Quan Sơn Nguyệt nhìn sững thiếu nữ, chừng như chàng chẳng hiểu nàng muốn nói gì, và đương nhiên là chàng khó tin nàng rồi!
Nàng là Phi Đà Lệnh Chủ? Làm gì có việc đó? Tại Tà Dương Trang, chính Kỳ Hạo đã tự nhận là Lịnh Chủ Phi Đà và hắn ta phải là Lịnh Chủ Phi Đà mới hợp lý, chứ có đâu lại là một nữ nhân? Mà nữ nhân lại thuộc lứa tuổi đó?
Huống chi, chàng còn nhớ mang máng là có gặp nàng một lần. Lúc đó, chàng ở tại Tuyết Thần Cốc nhờ Tuyết Lão Thái Thái chữa trị thương thế cho chàng. Chàng chỉ trông thấy nàng trong thoáng qua thôi, nên cái ấn tượng không được rõ rệt cho lắm.
Tuy chính nàng mỗi ngày săn sóc chàng, song vì Tuyết Lão Thái Thái dùng quá nhiều thuốc kích thích, cốt chữa cho chàng bình phục nhanh chóng, do đó chàng phải mất thần trí một thời gian, đến Trương Thanh mà chàng cũng chẳng nhận ra, huống hồ là những kẻ khác? Cho nên, chàng không nghĩ ngợi lắm về nàng. Sau nầy, khi thuốc kích thích mất hiệu lực, chàng tỉnh trí lại, cũng có nhớ đến nàng, song lúc đó nàng đã ly khai Côn Lôn Sơn, chàng không còn gặp nàng nữa.
Giữa chàng và nàng, chẳng có sự liên quan nào khả dĩ gọi là trọng đại, nên chàng dễ quên đi, rồi bây giờ, đột nhiên gặp lại nàng, gặp lại để nghe nàng tự xưng là Lịnh Chủ Phi Đà, một kẻ đối lập với chàng. Đương nhiên, chàng phải lấy làm lạ.
Trong khi Quan Sơn Nguyệt nhìn nàng, dửng dờ, nàng lại lộ cái vẻ phẫn hận, cao giọng hỏi:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi định vờ vĩnh với ta phải không? Chẳng lẽ ngươi không nhận ra ta?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, trở về thực tại, điềm nhiên điểm một nụ cười, đáp:
– Nhận ra chứ! Tại hạ còn nhận ra cô nương mà! Trên Côn Lôn Sơn ...
Bỗng nhiên, Khổng Linh Linh phát cáu, hét lớn:
– Ngươi đừng nhắc đến cái tên Côn Lôn Sơn với ta nữa! Ta không muốn nghe ai nói đến địa phương đó!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cô nương không muốn nghe ai nhắc đến ba tiếng Côn Lôn Sơn à? Có đúng như vậy hay không đó? Tại hạ nghĩ rằng, cô nương không dám nghe thì phải hơn, bởi tại nơi đó, cô nương đã làm một chuyện hay hay!
Chàng tiếp nối với giọng mỉa mai:
– Cái chuyện hay hay do cô nương làm ra, trên giang hồ không mấy kẻ hoan nghinh, trừ cái hạng người vong ân bội nghĩa, toan phản bạn giết thầy ...
Đáng lẽ Khổng Linh Linh phải nổi giận, vì Quan Sơn Nguyệt mắng nàng quá nặng nề. Còn gì nặng hơn những tiếng mắng vong ơn bội nghĩa, phản bạn, hại thầy? Vậy mà nàng vẫn bình tịnh như thường. Nàng cười lạnh, thốt:
– Có chi đâu? Ngươi khỏi phải mỉa mai ta! Cho ngươi biết, Tuyết lão bà đâu có xứng đáng là sư phụ của ta, mà ngươi hòng nói đến việc phản bội? Thực tình thì bà ấy có dạy ta học vũ công hơn mười năm dài, nhưng tiếng là thế, kỳ thực thì ta đã lãng phí suốt thời gian mười năm dài đó! Ngươi hiểu chứ, một tấc quan âm, một tấc vàng, huống hồ mười năm dài ta bỏ phí? Ta hận bà ấy làm mất thì giờ của ta thì có, chứ ơn gì của bà ta mà ta nhớ? Nghĩa gì của bà ta mà ta trọng chứ?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Học tập với bà ấy hơn mười năm mà cô nương cho rằng lãng phí thời gian?
Khổng Linh Linh «xì» một tiếng lớn:
– Ta học gì? Những môn công do bà ta truyền dạy, toàn là vô dụng, chẳng có giá trị nhỏ nhặt nào cả!
Quan Sơn Nguyệt thấy nàng phủ nhận ơn nghĩa sư tôn của nàng một cách trắng trợn quá, bất giác nổi giận, quát:
– Câm đi! Cô nương càng nói, tại hạ càng khinh cô nương, nói nữa làm chi?
Con người ta, dù chỉ được kẻ khác giáo huấn cho một ngày, một bữa, kẻ đó vẫn là thầy, kẻ đó suốt đời phải được tôn kính! Huống chi Tuyết Lão Thái Thái từng nuôi dưỡng, từng giáo huấn cô nương suốt thời gian dài mười mấy năm, cô nương lại nỡ phủ nhận công ơn của bà ta thì rõ thật cô nương chẳng còn nhân tánh vậy!
Lời nói của cô nương chẳng phải là ngôn ngữ của loài người vậy!
Bây giờ thì Khổng Linh Linh phẫn uất thật sự. Nàng hét lớn:
– Quan Sơn Nguyệt! Bằng vào đâu, ngươi lại dám to tiếng mắng ta không phải là con người? Ngươi có biết tại sao ta không muốn nghe ai nhắc đến ba tiếng Côn Lôn Sơn chăng? Cho ngươi biết, chính tại đó, ta đã sơ sót buông tha kẻ thù đã sát hại phụ thân ta, cho nên nghe ai nói đến địa phương đó, ta sôi sục niềm căm hờn! Nếu lúc đó ta biết được sự tình, thì làm gì ngươi sống sót đến ngày nay?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh, chận lời:
– Khổng Linh Linh! Cô nương nói nghe thông vô cùng! Mười mấy năm giáo dưỡng cho cô nương nên người, lại có những phương tiện tự vệ đáng giá, thế mà Tuyết Lão Thái Thái chưa xứng là một ân sư của cô nương! Còn như phụ thân của cô nương đã trốn tránh ngay cái bổn phận làm cha, không hề chiếu cố đến cô nương ngay từ lúc cô nương còn ấu trĩ, thử hỏi lịnh tôn có ân nghĩa gì đối với cô nương? Cho nên, nghe cô nương nhắc nhở đến mối phụ thù, lại cho là mối huyết hải thâm thù, thực tình tại hạ nghi ngờ quá đi thôi, cô nương ơi! Cô nương nói thế, là do cái tâm thành mà nói, hay nói để mà nói cho có cái hậu đức lòe đời hở cô nương? Người như cô nương, bội sư, phản bạn, lại biết đến mối thù của cha nữa sao?
Khổng Linh Linh biến sắc mặt xanh dờn. Tranh luận với Quan Sơn Nguyệt, càng phút nàng càng thấy mình đuối lý, nàng phẫn uất cực độ, chuyển nhanh sang giai đoạn tranh tài liền. Lập tức, nàng rút thanh trường kiếm bên hông ra khỏi vỏ, hét lớn:
– Quan Sơn Nguyệt! Đừng khua môi múa lưỡi với ta nữa ...
Nàng gằn giọng tiếp nối:
– Những vật ta hứa trao cho ngươi, hiện ở trên lưng lạc đà kia, ngươi hãy lấy đi, lấy rồi cùng ta khai trường tử chiến, nhất định hôm nay giữa chúng ta phải có một kẻ chết, một kẻ sống! Chúng ta đã thành hai thù nhân bất cộng đái thiên, ngươi nên biết như vậy mà giữ mình!
Quan Sơn Nguyệt nạt ngang:
– Tại hạ đâu có thời giờ đùa cợt với cô nương? Hôm nay, tại hạ có ước hẹn với Phi Lạc Đà, tại hạ chỉ chấp nhận giao thủ với hắn thôi!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Ta là Phi Lạc Đà đây, ngươi hãy động thủ gấp!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không! Tại hạ không có ước hẹn với cô nương, làm thế nào động thủ với cô nương được? Tại hạ đang chờ một nam nhân, tên là Kỳ Hạo! Cô nương nghe rõ chưa, một nam nhân tên Kỳ Hạo, chẳng phải là một nữ nhân tên Khổng Linh Linh!
Khổng Linh Linh cao giọng:
– Y là trượng phu của ta đó, vợ chồng ta cùng một danh hiệu, ngươi chẳng còn lý do gì để tránh né cuộc chiến với ta!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Hắn là trượng phu của cô nương? Các vị kết hôn với nhau từ lúc nào thế?
Khổng Linh Linh quát:
– Kết hôn lúc nào mặc ta, việc đó can gì đến ngươi mà ngươi phải hỏi chứ?
Cứ biết, ta không lừa ngươi là đủ rồi!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không thể được, cô nương ơi! Tại hạ cần phải hỏi cho minh bạch. Nợ có chủ, oan có đầu, nghiệp có duyên. Nếu không minh bạch thì khi nào tại hạ hành động hồ đồ? Cô nương phải biết, giữa tại hạ và Phi Lạc Đà, sự liên quan nào phải chỉ giới hạn trong phạm vi một cuộc chiến đâu? Sự tình còn dài, dài lắm cô nương ạ!
Khổng Linh Linh đang thủ thế, chờ Quan Sơn Nguyệt xuất chiêu, nghe chàng nói như vậy, vội hoành ngang ngọn kiếm trước ngực, xóa bỏ tư thế ứng chiến vừa rồi, đoạn hỏi:
– Ngươi còn muốn gì nữa? Cứ nói đi, ta cố gắng dằn tánh nóng thêm mấy phút giây, chờ ngươi nói.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn cất tiếng:
– Ai là thủ phạm cướp bạc bảo tiêu, giết người tại thành Lương Châu?
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Ta! Chắc ngươi muốn biết lý do? Ta không vì số bạc, ta chỉ vì thù. Phái Chung Nam từng có thái độ vô lễ với phụ thân ta, ta có bổn phận trừng trị chúng.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Ai dùng Phi Đà Lệnh, cố ý ước đấu với tại hạ? Cũng cô nương luôn?
Khổng Linh Linh lắc đầu:
– Không phải ta! Việc đó, chính trượng phu ta làm. Y có cái lý do của y, cũng như ta hành sự có cái lý do của ta.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Lý do của hắn như thế nào?
Khổng Linh Linh quát:
– Ngươi hỏi vơ vẩn quá chừng! Ta làm sao biết được tâm ý của y? Y có cho ta biết đâu?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:
– Tốt hơn hết, cô nương nên đi gọi hắn đến đây! Giữa tại hạ và hắn, có một vấn đề hết sức quan trọng, cần phải giải quyết, càng sớm càng hay. Sự liên hệ giữa Minh Đà và Phi Đà, cô nương không thể thay mặt cho hắn giải quyết được.
Hơn nữa, tại hạ không thích xuất thủ với nữ nhân, cô nương đừng bức bách tại hạ, vô ích!
Khổng Linh Linh nổi giận:
– Quan Sơn Nguyệt! Giả như ngươi khiếp sợ ta, thì cứ quỳ xuống đi, quỳ rồi cúi đầu, chấp tay vái ta ba lượt, ta sẽ tha thứ cho!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Khéo nói nhảm! Chết, tại hạ còn chẳng sợ, cô nương là cái quái gì, tại hạ phải sợ chứ? Phải biết, cuộc tranh chấp giữa Minh Đà và Phi Đà rất quan trọng, cô nương không đủ tư cách dùng danh nghĩa Phi Đà, khiêu chiến tại hạ đâu!
Dưới ánh trăng, gương mặt của Khổng Linh Linh hiện ra trắng nhợt, sắc mặt đó chứng minh niềm phẫn nộ bốc cao nơi tâm tư nàng. Nhưng, Quan Sơn Nguyệt dùng lời lẽ ôn tồn, tuy có phần lạnh nhạt, nàng chẳng có một lý do nào để phát tiết niềm phẫn nộ cực độ đó. Thành thử, nàng thấy khó chịu hơn, khó chịu vì phải dồn nén trong lòng, không nơi phát tiết.
Lâu lắm, nàng mới tiếp nối với giọng trầm trầm:
– Ngươi giết cha ta, ta phải báo thù, ta khiêu chiến ngươi, như vậy chưa phải là một lý do chánh đáng sao? Ta không đủ tư cách động thủ với ngươi sao? Kỳ Hạo có lý do của y, ta có lý do của ta, sao ngươi phủ nhận cái lý do của ta, mà chỉ chủ trọng đến một nguyên nhân khác?
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một phút, đoạn buộc miệng thở dài:
– Cô nương nói thế, thì tại hạ không còn cự tuyệt nữa được!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Trừ ra ngươi khiếp nhược, sợ ta giết nên mới thoái thác thôi!
Nàng rời lưng Hắc Đà, nhảy xuống đất, bước đi hơn mươi bước, rồi quay đầu lại, bảo Quan Sơn Nguyệt:
– Thủ lấy Kim Thần của ngươi cho chắc đi, chúng ta bắt đầu là vừa!
Cần gì phải thủ lấy Kim Thần? Bất cứ một vũ khí nào cũng khả dụng cho chàng trong lúc nầy cả, bởi chàng tin chắc là mình sẽ thủ thắng trước Khổng Linh Linh. Như vậy, cần gì phải dùng đến vật sở trường?
Chàng day qua Lữ Vô Úy, thốt:
– Xin Chưởng môn nhân cho tại hạ mượn tạm thanh kiếm!
Lữ Vô Úy trao kiếm liền.
Tiếp lấy thanh kiếm rồi, Quan Sơn Nguyệt nhún chân nhảy đến con Minh Đà, hất chiếc Kim Thần Độc Cước xuống đất.
Khổng Linh Linh trố mắt, hỏi:
– Sao ngươi không dùng chiếc Kim Thần, giao thủ với ta?
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Kim Thần, là vật tượng trưng của một Lịnh Chủ, khi nào gặp đối thủ chân chính, tại hạ mới dùng đến. Giả như Phi Đà Lệnh Chủ chân chánh đến đây, thì tại hạ mới dùng đến Kim Thần, cô nương chỉ là một kẻ giả hiệu, tại hạ cần gì phải dùng đến nó?
Khổng Linh Linh lại phải một phen phẫn uất phi thường.
Quan Sơn Nguyệt cử kiếm lên, khoa một vòng, đoạn tiếp:
– Ngoài ra, tại hạ còn có một lý do khác, dùng kiếm đối phó với cô nương.
Thanh kiếm nầy là vật của phái Chung Nam, tại hạ muốn dùng vật của phái Chung Nam, để báo thù cho những người trong phái đó, có như vậy, những oan hồn mới thỏa mãn nơi suối vàng.
Nói đoạn, chàng nhảy lên lưng Minh Đà, bảo:
– Cô nương hãy trở lại lạc đà, lên lưng nó rồi xuất thủ, đừng giao đấu dưới đất, bất tiện cho cô nương!
Khổng Linh Linh không đáp, bước nhanh trở về Hắc Đà, nhảy lên lưng nó, giục nó trở lại, đối trận với Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, giục:
– Xuất thủ đi, cô nương! Tại hạ nhường cho cô nương tấn công trước đó!
Khổng Linh Linh vận dụng toàn lực, quét qua một kiếm.
Quan Sơn Nguyệt ung dung cử kiếm đón liền.
«Keng!» Tiếng thép ngân vang, loang dài trong không gian, lửa bắn ra như ngàn sao sáng. Đang đêm, lửa chớp ngời, ắt cả ánh sáng của vầng trăng.
Quan Sơn Nguyệt vẫn ngồi bất động, thản nhiên như chẳng có việc gì, còn Khổng Linh Linh suýt rơi xuống đất. Nàng phải cố gượng lắm mới giữ nguyên mình trên lưng thú.
Minh Đà đứng nguyên tại chỗ, còn Hắc Đà thì phải lùi lại mấy thước, chính nó cũng bị chấn động như chủ nhân của nó.
Quan Sơn Nguyệt cất tiếng cười vang:
– Tại Lương Châu, cô nương ước hẹn với tại hạ, sẽ quyết tranh thư hùng với tại hạ, người chống người, thú so thú, giờ đây, đành là người chưa bại hẳn, mà thú đã kém rồi, như vậy cái lẽ phân định thư hùng đã quá rõ, cô nương thấy chứ?
Huống chi cô nương là thư, tại hạ là hùng, hùng bao giờ cũng trên thư mấy bậc, cô nương ơi!
Chàng cố dùng giọng cao ngạo, khích tiếp:
– Về đi cô nương, về bảo với đấng trượng phu, chọn cho cô nương một con vật khác, sau đó sẽ trở lại tìm tại hạ mà báo thù cho cha!
Lại một lần nữa, Khổng Linh Linh tức uất cực độ, đôi mắt tóe lửa ngời ngời.
Giận cá, chém thớt, nàng vung tay khoa thanh kiếm từ bên trên chém xuống.
Con lạc đà nào có hay biết gì? Mà dù có hay biết, nó cũng chẳng làm sao phản ứng được. Một tiếng «phập» vang lên, máu vọt thành vòi, đầu Hắc Đà rơi xuống đất, lăn long lóc.
Thân lạc đà chưa ngã, Khổng Linh Linh đã nhảy xuống đất rồi.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi:
– Cô nương làm cái gì thế?
Khổng Linh Linh hét lớn:
– Vật vô dụng, để làm gì? Giết đi cho khỏi chướng mắt!
Quan Sơn Nguyệt nổi cáu:
– Bất quá, tại hạ tùy tiện buông đùa một câu, cô nương lại nhẫn tâm sát hại ngay một sanh vật như thế à? Phải biết Hắc Đà là con vật quý, giết nó rồi, chắc gì cô nương lại tìm được một con khác như nó?
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Nhẫn tâm hay từ tâm, mặc ta, vật của ta, ta có quyền xử trí tùy theo ý muốn của ta. Ngươi có lý do gì can thiệp? Có can đảm, hãy xuống đất đi, chúng ta quần nhau một lúc, xem sao!
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, nhảy xuống lưng lạc đà, cao giọng thốt:
– Cô nương không được quyền xem rẻ sanh mạng, dù là sanh mạng một con vật!
Khổng Linh Linh cũng quát to:
– Ngươi đừng đắc ý sớm, cho ngươi biết, con Minh Đà của ngươi cũng chưa phải là hi hữu đâu! Hắc Đà của ta, bất quá chỉ là một con vật tầm thường, ta giết một, sẽ có mười, và mười quý hơn nữa kìa! Ngươi cứ chờ xem con Hắc Đà của trượng phu ta, rồi sẽ làm một cuộc so sánh với con vật của ngươi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Tại sao trượng phu của cô nương hôm nay lại không đến?
Khổng Linh Linh lạnh lùng:
– Đến làm gì vội? Khi nào ngươi thắng được ta, thì y mới đến, còn như ngươi bại nơi tay ta, y cần chi phải đến?
Nàng lướt tới, vung kiếm chém liền.
Quan Sơn Nguyệt nghinh đón lập tức.
Lần nầy, giao đấu ngay trên mặt đất, phạm vi hoạt động không bị hạn chế, song phương có thể tận dụng sở năng, quyết áp đảo đối thủ trong mấy phút giây đầu, họ xuất phát toàn chiêu thức tối độc.
Trong thoáng mắt, họ đã trao đổi với nhau hơn mười chiêu. Thép kiếm chạm nhau xoang xoảng, lửa thép bắn ra, chớp ngời. Cuộc chiến càng dài, chiêu thức càng độc, cục diện khốc liệt phi thường.
Quan Sơn Nguyệt thoạt đầu còn khinh thường, dần dần chàng dè dặt hơn, cuối cùng thì chàng lại kinh ngạc, không tưởng nổi là Khổng Linh Linh lại có thực tài như thế. Một nữ nhân, có được kiếm pháp như nàng, kể ra cũng hiếm có trên giang hồ đương thời.
Tuy nhiên, kiếm pháp của Khổng Linh Linh, do chính Tuyết Lão Thái Thái truyền thọ, Quan Sơn Nguyệt thường ngày xem Trương Thanh tập luyện, đã quen mắt rồi. Bây giờ Khổng Linh Linh mang ra đối phó với chàng, chàng không bỡ ngỡ lắm, nhờ vậy mà chàng hóa giải những chiêu tuyệt độc không khó khăn gì.
Nhưng, chỉ qua giai đoạn đầu thôi, thấy không thắng nổi Quan Sơn Nguyệt, Khổng Linh Linh thay đổi kiếm pháp, và hiện tại thì nàng sử dụng toàn những chiêu thức ngụy dị, ảo diệu, ngoài chỗ hiểu biết của Quan Sơn Nguyệt. Do đó, chàng đâm ra lúng túng, phản ứng có phần nào chậm chạp, và dĩ nhiên kém công hiệu rõ rệt.
Bất giác, chàng nổi giận, thầm nghĩ, dù sao chàng cũng là truyền nhân của Độc Cô Minh, lại thua kém một nữ nhân ít tuổi hơn chàng sao?
Chàng phấn động hùng oai, phản công mạnh, chẳng còn vì đối tượng là nữ nhân mà nương tay nữa.
Thực tâm mà xét, chàng chưa đủ sức áp đảo Khổng Linh Linh. Chàng chỉ thủ nhiều hơn công, trong mười chiêu nàng đánh ra, chàng chỉ trả lại được hai chiêu, còn thì hoặc tránh né, hoặc đón đỡ hết sức vất vả.
Khổng Linh Linh thấy rõ nàng nắm cái cơ tất thắng, điểm nụ cười lạnh, gọi Quan Sơn Nguyệt:
– Khách giang hồ truyền tụng ngươi là tay lợi hại, song ta xem ra ngươi quá tầm thường. Bây giờ ta mới biết ngươi chỉ là một kẻ hữu danh vô thực. Không khéo Minh Đà Lịnh tới tay ngươi là phải lu mờ, sư phụ ngươi đã lầm người, chọn một gã giá áo túi cơm như ngươi mà đặt trọn kỳ vọng! Người sẽ tiếc hận biết bao nhiêu khi thức ngộ ra ngươi vô dụng không tưởng nổi!
Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ bình tịnh, cho chân khí không loạn động, để ứng chiến, bởi chàng biết rõ, Khổng Linh Linh cố khích nộ chàng, cho tâm tư rối lên, đấu pháp phải mất quy củ, để cuối cùng nàng tùy cơ thủ thắng.
Khổng Linh Linh khích một lần, không hiệu quả, lại khích thêm:
– Xem kiếm pháp của đệ tử mà luận tài năng của sư tôn, ta thấy Độc Cô Minh cũng chẳng phải là bậc cao minh chi đó, bởi kẻ vô dụng thì đào tạo đệ tử vô dụng, điều đó rất hợp lý. Thầy đã kém, thì trò làm sao thành tay phi thường được, phải vậy không, hở Quan Sơn Nguyệt? Giả như ta sanh ra đời sớm hơn độ mười năm thôi, thì nhất định trên giang hồ chẳng bao giờ có cái danh hiệu Minh Đà Lịnh Chủ! Độc Cô Minh đã phải táng mạng nơi tay ta từ lâu!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Cô nương bất quá được Kỳ Hạo truyền cho mấy cách múa tay, cứ tưởng mình là bậc kỳ tài trong thiên hạ, rõ ngông cuồng quá chừng! Cô nương sao chẳng nhớ đến năm xưa, tín vật của nhà họ Khổng bị ân sư tại hạ lấy đi, dễ như lấy món đồ trong túi? Rồi sau đó hai mươi năm lịnh tôn lại táng mạng nơi tay tại hạ. Thầy như vậy, vô dụng sao? Trò như vậy, vô dụng sao? Đã là những kẻ vô dụng, ân sư tại hạ và tại hạ làm gì tận diệt nổi bọn người trong Lạc Hồn Cốc? Hà hà! Giả như cô nương nói sai, thì nên sửa chữa lại đi là vừa!
Tuy nói thế, bên trong Khổng Linh Linh cũng phải khâm phục Quan Sơn Nguyệt. Đành là chàng ít công hơn thủ, song lối thủ của chàng chặt chẽ phi thường, vững chắc như tường đồng vách sắt. Đã mấy lượt nàng vận dụng toàn lực, định chọc thủng bức tường phòng thủ đó, song kiếm của nàng vừa bị chạm vào là bị hất bật trở lại. Đã lâu lắm rồi, mà nàng vẫn chưa làm gì nổi chàng, mặc dù nàng luôn luôn có ưu thế.
Đánh mãi, nàng không áp đảo được Quan Sơn Nguyệt, khích mãi, chàng cũng không mất bình tĩnh, trái lại, chàng còn trêu tức nàng. Khổng Linh Linh phẫn nộ, chính nàng không giữ tự chủ nổi, bất giác lồng lên như thú dữ bị thương, thét vang dậy:
– Quan Sơn Nguyệt, ngươi phải chết với ta! Nhất định ta phải giết cho được ngươi!
Nàng vung kiếm tới tấp như bất chấp chiêu thức, bất chấp bộ phận nào trên người đối phương, cứ đâm, cứ chém.
Quan Sơn Nguyệt hết sức hãi hùng, không tưởng là khi nàng tức uất lên, lại càng hung dữ vô tưởng. Chàng phải thận trọng từng ly, từng tí, tự nhiên, trước khí thế quật khởi của nàng, chàng quay về thế thủ hoàn toàn.
Thanh kiếm của nàng ngân vang, thanh kiếm rít gió như một vật rỗng lòng được vung mạnh, bật kêu vi vu, tiếng kêu nghe rợn mình.
Phải nhìn nhận kiếm pháp của nàng quả thật tuyệt luân, một nhát đưa ra, mũi kiếm tạo nhiều điểm sao, những điểm sao đó bắn vút vào mình Quan Sơn Nguyệt. Một mũi kiếm phát xuất mà có thể công vào nhiều điểm, thủ pháp đó phải nhanh, phải ảo diệu phi thường.
Cuối cùng, nàng đánh ra một nhát, nhắm vào ba yếu huyệt của Quan Sơn Nguyệt.
Dù chàng có nhanh tay, cũng không hóa giải nổi. Dù chàng có nhanh chân, cũng không đảo bộ tránh né kịp. Bắt buộc, chàng phải liều, đòn đổi đòn, đâm thẳng tới một kiếm ngay ngực nàng. Giả như nàng cứ giữ tư thế, dù nàng có đắc thủ, ngược lại nàng cũng không tránh khỏi mũi kiếm của Quan Sơn Nguyệt xuyên thủng ngực, có thể là thấu qua sau lưng luôn. Và, như vậy, là cả hai đồng quy ư tận.
Nhưng, kiếm pháp và thân pháp của Khổng Linh Linh trên Quan Sơn Nguyệt một bậc. Nàng không khiếp hãi trước cái thế đổi đòn của Quan Sơn Nguyệt.
Nàng nghiêng người qua một bên, nhường mũi kiếm của Quan Sơn Nguyệt lướt qua cánh tay, cách độ tấc.
Nghiêng người như vậy, nàng phải lệch tay kiếm, chếch mũi ra ngoài. Không chậm trễ, nàng hoành tay quét trở lại, xuống hạ bộ của chàng. Nếu lúc đó, nàng đâm thốc lên, mũi kiếm sẽ chọc thủng dạ dưới của Quan Sơn Nguyệt.
Chẳng rõ tại sao, nàng chỉ quét phớt qua luôn, chứ không đâm thốc kiếm lên, thành thử nàng rọc tét một đường nơi tà áo của Quan Sơn Nguyệt. Đoạn, nàng thu kiếm, hồi bộ, rồi bật cười cuồng dại.
Bị đối phương dùng mũi kiếm rọc tét tà áo một đường dài, thay vì thẹn, uất, Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên như thường. Chàng nhìn xuống chỗ áo bị tét, đoạn hướng sang Khổng Linh Linh, bình tịnh hỏi:
– Cô nương cười chi?
Khổng Linh Linh cũng nhìn chỗ áo tét của chàng, tiếp tục cười vang:
– Dọc theo đường tét nơi tà áo của ngươi đó, ngươi hãy thuê người thiêu ba chữ:
Minh Đà Lịnh, để đánh dấu cuộc gặp gỡ hôm nay với ta, để cho thiên hạ biết Lịnh Chủ Minh Đà xứng đáng là một tay vô địch trên giang hồ, Lịnh Chủ Minh Đà đáng được hưởng mọi vinh quang trong vũ lâm!
Quan Sơn Nguyệt so hai vai, lạnh lùng đáp:
– Đánh nhau, tất phải có thắng, có bại, đó là lẽ thường, kẻ nào chú trọng quá độ đến thắng, bại, kẻ đó chưa đủ tư cách làm khách giang hồ. Có chi đâu mà cô nương hãnh diện? Huống chi, dòng đời luân chuyển, khi người, khi ta, thắng hôm nay, rồi bại ngày mai, thì sao? Nụ cười đáng được ghi nhận là nụ cười sau cùng, mà tại hạ và cô nương gặp nhau hôm nay, chỉ là lần đầu tiên thôi!
Nàng thắng, Quan Sơn Nguyệt bại, vậy mà chàng thản nhiên như không, thật tình Khổng Linh Linh phải lấy làm lạ, bình sanh nàng chưa từng thấy ai có thái độ như chàng! Nàng sững sờ, nhìn chàng như nhìn một quái vật!
Đúng như vậy, phải là một quái vật, chàng mới không thẹn, không hận.
Chính những người đứng bên ngoài, như Lữ Vô Úy, Tôn Thất, Lạc Tiểu Hồng và Lưu Tam Thái cũng áy náy cho chàng thay, huống hồ chàng là người trong cuộc? Thế mà chàng dửng dưng, như cái bại nầy, người nào đó tiếp nhận chứ chẳng phải chính chàng!
Khổng Linh Linh thoạt đầu còn kinh dị, sau cùng nàng nổi giận. Có lẽ nàng nghĩ rằng Quan Sơn Nguyệt quá khinh miệt nàng, nàng rít giọng, nàng bộc lộ rõ niềm oán độc vô biên:
– Ta dung tha cho ngươi, ngươi chẳng thốt một lời cảm tạ, ta đánh ngươi bại, ngươi lại chẳng thẹn thùng! Phải biết được như thế nầy, thì ta đã đâm thốc mũi kiếm lên, xuyên thủng hạ bộ ngươi rồi, cho ngươi về chầu Diêm chúa!
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Tại sao cô nương dung tha tại hạ? Tại sao?
Khổng Linh Linh nghiến răng keng két:
– Chỉ vì trượng phu ta ngăn trở ta. Y bảo là để ngươi sống, rồi chính tay y hạ sát ngươi!
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Trượng phu cô nương nói đúng đấy! Chính hắn là kẻ đối đầu chân chánh, hắn phải giết được tại hạ, tự tay, mới sướng cho hắn! Tuy nhiên, tại hạ chờ xem, hắn có đủ tài làm cái việc đó hay chăng!
Khổng Linh Linh lại nổi giận:
– Đến ta mà ngươi còn không địch nổi, làm gì ngươi thủ thắng được trước trượng phu ta mà huênh hoang là chờ y đến? Đừng nuôi mộng, Quan Sơn Nguyệt! Ta nghĩ, ngươi nên trao Minh Đà Lịnh cho ta, rồi tìm một nơi cô tịch nào đó, sống nốt những ngày tàn, vĩnh viễn từ bỏ cái danh hiệu Minh Đà Lịnh Chủ!
Thẹn lắm! Thẹn lắm!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cũng được chứ, cô nương, song hãy đợi sau khi hội diện với trượng phu cô nương rồi hẵng hay! Bây giờ, quyết định thái độ, tại hạ e còn sớm!
Khổng Linh Linh hét:
– Cái ngông cuồng của ngươi không giúp ích gì cho ngươi cả! Ngươi không có tư cách một nam nhân, đã bại rồi mà không chịu bại, cái da mặt của ngươi chắc là dầy lắm đấy!
Bỗng, Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm thần sắc, cao giọng thốt:
– Cho cô nương biết, tại hạ đường đường là một nam nhân, tại hạ lại là Lịnh Chủ Minh Đà, danh dự của tại hạ phải lớn trên giang hồ, có môn phái nào không nể trọng tại hạ? Thì đương nhiên, nếu tại hạ bại hẳn tại hạ phải nhục chứ?
Nhưng, tại hạ dửng dưng như thường, điều đó phải có nguyên nhân. Giả như cô nương khẳng định là mình thắng, vậy cô nương thử vấn tâm xem ...
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Vấn tâm? Ta có làm gì mà phải vấn tâm?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Không vấn tâm thì cô nương đưa tay sờ ngực, nghe con tim nhảy như thế nào?
Khổng Linh Linh lấy làm lạ, bất giác đưa tay sờ nơi ngực. Vừa chạm tay vào áo, nàng biến sắc.
Thì ra, ngực áo của nàng cũng bị tét một đường, vì nàng mặc nhiều áo, mà chỉ có một lớp ở bên ngoài bị tét thôi, cho nên nàng chẳng hề nghe một cảm giác nào cả. Đã không có một cảm giác nào, thì làm sao nàng biết được ngực áo bị rọc tét lúc nào?
Nàng soát lại ký ức, nhận ra trước sau Quan Sơn Nguyệt chỉ xuất phát ba chiêu, còn thì chàng chuyên thủ thôi. Mà về hai chiêu đầu, chàng đưa ra nửa vời rồi thu về lập tức. Chỉ có chiêu cuối cùng, là chàng đánh ra trọn vẹn, cái chiêu đồng quy ư tận. Như vậy, ngực áo của nàng phải bị tét trong chiêu thứ ba của Quan Sơn Nguyệt.
Qua phút giây sửng sốt, thẹn thùng, Khổng Linh Linh mất cả vẻ cao ngạo, thấp giọng hỏi:
– Cái chiêu đó, quả thật tuyệt diệu, ngươi có thể cho ta biết, nó tên là gì chăng?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Chiêu thức nào lại chẳng có tên? Song cái tên của chiêu thức nầy, nghe không được thanh tao cho lắm. Cái tên của nó, là «Tử Lý Cầu Sanh»!
Khổng Linh Linh suy nghĩ một chút:
– Ta thấy cái tên không thích hợp với chiêu thức tý nào. Giả như ta muốn liều mạng như ngươi, dù cả hai không chết, cả hai cũng phải thọ thương, chắc gì cả hai không chết, khi một bị kiếm xuyên thủng dạ dày, một cũng bị kiếm xuyên thủng ngực. Như vậy, có thể nào gọi là cầu sanh? Cầu sanh trong trường hợp đó, có khác nào vọng tưởng?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Cả hai cùng thọ thương, là điều không thể có được. Bởi song phương không đồng tài, đồng sức đến độ cùng xuất chiêu đồng thời, và chiêu thức chạm đích đồng lúc. Bất cứ trong trường hợp nào, cũng có sự sai biệt, về thời gian cũng như về công hiệu, cho dù là sự sai biệt đó rất nhỏ, vẫn đủ giúp cho người trong cuộc chiếm tiên cơ, ai nắm được tiên cơ, là người đó nắm cái lẽ tất thắng.
Chàng dừng lại một chút, đoạn ngưng trọng thần sắc hỏi:
– Cô nương nhớ lại xem, trong chúng ta ai đã chiếm được tiên cơ?
Khổng Linh Linh biến sắc mặt. Nàng đã rõ cái lẽ thắng bại về ai, nàng cũng nhận ra, chính nàng xuất thủ phát chiêu kiếm trước. Nhưng thu kiếm về, lại chính là Quan Sơn Nguyệt nhanh tay hơn.
Thu kiếm nhanh hơn, tất phải lùi trước, và trong trường hợp Quan Sơn Nguyệt lùi trước, thì nếu nàng cứ đâm thốc mũi kiếm lên nhắm vào dạ dày chàng, chắc gì chiêu kiếm đó chạm trúng dạ dày của chàng? Bởi chàng lùi là khoảng cách nơi đó rộng thêm ra, có thể đối phương đã ở ngoài tầm kiếm, nàng đâm kiếm làm sao tới mình đối phương được? Như vậy là Quan Sơn Nguyệt chiếm tiên cơ, sát hại nàng nhưng chàng không lợi dụng cái tiên sơ đó, buông tha cho nàng, chỉ lùi lại thôi.
Chiếm được tiên cơ, nếu chàng cứ đâm tới, ngực nàng sẽ bị đâm thủng, nàng làm gì sử dụng cái thế kiếm đâm thốc vào dạ dày chàng, mà tự hào là mình buông tha?
Bắt buộc, nàng nhận thấy cái thắng của nàng chỉ là một hình thức, và hình thức đó sở dĩ có là vì Quan Sơn Nguyệt tha chết cho nàng. Còn cái thắng thực sự, lại thuộc về phần chàng. Nàng cúi đầu, gương mặt xanh nhợt.
Gầm đầu, biến sắc diện, sau khi nghe chỉ dẫn, điều đó chứng tỏ nàng nhận bại rồi. Nàng «hừ» một tiếng, thốt:
– Quan Sơn Nguyệt! Ta nhận bại, song ngươi khoan đắc ý vội, một ngày nào đó, ta sẽ hoàn lại ngươi, mũi kiếm hôm nay!
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:
– Và như vậy, đã đến lúc trượng phu cô nương xuất hiện!
Khổng Linh Linh trầm giọng:
– Hôm nay, y bận việc, ta đại biểu cho y ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Bất cứ việc gì cũng không quan trọng bằng cái việc ước hẹn, bởi sự ước hẹn đánh giá chữ tín của con người, người giữ tín, mới đáng mặt làm người, cho nên sự ước hẹn quan trọng hơn mọi việc trong đời mỗi người. Tại hạ rất hối hận vì đã đính ước với một người không thủ tín!
Khổng Linh Linh quắc mắt, bắn lửa hận chớp ngời, cao giọng thốt:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi từng gặp trượng phu ta, tất ngươi cũng hiểu rằng không đến là thất tín, dù biết rằng chữ tín rất trọng trong giới giang hồ, y vẫn không đến, hẳn nhiên phải có một sự việc gì quan hệ phi thường, ngăn trở y chứ?
Sự việc đó, quan hệ hơn cả việc thủ tín, cho nên y phải bỏ cái nhẹ, chọn cái nặng!
Nàng gằn từng tiếng:
– Đừng tự đắc là mình tài ba, khiến cho người ta sợ đến đỗi phải thất tín!
Quan Sơn Nguyệt phải nhìn nhận là nàng có lý. Chàng gật đầu:
– Được, tạm thời tại hạ tin như cô nương đã nói. Nhưng tại hạ tin một lần thôi đấy, xin cô nương hãy cho trượng phu cô nương biết là đừng lạm dụng lòng tin của tại hạ mà tái diễn cái điều thất tín thêm một lần nữa.
Chàng nghiêm giọng, tiếp luôn:
– Cô nương bảo là, cô nương đại biểu cho chồng, vậy cô nương hãy ước hẹn lại, vào ngày nào, tại nơi nào, tại hạ sẽ gặp lại trượng phu cô nương?
Khổng Linh Linh lắc đầu:
– Ta không thể tự chuyên ước hẹn với ngươi. Song, ta tin chắc là trượng phu ta sẽ thông tri với ngươi trong nay mai.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Tại hạ chờ xem.
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Không lâu đâu! Ta bảo đảm ngươi sẽ không thất vọng.
Nàng quay mình, bước đi.
Nàng đi được mấy bước, Quan Sơn Nguyệt gọi nàng đứng lại.
Nàng nổi giận, hỏi:
– Ngươi gọi ta để làm gì? Chẳng lẽ ngươi không cho ta đi?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ đâu có ý làm khó cô nương. Huống chi, giữ cô nương lại đây, tại hạ hưởng ích lợi gì chứ? Đã buông tha cô nương dưới mũi kiếm vừa rồi, thì bây giờ còn toan làm khó cô nương chi nữa? Bất quá, tại hạ cần nói với cô nương một điều!
Khổng Linh Linh gằn từng tiếng:
– Điều gì?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Cô nương đã nhận bại nơi tay tại hạ, thì cô nương cũng phải tiếp nhận luôn một điều kiện!
Khổng Linh Linh trầm ngâm một chút:
– Ngươi muốn như thế nào? Ta mong ngươi đừng đặt điều kiện quá khó khăn, trên sức của ta. Vả lại, ngươi nên nhớ, ta là kẻ có chồng, dù sao đi nữa thì cái quyền tự chủ đã mất đi một vài phần rồi ...
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Điều kiện của tại hạ như thế nầy:
Từ đây đến lúc tại hạ giao thủ với trượng phu cô nương, cả hai vợ chồng không được dùng Phi Đà Lịnh để biểu dương cái oai thế trên giang hồ. Thời gian im hơi lặng tiếng phải được tuyệt đối tôn trọng.
Khổng Linh Linh lộ vẻ khó khăn.
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Có hai trường hợp, cô nương suy nghĩ xem ở trong trường hợp nào.
Trường hợp thứ nhất, là cô nương đại biểu toàn quyền của trượng phu cô nương.
Cô nương đến đây, với tư cách một Lịnh Chủ, cô nương bại là Phi Đà Lịnh Chủ bại, Phi Đà Lịnh không còn lý do tồn tại nữa. Trong trường hợp thứ hai, là cô nương không chính thức đại biểu cho chồng, thì cái bại hôm nay không liên quan đến Phi Đà Lịnh Chủ. Nhưng, cô nương không chính thức thay mặt Phi Đà Lịnh Chủ đến ước hội, mà Lịnh Chủ lại vắng mặt, như vậy là Lịnh Chủ thất ước, không gìn chữ tín. Lịnh Chủ phải tuân theo sự ước thúc của tại hạ.
Chàng nhấn mạnh:
– Cô nương suy nghĩ kỹ, xem mình ở trường hợp nào?
Khổng Linh Linh nín lặng một lúc, rồi bật cười khan:
– Được! Cái lý luận của ngươi, đến cả trượng phu ta cũng chẳng tranh biện nổi, huống hồ là ta! Ta đáp ứng đó, Quan Sơn Nguyệt!
Quan Sơn Nguyệt vẫy tay:
– Thế là cô nương đi được rồi! Nên nhớ thông tri cho trượng phu cô nương biết gấp sự tình, càng biết sớm, càng có hy vọng khôi phục uy tín của Phi Đà Lịnh sớm!
Khổng Linh Linh bước đi luôn.
Lạc Tiểu Hồng bước tới. Nàng cao giọng tán:
– Quan đại ca tài vô cùng! Tôi cứ tưởng đại ca bại rồi chứ! Ngờ đâu đại ca thắng, mà lại có lòng nhân hậu, tha chết cho nàng ấy!
Nàng lại lộ vẻ lo ngại, tiếp nối:
– Tuy nhiên, đại ca mạo hiểm quá đấy! Có cơ hội giết nàng, lại bỏ qua. Để cho nàng quét kiếm trúng áo. Giả như đà kiếm đi xa hơn, quét trúng mình, thì mất mạng đại ca rồi! Hoặc giả, nàng đâm thốc mũi kiếm lên chọt thủng dạ dày, thì đại ca còn mong gì sống sót được chứ? Tha người để hứng cái nguy hiểm, nghĩ đáng sợ thật!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Ngu huynh đã tính toán kỹ lắm rồi, mới dám làm thế chứ! Chẳng những ngu huynh biết là chiêu kiếm của nàng không làm thương tổn được ngu huynh, mà nàng còn không dám sát hại ngu huynh nữa đấy!
Lạc Tiểu Hồng trố mắt:
– Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Nàng là vợ của Kỳ Hạo, mà giữa Kỳ Hạo và ngu huynh ...
Nói đến đó, chàng bỏ lửng, chỉ buông tiếp:
– Mà thôi, ngu huynh không nói gì nữa là hơn. Ngu huynh tin là hiền muội cũng hiểu.
Lạc Tiểu Hồng cau mày:
– Tiểu muội có hiểu được chi nhiều đâu, bất quá một vài điểm ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thế ngu huynh lại hiểu được gì nhiều hơn hiền muội sao? Chúng ta đành vậy, biết được bao nhiêu, hay bấy nhiêu, rồi sự việc càng ngày càng diễn tiến, cũng có lúc chúng ta sẽ hiểu tận tường.
Chàng trầm giọng, tiếp:
– Đừng nhắc lại việc nầy nữa, hiền muội, sự tình tới đâu, chúng ta ứng phó tới đó.
Lạc Tiểu Hồng thức ngộ, không hỏi gì nữa. Quanh mình nàng, có Lữ Vô Úy, có Tôn Thất, những người đó có thể nghe được chuyện bí mật về những bảng Phong Thần, Phong Ma nào đó chăng? Quan Sơn Nguyệt phải im bặt, lại còn thức tỉnh cảnh giác của nàng, lẽ nào nàng không hiểu tầm quan trọng của sự tình mà hỏi dồn?
Lữ Vô Úy, đứng bên ngoài, buột miệng thở dài.
Quan Sơn Nguyệt nhìn sang lão, hỏi:
– Chưởng môn có điều chi lo ngại?
Lữ Vô Úy cất giọng trầm buồn, đáp:
– Nào có điều gì lo nghĩ đâu, Quan thiếu hiệp! Chẳng qua lão phu nhận thấy mình hết sức vô dụng, gặp cừu nhân trước mặt mà chẳng làm gì được, như vậy còn dám xưng mình là Chưởng môn nhân một phái võ được nữa sao?
Quan Sơn Nguyệt có phần nào áy náy. Chàng nhận thấy, trong câu nói của Lữ Vô Úy có ngụ cái ý oán hờn. Nhưng, chàng biết làm sao hơn?
Khi sự việc có liên quan đến chàng, luôn những bằng hữu của sư phụ chàng, thì chàng đâu có thể tự tung tự tác làm một việc trái ngược với chủ trương, với chí nguyện của bao nhiêu vị tiền bối, và làm như vậy chỉ để thỏa mãn niềm thù hận của một người, mà người đó không mảy mai liên hệ đến chàng cũng như đến cả những vị tiền bối? Dù người đó là một Chưởng môn nhân, dù người đó thuộc chánh phái, cũng thế thôi. Người đó vẫn là kẻ lạ, đối với chàng. Chàng không thể thỏa mãn một niềm riêng của một kẻ lạ, để hủy bỏ hoài vọng của bao nhiêu người, trong đó có chàng.
Chàng thở dài, nói:
– Có lẽ Chưởng môn nghĩ lầm cho tại hạ đó. Không hạ sát nàng ấy, để báo thù cho quý phái, thực ra điều đó làm cho tại hạ khổ tâm vô cùng. Mà dù không có mối thù giữa quý phái đối với nàng, nàng cũng vẫn đáng bị trừ diệt, bởi cái tâm của nàng quá hung, cái ý của nàng quá ác, tại hạ không thể buông tha nàng một cách dễ dàng như vậy. Nhưng, Chưởng môn có biết đâu, sự an nguy của nhiều bằng hữu trên giang hồ có liên quan đến nàng, nếu hạ sát nàng bây giờ, thì bao nhiêu người sẽ chết vì cái chết của nàng hoặc gặp tai họa phi thường ...
Lữ Vô Úy giật mình, toan nói gì đó, Lưu Tam Thái bước tới, chận lời:
– Chưởng môn nhân bất tất phải hỏi thêm gì nữa, Lịnh Chủ bao giờ hành sự cũng thận trọng.
Lữ Vô Úy thở dài.
Quan Sơn Nguyệt đứng bên ngoài, bình tĩnh theo dõi cuộc giao đấu giữa Lạc Tiểu Hồng và Nhất Luân Minh Nguyệt, đồng thời cũng quan sát thái độ của hai lão nhân.
Chàng nhận ra, họ là những bậc đã đạt mức thượng thừa của vũ học, hơn nữa, chàng lại còn biết hai vị hẳn là những người có tên trong Phong Thần Bảng. Bởi, Vạn Lý Vô Vân đã nói đến ba tiếng Tiểu Tây Thiên, mà nơi đó, theo chàng nghĩ, là địa phương phát xuất ra cái bảng bí mật Phong Thần.
Họ từ Tiểu Tây Thiên đến đây, hiển nhiên lai lịch của họ liên quan đến Phong Thần Bảng.
Nhận ra điều đó, chàng thừa hiểu Lạc Tiểu Hồng chưa phải là đối thủ của Nhất Luân Minh Nguyệt.
Đáng lý ra, chàng phải vào cuộc ngay để tiếp trợ nàng, đề phòng mọi sơ thất tai hại xảy ra. Song, nhìn qua cuộc chiến, chàng thấy Nhất Luân Minh Nguyệt không hề vận dụng công lực đánh trả lại nàng. Lão nhân không ác ý, thì nàng sẽ không bị nguy hại đến tánh mạng, như chàng còn cần gì phải can thiệp?
Nhưng, cuối cùng, lão nhân chế ngự được nàng, lại mang nàng lên trên tảng đá, vô hình trung chàng lo ngại thực sự cho Lạc Tiểu Hồng chàng mất cả bình tĩnh, cứ tưởng là Lạc Tiểu Hồng sẽ gặp nguy hiểm, cho nên chàng vọt mình tới, nắm đầu dây phía dưới giật mạnh.
Sợi dây đó, là ngọn nhuyễn tiên của Lạc Tiểu Hồng một đầu lơi lỏng bên ngoài, để giao chiến, đầu kia buộc dính nơi tay.
Quan Sơn Nguyệt giật mạnh, dây lôi luôn Lạc Tiểu Hồng xuống bên dưới.
Nhất Luân Minh Nguyệt đáp xuống tảng đá, sững sờ.
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, quát:
– Đã thuộc hàng tiền bối, sao nỡ hạ độc thủ đối với bọn hậu sanh? Tiền bối hành động như vậy, chẳng sợ giang hồ sỉ tiếu cho à?
Nhất Luân Minh Nguyệt càng sững sờ hơn. Lão thất vọng ra mặt. Một lúc lâu, lão thở dài, thốt:
– Cũng được! Ngươi muốn nói gì lão phu, cứ nói, tùy tiện nói. Ngươi yên trí, lão phu chẳng bao giờ có một phản ứng nào.
Vạn Lý Vô Vân trố mắt:
– Tại sao thế, Minh Nguyệt? Ta thấy rõ, ngươi đắc thủ rồi mà, sao bỗng nhiên lại buông lơi?
Nhất Luân Minh Nguyệt thừ người ra đó, chẳng nói tiếng gì.
Lạc Tiểu Hồng cũng chẳng biết sự tình đã xảy ra như thế nào cứ tưởng là tự nàng giải thoát cho nàng, nên cao hứng vô cùng gọi Quan Sơn Nguyệt, thốt rối rít:
– Đại ca ơi. Tiểu muội sử dụng ngọn nhuyễn tiên tuyệt diệu quá cái đầu roi đánh trúng lão ta ...
Vạn Lý Vô Vân thấy nàng ngông cuồng, tự đắc quá độ bất giác nổi giận, buông chén rượu xuống tảng đá, rồi phi thân đáp trước mặt nàng, đồng thời quát lớn:
– Lão mập ấy dù có đối xử bất nhã với ngươi, tuy nhiên ngươi phải nhận thấy là lão ta chẳng có ác ý chút nào, bất quá lão muốn đùa nơi ngươi để tạo một cái hứng thú cho tất cả cùng cười vui, tại sao ngươi lấy giả làm thiệt, quyết thi triển những chiêu độc, dồn lão vào con đường cùng?
Lạc Tiểu Hồng ương ngạnh thành tánh, hét trả:
– Ai dồn lão ấy vào đường cùng chứ?
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Lão ấy có nói cho ngươi nghe rồi, ngươi quên sao? Lão ta bình sanh chẳng hề giao đấu với ai quá hai mươi chiêu, qua cái số đó rồi, là cầm như lão tử vong, nhưng lão vẫn kéo dài cuộc đấu với ngươi đến chiêu thứ mười chín, đáng lẽ ngươi phải thấy chỗ lão muốn đùa chứ? Ngươi tài sức bao nhiêu mà lão phải đánh đến chiêu mười chín? Cho ngươi biết, nếu cần đánh chết ngươi, lão chỉ xuất thủ qua một chiêu đầu thôi, là ngươi mất mạng ngay. Thế mà ngươi ngoan cố, cứ đánh luôn đánh mãi đến hai mươi chiêu! Với chiêu cuối cùng, lão bắt buộc phải đánh bại ngươi, đánh bại để lão khỏi phải tử vong, đánh ngươi bại để bắt buộc ngươi ăn thịt nướng, thiệt hại gì cho ngươi đó, mà ngươi phản công bằng độc thủ?
Lão «hừ» lớn hơn một chút, gằn từng tiếng tiếp:
– Ngươi đáng ghét quá chừng, thế là ngươi muốn lão không đắc thủ với chiêu thứ hai mươi thế, là ngươi dồn lão vào đường cùng! Còn biện bạch gì nữa?
Lạc Tiểu Hồng cười lạnh:
– Ai bảo lão ra cái hạn định hai mươi chiêu một cách quái dị như thế? Đúng là một quy củ của kẻ điên cuồng đó. Quy củ của lão thế nào thì mặc lão có can gì đến tôi mà lão trượng lại trách cứ tôi? Lão trượng cho rằng tôi hạ độc thủ, chứ lão chẳng hạ độc thủ trước tôi à? Độc thủ của lão hại chết tôi kia mà!
Cũng như lão nhân, nàng dừng lại, «hừ» một tiếng, rồi tiếp:
– Người ta không trách cho chẳng ơn người ta, trái lại còn trách ngược!
Trên đời sao lại có những người vô lý thế?
Vạn Lý Vô Vân đuối lý, im lặng.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài, thốt:
– Thôi lão ốm ơi! Cầm như xong cho ta rồi vậy! Sự tình đã như thế thì có nói chi nhiều cũng vô ích! Có đáng trách chăng là tại ta có tánh cợt đùa, không ngờ ta phải chết vì cái tánh đó!
Vạn Lý Vô Vân lộ vẻ ảm đạm:
– Minh Nguyệt! Ngươi chết như vậy, bảo ta làm sao an tâm cho được chứ!
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm buồn thở ra:
– Mạng lý sử nhiên, muốn an tâm cũng chẳng an tâm, mà có bận tâm cũng vô ích! Cái việc hồi phục tên họ trên Tiên Bảng, từ nay chỉ còn trông cậy ở một ngươi ... Nghĩ đến kế hoạch của chúng ta, đeo đuổi suốt mấy năm dài, gần đến lúc thành công thì lại hoàn toàn đổ vỡ! Tiếc thay!
Quan Sơn Nguyệt cau mày, hỏi gấp:
– Tại hạ có hỏi các vị, các vị có phải là những nhân vật trên Tiên Bảng hay không, các vị đối đáp hồ đồ, rồi bây giờ, các vị bỗng nhiên lại tự thú, thế là nghĩa gì? Tại hạ muốn biết về Tiên Bảng, chẳng hay các vị có thể giải thích phần nào chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt, nhìn thoáng qua chàng, đáp:
– Nói làm chi? Ngươi đã hiểu thì thôi, thiết tưởng không nên hỏi.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Nào tại hạ có biết gì đâu? Bất quá tại hạ nghe nói đến hai tiếng đó, bây giờ hai vị nhắc, nên phải hỏi cho biết vậy thôi.
Nhất Luân Minh Nguyệt tiếp:
– Việc ngươi hỏi, bọn lão phu không thể giải thích cho ngươi hiểu đâu. Bọn lão phu là những người có tên trên đó, song vì phạm lỗi mà bị xóa tên đi, khi nào phục hồi được tên hiệu ở ngôi vị cũ, mới có quyền đề cập đến.
Quan Sơn Nguyệt cau mày, suy nghĩ một chút, lại hỏi:
– Thế tiền bối nhất định tự sát à?
Nhất Luân Minh Nguyệt trừng mắt:
– Việc như vậy mà ngươi còn nghĩ là ta đùa à?
Quan Sơn Nguyệt lại trầm ngâm một chút:
– Không có cách nào bổ cứu sao, tiền bối?
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Cũng có phương pháp bổ cứu chứ, song lão không muốn tiếp nhận đó thôi!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đành vậy, song thiết nghĩ tiền bối cũng có thể nói thử cho tại hạ nghe, nghe rồi bỏ qua, có sao đâu?
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm giọng:
– Nếu lão phu không tự sát, thì suốt đời chịu quyền phải sai sử của tiểu cô nương! Ngươi thấy đó, lão phu có thể tiếp nhận một biện pháp như vậy chăng?
Lạc Tiểu Hồng thốt:
– Có gì đâu mà cho là không tiếp nhận được? Miễn tôi không sai sử việc này việc nọ là xong!
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Cô nương nói thế, không ổn rồi, bởi cái quy củ của lão phu, tự lão phu lập ra, lão phu phải tuân theo, cô nương chẳng liên quan gì đến quy củ đó, cho nên điều cô nương muốn, không thành vấn đề.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Như vậy là cầm như không còn phương pháp nào cứu vãn sanh mạng của tiền bối rồi!
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài.
Vạn Lý Vô Vân cũng thở dài.
Cả hai cùng nhìn nhau một lúc lâu, gương mặt người nào cũng lộ vẻ ảm đạm, song chẳng ai nói với ai một tiếng gì.
Lạc Tiểu Hồng vụt hỏi:
– Đã biết thế nào cũng phải chết, sao tiền bối còn chờ gì mà chưa tự sát?
Nhất Luân Minh Nguyệt nhếch nụ cười khổ:
– Lão phu còn chờ làm xong một việc cho cô nương, sự kiện đó cũng là một chi tiết thuộc về lời thề của lão phu. Lời thề đó là nếu có người nào chi trì nổi một cuộc đấu với lão phu trong vòng hai mươi chiêu mà không bại, thì lão phu phải phục dịch người đó suốt đời, bằng không chịu phục dịch người đó, thì lão phu cũng phải thay thế người đó, làm một việc gì, khi nào làm xong việc lão phu sẽ tự sát. Chính lão phu đang chờ làm một việc chi cho cô nương, nên chưa tự sát, chứ chẳng phải lão phu sợ chết mà dần đà ...
Lạc Tiểu Hồng bĩu môi:
– Rắc rối quá, chỉ có mỗi một cái chết, mà cũng phải qua điều kiện này, điều kiện nọ!
Nhất Luân Minh Nguyệt nổi giận:
– Chứ cô nương cho là dễ lắm à? Cho cô nương biết, trên thế gian này, không phải dễ tìm một người có thể chi trì đủ hai mươi chiêu của lão phu! Nếu mà cô nương đừng quá kém, thì lão phu đâu lại bị cô nương lừa? Bởi cô nương kém, nên lão phu đùa vui, còn như cô nương là tay khá, thì lão phu đã xuất thủ thực sự ngay từ lúc đầu, và cô nương đã bại rồi! Như vậy, sự tình đâu đáng tiếc?
Quan Sơn Nguyệt không tin lắm, hỏi:
– Nói như thế, có nghĩa là tiền bối cho mình vô địch trong thiên hạ?
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Không phải vậy đâu. Lão phu muốn nói đến cái chỗ giao đấu thực sự và giao đấu đùa, nếu giao đấu thực sự, thì dù có bại trong hai mươi chiêu, lão phu cũng chẳng ân hận, huống chi lão phu tin chắc là mình không bại trước cô nương?
Chứ còn ... giao đấu đùa như thế này, lại bại, lại phải mất mạng, thì ... oan uổng lắm chứ!
Quan Sơn Nguyệt bước đến cạnh Lạc Tiểu Hồng, thì thầm bên tai nàng mấy câu.
Lạc Tiểu Hồng vừa cười vừa gật đầu.
Khi Quan Sơn Nguyệt dứt tiếng, nàng hương sang Nhất Luân Minh Nguyệt, hỏi:
– Tiền bối chờ làm cho tôi một việc, chẳng hay việc đó có hạn chế làm sao chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Không hạn chế làm sao cả. Lão phu cứ làm hết sức mình thôi, nhược bằng không làm nổi, thì lão phu lấy cái chết đền đáp:
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Thế thì tiền bối nghe tôi nói đây, việc tôi nhờ tiền bối làm giản đơn lắm!
Nhất Luân Minh Nguyệt ngưng trọng thần sắc, chú ý lắng nghe.
Vạn Lý Vô Vân cũng lộ vẻ khẩn trương vô cùng.
Lạc Tiểu Hồng gằn từng tiếng:
– Tôi ra lịnh cho tiền bối phải trân trọng cái mạng sống của mình, dù có gặp trường hợp hiểm nguy như thế nào đi nữa, cũng chẳng nói đến cái chết một cách dễ dàng!
Nhất Luân Minh Nguyệt sững sờ. Lâu lắm, lão mới thốt:
– Không được đâu, cô nương? Như vậy là ngược lại lời thệ của lão phu. Lão phu không thể tiếp thọ!
Lạc Tiểu Hồng chỉnh sắc mặt:
– Tiền bối đừng quên là chính tiền bối lập ra quy củ, tiền bối phải theo quy củ, tiền bối chỉ có bổn phận tuân hành, chứ không có quyền cự tuyệt.
Nàng cao giọng tiếp luôn:
– Từ hôm nay trở đi, tiền bối hãy tuân lịnh tôi, tuyệt đối phải giữ gìn sanh mạng! Không được tự ý, muốn chết là chết?
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm ngâm một lúc, đoạn thở dài cất giọng u buồn thốt:
– Thôi thì đành vậy, chứ biết sao? Từ nay, lão phu một mực tuân mạng cô nương.
Lạc Tiểu Hồng gật gù, tiếp:
– Còn nhờ việc này nữa, tôi nhờ luôn tiền bối. Như tiền bối đã nói, tôi muốn sự gì, tiền bối phải làm sự đó. Đúng vậy chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt đáp:
– Lão phu khi nào quên? Tiếc chi đâu, cô nương nói đi!
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Tiền bối hãy nói cho tôi nghe, những gì tiền bối hiểu biết về Long Hoa Hội, và Phong Thần Bảng.
Nhất Luân Minh Nguyệt biến sắc mặt, không biết phải mở miệng nói như thê nào.
Lạc Tiểu Hồng cao giọng:
– Tôi mới ra một mạng lịnh đầu tiên mà tiền bối muốn phản kháng rồi phải không? Tiền bối bất tuân à?
Nhất Luân Minh Nguyệt do dự một lúc, sau cùng thở dài, rồi nhếch mép, sắp sửa cất tiếng.
Vạn Lý Vô Vân kêu lên:
– Lão mập định nói phải không? Ngươi mở miệng là ta xuất thủ liền, cho ngươi biết! Chỉ vì trách nhiệm của ta là thế, dù ta với ngươi giao hảo từ mấy năm nay rồi, ta không thể trọng tình bằng hữu mà bỏ qua trách nhiệm.
Nhất Luân Minh Nguyệt cười khổ:
– Vạn Lý huynh! Giết lão phu là phải, nên giết lão phu hơn là để cho lão phu sống. Sống làm gì, khi sống còn mà phải thọ tội thì thà chết mà được an hơn!
Quả nhiên, Vạn Lý Vô Vân đưa cao tay lên, bàn tay sè ra, nơi lòng bàn tay hiện ra màu vàng nhợt.
Nhất Luân Minh Nguyệt thốt xong nhắm mắt ngồi yên, như chờ đợi Vạn Lý Vô Vân xuất thủ.
Lạc Tiểu Hồng kêu to:
– Tại sao tiền bối không chống cự?
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Lão ấy phát xuất «Kim Phật Chưởng», lão phu còn mong sống sót sao?
Có chống cự cũng vô ích.
Lạc Tiểu Hồng tỏ vẻ nghi hoặc:
– Lão ấy có vũ công cao minh hơn hẳn tiền bối à?
Vạn Lý Vô Vân nghiêm sắc mặt:
– Không phải vậy đâu, lão ấy có chống cự cũng không thoát chết, mà chính lão phu cũng phải chết luôn theo lão. Lão không nghĩ là phải giết ta, bởi lão thừa hiểu ta giết lão vì bổn phận chứ chẳng phải vì thù. Lão bằng lòng cho ta làm bổn phận, nên lão không chống cự.
Lạc Tiểu Hồng lấy làm lạ:
– Tại sao lão ấy xuất thủ rồi tiền bối cũng chết luôn?
Vạn Lý Vô Vân giải thích:
– «Thái Âm Thần Công» của lão lợi hại lắm, chẳng kém gì «Kim Phật Chưởng» của lão phu, nếu lão đem ra sử dụng, thì cả hai cầm như đồng quy ư tận.
Lạc Tiểu Hồng giật mình.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay ra hiệu cho nàng.
Lập tức nàng thốt:
– Thôi, được rồi! Tôi xin rút mạng lịnh đó lại. Và bây giờ thì tiền bối chuẩn bị đi theo tôi.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Tự nhiên lão phu phải đi theo tiểu cô nương!
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh, hướng sang Lạc Tiểu Hồng:
– Cô nương đừng tưởng dẫn lão mập đi nơi khác, xa lão phu rồi hỏi lão về việc đó! Cho cô nương biết, lão phu không ly khai lão ta đâu! Lão ta đi đến địa phương nào, lão phu cũng đến địa phương đó, lão phu sẽ giám thị lão ta, bất cứ trong phút giây nào.
Lạc Tiểu Hồng bĩu môi:
– Giả như tôi ra lịnh cho lão phải đuổi tiền bối đi nơi khác, không cho tiền bối theo?
Vạn Lý Vô Vân lại cười lạnh:
– Khó lắm, tiểu cô nương ơi! Bọn lão phu sống chung nhau đi đứng nằm ngồi đều chung nhau, từ mấy mươi năm rồi, cả hai không hề xa nhau nửa phút.
Lão ấy không thể đuổi lão phu, mà lão phu cũng chẳng thể bỏ lão đi một mình.
Nếu cô nương buộc lão dùng võ, thì lão ta và lão phu đồng quy ư tận!
Lạc Tiểu Hồng thất vọng. Nàng chẳng có biện pháp nào có thể dùng được nữa. Nàng lắc đầu tỏ vẻ chán nản, nhìn Quan Sơn Nguyệt vấn kế.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, đoạn thốt:
– Đừng vội, tạm thời chúng ta cứ bảo lão đi theo, sau đó hãy tính.
Gặp sự việc như vậy, Lạc Tiểu Hồng và Quan Sơn Nguyệt không còn cái hứng du sơn ngoạn cảnh, cả hai quay ngựa xuống núi.
Họ đi trước, hai lão nhân theo sau.
Họ cỡi ngựa cỡi Lạc Đà, hai lão nhân đi chân, thế mà người đi chân vẫn mau như người cỡi thú, hai trẻ không làm sao bỏ hai già lại sau xa, họ muốn thực nghiệm thuật khinh công của hai lão nhân, cũng chỉ làm một việc vô ích.
Không lâu lắm, đoàn người hai trẻ hai già về đến khách sạn.
Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng đi khá lâu, thành thử Lữ Vô Úy ở tại nhà, chờ mãi, chẳng thấy họ trở về, nên có phần khẩn trương. Bây giờ, thấy có hai vị trở lại, vị Chưởng môn phái Chung Nam hết sức mầng rỡ, song lại lấy làm lạ vì họ về đây với hai lão nhân lạ mặt.
Lữ Vô Úy liền nắm tay Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng ra xa xa hỏi nhỏ:
– Hai người đó là ai? Họ đi theo Lệnh Chủ để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Khoan tìm hiểu về lão nhân đó, Chưởng môn. Tại hạ xin hỏi, người trong quý phái đã đến đây chưa?
Lữ Vô Úy đáp:
– Đã có bốn người đến, lão phu y theo kế hoạch của Lệnh Chủ, phân phó công việc cho họ rồi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một phút:
– Tại hạ định hôm nay, mình lên đường, vào sâu trong đất Thục. Ở đây chờ đợi mãi, chắc mọi người phải nóng nảy lắm!
–––– oo –––– Cổ nhân có lưu lại một bài thi, lời thì than thở cái khó của con đường vào Thục, khó như lên trời, khó hơn lên trời. Và, khách lữ hành có việc vào đất Thục, cũng phải công nhận người xưa không hề quan trọng hóa sự lưu thông đến tận miền Tây, có thể thực tế còn cho thấy khó khăn nhiều hơn những gì đã được mô tả trong thi từ lưu lại.
Bọn Quan Sơn Nguyệt gồm bốn người, thêm hai lão nhân nữa đoàn người cộng đúng sáu mạng.
Họ âm thầm tiến bước, chẳng ai nói với ai tiếng nào.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân vẫn đi chân dù Quan Sơn Nguyệt có thể tìm cho họ đôi ngựa, họ vẫn không thích cỡi ngựa hơn là đi chân.
Họ đi chân, con đường lại khó khăn, nhưng họ không hề lạc hậu. Họ đi, đi mãi, đoạn đường qua, càng lúc càng dài, rồi họ đến Kiếm Môn Sơn, qua khỏi nơi này là vào Kiếm Các.
Trong cuộc hành trình, chính Quan Sơn Nguyệt đi đầu, bởi chàng cần Minh Đà dẫn đường.
Chưa qua Kiếm Môn Sơn, bỗng Minh Đà rẽ vào một con đường núi nhỏ hẹp.
Vạn Lý Vô Vân khẩn cấp cực độ, vội lướt tới gần Quan Sơn Nguyệt, hỏi gấp:
– Đi đâu thế này, tiểu tử? Vào đó để làm gì chứ? Tiểu tử có biết nơi đó là địa phương chi chăng?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ nào biết nơi đó là địa phương gì? Nhưng, tại hạ biết là đến đó rồi, tại hạ sẽ gặp cái người tại hạ muốn gặp.
Vạn Lý Vô Vân giật mình, rung rung giọng hỏi:
– Ngươi muốn tìm ai?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Thiên Tề Ma Quân!
Vạn Lý Vô Vân biến sắc mặt, ấp úng:
– Ngươi ... ngươi có quen biết y à?
Quan Sơn Nguyệt cười lớn:
– Quen biết? Bất quá song phương có gặp nhau một lần thôi còn về giao tình thì chưa. Tại hạ đi tìm y, là để thanh toán một sự tình còn đọng lại giữa nhau, đồng thời cởi mở mấy nghi vấn ...
Vạn Lý Vô Vân lắc đầu:
– Không được! Không được đâu, tiểu tử! Cái địa phương mà ngươi nói trước đây, chẳng phải ở phía đó đâu!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, song chàng lấy ngay bình tĩnh, thốt:
– Tại hạ nghĩ rằng, chỉ có một mình Thiên Tề Ma Quân là có thể cởi mở nghi vấn nơi tại hạ thôi.
Biết không lay chuyển được ý nghĩ chàng, Vạn Lý Vô Vân dọa:
– Ngươi nói đúng, nếu muốn minh bạch sự tình, thì cần phải gặp Ma Quân, song ta cho ngươi biết, qua ngưỡng cửa Ma Phủ rồi ngươi đừng hòng trở lại thế gian!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Điều đó, các hạ khỏi phải lo. Vả lại, tại hạ không hề yêu cầu các hạ đi theo, giả như các hạ thấy có gì nguy hại đến bản thân, thì ngay từ bây giờ, các hạ cứ trở về, thiết tưởng chẳng muộn chi đó.
Vạn Lý Vô Vân thoáng biến sắc mặt. Lão trầm ngâm một lúc lâu, đoạn hướng sang Nhất Luân Minh Nguyệt, nhếch nụ cười khổ:
– Lão mập! Chính ngươi hại ta ...
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên, giục Minh Đà đi tới.
Đường đi, không rộng lắm, lại càng lên cao, càng có nhiều lối rẽ, ngang có, dọc có, chằng chịt như mắc lưới, nếu chẳng thuộc lối, thì không ai ai đến nơi đến trộn được. Nhưng, Minh Đà quá quen thuộc hệ thống giao thông này, nó ung dung bước đều, không hề chần chờ, do dự.
Không lâu lắm, đoàn người đến một khu rừng rất rậm, bên trong rừng tối mò, chẳng khác nào bên ngoài là ngày, bên trong là đêm. Nơi ven rừng, có một lão tăng đứng đó, chừng như canh giữ tại mặt này.
Lão tăng gầy đét, mặt đen như thoa lọ, đôi mắt thì sáng lạ thường. Thấy đoàn người bước đến, lão bước ra chận lại.
Quan Sơn Nguyệt ngồi trên Minh Đà, nghiêng mình chào rồi thốt:
– Xin đại sư cho tại hạ đi qua!
Lão tăng trầm giọng đáp không phải đáp:
– Biển khổ mênh mang, quay đầu lại là thấy bến, xin các vị thí chủ trở về.
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên điểm một nụ cười:
– Đại sư có tâm từ bi, muốn phổ độ chúng sang, song chẳng phải tất cả chúng sanh đều dễ độ.
Lão tăng lắc đầu:
– Không hẳn nhu vậy đâu, thí chủ! Khi con người có lòng thành thì gì mà chẳng đạt? Dù cho đá cứng, đá cũng phải gật đầu.
Lão tăng nói nhì nhằng quá, Quan Sơn Nguyệt hơi bực tức trầm giọng lạnh giọng hỏi:
– Đại sư có phải là người đồng đảng với kẻ phía sau rừng kia chăng?
Lão tăng thở dài:
– Bần tăng là người xuất gia, nào có đảng, có hội gì với ai?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Thế tại sao đại sư lại chận đường bọn tại hạ?
Lão tăng đưa tay chỉ Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân đáp:
– Bần tăng vì hai vị cố nhân đó, cho nên khuyến cáo các vị trở về ...
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Lão trọc đáng ghét kia, những việc năm xưa, do ngươi mà ra cả, bây giờ ngươi lại giả nhân giả nghĩa trước mặt bọn ta à? Ngươi tưởng mười tám năm qua, bọn ta đã quên mất cơ mưu ngày nào của ngươi, phải không?
Lão tăng giật mình, bỗng nhẹ tiếng thở dài:
– Đương nhiên! Trong bao nhiêu năm qua, ta luôn luôn tìm cách phục hồi tên họ trên bảng, sau đó sẽ thành toàn món nợ còn đọng lại giữa bọn ta và ngươi!
Lão tăng lại thở dài:
– Phù sanh có gì đáng cho người tham luyến? Danh là cương, lợi là tỏa, trong khi người ta tìm cách thoát vòng cương tỏa, thì các người đã thoát được rồi lại tìm mọi cách mà đút đầu vào. Thì ra cái công của ta giúp các ngươi ngày trước, các ngươi không xem là ơn, lại cho là oán! Sao các ngươi u mê đến thế?
Vạn Lý Vô Vân cao giọng:
– Ngươi nói dễ nghe quá chừng! Sao tự ngươi không thoái xuất ngoài vòng lợi danh, lại đi khuyến cáo người khác?
Lão tăng điềm nhiên đáp:
– Bần tăng có phát thệ, khi nào cứu độ xong một trăm lẻ tám bằng hữu có tên trong bảng, lúc đó nhiệm vụ của bần tăng viên mãn, bần tăng sẽ về chầu đức Phật Tây Thiên! Một ngày nào, còn một vị bằng hữu chưa giải thoát, là ngày đó, bần tăng chẳng an lòng.
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Không ai dư công nói nhảm với ngươi, ngươi hãy tránh qua một bên, nhường lối cho bọn ta đi qua.
Lão tăng trầm ngâm một chút, đoạn thốt:
– Các vị đã không chịu nghe lời khuyên ngăn, thế thì cứ đi, các vị nên nhớ là một cái sẩy chân sẽ đưa các vị vĩnh viễn vào cảnh luân trầm, ngàn kiếp không hy vọng được siêu sanh.
Vạn Lý Vô Vân hét:
– Việc của bọn ta, chẳng cần chi đến ngươi, mà ngươi phải nhiều lời. Ta hỏi, ngươi có chịu tránh qua một bên hay không?
Lão tăng lại thở dài:
– Bần tăng đã cạn lời, các vị chẳng chịu nghe cho, thế thì thôi vậy, vì cố nhân, bần tăng tình nguyện đưa các vị một đoạn đường.
Lão quay mình, bước đi. Theo dáng đi của lão tăng, chiếc áo cà sa rộng thùng thình phồng lên, toàn thân lão phát xuất một ánh sáng vàng chiếu rực lối xuyên qua khu rừng, như một ngọn đèn rọi.
Trong ánh sáng đó, Quan Sơn Nguyệt thấy rõ, dọc theo lối đi, vô số đống xương trắng, nằm rải rác.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt cùng nhìn nhau, cả hai cùng biến sắc, lẩm nhẩm:
– Không ngờ cái lão trọc này đã luyện thành «Pháp Thân Quang Minh»!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Lão tăng ấy là ai? Công lực của lão ta thâm hậu phi thường!
Vạn Lý Vô Vân lấy lại bình tĩnh, điểm nụ cười lạnh, đáp:
– Lão ấy có đạo hiệu là Khổ Hải Từ Hàng. Song, ngươi đừng tìm hiểu gì hơn!
Quan Sơn Nguyệt hội ý. Chàng ung dung cho lạc đà theo sao lão tăng, mọi người theo sau chàng.
Khu rừng có chiều rộng, kém chiều sâu, đoàn người len lỏi theo con đường quanh co, một lúc sau, đã đến bên kia rừng. Nhưng, đến đó rồi, Quan Sơn Nguyệt nhận ra, lão tăng mất dạng. Chẳng rõ, lão lén đi từ lúc nào.
Vạn Lý Vô Vân thở mấy hơi dài không khí, thốt:
– Cũng may, gặp được lão trọc, lão ấy dẫn đường chứ nếu không thì chẳng biết đến lúc nào chúng ta mới vượt qua lọt khu rừng này. Cái lão Thiên Tề đó, đúng là càng ngày càng lợi hại!
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:
– Lão Thiên Tề? Thiên Tề Ma Quân lại là một lão nhân sao?
Vạn Lý Vô Vân cũng ngạc nhiên, nhìn sững chàng:
– Thế ngươi chưa gặp Thiên Tề Ma Quân lần nào à?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Có chứ! Nhưng Thiên Tề Ma Quân mà tại hạ gặp mặt, là một thanh niên, tên là Kỳ Hạo.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt lại biến sắc mặt một lần nữa. Cả hai sửng sốt một lúc lâu, chẳng ai nói tiếng gì.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi song chàng vừa trông thấy một ngôi nhà cao, hiện sừng sững trước mắt, nơi xa xa. Vì chú ý đến ngôi nhà đó, chàng quên mất việc hỏi hai lão nhân. Chàng vỗ tay lên cổ lạc đà, con thú tăng tốc độ, chạy tới.
Một phút sau, đoàn người đến trước một cổng lầu, cổng rất to, nơi cổng, có tấm biển, mang bốn chữ:
«Thiên Tề Biệt Phủ» Hai bên trụ cổng, có đôi câu đối:
«Đạo Trảm Ma, Phật Hàng Ma, Ma Tâm Sanh Sanh Bất Di, Ma Thần, Dử Nhật Nguyệt Vinh Huy.
Ma Sanh Đạo, Ma Thành Phật, Ma Phát Thế Thế Thường Tồn, Ma Thọ Cộng Hiệu Thiên Tịnh Tề.» Đại khái, đôi liễn có hàm ý ca tụng đạo ma, cho rằng ma không kém trời, kém Phật.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Lớn lối quá!
Vạn Lý Vô Vân lắc đầu:
– Không lớn lối đâu! Trên thế gian này từ thượng cổ, đã có Ma, có Tiên, có Phật, có Trời. Tiên Phật trời đều muốn diệt Ma, song Ma vẫn còn mãi mãi, còn từ thượng cổ đến nay, và sẽ còn đến tận ngàn muôn đời sau. Như vậy, là không ai diệt nổi Ma, như vây là Ma có thực lực mạnh lắm, Ma cũng hãnh diện như Tiên, Phật, Trời. Ma có kém chi Tiên, Phật, Trời? Không có một quyền lực nào chi phối nổi Ma!
Vừa lúc đó, từ bên trong cổng lầu, một đoàn đồng nhi bước ra, gồm đủ nam lẫn nữ. Chúng suýt soát tuổi nhau, trong lứa mười ba, mười bốn, gã đi đầu cất tiếng hỏi:
– Các ngươi là những du hồn dã quỷ từ phương nào đến đây?
Tuổi gã đồng nhi còn nhỏ, song khẩu khí quá kiêu ngạo, Quan Sơn Nguyệt không lấy làm điều, nhưng Lạc Tiểu Hồng chịu không nổi thái độ vô lễ của gã, rút ngọn roi, quật ngang mặt gã.
Bởi vô tình gã đồng nhi hứng trọn đầu roi, biến sắc mặt, cất giọng rung rung hét:
– Cái mụ thúi này, sao dám đánh ta?
Gọi một thiếu nữ bằng mụ thúi, là mắng nặng lắm rồi!
Gã vừa mắng vừa lướt mình tới.
Gã lướt nhanh, Lạc Tiểu Hồng không tưởng là gã dám làm thế, chẳng kịp đề phòng, không rút roi về kịp thời chống trả. Nàng phải dùng tay, đánh xuống một chưởng.
Nhưng gã đồng nhi quát lớn:
– Ngã!
Gã quét một chân, chân gã chạm vào đôi chân ngựa, chân ngựa gãy, ngựa ngã nhào, Lạo Tiểu Hồng cũng ngã theo.
Gã chưa kịp làm gì, Nhất Luân Minh Nguyệt đã vọt mình tới, vươn tay chụp vào lưng áo gã, giữ cứng lại. Lão hét lên:
– Tiểu ma dám buông lung dã tánh, khinh người phải không?
Bàn tay kia đưa lên, lão đập xuống đỉnh đầu gã đồng nhi, máu từ miệng gã bắn ra thành vòi. Thuận tay nắm, lão vung luôn, gã đồng nhi bị quăng ra hơn trượng.
Dĩ nhiên, gã đồng nhi tắt thở.
Lạc Tiểu Hồng ngã xuống, lấy tư thế đứng vững chân rồi, nhìn ra, thấy Nhất Luân Minh Nguyệt đánh chết gã đồng nhi, nổi giận hét lên:
– Lão quỷ vật, sao ngươi xuất thủ sát nhân?
Trong khi đó, bọn đồng nhi nam nữ còn lại kinh hãi, biến sắc mặt xanh dờn, cấp tốc chạy bay vào cổng.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Lão phu không giết nó, nó sẽ giết cô nương! Trong cái thế chẳng đặng đừng, lão phu phải hạ thủ, bởi lão phu có bổn phận bảo vệ an toàn cho cô nương.
Lạc Tiểu Hồng chưa kịp đáp, từ trong cổng một đoàn người khác chạy ra.
Đoàn người này cũng gồm đủ nam nữ, song ở trong lứa trung niên.
Trên gương mặt của người nào cũng như người nào, đều lộ vẻ phẫn nộ hiện lộ rõ rệt.
Nhân số độ tám chín người, có nam có nữ, tất cả có một điểm tương đồng là trên mặt người nào cũng bộc lộ sát khí, chừng như họ sanh ra trên đời là để sính hiện cái hung ác, bất cứ với ai, bất cứ trong trường hợp nào.
Họ chường mặt là họ phải bộc lộ sát khí, họ phải tỏ ra oai võ cho mọi người phải khiếp, có khiếp trước họ thì đương nhiên còn phải khiếp hơn trước chủ nhân họ.
Nhìn thoáng qua họ, ai chậm hiểu đến đâu cũng phải hiểu ngay họ là những con người không nên tiếp cận. Bởi, tiếp cận họ chẳng khác nào tiếp cận bọn quỷ sứ diêm đình, bọn ngưu đầu mã diện.
Đứng đầu bọn đó là một hán tử trung niên, đã là đầu đoàn thì đương nhiên cái gì gã cũng hơn đồng bọn, nhìn gã, ai cũng phải nghĩ đến một ôn thần với tất cả những nét hung hãn vô cùng. Nơi trán hán tử có một vết sẹo to bằng một nắm tay, bởi quá to nên sẹo lấn luôn chân mày phía tả.
Chính gã cất tiếng trước, với giọng ồ ồ như cuồng phong nổi dậy, giọng nói hàm chứa niềm căm phẩn vô biên. Gã hướng về Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân:
– Thì ra lại là hai cái tên bị khai trừ khỏi bảng! Gan các ngươi to lắm, dám gây đại náo ngay trước biệt phủ. Ta nghĩ các ngươi đã chán sống rồi nên đi tìm cái chết!
Nhất Luân Minh Nguyệt ngẩng mặt nhìn lên nền không, chẳng buồn lưu ý đến gã. Hơn thế lão còn hỉnh mũi bật thành mấy tiếng khịt khịt, tỏ ra khinh miệt vô cùng.
Vạn Lý Vô Vân cũng đồng thái độ với Nhất Luân Minh Nguyệt.
Cả hai không thốt một tiếng nào.
Hán tử lại hét:
– Hai lão kia, sao các ngươi câm lặng?
Nhất Luân Minh Nguyệt nhìn sang Quan Sơn Nguyệt bảo:
– Ngươi đã muốn đến đây thì cái phần đối đáp với chúng thuộc về ngươi.
Hãy bước tới mà nói gì với chúng thì nói.
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp tỏ thái độ như thế nào, hán tử trung niên đã kêu lên:
– Ta chỉ muốn hai ngươi đối đáp, sao hai ngươi lại đẩy tiểu tử đó ra ứng phó với ta?
Nhất Luân Minh Nguyệt nổi giận:
– Bọn ta dù đã bị xóa tên trên bảng, song đâu phải vì vậy mà hạ mình đối thoại với cái lủ tiểu yêu tiểu quỷ các ngươi?
Hán tử trung niên cũng phẩn nộ:
– Ngươi là cái quái gì? Ngươi bằng vào đâu lại thị oai với ta? Chứ ta không là một nhân vật có tên trên bảng sao?
Nhất Luân Minh Nguyệt cười mỉa:
– Ngươi nói nghe hay quá! Ta cũng tạm chấp nhận như vậy, song bọn các ngươi đến mười người mà chỉ có một được liệt danh thôi, nghĩ ra đáng thẹn cho các ngươi biết bao! Muốn cho bọn ta nói chuyện, ngươi hãy gọi thủ lảnh của ngươi ra đây!
Hán tử trung niên «hừ» một tiếng:
– Đại ca ta bận việc trong phủ, có thừa thời giờ đâu để ra đây nói chuyện với các ngươi.
Nhất Luân Minh Nguyệt bỉu môi:
– Thế thì thôi, ta chẳng có gì cần phải nói với ngươi.
Hán tử trung niên xanh mặt.
Vạn Lý Vô Vân trầm gương mặt, cất tiếng:
– Trong số Thập Đại Du Hồn ta chỉ nhận ra có mỗi một mình Khôi Y Thị Giả thôi, ngươi đừng tưởng bọn ta ly khai Thần Bảng rồi, đối với bọn ta lại buông thói ngạo mạn. Giả như bọn ta gây náo loạn lên thì các ngươi có chịu nổi hay không chứ?
Câu nói hàm cái ý không muốn động thủ trừ khi bị bắt buộc, nếu hán tử trung niên sanh sự thì đúng là phần trách nhiệm về hắn rồi. Và, khi nào hắn lại dám để cho sự sanh ngay tại trước cửa biệt phủ, nếu trách nhiệm về hắn?
Hắn câm miệng ngay.
Hắn là đầu đoàn, hắn không nói gì thì mấy tên kia làm sao dám nói gì?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ, nhìn Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Tiểu tử đó có ngoại hiệu là Độc Giác Tê. Ngươi biết tại sao người ta gọi hắn như vậy chăng?
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp lên tiếng, Lạc Tiểu Hồng đã hỏi rồi:
– Tại sao?
Vạn Lý Vô Vân đưa tay chỉ hán tử trung niên, bật cười lớn đoạn giải thích:
– Tại vì trên đầu hắn có một cục bướu vừa to vừa nhọn giống như cái sừng con tê, do đó người ta gọi hắn như vậy! Nghĩ cũng vinh hạnh chứ?
Lạc Tiểu Hồng nhìn vết sẹo nơi trán của hán tử, lại hỏi:
– Thế cái sừng đó biến đâu mất rồi?
Vạn Lý Vô Vân điểm một nụ cười đắc ý. Lão chờ đợi câu hỏi đó. Nếu chẳng ai hỏi như vậy thì chắc là lão phải ngượng, bởi lão làm sao bổng dưng lại phanh phui cái điều của người ta cố dấu diếm? Mà, không phanh phui ra được thì lão ấm ức lắm, lão chỉ muốn nói xấu cho kỳ được hán tử trung niên.
Bây giờ Lạc Tiểu Hồng đã hỏi rồi, tự nhiên lão phải cao hứng và tự nhiên lão đáp nhanh:
– Một cố sự kỳ thú lắm tiểu cô nương ơi! Cô nương nghe rồi hẳn phải cười vỡ bụng đấy! Cố sự đó như thế này, cô nương nghe kỹ nhé. Trong một kỳ tụ hội quan trọng, sau khi phần thảo luận nghiêm chỉnh đã xong, bọn bằng hữu của lão phu hơn mười người bày ra một cuội vui, tranh làm cái việc giết trâu! Đồ tể mà giết trâu là một cái thú bởi thỉnh thoảng mới có trâu để giết, trâu đâu phải là con thú mà đồ tể có sẵn để ngả thịt hằng ngày? Nhưng tại cuộc tụ hội, trâu đâu có mà giành nhau cái việc giết trâu? Thôi thì cứ kể như bẻ được một cái sừng là giết được trâu! Rồi bọn lão phu bẻ sừng, bẻ cái sừng độc nhất đó cô nương ơi! Cô nương có biết ai là đồ ngưu dũng sĩ chăng?
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, điểm một nụ cười:
– Chắc là tiền bối chứ còn ai nữa?
Vạn Lý Vô Vân bật cười ha hả:
– Cô nương thông minh quá chừng! Và ... và ... cái đoạn cuối lão phu dù không thuật tiếp cô nương cũng đoán ra ...
Hán tử trung niên thoạt đầu còn xanh mặt, dần dần màu xanh biến mất, gương mặt của hắn trắng nhợt, gương mặt càng nhợt nhạt vết sẹo càng sậm hơn.
Cuối cùng thì hắn không còn kiên nhẫn được nữa, hắn hét lên:
– Lăng Tam Hoè! Ngươi khinh người quá lắm!
Vạn Lý Vô Vân cũng hét lên:
– Ngươi ngang nhiên kêu tên ta? Ngươi có biết là đã phạm tội chăng?
Hán tử trung niên giật mình, biết đã hớ hênh rồi song hắn cứ cải bướng:
– Ngươi đã bị xóa tên trên bảng rồi, ta kêu ngay tên ngươi cũng chẳng quan hệ gì, ta có phạm tội đâu?
Vạn Lý Vô Vân bật cười hắc hắc, giọng cười ẩn chứa niềm mai mỉa:
– Được! Được! Bọn ta không tưởng là trong thời gian bọn ta ly khai danh bảng, quy củ lại đổi thay như vậy! Và cái việc đổi thay quy cũ lại xảy ra ngay tại Thiên Tề Biệt Phủ, nơi có vị chấp chưởng quy củ cư trú! Để ta vào hỏi lại cái người có trách nhiệm bảo vệ quy củ xem quả thật có sự thay đổi như vậy hay là ngươi tự ý khinh thường quy củ!
Hán tử trung niên lại biến sắc.
Hắn vọt mình ra khỏi hàng ngũ vung tay đánh vào mặt Vạn Lý Vô Vân một chưởng.
Vạn Lý Vô Vân đứng nguyên tại chỗ không phản công, không né tránh.
Một tiếng «bốp» vang lên.
Vạn Lý Vô Vân vẫn đứng nguyên tại chỗ như trụ đồng, không hề nhích chân một tấc một ly.
Trái lại, hán tử trung niên chập choạng lùi lại, lùi đến mấy bước mới đứng vững được.
Bảy tám tên kia, cả nam lẫn nữ chuẩn bị xuất thủ.
Nhất Luân Minh Nguyệt quát lớn:
– Các ngươi muốn tạo phản à?
Tiếng quát lớn vô cùng, ngang tiếng sấm nổ bên tai, bảy tám tên đó giật mình biến sắc.
Tất cả đều xuôi tay đứng bất động, ý định tiếp trợ hán tử tan biến mất.
Hán tử trung niên cao giọng gọi đồng bọn:
– Hỡi các vị bằng hữu đồng trên bảng, hai cái lão già đó tự chuyên đưa người lạ đến đây, họ phạm vào điều lệ của hội. Các vị hãy cùng tại hạ liên thủ đánh họ, thiết tưởng chẳng sao đâu. Đánh kẻ vi phạm quy điều là bổn phận của chúng ta, chẳng có tội chi mà các vị phải lo sợ.
Bảy tám tên đó lại chuẩn bị xuất thủ.
Bỗng từ bên trong cửa, một thư sinh trung niên bước ra. Người đó vận chiếc áo màu tro, có mũi cong như mỏ chim ưng, đôi mắt cú vọ, tinh quang từ đôi mắt bắn ra sáng rực.
Người đó xuất hiện, bọn của hán tử trung niên lập tức im lặng.
Chỉ riêng hán tử vừa bước tới trước mặt người đó vừa hấp tấp thốt:
– Đại ca đến đúng lúc quá. Hai lão già đó bỗng dưng từ đâu kéo nhau đến đây sanh sự, họ đã giết chết một đồng tử giữ cửa.
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Khôi Y Thị Giả! Ngươi còn nhận ra bọn ta chăng?
Thư sinh trung niên mỉm cười:
– Nhị vị là bậc anh hùng hào kiệt trong hội, vì một việc nhỏ mọn mà bị trừ danh bảng, tuy vậy các bằng hữu từ ngày ấy vẫn tưởng nhớ đến hai vị luôn. Hai vị có biết không, ngôi vị của hai vị vẫn còn dành đó, chẳng có ai thay thế, bởi ai ai cũng nghĩ là có một ngày nào đó hai vị trở về và lỗi lầm năm xưa hẳn là hai vị phải chuộc được ...
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Thế ra hai tên già vô dụng này cũng chẳng đến đổi phải cùng đường, bởi ở đây cũng còn có người tưởng nghĩ!
Khôi Y Thị Giả gật đầu:
– Đương nhiên là như vậy, hai vị khéo đa nghi. Phàm những ai một khi được ghi tên nơi Bảng Phong Thần rồi là vĩnh viễn thành người trong Hội Long Hoa.
Y dừng lại một chút đoạn tiếp:
– Trong mấy năm qua chắc hai vị có cơ hội phục vị?
Cơ hội phục vị? Cái cơ hội đó, tự những người bị xóa tên tự tạo cho mình và cơ hội đó chính là cái dịp tỏ tài ba, dùng tài ba mà trở về ngôi vị cũ.
Vạn Lý Vô Vân cất tiếng:
– Hay quá! Ngươi nói đến hay! Đành rằng về võ công thì ai ai cũng có thu hoạch tiến bộ cùng với năm tháng trôi qua, song bọn ta dù có tiến bộ đến đâu, vị tất tiếp nổi ba chưởng Lôi Đình!
Khôi Y Thị Giả mỉm cười:
– Nhị vị quá khiêm nhường đấy thôi! Cũng may, hội kỳ sắp đến nơi và chính là cái lúc nhị vị trổ tài kinh thiên động địa cho mọi người thưởng thức!
Nhất Luân Minh Nguyệt cười lạnh:
– Dù bọn ta có tiến bộ như thế nào cũng chưa sánh được bọn Thập Đại Du Hồn các ngươi.
Khôi Y Thị Giả giật mình:
– «Minh Nguyệt Công» nói thế là nghĩa làm sao.
Nhất Luân Minh Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Vừa rồi cái gã Độc Giác Tê dám gọi tên tộc của lão Vô Vân, như vậy chứng tỏ sự thành tựu của Thập Đại Du Hồn phải phi thường lắm! Sự thành tựu đó có thể đưa Thập Đại Du Hồn lên trên Tiên Bảng, trên xa, mà biết đâu lại chẳng ngang hàng với Hội Chủ. Có như vậy Độc Giác Tê mới dám buông lung tính khí gọi tên tộc của người ở hàng trên chứ!
Rồi lão tặc lưỡi tiếp:
– Tuy nhiên các ngươi nóng nảy quá, đáng lẽ các ngươi phải đợi đến lúc Hội Kỳ chiếu lệ khai mạc hàng năm, lúc ấy mặc tình mà biểu dương tài nghệ thi triển sự thành tựu cho mọi người nhìn thấy. Công khai như vậy mới quang vinh, âm thầm như hôm nay là sính cường quá đáng!
Khôi Y Thị Giả biến sắc, cao giọng hỏi:
– Việc gì đã xảy ra, lão Tứ?
Hán tử trung niên ấp úng:
– Họ khi phụ người thái quá, họ công khai kể chuyện xấu của tiểu đệ ...
Khôi Y Thị Giả trầm gương mặt:
– Ngươi hồ đồ mất rồi lão Tứ. Năm xưa cái việc giết trâu bẻ sừng do Hội Chủ công nhiên chấp thuận để tạo một trò vui, dù cho ngươi không cao hứng đi nữa thì cũng không thể trách họ ...
Hán tử trung niên biến sắc mặt.
Khôi Y Thị Giả day qua Vạn Lý Vô Vân điểm nụ cười vuốt, hỏi:
– Vô Vân lão huynh có thể tha thứ cho hắn một lần chứ?
Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:
– Năm xưa lúc ta bị xóa tên, có ai lượng thứ cho ta chăng? Huống chi, nơi đây là Thiên Tề Biệt Phủ, một nơi chấp pháp, kiểm soát mọi người, trừng trị kẻ phạm hội quy? Ta nghe nói cái ngôi vị Ma Quân đã thay đổi người ...
Khôi Y Thị Giả gật đầu:
– Phải! Lão Ma Quân đã về cõi Phật, hiện tại Ấu Quân thay quyền.
Vạn Lý Vô Vân thở dài:
– Lần mở Hội Long Hoa sắp tới đây, bao nhiêu người cũ vắng bóng vĩnh viễn, thay thế bằng những người mới, lạ ...
Khôi Y Thị Giả cũng thở dài:
– Mười bảy vị ra đi tất cả! Nhưng người ra đi vẫn có người thừa kế, mà phần đông là những nữ nhân! Nếu tại hạ không lầm thì những người mới này đều là những bậc kỳ tài, có phần hơn lớp trước. Chắc chắn là trong kỳ đại hội tới đây phải nhiệt náo phi thường.
Vạn Lý Vô Vân lại hỏi:
– Tân Ma Quân sánh với lão Ma Quân như thế nào? Có thể vượt qua Tiên Bảng, tranh ngôi Hội Chủ chăng?
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ đắc ý:
– Tân Ma Quân là bậc thiếu niên anh tuấn, tài cao hiện rõ ngay từ lúc nhỏ, hơn hẳn cố Quân, có nhiều hy vọng giành một ngôi vị trong số bốn ngôi Hội Chủ.
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Tân Ma Quân lên cao là các ngươi cũng lên theo, lúc đó thì các ngươi bình đẳng với bọn ta rồi! Thảo nào mà tên Độc Giác Tê chẳng ngạo mạn trước khi tình cảnh cho phép!
Khôi Y Thị Giả biến sắc:
– Vô Vân lão huynh nhất định không dung thứ cho hắn?
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Ta đâu có quyền định đoạt. Các ngươi hãy hỏi nơi Tân Ma Quân các ngươi!
Khôi Y Thị Giả thở dài:
– Thế là đành rồi vậy, lão Tứ tự ngươi làm ngươi phải chịu, không còn nói gì được nữa!
Hán tử trung niên biến sắc:
– Đại ca! Vì một việc nhỏ mọn như vậy, đại ca nở bức tử người anh em từng đồng lao cộng khổ với đại ca suốt bao nhiêu năm dài.
Khôi Y Thị Giả lại thở dài:
– Ta bất lực! Nếu là việc gì khác thì chẳng nói làm chi, chứ như cái việc này tự ngươi gây ra ...
Hán tử trung niên kêu lên:
– Tại sao đại ca không đem việc này trình lên Ma Quân? Biết đâu ...
Khôi Y Thị Giả lắc đầu:
– Vô ích. Tân Ma Quân mới lên cầm quyền, trước hết người phải làm mọi cách để lập oai, ngươi không có lỗi, chưa chắc khỏi tội, huống hồ đã phạm quy củ?
Nhất định là người không thể cải biến điều lệ đâu! Tốt hơn là ngươi nên tự xử để tránh mọi hình phạt thống khổ!
Hán tử trung niên nhảy dựng lên:
– Tiểu đệ chết không thành vấn đề, nhưng ít nhất cũng phải có sự công bằng. Hai lão kia vô cớ đưa người lạ đến đây cũng là một cái tội chứ, họ cũng phạm vào điều lệ chứ. Tiểu đệ nhất định phải bái kiến Ma Quân, vừa chịu tội vừa trình bày trường hợp phạm điều đố kỵ của hai lão ấy.
Khôi Y Thị Giả day qua nhìn Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.
Hắn không hỏi bằng miệng, nhưng ánh mắt của hắn thừa nêu lên câu hỏi.
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Thị Giả còn chờ gì nữa?
Khôi Y Thị Giả trầm ngâm một chút:
– Tại hạ chờ nhị vị giải thích.
Vạn Lý Vô Vân bật cười ha hả:
– Thị Giả ngươi từng tham gia đại hội mấy lần, tại sao ngươi càng ngày càng mù mờ đạo lý? Dù cho bọn ta có cần điều chi, bọn ta lại phải nói ngay với ngươi à?
Khôi Y Thị Giả biến sắc mặt:
– Lão Tứ! Ngươi có nghe họ nói đó không? Danh phận đã đặt ra rồi, mọi người phải ở trong danh phận đó, ta không còn biện pháp nào tiếp trợ ngươi được!
Tuy nhiên, ngươi yên trí, ta sẽ vì tình nghĩa của nhau trong bao nhiêu năm dài, tranh thủ công đạo cho ngươi!
Hán tử trung niên nín lặng.
Khôi Y Thị Giả thôi thúc hán tử xong, bỗng hán tử nhún đôi chân vọt mình tới, định thoát đi. Hắn vượt được ba bốn trượng đường, qua ngang bên trên đầu bọn Quan Sơn Nguyệt. Hắn đáp xuống rồi hắn tung mình lên lượt nữa, khi hắn đáp xuống lần thứ hai thì chân hắn nhũn lại, không làm sao nhảy lên lượt thứ ba.
Rồi hắn ngã xuống.
Khôi Y Thị Giả lấy làm lạ, bước tới xem.
Y phát hiện ra hán tử trung niên bị trúng ba mủi thích màu đen nơi lưng, thất khiếu rỉ máu, bất giác y thất sắc đứng lặng như tượng gỗ.
Một giọng nói lạnh lùng đâu đây vang lên:
– Tiêu Nhất Bình! Ngươi cai quản bọn anh em của ngươi đáng khen đó!
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Chàng nhận ra âm think đó chính là của Kỳ Hạo, toan cất tiếng gọi, nhưng Vạn Lý Vô Vân đã kịp thời đưa ánh mắt sang ngăn trở.
Chàng đành im lặng.
Tiêu Nhất Bình, là Khôi Y Thị Giả, biến sắc mặt xanh dờn, quay mình lại đứng nơi khung cửa, thấp giọng thốt:
– Thuộc hạ xin chờ Ma Quân trị tội.
Bên trong cửa giọng nói lạnh lùng trước đó lại vang lên:
– Hiện tại ta không có thì giờ định đoạt trường hợp của ngươi, tạm thời xếp việc đó lại một bên, chờ mấy hôm nữa ta khảo nghiệm bọn anh em của ngươi rồi sẽ có thái độ sau. Giả như ta phát giác ra tất cả những tên còn lại đó đều là những kẻ tham sanh úy tử, thì lúc đó ngươi phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Giọng nói đó trở nên nghiêm nghị, song vẫn lạnh lùng như thường:
– Bây giờ ngươi hãy mời khách vào.
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình «vâng» một tiếng.
Mấy tên kia nghe chủ nhân lên án treo như vậy đều bạt vía kinh hồn, mặt mày xám xịt.
Quan Sơn Nguyệt chứng kiến những diễn tiến vừa qua lòng thêm hoang mang, nhiều nghi vấn phát sanh quanh cái hội mà những người hiện diện gọi là Hội Long Hoa.
Đến đây rồi chàng mới phát giác ra, Kỳ Hạo, một thiếu niên suýt soát tuổi với chàng, có một uy quyền rất lớn, bằng cớ là bọn Thập Đại Du Hồn, gồm những tên hung ác phải co đầu rút cổ trước hắn. Thậm chí đến cả Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân, Xú Sơn Thần Liễu Sơn Dương và Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân cũng phải tuân phục.
Khó hiểu quá chừng!
Chàng tự hỏi Hội Long Hoa là hội gì? Có mấy bảng cả thảy? Tiên Bảng?
Phong Thần Bảng? Ma Bảng? Tại sao có những bảng đó? Long Hoa Hội có tôn chỉ như thế nào? Chủ trương việc gì? Long Hoa Hội có đúng là một tổ chức gồm những tay cùng ác cực hung chăng?
Vì không a tùng theo kẻ ác nên ân sư chàng, Bành Cúc Nhân, Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt bị xóa tên trên bảng?
Bị xóa tên là tức nhiên trước đó phải được liệt tên, tại sao những người đó nhắm mắt gia nhập tổ chức, để cuối cùng thấy rõ mình lạc hướng đi rồi chống đối nên bị khai trừ? Bị khai trừ khỏi tổ chức hung ác là một cái may, tại sao họ lại tìm mọi cách để phục hồi danh vị?
Dù sao thì chàng cũng không thể tin được tổ chức đó chủ trì hiệp nghĩa bởi Kỳ Hạo là kẻ độc ác, gia dĩ chính hắn lại chấp chưởng quyền kiểm soát toàn thể hội viên. Một kẻ hung ác giữ một địa vị rất cao trong tổ chức, thì cái tổ chức không thể hành thiện được rồi.
Khôi Y Thị Giả hướng sang bọn chàng vòng tay thi lễ, thốt:
– Ma Quân thỉnh các vị vào phủ đàm đạo.
Vạn Lý Vô Vân dợm chân bước tới, Quan Sơn Nguyệt vội hét to:
– Thư thả. Gọi Kỳ Hạo ra đây nghinh tiếp bọn ta!
Khôi Y Thị Giả biến sắc:
– Các hạ là ai? Tại sao dám buông lung ngạo mạn ...
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Ta là ai? Ngươi cứ vào mà hỏi Kỳ Hạo, hắn sẽ bảo cho biết!
Khôi Y Thị Giả day mặt vào cửa định thỉnh chỉ thị. Nhưng bên trong im lìm.
Quan Sơn Nguyệt lấy trong mình ra một tấm Minh Đà Lệnh, vung tay lên, chiếc lệnh bài bay đi cắm vào khung cửa, rồi chàng cất cao giọng thốt:
– Kỳ Hạo! Ta bất chấp thân phận của ngươi như thế nào. Hôm nay ta đến đây với tư cách Minh Đà Lệnh Chủ hỏi ngươi về cái vụ thất ước tại Đại Tán Quan.
Về việc đó, ngươi phải xuất hiện để tạ tội với ta.
Bên trong cửa vẫn im lìm.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận quát to hơn:
– Phi Lạc Đà! Ngươi dần dà, không chịu ra mặt, ta sẽ phá cửa xông vào cho ngươi biết. Đường đường là Lệnh Chủ Minh Đà, ta không lẽ chờ ngươi cho phép mới được vào sao?
Khôi Y Thị Giả phẩn nộ đưa tay rút tấm Minh Đà Lệnh.
Vừa lúc đó, Kỳ Hạo bên trong thốt vọng ra:
– Đừng vọng động! Hãy truyền lịnh bố trận, ta sẽ ra đó nghinh tiếp khách.
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ kinh ngạc. Y đưa mắt nhình Quan Sơn Nguyệt, cố tìm hiểu thiếu niên trước mặt là nhân vật như thế nào mà Ma Quân có ý nể nang như vậy. Song, y đâu dám chậm trể, lập tức lấy trong tay áo hai tấm sanh bằng ngọc.
Đoạn y nhịp hai tấm sanh vào nhau.
Tiếng «cốc cốc» vang lên đúng sáu lượt.
Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng từng nghe tiếng sanh đó, cả hai biết là Vân Bảng Lục Truyền tín hiệu của Ma Quân.
Bọn Thập Đại Du Hồn nghiêm chỉnh thần sắc.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân buông thỏng tay, đứng thẳng người.
Chỉ có Quan Sơn Nguyệt là cười cười nói nói ra vẻ khinh thường. Chàng mỉa mai:
– Thối tha quá chừng! Nghi thức càng rườm rà, con người càng thêm trơ trẽn. Ta không hiểu nổi tại sao lại có người thích biểu hiệu oai phong trong khi thực chất lại chẳng có gì?
Khôi Y Thị Giả liếc mắt sang chàng, song y làm gì dám phát tác?
Tiếng sanh dứt, không lâu lắm, một đội đồng nam đồng nữ bước ra. Chính là bọn đồng nam đồng nữ xuất hiện lúc chàng vừa đến. Vì một gã đã bị Nhất Luân Minh Nguyệt đánh chết nên hiện giờ hàng ngũ bất đồng.
Nhưng Kỳ Hạo chưa ra mặt.
Quan Sơn Nguyệt chờ một lúc lâu bực tức quát:
– Phi Lạc Đà! Ngươi còn chờ gì mà chưa chịu xuất hiện?
Bên trong cửa, Kỳ Hạo lạnh lùng thốt vọng ra:
– Đừng nóng nảy Quan Sơn Nguyệt! Nơi đây chẳng phải là Tà Dương Trang, mọi hành động của ta phải được xúc tiến đúng cái thân phận mà toàn thể đều công nhận.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Bao nhiêu nghi thức đó chưa vừa với thân phận của ngươi sao? Lại còn dần dà, ra vẻ trịnh trọng?
Kỳ Hạo không buồn để ý đến chàng, điềm nhiên gọi Khôi Y Thị Giả:
– Tiêu Nhất Bình, ta đếm từ một đến mười, nếu đếm xong mà ngươi chưa lo liệu chu toàn thì ta chỉ nhận đầu lâu chứ không nhận người đấy!
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ sợ hãi, đảo mắt nhìn quanh, chẳng biết mình đã sơ xuất điểm nào, bởi các nghi thức đã được bố trí đàng hoàng lắm rồi.
Trong khi đó, tiếng đếm vang lên, mỗi tiếng là một quả chùy nện xuống con tim y. Tiếng đếm đến số sáu rồi. Mồ hôi đổ ra ướt đầu ướt mặt Khôi Y Thị Giả.
Bọn du hồn còn lại xanh mặt.
Tiếng đếm vang lên:
– Chín!
Khôi Y Thị Giả bất thình lình vọt mình đến sau lưng một đồng nữ, đưa tay cao lên ngay đỉnh đầu nó, bàn tay đó hạ xuống ...
Một tiếng «bốp» vang lên cùng một lượt với tiếng đếm «mười», đứa bé gái ngã nhào xuống đất.
Bọn Quan Sơn Nguyệt vô cùng kinh ngạc.
Nhưng họ chưa kịp có thái độ nào, từ trong cửa Kỳ Hạo bước ra vận chiếc áo gấm. Khí tượng của hắn hôm nay khác xa ngày nào tại Tà Dương Trang.
Hắn bước đến trước mặt Khôi Y Thị Giả, điểm nhẹ một nụ cười thốt:
– May cho ngươi đó, đã kịp thời phát hiện chỗ sơ xuất. Chứ nếu không, kẻ nằm đó phải là ngươi chứ chẳng phải là nữ đồng tử đó đâu!
Hắn đưa tay chỉ xác chết, hắn cười, nói, thản nhiên như đối với hắn sanh mạng con người chẳng có nghĩa gì cả.
Quan Sơn Nguyệt chịu không nổi cái vẻ tàn bạo đó, sôi giận quát to:
– Kỳ Hạo! Ta nghĩ ngươi không còn là con người nữa!
Kỳ Hạo cười nhẹ điềm nhiên đáp:
– Các hạ khích động dể dàng quá! Thực ra thì tại hạ cũng chẳng có gì đáng trách cả. Huống chi, đối với các hạ tại hạ đã ủy khúc lắm rồi, thiết tưởng các hạ nên dừng lại một chút, tránh bước vội đến chỗ cực đoan khi chưa phải lúc.
Quan Sơn Nguyệt tự xét mình hơi quá phận, có ý thẹn thành ra sượng không nói được tiếng nào. Tuy nhiên chàng không quên được cái tánh tàn ác của Kỳ Hạo, chàng nhìn hắn đăm đăm, trong ánh mắt niềm tức uất hiện rõ.
Kỳ Hạo vẫn điềm nhiên tiếp:
– Với thân phận hiện tại của tại hạ thì tại hạ có quyền xử dụng tám cặp nam nữ đồng tử làm cái việc thị vệ và phục dịch, song các vị đã giết mất một tên rồi, hàng ngũ của chúng phải chênh lệch, do đó tại hạ bắt buộc phải ra lịnh cho hắn giết bớt một tên nữa, giữ sự đồng đều cho đội ngũ thị vệ của tại hạ. Đáng lẽ các vị phải giết nốt cái tên lẻ loi đó, các vị không làm, tại hạ phải buộc hắn làm, hắn đã làm thay các vị, sao các vị lại trách hắn, oán tại hạ?
Nhất Luân Minh Nguyệt đằng hắng một tiếng:
– Lão phu xuất thủ đánh chết một đồng tử thị vệ của Ma Quân, chẳng qua lâm vào cái thế bất đắc dĩ. Nếu không làm vậy thì gã đồng tử đã dùng «Thiên Ma Chỉ» hạ sát Lạc cô nương rồi.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Đồng tử chết, nó đáng tội chết, bổn tòa có trách phiền gì Minh Nguyệt Công đâu? Cái điều đáng nói, cần nói là Minh Nguyệt Công thích gánh vác việc của người ngoài thôi!
Nhất Luân Minh Nguyệt lại đằng hắng một tiếng:
– Sự an toàn của Lạc cô nương có quan hệ với lão phu, tự nhiên lão phu phải can thiệp. Huống chi hành động đó còn có liên quan đến đại cuộc của lão phu. Ma Quân nghĩ xem, lão phu đã sống đến từng tuổi này rồi mà vẫn chưa có một truyền nhân, giả như lão phu chết bất ngờ thì có phải là trên Tiên Bảng khuyết một hội viên chăng? Lão phu phải nghĩ đến cái việc bổ khuyết đó.
Kỳ Hạo «ạ» lên một tiếng:
– Minh Nguyệt Công lại có giao tình với một tiểu cô nương à?
Lạc Tiểu Hồng nổi giận:
– Ngươi đừng nói nhảm. Trong một cuộc giao đấu, ta thắng lão bại, do đó lão chịu sự ước thúc của ta, ngoài ra chẳng có giao tình chi cả.
Kỳ Hạo thoáng lộ vẻ kinh dị:
– Lại có việc như vậy à? Thế ra Minh Nguyệt Công càng cao tuổi võ công càng lụt.
Nhất Luân Minh Nguyệt cố nén cơn tức uất, thốt:
– Lão phu bại chẳng phải vì võ công kém mà bại là vì ý trời khiến vậy. Ma Quân khỏi phải tìm cách khích nộ lão phu. Ngày nay Hội Long Hoa sắp đến nơi rồi, ngày đó lão phu sẽ lãnh giáo Ma Quân, còn như hiện tại thì lão phu xem thường những lời khích thích của Ma Quân. Cái mưu của Ma Quân không thành tựu đâu!
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Minh Nguyệt Công như một ánh gừng, gừng càng già càng cay! Bổn tòa đành chịu kém vậy. Tuy nhiên, trong ngày Đại Hội Long Hoa bổn tòa sẽ giới thiệu với các vị một vài người mới ...
Hắn nêu lên vài người mới để làm gì, nếu không phải là dọa khiếp tinh thần đối phương?
Nhất Luân Minh Nguyệt không đáp.
Kỳ Hạo lại tiếp:
– Về cuộc ước hội tại Đại Tán Quan, tại hạ nhận lỗi đã thất ước với Quan thiếu hiệp. Song tại hạ đã cho tiện nội đại diện đến nơi ước hội phân trần với Quan thiếu hiệp. Không may cho tiện nội kém tài thành ra phải bại nơi tay Quan thiếu hiệp. Tại hạ nghĩ sự tình như vậy kể ra cũng có thể xem như giải quyết xong, nhưng Quan thiếu hiệp lại còn tìm đến tại hạ, chẳng hay thiếu hiệp có điều chi cần chỉ giáo?
Quan Sơn Nguyệt gằn từng tiếng:
– Tại hạ muốn có sự dứt khoát về Phi Đà Lệnh.
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Thì tại hạ đã y theo lời của các hạ rồi, trong khoảng thời gian chưa định phân hơn kém giữa chúng ta, tại hạ không sử dụng Phi Đà Lệnh.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Chưa hết, còn cái việc của phái Chung Nam nữa.
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Vấn đề Chung Nam phái thuộc thẩm quyền của tiện nội, tại hạ cũng như các hạ, chẳng liên quan gì, mình bỏ qua đi!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Bỏ qua thế nào được? Ta đã hứa với người trong phái Chung Nam là sẽ thay mặt họ thanh toán việc đó.
Kỳ Hạo cười hì hì:
– Các hạ cũng có cái thích gánh vác việc người nữa à? Các hạ đã muốn thế, tại hạ phải cho tiện nội giải quyết thẳng với các hạ, song rất tiếc hiện giờ nàng bận việc không hầu tiếp các hạ ngay. Vậy các hạ cảm phiền đợi cho mấy hôm!
Quan Sơn Nguyệt nhìn đối phương không chớp mắt, chàng không tưởng nổi là Kỳ Hạo bình tĩnh cực độ như vậy. Một con người bình tĩnh như thế hẳn phải có căn cơ tu vi rất thâm hậu. Nhờ bình tĩnh, hắn cởi mở dể dàng những gì Quan Sơn Nguyệt toan gút chặc, thành ra Quan Sơn Nguyệt không còn nói được gì hơn.
Chàng hỏi:
– Ta phải chờ mấy hôm?
Kỳ Hạo thản nhiên:
– Không lâu lắm đâu, tại hạ bảo đảm điều đó. Các hạ sẽ gặp nàng giải quyết những gì cần giải quyết với nàng. Còn cái việc lệnh bài của chúng ta đến lúc đó rồi cũng sẽ được giải quyết luôn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Kỳ Hạo lại hỏi:
– Các hạ từ xa đến đây hẳn không chỉ riêng có một việc đó chứ?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Còn! Còn nhiều việc khác ...
Kỳ Hạo nghiêm chỉnh sắc mặt:
– Các hạ có thể cho tại hạ biết chăng?
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Ta thắc mắc về những danh từ:
Tiểu Tây Thiên, Long Hoa Hội, Phong Thần Bảng. Ta có nghe giang hồ truyền thuyết về những danh từ đó, song chẳng hiểu chi hết, nên đến đây nhân cái việc kia hỏi ngươi luôn việc này. Ngươi có thể giải thích cho ta biết chăng?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Tự nhiên là có thể. Nhưng trước hết tại hạ phải chiếu theo thông lệ mà làm nhiệm vụ.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Thông lệ như thế nào?
Kỳ Hạo lạnh lùng:
– Theo thông lệ đó, người ngoài cuộc không thể dự thính, dự kiến sự tình.
Người ngoài cuộc phải bị thanh trừ. Các hạ tự động lôi cuốn người ngoài cuộc, các hạ không rành thông lệ thì tại hạ có cái bổn phận sửa chửa sự sai lầm của các hạ.
Hắn đưa tay chỉ Lưu Tam Thái và Lữ Vô Úy. Ánh mắt của hắn ngời lên sát ý.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi vội đảo bộ áng trước mặt cả hai.
Khôi Y Thị Giả đã huy động tám gã du hồn bao vây bên ngoài.
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình vâng một tiếng lớn, đoạn rút trong tay áo ra một chiếc quạt. Hắn bật chiếc quạt xòe ra, kêu lên một tiếng rẹt, nghiêng mình trước Quan Sơn Nguyệt, buông gọn:
– Xin nhượng lối cho tại hạ!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng, hoành tay ra sau lưng, rút Kim Giáp Thần, đặt ngang trước ngực, nghiêm giọng đáp:
– Những vị đó, do tại hạ thỉnh đến đây, giả như các hạ có điều chi cần nói với họ, xin cứ nói thẳng với tại hạ ...
Kỳ Hạo đứng một bên, không biểu hiện một thái độ nào.
Khôi Y Thị Giả mấy lượt nhìn qua hắn, trông chờ một chỉ thị song hắn vẫn thản nhiên. Bắt buộc, Tiêu Nhất Bình phải tự quyết định lấy. Hắn gằn từng tiếng:
– Các hạ đã nói thế, chắc là tại hạ phải đắc tội rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt đưa cao chiếc Kim Giáp Thần, trầm giọng thốt:
– Nếu các hạ muốn động thủ, thì xin mời! Tại hạ đến đây hẳn nhiên là không thể mang theo mình cái thiện ý. Hơn nữa, có đến đây rồi, tại hạ mới nhận ra, Phi Đà Lệnh Chủ kém tư cách quá, một con người quá kém tư cách, không đáng hưởng sự tôn kính của tại hạ, cho nên tại hạ nghĩ rằng, mình không cần phải chủ hòa!
Kỳ Hạo thoáng biến sắc, nhưng chưa nói gì.
Đột nhiên, Tiêu Nhất Bình xếp nhanh chiếc quạt, chỉ thẳng vào ngực Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt bình tĩnh đưa chiếc Kim Thần ra.
Một tiếng «keng» vang lên, Kim Thần hóa giải lập tức chiêu thức của quạt.
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình giật mình:
– Công lực của các hạ khá lắm!
Bỗng, gã rẹt chiếc quạt, rồi gã tiến công, thoạt quạt, thoạt đâm thoạt hất, thoạt chặt, tùy theo động tác mà quạt xòe hoặc khép.
Với một chiếc quạt, gã đánh ra những chiêu thức thích hợp cho đủ loại vũ khí, như đao, kiếm, câu, bút ... Những chiêu thức đó, biến hóa vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt thủ chiếc Kim Thần, bình tĩnh ứng phó. Không lâu lắm, họ trao đổi nhau độ ba mươi chiêu.
Cuộc chiến vẫn trong tư thế quân bình.
Chừng như muốn kết thúc trận đấu nhanh hơn, Khôi Y Thị Giả bỗng nhìn qua một bên, gắt:
– Sao các ngươi thản nhiên được chứ?
Trong số tám du hồ, hai người bước ra. Hai người đó, là hai thiếu phụ, tác trung niên, một cầm chiếc Hộ Thủ Quảy, một cầm kiếm. Cả hai cùng vung vũ khí, tham gia cuộc chiến.
Nhưng, bọn đó tham gia, Khôi Y Thị Giả không hài lòng, lại gắt:
– Ai gọi các ngươi trợ chiến? Ngốc ơi là ngốc!
Hai thiếu phụ sửng sốt. Nhưng, liền theo đó, họ thức ngộ ngay, người cầm quảy hướng qua Lưu Tam Thái, người cầm kiếm tiến đến Lả Vô Úy.
Lưu Tam Thái đã chuẩn bị ngay từ lúc Khôi Y Thị Giả lướt tới, thấy thiếu phụ tiến đến, lập tức vung Thất Tinh Đao chém ra.
Quảy chạm đao, một tiếng «bốp» vang lên, Lưu Tam Thái cảm thấy hổ khẩu tay nhói lên, năm ngón lỏng liền, thanh Thất Tinh Đao văng ra.
Lưu Tam Thái có đao, chống lại quảy, Lử Vô Úy tay không, phải chống với kiếm, tình cảnh phải nguy hơn, không công được thì cũng thủ, và thủ một cách chặt chẽ. Lử Vô Úy vừa thủ, vừa thừa thế, lách mình lòn theo kiếm ảnh, nhập nội, đưa tay điểm vào mạch môn thiếu phụ.
Thiếu phụ không tưởng là đối phương có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn như vậy, hụt chiêu kiếm đầu, liền bị tấn công, bà ta không thu kiếm về để phản công đúng lúc, mà cũng chẳng tránh kịp nên bị Lử Vô Úy điểm trúng mạch môn. Bà cảm thấy toàn thân rợn lên, rồi hầu như tê dại, bàn tay buông lỏng, thanh kiếm rơi xuống đất.
Lử Vô Úy kịp thời đưa tay kia chụp thanh kiếm.
Thế là qua chiêu đầu, Lử Vô Úy đã tước vũ khí của địch dễ dàng.
Hai du hồn xuất trận, một thắng, một bại. Dù ai thắng, ai bại, điều quan trọng không phải ở chỗ hơn kém, điều quan trọng là việc bắt hai người lạ mặt, vô cớ đến tận Biệt Phủ. Điều quan trọng đó, hai thiếu phụ đã làm, nhưng không thành công. Do đó, Kỳ Hạo trầm gương mặt, «hừ» một tiếng:
– Vô dụng quá!
Lời phê phán đó ngang với một lời kêu án, tất cả những tên du hồn, kể luôn Khôi Y Thị Giả đều sợ hãi.
Bị phê phán như vậy, chúng còn giao đấu nữa làm gì? Những tên dợm vào trợ chiến với Khôi Y Thị Giả, đều lùi lại. Những gã chưa vào, cũng lui theo. Khôi Y Thị Giả cũng bỏ cuộc luôn. Và, tất cả đứng lặng người, chờ sự trừng phạt, họ không có tội gì khác hơn là đánh không thắng bọn Quan Sơn Nguyệt.
Kỳ Hạo cười lạnh, thốt:
– Thật ta không hiểu nổi rồi đó, Tiêu Nhất Bình! Tài năng của du hồn các ngươi như vậy, thế mà cũng được tuyển dụng, và lại được tuyển dụng từ lâu! Bao lâu nay, chẳng một ai phát giác bọn các ngươi là một lũ vô tích sự!
Khôi Y Thị Giả biến sắc thành màu đất, rung rung giọng ấp úng:
– Tài nghệ của bọn thuộc hạ, cùng một xuất xứ cả, so với Độc Giác Tê, thuộc hạ không kém hắn, còn tám người kia ...
Kỳ Hạo cười mỉa:
– Riêng về ngươi, ta không đáng trách lắm, nhưng cái bọn đó ... thì đúng là một lũ vô dụng, bất quá chỉ để làm những cái túi đựng cơm, những cái giá mắc áo!
Khôi Y Thị Giả càng sợ hãi hơn:
– Tiên sư thuộc hạ từ lộc rất sớm, thành các sư đệ sư muội không được thụ huấn kỹ càng, đến nơi đến chốn, sở đắc hiện tại của họ do thuộc hạ truyền cho, được phần nào hay phần ấy. Bởi thuộc hạ chỉ điểm họ không đúng phương cách ...
Kỳ Hạo khoát tay:
– Ta không cần biết điều đó. Ta chỉ muốn rõ tại sao năm xưa các ngươi được tuyển mà thôi. Thấy vũ công của các ngươi, ta đâm nghi ngờ!
Khôi Y Thị Giả cúi đầu:
– Mười anh em thuộc hạ có một đấu pháp liên thủ, kể ra cũng hữu dụng, nhờ vậy mà trong cuộc khảo thí năm xưa, bốn vị Hội Chủ rất hài lòng, nên không ngần ngại tuyển chọn bọn thuộc hạ.
Kỳ Hạo «hừ» một tiếng:
– A? Các ngươi có một đấu pháp đặc biệt? Đâu các ngươi thử biểu diễn cho ta xem?
Khôi Y Thị Giả tỏ vẻ khó khăn:
– Tứ Đệ Độc Giác Tê đã bị Ma Quân trừng trị rồi, mười thiếu một, làm sao thuộc hạ biểu diễn được đấu pháp đó? Bởi đã gọi là liên thủ thập phương, thiếu một người thì trận thế không tròn ...
Kỳ Hạo suy nghĩ một chút đoạn gật đầu:
– Được rồi, ta cũng bỏ qua cho. Một ngày nào đó, ngươi nhắc lại ta, ta sẽ tìm người điền khuyết.
Như vậy Ma Quân đã xá tội rồi. Bọn du hồn thở phào.
Kỳ Hạo quay qua Quan Sơn Nguyệt, hỏi:
– Cái ý tứ của các hạ vừa rồi, tựa hồ cho tại hạ không dám động thủ?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Dám hay không, chỉ một mình ngươi biết, ta làm sao biết được chứ?
Kỳ Hạo đến bây giờ, mới tỏ lộ vẻ phẫn nộ. Hắn trầm giọng tiếp:
– Thật ra, hôm nay, tại hạ không dám khiêu chiến với các hạ, điều đó chẳng phải do tại hạ sợ gì các hạ, điều đó có một nguyên do, và tại hạ không thể bày tỏ cái nguyên do cho các hạ hiểu được. Giả như các hạ có thắc mắc, nóng muốn hiểu nguyên do đó, thì cứ hỏi hai vị ấy?
Hắn dứt tiếng, liền đưa tay chỉ Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân.
Nhất Luân Minh Nguyệt không đợi Quan Sơn Nguyệt hỏi, xác nhận ngay:
– Đúng vậy! Ma Quân dù muốn động thủ với ngươi, cũng không thể động thủ được, bọn lão phu biết rõ sự khổ tâm của Ma Quân!
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Và cũng vì các vị muốn biết rõ như vậy, nên mới dám đưa nhau đến đây, hơn nữa, đã đến đây rồi, lại còn dám sanh sự!
Nhất Luân Minh Nguyệt hấp tấp đáp:
– Ma Quân đoán sai! Bọn lão phu hoàn toàn chống đối sự vu oán đó! Thú thật với Ma Quân, chẳng phải bọn lão phu đưa người đến đây, mà chính là người đưa đi thì có!
Kỳ Hạo không tin lời nói đó:
– Không thể có việc như vậy! Trừ hai vị ra, còn ai biết được nơi này mà đến chứ?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Lầm! Ngươi quên là còn ta! Chính ta biết ngươi ở tại đây và chính ta mang các vị lão trượng đó theo, ta đính chánh sự nghi ngờ oan uổng của ngươi!
Kỳ Hạo vẫn không tin.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ con Minh Đà, tiếp:
– Ta nói sự thật, ngươi tin hay không tin, tùy ngươi. Chính con vật đó đưa đường, nó đánh hơi Khổng Linh Linh, theo dấu đến đây, nó thuộc loại hiếm tại vùng Quan Ngoại, có khả năng đánh hơi tinh hơn loài chó săn, dù ngươi ở ngoài ngàn dặm, nó biết cái hơi của ngươi rồi, là dẫn đường tìm ra ngươi ngay, nhất định không lệch lạc phương hướng.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Nó có khả năng đánh hơi đã đành, chẳng lẽ nó cũng có luôn khả năng tránh những cơ quan của tại hạ trong khu Hắc Lâm.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, câu hỏi của Kỳ Hạo buông ra đột ngột quá, chàng chẳng biết phải đáp làm sao cho ổn thỏa.
Chàng lúng túng, Vạn Lý Vô Vân đáp thay:
– Không phải vậy đâu, việc xuyên qua khu rừng đó không liên qua gì đến con Minh Đà cả, sở dĩ lão phu qua lọt các cơ quan là nhờ Khổ Hải Từ Hàng biểu hiện «Quang Minh Thân Pháp» đưa đi.
Kỳ Hạo nổi giận, hét lên:
– Đáng hận cái lão hòa thượng đó thật! Tại sao lão dám làm thế chứ?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Giả như Ma Quân có bất bình lão ấy thì cứ tìm lão mà giải quyết vấn đề!
Kỳ Hạo trầm ngâm một chút, đoạn bĩu môi:
– Không gặp lão hôm nay, thì sẽ gặp ngày mai, ngày kia. Sớm muộn gì cũng có dịp cho tại hạ giải quyết vấn đề!
Quan Sơn Nguyệt thầm cảm kích lão hòa thượng có nhã ý ám trợ bọn chàng, do đó, Kỳ Hạo hỏi, chàng không nỡ nói lên sự thật, sợ rắc rối phát sanh, bất lợi cho lão. Chàng định giấu, Vạn Lý Vô Vân lại tiết lộ ra, hơn thế Vạn Lý Vô Vân lại còn tỏ vẻ đắc ý, như khoan khoái vì đã gây nên mối hiềm khích giữa những người khác. Do đó, chàng khinh bỉ lão vô cùng, cho rằng lão chuyên xúi giục người ta thù nhau, đánh nhau, lão đứng bên ngoài, cười, vui bằng thích. Mỹ cảm chàng dành cho Vạn Lý Vô Vân, cũng như niềm kính trọng một bậc tài cao, tuổi lớn, từ lúc gặp gỡ trên đỉnh Ma Thiên Lãnh hoàn toàn tan biến.
Tuy nhiên, chàng không tỏ lộ sự khinh bỉ đó ngay bằng thái độ gì rõ rệt, chàng chỉ muốn chấm dứt câu chuyện đó, để chuyển sao đề khác. Chàng quát to:
– Kỳ Hạo! Ta hỏi ngươi, ngươi có bằng lòng giải thích thắc mắc của ta về Long Hoa Hội chăng?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Nói chứ! Có gì ngăn trở ta đâu mà ta chẳng nói? Bất quá, ta muốn biết, thực sự ngươi muốn nghe hay không vậy thôi!
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Nếu không muốn nghe, sao ta còn hỏi ngươi? Ngươi phải hiểu, ta ngàn dặm đến đây, ta không quản gian lao khổ nhọc, chỉ vì muốn biết Hội Long Hoa như thế nào. Đến đây rồi tự nhiên ta phải nghe ngươi giải thích chứ? Ngươi hỏi ta một câu, chừng như mâu thuẫn quá!
Kỳ Hạo đưa tay chỉ Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái, tiếp:
– Còn hai người đó? Ngươi phải an trí họ như thế nào, cho đừng trở ngại việc giải thích của ta!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không thể được!
Kỳ Hạo khoát tay lên không, kêu lên:
– Thế thì chịu thôi! Ta không làm sao thỏa mãn cái ý của ngươi được rồi!
Họ là những người ngoài, biết được những bí mật đó là họ phải chết!
Mãi đến bây giờ, Kỳ Hạo mới bỏ cái sáo giang hồ, không xưng là tại hạ, không gọi đối phương là các hạ nữa. Bởi, Quan Sơn Nguyệt không giữ lễ độ với hắn, thì hắn cần gì phải giữ lễ độ với chàng?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Ngươi nói nhảm! Chứ ta đây, ta có thuộc về Long Hoa Hội đâu sao ngươi dám tiết lộ những bí mật về hội đó, với ta?
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Ngươi thì khác, ngươi không giống những người đó. Chắc ngươi hiểu tại sao chứ? Tại vì ngươi là truyền nhân của Độc Cô Minh, sớm muộn gì, trên bảng, cũng sẽ có tên ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Ngươi nghĩ sai! Ta sẽ không ghi tên vào bảng đó đâu! Sở dĩ ta quan tâm đến sự tình, là vì mối liên quan của sư phụ ta, đó vì sự tình, riêng về cá nhân ta, chẳng bao giờ ta thích có tên trong bảng như ngươi vừa nói. Hiện tại, sự hiểu biết của ta về Long Hoa Hội rất kém, song một cái hội thần bí, chẳng khi nào hội đó chính đáng, quang minh hơn nữa, điều lệ của hội đó quá khốc liệt tàn nhẫn, một cơ hội có những lệ như vậy, hẳn phải gồm những kẻ tà ác ...
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Ngươi đừng vội kết luận về một sự việc mà ngươi chưa hiểu được tận tường. Vào hội, không phải do ngươi muốn mà được, lại cũng chẳng phải tùy ý ngươi từ khước bất mãn mà không vào. Trong Hội Long Hoa, có độ nửa số hội viên không muốn gia nhập nhưng họ không thể khước từ, ngoài ra, có những người bị xóa tên, lại tìm mọi cách để được phục hồi danh vị. Bằng cớ, hai vị lão nhân kia ...
Quan Sơn Nguyệt, nhìn sang hai lão nhân, trầm giọng hỏi:
– Đúng vậy chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt thấp giọng:
– Đúng vậy! Bọn lão phu thực ra không muốn nhập hội, song không có phương pháp nào cự tuyệt được. Đã thế sau khi bị xóa tên rồi, lại ẩn mình một nơi, khổ luyện ngày đêm, mong một ngày nào đó, thi triển tài năng qua một cuộc khảo thí, để được ghi tên vào bảng trở lại như cũ! Biết rằng, làm như vậy là mâu thuẫn chính mình, nhưng lão phu đã nói, mình không cự tuyệt, thì bắt buộc phải nhận chứ biết làm sao?
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Tại sao? Đã không muốn thì ai bắt buộc mình gia nhập, mà không phương pháp cự tuyệt?
Nhất Luân Minh Nguyệt há hốc miệng ra đó, một lúc lâu, vẫn chưa nói được tiếng nào. Sau cùng, lão thở dài, buông nhẹ.
– Lão phu cũng muốn giải thích cho ngươi hiểu, song chính lão phu cũng chẳng hiểu tại sao thì giải thích thế nào được?
Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ không tin:
– Trong thiên hạ làm gì có cái đạo lý kỳ quái như vậy ...
Nhất Luân Minh Nguyệt lại thở dài:
– Đến việc rồi ngươi sẽ biết! Lão phu không thể nói gì hơn.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi nữa.
Kỳ Hạo nóng nảy, chận trước:
– Thực sự, ngươi định như thế nào, nói cho ta biết?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Ngươi nói thế, ta cứ nghe như thế, song ta bảo chứng những người cùng đi với ta đến đây, chẳng hề tiết lộ một điều bí mật. Ngươi yên trí.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Người trong Hội Long Hoa, chỉ có quyền bảo chứng cho một người, và chính là mình đó!
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Ta nghĩ, điều lệ đó, nên sửa đổi lại cho hợp lý hơn!
Mọi người hiện diện tại cục trường đều giật mình trước đề nghị táo bạo của chàng. Đề nghị đó, đưa ra mường tượng là một sự chỉ trích, một phê phán.
Có lẽ hầu hết những người đó đều đồng ý, nhưng nào ai dám nói ra?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Được rồi! Ta thấy ngươi có hào khí đáng khen, nên đặc cách phá lệ thỏa mãn ý nguyện của ngươi. Vậy hãy theo ta vào trong ấy, đàm đạo.
Khôi Y Thị Giả do dự một chút, đoạn ấp úng:
– Ma Quân ... quyền hạn của Ma Quân ... không cho phép Ma Quân quyết định một việc quan trọng như vậy ...
Kỳ Hạo trừng mắt lườm y, quát:
– Tiêu Nhất Bình! Ngươi dám nói câu đó với ta à?
Khôi Y Thị Giả nín lặng.
Kỳ Hạo vẫy tay, ra hiệu mời khách, song ánh mắt của hắn ngời lên sát ý rõ rệt.
Quan Sơn Nguyệt bắt gặp ánh mắt đó, mỉm cười, hỏi:
– Ngươi tưởng ta chẳng biết tâm ý của ngươi, phải không?
Kỳ Hạo lạnh lùng:
– Biết được là tốt! Cứ đi theo ta!
Hắn bước đi liền. Hắn vừa qua cửa, bọn đồng nam đồng nữ theo luôn, cuối cùng chỉ còn một mình Khôi Y Thị Giả đứng tại đó, chờ khách.
Lử Vô Úy bước cạnh Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Lệnh chủ! Lão phu nghĩ rằng bên trong đó hắn có âm mưu ...
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Đúng vậy, Chưởng môn! Song, tiến tới, chúng ta ít hiểm nguy hơn thoái hậu.
Lử Vô Úy trố mắt:
– Lệnh chủ nói thế nghĩa là sao? Vào đó được an toàn hơn là thoái hậu?
Quan Sơn Nguyệt có phần nào áy náy, tuy nhiên, trong trường hợp này, dù hối hận cũng chẳng làm gì được. Chàng từ từ tiếp:
– Tại hạ trong một phút kém suy nghĩ, lôi cuốn hai vị vào vòng thị phi, thật là đáng trách cho tại hạ quá chừng! Song, bây giờ có nghĩ sao việc cũng đã lỡ rồi, có muốn sửa chữa lại phần nào cũng chẳng còn kịp nữa. Hiện tại, nếu muốn rút lui, chúng ta cũng có thể rút được, song chỉ đi khỏi nơi này thôi, còn như ra lọt ngoài vùng ảnh hưởng của họ, thì chúng ta không hy vọng đâu bởi chẳng khi nào họ buông tha chúng ta. Các vị cũng hiểu, lùi lại, là rơi vào mai phục, tiến tới, là có động thủ, mà động thủ dù sao cũng quang minh hơn, còn mai phục là địch thấy mình, mình không thấy địch, địch có đủ mọi cách ám toán, mình không một phương tiện tự vệ. Cho nên, tại hạ nghĩ, thà đánh nhau quang minh chánh đại mà mình còn hy vọng thủ thắng, chứ đưa mình vào mai phục để địch thao túng, thì bất lợi vô cùng.
Chàng kết luận:
– Huống chi, nào đã biết chắc là mình vào đó rồi sẽ phải động thủ? Mình cứ vào, xem họ bố trí như thế nào đối phó với mình!
Lử Vô Úy gật đầu:
– Lão phu xin theo tùy sự phân phó của Lệnh chủ.
Lưu Tam Thái khẳng khái hơn:
– Tánh mạng của tại hạ, xin hoàn toàn đặt dưới quyền sử dụng của Lệnh chủ.
Quan Sơn Nguyệt còn biết nói chi hơn là tỏ sự cảm kích trước nhiệt tâm của cả hai? Rồi chàng cương quyết bước tới.
Minh Đà muốn bước theo chàng, chàng quay lại, vỗ tay nhẹ lên cổ nó thốt:
– Bằng hữu yên trí đứng đây, chờ ta! Giả như ta không trở ra thì chắc là bằng hữu cũng biết phải làm như thế nào rồi.
Minh Đà gật đầu, như một bằng hữu thực sự.
Quan Sơn Nguyệt trước, những người kia nối theo sau, tất cả vào trong cửa, ngang qua mặt Khôi Y Thị Giả.
Ngồi bên cạnh Quan Sơn Nguyệt trong tòa đại sảnh, là Lạc Tiểu Hồng, bên cạnh Lạc Tiểu Hồng, là Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái. Xa hơn chút nữa, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.
Họ tạo thành một hình vòng cung, chừa trống phía đối diện.
Phía đối diện, chỉ có một mình Kỳ Hạo ngồi, còn Khôi Y Thị Giả thì đứng, cạnh Ma Quân của y.
Song phương giữ im lặng một lúc lâu.
Sau cùng, chính Kỳ Hạo cất tiếng trước:
– Ngươi muốn biết điều gì?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Tiểu Tây Thiên ở đâu?
Kỳ Hạo đáp:
– Trên đỉnh Thần Nữ Phong, trong vùng Vu Sơn. Nơi đó, luôn luôn có mây trắng bao bọc suốt bốn mùa.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Ân sư ta có mặt tại đó chăng?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Đương nhiên là có! Lão ấy là một trong bốn vị Hội Chủ nhiệm kỳ trước.
Quan Sơn Nguyệt, trầm giọng:
– Ân sư ta ở đó làm gì?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Hưởng phước thanh thản, suốt đoạn đường đời còn lại, trải qua trong khoái lạc tiêu diêu!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, chuyển sang đề khác:
– Long Hoa Hội, là cái hội gì?
Kỳ Hạo đáp:
– Một tổ chức kỳ diệu, khác hẳn mọi tổ chức thế gian. Hội gồm những bậc dị nhân, kỳ sĩ, ai ai cũng thừa tuyệt kỹ, diệu tài, phần đông đều thích ẩn mình, giấu mặt, chỉ có một thiểu số xuất hiện trên giang hồ, trong đó, có lịnh sư là một ...
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Trong thiểu số đó, còn những ai, ngoài ân sư của ta?
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Ta không tiện tiết lộ.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, lại chuyển đề:
– Phong Thần Bảng là cái bảng gì?
Kỳ Hạo giải thích:
– Long Hoa Hội gồm một trăm lẻ tám hội viên, ba mươi sáu người đứng tên trong Tiên Bảng, bảy mươi người đứng tên trong Ma Bảng. Ngoài ra còn có bảng phụ, gọi là Quỷ Bảng. Thập Đại Du Hồn, dưới quyền sử dụng của ta, thuộc về Quỷ Bảng. Ngươi thấy đó, có tất cả hai bảng chánh và một bảng phụ:
Tiên Bảng, Ma Bảng và Quỷ Bảng.
Những điều hắn vừa tiết lộ. Quan Sơn Nguyệt có tưởng tượng trước, đại khái cũng chẳng sai lệch bao nhiêu. Chàng hỏi:
– Lấy gì làm chuẩn để phân biệt ba bảng, Tiên, Ma và Quỷ?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Ngươi hỏi thế, chứ ta đoán là ngươi có hiểu phần nào rồi. Tự nhiên phải căn cứ trên tài nghệ, và người giỏi nhất, được ghi tên vào Tiên Bảng, ngươi có bậc trung được liệt vào Ma Bảng, phần còn lại, sẽ là bảng viên của Quỷ Bảng.
Hắn kết luận:
– Ba bảng hợp lại, tức là Phong Thần Bảng.
Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:
– Ngươi thuộc về bảng nào?
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, tự nhiên thuộc về Ma Bảng ta là thủ lĩnh quần ma, phàm những người được liệt tên trên Ma Bảng, đều thuộc quyền thống trị của ta.
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, hỏi:
– Mẹ ta, dì và dượng ta, có phải là người trong Ma Bảng chăng?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Phải. Cho nên, họ chẳng dám cãi lịnh ta.
Lạc Tiểu Hồng cau mày:
– Còn Hồ Hải Dị Tẩu?
Kỳ Hạo đáp:
– Lão ấy thuộc về Tiên Bảng.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng, bĩu môi:
– Cái lão vô dụng đó, xứng đáng gì lại được liệt tên trong Tiên Bảng chứ?
Kỳ Hạo cười ha hả:
– Cô nương nói đúng! Bởi thế, tại hạ có cái nhận xét này, là Ma Bảng không hẳn kém Tiên Bảng, do đó tại hạ dám nêu câu liễn nơi trước cửa, cho rằng Ma cảnh có thể đẹp hơn Tiên cảnh, chắc các vị có đọc qua đôi liễn đó, lúc mới đến chứ?
Đối với Lạc Tiểu Hồng, là một nữ nhân, hẳn không tiện xưng là ta, mà phải dùng hai tiếng tại hạ, bởi dù sao thì hắn cũng chẳng thể có thái độ quá cộc lốc đối với nữ nhân, dù nàng cứ gọi hắn là ngươi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu rồi cất tiếng:
– Ngoài cái quyền thống trị quần ma, ngươi còn uy lực chi khác chăng?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Ta chấp chưởng hình luật của Phong Thần Bảng, chức vị của ta trong Long Hoa Hội, là Tư Pháp, phàm người trong Tiên, Ma nhị bảng đều phải bị ta giám thị, bất quá, đối với người trong Tiên Bảng thì ta ít nghiêm khắc hơn phần nào vậy thôi.
Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:
– Ân sư ta có bị ngươi giám thị chăng?
Kỳ Hạo thoáng biến sắc, suy nghĩ một chút, đoạn đáp:
– Không! Lão ấy là một Hội Chủ, địa vị ngang ta, chẳng ai quản trị ức chế ai được.
Nhất Luân Minh Nguyệt chen vào:
– Ma Quân nói thế, chứ Hội Chủ có quyền hành hơn Ma Quân nhiều. Có lúc Ma Quân phải tuân lịnh Hội Chủ.
Kỳ Hạo nổi giận:
– Lần đại hội sắp tới đây, tại hạ sẽ tranh chức Hội Chủ, lúc đó thì đừng hòng lão ấy ức chế tại hạ được.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Ai phát khởi Long Hoa Hội?
Kỳ Hạo, Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, luôn cả Khôi Y Thị Giả cùng biến sắc.
Vạn Lý Vô Vân cao giọng:
– Tiểu tử không nên tìm hiểu điều đó.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ:
– Tại hạ không thể đề cặp đến vấn đề đó à?
Kỳ Hạo chưa hết kinh hãi, gật đầu:
– Đúng. Ngươi có thể hỏi mọi việc, trừ việc đó, bởi thuộc về trọng cấm.
Hiện tại, ngươi chưa nhập hội, nên chẳng đáng gọi là một cái tội, chứ nếu ngươi nhập hội rồi, mà còn hỏi như vậy, là khó tránh mình bị hình phạt.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Thế thì ta đặt câu hỏi khác. Trong Bảng Phong Thần, người có quyền oai cao lớn hơn hết, là ai?
Hình thức của câu hỏi, hoàn toàn khác, song cái ý thì hoàn toàn giống. Hỏi như vậy, có thể người ta đáp lời được. Cho nên, Kỳ Hạo do dự giây lâu, rồi thốt:
– Người có quyền uy tối thượng, là bốn vị Hội Chủ, có điều chỉ là quyền tượng trưng mà thôi, chứ chẳng phải thực quyền. Người có thực quyền chính là ta, bởi ta quyết định sự sanh tồn tử vong của tất cả. Ngươi biết không, danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, mà Thiên Tề có nghĩa như thế nào?
Bây giờ, hắn tỏ vẻ đắc ý, hắn quên mất cái bực vừa rồi do Nhất Luân Minh Nguyệt gây cho hắn khi tiết lộ là một hội chủ có quyền ức chế hắn.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Nói vậy thì tại Tiểu Tây Thiên, ngươi là người có quyền hạn cao nhất?
Kỳ Hạo mỉm cười, gật đầu:
– Phải, chỉ trừ Thiên Ngoại Thiên ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Thiên Ngoại Thiên là gì?
Kỳ Hạo lỡ lời, biến sắc mặt xanh dờn. Hắn có cái vẻ một kẻ phạm trọng tội, một tội bất xá. Hắn nhìn quanh một vòng, xem có kẻ nào nghe lọt câu nói của hắn chăng, kẻ đó hiển nhiên phải là ngoài bọn Quan Sơn Nguyệt, nếu có.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân cũng biến sắc như hắn, mặc dù không phải hai vị nói lên câu đó. Hai vị cũng ngưng thần nghe ngóng.
Không lâu lắm, từ trên không, có tiếng âm nhạc phát sanh, vọng đến sảnh đường. Tiếng nhạc lạ lùng, không do dây tơ, dây đồng, mà cũng chẳng phải trúc.
Tiếng nhạc kỳ lạ đó, êm dịu vô cùng.
Tiếng nhạc vang lên từ xa xa, nghe văng vẳng, dần dần âm thinh lớn, cuối cùng thì nghe rất gần.
Rồi mọi người lại ngửi một mùi hương, cũng lạ như tiếng nhạc.
Kỳ Hạo nghe tiếng nhạc, đã quỳ xuống, Khôi Y Thị Giả đứng sau lưng hắn, cũng quỳ theo, đầu của y cúi thấp quá, hầu như sát mặt đất.
Quan Sơn Nguyệt và những người kia, đều giật mình.
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lưu Tam Thái và Lử Vô Úy dù sao cũng chỉ là người ngoài hội, có sợ là sợ biến cố gì đó phát sanh bất ngờ, không lợi cho họ, chứ họ có biết tiếng nhạc và mùi hương kia báo hiệu sự việc gì, như bọn Kỳ Hạo mà phải sợ hãi cực độ như họ?
Riêng Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, tuy đã bị xóa tên trong bảng, vẫn còn giữ cái hơi hướm của người trong hội, huống chi, cả hai lại nuôi hy vọng phục hồi ngôi vị cũ, họ biết rõ sự gì sắp đến như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình họ cũng sợ như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình, có điều họ không quỳ xuống. Họ không quỳ song, họ không dám ngồi, đứng lên, đứng thẳng mình, hai tay buông thõng, dáng trang nghiêm phi thường.
Chừng như cả hai rung rung người, y phục của họ lung linh, dù lúc đó chẳng có một ngọn gió nào từ bên ngoài thổi vào đại sảnh.
Không lâu lắm, có bóng người chớp lên nơi cửa đại sảnh.
Đầu tiên, là hai bóng, hai bóng đó là hai tiểu tỳ nữ, tuy còn nhỏ mà nàng nào cũng đẹp, tinh anh phát tiết sớm quá!
Những người có tinh anh phát tiết sớm như vậy, hẳn phải có vũ công cao, điều đó chứng tỏ hai tiểu tỳ nữ này có vũ công rất khá, và tỳ nữ đã vậy, đương nhiên chủ nhân phải là một nhân vật siêu phàm.
Mỗi tỳ nữ cầm một chiếc đèn Lưu Ly Thất Bửu, đèn tỏa sáng như ngàn sao kết tinh lại.
Đôi tỳ nữ cầm đèn vào rồi, một đôi khác tiếp nối, cũng đồng trạc tuổi với đôi trước. Mỗi nàng sau cầm một chiếc lư bằng vàng, tượng hình thú lạ, từ lòng lư bốc lên một ngọn khói nhạt, xanh.
Mùi hương lạ tỏa ra trong đại sảnh, chính là mùi khói của hai chiếc lư vàng.
Sau cùng, là một mỹ nhân, y gấm.
Gấm, chẳng phải dệt bằng tơ, lụa, gấm dệt bằng lông chim công, hay nói đúng hơn, y phục đó, bằng lông công kết lại, màu sắc chói lọi, thoạt nhìn, đôi mắt phải chóa lên ngay.
Mỹ nhân vấn tóc cao, để lộ rõ gương mặt đẹp tuyệt vời. Nữ nhân có thần thái siêu phàm, thoát tục. Nếu cho rằng nữ nhân là một tiên nữ lâm trần, điều đó không sai sự thật lắm bởi tiên nữ dù đẹp, cũng chỉ đẹp như vậy thôi, không hơn.
Tiên nữ dù phiêu nhiên, thanh thoát, cũng chỉ như nữ nhân thôi không hơn.
Nữ nhân vào đại sảnh, nhìn thoáng qua bọn Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái vẫn ngồi trơ nơi ghế, bất giác cau đôi mày liễu.
Đôi mày cau lại, tạo một vẻ đẹp mê hồn cho gương mặt đã đẹp tuyệt vời. Đoạn, nữ nhân hỏi:
– Những ai thế?
Kỳ Hạo còn quỳ trên nền sảnh, cạnh chiếc ghế của hắn, đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Truyền nhân của Độc Cô Minh.
Nữ nhân cau mày thêm chút nữa:
– Truyền nhân của Độc Cô Minh? Độc Cô Minh là ai?
Dù ngu xuẩn đến đâu, trông qua sự tình, Quan Sơn Nguyệt cũng hiểu nữ nhân có thân phận rất cao. Muốn nhân dịp này đối thoại với nữ nhân, chàng đáp chận Kỳ Hạo:
– Gia sư có hiệu trên Tiên Bảng, người là Hoàng Hạc Tán Nhân!
Nữ nhân thoáng giật mình:
– Thì ra là lão ấy ... Lão có diễm phúc đấy chứ, chọn được một truyền nhân rất khá!
Và vừa thốt, vừa nhìn Quan Sơn Nguyệt, nhìn chăm chú quá làm Quan Sơn Nguyệt hơi ngượng.
Để phá tan niềm ngượng, chàng hỏi:
– Bà là ai?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Ngươi hỏi như vậy là vô lễ đấy nhé!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ với bà, là hai người xa lạ, tại hạ không hề bị ràng buộc với bà bằng một ân oán nghĩa vụ nào cả, thì hỏi như vậy có gì là thất lễ đâu? Giả như bà là người có thân phận cao tại đây, cái thân phận đó chẳng ảnh hưởng chi đến tại hạ, bất quá tại hạ muốn biết, như vậy là vô lễ sao?
Nữ nhân lại cười:
– Người muốn hỏi Thiên Ngoại Thiên là cái chi, phải không? Ta chính là ...
Bà hỏi như thế, là đáp đúng ý muốn của Quan Sơn Nguyệt.
Trước khi đến đây chàng mang theo nhiều thắc mắc, về Long Hoa Hội, về Tiểu Tây Thiên, về Phong Thần Bảng. Bao nhiêu thắc mắc đó, Kỳ Hạo lần lượt giải thích hết rồi. Nhưng hắn lại nêu lên một thắc mắc cho chàng, lớn hơn, hắn lại im lặng về điều do hắn nêu ra.
Chàng đang tìm hiểu, nữ nhân lại xuất hiện.
Thiên Ngoại Thiên?
Cái gì khác, thì dĩ nhiên là chàng không thể hiểu nổi, song chàng biết nữ nhân là một nhân vật có thân phận rất cao trong tổ chức này. Cao hơn cả Kỳ Hạo cho nên hắn mới quỳ xuống, tiếp nghinh. Như vậy, hẳn bà ta có đủ thẩm quyền giải thích điểu chàng muốn hiểu.
Bà hỏi chàng như vậy, bà vẫn chưa nói gì tiếp, lại quay qua Kỳ Hạo, hỏi hắn:
– Ma Quân gọi đến, hẳn có điều chi chỉ giáo?
Ma Quân gọi? Gọi từ lúc nào? Hắn chỉ nêu lên ba tiếng Tiểu Tây Thiên là đến ngay? Thế là một cách gọi à? Cái tổ chức này, sao mà khó hiểu quá chừng!
Kỳ Hạo vẫn còn quỳ trên nền, rung rung giọng thốt:
– Thuộc hạ sơ suất trong nhất thời, xúc phạm đến tiên oai, thành đắc tội ...
Nữ nhân «ạ» một tiếng:
– Thế ra, Ma Quân đùa vui nên gọi ta đến đây?
Kỳ Hạo biến sắc mặt như màu đất:
– Tiên nữ dạy quá lời. Thuộc hạ nào dám có ý đó ...
Bỗng nữ nhân ngưng trọng thần sắc, nụ cười tắt, giọng lạnh lùng:
– Ngươi đừng tưởng, ta có thể tha thứ ngươi dễ dàng. Pháp luật đặt ra, là để cho mọi người tuân phục, pháp không lơi lỏng mà cũng chẳng làm oan uổng ai.
Pháp giải phải công bình cho người ta vui mà tuân theo, cho người ta không thán oán khi thọ hình phạt vì vi phạm. Tuy nhiên ta có thể đáp ứng ngươi lưu lại đó cánh tay của ngươi, nhưng, phải chờ đến sau hội kỳ, ngươi mới có thể sử dụng ...
Kỳ Hạo rung rung giọng:
– Thuộc hạ xin tiên nữ lượng thứ ...
Nữ nhân mỉm cười:
– Bỏ một cánh tay kể ra cũng khó chịu đấy chứ? Làm gì ngươi nhẫn nhục cam chịu cái cảnh đó? Vả lại, ta làm sao biết chắc là từ đây đến ngày đại hội, ngươi không vi phạm quy ước?
Kỳ Hạo lộ vẻ sợ sệt:
– Ý của tiên tử như thế nào?
Nữ nhân suy nghĩ một chút đoạn mỉm cười:
– Ý của ta như thế này, là ngươi tạm thời trao chân tay cho ta, đến lúc ngươi cần dùng, ta sẽ trả lại cho ngươi!
Kỳ Hạo thống khổ vô cùng, song hắn làm sao dám phản kháng? Hắn phải lên tiếng đáp ứng.
Quan Sơn Nguyệt hết sức kỳ quái, tự hỏi, tay chân con người là những bộ phận dính liền cơ thể, có thể nào muốn rứt ra lúc nào tùy ý, rồi tháp lại như thường? Chàng thắc mắc vô cùng.
Nữ nhân lại tiếp:
– Ta bất chấp cái ý của ngươi như thế nào, ta chỉ biết là ngươi phải hiểu rõ hơn ai hết, hình phạt nào dành cho tội lệ nào, bởi ngươi đảm nhận chức vụ Tư Pháp Chưởng Hình, chính ngươi phải tự xử lấy ngươi, như ngươi đã xử bao nhiêu người.
Kỳ Hạo trước đó oai phong biết bao, giờ đây, chẳng khác nào một con mèo nhúng nước. Hắn biến sắc mặt như xác chết rung rung giọng hỏi:
– Thuộc hạ tự phế một cánh tay, tiên nữ nghĩ sao?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Chứ ta đã chẳng bảo ngươi tự xử à? Ngươi còn hỏi ta làm gì? Ngươi hy vọng ta đổi ý à?
Kỳ Hạo nghiến răng, đưa một ngón tay lên, định điểm vào một huyệt đạo nơi cánh tay kia.
Bỗng, nữ nhân quát:
– Khoan!
Kỳ Hạo mừng thầm, hy vọng nữ nhân tha thứ. Hắn nhìn nữ nhân, trong ánh mắt ngời niềm cảm kích.
Nữ nhân mỉm cười, thốt:
– Hội kỳ sắp đến, nếu ta để cho ngươi tự phế hủy một cánh tay, thì người trong Ma Bảng sẽ cho là ta không công bình, cố ý tìm lý lẽ, loại trừ thủ lĩnh của quần ma ...
Kỳ Hạo ấp úng:
– Đa tạ tiên tử ...
Nữ nhân vẫn cười tươi, cười một cánh thản nhiên:
– Ngươi đã sẵn sàng chứ?
Kỳ Hạo đưa cao cánh tay tả, bởi cánh tay hữu dù sao cũng hữu dụng hơn, nếu bắt buộc phải phế hủy một cánh tay, thì đương nhiên hắn hy sanh cánh tả.
Nữ nhân đưa ánh mắt ra hiệu với một tỳ nữ.
Nàng ấy đặt chiếc đèn lưu ly thất bửu xuống nền, bước tới trước mặt Kỳ Hạo, lấy trong mình ra một đường dây, nhỏ bằng sợi chỉ.
Kỳ Hạo co một cánh tay, dĩ nhiên là cánh tay tả, đưa ra.
Nàng ấy quấn đường dây quanh cánh tay, từ chỏ đến cổ tay. Cánh tay đó phải co lại mãi, cho đến khi có lịnh mới và lịnh mới đó nếu có, cũng phải đến ngày đại hội Long Hoa.
Đường dây đó rất bở, nếu Kỳ Hạo nhúc nhít cánh tay, nó sẽ đứt. Và, đường dây đứt, là Kỳ Hạo có tội nặng, bởi chính hắn toan vi phạm lịnh của nữ nhân, hắn phản kháng lịnh của nàng, nên hủy diệt một hình phạt, được tự do, làm điều bội nghịch.
Hắn sẽ giữ đường dây nguyên vẹn đến ngày đại hội, và giữ một đường dây như thế khỏi đứt, suốt mấy ngày đêm, là một cực hình, thà rằng nữ nhân chặt đứt của hắn một cánh tay, còn hơn!
Kỳ Hạo cũng muốn tự chặt một cánh tay lắm, song nếu hắn làm như vậy, là hắn tỏ lộ một sự bất mãn, tội của hắn sẽ nặng hơn, cho nên biết khổ, mà vẫn phải chịu khổ.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, thầm nghĩ nữ nhân kia kể ra cũng ác độc thật!
Giải quyết xong trường hợp của Kỳ Hạo, dù là tạm thời nữ nhân quay qua Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, điểm một nụ cười, thốt:
– Mừng cho hai vị, sắp trở về ngôi vị cũ!
Vạn Lý Vô Vân tỏ vẻ cung kính:
– Đến lúc đó, anh em lão phu hẳn là phải nhờ đến tiên nữ mở đức từ bi!
Nữ nhân cười nhẹ:
– Các hạ nói quá lời, riêng tôi thì chẳng giúp ích gì được nhiều cho các vị, trong anh em, có thiếu chi người sẵn sàng nâng đỡ các vị, tìm mọi cách tiếp trợ các vị phục hồi danh vị trên bảng. Còn tôi thì bất quá dành một vài phương tiện nho nhỏ cho các vị thôi, giúp các vị đỡ lao nhọc hơn phần nào!
Nhất Luân Minh Nguyệt cảm kích vô cùng:
– Đa tạ tiên nữ!
Nữ nhân bật cười khanh khách. Bà từ từ chuyển mắt sang Quan Sơn Nguyệt, rồi bước đến gần chàng, đôi mắt sáng đẹp của bà dán vào người chàng, như quan sát kỹ hơn để có một nhận định đúng hơn. Một phút sau, bà thốt:
– Khá! Khá lắm! Khí độ hiên ngang, tánh khí quật cường, trước nguy không sợ, thần sắc ổn định, hơn hẳn Hoàng Hạc! Thảo nào mà lão ấy chẳng giấu ta!
Nếu ta biết được lão có một truyền nhân sáng giá như thế này, thì ta đã đến nhìn qua mặt hắn một lần rồi, đâu đợi đến ngày mới gặp mặt!
Quan Sơn Nguyệt thừa hiểu, nữ nhân có một thân phận rất cao, song về tuổi tác của bà, thì chàng hết sức mơ hồ.
Qua cách xưng hô, đối thoại giữa bà và hai vị lão nhân, thì chàng ước độ bà thuộc hàng tiền bối, nếu bằng dung mạo thì chàng nghĩ rằng bà suýt soát lứa tuổi chàng. Như vậy, chàng gọi nữ nhân với cái tiếng bà, có thích hợp chăng?
Đành rằng, bà không tỏ lộ một ác ý nào đối với chàng, song cái vẻ trịch thượng, cái giọng kê ca của bà, làm cho chàng bất mãn vô cùng. Phải chi bà thân thiện hơn một chút, nhã nhặn hơn một chút, dù bà có dùng cái sáo giang hồ, chàng cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Chàng hỏi cộc lốc:
– Bà tên họ chi?
Nữ nhân kinh ngạc, trố mắt nhìn chàng. Bà không tưởng là đối tượng dám vô lễ với bà như vậy, và có lẽ đây là lần thứ nhất, một người dám tỏ vẻ khinh khỉnh trước mặt bà.
Nhất Luân Minh Nguyệt lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, nếu bà phát tác thì thật là rắc rối. Lão đằng hắng một tiếng, nhắc khéo:
– Tiểu tử! Đối với tiên tử ...
Nữ nhân khoát tay mỉm cười:
– Không quan hệ! Cái tính khí của hắn như vậy là được lắm! Huống chi, hắn chưa chánh thức là người trong hội, thì chúng ta không nên quá hạn chế ngôn từ và thái độ của hắn. Ta thích những con người đối thoại bình đẳng với ta.
Đoạn cuối câu, bà hướng về Quan Sơn Nguyệt khi bà dùng tiếng ta. Rồi bà tiếp luôn:
– Ngươi muốn biết tên ta? Ta là Liễu Y Ảo!
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:
– Tại hạ phải xưng hô làm sao? Gọi là tiểu thơ, là phu nhân, là bà, là cô nương?
Liễu Y Ảo thoáng đỏ mặt:
– Vấn đề đó không quan trọng lắm!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Sao lại không quan trọng? Phàm đối thoại, phải biết người đối diện như thế nào, phải có lối xưng hô minh bạch, chứ chẳng lẽ tại hạ gọi ngay tên họ bà mỗi lúc thốt lời? Tại hạ muốn biết phải gọi bà như thế nào, gọi sao cũng được, chứ nhất định không gọi là tiên tử!
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:
– Lần thứ nhất, ta mới nghe một người bình phẩm như ngươi! Không gọi ta là tiên tử, thì hẳn là cho ta còn phàm tục!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Tục, thì không hẳn, còn tiên thì nhất định là không rồi!
Liễu Y Ảo hỏi gấp:
– Ngươi thấy sao mà cho rằng ta chưa phải là tiên?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ bốn nữ đồng, đáp:
– Tiên, là những vị thích thanh tịnh, chủ trương vô vị, tiên đâu lại có những nghi thức rườm rà thế? Tiên đâu lại thích những dàn giá phô trương như thế?
Liễu Y Ảo cười nhẹ:
– Ngươi muốn nói đến hạng tiên như Lý Thiết Quảy, lem luốc bê tha như một tên hành khất, suốt đời cô độc, chẳng có một tiểu đồng phục dịch? Sao ngươi không nghĩ đến trường hợp bà Tây Vương Mẫu tại cung Dao Trì, quanh mình luôn luôn có hằng ngàn tiên tử hầu hạ, mỗi bước đi là mỗi có nhạc tấu lên?
Sao ngươi không nghĩ đến trường hợp Quan Thế Âm Bồ Tát, quanh mình vẫn có Thiện Tài, Long Nữ? Thì ra, có một số người phục dịch, tùy tùng, điều đó có lạ chi lắm đâu?
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Bà nghĩ kỹ lại đi, người phàm tục, tự ví mình với Phật với Tiên, tự tạo cho mình những cái mà Phật, Tiên đã có, tự nhiên mà có, không có cũng chẳng sao, như vậy là còn so sánh, còn tham vọng, còn tranh đua, như vậy là chẳng phải tiên, trái lại còn tục hơn người tục. Bởi, càng ngày càng nuôi tham vọng, càng ngày càng chú trọng đến hình thức, phản ngược lại cái nghĩa siêu nhiên của bậc siêu trần. Phật xem sắc là không, Tiên thì vô vi tự tại, chứ bà thì luôn luôn dàn hầu nghi vệ, nào đèn, nào hương ... Bà còn chú trọng đến những cái nhỏ nhặt đó, thì lòng bà chưa hẳn thanh tịnh hoàn toàn. Bà chưa phải là tiên, cho nên tại hạ không thể nào gọi bà là tiên tử!
Chàng dừng lại một chút, đoạn cao giọng phẩm bình tiếp:
– Tiên, không hề mê luyến hồng trần, mà bà thì còn tha thiết với tục lụy quá chừng, bằng cớ là từ lúc bà đến đây, bà luôn luôn quan tâm đến trần tục, nào là hình phạt, nào là giai cấp, nào là ân, oán, tại hạ chưa nói đến cái vẻ tự cao của bà!
Liễu Y Ảo gật gù:
– Có lý! Có lý!
Quan Sơn Nguyệt quay về vấn đề chính:
– Bà có thể cho tại hạ biết về ba tiếng Thiên Ngoại Thiên chăng?
Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút:
– Thiên Ngoại Thiên là một tổ chức, trên bậc Phong Thần Bảng, tổ chức đó gồm bảy vị sư huynh, tỷ muội của ta.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Tổ chức Thiên Ngoại Thiên liên quan với Long Hoa Hội chăng?
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Long Hoa Hội do bảy người bọn ta thành lập, và Phong Thần Bảng cũng do bảy người bọn ta tuyển chọn ...
Quan Sơn Nguyệt thức ngộ:
– Tại hạ minh bạch rồi. Long Hoa Hội được sáng lập tại Tiểu Tây Thiên, các vị lại xưng là Thiên Ngoại Thiên, thế là trên Phong Thần Bảng, còn có Tiên Bảng.
Và bà là người có tên trong Tiên Bảng.
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Ngươi chỉ đoán đúng một phần nào thôi. Tại Tiểu Tây Thiên, trong cái giới Thiên Ngoại Thiên, có ba Tiên, ba Ma và một Quỷ.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Các vị lập Long Hoa Hội với mục đích như thế nào?
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Về vấn đề đó thì ta không thẩm quyền giải thích cho ngươi rõ.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ thất vọng:
– Thế ai có thẩm quyền giải thích?
Liễu Y Ảo suy nghĩ một chút:
– Về Tiên Bảng, chỉ có Tiên mới giải thích được, cũng như về Ma Bảng hoặc Quỷ Bảng, chỉ cho Ma hoặc Quỷ mới giải thích được.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Bà thuộc về hạng nào?
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Chứ ngươi không nghe các vị kia gọi ta là tiên tử đó.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Như vậy bà thuộc về Tiên Bảng. Tại hạ hỏi bà về những việc có liên quan đến Tiên Bảng.
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Cũng không được nốt! Ta đã nói cái số tiên, chỉ có ba người, mà ta thì đứng hàng cuối, về những vấn đề nhỏ nhặt, ta có thể giải đáp cho ngươi hiểu, còn những việc trọng yếu, nếu ngươi muốn biết, tất phải hỏi nơi sư tỷ của ta.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Bà ấy ở đâu?
Liễu Y Ảo đáp:
– Tự nhiên là ở tại Tiểu Tây Thiên, nhưng ngươi không gặp được sư tỷ của ta đâu, trừ ra tại Đại Hội Long Hoa, người xuất hiện để liệu lý công vụ, còn thì chẳng bao giờ người để cho ai thấy mặt ...
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Hội kỳ định vào ngày nào?
Liễu Y Ảo không dấu:
– Ngày mười chín tháng chín.
Rồi bà hỏi:
– Ngươi đến dự chăng?
Quan Sơn Nguyệt đáp gấp:
– Đến chứ bà! Nhất định là tại hạ phải có mặt tại đại hội. Bởi tại hạ muốn gặp ân sư tại hạ!
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Tốt lắm. Đến lúc đó, chúng ta sẽ gặp lại nhau. Tuy nhiên sự có mặt của ngươi tại đại hội có phần nào bất tiện, bởi ngươi không là người trong hội, vậy ngươi hãy giữ lấy tín phù của ta đây, khi nào gặp trở ngại ngươi cứ chiếu trình ra, chắc chắn là những người phụ trách đại hội sẽ không làm khó dễ chi ngươi. Hiện giờ, ta có việc cần phải đi.
Bà lấy trong mình ra một chiếc ngọc bội nhỏ, trao cho Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay tiếp nhận, toan nói mấy lời đa tạ, bà vụt quay mình, thoắt ra ngoài cửa, nhanh hơn làn gió phất.
Bốn nàng tiểu tỳ nữ cũng có thân pháp nhanh vô cùng, chủ nhân vừa mất dạng thì bốn nàng cũng biến luôn.
Quan Sơn Nguyệt nhìn theo bóng bà thừ người suy tư trầm trọng.
Lúc đó Kỳ Hạo mới đứng lên, một cánh tay co, có đường dây nhỏ cột quanh, hắn không dám cử động mạnh, hắn nhìn chiếc ngọc bội nơi tay Quan Sơn Nguyệt, ánh mắt lộ rõ vẻ căm hờn.
Vạn Lý Vô Vân tán:
– Tiểu tử có diễm phúc lắm đó nhé! Ngươi được tiên tử chiếu cố như vậy, đúng là ngươi được ưu đãi nhất trên đời.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, trở về thực tại, quay qua Vạn Lý Vô Vân hỏi:
– Chiếc ngọc bội này, có công dụng như thế nào?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Có chiếc ngọc bội đó nơi tay, là ngươi có quyền lực vô biên, đưa ngươi đến một địa vị chí tôn, người trong Phong Thần Bảng phải cúi đầu trước mặt ngươi, sẵn sàng tuân hành lịnh của ngươi. Cho dù là sư phụ của ngươi, cũng phải tuân phục ngươi không vì cái thân phận là sư phụ mà được đặt ngoài công lệ.
Quan Sơn Nguyệt không tin:
– Một chiếc ngọc bội bình thường như thế này, là có quyền lực to lớn như vậy à?
Vạn Lý Vô Vân gật đầu:
– Thấy tín phù, như thấy tiên tử, ngươi hiểu rõ cái lệ đó chứ?
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Rồi chàng nhẩm tính thời gian, đoạn hỏi:
– Bỏ hôm nay, chỉ còn mười hôm nữa là đến ngày Long Hoa Hội khai diễn.
Mình đi có kịp chăng?
Vạn Lý Vô Vân mỉm cười:
– Kịp chứ! Từ đây mình theo đường bộ đến Thành Đô, do Dân Giang thẳng đến Nghi Tân, xuôi dòng sống tiến mãi, không quá mười hôm, là Vu Sơn hiện ra trước mắt.
Nhất Luân Minh Nguyệt tiếp:
– Tuy nhiên, chúng ta không nên đam cách thời gian, nấn ná dọc đường, và cần nhất là phải khởi hành ngay bây giờ. Còn như những thắc mắc của ngươi, lão phu tưởng là ngươi không nên hỏi gì nữa, bởi chẳng ai đáp được đâu ...
Quan Sơn Nguyệt quay qua Kỳ Hạo:
– Ngươi đi dự hội chứ?
Kỳ Hạo nổi giận:
– Ngươi đã biết rõ, mà vẫn còn hỏi! Ta là người đứng đầu Ma Bảng, không đi sao được?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Được rồi. Ta sẽ ra lịnh cho ngươi mang Khổng Linh Linh cùng theo ngươi.
Cái việc còn đọng lại giữa nàng và phái Chung Nam, ta nhất định phải giải quyết cho xong.
Kỳ Hạo trầm gương mặt:
– Tại sao ta phải tuân hành mạng lịnh của ngươi chứ?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên, trong tay có vật do Liễu Y Ảo đã trao cho chàng, điềm nhiên thốt:
– Tại vật này đây!
Kỳ Hạo cứng lưỡi.
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Chẳng những chỉ có mỗi một việc đó thôi, ta còn buộc ngươi phải phụ trách thêm hai việc khác.
Kỳ Hạo nghiến răng:
– Ta cho ngươi đắc thời, cậy thế! Được rồi, ngươi muốn gì nữa, cứ nói đi!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Trước ngày hội kỳ khai diễn, ngươi đảm bảo an toàn cho hai người này tuyệt đối không được gia hại, mà cũng chẳng âm thầm sai sử thuộc hạ ám toán.
Đó là việc thứ nhất, còn việc thứ hai là ngươi không được làm khó khăn cho ba người của Lạc tiền bối.
Kỳ Hạo biến sắc mặt xanh dờn:
Hắn rung rung giọng đáp:
– Ta có thể đáp ứng mấy việc đó của ngươi, song ta cảnh cáo ngươi là phải hết sức dè dặt, trước ngày khai hội, ngọc bội còn linh hiệu, khi đai hội khai diễn rồi, thì nó sẽ trở thành vô dụng, lúc đó ...
Quan Sơn Nguyệt chặn lời:
– Đến lúc đó, ta sẽ có cách đối phó với ngươi, và không gì ổn tiện hơn hết cho ta là ta sẽ giải quyết sự tình giữa ta và ngươi.
Thốt xong, chàng quay mình, hướng dẫn mọi người ra khỏi đại sảnh, ly khai Thiên Tề Biệt Phủ.
Trở ra, là phải đi ngang qua Hắc Lâm, những cơ quan đặt tại khu rừng này đã được triệt trừ, họ không cần có sự hướng dẫn như lúc vào và vượt khỏi nơi đó, bình an vô sự. Vạn Lý Vô Vân mỉm cười, thốt:
– Chiếc ngọc bội đó, quả là một lá bùa hộ mạng, không có nó, chắc gì chúng ta chẳng gặp nguy hiểm trên con đường thoái hậu?
Quan Sơn Nguyệt chợt nhớ đến một việc, vội hỏi:
– Tại hạ còn một thắc mắc chẳng hay có thể nêu lên, nhờ hai vị giải thích chăng?
Vạn Lý Vô Vân cười hì hì:
– Tín phù nơi mình ngươi đó, thừa quyền cho ngươi dùng để hạ lịnh đối với lão phu, ngươi còn hỏi vớ vẩn làm gì chứ? Dù ngươi sai bảo chúng ta làm bất cứ việc chi, có liên quan đến an toàn của tánh mạng, chúng ta cũng không từ khước được, hà huống giải thích một thắc mắc?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Xin lão trượng đừng đề cập đến hai tiếng hạ lịnh, trừ ra trường hợp đối phó với Kỳ Hạo. Chúng ta dù sao thì cũng là người nhà với nhau, thì không có vấn đề sử dụng tín phù để bức bách nhau làm việc này, việc khác.
Vạn Lý Vô Vân gật gù:
– Ngươi cứ hỏi.
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Vừa rồi, Kỳ Hạo vừa nói đến ba tiếng Thiên Ngoại Thiên, thì Liễu Y Ảo đến ngay. Tại sao bà ấy đến gấp thế? Chẳng lẽ ...
Vạn Lý Vô Vân tỏ vẻ thận trọng:
– Thực ra thì, lão phu cũng chẳng hiểu rõ ràng tại làm sao có việc đó. Lão phu chỉ biết là ba tiếng đó, được kể như cấm kỵ, người trong hội được quyền đề cập đến ba tiếng đó, ngay trong kỳ khai diễn đại hội mà thôi, khi đại hội bế mạc rồi, không một ai được phép nhắc đến nữa, mãi đến kỳ khai hội kế tiếp. Ngươi phải biết, phạm vào điều cấm kỵ đó, là chuốc họa diệt thân. Như ngươi đã biết, trong Long Hoa Hội, có ba loại người, Tiên, Ma và Quỷ, ba loại đó họp thành một bảng, gọi là Phong Thần Bảng, người loại trên ức chế và giám thị người loại dưới, nhờ vậy mà sự bí mật được bảo trì từ nhiều năm qua.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Lão trượng đi ra ngoài đề rồi! Tại hạ chỉ muốn biết, tại sao Liễu Y Ảo đến gấp thế thôi.
Vạn Lý Vô Vân thoáng biến sắc:
– Lão phu đã nói, điều đó thực ra lão phu không hiểu được tận tường. Người trong Long Hoa Hội giữ bí mật tuyệt đối về các việc của hội, đó là một lẽ giải thích sự mù mờ của lão phu. Còn một lẽ nữa, là người bảng trên giám thị chặt chẽ người bảng dưới nên chẳng ai dám tiết lộ với ai những hiểu biết của mình.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ hoài nghi:
– Họ chỉ gồm có bảy người, làm thế nào giám thị một số người khác trên trăm, lại rải rác khắp nơi?
Vạn Lý Vô Vân chỉnh sắc mặt:
– Lão phu chịu thôi, không thể nói chi dài dòng hơn về việc đó. Ngươi đã có tín phù, thì cầm chắc cái an toàn trong tay, còn bọn lão phu chẳng có vật gì bào hộ, giả như lỡ lời phạm cấm, thì sao? Huống chi, bọn lão phu còn muốn sống thêm mấy năm nữa?
Quan Sơn Nguyệt biết có hỏi gì, họ cũng chẳng nói, chàng không hỏi nữa.
Lúc đó, họ đã ra khỏi khu Hắc Lâm rồi.
Quan Sơn Nguyệt quay qua Lữ Vô Úy, thốt:
– Khổng Linh Linh không có mặt tại đây, thành ra chuyến đi này cầm như vô ích đối với Chưởng môn. Vậy, chúng ta cần phải thay đổi chiến lược. Chưởng môn hãy triệu tập tất cả những người trong phái, để tại hạ trình bày kế hoạch sắp tới.
Rồi chàng nghiêng đầu, kề miệng sát bên tai Lữ Vô Úy, thì thầm một lúc.
Lữ Vô Úy lộ vẻ khó khăn.
Quan Sơn Nguyệt trấn an lão:
– Chưởng môn yên trí, tại hạ có biện pháp đối phó với Kỳ Hạo, nhất định hắn chẳng dám gây nên điều chi bất lợi cho Chưởng môn đâu!
Suy nghĩ một lúc lâu, Lữ Vô Úy gật đầu. Lão vẫy tay chào biệt Quan Sơn Nguyệt, rồi quay mình, bước đi. Lão cũng gọi Lưu Tam Thái cùng đi theo với lão.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đã có tập quán bảo trì bí mật, cho nên cũng có tập quán không thích tìm hiểu sự bí mật của người khác. Do đó, họ chỉ phản ứng khi nào sự việc có liên quan trực tiếp với họ, và họ không buồn lưu ý đến bất cứ việc gì của bất cứ ai. Cho nên, Quan Sơn Nguyệt cùng Lữ Vô Úy bàn luận một lúc lâu, họ chẳng quan tâm mảy may về câu chuyện của chàng và Chưởng môn.
Họ dửng dưng, song Lạc Tiểu Hồng làm sao thản nhiên được? Nàng hỏi:
– Quan đại ca bàn luận việc gì với họ?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Nói chưa được, hiền muội ạ. Long Hoa Hội có nhiều bí mật, thì chúng ta cũng phải dùng bí mật đối phó với tổ chức này. Hiền muội đừng lo, ngu huynh bảo đảm chúng ta sẽ an toàn hơn bao giờ hết.
Lạc Tiểu Hồng tức uất, đối với nàng, mà chàng cũng làm ra vẻ bí mật nữa sao? Nàng lướt tới, không cần chờ ai cả.
Vu Sơn nổi tiếng là một thắng cảnh, bởi đỉnh Thần Nữ Phong có cái truyền kỳ của nó, bởi con sông xuyên ngang, vừa đẹp vừa hiểm trở, đẹp thì sông đẹp từ đầu đến ngọn, còn hiểm trở thì chẳng phải ở bất cứ khúc quanh nào cũng hiểm trở, có điều kỳ lạ là ở những nơi hiểm trở, con sông lại đẹp phi thường.
Vu Sơn với Thần Nữ Phong, với con sông đẹp, nhất là ở khoảng Vu Giáp, là hai điểm tạo nên hãnh diện cho vùng Tứ Xuyên, hai điểm hàng năm hấp dẫn rất nhiều du khách.
Thần Nữ Phong, một khu sơn thần bí, năm nay lại có cuộc hội thần bí nơi đó, hai cái thần bí khích động mạnh tính hiếu kỳ của Quan Sơn Nguyệt. Cho nên, bằng mọi giá chàng nhất định phải đến tận nơi. Dù không có chiếc ngọc bội của Liễu Y Ảo, chàng cũng đến như thường. Bất quá, chiếc tín phù của bà ta, giúp chàng phần nào đỡ vất vả vậy thôi, còn như về phương tiện trong cuộc hành trình, thì có cũng hay, mà không cũng được.
Chàng không ước vọng ai tiếp trợ chàng, bởi cái tính quật cường không cho phép chàng nhờ đến ai cả. Nhưng, có người giúp, lại càng hay, miễn sao chàng không cầu khẩn van lơn để cho có, là được rồi.
Con đường lên núi dần dần thu hẹp, dần dần trở nên khó khăn bất tiện cho thú, nhưng chưa đến nỗi nào bất tiện cho người.
Quan Sơn Nguyệt cỡi Minh Đà, Lạc Tiểu Hồng cỡi ngựa, cả hai đi sau, Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đi bộ, ở phía trước dẫn đường.
Trên lối đi trống trải, ngựa và lạc đà còn theo không kịp hai lão nhân đi bộ.
Huống hồ ở những đoạn đường hiểm trở, hẹp hòi?
Có những chỗ, người lách qua, lách lại, tiến tới dễ dàng, song ngựa và lạc đà thì phải chật vật lắm mới qua lọt. Như vậy, hai người sau làm gì kịp hai người trước?
Hai lão nhân cứ đi, chẳng cần biết là phía sau, đôi thiếu niên nam nữ có theo kịp hay không. Dần dần, hai lão nhân bỏ chàng và Lạc Tiểu Hồng ở sau xa.
Quan Sơn Nguyệt vội gọi:
– Hai vị lão trượng không thể chậm chân một chút à?
Hôm nay, là ngày mười chín, tháng chín, họ đến cũng kịp lúc đấy, có điều Quan Sơn Nguyệt chưa biết đại hội khai mạc vào giờ nào. Cho nên, chàng không gấp như hai lão nhân.
Nghe chàng gọi, Vạn Lý Vô Vân cứ đi tới, không quay đầu lại, vừa đi vừa đáp:
– Hôm nay là ngày mười chín, ngươi quên rồi sao? Mà đại hội khai mạc vào giờ Mão, bây giờ là cuối giờ Dần, còn có mấy phút nữa. Nếu không đến kịp giờ, thì chúng ta sẽ bị ngăn chặn bên ngoài nữa. Ngươi bỏ lỡ hội kỳ, điều đó chẳng hại gì cho ngươi lắm, song bọn ta trong bao nhiêu năm trường, hằng trông đợi giờ phút này, nếu bỏ lỡ đi thì đúng là một sự ân hận rất lớn, có thể làm cho bọn ta chết được vậy!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một lúc, đoạn quay qua Lạc Tiểu Hồng, đề nghị:
– Hiền muội xuống ngựa, bỏ nó lại đây, sang qua ngồi chung Lạc Đà với ngu huynh đi!
Thực ra, Lạc Tiểu Hồng rất bực với con ngựa của nàng, nó muốn chứng lúc nào, cứ chứng, bất kể ngọn roi của nàng quất vào mình nó liên hồi. Nàng cũng muốn bỏ nó đi, cho đỡ tức uất, song bỏ nó rồi nàng làm sao đi theo mọi người?
Nàng đâu đủ sức đi bộ như hai lão nhân. Cho nên, lời đề nghị của Quan Sơn Nguyệt đánh trúng ý muốn của nàng. Lập tức, nàng xuống ngựa, rồi lên lưng lạc đà, ngồi phía sau chàng, vòng tay qua ôm ngang lưng chàng.
Thêm một người cỡi trên lưng, Minh Đà không nghe nặng chút nào, nó bước đi thoăn thoắt. Lần này, nó mới có dịp trổ tài vượt núi, khỏi phải chậm chân chờ con ngựa con ngựa của Lạc Tiểu Hồng nữa. Nhờ thế, nó đi rất nhanh.
Bình minh đã lên, cảnh núi rất đẹp lúc bình minh trở lại phương Đông, mây hồng giăng mắc, mây hồng dọn đường cho Thái Dương về với vạn vật, ánh bình minh soi rõ một tấm thạch bia phía trước.
Nơi tấm thạch bia, có ba chữ, khắc rất tinh xảo, nét bút lại linh hoạt như phượng múa, rồng bay.
Ba chữ đó, là cái gì Quan Sơn Nguyệt chờ đợi từ lâu, cái gì tạo thắc mắc nặng nề cho chàng từ lâu. Bây giờ, ba chữ đó mới hiện ra trước mắt chàng.
«Tiểu Tây Thiên!» Sau tấm bia, là một tòa lâu viện, trước tòa lâu viện, ngoài một số đồng nam đồng nữ túc trực, còn có một tăng nhân chận đường. Tăng nhân đó, chính là Khổ Hải Từ Hàng, mà họ đã gặp tại khu Hắc Lâm, và họ nhờ lão đưa đường, mới vào lọt Thiên Tề Biệt Phủ.
Vạn Lý Vô Vân thở phào:
– May quá! Chúng ta vào đến kịp lúc.
Khổ Hải Từ Hàng nhìn thoáng qua hai lão nhân, khẽ thở dài, thốt:
– Bần tăng vô cùng khoan khoái, đinh ninh hai vị đã lìa biển mê, về bến giác, không ngờ hai vị lại ...
Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:
– Lão phu không cần nhà sư vờ vẻ từ bi, bọn lão phu cam tâm chìm đắm, thì dù ai có vớt khỏi dòng nước sâu, đưa lên bờ, cũng nhào trở lại! Chỉ mong nhà sư nương tình một chút, nếu không thì thực là phiền phức cho nhà sư phải một phen niệm chú vãn sanh!
Khổ Hải Từ Hàng lại thở dài, rồi nhìn qua Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng hỏi:
– Hai vị đến nơi đây làm gì?
Quan Sơn Nguyệt nhớ cái ơn của lão tăng đưa qua khỏi khu Hắc Lâm, sẵn niềm hảo cảm với lão, nên cung kính vòng tay, đáp:
– Vãn bối đến đây, chỉ mong mở rộng tầm mắt.
Khổ Hải Từ Hàng chấp tay chữ thập:
– A Di Đà Phật! Nơi đây, là chốn thị phi, nơi đây là cảnh phiền não, hai vị tự làm khổ chi mà phải bôn ba lặn lội dặm ngàn?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thị phi là con người hay ngứa miệng, phiền não là do con người thích đấu tranh, vãn bối dù biết như vậy, song vẫn không thể không đến đây, bởi vãn bối cần tìm người giải đáp cho một vài thắc mắc!
Khổ Hải Từ Hàng trầm giọng:
– Vọng cửa này, vào thì dễ, ra thì khó, cũng may bần tăng được ủy thác phận sự giữ cửa để ngăn chặn những tấm lòng nặng mê nhẹ tĩnh, bần tăng xin khuyên hai vị, ngay bây giờ, trở lại con đường cũ, cũng chẳng muộn nào! Trần thế tuy ô trược, song cái cảnh giả tiên này cũng lắm cạm bẫy đáng sợ.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Dù là tiên giả, song vẫn còn hơn, bởi cũng là tiên! Trần thế sánh sao được cõi tiên? Vãn bối hy vọng đại sư dành cho phương tiện!
Khổ Hải Từ Hàng lại thở dài:
– Bần tăng dùng lời thiện, khuyến cáo, thí chủ cũng chẳng để vào tai, bắt buộc bần tăng lợi dụng quyền hạn, từ khách ...
Vạn Lý Vô Vân nổi giận:
– Lão trọc đừng lắm lời, họ có trong tay chiếc tín phù của Tự Tại Tiên Tử, ngươi dám ngăn trở chăng?
Quan Sơn Nguyệt phải lấy chiếc ngọc bội đưa ta cho nhà sư xem.
Khổ Hải Từ Hàng biến sắc mặt, rồi thở dài lượt nữa. Chừng như lão có thói quen, trước khi thốt một câu gì, phải thở dài như để thở dài. Lão thốt:
– Ý trời đã muốn, người còn ai thay! Bần tăng còn dám nói? Thôi thì hai vị cứ vào!
Lão nghiêng mình, vái sâu.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp lễ.
Bọn đồng nam đồng nữ đứng thành hai hàng bên ngoài vọng cửa, trông thấy tín phù, cũng nghiêng mình chào. Tiếp theo đó, gã nào có nhạc khí trong tay, cùng tấu nhạc lên. Rồi một đội nam nữ thị đồng nâng lư hương, bình hoa, dẫn đường.
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, hỏi:
– Chúng làm gì thế?
Khổ Hải Từ Hàng giải thích:
– Nhị vị có tín phù của Tự Tại Tiên Tử nơi tay, là nghiễm nhiên trở thành quý khách tại đại hội, nghi lễ tiếp khách phải như vậy đó, hai vị yên trí tiến vào.
Quan Sơn Nguyệt thốt lời cảm tạ, đoạn dắt Minh Đà qua cửa đi trong sương mờ, theo con đường núi tiến vào.
Không lâu lắm, họ đến một nơi rộng rãi, nơi đó quang đãng, chẳng có một đợt sương.
Nơi khoảng đất trống, rộng đó, hiện tại có rất nhiều người, đủ hình, đủ tuổi, có nữ, có nam, họ tụ năm, tụ ba, quần đàm thoại.
Rải rác quanh sân rộng, có những chiếc bàn, những chiếc đôn, bàn và đôn đều bằng đá. Trên bàn có rượu, có thức ăn, có những loại trái cây rất lạ.
Rượu còn đầy, thức ăn và trái cây còn nguyên vẹn, điều đó chứng tỏ đại hội chưa khai mạc.
Hầu rượu, có vô số đồng tử, nam có, nữ có chúng chạy tới lui, bận rộn lạ.
Tiếng nhạc, lư hương, bình hoa dẫn đạo, đưa đoàn ngườic vào, bao nhiêu vị hiện diện tại sân trường cũng đều quay mặt nhìn.
Quan Sơn Nguyệt đảo mắt quanh một vòng, nhận ra Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, Huyết La Sát Lạc Hành Quân, Bạch Cốt Ma Thần Lạc Tương Quân và Xú Sơn Thần Liễu Sơ Dương tụ nhau tại một chỗ, bên cạnh họ, còn có mấy vị trung niên, đang thì thầm bàn luận.
Chàng toan gọi họ, nhưng Bành Cúc Nhân khoát tay ngăn chặn.
Đồng thời, Lạc Tiểu Hồng cũng bị mẹ trừng mắt cự tuyệt. Do đó nàng bực tức, càu nhàu:
– Tại sao mẹ không chịu nhận bọn ta?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Nếu ngu huynh biết được? Chắc cũng có nguyên nhân quan trọng chứ, chúng ta cứ đợi lúc thuận tiện, hỏi họ, cũng không muộn.
Thị đồng đưa họ đến một chiếc bàn rất lớn, cả hai cùng xuống lưng Minh Đà.
Bỗng, Quan Sơn Nguyệt giật mình, chàng vừa trông thấy Trương Vân Trúc ở gần đó, lão đang trố mắt nhìn về phía chàng.