Y quanh quẩn thế nào trong vùng, một ngày nọ, lại lạc vào Tuyết Thần Cốc.
Rồi y trở thành một vị tân khách của Lâm Kinh Hồng.
Trai tài, tiếp cận với gái sắc, Trương Vân Trúc và Tuyết Y Hương không bao lâu cảm thông nhau và yêu nhau.
Lâm Kinh Hồng biết rõ đôi tim non đã hướng về nhau rồi, bà cũng tán thành ngầm cuộc hôn nhân của hai người, song bà chưa tỏ lộ ý đó, bà chờ Trương Vân Trúc tự ý thốt ra trước.
Rồi, cái gì phải đến, đã đến. Trương Vân Trúc chánh thức lên tiếng cầu hôn.
Tự nhiên, Lâm Kinh Hồng chấp nhận liền, song bà buộc Trương Vân Trúc phải ở rể nơi Tuyết Thần Cốc. Bà cho Trương Vân Trúc biết rõ. Y Hương không thể rời xa cốc, vì nàng có một chứng bịnh di truyền, nếu nàng sống xa bà, thì bịnh đó phát lên, không còn làm sao cứu chữa kịp. Và như vậy, nàng chỉ có thể sống độ ba năm thôi.
Trương Vân Trúc lại chịu cái cảnh ăn nhờ ở đậu nơi nhà vợ? Y quả quyết là y chữa khỏi chứng bịnh di truyền của Tuyết Y Hương và y tình nguyện cam chịu mọi hậu quả, nếu ngày sau vợ y có bề gì.
Lâm Kinh Hồng lại viện lẽ dòng họ Tuyết chỉ có mỗi một mình nàng nếu nàng theo chồng sống nơi xứ lạ, thì chẳng hóa ra tổ tiên tuyệt tự sao?
Trương Vân Trúc lại viện lẽ y cũng là con một trong gia đình nếu y theo về bên vợ, thì dòng họ của y cũng diệt tuyệt.
Lâm Kinh Hồng chẳng biết phải làm sao, hỏi ý kiến Tuyết Y Hương.
Tuyết Y Hương bằng lòng theo chồng.
Điều đó làm cho Lâm Kinh Hồng vừa khó nghĩ, vừa căm hận con gái luyến tình mà quên mẹ.
Bời đôi bên chưa thỏa thuận mọi điều thắc mắc, cuộc hôn nhân bất thành.
Trương Vân Trúc ôm hận tình trở về quê quán.
Y rời Côn Lôn Sơn được hai hôm, thì Tuyết Thần Cốc, Tuyết Y Hương đột nhiên mất tích.
Tự nhiên Lâm Kinh Hồng thừa hiểu, Y Hương rời Côn Lôn Sơn, đến Bắc Thiên Sơn, hội hiệp với Trương Vân Trúc. Nàng đã chọn tình, phụ hiếu! Và, Lâm Kinh Hồng làm sao tránh khỏi phẫn nộ xâm chiếm tâm tư, bà liền ra tận Quan Ngoại, tìm đến Bắc Thiên Sơn với chủ định là sát hại cả hai vợ chồng Trương Vân Trúc, Tuyết Y Hương. Nhưng, đến nơi rồi, Lâm Kinh Hồng vì nhân đạo, không nỡ hại con, giết rễ, bà thở dài, âm thầm trở lại Côn Lôn Sơn.
Tuyết Y Hương sau hai năm ân ái với Trương Vân Trúc, lại mang thai.
Trong thời gian đó, Lâm Kinh Hồng thời thường sai phái người theo dõi cuộc sống con và rễ.
Rồi Tuyết Y Hương hạ sinh một gái.
Con gái của Tuyết Y Hương, chính là Trương Thanh. Khi Trương Thanh vừa tròn một tuổi, thì chứng bịnh di truyền của Tuyết Y Hương bộc phát.
Trương Vân Trúc tận dụng sở năng chữa trị cho nàng song y chỉ cứu được mạng sống, còn thì dung mạo của nàng bị phá hủy, tâm tình lơ lãng như tỉnh, như điên.
Bỗng, một hôm, Y Hương cảm thấy đời đáng tởm, bởi gương mặt của nàng tởm quá chừng, phàm ai mang gương mặt xấu xí, ghê tởm như mặt quỷ mà còn yêu đời gì được?
Trương Thanh thấy gương mặt đó, bất giác rú lên khóc thét, dù lúc đó, nàng chỉ vừa tròn tuổi thôi nôi.
Tuyết Y Hương phát cáu, định giết nàng rồi tự sát luôn.
Trương Vân Trúc phát hiện sự việc kịp thời, cứu con gái đồng thời điểm huyệt vợ cho vĩnh viễn không nói năng, cử động được. Y toan giết luôn vợ, để cha con được an nhàn.
Không phải y thấy vợ xấu xí rồi lòng ruồng rẫy, chẳng qua y sợ vợ còn sống ngày nào, là con gái y bị hăm dọa ngày ấy.
Trong hai người, một vợ một con, y phải cứu một người, và dĩ nhiên y phải cứu người lành lặn hữu dụng. Do đó, y quyết giết bà vợ điên.
Ngờ đâu, Lâm Kinh Hồng xuất hiện kịp lúc, cứu con gái, đưa nàng về Tuyết Thần Cốc.
Chán tình đời, Lâm Kinh Hồng sống theo lối ẩn dật, và từ ngày đó. Tuyết Thần Cốc bắt đầu tĩnh mịch.
Sau bà lại thu nhận Khổng Linh Linh làm đệ tử.
Tuyết Y Hương vẫn mang bịnh điên điên khùng khùng như vậy suốt hai mươi năm qua.
Và bây giờ Trương Thanh lại đến, bà cháu, mẹ con trùng phùng.
May hay rủi?
–––– oo –––– Trương Thanh ngây người nghe Tuyết Lão Thái Thái thuật lại đoạn biến cố sự của song thân nàng, dần dần nàng khóc, nàng khóc lúc nào cũng chẳng rõ, khi thái thái dứt, nàng vẫn còn khóc.
Bây giờ, còn gì bất tiện mà nàng không nhìn nhận ngoại tổ mẫu của nàng?
Nàng phải đổi lối xưng hô, dù chưa rõ Thái thái có chấp thuận hay không, dù chưa biết là Gia gia nàng có phản đối hay không. Nàng thốt qua nức nở:
– Ngoại ơi!
Thái thái thở dài:
– Ngươi muốn nói chi?
Trương Thanh tiếp:
– Ngoại tha thứ cho con nhé, nếu con nói câu này không thích hợp với ngoại! Chừng như năm xưa, ngoại đối xử gắt gao với gia đình con ...
Thái thái nhướng cao đôi mày, định phát tác, nhưng bà suy nghĩ một chút, cơn phẫn hận lắng dịu, rồi bà thở dài:
– Bất cứ về việc gì, ta cũng có thể bỏ qua cho hắn. Riêng về việc hắn toan kết liễu tánh mạng của Hương nhi, để cho hắn và ngươi được rảnh rang, thì ta mãi mãi ghi nhớ. Chẳng bao giờ ta dung thứ cho một người nỡ dứt tình ân ái, đoạn nghĩa vợ chồng khi thấy người bạn trăm năm của mình trở thành một mối phiền phức cho mình! Người ta nói một đêm vợ chồng, là ngàn năm vàng đá, huống hồ vợ hắn đã sanh con cho hắn nối dõi tông đường?
Bà nói phải quá, Trương Thanh còn lý lẽ gì để biện hộ cho gia gia nàng?
Lâu lắm, nàng tiếp:
– Tuy nhiên, với thời gian qua, lòng ngoại cũng nguôi hận phần nào, ngoại nên tha thứ cho Gia gia con đi ngoại! Năm xưa nếu người có làm điều chi, có lẽ vì sự việc chẳng đặng đừng đó ngoại. Con rắn độc cắn tay, người ta còn phải chặt tay để ngăn chận chất độc xâm chiếm toàn thân, ngoại am tường y thuật, lẽ nào không biết như vậy? Bởi muốn diệt trừ chất độc tận gốc, nhiều khi người ta có những hành động mà lý trí không dung thứ được đó ngoại!
Tuyết Lão Thái Thái «hừ» một tiếng:
– Ta chẳng biết như ngươi vậy sao! Bởi ta biết, nên hôm đó ta tha chết cho hắn, chứ nếu không thì hắn phải mất mạng từ đó rồi! Dù sao thì chủ ý của hắn vẫn tàn độc như thường, dù chủ ý đó hợp tình hợp lý.
Bà dừng lại một chút đoạn tiếp:
– Những gì đã qua, thuộc về dĩ vãng, luận phải, cũng là việc đã rồi, luận quấy, cũng chẳng làm sao lui về quá khứ được. Chúng ta hãy bỏ tất cả dưới lớp bụi thời gian, bây giờ hãy nghĩ đến những gì của thực tại những gì có liên quan đến tương lai ...
Bà nhìn Quan Sơn Nguyệt hỏi Trương Thanh:
– Tiểu tử đó, liên hệ với ngươi như thế nào? Việc gì xảy đến với các ngươi?
Trương Thanh thoáng đỏ mặt.
Thần sắc đó, Tuyết Lão thái thái đã thấy qua một lần, ở gương mặt một người.
Người đó, là Trương Vân Trúc ...
Lúc đến trước mặt bà, chánh thức cầu hôn với Tuyết Y Hương y cũng đỏ mặt như vậy!
Màu đỏ của ái tình!
Hạ qua, Thu đến, Đông mảng, Xuân sang ...
Hoa nở, hoa tàn, hoa rụng, ngày tháng trôi qua, thấm thoát một năm đã tròn, từ cái lúc Trương Thanh đưa Quan Sơn Nguyệt đến tận Côn Lôn Sơn tìm Tuyết Lão Thái Thái nhờ chữa trị cho chàng.
Tuyết vẫn dổ, chừng như tuyết đổ quanh năm, con đường duy nhất từ Tuyết Thần Cốc thương thương với bên ngoài vẫn lợp tuyết.
Nơi đây, Tuyết Lão Thái Thái lâm Kinh Hồng quyết tâm cùng người con gái duy nhất là Tuyết Y Hương sống cuộc đời ẩn dật, vĩnh viễn xa rời nhân thế. Bà chỉ tưởng cuộc đời tịch mịch đó sẽ êm đềm trôi đi với năm tháng trong nhịp đều đều, dù có một đệ tử bên cạnh là Khổng Linh Linh, song Khổng Linh Linh rồi cũng có ngày hạ sơn, tạo lập cơ nghiệp cho nàng, chứ có thể nào nàng ở mãi mãi bên cạnh bà?
Ngờ đâu, Trương Thanh đến, mẫu tử trùng phùng, cảnh sống trong tuyết bớt đi phần sống tịch mịch.
Khổng Linh Linh, vì tức khí, làm điều phản nghịch, sợ tội với sư tôn, bỏ đi, khoảng trống của nàng đã có Trương Thanh lấp vào, không khí sơn cốc thêm phần ấm dịu hơn với tình huyết mạch nồng nàn.
Tuyết Lão Thái Thái đem tất cả sở học về vũ công cũng như về y thuật truyền lại cho đứa cháu ngoại.
Điều kiện đầu tiên, bà buộc Trương Thanh tuân theo, là không được nhìn nhận Trương Vân Trúc là Gia gia, điều kiện đó bất hợp tình, bất hợp lý, bà cũng bỏ luôn, thay vào đó, bà buộc Trương Thanh phải mang chiếc đầu lâu của Khổng Linh Linh về sơn cốc cho bà, sau khi nàng học thành tài.
Quan Sơn Nguyệt cũng được Tuyết Lão Thái Thái hết lòng chữa trị, chàng khôi phục tình trạng cũ sau những ngày dài tháng rộng tại bí cốc giữa Côn Lôn Sơn.
Trong khi đó, Phi Thiên Dạ Xoa cũng nấn ná tại cốc, chờ ngày Trương Thanh và Quan Sơn Nguyệt xuống núi, tái nhập giang hồ.
Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân có sự bí mật bên lòng, sự bí mật đó liên quan đến vị Minh Đà Lịnh Chủ Độc Cô Minh sư phó của Quan Sơn Nguyệt. Đã mấy lần, bà có hỏi Quan Sơn Nguyệt về Độc Cô Minh song Quan Sơn Nguyệt đáp lơ lửng, thành bà không được toại ý lắm.
Quan Sơn Nguyệt là con người trầm lặng không hề biểu lộ những cảm nghĩ của chàng, khi nói lên câu gì, chỉ nói đủ ý mà thôi, chẳng cho thừa một lời, và cũng chẳng kéo dài câu chuyện. Cho nên, Bành Cúc Nhân chẳng khai thác được gì cho lắm bên cạnh chàng, về hoạt động của Độc Cô Minh, trước ngày Minh Đà Lịnh Chủ ly khai thế gian.
Quan Sơn Nguyệt đối với Trương Thanh, vốn thọ ơn cứu tử, thọ đến hai lần, thế mà chàng cũng chẳng nói năng gì thường với nàng, ngoài những câu hỏi đáp thông thường trong sinh hoạt hàng ngày.
Vả lại, Trương Thanh bận học hành nên thời gian tiếp cận nhau rất ít.
Ngày tháng qua, qua đều, đã đến lúc họ rời Tuyết Thần Cốc, bái biệt Tuyết Lão Thái Thái, hạ sơn hành hiệp trên giang hồ.
Quan Sơn Nguyệt lấy lại tên cũ, bỏ hẳn tên Quang Sơn Minh mà trước kia chàng tạm dùng để giấu hành tung, trong công cuộc theo dò Lạc Hồn Cốc chủ Khổng Văn Thông.
Họ ra đi ...
Họ từ hướng Tây, đi về hướng Đông, họ vào Dương Quang, vào Dương Quang rồi là họ có thể họ sẽ gặp nhiều người quen biết.
Nhưng, họ không gặp sự gì phiền phức dọc đường, chừng như khách giang hồ chẳng ai chú ý đến họ.
Dù họ có người quen, còn ai nhận ra họ được?
Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, ngày trước đành rằng cũng có danh vọng trên giang hồn, song bà quy ẩn từ lâu, sau nhiều năm bà vắng mặt, thiên hạ không còn ai nhớ đến bà nữa.
Chí như Quan Sơn Nguyệt, đành rằng chàng là truyền nhân duy nhất của Minh Đà Lịnh Chủ, đành rằng chàng có tạo nên một vài thành tích gây chấn động giang hồ như lần đại tỷ thí tại vùng Quan Ngoại, sau đó, đại náo Lạc Hồn Cốc, hạ sát Khổng Văn Thông, song chàng không thường xuất hiện, người đời nhắc đến thành tích của chàng như thuật lại một giai thoại vũ lâm, chứ nào ai gặp chàng đâu, mà hòng có người lưu ý?
Còn Trương Thanh, bất quá là một con chim non vừa tập bay trong vũ trụ bao la, hào kiệt vũ lâm nào có ai biết nàng?
Cho nên, bộ ba đó, nếu có ân oán giang hồ, thì ân oán đó cũng phôi pha từ lâu ...
Tóm lược, đối với giang hồ, Bành Cúc Nhân được xem như mất tích, Quan Sơn Nguyệt kể như đã chết rồi với chất độc của Khổng Văn Thông, còn Trương Thanh thì là mới xuất đạo chưa ai để ý.
Dọc đường, họ cũng có lắng nghe khánh lữ hành kháo chuyện nhau, theo câu chuyện của những người đó, thì trong một năm qua, giang hồ yên lặng, vũ lâm hưởng cảnh thanh bình.
Tại Lạc Hồn Cốc, sau ngày Khổng Văn Thông khứ thế, Khổng Văn Kỹ phong bế sơn cốc, ly khai giang hồ, không hề hoạt động như ngày nào.
Và chừng như Khổng Linh Linh không trở về cốc, bởi Lạc Hồn Cốc vẫn chìm trong cảnh tiêu điều ảm đạm, chẳng mảy may khởi sắc từ ngày mất chủ.
Các đại môn phái như Thiếu Lâm, Vũ Đương, Chung Nam, Điểm Thương, Không Động ... đều ức chế môn đồ, nghiêm cấm việc hạ sơn, do đó người trong vũ lâm hầu như vắng bóng, việc đụng chạm nhau không xảy ra được. Nhờ vậy, đại thế giang hồ cầm như ổn định. Mọi người toại hưởng thanh bình ...
Bọn Bành Cúc Nhân, Quan Sơn Nguyệt, Trương Thanh đi suôn sẻ đến Tửu Tuyền Thành. Họ không vào thành, họ tạm dừng chân tại Lý Mã Điếm bên ngoài thành.
Nơi đây, không khí bắt đầu nhiệt náo rồi, mặc dù còn ở vùng ngoại ô.
Thành Tửu Tuyền nằm trên trục giao thông Tây Bắc, một nơi mà hầu hết khách thương hoặc xuôi, hoặc ngược, cũng phải tạm dừng chân, để kiểm soát phương tiện di chuyển, trang bị mọi nhu cầu, cho đoạn đường cuối cùng.
Phàm khách thương không bao giờ đi riêng rẽ, họ họp đoàn có đủ xe, đủ ngựa, do đó họ không tiện vào thành.
Lý Mã Điếm chủ biết vậy, chọn một khoảng đất trống bên ngoài thành dựng lên hàng quán, khách sạn, có cả nơi đổ xe, có cả chỗ thả ngựa.
Một đoàn người đông, còn chọn nơi nào thuận tiện hơn nơi này? Và, khi nhiều đoàn người tụ họp lại một nơi, hẳn nơi đó phải nhiệt náo phi thường.
Hiện tại, nhiều đoàn khách thương đổ lại Lý Mã Điếm, ai ăn, ai uống, cứ ăn cứ uống, ai lo sửa xe, cứ sửa xe, ai đóng lại móng ngựa, cứ đóng.
Mọi tiếng động vang lên chen lẫn với tiếng người, người cười, người nói, người la, khung cảnh hết sức tưng bừng.
Bọn Quan Sơn Nguyệt chọn bàn xong, gọi thức ăn, họ từ từ ăn, tai lắng nghe khách giang hồ kháo chuyện với nhau.
Nhưng cả ba vô cùng thất vọng. Bởi, những khách quy tụ tại đây, bất quá chỉ là những người xuôi ngược vì thương vụ, hoặc giả nếu có một vài người trong giới giang hồ, thì họ chỉ là những kẻ quá tầm thường, cho nên những gì họ nói với nhau, không quan trọng lắm.
Thậm chí, có những kẻ thốt lên những lời thô tục, dù là nam nhân nghe ra cũng đỏ mặt huống hồ nữ nhân?
Cũng may, Trương Thanh sinh trưởng tại sa mạc, từng tiếp xúc với bọn du mục, bọn này phát ngôn bừa bãi, tục tằn, nàng nghe mãi thành quen, nên giờ đây nghe bọn thô bỉ vũ phu đối thoại với nhau, nàng vẫn thản nhiên như thường.
Bành Cúc Nhân thuộc hạng trung niên, cũng không còn nghiêm khắc cho lắm, nên họ nói gì mặc họ, bà không lấy làm điều.
Chỉ có Quan Sơn Nguyệt là hết sức chói tai với loại ngôn ngữ ti bỉ đó. Chàng cảm thấy khó chịu vô cùng, chốc chốc lại nhìn bọn ăn nói thô tục đó, song nhìn thì nhìn chứ làm sao được? Bởi ai ai cũng có quyền tự do, làm theo ý muốn của họ miễn cái gì họ làm, họ nói không đụng chạm đến ai khác là đủ rồi! Họ không phá hoại trật tự xã hội. Họ không gây hỗn loạn trong dòng đời, họ không chạm đến cá nhân chàng, thì chàng lấy lý do nào can thiệp đến sinh hoạt riêng tư của họ?
Chàng ngồi đó tức uất lắm nhưng đành ôm tức uất chịu.
Thực ra, cái gì gây khó chịu quá độ, cuối cùng rồi cũng tiêu diệt luôn sự kiên nhẫn của con người khó chịu đó. Và, Quan Sơn Nguyệt hầu như hết chịu nổi rồi.
Vừa lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa nện đều từ xa xa bên ngoài quán vọng đến. Vó ngựa nghe gấp, lại nhiều, chứng tỏ một đoàn kỵ sĩ khá đông sắp sửa đến đây, dù không bổ lại cũng chạy qua, vì đoàn kỵ đang chạy về hướng này.
Không lâu lắm, đoàn kỵ sĩ đến nơi. Họ gồm mười đại hán, người nào cũng bê bết máu tươi, người nào cũng mất vành tai tả. Nhìn vào tình trạng họ, cũng hiểu ngay họ đã bị kẻ địch làm cho họ ra thân thể đó!
Họ xuất hiện mọi người trong quán lập tức ngưng cười, ngưng nói, và tất cả đều lộ vẻ kinh hoàng, tất cả đều nhìn họ đăm đăm ...
Đại hán đi đầu cao giọng gọi:
– Chủ quán đâu, cấp tốc dọn rượu thịt lên, và đi mời ngay cho bọn ta một vị y sư!
Một người khác tiếp:
– Trước hết hãy mang nước đến cho bọn ta rửa ráy sạch máu!
Chủ quát tháo bọn làm công, tìm nước gấp, đồng thời hấp tấp hỏi:
– Việc gì đã xảy ra cho các vị thế?
Hắn tỏ vẻ khó khăn, tiếp:
– Tại đây là vùng ngoại ô, không có y sư mở hiệu hành nghề, xin các vị vào tận trong thành nơi có rất nhiều người nổi tiếng chữa bệnh rất giỏi!
Đại hán đầu đàn nổi giận:
– Nơi đây không có y sư thì ngươi đi nơi khác mà tìm. Vùng ngoại ô không có y sư thì ngươi thuê xe vào trong thành mà mời ra đây, ngươi có nghe ta nói không? Nếu bọn ta vào thành được thì tội gì lại phải dừng lại nơi ngôi quán nghèo nàn của ngươi? Ngươi biết không, nếu bọn ta vào thành, thì còn chi là danh dự của Song Anh Tiêu Cục?
«Song Anh Tiêu Cục!» Bốn tiếng đó vang lên, như bốn tiếng sét dội màng tai của bọn người hiện diện. Tiếng đùa dứt, tiếng cười dứt, và trên mặt mọi người niềm sợ hãi thoáng lộ, họ không hẹn mà đồng, tất cả hơi cúi thấp đầu một chút, chẳng dám nhìn ra, chứ đừng nói là phải hỏi một câu nào!
Tuy nhiên, họ cũng thương cảm về tình trạng của những kỵ sĩ đó. Nhưng họ là những người quá tầm thường, dù có thương cảm những kẻ ngộ nạn kia, cũng chẳng biết làm gì hữu ích cho chúng.
Quan Sơn Nguyệt chìa tay về hướng Bành đại nương. Cái chìa tay đó có cái nghĩa là bảo Bành đại nương trao chiếc bao có đựng thuốc trị thương cho chàng.
Thuốc đó, họ mang từ Côn Lôn Sơn, theo cuộc hành trình phòng cơn hữu dụng. Thuốc đó, không giống với các loại thuốc trị thương khác trên giang hồ.
Công hiệu của nó như thần, Bành đại nương từng ở bên cạnh Tuyết Lão Thái Thái nên biết rõ. Bởi bà biết rõ nên do dự.
Thuốc đó mang theo để dành cho họ chứ đâu phải phung phí bất cứ trong trường hợp, bất cứ đối với người nào? Giả như, viện cái cớ thể theo nhân đạo, gặp đâu phung phí đó, lúc hết rồi, mà mình gặp biết chuyện đến thì sao?
Bà do dự, Trương Thanh khẳng khái, chẳng rỏ nàng khẳng khái vì muốn lấy lòng Quan Sơn Nguyệt hay vì nhân đạo. Nàng mở chiếc bao ngay lấy thuốc trao cho Quan Sơn Nguyệt.
Bành đại nương tuy không đồng ý, song chẳng nói gì.
Từ lúc Tuyết Lão Thái Thái nhìn nhận Trương Thanh là cháu ngoại, Bành đại nương xem nàng như một tiểu chủ nhân, bởi trong tương lai, nàng sẽ thừa kế sự nghiệp của Thái thái, nàng sẽ là Cốc chủ Tuyết Thần Cốc, mà Bành đại nương thì còn ở tại đó lâu lắm, nếu không có sự bắt buộc bà phải di cư nơi khác.
Quan Sơn Nguyệt cầm lọ thuốc bước dến đại hán trưởng đoàn vòng tay thốt:
– Tại hạ có mang theo mình thuốc trị thương đây huynh đài cứ tự tiện dùng ...
Mong rằng trong độ đường dang dở bèo nước gặp nhau, có gì tiếp trợ được nhau, cứ làm, huynh đài không nỡ từ chối hảo ý của tại hạ!
Thuốc đành là vật rất cần khi con người mang bịnh, mang thương thế. Song, làm sao tin được của những người xa lạ, và làm sao tiếp nhận cái hảo ý của bất cứ người nào? Biết đâu trong cái hảo ý giả vờ, có một dụng tâm bất hảo nào?
Là khách giang hồ hắn có quyền nghi ngờ tất cả, để có một bảo đảm tối thiểu cho sự an toàn của hắn, của đồng bạn hắn. Huống chi, hắn nào biết được Quan Sơn Nguyệt là Lệnh Chủ Minh Đà, đời thứ hai?
Dù vậy, thấy Quan Sơn Nguyệt có vẻ thành thật hắn không nở khước từ trắng trợn nên nhẹ giọng đáp:
– Đa tạ tướng công!
Câu nói đó không hẳn tỏ rõ hắn tiếp nhận sự tiếp trợ của Quan Sơn Nguyệt.
Bất quá, hắn đáp tạ cái hảo ý của chàng, còn nhận thuốc hay không lại là một việc khác.
Quan Sơn Nguyệt phải nói thêm mấy lượt nữa hắn mới bằng lòng nhận thuốc. Đoạn chàng mở nắp chiếc bình lấy thuốc rắc lên vết thương.
Đại hán nghe mát vô cùng, chỗ đó không còn hành nhức nữa. Dĩ nhiên máu cũng ngưng chảy luôn.
Bây giờ hắn mới tin và phục hoàn toàn, hắn lí nhí tạ ơn chàng một lượt nữa.
Rồi hắn tiếp:
– Tướng công còn thừa thuốc chăng? Anh em tại hạ hơn mười người kia ai ai cũng mang thương tích, nếu tướng công cứu trị được cho toàn bọn, thì tại hạ cảm khích phi thường, nhất định ơn trọng này sẽ được báo đáp xứng đáng.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Bốn biển là nhà, chúng ta dù chưa quen nhau song vẫn là huynh đệ, huynh đài cần chi phải khách sáo với tại hạ.
Rồi chàng lấy thuốc rắc chỗ bị thương cho tất cả.
Đại hán trưởng đoàn thái độ thì có vẻ văn nhã, song chí khí hiên ngang, tỏ rõ một tinh thần bất khuất, ánh mắt ngời oai nghi khiến ai nhìn đến cũng phải kính nể. Hắn vòng tay đáp tạ Quan Sơn Nguyệt lượt nữa, lần này hắn thay mặt cho đồng bạn:
– Tướng công sẵn lòng chữa trị cho bọn tại hạ như thế nầy, thực tại hạ hết sức cảm kích. Chẳng hay quý tánh cao danh là chi, tướng công cho bọn này biết để ghi khắc trong tâm, phòng có dịp đền đáp.
Hắn tự giới thiệu:
– Tại hạ là Tôn Thất, trong Song Anh Tiêu Cục, tại hạ ở ngôi vị thứ hai, bằng hữu trên giang hồ ái mộ tặng cái hiệu Hắc Ưng. Khi nào tướng công có dịp đến vùng Cam, Lương, cần người giúp đỡ, xin cứ nêu danh hiệu của tại hạ lên, tức khắc sẽ có bằng hữu võ lâm đến cùng tướng công, chờ lịnh tướng công sai khiến!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ hết sức hân hạnh được hội diện với Tôn Thất huynh. Một người có thinh danh hiển hách như Tôn huynh, chấn động cả vùng Cam, Lương, Giáp lại hạ cố đến tại hạ, thì còn chi bằng? Được kết giao với Tôn Huynh là một phúc hạnh phi phận cho tại hạ đó!
Tôn Thất mỉm cười:
– Tướng công mắng kéo tại hạ đó chăng? Một vành tai mất, đủ nói lên cái tài hèn mọn của tại hạ rồi, tướng công đừng quá tặng, tại hạ thẹn chết được!
Quan Sơn Nguyệt đắn đo rồi hỏi:
– Các hạ có thể cho tại hạ biết trong trường hợp nào các vị gặp tai nạn như thế?
Tôn thất thở dài:
– Nhắc đến việc đó, tại hạ hết sức thẹn đó, tướng công ơi! Song Anh Tiêu Cục sinh hoạt hơn hai mươi năm nay tại vùng Cam và Giáp chưa hề thất bại đến chuốc nhục thảm đạm như lần này! Trong mười sáu anh em hộ tống hai vạn lượng bạc, hai mạng dứt đầu, mười bốn mất vành tai, hai vạn lượng bạc tiêu ma!
Và thủ phạm, chỉ có một người, cỡi con lạc đà toàn sắc đen.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Kẻ cướp cởi lạc đà? Con lạc đà đó có hình dáng như thế nào?
Tôn Thất tặc lưỡi:
– Một con vật hy hữu trong loại đó! Toàn thân chẳng có một sợi lông tạp sắc! Hai vạn lượng bạc nặng ít nhất cũng ngàn cân thế mà nó chở đi nhẹ nhàng như chở một bó cỏ, nó vừa phóng chân là biến mất dạng nơi phương trời xa.
Nhanh vô tưởng đó tướng công ơi!
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Con minh đà ...
Tôn Thất nhìn chàng thoáng lạ lùng hỏi:
– Tướng công nói đến con minh đà nào?
Quan Sơn Nguyệt vội chữa thái độ ngay:
– Tại hạ nghe giang hồ truyền thuyết, con vật của Minh Đà Lịnh Chủ có sắc lông thuần trắng, nó đúng là một thần vật ...
Tôn Thật lắc đầu:
– Không phải đâu! Con vật của Minh Đà Lịnh Chủ có lông trắng, còn con lạc đà này đen tuyền. Tại hạ nhận thấy cước lực của nó nhanh lắm, nó chẳng kém con bạch đà của Lịnh Chủ Minh Đà chút nào!
Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:
– Không ngờ trên đời lại có một con lạc đà ngang sức với bạch đà của Minh Đà Lịnh Chủ ...
Trong ánh mắt của Tôn Thất, thoáng hiện lên vẻ hoài nghi, hắn nhìn chàng đăm đăm.
Quan Sơn Nguyệt biết mình đã lỡ lời, vội chữa:
– Tại hạ có nghe nói đến con bạch đà của Minh Đà Lịnh Chủ, ai ai cũng cho nó là một linh vật, và cứ tưởng nó là nhất trong đồng loại của nó. Bây giờ nghe các hạ ca tụng con hắc đà này, tại hạ nghĩ, thần vật sao lại có nhiều thế?
Chàng trầm ngâm một chút đoạn hỏi:
– Các hạ nói rằng người cướp bảo tiêu có cái hiệu là Phi Lạc Đà?
Tôn Thất lắc đầu:
– Không chắc lắm. Bởi người cướp bạc giết đồng bạn của tại hạ, chẳng hề tỏ lộ một điểm gì chứng tỏ lai lịch cũng như danh hiệu, bất quá thấy y cỡi lạc đà, chạy như bay, tại hạ gọi là Phi Lạc Đà vậy thôi!
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Người cướp bạc có hình dáng ra sao?
Tôn Thất lắc đầu:
– Không thấy rõ. Y phủ bên ngoài một lượt sa đen, trùm kín từ đầu đến chân, động tác của y nhanh như gió, vũ công cao không tưởng nổi! Vừa xuất thủ là hạ sát hai mạng, mà hai nạn nhân lại là tiêu sư, chứ nào phải tay tầm thường?
Còn lại mười bốn người thì trong thoáng mắt tất cả bị y thẻo mất một vành tai.
Bọn tại hạ chỉ nghe một luồng gió lạnh phớt qua, vành tai đứt lìa, những bao bạc trong xe y chỉ quơ tay qua một vòng chụp lấy, đặt lên lưng hắc đà rồi chạy đi như bay biến. Bọn tại hạ không kịp nhận định y là nam hay nữ, già hay trẻ, đừng nói là thấy mặt, thấy mày!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu lại hỏi:
– Ít nhất, các hạ cũng biết người đó cao hay thấp, mập hay ốm chứ?
Tôn Thất cười nhẹ:
– Không cao, không thấp, không ốm, không mập. Tóm tắt chẳng có một điểm đặc biệt nào!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Hai vạn lượng bạc, chẳng phải là một số bạc tầm thường, khi về đến tiêu cục, các hạ làm sao nói với Tổng Tiêu Đầu?
Tôn Thất thở dài:
– Bạc mất, người bảo tiêu phải đền là lẽ đương nhiên, tại hạ từng được Tiêu Cục tính nhiệm, chắc Tổng Tiêu Đầu sẽ chẳng nghi ngờ. Song bạc mất thì đền, đã đành, còn danh dự mất, lấy gì bù đắp? Tại hạ chỉ sợ sau việc này, Tiêu Cục Song Anh đến phải đóng cửa ngưng sanh hoạt mất!
Quan Sơn Tuyệt cũng xót xa thay cho hắn. Chàng suy nghĩ một chút, lại hỏi:
– Song Anh Tiêu Cục với phái Chung Nam có liên quan chi với nhau chăng?
Tôn Thất gật đầu:
– Chủ nhân tiêu cục là đệ tử phái Chung Nam.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Gã Phi Lạc Đà cướp bạc của các hạ, hắn chẳng phải là một kẻ cướp tầm thường trên giang hồ đâu. Có thể gã có sự hiềm khích gì với Lữ lão sư, Chưởng môn phái Chung Nam đó! Gã chạm mặt với cát hạ chẳng phải cố ý cướp bạc mà có thể vì sự hiềm khích xa xưa nào đó với quý phái ...
Tôn Thất trố mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc:
– Tại hạ cũng nghĩ như thế!
Hắn thở dài, tiếp:
– Tướng công là người đọc sách, thế mà cũng am tường sự việc giang hồ lập luận rất xác đáng!
Hắn cứ tưởng Quan Sơn Nguyệt là một nho sĩ chẳng hề nghi ngờ chàng là một phần tử vũ lâm.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ không đáp, chuyển sang vấn đề khác, hỏi lại:
– Sự việc của các hạ, dù đúng là thật, song nghe ra vẻ huyền hoặc vô cùng, khi trở về Tiêu Cục các hạ khó nói với chủ nhân, điều đó chắc như vậy rồi! Các hạ bằng vào đâu, dám tin là để giải quyết?
Tôn Thất lộ vẻ khổ sở:
– Tướng công lo sợ cho tại hạ cũng phải! Tuy Phi Lạc Đà có lưu lại một vật, được kể như tín hiệu, song một vật nhỏ mọn đó không thể chứng minh một sự việc lớn lao ...
Hắn dừng lại, trầm ngâm một chút rồi cười khổ tiếp:
– Tuy vậy trong cái rủi có cái may, rủi là bọn tại hạ mỗi người mất một vành tai, may là nhờ Phi Lạc Đà hành động như thế, có khác nào là giải thoát bọn tại hạ khỏi một nguy cảnh! Thiết tưởng, nhìn qua mười bốn anh em tại hạ, mỗi người đều mang thương tích, chẳng lẽ chủ nhân không tin?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Phi Lạc Đà có lưu lại một vật làm biểu ký? Vật gì thế? Các hạ có thể cho tại hạ nhìn qua được chăng?
Tôn Thất do dự một chút, hắn nghĩ, Quan Sơn Nguyệt có cái ơn chữa trị thương thế cho toàn bọn, nếu hắn cự tuyệt thì thành ra kém nhã độ đối với chàng.
Bắt buộc hắn phải lấy trong mình ra một vật, to bằng bàn tay trao qua cho Quan Sơn Nguyệt.
Vật đó là một mảnh đồng, nơi mặt trên có khắc hình một con lạc đà có cánh, ben cạnh hình lạc đà, có ba chữ:
«Phi Đà Lệnh»! Nơi mặt dưới, không có hình gì cả, chỉ có tám chữ:
«Đà Đáo, Nhân Đáo. Lệnh Phi, Hồn Phi!» Quan Sơn Nguyệt vụt biến sắc. Chàng sôi giận cực độ, đang cầm mảnh đồng trong tay, chàng bóp mạnh, mảnh đồng vỡ ra từng miếng nhỏ. Chàng lỏng tay, mấy miếng đồng vỡ vụn rơi qua kẻ mấy ngón tay rớt xuống đất.
Tôn Thất thấy cảnh tình đó hết sức kinh hoàng. Hắn không ngờ một người có dáng tư văn nho sĩ như Quan Sơn Nguyệt lại là một tay đại lực khí.
Khâm phục Quan Sơn Nguyệt là một việc, mất chiếc «Phi Đà Lệnh» là một việc khác, khâm phục tài nghệ của người chẳng thấy ích lợi gì cho hắn, nhưng mất chiếc lệnh bài là cái hại đến liền với y. Bởi đó là vật duy nhất chứng minh tai nạn dọc đường của hắn, bây giờ mất nó rồi khi trở về hắn làm sao biện hộ cho mình? Mấy vành tai mất chưa hẳn là một chứng tích thanh minh trường hợp của hắn, bởi đối với số bạc to lớn, ai ai cũng có thể ngụy tạo một vết thương, bất quá chịu đau chịu xấu một chút, mà được hưởng số bạc to.
Thế thì làm sao?
Hắn giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, hắn không hỏi bằng miệng, song ánh mắt đó thay lời một cách hùng hồn.
Quan Sơn Nguyệt tự nhiên hiểu ý tứ của hắn. Chàng rằng giọng quả quyết:
– Tại hạ hứa trong vòng ba hôm, sẽ lấy lại số bạc mất cho Tôn huynh!
Tôn Thất sững sờ:
– Tướng công ...
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Hại hạ còn sống một ngày nào, là ngày đó tại hạ nhất định chẳng cho một ai dùng lạc đà làm hiệu lịnh!
Tôn Thất hành nghề bảo tiêu hơn mười mấy năm qua, từng xuôi ngược khắp đó đây, mắt thấy nhiều, tai nghe lắm, trí xét đoán người và việc cũng xảo diệu phi thường. Thấy thái độ Quan Sơn Nguyệt nghe chàng nói, hắn đã nghĩ đến một điều rồi song hắn chưa dám tin là mình nghỉ đúng.
Bởi chưa tin chắc, hắn còn do dự, hắn chỉ lẩm nhẩm mấy tiếng bâng quơ.
Quan Sơn Nguyệt gằn từng tiếng:
– Tôn huynh không tin là tại hạ thu hồi nổi số bạc mất?
Tôn Thất hấp tấp điểm nụ cười vuốt thốt:
– Nào phải tại hạ không tin lời hứa của tướng công! Bất quá ... bất quá, cao danh quý tánh của tướng công ... tại hạ ... đối với chủ nhân ...
Hắn thốt chẳng ra câu chẳng tròn ý, song Quan Sơn Nguyệt hiểu rõ, hắn muốn gì. Chàng lấy trong mình ra một tấm lệnh bài cũng bằng đồng như tấm lệnh bài chàng vừa bóp vụn, trao qua cho hắn, đoạn bảo:
– Các hạ cầm tấm lệnh bài, mang về trình chiếu với chủ nhân, mọi việc sẽ được êm xuôi!
Tôn Thất tiếp nhận tấm lệnh bài, vừa nhìn thoáng qua, hắn biến sắc ngay, tay hắn rung rung.
Minh Đà Lệnh!
Cần chi phải hỏi nữa? Hắn tự nhiên phải biết người đối diện với hắn là Minh Đà Lệnh Chủ, chứ còn là ai? Và Minh Đà Lệnh Chủ, nào có phải là một danh từ xa lạ? Bất quá, hắn chưa gặp người, chứ cái danh người chấn động màng tai hắn qua nhiều năm rồi!
Hắn ngây người, tay nắm chặt Lệnh Bài, mắt mở to nhìn Quan Sơn Nguyệt!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh tiếp:
– Các hạ về báo với chủ nhân rằng Quan Sơn Nguyệt chưa ly khai vĩnh viễn thế gian này!
Tôn Thất nghiêng mình, hết sức cung kính đáp:
– Tuân mạng Lệnh Chủ!
Một ngôi tửu quán, có thể chứa đựng ngàn người, ngàn ngựa xe, lúc đó im lặng như bãi tha ma. Bất cứ thực khách nào cũng nhìn Quan Sơn Nguyệt, có người nhìn thẳng có kẻ len lén nhìn.
Tuy cục diện khai diễn bất ngờ, song chẳng ai không cho là mình có vinh dự lớn lao được trông thấy Minh Đà Lệnh Chủ!
Bởi trên giang hồ, còn ai không biết thinh danh của Lệnh Chủ Minh Đà?
Biết cái thinh danh chứ chưa biết người, bây giờ đối diện với người, còn ai không khoan khoái?
Trong niềm khoan khoái đó, có sự kính phục vô biên.
Hành tung đã lộ rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn khiêm nhượng nữa, ngay từ phút giây này, chàng hành động với tư cách một Lệnh Chủ. Chàng nghiêm giọng hỏi:
– Sự tình phát sanh tại địa phương nào?
Tôn Thất cung kính đáp:
– Tại Ưng Sầu Giản, ở phía trước đây, cách hai mươi dặm!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cát hạ có ngoại hiệu Hắc Ưng, đến một địa phương có cái tên rất kỵ, tự nhiên gặp biến cố là phải! Ngày trước, Phụng Sồ tiên sanh đến Lạc Phụng Ba, bỏ mình tại đó, hẳn các hạ cũng biết sự tích ấy chứ?
Tôn Thất cười gượng – Lệnh Chủ nói vui tai đấy thôi! Chứ tai nạn nào phải do một địa danh mà thành? Chẳng qua, cái số định gặp họa nơi nào, thì chung quy rồi mình cũng phải đi qua nơi đó, để rước lấy cái họa.
Hắn hỏi:
– Đêm nay, Lệnh Chủ định nghỉ chân tại đâu? Tại hạ sẽ cho anh em về trước, báo tin với chủ nhân, riêng tại hạ thì ở lại, tình nguyện ở bên cạnh Lệnh Chủ, hầu hạ Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Các hạ khỏi phải lo, vả lại tại hạ cũng chưa quyết định như thế nào.
Tôn Thất hấp tấp thốt:
– Nếu Lệnh Chủ chưa có ý định gì, thì tại hạ xin thỉnh Lệnh Chủ vào thành, trong đó có tòa Trích Anh Khách Sạn, chủ nhân ngôi khách sạn là Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái, một nhân vật trên giang hồ, chán cảnh phiêu bồng, về đây sinh hoạt. Y vốn là bằng hữu chí thân của tại hạ, Lệnh Chủ đến đó rồi nhất định y hoan nghinh vô tưởng!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Cũng được! tại hạ bằng lòng đến đó, có điều y không nên đặc biệt chiêu đãi tại hạ, cho tại hạ bớt áy náy phần nào. Tại hạ nghĩ, y là một nhân vật trên giang hồ, thì dù là khách sạn của y, có xảy ra việc gì, chắc y cũng không quá kinh hãi. Sở dĩ tại hạ nói thế, là vì tại hạ nghĩ, Phi Lạc Đà chưa đi đâu xa, hắn có thể trở lại thành, tìm các hạ hoặc tìm tại hạ, để nghe ngóng mọi phản ứng của chúng ta, sau vụ cướp!
Quan Sơn Nguyệt đáp ứng lời mời, Tôn Thất hết sức hân hoan, hắn vội vã ra lịnh cho đồng bạn chạy bay vào thành, thông báo Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái, đồng thời chuẩn bị hộ tống bọn Quan Sơn Nguyệt ba người vào thành.
Ngồi trên mình ngựa, trên con đường vào thành, Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân nhìn sang Quan Sơn Nguyệt, mỉm cười, thốt:
– Ngươi hành sự đúng theo khuôn mẫu của sư phụ ngươi ngày trước, chẳng sai một điểm nhỏ. Sư phụ ngươi hoạt động trên giang hồ, đột nhiên mà đến, bất thình lình mà đi như con rồng thiêng ẩn hiện không thường, bình sanh không thích giao du bừa bãi, chứ đừng nói là hạ mình tiếp cận với hạng thấp thỏi hơn!
Bà không dùng ngôn ngữ khách sáo đối với Quan Sơn Nguyệt bới bà cùng đi một đoàn, tức nhiên có đồng chí hướng, hơn nữa chàng còn nhỏ tuổi, đáng là em, cháu của bà, nếu bà khách sáo thì mất hẳn sự thân mật giữa nhau.
Ngoài ra, cũng có thể bà dựa vào một sự quen biết nào ngày trước với sư phụ chàng nên bà dùng cái thái độ kẻ cả đối với chàng, cho nên bà không cần khách sáo.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Ân sư ngày trước có chỗ tự cao tự phụ, biết đâu người chẳng có một lý do bí ẩn gì đó mà không muốn tiếp cận nhơn tình thế thái? Cũng vì người có hành tung bí mật nên thường xảy ra những sự hiểu lầm. Người không tiếp cận với thế nhân, song người thường khuyên tại hạ, nên giao du rộng rãi, đừng noi theo gương ích kỷ của người, tương lai của tại hạ còn dài, tại hạ phải nghĩ đến con đường tiến thủ, tạo lập nên một sự nghiệp vẻ vang, chứ như người thì cầm như bỏ đi rồi, bất quá sống lây lất qua ngày để chờ lúc về trong lòng đất lạnh. Cho nên người bảo tại hạ, nên học nghệ nơi người chứ đừng tập theo tính người!
Bành đại nương mỉm cười:
– Kết giao bằng hữu, đành là một việc tốt, nên làm, song phải biết chọn người. Kết giao được bậc cao minh, lại càng tốt. Chứ như cái gã Hắc Ưng Tôn Thất này và cái tên Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái nào đó ở trong thành, chúng là hạng người gì, có hành vi ra sao, ngươi chẳng hiểu mảy may về chúng lại khẳng khái nhận lời tiếp cận, giả như ngươi gặp một bọn vô lại thì cái danh của ngươi sẽ mất, uy tín phải kém giảm, chừng đó ngươi làm sao tiếp xúc với các vị Chưởng môn các phái lớn?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, không hoàn toàn tán đồng lập luận của Bành đại nương. Chàng thốt:
– Cái ý của tại hạ là muốn tiếp cận với hạng người bình thường, tìm trong hạng đó có người nào khá, tại hạ kết tình bằng hữu. Sở dĩ thế là vì tại hạ nhận thấy, trong hạng người bình thường rất có nhiều kẻ thành tâm, thực ý, họ không bao giờ bội phản tại hạ, họ không trước mặt tâng bốc, sau lưng khinh miệt tại hạ.
Họ không đố kỵ tại hạ, bởi họ biết là chẳng khi nào họ lên kịp đường danh với tại hạ, do đó họ chỉ lấy tâm ý thành thật đối xử với tại hạ để mong nhờ sự giúp đỡ.
Còn như giao du với bọn Cao Minh, chi cho khỏi tại hạ gặp phiền phức vì họ, bởi phần đông thường có tánh cao ngạo, họ có quyền cao ngạo vì họ cho họ tài, do đó họ không muốn ai hơn họ, họ đố kỵ mọi thành công của kẻ khác. Đại nương phải biết, khi con người đố kỵ rồi thì chẳng mấy chốc mà đến sự thù hận!
Chàng kết luận:
– Hạng bình thường biết an phận với mình, chẳng khi nào họ tranh giành cái thế đứng của những người cao minh hơn họ. Bất quá, họ nuôi dưỡng tinh thần cầu tiến, chứ họ chẳng hề cạnh tranh với hạng người cao hơn họ!
Chàng mỉm cười, tiếp luôn:
– Chính những người bình thường đó, giúp tại hạ dắc lực hơn các vị cao minh, và hiện tại, tại hạ rất cần hạng người bình thường đó!
Bành đại nương sững sờ một lúc, lâu lắm bà mới thở dài thốt:
– Ta không ngờ, ngươi sáng suốt hơn sư phụ ngươi rất nhiều!
Quan Sơn Nguyệt chừng như nghe Bành đại nương nhắc nhở đến sư phụ chàng hằng ngày, tại Côn Lôn Sơn cũng thế, dọc đường cũng thế, chàng hết sức lấy làm lạ. Đã mấy lần chàng toan hỏi, song vừa dợm hỏi, chàng lại bỏ qua. Bây giờ, chàng cho rằng dịp này thuận tiện nhất, nên hỏi liền:
– Có lẽ đại nương giao tình thâm hậu với ân sư tại hạ?
Bành đại nương giật mình. Suy nghĩ một chút, bà tránh né vấn đề.
Nghĩ cũng lạ, trước kia bà thường tìm cách khai khẩu Quan Sơn Nguyệt, mong chàng nói nhiều, rất nhiều về Độc Cô Minh. nhưng Quan Sơn Nguyệt chỉ đáp một cách hững hờ, lơ lửng, bà bực tức vô cùng, song chàng không chịu nói thì bà làm sao cưỡng bức chàng được. Bây giờ, chính chàng hỏi bà về sự liên quan với Độc Cô Minh, một dịp rất tốt cho bà truy tra hoạt động của Độc Cô Minh trong mấy năm sau nầy. Vậy mà bà lại có ý né tránh.
Bà đáp nhẹ nhàng:
– Nói là thâm hậu thì cũng quá đáng! Bất quá, ta và sư phụ ngươi có gặp nhau mấy lượt thôi!
Một ý niềm thoáng hiện trong tâm tư của Quan Sơn Nguyệt, song liền theo đó chàng gạt bỏ, bởi chàng nghĩ, sư phụ chàng bình sanh ít giao du, cam cảnh cô tịnh nơi hoang vắng. Như vậy, làm gì sư phụ chàng lại có những cảm tình thầm kín đối với ai? Nam, Độc Cô Minh còn không chịu kết giao, thì khi nào lại dây vào phái nữ?
Họ nói chuyện với nhau, quên mất đoạn đường dài hay ngắn, khi câu chuyện tạm dừng, họ đã đến cửa thành. Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái đã chực sẵn tại đó, nghinh đón Quan Sơn Nguyệt.
Lưu Tam Thái là một hán tử, tuổi độ trên dưới ba mươi, da mặt đen sạm, dáng người trung hậu, thành phác. Hắn và Tôn Thất hết sức cung kính đối với chàng.
Vừa trông thấy Quan Sơn Nguyệt từ xa, Lưu Tam Thái đã nghiêng mình chờ sẵn, khi chàng đến gần, hắn thốt:
– Tại hạ không hay sớm, Lệnh chủ giá lâm, thành trễ tiếp nghinh, mong cầu Lệnh chủ thứ tội cho. Tại hạ đã cho dọn dẹp nơi tạm nghỉ trong thành, xin thỉnh Lệnh chủ và các vị đến đó cho tại hạ có dịp tỏ bày niềm tôn kính với bậc cao minh.
Quan Sơn Nguyệt vòng tay đáp lễ, điểm một nụ cười:
– Lưu huynh! Chúng ta tuy bình thủy tương phùng, song cảm tình của Lưu huynh dành cho tại hạ quá đậm đà, tại hạ hết sức cảm kích. Chúng ta dù sao cũng là những người trong giới giang hồ, những khuông sáo kém thành thực, mình nên bỏ đi, Lưu huynh, lấy cái tâm đối với nhau, để ghi lại một vài kỷ niệm khi chúng ta mội người mỗi ngã theo chí hướng riêng tư ...
Nghe danh không bằng thấy mặt, thấy Quan Sơn Nguyệt rồi, Lưu Tam Thái sanh lòng kính mến ngay, nhận ra chàng bình dị vô cùng, chẳng hề xem mình là Lệnh chủ hùng cứ một phương trời rồi khi thường người trong thiên hạ như con giun con dế, muốn chà đạp lúc nào tùy ý.
Chàng như vậy, còn ai không muốn tiếp cận? Và tiếp cận để kính mến chứ chẳng dám lờn, bởi trong vẻ nhu hiền hòa ái của chàng ẩn ước một uy nghi khiến cho ai trông chàng, không thể không nể nang được.
Lưu Tam Thái hận mình gặp Quan Sơn Nguyệt quá muộn nhưng muộn còn hơn không. Và y nghĩ, Quan Sơn Nguyệt hạ mình kết giao với y là chàng ban cho y một vinh dự lớn lao, y tự nguyện với lòng, phải làm sao báo đáp xứng đáng thịnh ý của chàng. Y điểm một nụ cười thật cởi mở, thốt:
– Lệnh chủ dạy quá lời! Sự hạ cố của Lệnh chủ tạo cho tại hạ một vinh hạnh lớn lao, tại hạ chỉ sợ phận mình quá thấp, với cao mà thành ra giang hồ sỉ tiếu, chứ làm gì có việc quấy nhiễu nhau như Lệnh chủ thắc mắc? Huống chi, tại hạ đã có sẵn ngôi khách sạn thì sự nghinh tiêáp Lệnh chủ cũng chẳng đòi hỏi phiền phức gì! Xin Lệnh chủ cứ tự nhiên đi cho!
Rồi y quay mình, đi trước dẫn đường.
Quan Sơn Nguyệt cũng hài lòng nhận thấy Lưu Tam Thái rất mực thành thực, chẳng giống như khách giang hồ phần đông tỏ rõ cái sáo thông thường, vừa rườm rà, vừa làm mất thì giờ.
Không lâu lắm, đoàn người đến Trích Anh Khách Sạn.
Tại Lương Châu, Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái cũng là một nhân vật hữu danh, bề sinh ý của y lại thịnh vượng phi thường, ngôi khách sạn của y có quy mô khá đồ sộ. Trước khách sạn, có bảng hiệu chữ vàng, trong khách sạn, công nhân đông đảo. Công nhân, là gọi theo công việc họ làm trong khách sạn, dưới con mắt của người ngoài họ là công nhân, thật ra, họ là những đệ tử của y, sư và đệ quây quần tại đây, sinh sống với cái nghề lương thiện này, chẳng khác nào những trang, trại trên giang hồ, quy tụ những thuộc hạ.
Giữa một thị trấn, họ làm sao dựng lên trang trại? Mà muốn có một cơ sở, quy tụ được nhiều người, đương nhiên họ phải dựng nên khách sạn. Khai thác một khách sạn, họ có địa điểm rộng rãi hơn bất cứ một cửa hiệu nào. Ngoài ra họ còn có một cái lợi là nghe ngóng động tĩnh trên giang hồ, bởi hàng quán là nơi khách muôn phương dừng chân, vừa ăn uống, vừa kháo nhau những chuyện trên trời dưới đất, những chuyện muôn phương từ cổ chí kim.
Bọn đệ tử của Lưu Tam Thái nghe tin Minh Đà Lệnh Chủ đến khách sạn, người nào cũng lộ vẻ hân hoan ra mặt. Họ chực chờ tại cửa, nghinh đón Quan Sơn Nguyệt như bàng dân nghinh đón một vị anh hùng cứu quốc, lúc khải hoàn.
Ở đây, không phải là vị anh hùng cứu quốc, nhưng có thể là vị anh hùng cứu tinh cho họ, nếu chẳng hôm nay thì ngày mai ngày kia ... Bởi, người cao, giao du với kẻ thấp, kẻ thấp luôn luôn nhờ cậy người cao. Người cao có bổn phận bảo vệ kẻ thấp hơn là lợi dụng kẻ thấp làm tay sai thực hiện một mưu đồ.
Quan Sơn Nguyệt hết sức cảm kích thái độ của bọn Lưu Tam Thái dành cho chàng. Chàng nhìn quanh, thấy rất nhiều khách trọ chuẩn bị hành trang, rời nơi nầy, chừng như để đến nơi khác, hoặc lên đường. Họ rời đi đúng lúc ngẫu nhiên chàng đến, hay vì có chàng đến mà họ bắt buộc phải dọn đi?
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, day qua Lưu Tam Thái hỏi:
– Tại sao thế, Lưu huynh?
Lưu Tam Thái mỉm cười:
– Lệnh Chủ lưu lại khách sạn này một ngày, là ngày đó tại hạ không nhận khách trọ nào khác, quyết để trọn tòa nhà nầy cho Lệnh Chủ sử dụng. Hơn nữa, tại hạ không muốn ai ở bên cạnh Lệnh Chủ gây huyên náo, làm cho Lệnh Chủ không được an tịnh.
Y dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tại hạ quyết định như thế, bất quá chỉ tỏ được một phần nhỏ của niềm tôn kính đối với Lệnh Chủ thôi, chí như sanh mạng này, nếu có cần hủy bỏ để làm được việc cho Lệnh Chủ, tại hạ cũng chẳng dám tiếc. Bởi cái vinh hạnh Lệnh Chủ ban cho quá lớn lao, tại hạ chẳng còn cách nào đền đáp cho vừa!
Quan Sơn Nguyệt áùy náy vô cùng. Thực sự thì chàng không muốn Lưu Tam Thái quan trọng hóa sự tình thế này. Quan trọng hóa trường hợp, chẳng những làm cho chàng không yên tâm mà còn gây nên tai tiếng đối với đời. Chàng không muốn có sự xáo trộn trong sinh hoạt thường ngày tại Trích Anh Khách Sạn, cũng như chàng không muốn tạo phiền phức cho khách trọ như thế này. Bất cứ một cuộc đổi đời nào cũng có gây phiền phức cả, và điều gây phiền phức nhiều hơn hết là sự dời cư, dù chỉ là dời cư tạm.
Chàng đem cài cảm nghi đó, tỏ lại cho Lưu Tam Thái biết và yêu cầu y nên đối xử đơn giản với chàng, càng đơn giản, chàng càng dễ chịu hơn!
Lưu Tam Thái mỉm cười:
– Nói thật với Lệnh Chủ, mở ngôi khách sạn này, tại hạ không có cái ý sanh nhai bằng nghề chiêu đãi khách. Chẳng qua, tại hạ mượn ngôi khách sạn làm một địa điểm để liên lạc với khách giang hồ, nghinh đón bằng hữu bốn phương ngang qua đây cần dừng bước lại nghỉ chân một đôi ngày. Lệnh Chủ chắc không biết là phần đông khách trọ đều được miễn phí. Cho nên, việc từ chối khách chẳng gây một ảnh hưởng tài chánh nào cho tại hạ cả.
Y dừng lại một chút, lại tiếp:
– Huống chi, Lệnh Chủ chỉ có ý lấy nơi này làm địa điểm hội diện với Phi Lạc Đà, thì tại hạ nghĩ càng giải tán được bọn hiếu kỳ chừng nào, càng có lợi cho Lệnh Chủ hơn!
Y kết luận:
– Chúng ta sẽ tránh được phiền phức.
Việc hội diện với Phi Lạc Đà, Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái không dám dùng hai tiếng chúng ta. Bởi, dùng như thế là leo thang, là phạm thượng, y chẳng có tư cách gì can thiệp vào vụ, trừ trường hợp Quan Sơn Nguyệt cần đến y. Song, khi nêu ra những phiền phức có thể có, y lại dùng hai tiếng chúng ta, bởi y có quyền dùng. Vì y là địa chủ, điều phiền phức nếu có xảy ra, chính y gánh chịu phần lớn.
Quan Sơn Nguyệt đến rồi Quan Sơn Nguyệt lại ra đi, sự phiền phức chỉ có ảnh hưởng trong thời gian chàng có mặt tại đây. Còn Lưu Tam Thái ở tại địa phương, muôn đời ảnh hưởng đó sẽ lan dài mãi đến ngày cùng của y, trừ phi y muốn dời cư đi nơi khác.
Y dè dặt từng tiếng xưng hô như vậy, kể ra y cũng là con người rất chu đáo.
Quan Sơn Nguyệt thấy rõ Lưu Tam Thái thành thật với chàng vô cùng đành im lặng, chẳng còn biết nói chi hơn.
Lưu Tam Thái dành trọn ba gian phòng lớn, trang trí cực kỳ thanh nhã, đương nhiên có đủ tiện nghi, dành cho mỗi người của Quan Sơn Nguyệt một gian.
Trong một cuộc nghinh tiếp như thế, tự nhiên phải có tiệc thịnh soạn.
Tiệc, dọn tại sảnh đường. Bàn tiệc chánh, chỉ có ba ghế, đó dĩ nhiên dành cho Quan Sơn Nguyệt, Bành đại nương và Trương Thanh. Bên cạnh, có chiếc bàn nhỏ, có hai ghế dành cho Lưu Tam Thái và Tôn Thất.
Quan Sơn Nguyệt không bằng lòng, cau mày hỏi:
– Sao Lưu huynh an bày như thế này?
Lưu Tam Thái nghiêng mình:
– Lệnh Chủ là bậc đương thế kỳ tài, tuy chen đứng giữa dòng đời song chẳng khác nào là long là phượng, còn bọn tại hạ, bất quá là những tiểu tốt vô danh, đứng hàng cuối vũ lâm, sợ chẳng xứng phận, làm gì lại dám đồng bàn với Lệnh Chủ? Sự an bày này chẳng qua là một cách trong ngàn cách, tỏ sự tôn kính đối với Lệnh Chủ chứ chẳng có chủ ý gì cả, xin Lệnh Chủ lượng hiểu cho!
Quan Sơn Nguyệt trầm gương mặt:
– Nếu Lưu huynh một mực đối xử như vậy, tại hạ xin đi tìm nơi khác tạm nghỉ chân qua đêm. Nhất định chẳng dám lưu lại đây, quấy nhiễu Lưu huynh lâu hơn!
Lưu Tam Thái cảm kích phi thường, song lại áy náy, lộ vẻ khó khăn:
– Lệnh Chủ thương tình, xóa bỏ sự cách biệt giữa nhau, song tại hạ xét phận mình ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Đã gọi là tứ hải giai huynh đệ thì có huynh đệ nào lại kém huynh đệ nào?
Lưu huynh lại rơi vào khuôn sáo của giang hồ rồi đó! Thân phận gì của nhau mà Lưu huynh cứ đề cập mãi? Lệnh Chủ cũng là người, cũng là một Chưởng môn, Chưởng giáo chứ có phải là thần là thánh đâu? Lưu huynh cũng thế, cũng đứng đầu một môn học gia truyền, cũng là bậc sư tôn, giáo huấn đệ tử, thân phận đó lại nhỏ lắm sao? Từ xưa đến nay, chẳng có môn phái nào danh dự hơn môn phái nào bằng vào vũ học, chỉ có quy luật, hành vi của môn phái mới đáng kể, chỉ có cái đức độ của môn phái đó mới đáng kể. Giả như tại hạ thật sự có tài cao mà tại hạ hành động ngược chiều chánh nghĩa giang hồ, Lưu huynh cũng nể trọng nữa sao?
Lưu Tam Thái vô cùng xúc động. Nếu có thể khóc vì xúc động mà không sợ chán chường, y khóc liền. Bởi không dám để lệ xúc động dâng trào, y nhốt lệ nơi yết hầu rồi đáp với giọng sền sệt:
– Lệnh Chủ dạy thế, nếu tại hạ còn câu nệ thì chẳng hóa ra mình khách sáo, kém thành thật! Thôi thì đành vâng lời chứ biết làm sao hơn?
Tuy nói vậy, y vẫn chưa dời bàn tiệc sang nhập hai lại làm một. Rồi y tiếp:
– Lệnh Chủ hai lượt xuất hiện trên giang hồ, tại hạ không có duyên may gặp gỡ, chỉ nghe lời truyền thuyết trong vũ lâm thôi! Cứ theo lời truyền thuyết đó, thì Lệnh Chủ ...
Y ấp úng, điều đó chứng tỏ những gì y muốn nói ra, hẳn khó nói.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Có thể là những lời bình phẩm về tại hạ do Lưu huynh nghe được không tốt đẹp chi đó!
Lưu Tam Thái thoáng đỏ mặt, lâu lắm, y mới lấy lại bình thường, từ từ đáp:
– Trên thế gian này, có ai được người đời cho là tận thiện tận mỹ đâu? Thất bại thì bị cười chê, thành công thì gặp đố kỵ, cho nên đã chấp nhận kiếp sống giang hồ là trước hết phải rèn luyện sự kiên trì để sẵn sàng tiếp nhận mọi thị phi.
Tuy nhiên, lời bình phẩm của giang hồ về Lệnh Chủ, xét ra, còn tốt đẹp hơn là sự phê phán của họ đối với lệnh sư Độc Cô lão tiền bối!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Ân sư của tại hạ, cưỡng đoạt lệnh phù, tín vật của các môn phái, kể ra cũng đáng trách. Song, nếu có ai suy nghĩ đến cái dụng ý của người khi làm việc đó hẳn phải lượng tình, hơn nữa còn cảm kích người mời hợp lý!
Lưu Tam Thái thấy chàng không được vui, chẳng dám nói gì hơn vội thỉnh mọi người nhập tiệc. Chính Lưu Tam Thái rót rượu mời từng người, rượu đầy mời cạn, rượu cạn rót đầy.
Tôn Thất qua cái bại vừa rồi, hết sức tự thẹn, lặng lẽ tham dự tiệc rượu một cách miễn cưỡng, không dám mở miệng nói một tiếng gì.
Qua vài tuần rượu, bỗng Quan Sơn Nguyệt cao giọng hỏi:
– Vị bằng hữu nào đó, đã đến đây rồi, xin cứ vào, vào uống chén rượu đuổi cái lạnh của đêm khuya xâm nhập vào người, hà tất phải đứng bên ngoài nghe ngóng?
Bọn Lưu Tam Thái và Tôn Thất giật mình, quay mặt nhìn qua cửa sổ.
Bên ngoài có tiếng cười lạnh vọng vào.
Tôn Thất đồng thời la lên:
– Phi Lạc Đà!
Nơi khung cửa sổ, hiện ra một bóng người, toàn thân phủ một lượt sa đen.
Quan Sơn Nguyệt thoáng biến sắc, song chàng kịp lấy lại bình tĩnh, điềm nhiên thốt:
– Tại hạ đoán, thế nào bằng hữu cũng đến! Không ngờ bằng hữu đến sớm quá!
Ngươi bao mặt lạnh lùng cất tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt! Ta định chậm lại mấy hôm nữa mới tìm gặp ngươi, song ngươi đã phá hủy Phi Đà Lệnh của ta ...
Quan Sơn Nguyệt cao giọng chặn lại:
– Ngày nào trên thế gian còn Minh Đà Lệnh Chủ, ngày đó chẳng một ai được dùng cái tiếng Đà làm hiệu lệnh cả! Bằng hữu hãy nhớ rõ như vậy.
Người bao mặt cười mỉa:
– Ta nghĩ, ngươi nên câm miệng hơn là nói những lời khó nghe quá chừng!
Trên thế gian này, chỉ có một người được quyền dùng danh từ đó thôi à? Ngươi chiếm độc quyền từ bao giờ thế? Huống chi, Minh Đà Lệnh cũng chẳng có uy tín chi trên giang hồ, ngươi còn bám víu vào một hiệu lệnh vô dụng để làm gì chứ?
Cho nên, ta cho ra Phi Đà Lệnh để chứng tỏ với giang hồ là cái Lệnh Minh Đà của ngươi đã cáo chung và từ nay chỉ còn Phi Đà Lệnh thôi! Ngươi còn nhớ mấy hàng chữ nơi tấm lệnh bài của ta chứ?
Quan Sơn Nguyệt nổi giận, song vẫn giữ lễ độ, trầm giọng thốt:
– Bằng hữu nói thế, chừng như ngông cuồng đó! Tại hạ muốn thấy bằng hữu dựa vào đâu lại có thái độ cao ngạo, xem dưới mắt không người?
Chàng đứng lên, định bước ra ngoài.
Người bao mặt khoát tay:
– Hãy khoan! Bản ý của ta là muốn cho ngươi một bài học, để từ nay ngươi không còn dùng chiêu bài Minh Đà Lệnh mà hống hách với đời, song hiện tại, ngươi không có sẵn lệnh bài có hình kim nhân và bạch đà chứng minh cho thân phận Minh Đà Lệnh Chủ của ngươi thì chẳng hóa ra ta giao đấu với kẻ mạo danh sao? Như vậy dù có thắng ngươi, ta cũng chẳng được vinh dự gì!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Minh Đà Lệnh quả thật không sẵn nơi mình tại hạ, muốn đi lấy nó, hành trình phải mất ít nhất cũng ba tháng, tại hạ ...
Người bao mặt xua tay:
– Ba tháng cũng chẳng lâu gì, huống chi chỉ cần một tháng cũng đủ! Ta biết, những vật chứng minh thân phận của ngươi ở tại Bách Thiên Sơn nên đã cho người đến đây lấy hộ ngươi rồi. Trong vòng một tháng, ta sẽ đợi ngươi tại Đại Tán Quan, chừng đó, ngươi có tín vật và chúng ta quyết tranh thư hùng. Như vậy mới quanh minh chánh đại thử xem sau cuộc so tài, Bạch Đà hay Hắc Đà sẽ tồn tại trên thế gian!
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nghĩ, đối phương quả là tay lợi hại, biết được nơi chàng cất giấu tín vật và lệnh bài, nhưng sự thể đã như vậy rồi, chàng cũng phải đành chờ chứ biết sao hơn? Song, chờ một tháng, riêng chàng thì chẳng quan ngại gì, còn lời hứa với Tôn Thất thì sao?
Chàng đáp:
– Bằng hữu muốn thế cũng được, nhưng tại hạ đã lỡ hứa với Song Anh Tiêu Cục à trong ba hôm sẽ tìm số bạc mất giao hoàn cho họ, thiết tưởng bằng hữu cũng thừa hiểu giá trị của chữ tín như thế nào trên giang hồ chứ?
Người bao mặt cười lạnh:
– Thực ra, ta cùng bọn Chung Nam có món nợ còn đọng lại cần thanh toán gấp, song nể mặt ngươi ta tạm đình hoãn việc hỏi tội chúng một thời gian, nương tay cho chúng lần này, số bạc mất ta chẳng hề động đến, ta để lại trong khách sạn kia, ngươi hãy giao hoàn cho tròn lời hứa với chúng. Ngươi nên nhớ là ta đã giúp ngươi được toàn danh dự một lần rồi đó nhé!
Thốt xong, y nhích động đôi chân, thân hình chớp lên, lượt sa phủ bên ngoài bọc gió như hốt y về một phương trời xa. Thoáng mắt, y đã mất dạng trong bóng đêm mờ.
Hai bao bạc đặt trong một khách sạn bên cạnh một gã công nhân. Tay gã đang cầm một tô canh bốc khói thơm phức nhưng gã đứng bất động. Đúng là gã bị điểm huyệt, có lẽ vừa bị điêm nên chưa kịp ngã.
Quan Sơn Nguyệt không chậm trễ, vọt mình qua cửa sổ, đến cạnh gã công nhân, đưa tay ra định giải huyệt cho hắn. Ngờ đâu, tay chàng chưa chạm đến mình gã, gã ngã xuống liền, đồng thời rú lên thê thảm, chừng như đau đớn lắm.
Tại sao gã đứng được đến lúc đó, rồi mới ngã? Tại sao mãi đến lúc ngã, gã mới nghe đau?
Pháp điểm huyệt của Phi Lạc Đà quả thật lợi hại vô cùng, giới hạn đến cả thời gian hiệu nghiệm như vậy, kể ra trên giang hồ chẳng phải bất cứ cao thủ nào cũng luyện được thủ pháp đó.
Bành Cúc Nhân đã ra đến bên ngoài, trông tình hình đó, vụt biến sắc mặt ngay.
Quan Sơn Nguyệt toan cúi xuống, quan sát cơ thể của gã công nhân, Bành đại nưong đã quát to:
– Không làm gì được đâu, Lệnh Chủ! Gã bị đối phương hạ thủ bằng thủ pháp Thất Độc đấy!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, bất động ngay. Rồi chàng hấp tấp hỏi:
– Thất Độc thủ pháp? Thủ pháp gì thế?
Bành đại nương không đáp vội, day qua Trương Thanh hỏi:
– Còn «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» chăng?
Trương Thanh cũng không đáp, lặng lẽ lấy trong mình ra một chiếc bình bằng ngọc. Tuy gọi là thuốc tán, song Trương Vân Trúc vò viên lại, để tiện bề mang theo bên mình, và bình ngọc của Trương Thanh đựng loại thuốc được vò viên đó. Nàng mở nút bình, lấy một viên, trao cho Bành đại nương.
Bành đại nương lập tức nhét viên thuốc vào miệng gã công nhân khách sạn.
Đoạn, bà dùng phương pháp cấp cứu, xoa bóp gã một lúc, nhưng thay vì xoa xuôi chiều, bà lại áp dụng lối nghịch thế, cốt ngăn chận độc khí xâm nhập sâu vào cơ thể của gã công nhân.
Một lúc sau, gã công nhân cử động được.
Bành đại nương thở phào mấy lượt, rồi hướng sang Lưu Tam Thái, thốt:
– Phải để cho gã tịnh dưỡng ít nhất cũng nửa tháng, sau thời gian đó, gã mới khôi phục nguyên trạng. Trong thời gian tịnh dưỡng, gã phải kiêng ăn những món tanh tưởi như tôm, cá, cua ...
Lưu Tam Thái thay mặt tên đệ tử, cảm tạ Bành đại nương cứu mạng cho hắn, đoạn gọi những đệ tử khác, khiêng gã bị nạn vào trong. Cuối cùng, y mời tất cả vào bàn, tiếp tục cuộc rượu.
Phần Tôn Thất, dĩ nhiên đã ở bên cạnh hai bao bạc, đang kiểm điểm lại xem có mất phần nào chăng.
Vừa ngồi xuống ghế, Quan Sơn Nguyệt nóng nảy hỏi liền:
– Thất Độc thủ pháp có đặc điểm gì, đại nương lại cho là lợi hại?
Bành đại nương thở dài:
– Sự việc này làm cho già liên tưởng đến bao nhiêu việc khác ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Những việc khác là việc gì?
Bành đại nương chỉnh nghiêm thần sắc, đáp:
– Những gì già liên tưởng, có quan hệ đối với Phi Lạc Đà. Và, già nghĩ rằng, Phi Lạc Đà, có thể là ...
Quan Sơn Nguyệt chận liền:
– Là Khổng Linh Linh!
Bành đại nương nhìn sững chàng, sau cùng bà thở dài, buông gọn:
– Lệnh Chủ đoán đúng!
Trước mắt ngoại nhân, bà gọi chàng là Lệnh Chủ, khi nào chỉ có hai người, thì bà dùng tiếng ngươi xưng hô với chàng. Chẳng qua, bà tự cho mình có cái thân phận trưởng thượng đối với chàng. Mà Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng lấy đó làm điều, vì chàng có sự nghi ngờ xa xôi về một liên hệ giữa Bành đại nương và Độc Cô Minh. Huống chi, Bành đại nương đã cao tuổi, bà có thể là mẹ của chàng?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Trong thiên hạ vũ lâm ngày nay, hảo thủ không nhiều, mà một cô nương có tâm tánh và hành vi như Phi Lạc Đà, ngoài nàng ấy ra thì còn ai nữa? Tại hạ vừa thấy Phi Lạc Đà xuất hiện, là có cái giả thuyết đó trong tâm tư rồi. Nhưng cái giả thuyết đó không vững lâu, bởi căn cứ vào thủ pháp điểm huyệt của người nầy, tại hạ nghĩ rằng tài nghệ của Phi Lạc Đà phải cao hơn Khổng Linh Linh một bậc.
Như vậy, chắc hẳn phải là một người khác chứ không nhất quyết là Khổng Linh Linh.
Bành đại nương gật đầu:
– Thoạt đầu, già cũng tưởng Phi Lạc Đà chính là Khổng Linh Linh, song, lúc biết được hắn sử dụng Thất Độc thủ pháp, già lại nghĩ đến một người khác, nếu đúng Phi Lạc Đà là truyền nhân của người đó, thì từ nay, Lệnh Chủ sẽ có một kẻ tử đối đầu, một đại kình địch!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Người đó, là ai?
Thay vì đáp lời Quan Sơn Nguyệt, Bành đại nương nghiêm giọng hỏi:
– Già muốn Lệnh Chủ thực tình cho già biết, Độc Cô Minh thật đã chết rồi, hay còn sống?
Quan Sơn Nguyệt thoáng biến sắc:
– Ân sư tạ thế, đó là sự thật, tại sao đại nương lại nghi ngờ?
Bành đại nương hừ một tiếng:
– Công tử!
Bà không gọi là Lệnh Chủ, lại đổi cách xưng hô, gọi Quan Sơn Nguyệt bằng hai tiếng «công tử»! Như vậy, là bà chuyển hướng tình cảm của bà, trong tiếng gọi của bà, có vẻ thân mật rõ rệt, bà dựa vào sự thân mật đó để trách cứ chàng.
Nhận xét qua thái độ của bà, đối với Quan Sơn Nguyệt, tất thấy rõ một mối quan hệ rất trọng giữa bà ta và Độc Cô Minh, có Quan Sơn Nguyệt ở trung gian ...
Và có lẽ Bành đại nương muốn làm sống động lại những gì đã chìm lặng từ lâu, nên bà tha thiết muốn biết rõ chân tình về Độc Cô Minh.
Gọi xong hai tiếng đó, bà trầm giọng tiếp:
– Già đối với công tử, có thể được cho là trọn nhân, trọn nghĩa, già không kể cái số tuổi khá cao, tình nguyện theo sát bên mình công tử trên những đoạn đường xuôi ngược khắp sông hồ, hầu giúp công tử phần nào trong những cơn bất trắc. Thế mà công tử không chịu cho già biết một sự thật, dù sự thật đó, nghĩ ra cũng chẳng quan trọng gì!
Quan Sơn Nguyệt bối rối, hấp tấp thốt:
– Đại nương trách cứ như thế, tại hạ biết đáp làm sao ...
Bành đại nương cao giọng:
– Nếu quả thật Độc Cô Minh đã chết, thì nhất định trên đời nầy chẳng còn ai sử dụng nổi thủ pháp «Thất Độc Đoạn Huyệt»! Lão ta còn sống, lão ta thu nhận môn đồ, bây giờ môn đồ của lão xuất thế hành sự, thủ pháp đó mới xuất hiện trên giang hồ!
Bành đại nương quả quyết quá, Quan Sơn Nguyệt bối rối hơn. Chẳng rõ với ý tứ gì, chàng đảo mắt nhìn quanh gian đại sảnh, nơi đặt bàn tiệc đãi chàng.
Lưu Tam Thái vội thốt:
– Giả như Lệnh Chủ có điều tỵ hiềm, thì bọn tại hạ xin tạm thời cáo thoái, để cho Lệnh Chủ tự tiện ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Không cần, bất quá tại hạ mong rằng sau khi nghe chuyện, Lưu huynh giữ kín cho!
Lưu Tam Thái thừa hiểu, nếu ở lại nghe chuyện riêng tư của người, thì khiếm nhã lắm, tuy Quan Sơn Nguyệt nói thế, y cũng biết chẳng lẽ chàng trắng trợn bảo y ra ngoài? Dù sao thì y cũng là chủ gia, Quan Sơn Nguyệt phải giữ lễ độ tối thiểu đối với y chứ?
Theo lệ phải, y nên đi ra, dù Quan Sơn Nguyệt có lưu y lại. Nhưng y lại hiếu kỳ. Y đoán chắc là câu chuyện Quan Sơn Nguyệt sắp nói cho Bành đại nương nghe, hẳn có tầm quan trọng lớn lao, liên hệ đến những sự việc vô cùng bí mật trong vũ lâm. Mà y lại cho mình là khách giang hồ, tự nhiên y rất muốn biết những sự việc đó. Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt dặn dò y giữ bí mật, lập tức y đưa cao tay chỉ trời, long trọng phát thệ:
– Nếu tại hạ tiết lộ nửa lời về câu chuyện sắp được Lệnh Chủ cho nghe đây, thì xin thiên tru địa lục tại hạ! Lệnh Chủ yên trí!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu. Chàng trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ thốt:
– Quả thật ân sư của tại hạ chưa chết! Tuy nhiên, cái chết cũng không xa người cho lắm!
Bành đại nương trố mắt:
– Thế là vũ công của lão bị phế hủy trọn vẹn?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không có việc đó đâu! Bất quá, ân sư tại hạ không thể trở lại nhân gian nữa thôi! Lúc người trao Minh Đà Lệnh cho tại hạ, người có bảo tại hạ nên tuyên ngôn là người đã chết rồi và ân cần chúc phó tại hạ đừng bao giờ tiết lậu sự tình.
Sự thực thì người đến một nơi ước hội, rồi sau đó quy ẩn luôn.
Bành đại nương cau mày:
– Lão đến đối phương nào? Ước hội với ai?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không được rõ! Bình sanh, ân sư tại hạ không hề giấu giếm tại hạ một điều gì, chỉ có việc đó, tuyệt nhiên người không nói cho tại hạ biết. Tại hạ có van cầu mấy lượt, trước sau người vẫn giữ bí mật.
Bành đại nương mơ màng một lúc, đoạn thở dài:
– Phải! Độc Cô Minh hành động như vậy, già kính phục vô cùng! Chịu khổ, chịu đau bao nhiêu năm dài, bỗng lại tìm được nghị lực, giúp lão quyết định như thế! Đáng phục lắm!
Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình:
– Đại nương biết ân sư tại hạ đi về đâu?
Bành đại nương gật đầu:
– Phải! Trên thế gian nầy, ngoài già ra, không một người thứ hai nào biết được hiện nay Độc Cô Minh ở đâu!
Quan Sơn Nguyệt để lộ niềm khích đông rõ rệt, hấp tấp hỏi:
– Ở đâu, đại nương?
Bành đại nương mơ màng:
– Nói ra làm sao được! Già chỉ biết vùng, chứ không biết chỗ chính xác.
Già biết, Độc Cô Minh có đính ước với một người, cả hai cùng đến đó ...
Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:
– Mà nơi đó là đâu?
Bành đại nương trầm giọng:
– Nơi đó, về hướng Tây, địa danh là Tiểu Tây Thiên!
Bà lại mơ màng, lẩm nhẩm:
– Tiểu Tây Thiên! Về hướng Tây, có biết bao nhiêu địa phương? Già còn biết Tiểu Tây Thiên ở nơi nào? Trong bao nhiêu năm xuôi ngược giang hồ, già chưa từng nghe ai nói đến địa phương đó, trừ một Độc Cô Minh! Già còn chưa biết thực sự địa phương đó ở đâu?
Quan Sơn Nguyệt thất vọng ra mặt. Lâu lắm, chàng thở dài, thốt:
– Đính ước với một người! Người đó là ai? Có sự tình gì giữa ân sư tại hạ và người đó?
Bành đại nương cũng thở dài:
– Sư phó ngươi không nói cho ngươi biết, thì ta làm sao tiết lộ với ngươi?
Qua phút giây xúc động, bà lấy lại bình thường, và dùng cái tiếng ngươi, xưng hô như cũ. Bà tiếp:
– Dù sao, già cũng phải trọng cái ý của Độc Cô Minh, lão muốn giữ bí mật, mà không thể tiết lộ được!
Quan Sơn Nguyệt có vẻ bất mãn.
Trương Thanh mấp máy môi định nói gì đó, song nàng chưa kịp cất tiếng, Bành đại nương lại tiếp:
– Không phải già cố ý tạo nên quan trọng cho sự tình, chẳng qua, ngày trước, già cùng Độc Cô Minh có phát thệ long trọng với nhau, lời thề đó mãi mãi ước thúc nhau, cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng. Giả như, già bất chấp sự an nguy cho bản thân, tiết lộ sự tình cho ngươi biết, già có bề nào, đã đành rồi, song cái hậu quả sẽ tai hại vô cùng, tai hại cho nhiều người lắm đó. Già đâu dám liều lĩnh gieo họa cho nhiều người? Ngươi phải biết, trước khi đi đến nơi ước hội, Độc Cô Minh đắn đo, cân nhắc suốt mấy mươi năm dài! Mãi đến mấy năm gần đây, lão ta mới dám quyết định. Ngươi thấy đó, tầm quan trọng của sự tình rộng lớn đến đâu!
Bà dừng lại một chút, đoạn kết luận:
– Ngươi thấy đó, Độc Cô Minh là con người không sợ trời, không sợ đất, vẫn phải trì nghi, do dự qua bao năm dài, đủ biết sự tình quan trọng như thế nào!
Quan Sơn Nguyệt hồi ức lại đoạn thời gian sống chung với ân sư.
Từ ngày được Độc Cô Minh thu nhận làm môn đồ, ngoài cái việc ân cần giáo huấn chàng, việc đó chiếm một khoảng thời gian thường nhật, còn ra thì Độc Cô Minh luôn luôn ủ rũ mơ buồn, trầm tư man mác! Chàng cũng chẳng hiểu tại sao ân sư cam sống nội tâm, dứt khoát hẳn mọi tiếp xúc với đời, gần như một người bất cận nhân tình. Chàng cũng có lấy làm lạ, lắm lúc muốn hỏi, song một đệ tử làm sao dám tìm hiểu sâu đời tư của vị sư phó?
Rồi đến khi trao tín vật, lệnh phù, Độc Cô Minh có cái vẻ trang trọng như cuộc tiễn đưa bên bờ Dịch Thủy của người xưa ...
Từ đó đến nay, chàng luôn luôn mang nặng niềm thắc mắc, cố tìm một giải đáp, song tìm giải đáp về hành động của ân sư chàng, có khác nào tìm hạt cát giữa lòng biển sâu?
Bây giờ, Bành Cúc Nhân nhắc lại việc cũ, và còn tỏ lộ là biết rõ nơi quy ẩn của ân sư. Hơn thế, bà cũng tỏ lộ luôn là biết rõ ân sư đính ước với ai. Rồi bà còn cho rằng, sự tình rất hệ trọng! Sự tình gì chứ?
Nhìn thần sắc của Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân bất giác thở dài, thốt:
– Nhắc lại việc xa xưa, già chỉ nêu lên một mối tương quan giữa Phi Lạc Đà và Độc Cô Minh, nếu trong cuộc chiến sắp đến, ngươi thắng nổi Phi Lạc Đà, thì vấn đề không còn gì để nói nữa, bởi cuộc chiến thắng đó sẽ là sự kết thúc vĩnh viễn những liên hệ giữa ngươi và Độc Cô Minh. Còn như ngươi hy vọng gặp lại Độc Cô Minh, dù chỉ là một lần, thì tuyệt đối ngươi không nên đánh bại Phi Lạc Đà! Ngươi nghe già nói rõ chứ? Thắng hắn, là vĩnh viễn ngươi không gặp lại Độc Cô Minh, muốn gặp Độc Cô Minh, ngươi cần phải bại!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ:
– Lời nói của đại nương, hẳn có nguyên nhân?
Bành Cúc Nhân trầm giọng:
– Già đã nói hết những gì có thể nói, còn ra thì tùy ngươi châm chước mà hành sự! Đừng hỏi nhiều hơn, già không làm thỏa mãn ngươi được đâu!
Quan Sơn Nguyệt biết lắm, không làm sao chàng bức bách Bành đại nương nói gì nhiều hơn những điều bà có thể nói. Bây giờ, còn một phương pháp duy nhất, là muốn biết điều gì, chàng phải do nơi Phi Lạc Đà.
Chàng thầm nghĩ:
“Theo đại nương, ta nên bại! Ta bại, thì còn gì danh dự của ta? Ta thắng, thì vĩnh viễn chẳng còn gặp mặt ân sư! Làm sao? Ta phải làm sao? Nên bại hay nên thắng?”.
Một vấn đề nan giải! Một vấn đề liên quan trọng đại đến tiền đồ của chàng!
Một vấn đề chỉ giải quyết bằng hai tiếng thắng, bại! Nhưng, lại khó khăn hơn việc chuyển càn khôn!
Trong khi đó, Bành Cúc Nhân nhìn thẳng vào mặt chàng, chờ nghe chàng tỏ một thái độ. Thái độ đó, là chàng chấp thuận bại hay kiên quyết chiếm phần thắng.
Chàng phải dứt khoát thái độ như thế nào? Sau cùng, chàng đáp, nhưng lời đáp của chàng cũng chẳng có vẻ gì là dứt khoát hẳn:
– Giả như, tại hạ tài hèn, thì đương nhiên là bại. Còn như, vũ công của tại hạ chẳng đến đổi kém, mà tại hạ lại là Minh Đà Lệnh Chủ, tại hạ mất hẳn cá nhân, tại hạ trở thành hình thức tượng trưng cho cả một môn phái, tại hạ chiến đấu vì môn phái đó, mà một môn, một phái nếu có phải bại, đương nhiên có thể bại vì âm mưu, vì quỷ kế, chứ nhất định không bại vì vũ công, bởi bại vì vũ công là tiêu diệt!
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Như vậy là vĩnh viễn ngươi không mong trùng phùng vị sư phó của ngươi!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đại nương nói đúng! Thắng, là tại hạ không hy vọng gặp lại ân sư, mà bại, tại hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại ân sư, bởi tại hạ bại, là Minh Đà Lệnh nhục, tại hạ không xứng đáng nhận lãnh sự ủy thác của ân sư. Tại hạ làm nhục cho môn phái, tại hạ phải chết, nói gì đến việc dám chường mặt đến gặp lại ân sư?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Ngươi có lý! Già còn biết nói gì hơn?
Thế là sự tình đã được quyết định hẳn rồi, trong cuộc chiến tương lai với Phi Lạc Đà, Quan Sơn Nguyệt phải thắng. Dù có bại, thì chàng chỉ bị bại bởi vũ công kém, chứ chẳng phải vì giả vờ như Bành Cúc Nhân đề nghị với chàng.
Không ai còn lời gì để nói với nhau nữa, họ trầm lặng đến lạnh lùng, không khí khó thở vô cùng.
Lâu lắm, Trương Thanh mới cất tiếng:
– Đại Tán Quan cách đây có xa lắm không, Quan đại ca?
Lưu Tam Thái đáp thay Quan Sơn Nguyệt:
– Không xa lắm đâu, cô nương. Dùng ngựa hay, bất quá chúng ta mất độ mười ngày đường là đến nơi.
Trương Thanh «ạ» lên một tiếng:
– Thế thì thời gian ước hẹn của Phi Lạc Đà còn rộng. Tại sao hắn không thu hẹn hạn kỳ vừa đủ cho cuộc hành trình thôi?
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Phải đó! Theo ước hẹn của hắn và sự dự đoán của Lưu huynh, thì chúng ta còn thừa độ vài mươi hôm, trong khoảng thời gian thừa lại đó, chúng ta sẽ làm gì? Ngu ca muốn đến Lạc Hồn Cốc, song lại sợ không kịp làm gì ...
Lưu Tam Thái thốt:
– Lệnh Chủ không cần phải đến đó, bởi hiện tại trong Lạc Hồn Cốc chẳng còn một người nào cả, kể luôn một gia nhân hèn mọn của Cốc chủ. Sau ngày Khổng Văn Thông chết, Khổng Văn Kỷ biệt tích luôn. Điều đó có thể tin được lắm, bởi bằng hữu giang hồ qua lại địa phương nầy, tiết lộ với tại hạ như thế.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu.
Trương Thanh lại hỏi:
– Lưu đại ca có nghe tin tức chi về Gia gia của tôi chăng?
Chừng như nhận ra là mình hỏi một câu rất vô lý, Trương Thanh bổ túc luôn:
– Gia gia tôi là Trương Vân Trúc ...
Lưu Tam Thái giật mình, trố mắt nhìn nàng:
– Thế ra, cô nương là ái nữ của Trương đại hiệp? Thật tại hạ lỗi quá, chẳng biết được lai lịch cô nương, thành ra sơ sót không tiếp nghinh được chu đáo!
Rồi y tiếp luôn:
– Sau ngày đại náo Lạc Hồn Cốc, Trương đại hiệp im hơi bặt tiếng mãi đến nay. Cũng có nhiều bằng hữu giang hồ tìm Trương đại hiệp song chưa ai biết được quy ẩn tại phương trời nào.
Trương Thanh hết sức kỳ quái:
– Có nhiều người tìm gia gia tôi? Những ai thế, hở Lưu huynh? Họ tìm gia gia tôi để làm gì?
Lưu Tam Thái đưa tay gãi đầu sồn sột, đáp:
– Phần nhiều, là những môn đệ các kiếm phái. Chừng như họ có vẻ khẩn cấp, nóng nảy muốn gặp Trương đại hiệp ngay. Họ có điều gì đó, thỉnh cầu nơi Trương đại hiệp, song tại hạ không biết rõ.
Y lại hỏi:
– Cô nương đã xa cách lịnh tôn từ lâu lắm rồi sao, nên không biết tin tức về người?
Trương Thanh gật đầu.
Cái gật đầu của nàng, xác nhận nàng ly khai gia gia nàng trong thời gian sau nầy.
Đoạn, nàng cau mày lẩm nhẩm:
– Những người đó từ lâu rồi, chẳng hề giao du với Gia gia tôi ... họ có điều chi thỉnh cầu nơi người chứ? Trừ ra trong bọn họ, có kẻ trúng độc, nên tìm Gia gia tôi, nhờ giải cứu ...
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Có thể như vậy lắm, cô nương ạ!
Y đắn đo một chút, hỏi tiếp:
– Thế cô nương có biết lịnh tôn hiện giờ ở đâu chăng?
Trương Thanh nhếch nụ cười khổ:
– Tôi cũng chẳng hiểu đích xác cho lắm, Lưu đại ca ạ. Cư sở của chúng tôi, trải qua mấy thế hệ rồi, vẫn ở tại Bắc Thiên Sơn, có thể là thời gian sau nầy người bận xuất ngoại, đến một nơi nào đó, cho nên kẻ được Phi Lạc Đà sai phái đến Bắc Thiên Sơn lấy những tín vật của Quan đại ca được dễ dàng như vậy. Nếu gia gia tôi có mặt, thì đã chắc gì kẻ đó thành công?
Quan Sơn Nguyệt vụt hỏi:
– Lưu huynh có biết là những người trong các bang phái đang tìm gặp Trương lão tiền bối đó, có người nào thuộc về một bang phái nào ở gần đây nhất chăng?
Lưu Tam Thái trầm ngâm một chút:
– Ở gần đây nhất, là Vô Cực Kiếm Phái. Mới hôm nào người con gái của Âm Tố Quân, Chưởng môn nhân kiếm phái đó là Âm Trưởng Hoa, có nghỉ chân tại khách sạn của tại hạ, nàng cho biết là đã cất công tìm Trương đại hiệp khắp nơi, song vô hiệu quả.
Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên:
– Chúng ta còn thừa độ mươi ngày, trước khi đến nơi ước hẹn với Phi Lạc Đà, mình nên thừa dịp nầy, tìm hiểu thêm một vài chi tiết, rất có thể hữu ích về sau ...
Trương Thanh cũng muốn biết những người đó tìm gia gia nàng để làm gì, nên tán đồng dự định của Quan Sơn Nguyệt liền.
Bành Cúc Nhân cũng không có lý do gì ngăn trở, phải xuôi theo ý của cả hai.
Được tham gia vào một công tác do Quan Sơn Nguyệt điều động, Lưu Tam Thái cao hứng vô cùng. Y ân cần mời mọi người dùng bữa, rồi ai về phòng nấy an nghỉ, chờ đến hôm sau, sắp xếp cuộc hành trình.
Sáng sớm hôm sau, Lưu Tam Thái đã chuẩn bị sẵn sàng bốn con ngựa tốt, trước khi bọn Quan Sơn Nguyệt thức dậy.
Mọi vật cần thiết, y cũng trang bị đầy đủ, xong đâu đấy, y mới đánh thức bọn Quan Sơn Nguyệt, dọn điểm tâm cho tất cả dùng, để kịp lên đường trước lúc thái dương lên cao.
Thấy hành trang và cước lực đã sẵn sàng, Quan Sơn Nguyệt mỉm cười hỏi:
– Lưu huynh cũng muốn đi theo tại hạ nữa sao?
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Bình sanh, tại hạ có một sở thích, là muốn biết mọi diễn tiến trên giang hồ, do đó mới mở ngôi khách sạn này, nghinh đón hào kiệt bốn phương, tất cả đều cho tại hạ biết những gì đã xảy ra trong giới vũ lâm. Nếu có một cơ hội nào thu thập được một tin tức quan trọng, nhất định là tại hạ không thể bỏ qua được rồi.
Cho nên, tại hạ mạn phép Lệnh Chủ, chuẩn bị một cuộc đồng hành, mong rằng Lệnh Chủ chẳng nở từ chối ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười lớn:
– Lưu huynh có nhiệt tâm đối với sinh hoạt của giang hồ, như vậy là điều đáng ngợi chứ, tại hạ làm sao hiềm tỵ một chủ trương hào hiệp? Ngày sau, nếu Lưu huynh khai môn lập phái, hẳn sẽ làm thỏa mãn mọi người, nếu ai ai cũng có thiện chí như Lưu huynh, thì thật là điều đáng mầng cho vũ lâm đó!
Lưu Tam Thái nghiêm sắc mặt, nói:
– Trong tương lai, chưa biết sự tình sẽ biến chuyển như thế nào, giả như tại hạ được toại nguyện trên đường tiến thủ, chắc chắn là phải cần có sự trợ giúp lớn lao của Lệnh Chủ vậy! Ngay từ bây giờ, để đáp lại thịnh tình của Lệnh Chủ hạ cố đến tại hạ, tại hạ hứa là có thể làm bất cứ điều gì cho Lệnh Chủ sai khiến, dù có phải làm thân trâu ngựa, tại hạ cũng vui vẻ mà làm ...
Thấy Lưu Tam Thái nói quá lời, Quan Sơn Nguyệt áy náy không yên tâm, sợ y nói nhiều nữa, chàng vội chận lại:
– Lưu huynh quan trọng hóa vấn đề rồi! Chúng ta tuy bình thủy tương phùng, song tâm đầu ý hợp, vậy chẳng nên dùng lời quá đáng với nhau mà thành mất tự nhiên. Bằng hữu kết giao, quý hồ trọng ở tín thành, trong tương lai, giả như Lưu huynh có cần đến tại hạ thì tại hạ nguyện đem hết sức mình, tương trợ lẫn nhau, để đáp lại phần nào sự tri ngộ hôm nay!
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Chấp chưởng Minh Đà Lệnh, bất quá tại hạ vâng theo di huấn của ân sư, chứ riêng tại hạ chẳng hề tham vọng cái ngôi Lệnh Chủ, chỉ mong tại hạ không làm gì bại hoại thinh danh của ân sư là đủ.
Lưu Tam Thái mong mỏi một ngày nào đó, Quan Sơn Nguyệt sẽ chấn chỉnh môn phái Minh Đà, và y sẽ xin chàng thu nhận vào hàng môn đệ, chứ riêng y thì làm sao dám mơ tưởng đến việc tự khai sáng một giáo phái? Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt nói như thế, y thất vọng vô cùng. Y trầm ngâm một lúc lâu, rồi thở dài, thốt:
– Lệnh Chủ quá khiêm tốn, chứ như tài nghệ đó, Lệnh Chủ thừa sức làm rạng rỡ môn phái, dù sao thì trong tương lai, vũ lâm còn ỷ vọng nơi Lệnh Chủ trong cuộc hưng chánh, diệt tà. Lệnh Chủ không thể nào bàng quan tọa thị được đâu! Với cái thế chẳng đặng đừng, Lệnh Chủ phải có một lực lượng làm hậu thuẫn, dù muốn dù không, Lệnh Chủ cũng phải tái lập môn phái.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, lắc đầu:
– Chắc không có việc lập môn phái đâu, Lưu huynh! Mà thôi, mình bỏ qua việc xa vời đó đi, hãy nghĩ đến cái gì rất gần trước hết!
Cả bọn lên đường.
Dĩ nhiên, Lưu Tam Thái lãnh nhiệm vụ hướng đạo, con đường Cam Lương, y thuộc nằm lòng, nên đoàn người cứ thẳng tiến, không cần phải hỏi thăm ai.
Từ Lương Châu đến Âm Sơn, đi ngựa chỉ mất hai ngày đường. Họ đi trọn ngày đó, đến đêm xuống, họ dừng chân tại một khách sạn.
Lưu Tam Thái là nhân vật hữu danh trong vùng, nên được người trong khách sạn nghinh đón hết sức long trọng.
Họ chưa kịp nghỉ ngơi, khách giang hồ tại địa phương nghe tin Lưu Tam Thái có mặt tại thị trấn, cùng nhau kéo đến chào mầng. Những vị hào kiệt đó, từng có đi lại với Song Anh Tiêu Cục, đã biết biến cố xảy ra cho đoàn bảo tiêu dưới quyền hộ tống của Tôn Thất, nên nhân dịp nầy họ hỏi Lưu Tam Thái cho biết sự tình.
Đồng thời họ cũng có nghe Minh Đà Lệnh Chủ tái nhập giang hồ, nhưng họ không hề tưởng là Quan Sơn Nguyệt có mặt trong đoàn người. Cho nên, họ thấy Quan Sơn Nguyệt, cứ tưởng đâu là một bằng hữu của Lưu Tam Thái.
Mà Lưu Tam Thái đã được Quan Sơn Nguyệt dặn riêng rồi, đừng bao giờ tiết lộ hành tung của chàng. Do đó, Lưu Tam Thái không giới thiệu các vị hào kiệt tại vùng nầy với Quan Sơn Nguyệt, y chỉ đề cập đến việc Tôn Thất bị cướp thôi.
Quan Sơn Nguyệt đối đáp qua loa với các vị khách của Lưu Tam Thái, rồi cáo từ về phòng, trò chuyện với Bành Cúc Nhân và Trương Thanh.
Không lâu lắm, Lưu Tam Thái trở vào, tìm Quan Sơn Nguyệt, thần sắc của y thê thảm vô cùng, đi theo y còn có Tôn Thất.
Tôn Thất không theo đoàn, vì bận tải bạc về đến Song Anh Tiêu Cục, chẳng rõ có việc gì, đột nhiên hắn lại đến đây ...
Tôn Thất vừa trông thấy Quan Sơn Nguyệt, vội bước tới trước mặt chàng, quỳ xuống lạy liền. Hắn khóc ngất lên, thốt qua nức nở:
– Lệnh Chủ ơi! Xin Lệnh Chủ thương tình tại hạ, ra tay báo thù cho hai vị chủ nhân của tại hạ!
Quan Sơn Nguyệt thấy hắn sụp lạy, đã kỳ quái rồi, bây giờ nghe hắn nói thế, chàng càng kỳ quái hơn nữa, hỏi gấp:
– Việc gì đã xảy ra, hở Tôn huynh? Hai vị chủ nhân của Tôn huynh làm sao?
Tôn Thất lấy trong chiếc bao bố ra hai tấm lệnh bài, dấu máu còn ràng ràng.
Hai chiếc Phi Đà Lệnh!
Chàng biến sắc mặt, hỏi:
– Song Anh nhị vị Tiêu Cục trưởng đã ngộ hại?
Tôn Thất càng khóc lớn hơn:
– Hai vị chủ nhân của tại hạ đều bị Phi Lạc Đà sát hại rồi, Lệnh Chủ ơi!
Hắn dùng lệnh bài nầy, giết cả hai!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Hai vị chủ nhân của Tôn huynh bị giết tại đâu?
Tôn Thất dịu cơn bi thảm để trình bày sự tình:
– Tại quận thành Võ An.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Võ An Quận? Tiêu Cục Song Anh có cơ sở chánh tại Lạc Dương kia mà?
Làm sao họ bị giết tại Võ An quận cho được?
Tôn Thất giải thích:
– Sau khi tại hạ rời Tiêu Cục hai ngày, hộ tống đoàn bảo tiêu đến địa điểm do người thuê đã chỉ, thì tại Tiêu Cục, hai vị chủ nhân tiếp được một phong thơ của Phi Lạc Đà, báo tin là sẽ đánh cướp đoàn bảo tiêu dọc đường, đoạt lấy số bạc. Hai vị chủ nhân lo sợ vội lên đường đuổi theo bọn tại hạ, hầu tìm cách bảo vệ bọn tại hạ nếu có điều bất trắc xảy ra. Ngờ đâu, cả hai vừa đến quận Võ An thì gặp Phi Lạc Đà! Mấy tên gia nhân do tại hạ sai phái về Lạc Dương, báo cáo tình hình với chủ nhân, lại gặp hai vị chủ nhân tại Võ An quận!
Hắn lại khóc, một lúc lâu mới tiếp:
– Gặp xác chết của hai vị chủ nhân đúng hơn!
Hắn lại rên rỉ:
– Lệnh Chủ ơi! Hai vị chủ nhân của tại hạ chết oan uổng vô cùng! Xin Lệnh Chủ vì lòng nghĩa hiệp, ra tay báo thù cho họ, họ từ nơi suối vàng, sẽ hướng vọng về dương trần, cảm kích ơn trọng của Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt luôn luôn cau mày, tỏ vẻ hết sức quan tâm đến sự việc.
Suy nghĩ một lúc, chàng thốt:
– Báo thù! Đương nhiên là tại hạ sẵn sàng giúp các hạ, bởi phận sự con nhà võ, là phải trừ hung, diệt bạo, cứu thế, độ nhân, phàm ai đã xuất thân hành hiệp trên giang hồ, gặp sự bất bình tức phải ra tay san bằng, đem lại an ninh cho đồng loại. Tuy nhiên, trước khi tại hạ can thiệp vào vụ, ít nhất phái Chung Nam cũng phải lên tiếng trước. Bởi, hai vị tiêu cục trưởng Tiêu Cục Song Anh là người trong phái Chung Nam. Theo quy củ giang hồ thì phần chánh sự việc phải do phái Chung Nam định đoạt. Còn như tại hạ, bất quá chỉ là kẻ đứng ngoài lề, nếu có can thiệp thì cũng chỉ nhân danh công đạo mà can thiệp, chứ không thể xem mình như một đương sự chánh mà đương đầu với Phi Lạc Đà.
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tôn huynh nên tìm đến Lữ Vô Úy trước, trình bày sự tình với lão ấy, yêu cầu lão xuất đầu lộ diện, phần tại hạ thì thừa cơ hội giúp giật bên ngoài, chứ thực sự thì tại hạ đâu có tư cách gánh vác trọn vẹn công cuộc đối phó với Phi Lạc Đà!
Phi Lạc Đà vấn nạn thì sao? Chung Nam phái vấn nạn thì sao? Tại hạ can thiệp trong khi Chung Nam phái chưa can thiệp có khác nào tại hạ vũ nhục phái đó, cho rằng phái đó bất lực hoặc khiếp nhược?
Tôn Thất vừa khóc vừa nói:
– Cứ theo lời những kẻ tùy hành hai vị chủ nhân, thì trước khi chết cả hai có nói rằng, hung thủ có vũ công rất cao, chỉ sợ Lữ chưởng môn không làm gì nổi hắn! Hai vị chủ nhân có ước ao, phải chi gặp được Lệnh Chủ trước giờ nhắm mắt, yêu cầu Lệnh Chủ ra sức báo thù, được như vậy may ra họ mới ngậm cười nơi chín suối!
Hắn dừng lại một chút, lại tiếp luôn:
– Làm gì có sự tấu xảo ly kỳ xui khiến cho họ gặp Lệnh Chủ một cách bất ngờ? Cho nên, tại hạ thể theo nguyện vọng của họ trong giờ phút cuối cùng, tìm đến Lệnh Chủ, mạo muội van cầu Lệnh Chủ sẵn sàng xuất thủ trừ diệt kẻ bạo tàn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Tôn Thất lại gào lên:
– Huống chi, cái chết của hai vị chủ nhân tại hạ, có liên quan phần nào với Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Liên quan đến tại hạ? Làm gì có việc kỳ lạ như thế?
Tôn Thất gật đầu:
– Thực ra, thì có thể là hai vị chủ nhân tại hạ chưa đến đổi phải bị giết. Họ vừa đến quận Võ An, Phi Lạc Đà xuất hiện bảo với họ rằng, số bạc bảo tiêu đã bị hắn đoạt rồi, song nể tình Lệnh Chủ hắn trả lại, tuy nhiên, hắn không khi nào chịu xuất trận vô công, số bạc đã được trả lại, thì hắn phải giết người bù vào. Có lẽ sau khi rời khách sạn Lưu Tam Thái, Phi Lạc Đà đi thẳng đến quận Võ An ...
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Đáng ghét cái gã Phi Lạc Đà thật! Khiếp nhược đến thế là cùng! Sợ tại hạ, chẳng dám làm chi tại hạ, lại quay về những người vô cô mà thị oai, mà tác ác!
Đúng là một con người ti bỉ cực độ!
Bành Cúc Nhân cười nhẹ:
– Không phải người ta khiếp nhược, chẳng dám tìm đến Lệnh Chủ đâu! Bất quá, thời gian đương đầu với Lệnh Chủ chưa đến đấy thôi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Nhất định là trong vòng một tháng nữa, tại hạ sẽ lấy mạng hắn tại Đại Tán Quan! Tại hạ sẽ bêu xác hắn đúng trăm ngày, cho hào kiệt giang hồ thấy rõ gương mặt một ác quỷ chuyên cười trên xương máu kẻ thiện lương!
Bành Cúc Nhân lại cười:
– Già chỉ sợ sự tình không được giản đơn như Lệnh Chủ muốn!
Cứ mỗi lần chàng hằn học, chàng phát cáu, là y như Bành Cúc Nhân phá mất cái hứng của chàng.
Tại sao? Bà muốn mài giũa bớt cái tính khí quá sôi động của chàng chăng?
Bà muốn chàng trầm tịnh hơn, đừng quá lộ liễu cảm nghĩ qua mỗi sự việc chăng?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn bà. Chàng không tin là chàng không thành công. Phi Lạc Đà bất quá chỉ là người trong lứa tuổi của chàng, chứ nào phải là hàng tiền bối, trưởng thượng chi, có nhiều năm tu vi tạo nên một công phu thâm hậu mà chàng phải ngán? Chàng tin rằng, khó mà chàng thất bại nơi tay những người xấp xỉ niên kỷ với chàng. Và chàng tưởng tượng là có thể thắng Phi Lạc Đà.
Cho nên, chàng không hiểu Bành Cúc Nhân có dụng ý gì lại thốt lên một câu, gần như khinh thường chàng. Giả như, nếu Bành Cúc Nhân không phải là người cùng đi chung một đoàn với chàng, chắc chắn là chàng đã sừng sộ rồi.
Biết rõ Quan Sơn Nguyệt bất bình trước câu nói hàm cái ý hoài nghi về tài năng của chàng, Bành Cúc Nhân điềm nhiên tiếp:
– Già nói như vậy, chẳng phải có ý chí không đẹp đâu, chẳng qua già muốn nhắc nhở Lệnh Chủ nên cẩn thận trong mọi việc, dù mình nắm cái cơ tất thắng trọn vẹn, cũng phải hết sức thận trọng khi hành động, vì chẳng ai biết trước những bất ngờ tai hại có thể chờ đợi ta. Già cảnh cáo Lệnh Chủ một việc, là khi Phi Lạc Đà dám thách thức Lệnh Chủ, và hẹn ngày giao đấu, hẳn nhiên hắn có chỗ nương cậy vững vàng. Chẳng phải vì hắn có chỗ nương cậy vững vàng đó mà già dám đoán là Lệnh Chủ bại. Già muốn Lệnh Chủ đề phòng một cạm bẫy do hắn giương ra trong ngày đó. Rất có thể như vậy lắm, Lệnh Chủ ạ!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn day qua Tôn Thất, vẫy tay:
– Tạm thời, các hạ hãy về phòng nghỉ ngơi đi, việc đó rồi chúng ta sẽ thương nghị lại. Dù sao thì Phi Lạc Đà cũng chẳng có mặt tại đây, chúng ta muốn làm chi hắn cũng phải đợi đến lúc gặp hắn mới được chứ. Giả như muốn tìm hắn, ít nhất cũng phải biết hắn ở tại địa phương nào, chẳng lẽ chúng ta đi khắp bốn phương trời, tháng nầy qua năm kia, tìm một cánh chim lạc lõng trong vòm trời đất bao la? Huống chi, muốn làm chi, cũng phải đợi sau ngày ước hội của tại hạ với hắn, tại Đại Tán Quan. Một ngày nào đó, tại hạ sẽ làm một cái gì, cho Tiêu Cục trưởng Song Anh được hả dạ nơi suối vàng. Các hạ yên trí.
Tôn Thất tạ ơn, lui ra. Hắn không lưu lại khách sạn, hắn liền trong đêm đó, trở về Lạc Dương, lo mai táng hai vị Tiêu Cục trưởng.
Tôn Thất đi rồi, Lưu Tam Thái hỏi:
– Mình nên đến Âm Sơn hay không, Lệnh Chủ?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại sao không đi? Chẳng có lý do gì chúng ta phải bỏ dở ý định đó?
Lưu Tam Thái chỉnh nghiêm gương mặt:
– Vừa rồi, tại hạ bắt được một cái tin. Theo tin đó thì Âm Tố Quân đã triệu tập một số đông hảo thủ trong bang, chuẩn bị hạ sơn như đoàn quân sắp sửa viễn chinh vậy. Song, ở đây, Âm Tố Quân chẳng phải xuất quân mở một chiến dịch nào cả, mà chính là để nghinh đón chúng ta.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Tại sao lại có việc đó?
Lưu Tam Thái ấp úng:
– Tại hạ không rõ lắm, song có thể đoán là vì Trương cô nương mà họ đến.
Trương Thanh vội hỏi:
– Người họ muốn tìm, là Gia gia tôi, chứ tôi có can gì mà họ phải nghinh đón?
Lưu Tam Thái xoa hai tay vào nhau, tỏ vẻ lúng túng:
– Tại hạ cũng chẳng hiểu rõ lắm, cô nương. Bất quá, họ kéo toàn lực đến đây, và chừng như cái ý của họ không lành ...
Quan Sơn Nguyệt lại «hừ» một tiếng:
– Kỳ quái! Kỳ quái thật! Chẳng biết hiện giờ họ đi đến đâu rồi?
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Họ gồm toàn nữ nhân, tất họ đi kiệu, như vậy chắc họ đi không nhanh được. theo sự tính toán của tại hạ, thì độ chiều mai, họ sẽ đến đây ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Sự thật như vậy sao? Người trong phái Âm Sơn đều là nữ nhân cả sao?
Bình sanh, tại hạ chưa hề nghe nói đến họ. Năm xưa, ân sư có tra phỏng tất cả các phái trên giang hồ, song người chẳng đề cập đến họ ...
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Phái Âm Sơn chỉ thành lập được mười năm thôi. Phái đó được thành lập sau ngày Độc Cô tiền bối quy ẩn, đương nhiên Độc Cô tiền bối không hề biết.
Thực sự thì họ cũng chẳng đáng gì được gọi là một môn, một phái, bởi những đệ tử của Âm Tố Quân chỉ là những kẻ thân thích của bà ta, họ chuyên luyện «Vô Cực Kiếm Pháp», họ đóng cửa dạy nhau, chưa tiếp xúc với giang hồ, cho nên ít có người biết đến họ. Bởi tại hạ mở ngôi khách sạn, khách giang hồ qua lại, thường dừng chân, con gái của Âm Tố Quân là Âm Trưởng Hoa, nghĩ không nơi nào thuận tiện dò la tin tức hơn là tại ngôi khách sạn của tại hạ, do đó thỉnh thoảng nàng đến hỏi tại hạ chuyện nầy chuyện nọ. Nhờ thế, tại hạ mới biết được gần đây trên giang hồ, có một môn phái mới.
Quan Sơn Nguyệt trầm lặng giây lâu, đoạn thốt:
– Được rồi! Thế là đành đêm nay chúng ta bỏ ngủ. Chúng ta lập tức lên đường, đón đầu họ trước khi họ đến đây. Tại hạ muốn biết họ có ý tứ gì định đến tận nơi nầy, tìm Trương muội, lại kéo rốc chủ lực mà đến như thế!
Lưu Tam Thái lo lắng:
– Nhưng Lệnh Chủ cũng nên bình tĩnh, đừng vội giao thủ với họ. Nên đợi tại hạ giáp mặt Âm Trưởng Hoa rồi nghe nàng giãi bày như thế nào, sau đó mình sẽ quyết định nên hòa hay nên chiến. Bởi ...
Y dừng lại một chút, hơi do dự, sau cùng tiếp luôn:
– Xảy ra xung đột, Lệnh Chủ thì chẳng làm sao, chứ phần tại hạ dù gì cũng phải ngán họ, tại hạ chẳng muốn sanh thù chuốc oán đối với họ.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thì cũng tại Lưu huynh đòi đi theo! Đi theo tại hạ là luôn luôn có nhiệt náo, là luôn luôn có phiền phức. Đi theo tại hạ thì còn hy vọng an phận thủ trường làm sao được? Phải biết cây muốn lặng, song gió không ngừng, mình tránh người, mà người tìm mình, thiết tưởng chẳng còn cách nào hơn là cứ thẳng đường mà tiến!
Quan Sơn Nguyệt nói:
– Tuy nhiên, Lưu huynh yên trí, tại hạ chẳng phải là con người thích gây sự.
Và việc dụng võ bao giờ cũng bất tường, nếu người ta hòa dịu với mình, thì tự nhiên mình phải giữ lễ độ đối với người ta, trừ khi nào họ dồn mình sát chân tường, thì đến lúc đó dù muốn dù không, mình cũng phải dành một thế đứng, bởi trên đời nầy, có ai không thích sống?
Chàng vừa nói xong câu đó, bỗng một tiếng rầm vang lên, chấn động cảnh tịch mịch đêm trường.
Cánh cửa phòng bật mở tung, một nữ nhân có thân vóc cao xuất hiện nơi khung cửa. Tay cầm trường kiếm, nữ nhân đó hoành ngang ngọn kiếm, mặt lộ sắc giận hầm hầm, trầm giọng hỏi:
– Gã nam nhân hôi thúi kia, ngươi vừa nói gì bọn ta? Có can đảm, hãy bước ra đây! Bổn cô nương sẽ cho ngươi một bài học!
Lưu Tam Thái giật mình, quay nhìn lại, thấy nữ nhân, vội kêu lên:
– Âm cô nương! Cô nương đến đúng lúc quá chừng! Bọn tại hạ đang nghĩ là ...
Nữ nhân quét mũi kiếm qua một vòng, quát chận:
– Lưu Tam Thái! Bây giờ, ta mới biết ngươi là một kẻ giảo hoạt phi thường!
Lần trước, ta hỏi ngươi về con bé họ Trương, ngươi bảo là ngươi chẳng hiểu chi hết. Bất ngờ hôm nay ta gặp ngươi, ngươi lại mang nó cùng theo, ngươi còn đưa đường bọn nó đến Âm Sơn! Thế ngươi muốn sanh sự với bọn ta phải không?
Cho ngươi biết, cái tin do ngươi thu nhặt vừa rồi đó, chính ta ra lịnh tiết lộ cho ngươi biết, sự thực thì ta đã đến đây từ lâu rồi!
Lưu Tam Thái chẳng biết phải mở miệng nói gì.
Trương Thanh vội bước tới, hỏi:
– Các vị định tìm tôi, để chỉ giáo điều chi?
Nữ nhân cười lạnh:
– Ngươi đừng vờ ngây thơ nữa, cô bé! Việc gì Gia gia ngươi đã làm, chẳng lẽ ngươi không biết? Gia gia ngươi là kẻ bại hoại nhất đời, hành động đê hèn, trên giang hồ không còn ai không biết? Ngươi khéo vờ vĩnh thì thôi!
Trương Thanh tái mặt. Bỗng dưng, nữ nhân từ đâu đến, vừa gặp nàng là mắng nặng gia gia nàng. Giận quá, nàng không nói năng gì được, nhún chân lao vút mình tới, đưa tay ra, ngón tay chọt thẳng vào vai nữ nhân, định điểm vào huyệt Kiên tỉnh của nữ nhân.
Nữ nhân, chính là Âm Trưởng Hoa, khẽ nghiêng vai, né tránh, đồng thời hoành kiếm lấy thế, đâm thẳng tới ngực Trương Thanh.
Ngày nay, Trương Thanh đã tiến bộ phi thường, nhờ cha trau dồi một căn bản vững chắc, nàng lại được Tuyết Lão Thái Thái hết lòng chỉ dạy suốt một năm dài, tài nghệ của nàng siêu việt lắm rồi. Đánh hụt chiêu đầu, trước thế kiếm thần tốc của đối phương, nàng không nao núng, xoay bàn tay, ngoặc xuống một chút, cong một ngón búng mạnh vào thân kiếm.
Trường kiếm bị ngón tay nàng chạm phải, dội ngược trở lại.
Đánh bạt thanh kiếm ra ngoài rồi, Trương Thanh nhít bàn tay lên tiếp tục điểm huyệt.
Âm Trưởng Hoa không phản công kịp, cấp tốc lùi lại một bước, đoạn hét:
– Con tiện tỳ có giỏi, cứ bước theo ta ra ngoài kia mà so tài!
Thốt xong, nàng vọt đi liền.
Trương Thanh không chậm trễ, phi thân đuổi theo.
Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân cấp tốc theo ra. Lưu Tam Thái cũng nôn nóng, muốn biết sự tình sẽ kết thúc như thế nào, cũng theo ra luôn.
Bất quá, y cố ý chậm lại một chút, như tỏ vẻ theo ra để chứng kiến một cuộc so tài, chứ chẳng phải đứng về cánh của Quan Sơn Nguyệt để chống đối lại bọn Âm Trưởng Hoa.
Khi ra đến nơi, nơi đó là một sân rộng, y trông thấy bọn y phục đen, bao vây bên ngoài. Bọn áo đen gồm toàn nữ nhân, nàng nào cũng thủ trường kiếm.
Ngoài xa xa, còn có bốn nữ nhân khác, cũng y phục đen, niên kỷ cao hơn bọn kia. Cả bốn cũng thủ trường kiếm, hờn sẵn, nếu đồng bọn trong nhà thất cơ, họ sẽ vào cuộc, tiếp trợ liền.
Lưu Tam Thái thực ra chẳng phải sợ gì khi bị nghi ngờ là đồng cánh với bọn Quan Sơn Nguyệt. Chẳng qua, y muốn đóng vai kẻ bàng quan, ít nhất cũng trong lúc này để mong tìm cách hòa giải song phương đi đến chỗ quá khích. Y nghĩ, nếu bên kia thấy y đứng chung với bên này thì khi nào y nói cho bên này mà bên kia chịu nghe, dù y nói phải?
Mọi sự việc trên đời, nếu có thất bại, phần lớn do thiên kiến mà ra cả. Có thiên kiến là nông nổi, do nông nổi mà hành động kém sáng suốt, thường thường sai lầm.
Bây giờ, y thấy song phương khai chiến thực sự lại ác liệt, y vội lướt tới, đưa cao tay khoát nhanh gọi gấp:
– Các vị đừng lầm! Xin song phương cùng dừng tay lại, có lời gì cứ nói với nhau, giải thích cho nhau hiểu! Cần chi phải động thủ?
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên như thường.
Một thiếu phụ áo đen chừng như nóng nảy hơn các người kia, cao giọng nói :
– Trưởng Hoa! Tiểu tử đó là ai thế?
Bà ấy hỏi, chẳng phải hỏi về Quan Sơn Nguyệt mà chính là bà hỏi Lưu Tam Thái, bởi y vừa lên tiếng giải hòa song phương.
Quan Sơn Nguyệt không tỏ thái độ như thế nào, chính bà lại nóng biết Lưu Tam Thái can thiệp với tư cách gì, với lý do gì?
Vừa giao đấu với Trương Thanh, Âm Trưởng Hoa vừa nhìn thoáng qua Lưu Tam Thái, điểm phớt một nụ cười, đáp:
– Hắn là Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái đấy, tại đất Lương Châu hắn cũng có chút danh phận! Nơi đó người ta cho hắn là một bá chủ địa phương. Mọi sự tranh chấp tại đó đều do hắn phán quyết!
Lưu Tam Thái thẹn đỏ mặt, nhưng thẹn mà tức chứ chẳng phải thẹn mà khiêm nhượng. Y biết rõ Âm Trưởng Hoa mỉa mai y, cho rằng y xưng hùng xưng bá tại Lương Châu, y hay gánh vác việc người. Như vậy, nàng cho rằng y là người thích sanh sự, và rất có thể sự tình hôm nay, nàng cũng cho là y tạo nên!
Y phẫn nộ thấy rõ, nghiêm sắc mặt, cao giọng đáp:
– Âm cô nương. Tại hạ bất quá là một tiểu tốt vô danh đứng trong hàng ngũ khách giang hồ, có oai vọng gì đâu, cô nương nói thế hẳn mỉa mai tại hạ rồi đó!
Âm Trưởng Hoa bất cố, mặc y nói chi thì nói, không buồn cãi vả.
Thiếu phụ áo đen cười lạnh, hất hàm nạt:
– Bước đi chỗ khác gấp! Ai cho phép ngươi can dự vào hành động của bọn ta?
Đã cố ý xử nhũn, đã quyết tâm đem lại hòa khí giữa song phương, người ta chẳng những không tiếp nhận thiện chí của y trái lại còn tỏ thái độ ngạo mạn, chẳng xem y ra quái gì. Lưu Tam Thái dù kiên nhẫn đến đâu cũng không tránh khỏi nổi giận.
Giữa song phương, nếu có cảm tình với một bên, bên đó hẳn là phía Quan Sơn Nguyệt rồi, tuy không cảm tình với bọn Âm Sơn Phái, Lưu Tam Thái cũng chẳng muốn sanh mối bất hòa. Bây giờ, người ta phủ nhận y hết sức sỗ sàng, chán chường thì y còn ngại gì mà không ra mặt đứng hẳn về cánh Quan Sơn Nguyệt?
Lập tức, y rút soạt thanh Thất Tinh Đao giắt nới lưng, cầm tay, thanh đao từng giúp y tạo một thế đứng giữa dòng đời. Y ngẩng cao mặt nhìn sang thiếu phụ, từ từ bước tới, trầm nghiêm giọng hỏi:
– Bà là người chi trong Âm Sơn Phái?
Thiếu phụ khinh thường y thấy rõ, không buồn nhìn đến nửa mắt. Dĩ nhiên, bà không đáp.
Âm Trưởng Hoa cười lạnh cất tiếng:
– Lưu Tam Thái! Ngươi đúng là một kẻ hữu danh vô thực! Lạm xưng là anh hùng tại dất Cam Lương thế mà đến cả mẫu thân ta, ngươi cũng chẳng nhận ra!
Âm Sơn Phái là một danh từ mới, chứ trước kia thì phái đó lấy cái tên là Vô Cực, dựa vào tuyệt kỹ «Vô Cực Kiếm Pháp» mà thành danh. Cho nên, thỉnh thoảng, Lưu Tam Thái cũng gọi là Vô Cực Phái. Y không tưởng thiếu phụ áo đen đó lại là Âm Tố Quân, Chưởng môn nhân Vô Cực Phái.
Y không biết cũng phải, bởi Âm Tố Quân không thường xuất ngoại, hầu hết hào kiệt trên giang hồ chẳng một ai biết mặt bà. Đương nhiên, y cũng chưa từng gặp bà lần nào. Y giật mình, hơi chùn lòng. Bao nhiêu khí khái vừa bộc lộ, y vội thu lại, rồi cung kính vòng tay thốt:
– Thì ra phu nhân là Âm Chưởng môn! Tại hạ biết mình là một tiểu tốt vô danh, từ bao lâu nay, giữ ý không dám làm điều chi đắc tội với quý phái, lịnh ái làm Âm Trưởng Hoa cô nương từng dừng chân tại khách sạn của tại hạ, tại hạ vẫn một mực ân cần nghinh tiếp. Thiết tưởng tại hạ đối xử với người trong quý phái như vậy, kể cũng tất tình rồi, phu nhân không nên buông lời phủ phàng như vậy, đối với tại hạ ...
Âm Tố Quân nhướng cao đôi mày:
– Thế ta phải ăn nói với ngươi như thế nào?
Giọng nói của bà vừa lạnh, vừa mỉa mai.
Lưu Tám Thái đã quyết định lấy thái độ đối lập rồi, vẫn phải rùng mình. Tuy nhiên, y không thể đổi tư thế được, chọn vị trí rồi là phải giữ đúng vị trí đó. Y nghiêm giọng đáp:
– Chưởng môn là người có thân phận cao trong võ lâm, Chưởng môn là hàng cao thủ thượng đỉnh trên giang hồ. Thiết tưởng dù sao phu nhân cũng nên theo quy củ mà dùng cái sáo thông thường, tuy không thành thật, song cũng nhã hơn!
Âm Tố Quân cười lạnh:
– Ta không là người trong vũ lâm, ta không là khách giang hồ, bình sanh không thích xuôi ngược bôn ba khắp hang cùng ngõ hẻm, tìm chút lợi, chút danh, cho nên ta chẳng biết thế nào là quy củ giang hồ. Cứ như sự việc vừa diễn tiến, thì chừng như ta có tội với Lưu đại anh hùng. Chẳng hay, đắc tội như vậy thì ta phải làm sao chuộc tội?
Bà cuồng ngạo quá chừng!
Ai nghe giọng nói đó của bà mà chẳng bực tức? Dù có ngán bà đến đâu, con người quá bực tất phải nổ. Thà liều nổ, chết sướng hơn là sống mà không tiêu hóa nổi sự khinh miệt của bà.
Nếu Lưu Tam Thái có là gỗ, là đất, y vẫn bị khích động như thường. Y khoa thanh Thất Tinh Đao một vòng, đoạn cao giọng thốt:
– Vô Cực Kiếm Phái nào phải là một danh môn, chánh phái chi đó mà phu nhân cao mặt? Tại hạ bất quá lấy lễ độ đối xử với đời, tại hạ kính nể phu nhân là vì lễ độ, chứ nào phải vì khiếp sợ đâu mà phu nhân được thể khinh thường tại hạ?
Nếu phu nhân cứ tưởng mình siêu việt, trên hẳn đồng đạo, thì tại hạ sẵn sàng lãnh giáo bậc kỳ tài!
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới chen vào câu chuyện. Chàng cười lạnh gọi Lưu Tam Thái:
– Lưu huynh! Vừa rồi, Lưu huynh khuyên tại hạ nên dùng lẽ phải mà giảng giải với nhau, không nên động thủ. Sao bây giờ Lưu huynh lại sôi động tính khí như thế?
Tuy chàng không trông thấy rõ mặt mày của Lưu Tam Thái lúc đó, vì đêm dù có trăng sao song hai người đứng cách xa xa, bóng tối cũng che khuất tầm mắt phần nào chàng vẫn hiểu rõ, gương mặt của Lưu Tam Thái hẳn đang nổi gân xanh chằng chịt.
Đúng vậy, y phẫn nộ cực độ, hét lớn:
– Tại hạ dù là kẻ bất tài, song đường đường cũng là một nam nhân, vóc cao bảy thước, há đi chịu nhục trước mặt một nữ nhân sao? Lấy cái lý mà giảng, họ không nghe, chỉ còn có cách là phải dùng biện pháp mạnh mà thôi!
Âm Tố Quân trầm gương mặt, lạnh lùng gọi:
– Nhị muội đâu? Gã đó ăn nói ngông cuồng, phạm thượng, gã cho rằng vóc cao bảy thước, vậy nhị muội hãy bước ra, chặt bớt một vài thước xem nào!
Một thiếu phụ đứng cạnh bà, cũng vận y phục đen, khẽ «vâng» một tiếng đoạn nhít động đôi vai, thân hình lập tức bay vọt tới. Đồng thời gian, bà ta quét qua một đường kiếm ngang chân Lưu Tam Thái.
Lưu Tam Thái vung tay, hoành đao vòng xuống thấp, quét trả lại.
Đao và kiếm chạm nhau, một tiếng «soảng» vang lên. Đao và kiếm còn nguyên vẹn, chẳng thanh nào gãy, kiếm ở tại chỗ, đao bật dội trở lại.
Lưu Tam Thái lùi hai bước. Như vậy là nội lực của y kém hơn thiếu phụ.
Tuy đánh ra một kiếm, đẩy bật đối phương lùi về phía hậu, thiếu phụ đó vẫn chưa hài lòng. Bà quyết phạt cụt đôi chân Lưu Tam Thái, song đánh hụt thành tức bực, bà «hừ» một tiếng, lập tức lướt theo.
Không đợi bà xuất thủ, Lưu Tam Thái khoa đao một vòng ngăn chận bà liền, không cho bà đến gần.
Nhưng, thiếu phụ quả là tay kiếm tuyệt luân, cùng một lúc, xuất phát hơn bốn chiêu. Tuy nhiên, Lưu Tam Thái hóa giải được hết.
Đứng bên ngoài, Âm Tố Quân thấy thiếu phụ chưa chiếm được tiên cơ, bà trầm giọng thốt:
– Trong vòng mười chiêu trở lại, nếu nhị muội không hạ được gã đó thì đừng mang họ Âm nữa, cho khỏi hổ mặt ta!
Thiếu phụ chấn động thần oai, vung kiếm vùn vụt. Bà nhập nội, quét kiếm hất thanh đao của Lưu Tam Thái bật ra ngoài, đồng thời dùng tay kia, chỉa thẳng một ngón điểm nhanh vào bên trên đầu gối y.
Lưu Tam Thái chưa kịp xoay tay đao trở lại phản công, bỗng nghe nhói ở đùi, chân nhũn lại, không còn tự chủ được nữa, ngã xuống.
Thiếu phụ cười lạnh, thu kiếm lui về, đứng bên cạnh Âm Tố Quân.
Âm Tố Quân bật cười khanh khách:
– Lưu đại anh hùng! Cái vóc bảy thước, sao chẳng dựng đứng nó lên, cho thiên hạ thấy nó cao như thế nào, lại co quắp mà nằm vạ trên mặt đất để làm gì chứ? Thân vóc đó xấu xí lắm sao mà phải thun lại nhỏ hẹp như sợ người trông thấy?
Lưu Tam Thái vừa thẹn vừa giận, thẹn đến tức uất người, song giận thì làm gì được ai, khi tài nghệ của y còn quá kém?
Thẹn quá thành quẩn trí, bất thình lình, y hoành đao, chong mủi ngay yết hầu. Y quyết tự sát.
Không tự sát thì còn làm gì hơn? Y không thể tiêu hóa nổi sự nhục nhã này và ngồi đó mà nghe những lời châm chích mỉa mai của đối phương.
Thanh đao nhít động, ánh đao chớp lên ...
Vừa lúc đó, một đạo kình lực lướt ngang qua mặt y, mũi đao dịch ra ngoài, thanh đao bị đoạt mất. Đồng thời gian, một bàn tay nắm vào lưng áo y, nhấc bổng y lên, bàn tay kia vừa đoạt đao, buông đao xuống, đập vào gối y hai lượt.
Lưu Tam Thái nghe nhói khắp thân mình, đang bất động vì bị điểm huyệt, y cử động được liền. Bất giác, y quay đầu nhìn lại.
Thì ra, người ngăn chận y tự sát và giải huyệt cho y chính là thiếu phụ đồng hành với Quan Sơn Nguyệt.
Lưu Tam Thái biết bà tên là Bành Cúc Nhân, Quan Sơn Nguyệt và Trương Thanh xưng hô bà là Bành đại nương, song y chẳng biết công lực của bà như thế nào.
Bây giờ, y mới nhận thức, bà cũng có vũ công cao siêu vô tưởng. Nếu không phải là tay thượng đỉnh, khi nào bà can thiệp kịp thời ngăn chận y tự diệt?
Bành Cúc Nhân nhặt thanh Thất Tinh Đao lên, trao cho Lưu Tam Thái rồi chỉnh nghiêm sắc mặt, thốt:
– Tài nghệ kém người, bại là cái chắc! Bại vì tài nghệ kém, nào phải là một sỉ nhục? Cứ mỗi lúc bại là mỗi lần nông nổi tìm cái chết như vậy thì còn gì là dũng khí của nam nhân? Phàm ai muốn đi đến thành công cũng trải qua thất bại cả, con đường cầu tiến có biết bao nhiêu chướng ngại vật? Mỗi cái thất bại làm một chướng ngại vật đó, phải vượt mọi chướng ngại mới đến cái đích mong muốn.
Nuôi tinh thần cầu tiến mà nông nổi với mỗi cái thất bại, cho bại là nhục thì còn đi đến đâu được?
Lưu Tam Thái đã thẹn vì nhục bại, bây giờ càng thẹn với cái ý đoản của mình! Nông nổi như vậy thì còn mặt mũi nào chen đứng giữa dòng đời?
Tuy nhiên, sự can thiệp của Bành Cúc Nhân, lời quở trách của bà, đều hàm ẩn cái ý xây dựng, y tỏ vẻ khuất phục, tiếp nhận thanh đao, đứng lặng đầu cúi xuống.
Dù muốn nói một tiếng gì, y cũng chẳng biết tiếng gì để nói. Bởi có ai tạ ơn trước sự quở trách của một người dù sự quở trách đó có cái ý xây dựng? Bất quá, người ta ghi nhận thôi chứ chẳng ai thốt thành lời.
Bành Cúc Nhân hướng sang thiếu phụ áo đen, lạnh lùng thốt:
– Người trên giang hồ, gặp nhau không hòa thì chiến, chiến thắng đối phương, nếu muốn cứ giết đối phương, chứ chẳng bao giờ nhơn cái thắng mà buông lời sỉ nhục đối phương. Xưa nay, kém tài là bại, hơn tài là thắng, lẽ thường như vậy, phu nhân thắng một Lưu Tam Thái, phu nhân lên mặt với y, song ngoài Lưu Tam Thái ra, còn nhiều người khác, liệu phu nhân có thắng nổi tất cả mọi người trong thiên hạ chăng? Giả như phu nhân bại, rồi bị người vũ nhục như vậy, phu nhân nghĩ thế nào? Lấy cái thế hơn, khinh miệt kẻ bị dồn vào cái thế kém, là hèn, là thiếu tư cách anh thư! Phu nhân giết hắn, ta chẳng hề lấy làm lạ, phu nhân làm nhục hắn, ta bất bình. Bất bình là phải can thiệp.
Bà dừng lại một chút, đoạn nghiêm giọng tiếp:
– Các vị chưa đủ tư cách làm một khách giang hồ, ta có bổn phận cảnh cáo các vị! Ai nghĩ rằng mình có tài, cứ vào đây, cùng ta đọ sức thử xem nào!
Bà cười mỉa, gằn giọng:
– Song trước hết, hãy xưng tên, bởi ta không thích đánh bại những kẻ không tên!
Thấy cái lối can thiệp, vừa ngăn chặn Lưu Tam Thái tự sát, vừa giải huyệt cho y do Bành Cúc Nhân biểu lộ, thiếu phụ áo đen có ý gờm. Gờm là phải do dự.
Trong phút giây, bà ấy chưa lấy thái độ kịp và bà cũng chẳng đáp tiếng nào.
Bà ấy còn im lặng, Âm Tố Quân lên tiếng thay:
– Được rồi! Ngươi sẽ được thỏa mãn!
Âm Tố Quân day qua thiếu phụ áo đen, trầm giọng hỏi:
– Nhị muội có nghe mụ ấy nói gì chăng?
Thiếu phụ áo đen giật mình, vội cao giọng thốt:
– Ta ấy à? Ta là Âm Thiết Quân, môn đệ Vô Cực Kiếm Phái!
Bành Cúc Nhân bật cười khanh khách:
– Tong mấy năm qua, ta vắng bóng trên giang hồ, ngờ đâu giữa dòng đời lại xuất hiện rất nhiều ma rừng quỷ núi! Nhưng dù là ma rừng, dù là quỷ núi, các ngươi cũng phải chịu một kỷ luật khống chế các ngươi! Hôm nay, bắt buộc ta áp dụng cái kỷ luật đó, để kềm hãm tính hung hăng hại đời của các ngươi. Hãy quỳ xuống, nghe ta hài tội! Lưu tráng sĩ đã bị ngươi hành như thế nào, ngươi diễn tả lại cái cảnh đó, đúng y cho ta xem!
Giọng nói của Bành Cúc Nhân oai nghiêm vô cùng, Âm Thiết Quân mất cả bình tĩnh.
Bành Cúc Nhân không phải nói suông, câu nói vừa buông dứt, bà nhẹ lướt thân hình tới, phiêu phưởng như áng mây theo gió cuốn đi. Bàn tay đưa ra, mấy ngón tay cử động, từ một ngón, một đạo chỉ phong vút mạnh. Dĩ nhiên, cái đích của mấy đạo chỉ phong là Âm Thiết Quân.
Âm Thiết Quân bị tấn công bất ngờ, không còn kịp vung kiếm nghênh đón.
Bà ta nghe nhói ở đầu gối, đồng một chỗ Lưu Tam Thái bị bà điểm trúng vừa rồi.
Bà ta nghe đôi gối như nhũn xuống, đảo đảo người chực ngã, song Âm Tố Quân đã đẩy ra một chưởng.
Chưởng lực đó không hướng vào Bành Cúc Nhân mà lại vút sang Âm Thiết Quân. Chưởng lực đó bắn tung Âm Thiết Quân ra xa, khỏi cục trường đến mấy thước, Âm Thiết Quân ngã nhào lăn đi mấy vòng.
Đoạn, Âm Tố Quân quay về Bành Cúc Nhân, trầm giọng thốt:
– Môn đệ của Vô Cực Kiếm Phái, từ xưa nay, chết chứ chẳng hề có việc quỳ xuống như loài chuột nhắt.
Chết? Thế là Âm Thiết Quân chết rồi? Sao lại chết dễ dàng thế? Ai gây ra cái chết đó? Bành Cúc Nhân với mấy đạo chỉ phong hay Âm Tố Quân với chưởng lực vô tình?
Bành Cúc Nhân nhìn sang Âm Thiết Quân, thấy thất khiếu của bà ấy đều rỉ máu, bất giác sôi giận, quát to:
– Ngươi đối xử với đồng bào tỷ muội như vậy thiết tưởng tàn nhẫn vô cùng!
Trên đời nầy, chẳng có một ai tàn nhẫn như ngươi! Ta chẳng hiểu lương tâm ngươi để đâu!
Âm Tố Quân lạnh lùng:
– Phải! Người ngoài cho rằng tàn nhẫn, song trong môn phái của ta ai cũng xem thường, bởi đó là môn quy! Ta không mượn ngươi phải thương vay xót mướn cho người trong phái của ta! Bào muội của ta đã chết rồi, chết để bảo toàn danh dự môn quy của phái ta, chết tuy do ta, song dù sao thì món nợ nầy chính ngươi đã vay, ta bất chấp trực tiếp hay gián tiếp, ngươi phải trả! Ngươi phải lãnh trách nhiệm về cái chết của bào muội ta!
Bành Cúc Nhân càng giận dữ, quát lớn hơn trước:
– Ngươi tàn nhẫn, đang tay hạ sát em gái ngươi, rồi đổ tội cho ta bắt ta phải chịu trách nhiệm, thế là nghĩa gì? Ngươi viện lý do vì quy củ môn phái mà ngươi nỡ tương tàn cốt nhục, ta thử hỏi ngươi, quy củ gì quái dị thế, bình sanh ta chưa hề tự ta trông thấy hoặc nghe ai nói đến?
Bà dừng lại một chút, đoạn nhếch nụ cười mỉa, nói:
– Ngươi tổ tội cho ta, vậy ngươi muốn gì?
Âm Tố Quân lạnh lùng:
– Đã là khách giang hồ, ngươi hỏi câu đó cầm như thừa, vay máu phải trả bằng máu, sát nhân, thường mạng, rất giản đơn!
Bành Cúc Nhân bật cười khanh khách:
– Hay quá! Hay vô tưởng! Ngươi bắt ta thường mạng! Ta muốn thấy ngươi có phương pháp gì, bắt ta làm cái việc đó?
Âm Tố Quân khoát một bàn tay.
Hai thiếu phụ áo đen đứng cạnh bà khoa kiếm lên toan lướt tới.
Trương Thanh cấp tốc đảo bộ vọt ra đứng tại trung gian, hướng sang bọn Âm Tố Quân, trầm giọng thốt:
– Thư thả một chút! Trước khi động thủ, chúng ta hãy nói chuyện với nhau!
Bành Cúc Nhân nóng nảy, gắt:
– Còn nói chuyện gì với chúng nữa chứ? Chúng đã hành động vô lương rồi đổ triệt tội ác lên đầu ta, điều đó chứng tỏ chúng ngoan cố phi thường, còn giảng lý làm sao thấu được màng tai dày như da trâu của chúng? Nhất định ta phải cho tất cả bọn chúng quỳ xuống, quỷ nhận tội trước mặt ta! Thử xem bọn người trong Vô Cực Kiếm Môn có kẻ quỷ gối chăng?
Trương Thanh dịu giọng:
– Đại nương! Đại nương không thể dừng lại một chút sao? Họ đã nói là Gia gia tôi làm điều bại hoại, tôi phải hỏi họ cho rõ ràng. Tôi hỏi rồi, tùy ý đại nương muốn trừng trị họ như thế nào đó thì trừng trị, tôi không ngăn trở nữa đâu!
Bành Cúc Nhân không còn làm sao hơn, đành nghe lời nàng, lùi về phía hậu.
Trương Thanh nhìn thẳng hai thiếu phụ chực chờ xuất thủ theo lịnh của Âm Tố Quân, gằn từng tiếng:
– Hai vị hãy đợi một chút, cho tôi nói vài câu với Chưởng môn nhân các vị.
Sau đó, chúng ta động thủ cũng chẳng muộn gì.
Hai thiếu phụ nhìn sang Âm Tố Quân, như hỏi ý kiến.
Âm Tố Quân sôi giận, cao giọng hét:
– Ta có chuyện gì lại phải nói với ngươi? Ta tìm Trương Vân Trúc, lão ấy trốn biệt, ta lại gặp con gái lão là ta tìm đúng người rồi. Gia gia ngươi làm nên tội lỗi, sợ tội bỏ trốn, ngươi là con, phải chịu tội thay cha, như vậy là hợp lý rồi, còn muốn nói gì nữa?
Trương Thanh vừa giận, vừa khẩn cấp, hỏi:
– Gia gia tôi đã làm gì mà bà cho rằng có tội? Bà cho tôi biết đi! Việc gì?
Âm Tố Quân nạt:
– Ngươi là con gái của lão ấy, chẳng lẽ cha làm gì mà con không biết?
Trương Thanh lắc đầu:
– Tôi đã xa Gia gia tôi từ một năm nay rồi, trong thời gian đó, tôi chẳng hề gặp lại người, sao tôi biết được những gì người đã làm?
Âm Tố Quân tỏ vẻ nghi ngờ:
– Thật vậy?
Trương Thanh trầm giọng:
– Tại sao tôi phải nói dối bà? Năm trước, Quan đại ca tôi trúng độc tại Lạc Hồn Cốc, từ phút giây đó, tôi ly khai Gia gia tôi đưa Quan đại ca đi tìm thuốc giải độc. Tôi và Quan đại ca tôi chẳng rời nhau nửa bước. Không thì bà cứ hỏi Quan đại ca tôi xem.
Âm Tố Quân hướng sang Quan Sơn Nguyệt:
– Ngươi là Lệnh chủ Minh Đà, chắc lời nói của ngươi không ngoa. Ngươi có dám bảo là nàng không lừa ta chăng?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Tại hạ xin lấy chiếc đầu này bảo chứng cho sự thực tâm của Trương cô nương. Trong vòng một năm nay, tại hạ và Trương cô nương sống chung nhau một nơi, cả hai chẳng hề xa nhau nửa bước. Cho nên tại hạ biết rõ Trương cô nương không hề gặp mặt Gia gia nàng.
Âm Tố Quân giật mình. Bà trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:
– Kỳ quái thật! Hai hôm trước đây, có người nhìn thấy Trương Vân Trúc cùng đi với một thiếu nữ trong vùng phụ cận thành Tửu Tuyền. Bọn ta kiêm trình đuổi theo ...
Đến lượt Quan Sơn Nguyệt cũng giật mình, hấp tấp hỏi:
– Có thể như vậy sao? Trương tiền bối đi với một thiếu nữ? Thiếu nữ nào?
Ngoài Trương cô nương ra, Trương tiền bối chẳng có con, có cháu nào khác mà?
Chính bọn tại hạ cũng đang trên đường tìm gặp lại Trương tiền bối đây! Bà có chắc là người nào đó, gặp đúng Trương tiền bối chăng?
Âm Tố Quân trầm giọng:
– Không đúng thì lầm à? Cho ngươi biết, hiện tại chẳng những một ta tìm lão ấy mà tất cả người trong võ lâm đều muốn gặp lão ta! Ai ai cũng chú ý tìm lão thì làm gì có việc nhận lầm?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Cũng có thể người đó nhận đúng Trương tiền bối! Nhưng điều chắc chắn là thiếu nữ đó chẳng phải Trương cô nương!
Âm Tố Quân im lặng giây lâu, bỗng «hừ» một tiếng thốt:
– Dù cho thiếu nữ đó chẳng phải là con gái của Trương Vân Trúc, giờ đây ta đã gặp con gái của lão ấy, nhất định ta chẳng buông tha! Nợ cha con phải trả, tìm cha không được ta phải chụp lấy đứa con! Vô luận các ngươi nói thế nào, ta bắt buộc nàng phải trả nợ thay cha!
Trương Thanh lộ vẻ khẩn trương:
– Nhưng Gia gia tôi đã làm gì mà bà kết án chứ? Bà phải cho tôi biết mới được!
Âm Tố Quân căm hận:
– Ta nói ra, chắc ngươi hãnh diện lắm! Trong lần xuất hiện tại Lạc Hồn Cốc, Trương Vân Trúc sính tài, giải cứu những người mắc phải độc «Huỳnh Hà Thu Tinh Sa» của Khổng Văn Thông, người trên giang hồ chẳng ai không tôn kính lão ...
Trương Thanh mỉm cười:
– Gia gia tôi là người trong giới y học, tự nhiên phải có bổn phận cứu nhân độ thế.
Âm Tố Quân cười lạnh:
– Ngươi khoan đắc ý vội! Hãy nghe ta nói tiếp đây, rồi có hãnh diện cũng chẳng muộn. Sau ngày đại náo tại Lạc Hồn Cốc không lâu, bỗng nhiên Trương Vân Trúc mất tích. Mãi đến hai tháng trước đây, lão lại xuất hiện. Lão đến viếng khắp các môn các phái. Nhớ cái ơn của lão ngày trước, ai ai cũng nghênh tiếp lão hết sức long trọng. Ngờ đâu lão lại nuôi dưỡng cái tâm lang sói, làm điều vô sỉ không ai tưởng nổi.
Trương Thanh nổi giận:
– Bà bịa chuyện! Khi nào Gia gia tôi lại làm điều bại hoại?
Âm Tố Quân mắt nhìn nàng:
– Ngươi hãy nghe ta nói hết chuyện mới biết Gia gia ngươi tốt hay xấu chứ?
Trương Thanh «hừ» một tiếng:
– Bà nói gì cứ nói, chứ nhất định là Gia gia tôi không bao giờ làm điều bại hoại được!
Âm Tố Quân trầm giọng tiếp:
– Gia gia ngươi làm ra sự tình khiến tất cả những người trong thiên hạ võ lâm đều phẫn nộ cực độ, ai ai cũng muốn giêt cho được lão mới hả. Tại Thiếu Lâm Tự, lão lấy trộm pho Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư lưu lại, hơn nữa, lão lại hạ độc dược làm cho vị Chưởng môn Thiếu Lâm Phái là Thống Thiền đại sư câm và điếc. Tại Võ Đang Sơn, lão lấy trộm pho kiếm quyết bí truyền của phái đó, ngoài ra còn dụng độc sát hại vị Chưởng môn là Thiên Cơ đạo trưởng. Lão còn làm nhiều điều tai hại cho các môn phái khác, song ta chưa liên lạc được với các môn phái đó nên chưa rõ sự tình chính xác. Hiện tại tất cả các môn phái đều cho người phân tán khắp sông hồ để tìm lão. Mọi người đều lộ vẻ phẫn hận, do đó ta có thể hiểu những việc lão đã làm nhất định là không tốt rồi.
Trương Thanh đưa tay che mặt, hét to:
– Bà bịa chuyện! Bà nói xấu Gia gia tôi! Bà ăn nói hồ đồ quá! Gia gia tôi chẳng khi nào có những hành động như vậy!
Âm Tố Quân lạnh lùng:
– Ngươi không tin? Muốn biết rõ ràng, ngươi cứ đến Thiếu Lâm Tự và Võ Đang Sơn mà hỏi!
Trương Thanh tức quá, khóc lớn, vừa khóc vừa gào:
– Đi chứ! Tự nhiên tôi phải đi, bà khỏi bảo!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Việc gì phải vội, Trương muội? Ngu ca từng sống chung với Truong lão bá qua nhiều năm, lẽ nào không biết tâm tánh của người nào? Nhất định chẳng bao giờ lão bá làm những điều đó! Ngu ca nhận thấy, trong sự tình có chỗ khả nghi, mà dù cho quả thật có những việc như vậy đi nữa, thiết tưởng nân nhân không thể nhiều như vậy. Bất quá, một vài gia đình hay một vài môn phái thọ hại rồi một truyền ra mười, mười truyền ra trăm khiến tất cả ai cũng đề cao cảnh giác.
Khi tất cả đề phòng rồi, người mưu hại còn mong gì hại ai được nữa?
Âm Tố Quân cười lạnh:
– Nói như thế ngươi cũng có lý, song ngươi quên rằng Trương Vân Trúc là con người thâm hiểm, cái chỗ lợi hại của lão ta là vẫn hạ thủ đoạn được như thường dù thiên hạ có phòng bị chu đáo đến đâu. Huống chi, ta đặt một giả thuyết, lão ấy có mưu đồ hèn hạ, thức nhiên lạo thực hiện gấp đôi mưu đồ đó, trước khi phong thanh đồn đãi đi khắp nơi. Do đó, còn ai phòng bị kịp thời?
Bà «hừ» một tiếng, tiếp luôn:
– Khi sự việc được truyền đi khắp sông hồ thì nạn nhân của lão đã nhiều rồi.
Vả lại lão đã đạt được mục tiêu chánh, dù lão có ngưng lại những hành động dã man cũng chả sao bởi những người chưa bị lão hãm hại có thể bảo là chẳng quan trọng gì. Lão đâu cần tận diệt toàn thể võ lâm?
Bà kết luận:
– Hãm hại một số người quan trọng, đủ cho lão lắm rồi, lão có thể biệt tích với niềm thỏa mãn trọn vẹn!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Khó tin lắm bà! Nếu sự thực đúng như lời bà nói. Tại sao suốt đoạn đường dài, bọn tại hạ chẳng nghe một khách giang hồ nào đồn đãi?
Âm Tố Quân bỉu môi:
– Việc làm của Trương Vân Trúc, có liên quan đến sự bí mật của các môn phái, trừ những vị Chưởng môn, Trưởng phái ra, hàng môn đệ còn ai dám tiết lộ?
Do đó, các ngươi không nghe khách giang hồ nói đến là lẽ tự nhiên!
Bà giải thích thêm:
– Riêng về cá vị Chưởng môn, Trưởng phái nạn nhân, họ vốn là những người thận trọng, khi nào họ gặp ai cũng tiết lộ sự tình trong phải cả chứ? Cho nên, rất ít người được biết.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Nếu là ít người biết, sao bà được biết?
Âm Tố Quân cười nhẹ:
– Nhờ ta có tiếp xúc thân mật với một vài đại môn phái, các vị Chưởng môn không ngần ngại cho ta biết những gì đã xảy ra trong môn phái họ.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng hỏi tiếp:
– Riêng trong Vô Cực Kiếm Phái của bà có những tổn thất gì?
Âm Tố Quân do dự một chút, đoạn nghiến răng nói:
– Tổn thất trong phái của ta rất nặng nề, hơn cả những môn phái khác!
– Mất pho kiếm quyết? Mất lịnh phù, tín hiệu? Hay châu báu ngọc ngà gì?
Âm Tố Quân bật cười ghê rợn:
– Kiếm quyết của Vô Cực Phái gồm hai quyển, người trong họ Âm tập luyện theo sự chỉ dẫn trong quyển hạ, chỉ có Chưởng môn mới tập luyện theo quyển thượng. Quyển thượng gồm tám chiêu kiếm tuyệt độc, bất truyền, làm sao lão trộm được quyển thượng chứ? Luận về giá trị, quyển thượng quý hơn quyển hạ nhiều, nếu lão muốn trộm thì phải trộm quyển thượng, khi nào lão lại nhắm vào quyển hạ? Nhưng ta vẫn còn giữ quyển thượng.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Vậy quý phái tổn thất như thế nào?
Âm Tố Quân căm hờn:
– Trạm cuối cùng của lão là Âm Sơn. Từ lâu, ta chưa hề gặp mặt lão, song ta từng nghe giang hồ truyền thuyết lão là một bậc đại hiệp đáng kính nhất trên đời này. Do đó, ta hết lòng nghinh tiếp lão. Ngờ đâu ...
Bà phẫn nộ cực độ, cơn giận làm bà uất nghẹn, bắt buộc phải bỏ dở câu nói.
Trương Thanh nóng nảy hỏi:
– Gia gia tôi đã làm gì?
Âm Tố Quân nghiến răng:
– Lão lợi dụng niềm tin của ta, dụ dỗ và gian dâm con gái của ta làm Âm Lệ Hoa, sau đó lại làm nó điên luôn!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, ngây người một lúc lâu, thốt:
– Việc đó ... chắc không thể có như vậy đâu bà! Trương tiền bối khi nào lại ...
Âm Tố Quân gằn giọng chận lời:
– Vô Cực Kiếm Phái gồm toàn nữ nhân, chỉ có lão là nam nhân độc nhút hiện diện trên Âm Sơn. Lúc đó, nếu không phải lão thì còn ai nữa? Thoạt tiên, ta cũng không nghi lão. Mãi đến lúc sau này ta gặp các vị Chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang nghe họ thuật chuyện, ta mới tin quyết là chính lão làm điều bại hoại đó.
Trương Thanh khóc thét lên, vừa khóc vừa gào:
– Bà nói oan! Bà hồ đồ! Làm gì có việc như vậy!
Gương mặt của Âm Tố Quân biến trắng nhợt, bà trầm giọng gọi:
– Trưởng Hoa! Dẫn em gái ngươi đến đây!
Âm Trưởng Hoa «vâng» một tiếng, đoạn bước đến đám thiếu nữ áo đen dẫn ra một nàng, nàng đó có nhan sắc cực kỳ xinh đẹp, tuổi độ mười bảy mười tám, đôi mắt thoạt láo liên, thoạt đứng tròng, tỏ rõ một con người điên dại.
Trông thấy thiếu nữ điên, Âm Tố Quân sôi giận, quắc mắt nhìn Trương Thanh, cao giọng:
– Chắc ngươi cũng biết ít nhiều về y thuật. Vậy ngươi hãy bước đến xem qua tình trạng của con gái ta, để biết rõ cái tài hại người của cha ngươi!
Trương Thanh đưa tay áo lau ngấn lệ nơi mắt, bước nhanh đến trước thiếu nữ điên, nhìn thần sắc thiếu nữ một chút, rồi lấy tay vạch mắt nàng, xem rất kỹ, lại cầm tay nàng nghe mạch. Sau đó, Trương Thanh quay nhìn Bành Cúc Nhân, trầm giọng gọi:
– Đại nương ơi! Cho tôi một hoàn «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» đi!
Bành Cúc Nhân trầm nghiêm gương mặt từ lúc đầu, nghe nàng bảo thế, lập tức mở bao, lấy chiếc bình bằng ngọc, mở luôn nút, trút ra một hoàn thuốc, đoạn bước tới trao cho Trương Thanh.
Trương Thanh nhét vội hoàn thuốc vào miệng Âm Lệ Hoa.
Âm Tố Quân hấp tấp hét lên:
– Ngươi cho nó uống thuốc gì đó?
Bành Cúc Nhân trầm giọng đáp thay Trương Thanh:
– Ngươi yên trí, không phải là độc dược đâu!
Trương Thanh lại dùng tay chà sát khắp mình Âm Lệ Hoa, đoạn nàng lùi ra xa hai bước, đứng chờ kết quả. Gương mặt nàng lộ rõ vẻ khẩn trương.
Quan Sơn Nguyệt cũng lo lắng cho nàng, thấy từng thớ thịt trên mặt nàng giật mạnh, vội hỏi:
– Trương muội làm sao thế?
Trương Thanh cất giọng u buồn đáp:
– Hoàn thuốc cứu nàng tỉnh lại, thì ...
Nàng không còn một điểm nhỏ nghị lực nói nốt những tiếng cuối cho tròn câu.
Nàng không nói, Quan Sơn Nguyệt cũng hiểu được, và chàng nghe một áp lực đè nặng lên tâm tư. Nàng không nói nốt, chàng cũng không nói gì. Chàng chỉ bước tới, đứng cạnh nàng như tỏ vẻ dù sao thì nàng đừng quá lo ngại, bởi đã có chàng ở bên cạnh, chàng đủ sức bảo vệ nàng.
Chờ! Chờ một cái gì mà mình không hoàn toàn tin tưởng sẽ đến đúng với ý muốn, chờ với sự khẩn trương trầm trọng trong lòng, là một điều rất khó chịu.
Thời gian chờ đợi. Dù mau, mỗi một phút giây trôi qua, sao nó lâu hơn một ngày, một tháng!
Rồi thì cái cuối cùng cũng phải đến.
Đôi mắt của Âm Lệ Hoa đứng tròng, một lúc sau lại chớp chớp lên được. Có tiếng sôi rột rột trong cổ họng nàng, chừng như nàng nói chi đó, nhưng âm thinh rè rè, chẳng ai nghe rõ là nàng muốn nói gì.
Âm Lệ Hoa chưa nói gì được, nhưng sự thực là nàng đã tỉnh lại rồi.
Trương Thanh đang lo sợ khi nàng tỉnh lại ...
Dám phí một hoàn thuốc quý để cứu tỉnh Âm Lệ Hoa, dĩ nhiên Trương Thanh mong mỏi Lệ Hoa tỉnh lại, mong mỏi như vậy nhưng nàng lại sợ lúc Lệ Hoa tỉnh. Chính nàng lại tự mâu thuẫn lấy nàng. Và bây giờ, sự lo sợ của nàng đã thành thực.
Thấy Âm Lệ Hoa tỉnh lại,Trương Thanh rú lên một tiếng đưa hai tay che mặt vừa khóc vừa kêu:
– Quan đại ca ơi, tôi không còn mặt mũi nào sống trên đời! Tôi phải chết, đại ca ơi!
Quan Sơn Nguyệt hết sức bối rối. Trước sự tình, chàng không biết phải ăn nói làm sao!
Âm Lệ Hoa tỉnh lại, nàng sẽ khai ra sự việc đã xảy đến cho nàng. Nếu nàng nhận rằng chính Trương Vân Trúc đã phá hoại cuộc đời nàng thì nàng và Trương Thanh sẽ đối đáp làm sao với Âm Tố Quân?
Trong khi chàng lặng người như tượng gỗ thì Trương Thanh cứ khóc, nàng càng lúc càng khóc to.
Bành Cúc Nhân cũng sững sờ, ngây người tại chỗ.
Bỗng, Trương Thanh buông tay, ngẩng mặt lên, vẻ quả quyết hiện rõ, hét lớn:
– Không! Tôi không tin! Nhất định là Gia gia tôi chẳng hề ...
Quan Sơn Nguyệt chặn lời:
– Phải! Ngu ca cũng không tin là Trương lão bá có làm như vậy! Dù sao, nàng ấy cũng đã tỉnh rồi, chúng ta cứ hỏi xem nàng trả lời làm sao cho biết!
Trương Thanh vọt mình tới chụp lấy Âm Lệ Hoa hỏi gấp:
– Tiểu muội ơi! Có một người bại hoại phá hoại cuộc đời của tiểu muội, người đó là ai?
Âm Lệ Hoa mở to đôi mắt ngây dại nhìn Trương Thanh một lúc lâu, lẩm nhẩm:
– Không! Y không phải là con người bại hoại! Y yêu tôi, tôi yêu y, y muốn cưới tôi, tôi muốn lấy y ...
Âm Tố Quân kinh hãi, những gì Lệ Hoa vừa nói đúng là ngoài ý tưởng của bà. Bà hét lớn:
– Lệ Hoa! Ngươi điên rồi!
Thì, tự nhiên rồi! Lệ Hoa điên, chính bà đã tuyên bố như thế kia mà! Sao bây giờ bà nói vậy?
Mặc Âm Tố Hoa hét, Trương Thanh hỏi dồn Lệ Hoa:
– Tiểu muội! Cho tôi biết đi! Người đó là ai?
Âm Lệ Hoa ngơ ngác:
– Tôi không biết! Y không nói tên nói họ gì với tôi cả!
Quan Sơn Nguyệt lập tức hướng sang Âm Tố Quân, hỏi:
– Trương tiền bối đã được các vị khoản đãi trọng hậu, lẽ nào các vị không nhận ra?
Âm Tố Quân «hừ» một tiếng:
– Nó có khi nào chường mặt tiếp khách đâu mà nhận ra người nầy hay người khác?
Trương Thanh lại hỏi Âm Lệ Hoa:
– Người đó hình dáng như thế nào?
Âm Lệ Hoa trầm ngâm một lúc lâu, gương mặt nàng lộ vẻ khó khăn vô cùng.
Rồi nàng thở dài, lắc đầu đáp:
– Tôi quên mất rồi! Tôi chẳng biết phải tả làm sao cho đúng hình dạng y, song nếu gặp lại thì tôi biết ngay. Chúng tôi gặp nhau trong bóng tối, bất quá tôi còn nhận thức được y, qua thinh âm ...
Trương Thanh thất vọng phi thường. Nàng thở dài song trong lòng thoáng hiện một điểm hy vọng. Nàng mơ màng lẩm bẩm:
– Rất có thể không phải Gia gia ...
Nhưng Âm Lệ Hoa đảo mắt nhìn quanh, ánh mắt ngời tình cảm, nàng thốt với giọng say sưa:
– Tôi nhớ rõ, tôi nhớ bộ râu của y, bộ râu đẹp làm sao! Râu mềm mại như những sợi tóc trên đầu tôi, râu đó vờn qua má tôi, êm dịu vô cùng!
Trương Thanh rú lên một tiếng, buông Âm Lệ Hoa ra liền rồi phóng chân chạy đi.
Nhưng Âm Tố Quân vươn tay, đưa kiếm ra trước mặt nàng, hét:
– Ngươi đã hỏi nó, nó nói cho ngươi nghe minh bạch rồi, ngươi lại bỏ đi đâu chứ?
Trương Thanh gào lên:
– Bà đừng ngăn trở tôi! Tôi muốn gặp ngay Gia gia tôi, tôi chạy đi tìm người!
Quan Sơn Nguyệt bước tới, nắm nàng giữ lại:
– Trương muội! Nếu thực sự, Trương lão bá có làm sự việc đó, thiết tưởng Trương muội cũng không nên đi tìm người!
Trương Thanh vừa vùng vẫy, vừa lắc đầu, thốt:
– Không! Tôi không thể không chạy đi tìm Gia gia tôi, Quan đại ca ơi. Tôi gặp người rồi, tôi sẽ giết người, nếu cần, giết người rồi tôi tự sát luôn! Làm sao tôi để cho Gia gia tôi sống với tội lỗi to lớn đó chứ, đại ca? Làm sao tôi sống được khi có một người cha như vậy chứ đại ca?
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp an ủi:
– Đừng nghĩ quẩn, Trương muội! Đã chắc gì sự thật là thế? Ngu ca dám quả quyết là Trương lão bá không thể làm một sự việc như vậy. Giả như lão bá còn trong lứa tuổi thanh xuân, thì chúng ta cũng có thể nghi ngờ, chúng ra có thể tạm thời cho rằng người có làm điều bại hoại đó. Song lão bá đã cao niên rồi, mà bình sanh ngu ca chưa từng nghe ai nói trên giang hồ có những dâm tặc trong hàng lão nhân cả!
Chàng dừng lại một chút, đoạn nghiêm giọng tiếp:
– Ngu ca đặt ra một giả thuyết cuối cùng là nếu có sự bất hạnh như thế trong gia đình thì Trương muội cũng không nên nuôi dưỡng cái ý giết cha ...
Trương Thanh khóc ngất một lúc, đoạn thốt qua nức nở:
– Đừng khuyên can tôi làm chi Quan đại ca ơi! Thế nào tôi cũng phải giết Gia gia tôi, tôi giết người rồi tôi sẽ chết theo người! Người đã làm nên tội lỗi đó thì đâu còn là Gia gia tôi nữa, tôi đâu còn là con gái của người nữa?
Âm Tố Quân cười lạnh:
– Thôi đi, cô bé! Đừng tưởng là ta không biết cái khổ nhục kế của ngươi!
Ngươi tưởng đâu rằng trách cha, đòi giết cha, tự sát như vậy là ngươi làm cho ta động lòng được à? Không đâu! Không đâu! Đừng có đóng kịch nữa, ta không tin đâu!
Trương Thanh bỗng hét lên:
– Bước qua một bên ngay! Hiện tại tôi không còn nhận ra ai nữa cả! Không ai được ngăn trở tôi!
Đôi mắt của nàng, đỏ vì khóc quá nhiều, hiện tại, đỏ hơn vì cơn tức uất bừng lên, nàng như điên loạn, nàng có thể xuất thủ đối với bất kỳ ai làm nghịch ý nàng.
Âm Tố Quân nhìn sững nàng, tìm hiểu sự biến đổi đột ngột của nàng.
Nàng lại hét:
– Bà có cút đi không? Cút nhanh, cho trống đường để tôi chạy đi tìm Gia gia tôi.
Âm Tố Quân sôi giận:
– Ai cho ngươi đi mà hòng chạy đi? Ta tìm Trương Vân Trúc, hỏi tội lão dâm tặc đó, không gặp lão, ta phải giết con gái lão, cho lòng ta được hả phần nào, sau đó ta sẽ tìm lão mà giết luôn! Ngươi phải đền tội thay Gia gia ngươi, đừng hòng chạy thoát với ta!
Trương Thanh đưa nhanh tay lên đầu vai. Nơi đó, chuôi trường kiếm của nàng ló lên cao độ hai tấc. Nàng nắm chuôi kiếm, rút nhanh ra khỏi vỏ, khoa một vòng, quát lớn:
– Bà còn ngăn trở tôi nữa thì đừng trách tôi đấy! Tôi đang muốn giết người đây, ai muốn tôi giết, cứ ngăn trở tôi đi!
Âm Tố Quân không đợi nàng nói hết câu, vung thanh trường kiếm quét tới, như một con rắn độc dài phóng mình.
Trương Thanh cử kiếm nghinh đón ngay.
Song phương khai diễn cuộc chiến, ác liệt ngay từ phút đầu.
Quan Sơn Nguyệt không một tấc sắt trong tay, chẳng làm sao can thiệp được. Can thiệp, không phải để tiếp trợ Trương Thanh, bởi chàng đâu có muốn song phương động thủ trong khi còn có thể hòa giải nếu biết dùng lời lẽ khéo léo một chút. Chàng muốn can thiệp để tìm một giải pháp ôn hòa hơn.
Không can thiệp được, chàng thở dài, day qua Bành Cúc Nhân, thốt:
– Đại nương! Làm cách nào, ngăn trở họ, đừng để xảy ra sự việc đáng tiếc!
Bành Cúc Nhân nhếch nụ cười khổ:
– Ngăn trở ai? Chúng ta làm sao ngăn trở Âm Tố Quân trong khi bà ấy đang căm hờn cực độ? Còn Trương Thanh? Đến Lệnh chủ cũng chưa chắc gì khuyên dứt mà nàng nghe thì già làm sao ngăn trở nàng cho được chứ? Nàng đã mất lý trí rồi, Lệnh chủ ơi! Mà cũng không thể trách cứ nàng được, bởi sự tình đến như nàng chẳng khác nào sét nổ ngang đầu, dù cho ai cũng phải choáng váng, huống hồ nàng chỉ là một nữ nhân thanh thiếu, lại chẳng có kinh nghiệm mảy may?
Quan Sơn Nguyệt càng bối rối.
Trong khi đó, Trương Thanh và Âm Tố Quân đã trao đổi nhau hơn mười chiêu rồi.
Kiếm pháp Vô Cực của Âm Tố Quân quả nhiên linh diệu phi thường, biến ảo vô tưởng. Sở dĩ bà không thi thố trọn vẹn tinh hoa của kiếm pháp là vì bà quá tức giận, mất cả bình tĩnh, tự nhiên kém sáng suốt hơn lúc bình thường. Tuy thế, đường kiếm của bà vẫn lợi hại vô cùng.
Phần Trương Thanh thì giá như trước kia, chắc chắn là nàng đã không chịu nổi vài chiêu của Âm Tố Quân. Song, một năm qua, nàng nhờ Tuyết Lão Thái Thái tận tâm truyền dạy võ công, tài nghệ của nàng tiến bộ quan trọng.
Nàng vung kiếm vù vù, vừa nhanh vừa độc, luôn luôn chiếm lấy tiên cơ. Khí thế của nàng mãnh liệt quá, đúng là khí thế của một người điên. Từ chiêu thứ mười trở lên, nàng áp đảo Âm Tố Quân rõ rệt, bắt buộc bà ta phải lùi dần, lùi dần ...
Không chế ngự nàng được, Âm Tố Quân tức giận, hét to:
– Tất cả nghe đây. Vào hết đi, bắt con tiện tỳ này cho ta, ta sẽ chặt nó ra làm trăm làm ngàn đoạn mới hả lòng ta!
Các đệ tử Vô Cực Kiếm Môn cùng «vâng» một tiếng, cùng vung kiếm lướt tới.
Quan Sơn Nguyệt định xông vào tiếp trợ Trương Thanh, nhưng Bành Cúc Nhân nắm chàng, giữ lại:
– Không cần! Nàng thừa sức nghinh chiến với tất cả!
Quả nhiên, đánh với Âm Tố Quân, bất quá chỉ đánh với một người, Trương Thanh không hung hăng lắm. Bây giờ, toàn bộ dệ tử của Âm Tố Quân cùng vào cuộc, bất giác nàng sôi giận, vung kiếm ào ào, gió kiếm dậy như bão.
Kiếm quang dần dần tỏa rộng tạo một bức tường dày quanh mình nàng. Dĩ nhiên, vầng kiếm quang đó vừa kiên cố, vừa lợi hại, chỗ lợi hại là vầng kiếm quang cứ mở rộng ra, bọn đệ tử Vô Cực Kiếm Môn chẳng những không xáp lại gần nàng được mà còn bị đẩy bật ra ngoài.
Thiếu nữ nào chạm kiếm vào vầng kiếm quang, bị chấn dội tê dại cánh tay, bắt buộc phải lùi lại, nhưng lùi rồi lại sợ Âm Tố Quân quở trách, lại lướt vào.
Toàn bộ đệ tử đã vào cuộc cũng chẳng làm gì nổi Trương Thanh, thấy thế, Âm Tố Quân tức uất đến lồng lộn lên như thú dữ bị thương. Bà quát lớn:
– Cố gắng! Tất cả phải vận dụng toàn lực, quyết hạ con tiện tỳ cho kỳ được cho ta! Hôm nay, thà toàn gia họ Âm chết tiệt, nhất định không thể để tiện tỳ sống sót.
Trương Thanh quát trả:
– Cảnh cáo các ngươi đấy, hôm nay ta đại khai sát giới, kẻ nào muốn chết cứ hứng lấy đường kiếm của ta! Dù thanh kiếm của ta có nhuộm máu hồng, đó là do các ngươi muốn, đừng cho rằng ta hiếu sát!
Âm Tố Quân gầm lên:
– Giết! Các ngươi cứ giết nó cho ta! Cha nào, con nấy, cha tàn nhẫn, con khát máu, đúng là truyền thống của ác đồ!
Mắng riêng nàng, nàng tức, mắng luôn cả Gia gia nàng, Trương Thanh sôi giận bừng bừng. Nàng không đáp, cứ vung kiếm, thủ pháp của nàng càng phút càng nhanh, thân pháp của nàng cũng nhanh hơn trước. Nàng đảo bộ xoay mình một vòng tròn, thanh kiếm quét ra, một loạt tiếng rú thảm vang lên.
Trừ Âm Tố Quân và mấy nàng được vô sự, còn bao nhiêu thiếu nữ khác đều thọ thương, nặng nhẹ bất đồng. Có nàng tê dại cánh tay, buông kiếm, có nàng bị thương nơi tay, có nàng bị thương nơi chân. Có mấy nàng thọ thương nặng hơn, hoặc tay bị tiện lìa, hoặc chân bị tiện lìa, bọn này biến thành phế nhân, vĩnh viễn không chiến đấu được nữa.
Đôi mắt Âm Tố Quân tóe lửa, bà gầm lên:
– Con tiện tỳ đáng chết! Ta nhất định liều mạng với ngươi!
Bà đâm thanh kiếm tới, nhằm đúng ngực Trương Thanh, ngay khoảng tim.
Lúc đó, thanh kiếm của Trương Thanh bay vèo sang bà, thanh kiếm đó sẽ tiện mất một vành tai của bà nếu bà không tránh né.
Vậy mà bà vẫn không tránh né, cứ hùng hổ đâm kiếm vào ngực Trương Thanh. Như vậy là bà nhất quyết đồng quy ư tận với Trương Thanh như lời bà đã thốt.
Trương Thanh chỉ nghiêng mình qua một bên, vừa đủ xê dịch phần ngực khỏi mũi kiếm của Âm Tố Quân. Nàng vẫn giữ nguyên thế công, không hề biến chiêu.
Quan Sơn Nguyệt nhận thấy chàng không còn đứng yên mà nhìn những diễn tiến đó nữa, vội cúi mình nhặt một thanh kiếm do một thiếu nữ buông rơi đoạn lướt vào cuộc chiến. Chàng dùng lực khá mạnh, vung kiếm lên.
Một tiếng «coong» vang dội, thanh kiếm của chàng hất thanh kiếm của Trương Thanh lệch đà. Chàng không cần ngăn chặn thanh kiếm của Âm Tố Quân, bởi Trương Thanh đã tránh được thế công của bà. Trong khi đó thì bà lại liều mà Trương Thanh thì không nương tay. Cho nên, chàng phải ngăn chặn đường kiếm của Trương Thanh cứu bà ta. Cứu một vành tai của bà, mà cũng có thể là cứu mạng cho bà luôn bởi biết đâu Trương Thanh chẳng nhân thuận tay xoay lưỡi kiếm chặt xuống cổ bà?
Trương Thanh trố mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt một phút, đoạn trầm giọng hỏi:
– Quan đại ca làm gì thế? Định giết tiểu muội sao? Giúp địch có cơ hội hạ sát tiểu muội phải không?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Ngu ca không có ý ác đối với Trương muội, bất quá ngu ca không muốn Trương muội sát nhân!
Trương Thanh bật khóc. Nàng khóc tức tưởi, cứ khóc mãi không nói một tiếng gì. Khóc một lúc, nàng vụt chạy tới, vung kiếm uy hiếp Âm Tố Quân đang ngăn chặn trước mặt nàng, bức bà ta tạt qua một bên, nhường lối cho nàng thoát đi.
Quan Sơn Nguyệt toan đuổi theo, bắt nàng lại, song Bành Cúc Nhân nắm cánh tay chàng giữ lại, lạnh lùng bảo:
– Hãy để cho nàng đi, Lệnh chủ! Nàng rời khỏi nơi đây, tâm thần nàng mới ổn định trở lại được. Lệnh chủ cứ để già chạy theo nàng, chiếu cố nàng thay cho Lệnh chủ!
Quan Sơn Nguyệt toan phản đối đề nghị, Bành Cúc Nhân lại tiếp:
– Chính gia cũng không tin là phụ thân nàng đã có những hành động như vậy huống hồ nàng là con, mà con thì phải hiểu cha nhiều hơn ai hết. Nhưng, dù tin, dù không tin, bất quá chúng ta chỉ ức đoán mà thôi, bất quá chúng ta bằng vào tư cách ngày trước của Trương Vân Trúc mà cố nhận xét như vậy cho sự việc sau này. Tuy nhiên, muốn giải tỏa mọi nghi vấn, phải có chứng cớ. Muốn có chứng cứ, chúng ta phải tìm gặp cho được Trương Vân Trúc. Lệnh chủ hiểu như vậy rồi, hãy tùy nghi định liệu, làm một việc gì hữu ích cho nàng, cho chúng ta.
Bà chạy theo Trương Thanh liền.
Quan Sơn Nguyệt đứng nguyên tại chỗ, chẳng biết tại chàng vâng theo lời Bành Cúc Nhân hay chàng có một chủ trương gì khác qua đề nghị của Bành Cúc Nhân.
Âm Tố Quân còn sôi giận, bước tới, gằn từng tiếng:
– Gã họ Quan kia, ta tuyên bố bắt đầu từ ngày nay, Vô Cực Kiếm Môn không đội trời chung với ngươi!
Quan Sơn Nguyệt giật mình thốt:
– Tại hạ với các vị vốn không thù không oán nhau, huống chi vừa rồi tại hạ đã cứu mạng bà, sao bà lại lấy ân làm cừu, định đem oán đáp ân? Thật tình tại hạ không hiểu nổi!
Âm Tố Quân «hừ» một tiếng:
– Ngươi nói sao thế? Ngươi cứu mạng ta hay ngươi ngăn trở ta sát hại nàng?
Ta làm gì hèn kém đến nổi phải bị một đứa bé con sát hại? Thôi đi, ngươi đừng giả vờ có hảo ý với ta, thực ra chính ngươi cứu mạng cho nàng đó! Nếu ngươi đừng can thiệp thì ta đã sử dụng một chiêu hồi thủ, chắc chắn là cắt đứt cuống họng nàng rồi! Cho rằng ngươi cứu ta, thôi cũng được đi! Thế là ngươi có ơn với ta, ta không có lý do xem ngươi như kẻ thù, song ngươi tạo dịp cho kẻ tử thù của ta chạy thoát là ngươi can thiệp vào việc riêng tư của ta, ngươi ngăn chận ta thanh toán mối thù, chính điều đó là nguyên nhân sự oán hận của ta đối với ngươi. Nhất định sẽ có một ngày nào đó, ta sẽ hỏi tội ngươi!
Quan Sơn Nguyệt không đồng ý với lập luận của bà, vội cãi:
– Tại sao bà quyết đồng quy ư tận với nàng? Bởi, nếu những gì bà nói đó đúng sự thật thì kẻ làm nên tội lỗi là phụ thân nàng chứ có phải là nàng đâu mà bà oán hận nàng? Nàng hoàn toàn vô can mà! Thiết tưởng, muốn báo thù, trả hận, bà cũng nên tìm đứng người chứ! Chẳng lẽ tìm không được chính phạm, rồi bà gặp ai cứ vớ lấy. Mặc tình sát hại?
Âm Tố Quân cười lạnh:
– Trương Vân Trúc hại cuộc đời của con gái ta thì ta có quyền hại con gái của lão, như vậy là rất công bình, như vậy là ta chọn đúng người lắm chứ!
Bà ngừng lại một chút, trầm giọng tiếp:
– Nói thật với ngươi, ta có thể buông tha Trương Vân Trúc, nhưng nhất định phải hãm hại con gái lão cho kỳ được, có như vậy ta mới hả dạ!
Quan Sơn Nguyệt tức giận, nghĩ ghét con người có tính cách nhỏ nhen quá, hét to:
– Bà có điên mới định báo thù bằng cách đó!
Âm Tố Quân không buồn lưu ý đến chàng nữa, vẫy tay về phía các đệ tử, ra lịnh người lành mạnh dìu kẻ bị thương, rời khỏi khách sạn.
Quan Sơn Nguyệt nhìn theo bọn Vô Cực Kiếm Môn, chốc chốc buông tiếng thở dài.
Chàng thừ người tại chỗ, miên man suy nghĩ ...
Mãi đến lúc Lưu Tam Thái gọi chàng, chàng mới giật mình, trở lại thực tế ...