Trương Vân Trúc ngồi bên cạnh một chiếc bàn gần đó, hình vóc có phần gầy hơn ngày nào, song tinh thần vững lên thấy rõ.
Xưa kia, làn da của lão luôn vàng, một màu vàng bệnh hoạn, nay thì màu vàng đó nhuộm hồng, và có thể trong một ngày gần đây, màu vàng biến mất, nhường chỗ cho màu hồng.
Màu hồng lẫn sát màu vàng, điều đó chứng tỏ Trương Vân Trúc đang phấn khởi tâm tư trên con đường mới khám phá, con đường lên tiên ...
Bởi, vào đây rồi, là lên cảnh tiên chứ còn gì nữa?
Lão là người của tiên cảnh, trong khi Quan Sơn Nguyệt chỉ là một khách nhân bất ngờ ...
Chàng nhìn lão, lão nhìn chàng. Cả hai cùng nhìn nhau độ một phút.
Sau cùng, chàng gọi:
– Trương lão bá! Lão bá cũng ở đây nữa sao?
Trương Vân Trúc không đáp ngay câu hỏi của Quan Sơn Nguyệt chỉ mỉm cười, gật gù:
– Ngươi! Đúng là ngươi! Thoạt đầu, ta ngờ ngợ, không tin lắm là ngươi!
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Lão bá nói sao? Chúng ta chia tay nhau, chưa được tròn năm, chẳng lẽ trong thời gian ngắn ngủi đó, tiểu điệt có thay đổi nhiều?
Trương Vân Trúc lại cười:
– Thay đổi thì có, nhưng nhiều lắm thì không. Bất quá, ta không tin là ngươi còn sống được sau lần đó!
Lão tặc lưỡi, thở dài, tiếp:
– Thì ra, cái bà ấy, ở Côn Lôn Sơn, đã cướp được quyền của tạo hóa, làm nổi cái việc cải tử hườn sanh ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Song, chàng giữ vẻ thản nhiên, thốt:
– Tuyết Lão Thái Thái là một thần y đương thời vậy! Lão bá nói phải. Nếu tiểu điệt không gặp bà, thì có lẽ giờ đây mồ hoang của tiểu điệt đã phủ đầy cỏ loạn!
Trương Vân Trúc buông tiếng «ừ» mơ hồ, không biểu hiện một cảm nghĩ nào rõ rệt về Tuyết Lão thái thái cứu sống Quan Sơn Nguyệt. Lâu lắm, lão mới hỏi:
– Còn Thanh nhi? Sao nó không theo ngươi?
Quan Sơn Nguyệt giật mình lượt nữa.
Từ ngày Trương Thanh ly khai đến nay, chàng bị chi phối hoàn toàn bởi những điều khám phá mới mẻ, như Long Hoa Hội. Phong Thần Bảng, Tiểu Tây Thiên cuối cùng là Thiên Ngoại Thiên. Tâm tư chàng dành trọn cho sự nghiên cứu về những thứ mới mẻ đó, chàng quên hẳn thiếu nữ đáng yêu có rất nhiều cảm tình với chàng, từng thí ân huệ với chàng ...
Chàng thấy thẹn là mình không còn tư cách đối với nàng. Nàng ra đi, đáng lý chàng phải để phần nào thời gian, tìm nàng trái lại, chàng bỏ luôn việc đó, rồi đi theo một cuộc tra cứu, đưa chàng xa dần, xa dần nàng ...
Bây giờ, phụ thân nàng hỏi, chàng còn biết đáp làm sao? Đến cái việc hiện tại nàng ở đâu, chàng cũng chẳng rõ, thì làm sao chàng biết an nguy như thế nào?
Chàng sững sờ một lúc, đoạn đáp:
– Sau khi rời Côn Lôn Sơn, Thanh muội cùng tiểu điệt tạm phân ly nhau mỗi người chuyên lo một việc, giờ đây tiểu điệt chẳng rõ Thanh muội ở tai địa phương nào. Cả hai mất liên lạc từ lâu.
Ai nghe như thế cũng phải lo ngại, bởi dù sao thì Trương Thanh cũng chỉ là một thiếu nữ, mà giang hồ là chốn hiểm nguy, muôn vạn cạm bẫy chực chờ, ở mỗi đoạn đường đều có tranh chấp với cái giá sinh mạng của con người, Trương Thanh chưa có kinh nghiệm mảy may, lạc lõng giữa lòng người đầy man trá, là một điều đáng sợ. Nhưng, Trương Vân Trúc chẳng tỏ lộ thắc mắc, lão bình tịnh hỏi:
– Nếu ta không lầm, thì nó yêu ngươi mê mệt, yêu đến độ quên sanh mạng nó, để lo liệu cho ngươi, yêu đến mức quên đi bậc sanh thành, đủ bậc sanh thành ra nó đang ở cái tuổi gần trời xa đất. Thế tại sao nó ly khai được ngươi?
Câu hỏi của lão chừng như có chạm tự ái của Quan Sơn Nguyệt phần nào.
Chàng thoáng lộ bất bình, sự bất bình có lẫn lộn niềm phẫn hận.
Chàng cao giọng thốt:
– Lão bá hỡi, tại sao Trương Thanh hiền muội ly khai tiểu điệt? Nàng ly khai tiểu điệt, chính vì lão bá đó!
Trương Vân Trúc cười nhạt, lắc đầu:
– Làm gì có việc đó, Quan Sơn Nguyệt? Năm trước đây, nó phủ nhận tình phụ tử, nó bỏ rơi cha già, chạy theo tiếng gọi của con tim, nó bất chấp sự bảo vệ của cha, để dấn thân vào vòng nguy hiểm, bằng lòng hy sinh cho người bạn trai lý tưởng của nó mà! Thì, có lý nào nó vì một lão già bị nó bỏ rơi, lại bỏ rơi chàng trai lý tưởng của nó, vì lão già ấy?
Sự bất hòa giữa cha con họ Trương, Quan Sơn Nguyệt biết rất tường tận, bởi biết cái nguyên nhân đó, nên thấy Trương Vân Trúc tỏ thái độ lạnh lùng khi đề cập đến người con duy nhất của lão, chàng hết sức bất mãn.
Dù muốn dù không, chàng nhận ra phải chống đối, để làm cái việc biện hộ cho những kẻ vắng mặt mà chàng cho là có phần nào lẽ phải. Chàng chỉ nhận cái lẽ phải đó phần nào thôi, bởi chàng nghĩ làm con mà đối xử quyết liệt quá độ với đấng sinh thành, thì kể ra cũng quá đáng. Chàng nghiêm giọng, thốt:
– Tiểu điệt nhìn nhận là Thanh muội có phạm tội vì bội ý chí của lão bá, điều đó chẳng qua trong một lúc khẩn cấp, lâm vào cái thế chẳng đặng đừng, nên nàng bắt buộc phải chọn sở đoản bỏ sở trường, chứ thật ra thì luôn luôn nàng hoài niệm lão bá trong thời gian ly khai lão bá. Thiết tưởng lão bá nên rộng lượng xét suy cho nàng.
Trương Vân Trúc lại cười nhạt:
– Vấn đề đâu phải là cái việc nên hay không nên rộng lượng xét suy như ngươi nêu ra? Bởi lão phu chẳng còn tha thiết đến bất cứ việc gì trên đời này, kể cả tình cảm đối với những người thân thiết. Đừng bao giờ nói với lão phu những tiếng cốt nhục thâm tình, bởi lão phu thận ra, tất cả đều giả dối, tất cả đều được trang sức bởi những văn từ đẹp đó, nhưng trong cái văn từ hấp dẫn đó, có biết bao tính toán lợi dụng, biết bao thủ đoạn. Huống chi, bất cứ thiếu nữ nào lớn lên trong cái tuổi dậy thì, khi lòng xuân dấy động, lại chẳng hướng ngoại? Và trung tâm vũ trụ đối với những thiếu nữ đó, là một hình bóng lý tưởng, hình bóng đó có giá trị hơn hẳn cái hình bóng của con người đã tạo ra chúng, chúng có thể quên đi tất cả, quên cha mẹ, quên thân tộc, quên quê hương, quên luôn lễ giáo để tôn thờ hình bóng đó như một kẻ cuồng tính của một giáo phái ... Lão phu hiểu lắm, khi con gái lão phu bắt đầu mơ mộng, là ân tình sanh dưỡng của lão phu đối với nó cũng bắt đầu cáo chung, và lúc đó tìm được bóng hình lý tưởng, thì chính là ân tình thiêng liêng đó được mai táng cẩn thận dưới lớp ba lớp đất lạnh lùng ...
Lão không buông một tiếng thở dài, lão lại gật gù tiếp luôn:
– Lão phu chẳng hề thương tâm trước sự phủ nhận của con gái, và hiện tại thì có thể bảo lão phu với nó, chỉ là hai kẻ xa lạ trên đường đời, lão có đưa tay dìu nó qua vài dặm khó, rồi từ đó nó cứ bước đều theo chiều hướng của con tim, lão phu lại tiếp tục lối đi của mình, đi cho trọn chu kỳ của một kiếp đời!
Quan Sơn Nguyệt rất thẹn. Trương Vân Trúc phê bình con gái, luận thế thác nhân rinh từ khuôn khổ gia đình, rộng ra thế nhân, có bao quát chàng phần nào.
Chàng tự hỏi, sự lạnh nhạt của cha con họ, do đâu? Chàng dự phần, bằng cách quyết dụ Trương Thanh chăng?
Dù sao, chàng cũng phải nhận là Trương Vân Trúc có đạo lý, tuy cái đạo lý có đặt trên một nền tảng nhỏ hẹp. Nhỏ hẹp, là cái đạo lý đó phải nghiêm khắc, lão có quyền suy luận nghiêm khắc đối với con gái lão.
Dù sao, chàng cũng cảm thấy mình cũng có dự phần trong việc chia ly của cha con họ. Bởi, trong gia đình họ, trước đây khá xa, có một hôm, bóng hình thứ ba xuất hiện ... Chính sự xuất hiện của bóng hình thứ ba đó, là nguyên nhân của sự phân tán ngày nay. Người thứ ba, nếu chẳng phải chàng, thì còn ai nữa?
Chàng trầm ngâm một lúc lâu, mới thốt:
– Lão bá nên nhớ đến ân tình ngày trước của Trương bá mẫu, nhớ để cảm thông việc làm ngày nay của Thanh muội ...
Trương Vân Trúc chớp mắt:
– Ngươi cũng có biết đoạn đời dĩ vãng của lão phu?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải, lão bá! Tuyết Lão Thái Thái đã thừa nhận Thanh muội là cháu ngoại rồi, đồng thời truyền thụ cho nàng tất cả bí học của họ Tuyết.
Nhưng, điều tiết lộ của chàng không gây một phản ảnh nào nơi Trương Vân Trúc cả. Lão điềm nhiên tiếp:
– Ngoài y thuật ra, Tuyết gia chẳng có chi khác hơn đời ...
Bỗng, lão hỏi:
– Vừa rồi, ngươi nói rằng, Thanh nhi vì lão phu nên ly khai ngươi? Sự tình như thế nào?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Lão bá có thể tự hỏi mình, cần chi phải hỏi tiểu điệt? Trong mấy tháng gần đây, lão bá đã có hành vi như thế nào?
Trương Vân Trúc lắc đầu:
– Lão phu có làm chi đâu?
Tin hay không tin? Có đúng là trong thời gian gần đây, Trương Vân Trúc không hề hoạt động trên giang hồ?
Dù muốn tin, chàng cũng khó tin. Cho nên, chàng phải hỏi tiếp:
– Trong mấy lúc sau này, lão bá có đến các môn các phái trên giang hồ chăng?
Trương Vân Trúc gật đầu:
– Có chứ! Lão phu có viếng qua các phái, nhưng chẳng phải tất cả, lão phu chỉ tìm đến những môn phái hữu danh nhất trong võ lâm mà thôi.
Lão xác nhận điều đó!
Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt:
– Có thật như vậy à?
Trương Vân Trúc cau mày:
– Sao là giả, sao là thật? Ngươi không thể nói rõ ràng hơn cho ta nghe à?
Quan Sơn Nguyệt cố dằn bất mãn thốt:
– Cứ theo lời truyền thuyết, thì lão bá tìm đến các môn các phái đó, đoạt lấy bí kiếp vũ công của người ta ...
Trương Vân Trúc điềm nhiên điểm một nụ cười:
– Ngươi nói thật khó nghe quá chừng. Sự thật thì đâu đến đổi quá nghiêm trọng như ngươi đã hiểu qua lời truyền thuyết mà ngươi có dịp nghe đó?
Quan Sơn Nguyệt rất bực, vừa bực vừa tức uất, chàng hơi xẵng hơn trước:
– Lão bá biết không, những môn phái bị cướp đoạt vật báu đều xuất phát cao thủ, trinh thám khắp bốn phương trời, quyết tìm cho được lão bá ...
Trương Vân Trúc vẫn cười:
– Giả như ngươi muốn hiểu tận tường sự việc, ngươi cứ đến viếng từng môn phái một, xem sự tình như thế nào? Ngươi sẽ thấy là tại mỗi nơi, không còn ai xao xuyến nữa, trái lại, ai ai cũng hài lòng với sự thu hoạch trong chuyến xuất ngoại theo dấu chân ta! Có thể là một vài nơi tri ân ta, và đang nhắc nhở đến ta đấy! Như vậy, ta làm lợi cho họ, chứ có gây thiệt hại cho họ đâu?
Quan Sơn Nguyệt giận lắm, song cố dằn lòng, tiếp:
– Chẳng những lão bá đoạt bí kíp vũ công của người, mà lão bá còn làm hại đến một số người nữa, như Thống Thiền đại sư trong phái Thiếu Lâm giờ đây như tàn phế, như Thiên Cơ đạo trưởng phái Vũ Đương, vì nhiểm độc mà chết và còn nhiều người khác, cũng bị lão bá hãm hại một cách tàn nhẫn như thế đó, lão bá lại tự hào làm điều đó lợi cho họ, thì thật là tiểu điệt chẳng hiểu nổi rồi!
Trương Vân Trúc không nao núng, đáp:
– Phải có một nguyên nhân chi đó, nên một số người lâm vào cảnh như ngươi vừa nói, người ta thoạt đầu nghi ngờ ta, nên có sự nhận xét bất lợi cho ta, trong lúc tình cờ, ngươi nghe được những lời phê phán lệch lạc đó, rồi đổ lỗi cho ta. May mà ta gặp ngươi để nghe ngươi buộc tội oan như thế, ta có dịp biện hộ cho mình. Nếu ngươi không tin sự biện hộ của ta, thì cứ đến một vài nơi hỏi lại họ.
Hỏi cho biết rồi, ngươi sẽ có cảm tưởng chính xác về ta. Cho ngươi biết, hiện nay tại Thiếu Lâm phái và Vũ Đương phái có sự thay đổi Chưởng môn, và người mới tuân theo di mạng của người cũ, không còn hận ta như ngày nào nữa.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ.
Thế là nghĩa làm sao? Cướp đoạt bí kíp vũ công của người ta, gây tổn hại cho người ta, mà lại cho là làm lợi cho người ta! Có trời mới hiểu nỗi uẩn khúc của sự tình!
Lâu lắm, Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:
– Về trường hợp hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương, tạm thời tiểu điệt chấp nhận như vậy đi, còn những gì đã xảy ra trong Vô Cực Kiếm Phái tại Âm Sơn, lão bá giải thích như thế nào?
Trương Vân Trúc chớp mắt:
– Vô Cực Kiếm Phái? Tại Âm Sơn? Ngươi nói gì, ta không hiểu! Bình sanh, ta chưa hề nghe ai nói đến kiếm phái đó!
Lần này, Quan Sơn Nguyệt không dằn nổi cơn phẫn hận, cao giọng thốt:
– Lão bá đến đó, cưỡng hiếp Âm Lệ Hoa, con gái của Chưởng môn Âm Tố Quân, bây giờ nàng ấy điên điên dại dại, ngày ngày cứ kêu gọi lão bá, mong lão bá trở về sum họp với nàng ...
Và, lần này thì Trương Vân Trúc không còn bình thản được nữa, lão biến sắc, cũng cao giọng như chàng:
– Nói nhảm! Ngươi cho ta là hạng gì?
Quan Sơn Nguyệt xì hơi được, mạnh dạn «xì» luôn:
– Âm Tố Quân hận lão bá cực điểm đó, giả như gặp lão bá ở đâu, bà ta dám liều sống chết với lão bá lắm! Chẳng lẽ bà căm hận như vậy, lại chẳng có nguyên do? Chẳng lẽ việc đó cũng giả luôn?
Trương Vân Trúc trầm giọng:
– Ta bình sanh chưa hề biết mặt Âm Tố Quân, chứ đừng nói là có gặp gỡ bà ấy. Hẳn là mẹ con bà ta lầm người! Cứ trông ai mà tưởng là ta! Làm gì bà ta biết được ta mà dám đề án một cách quả quyết như vậy chứ? Vô lý quá chừng!
Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:
– Cứ theo lời tường thuật của Âm Tố Quân, thì người đó đúng là lão bá!
Trương Vân Trúc bình tĩnh trở lại, suy nghĩ một lúc lâu, đoạn thốt:
– Sự việc đó, có nhiều điểm khả nghi, ta phải nghiên cứu kỹ nhất định thế nào ta cũng minh bạch uẩn khúc của nó ... Thật ta không ngờ lại có việc rắc rối như vậy! Đúng là biết người, biết mặt nào ai biết được lòng.
Quan Sơn Nguyệt lại sững sờ! Lão liên tưởng đến ai, mà nói lên câu đó?
Một lúc lâu, chàng hỏi:
– Thực sự, sự tình như thế nào, lão bá có thể cho tiểu điệt biết chăng?
Trương Vân Trúc khoát tay:
– Đừng hỏi gì gấp. Sớm muộn gì, ta cũng phải truy nguyên việc đó rồi ngươi cũng sẽ hiểu.
Lão mơ màng một chút, đoạn tiếp:
– Chắc là Thanh nhi, vì việc đó nên nó ...
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải! Thanh muội làm sao chịu nổi tủi nhục khi nghe những lời truyền thuyết đó? Cho nên, nàng quyết tìm cho được lão bá.
Trương Vân Trúc «hừ» một tiếng:
– Làm gì có việc nó quá lo nghĩ về ta như vậy? Nó có khi nào thông cảm tâm tình của cha nó đâu? Ngươi đoán sai đó!
Nhưng rồi lão cũng hỏi:
– Tại sao ngươi để cho nó ra đi một mình như thế? Giả như có điều gì bất trắc xảy đến cho nó thì sao?
Quan Sơn Nguyệt đáp gấp:
– Thanh muội ra đi, có Bành tiền bối Phi Thiên Dạ Xoa đi theo, chiếu liệu dọc đường. Hiện tại, Bành tiền bối đang có mặt kia, lão bá và tiểu điệt đến đó hỏi qua, cho biết sự tình như thế nào.
Trương Vân Trúc lắc đầu:
– Không nên vội. Trước mắt đây, có rất nhiều việc quan trọng cần giải quyết, tạm thời chúng ta bỏ qua việc đó đi, khi nào sự tình tại đây xong rồi, chúng ta sẽ trở lại việc đó cũng không muộn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút lại hỏi:
– Lão bá đến đây, có việc chi? Chẳng lẽ lão bá cũng là người trong Hội Long Hoa?
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Cũng có thể như ngươi nói đó! Đến giờ phút này, ta chưa chánh thức là người trong hội, song trong chốc lát nữa đây ... Mà thôi, chúng ta cũng bỏ luôn việc đó đi, nói làm gì khi chưa đúng lúc! Ngươi đã đến nơi rồi, ít nhất ngươi cũng có biết qua một vài quy điều đó, có khoản cấm mọi người nhại miệng lắm lời. Giả như ngươi có thắc mắc, thì ngươi cứ an tịch chờ xem, cuối cùng ngươi cũng tự tìm giải đáp được, chẳng cần phải hỏi ai. Có hỏi, cũng chẳng ai nói cho ngươi hiểu đâu, trái lại hỏi nhiều lại phạm quy điều, thêm rắc rối.
Quan Sơn Nguyệt nhìn lão nửa tin nửa ngờ.
Lão đã là người trong hội, hay chưa chánh thức gia nhập? Lão từ khước, chẳng chịu nói rõ ràng, thì chàng đành phải chờ hiểu, như lão vừa nói.
Chàng ngồi xuống chiếc đôn bằng đá đảo mắt quan sát một vòng.
Không lâu lắm, có tiếng thang la vang lên, thanh la vang lớn chấn động màng tai.
Những người hiện diện đang bàn luận từng nhóm năm, nhóm ba lúc đó bỗng ngưng bặt tiếng nói, tiếng cười, giữ sự bình tịnh hoàn toàn.
Ai đứng sẵn, cũng xuôi tay, chỉnh nghiêm thần sắc. Ai đang ngồi, cũng đứng lên gấp, rồi xuôi tay, rồi chỉnh nghiêm gương mặt.
Vẻ khác thường hiện rõ ở mỗi người.
Trương Vân Trúc cũng như mọi người, đứng lên sửa dáng nghiêm trang, đồng thời đưa mắt ra hiệu với Quan Sơn Nguyệt.
Lập tức, chàng đứng lên.
Lúc đó, nơi đài cao, các đồng nam đồng nữ đã giàn hầu thành hàng ngũ đúng theo nghi thức, tên nào cũng mặc y phục gấm năm màu, trông sặc sỡ lạ.
Một đồng tử cất tiếng:
– Long Hoa Hội sắp khai mạc! Xin mời toàn thể quý vị y theo thứ tự trong bảng, lập thành đội ngũ, để bắt đầu cuộc điểm danh, kiểm nhân số.
Bên dưới đài, mọi người dao động một lúc. Sau cùng, họ đã lập thành ba nhóm.
Quan Sơn Nguyệt nhận ra, trong số những người có tên trên Bảng Tiên, có Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân.
Bảng Tiên rất ít người so với Bảng Ma, nhưng trong bảng này Quan Sơn Nguyệt có nhiều người quen, những người đó là chị em họ Lạc và lão Liễu Sơ Dương.
Phi Thiên Dạ Xoa đứng trong hàng ngũ Quỷ Bảng.
Dĩ nhiên, trong bảng này, có Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình, song chỉ có mỗi một mình y, còn những du hồn kia thì vắng mặt.
Chừng như chỉ có vị thủ lãnh Thập Đại Du Hồn được đứng trong hàng ngũ thôi.
Đồng nữ lại tuyên bố:
– Các vị đầu bảng, hãy bước ra, kiểm điểm nhân số của bảng mình.
Chưa ai nhút nhích, Khổ Hải Từ Hàng từ ngoài cửa, chạy vào, cao giọng thốt:
– Trừ hai vị Lịnh chủ, và hai ngôi khuyết tịch chờ điền vào, Tiên Bảng chẳng thiếu một ai.
Nữ Đồng hỏi:
– Những người chờ điền khuyết, có đến đây hay không?
Khổ Hải Từ Hàng đáp:
– Có! Ngoài ra còn ba người mới, chờ được liệt tên.
Nữ đồng khoát một vòng tay.
Vòng khói che khuất bên trên đài, bỗng tan biến, một chữ «Tiên» hiện ra, chữ đó cũng do khói kết tụ hình, lơ lửng giữa không gian chẳng hề tan biến. Chữ đó, màu xanh nhạt, màu sắc bao hàm cái ý thanh đạm, của những người thích thanh phước hơn hồng phước.
Bây giờ, đến lượt người trong Ma Bảng xuất đầu.
Và, Kỳ Hạo cất tiếng:
– Ma Bảng đủ nhân số!
Nữ đồng lại khoát một vòng tay.
Như lần trước, một vầng khói tan, một chữ «Ma» hiện ra, cũng do khói kết tụ hình, nhưng lại màu hồng.
Kỳ Hạo lại tiếp:
– Người đầu bảng trong Ma Bảng yêu cầu giải tỏa đường dây đã cột nơi cánh tay, để dễ bề xoay trở, hầu điều động nhân số trong bảng cung nghinh tiên giá!
Nữ đồng ngẩng mặt lên không, như chờ đợi một lịnh được từ cung trời ban xuống. Một phút sau, nó nhìn xuống Kỳ Hạo, bên dưới đài, thốt:
– Điều thỉnh cầu được chấp thuận!
Kỳ Hạo thở phào gương mặt nở tươi như ngày nào còn bừng bừng tự đắc.
Hắn nghiêng mình, cung kính tỏ sự tri ân:
– Đa tạ tiên nữ từ bi!
Khi hắn đứng thẳng người trở lại, thì đường dây đỏ quấn quanh cánh tay đã tháo tung ra, song hắn chưa có thể vươn thẳng cánh tay liền, bởi cánh tay đó bị co lâu ngày, quen gân mà chừng như máu cũng ngưng vận chuyển qua cánh chõ, thành ra cánh tay như bị tê liệt.
Vừa lúc đó, từ bên ngoài, một nữ nhân mặt y phục đen, lướt vào, nhẹ nhàng như có vầng mây lót chân nàng đưa vào hội trường. Nữ nhân cũng che kín bằng một lượt sa đen, nếu chẳng có mớ tóc mượt bỏ xõa, phất phất theo đà tiến, thì chẳng ai nhận ra đó là một nữ nhân. Nữ nhân nghiêng mình, cung kính báo cáo:
– Kể cả tân lẫn cựu, nhân số của Quỷ Bảng gồm chín mươi hai người, toàn thể đều có mặt, chờ lịnh trên sai khiến.
Nữ đồng cau mày:
– Tại sao chỉ có chín mươi hai người, không đủ số một trăm.
Nữ nhân bao mặt đáp:
– Nhân tài rất hiếm, không phải mỗi lúc một tìm ra!
Nữ đồng lại ngẩng mặt lên không, chờ lịnh. Một phút sau, nó thốt:
– Tạm thời, chấp nhận cho dự hội, sau này sẽ bàn đến việc bổ sung đủ nhân số.
Nữ nhân bao mặt nghiêng mình:
– Đa tạ Tiên tử từ bi!
Như hai lần trước, nữ đồng phất tay, khói mờ ở một phía đài tan biến, một chữ «Quỷ» to lớn hiện ra, cũng bằng một thứ khói kết tinh thành hình.
Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang. Dù chàng nghĩ là những người sáng lập cái Hội Long Hoa này, có ý tạo dựng một việc rất hoang đường, song xem ra thì cũng có phần nào huyền ảo mường tượng cảnh tiên, và nữ đồng kia, tuy còn ít tuổi, mà đã tỏ lộ một bản lĩnh tân kỳ, cái thái độ lại chững chạc như bậc cao niên.
Thì ra, cung cách ở đây được nghiên cứu rất chu đáo, và mọi người đều nhiễm phong độ của giới thần tiên đồng như đồng hóa hoàn toàn.
Vẫy tay, sanh khói, điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi bất quá chỉ cầm một vật sanh khói nơi tay, tay phát ra là khói vút đi.
Nhưng, cái tuyệt diệu là chỗ ngưng tụ khói thành hình, không tan biến, lại thành chữ, nếu nữ đồng không luyện được môn khí công đó đến mức diệu huyền, thì làm gì tạo được cái kết quả phi thường đó?
Đã ngưng tụ được khói, lại vẽ thành chữ, rồi biến chữ có màu, có sắc, ai không tưởng nữ đồng có tiên thuật?
Và nếu có tiên thuật, nó lại phục dịch một số người tại đây, số người đó hẳn phải là tiên rồi.
Một bằng cớ khác, là cứ mỗi lúc thỉnh ý cái vị tiên, thì nó lại ngẩng mặt nhìn lên trời cao. Trên đó, là thế giới của tiên, lịnh trên đó bang xuống hẳn là lịnh tiên!
Quan Sơn Nguyệt dù không tin tưởng sự huyền bí của Hội Long Hoa này, cũng phải lấy làm lạ ...
Chàng thừa hiểu, màu chất của màu khói kia, là do bản chất của các loại khí trong người phát sanh. Khí từ huyết mạch bốc ra, do tâm can mà thành, do đó có màu hồng. Và «U Minh Khí», thuộc âm, phát ra từ các lỗ chân lông tứ chi, nên hiện qua màu đen.
Nữ đồng, tuổi chưa tròn hai mươi, lại phát huy được các khí dễ dàng, tùy ý, hẳn đã phải tập luyện ngay từ lúc vừa mở mắt chào đời, và tư chất của nó phải đặc biệt lắm. Một người thường học võ, trải hằng mấy mươi năm cũng chưa hẳn đạt được cái kết quả của nó ngày nay!
Khi ba bảng Tiên, Ma, Quỷ đã vào hàng ngũ xong rồi, nhân số kiểm điểm xong rồi, nữ đồng lại cất giọng lên không, cao giọng trình:
– Mọi nghi thức đã được cử hành chu đáo, kính thỉnh Hội Chủ giáng lâm, chủ trì đại lễ.
Từ trên cao, có tiếng nhạc phát ra, nho nhỏ, vắng xuống hội trường.
Quan Sơn Nguyệt khẩn trương vô cùng. Bởi, theo lời những người trong hội mà chàng được nghe, thì ân sư chàng là Độc Cô Minh, là một trong các vị Hội Chủ Long Hoa Hội. Các vị Hội Chủ sắp đến đài, là chàng sẽ gặp lại ân sư chàng.
Trên cao, mây giăng mắc, đột nhiên lớp mây đỏ, bày một lỗ hổng, từ lỗ hổng, có bốn người, lần lượt đáp xuống đài. Họ đáp xuống, gió lồng lên, thổi phồng y phục của họ, tạo cho họ cái dáng phiêu phưởng, chính cái dáng đó làm cho họ giống thần tiên, dù chưa ai biết thần tiên có dáng như thế nào.
Trên đời này, ai tự hào mình có gặp thần tiên?
Trước cảnh tượng đó, nếu lấy con mắt phàm phu tục tử mà nhìn thì phải cho là thần tiên từ cung trời giáng hạ trần gian.
Nhưng, con nhà võ đâu lạ gì với những cái trò như vậy? Nhất là con nhà võ đã đạt đến mức thành tựu học tập khá cao, như Quan Sơn Nguyệt?
Chàng hiểu ngay, họ luyện thuật khinh công đến độ siêu thần nhập hóa, họ có thể đề khí giữ mình lơ lửng giữa không trung một thời gian lâu, và họ bay nhẹ nhàng như những con chim, khi đáp xuống lại chẳng gây một tiếng động nhỏ.
Bốn người đó từ từ đáp xuống, như bốn chiếc lá khô lìa cành, lá rơi không gặp gió, lá từ từ xuống thẳng, chẳng chao mình, chẳng lệch hướng.
Quan Sơn Nguyệt đã chú ý ngay từ lúc họ chui qua lỗ trống của vầng khói kết tụ làm mây. Trong bốn người đó chàng hy vọng nhận diện một, và một đó, hiển nhiên là Độc Cô Minh, ân sư của chàng.
Bởi, cứ theo lời nhiều người trong Hội đã nói với chàng, thì Độc Cô Minh là một trong bốn Hội Chủ Long Hoa Hội. Như vậy, hẳn phải có ân sư chàng trong số đó.
Không!
Khi chàng trông thấy rõ cả bốn người, thì chàng không nhận diện ân sư chàng trong số đó. Tự nhiên, chàng thất vọng nặng nề.
Bốn người đó, tác trung niên, hai người mặc áo xanh, gương mặt rất tròn, mường tượng mảnh trăng rằm, có râu dài, bởi tuổi chưa cao nên râu còn đen nhánh ... Trong hai người còn lại, một mặc áo đỏ, hàm râu ngắn và quăn thuộc loại râu rồng, còn người cuối thì mặt áo đen, thân vóc ốm không râu.
Như vậy, là không có Độc Cô Minh rồi!
Người trong ba bảng, đứng thành nhóm riêng biệt bên dưới đài, thì thầm bàn tán, chừng như họ cũng có ý nghĩ như Quan Sơn Nguyệt, họ cũng lạ lùng như chàng.
Thấy hội trường hơi xôn xao, và khung cảnh có phần nào ồn ào, nữ đồng cao giọng chỉnh:
– Hội Chủ giá lâm, tất cả phải giữ im lặng hoàn toàn!
Mọi người đều im thin thít.
Bên trên đài, hai hàng đồng tử cả nam lẫn nữ đều cúi đầu, cung cung kính kính.
Nữ đồng phát ngôn nghiêng mình thốt:
– Linh Nô xin cung nghinh pháp giá Hội Chủ!
Người mặc áo xanh vòng tay, mỉm cười:
– Không dám! Linh Cô nhọc chi thế! Cái lễ, cốt thành chứ chẳng cần cung cách thái quá!
Nữ đồng, tên Linh Cô, điểm nụ cười tươi, đứng thẳng người lên, rồi bước sang một bên.
Bây giờ, bên dưới đài, mọi người đều nghiêng mình cao giọng chào:
– Tham kiến Hội Chủ giá lâm.
Người áo xanh vội vàng đáp lễ:
– Đa tạ các vị! Mới ngày nào đó, rồi thắm thoát mà đã hai mươi độ xuân tới, xuân đi! Trong thời gian tạm biệt, chắc các vị vẫn được bình an chứ?
Bên dưới đài, mọi người rập nhau thốt:
– Nhờ hồng phúc của Hội Chủ, bọn thuộc hạ đều vô sự suốt mấy năm qua!
Người áo xanh đảo mắt nhìn quanh một vòng, tiếp:
– Cứ mỗi lần có họp mặt nhau, là y như con số người hiện diện đổi thay!
Người cũ đã ra đi, cũng may có những người mới thay vào! Nhân sanh tán tụ sao mà nhanh chóng thế?
Người đó thở dài, để nhớ đến người xưa, rồi cười tươi chúc mừng những khuôn mặt mới. Y tán luôn những người mới có khí thái kiêu hùng, ai ai cũng hiện lộ hoa anh, ai ai cũng có cái vẻ hào hiệp.
Bên dưới đài, quần thần, quỷ, ma đồng loạt thốt:
– Đa tạ Hội Chủ khen ngợi!
Người áo xanh lại cười mấy tiếng, rồi tiếp:
– Đại hội hôm nay, có một vài chuyển biến, ngoài chỗ dự liệu của mọi người, mà lão phu không tiện thông tri trước cho toàn thể đại biểu hội hiểu. Ngoài ra, Hoàng Hạc Tán Nhân vì bận việc phải vắng mặt nên lão phu tạm thay thế, xử lý sự vụ.
Quan Sơn Nguyệt không kịp suy nghĩ, vụt hỏi:
– Ân sư của tại hạ bận việc gì phải vắng mặt? Người đi đâu?
Toàn thể đại hội đều giật mình.
Người áo xanh cũng kinh ngạc. Lão ta nhìn xuống Quan Sơn Nguyệt, tựa hồ muốn hỏi lai lịch chàng. Nhưng, Linh Cô đã bước tới, thì thầm bên tai lão. Người áo xanh điểm nhẹ nụ cười, thốt:
– Lịnh sư sẽ đến đây trong chốc lát, các hạ nên kiên nhẫn chờ, rồi cũng sẽ gặp người. Xin đừng hỏi gì hơn, gây trở ngại cho sự việc của đại hội.
Quan Sơn Nguyệt nín lặng.
Người áo xanh vẫy tay ra khắp mọi người tiếp:
– Xin tất cả vào ngôi vị, đồng dự tiệc như những kỳ đại hội trước, đợi khi nào các vị Tiên, Ma, Quỷ từ Thiên Ngoại Thiên đến, chúng ta sẽ chỉnh đốn các bảng.
Theo cái vẫy tay của lão, tiếng nhạc vang lên, mọi người đều vào tiệc. Ai muốn ngồi bàn nào, cứ ngồi, không còn phân biệt theo từng bảng nữa. Bây giờ, thì họ được quyền cười, nói lớn cũng chẳng sao, và dĩ nhiên phải ồn ào, bởi có tiệc vui nào lại khai diễn trong lặng lẽ?
Bên dưới, ăn uống vui vầy, bên trên đài, hai hàng đồng nam đồng nữ vẫn cứ đứng im như cũ. Còn bốn vị Hội chủ thì xuống đài, hiệp chung với quần Thần, quần Ma, quần Quỷ.
Cảnh ồn ào càng thêm náo nhiệt với những thị đồng chạy đầu này, vọt sang đầu kia, thêm quả thêm rượu.
Trước đó, khung cảnh trang nghiêm bao nhiêu, thì giờ đây, hỗn loạn bấy nhiêu.
Lạc Tiểu Hồng gọi Quan Sơn Nguyệt:
– Đại ca! Tôi đến gặp mẹ nhé!
Vừa nói, nàng vừa vọt đi, không đợi xem Quan Sơn Nguyệt có ưng thuận hay không.
Quan Sơn Nguyệt toan bước theo nàng, nhưng một bóng người xuất hiện trước mặt, chận chàng lại.
Người đó, chính là người áo xanh, một trong bốn vị Hội Chủ. Lão khoát tay:
– Đi đâu làm chi, thế huynh! Chúng ta đàm đạo nhau đi!
Chính Quan Sơn Nguyệt cũng có ý tìm lão để hỏi tin tức về ân sư, bây giờ lão tự đến với chàng, thì còn gì hơn? Chàng vòng tay chào liền:
– Xin mời tiền bối ngồi! Tại hạ đang muốn bái kiến tiền bối đây!
Người áo xanh mỉm cười, ngồi xuống chiếc đôn đối diện với chàng.
Linh Cô mang rượu và thức nhắm cho lão, đoạn thốt:
– Linh Nô hầu rượu Hội Chủ.
Người áo xanh đưa tay vuốt nhẹ nơi má nó, rồi mỉm cười:
– Tiểu liễu đầu lại muốn giám thị lão phu nữa phải không? Ngươi yên trí, lão phu không hề nói chi phạm quy luật đâu!
Linh Cô chớp chớp mắt cười nhẹ:
– Nói nhiều, thì thể nào cũng có thất ngôn, mà lão gia thì lại thích nói khi rượu vào khá. Cho nên, Y Ảo tiên tử bảo Linh Nô hầu rượu lão gia, thỉnh thoảng đề tỉnh lão gia.
Người áo xanh giật mình:
– Sao lạ thế? Nào có liên quan gì đến Y Ảo tiên tử, mà bà ta lo ngại?
Linh cô chớp mắt:
– Sao lại chẳng liên quan, lão gia? Quan công tử là người do tiên cô thỉnh đến đây mà, nếu chẳng phải vậy thì công tử đâu có mặt tại hội trường?
Người áo xanh cười hì hì:
– Thì ra là thế!
Lão hướng sang Quan Sơn Nguyệt, tiếp:
– Lão đệ may mắn lắm đó nhé! Bình sanh, tiên tử chẳng hề dễ dãi với ai vậy mà bà ta lại có cảm tình với lão đệ, thật là ...
Linh cô «hừ» một tiếng:
– Thấy chưa! Lão gia chưa uống rượu, mà còn nói như vậy, nếu đã uống rượu vào rồi, thì phong túng đến bực nào nữa chứ?
Người áo xanh lè lưỡi:
– Lỗi quá! Lỗi quá! Lão phu quên mất!
Quan Sơn Nguyệt ngồi nghe, chẳng hiểu họ nói gì với nhau, thái độ của họ làm cho chàng hết sức lấy làm lạ. Chàng không được bình tĩnh lắm, bởi lúc đó chàng bị phân tâm rõ rệt.
Tai vừa theo dõi câu chuyện của người áo xanh và Linh Cô, mắt chàng hướng về Trương Vân Trúc, lúc đó lão Trương đang ngồi chung với một người vận áo xanh, cả hai đâu đầu vào nhau, chừng như họ đang tranh nhau luận với nhau về một vấn đề chi đó. Chẳng những thế, một người áo đỏ cũng có mặt, dự thính.
Người áo xanh đối diện với chàng, nắm áo chàng, giật giật, nhắc:
– Uống, lão đệ! Mình làm mấy chén, cho khoái đi, lưu ý đến những trò quỷ chung quanh làm gì? Họ nói gì, làm gì mặc họ. Rắn chuột đâu đầu dụm mỏ với nhau, có gì đáng quan tâm?
Lão thốt với giọng khá cao, cốt ý cho những người bên cạnh nghe lọt.
Nhưng, người áo đỏ chỉ mỉm cười, chứ chẳng sừng sộ.
Người áo đỏ không giận, song người áo xanh, có cái tên là Kích Trúc Sanh, lại phẫn nộ. Lão gọi người áo xanh bên này:
– Nhất Âu huynh! Yêu cầu nói năng có lễ độ một chút!
Người áo xanh, có cái hiệu Nhất Âu, bật cười ha hả:
– Kích Trúc Sanh! Ngươi đừng tưởng là ta xem trọng ngươi nên mời ngươi thay mặt Hội Chủ! Trong con mắt của ta, ngươi bất quá chỉ là một con chó chết thúi, không hơn không kém! Nếu chẳng do cái lão Hoàng Hạc gởi gấm, thì ta đã chọn Hải Dị Nhi rồi, làm gì ta nghĩ đến ngươi chứ?
Kích Trúc Sanh sôi giận cực điểm, lập tức đứng lên, định sanh sự.
Nhất Âu lại cười vang:
– Ngồi xuống! Ngồi xuống đi. Bây giờ, chưa đến lúc đánh đấm với nhau, có nóng nảy cũng vô ích. Ngươi chỉ đợi một chút thôi mà, cơ hội động thủ sẽ đến trong chốc lát đây thôi. Nhưng ta chỉ sợ ngươi vừa vào cuộc là ngươi rơi đài ngay, bởi những người tranh bảng sẽ tìm ngươi trước nhất, và ngươi sẽ bị hạ dễ dàng.
Để chừng đó, ta xem ngươi sẽ chui vào đâu, dấu cái mặt lừa của ngươi!
Hai tiếng «mặt lừa» lão nhấn mạnh, cốt để cho nhiều người nghe lọt, càng có nhiều người nghe, lão càng thích.
Dĩ nhiên, những người ngồi ở các bàn gần đó đều nghe, và ai ai cũng cười, có người cười mỉm, có người cười thành tiếng, có người lại cười vang.
Kích Trúc Sanh vốn có gương mặt dài, mường tượng mặt lừa, ai ai cũng liên tưởng đến một khuôn mặt lừa, khi thấy khuôn mặt lão, song có ai phê phán, châm biếm làm gì? Bây giờ, lão Nhất Âu nêu lên, thì thật là đúng sự liên tưởng của họ, họ không nói được, nếu nghe ai nói ra, họ phải cười. Cái gì dồn ứ lâu ngày, được Nhất Âu khơi thông, tự nhiên cái đó phải tuôn tràn. Ai cẩn thận, thì cho nó rỉ ra rí rí, ai cao hứng quá thì tuôn ồ ra ngay.
Kích Trúc Sanh đang giận, hai tiếng đó như những gáo dầu đổ vào lửa, rồi những tiếng cười kia là những thùng dầu đổ thêm, lão chẳng còn chịu nổi nữa.
Lão đưa cao nắm tay đấm xuống mặt bàn, nắm tay ấn vào mặt đá, lún vào thấy rõ. Đồng thời, lão hét:
– Ngươi ...
Nhưng, người áo đỏ nắm áo lão, kéo lại, thốt:
– Việc nhỏ, không dằn, việc lớn phải hỏng. Tiểu bất nhẫn, tất loạn đại mưu.
Ngồi đây, chúng ta không được yên tịnh, thì tìm bàn khác mà ngồi, tai không nghe lời nghịch, thì tâm làm gì uất tức?
Thôi xong, người áo đỏ kéo lão áo xanh đi.
Trương Vân Trúc cũng bị kéo đi theo họ, để tiếp tục câu chuyện dang dở.
Lão áo xanh, có cái hiệu Nhất Âu, bật cười ha hả, tỏ vẻ đắc ý vô cùng.
Linh Cô cũng cười, thốt:
– Lão gia không sợ người ta liên kết với nhau, ám hại à!
Lão nhân áo xanh ngẩng cao mặt:
– Sợ gì bọn ấy! Chính ta đang muốn so tài với họ đây mà, họ muốn động thủ lại càng hay chứ sao!
Linh Cô khoát một vòng tay, biểu lộ sự lo ngại:
– Lão gia không ngán họ muôi thù?
Lão nhân áo xanh thoáng giật mình.
Suy nghĩ một chút, lão thở dài, từ từ tiếp:
– Ngươi đề tỉnh ta! Đúng vậy, trêu vào họ, ta sẽ phải bị phiền phức mãi mãi.
Nhưng ... tiên ...
Linh Cô nghiêm sắc mặt:
– Lão gia thận trọng một chút!
Người áo xanh giật mình, sững sờ một chút, đoạn thở dài:
– Không nói, là không nói, không nói là hơn, phải vậy chứ hở tiểu quỷ!
Ngươi bảo là đến hầu rượu lão phu, mà lại chẳng rót, thức ăn lại chẳng trao! Thế ngươi định để cho bọn ta hớp gió Tây mà đàm đạo à?
Linh Cô mỉm cười:
– Lão gia ơi! Lão gia là vị khôi thủ trong bảng Tiên, mà tiên thì vẫn uống gió, ăn đá được như thường, lão gia cần chi những món khác, những món của phàm nhân?
Người áo xanh «hừ» một tiếng:
– Bỏ vài tiếng Tiên, bỏ luôn hai tiếng khôi thủ đi!
Lão lại «hừ hừ» liên tiếp mấy lượt, rồi gằn giọng:
– Cái lão Hoàng Hạc thật là thông minh, lão ta đem gánh nặng trao cho kẻ khác!
Lão lại than:
– Ta khổ quá, khổ hơn con ngựa, con chó, con trâu, đưa lưng chịu cho ai muốn làm chi thì làm, cái gánh nặng này, ta cùng lão hòa thượng kia, đảm đang làm sao trọn chứ?
Linh Cô vội xoa dịu, rót đầy chén rượu, cười hì hì, bảo:
– Uống đi, lão gia! Uống đi thôi! Nói mãi những lời vu vơ ấy, chi cho nhọc?
Thay vì nói, cứ uống, như vậy cái miệng phải khỏe hơn!
Người áo xanh cầm chén rượu, mời Quan Sơn Nguyệt:
– Cô bé nói phải đấy, lão đệ! Chúng ta cứ uống cho say, việc gì lớn đến đâu, chúng ta say rồi thì việc đó cũng chẳng quan trọng gì nữa. Chúng ta nên say, say mãi, say dài dài, càng say càng giảm thiểu trách nhiệm ...
Quan Sơn Nguyệt cũng cầm chén lên:
– Xin lão tiền bối cho tại hạ biết phải xưng hô như thế nào?
Uống cạn chén rượu, người áo xanh vỗ tay «bạch bạch» lên đầu, cười hì hì:
– Ta hồ đồ quá! Nói tới nói lui nói mãi mà quên mất tự giới thiệu! Ta là Nhàn Du Giang Thượng Nhất Sa Âu, cái tên, hay cái hiệu cũng thế, nghe ra dài làm sao, cho nên ta rút gọn lại, chỉ còn bốn chữ Nhàn Du Nhất Âu. Đã rút gọn vậy rồi, nhiều người còn rút gọn hơn tí nữa, cuối cùng, chỉ còn hai tiếng Nhất Âu cộc lốc.
Quan Sơn Nguyệt nâng cao chén rượu tỏ vẻ tôn kính:
– Nhất Âu tiền bối ...
Nhất Âu bật cười ha hả:
– Đến nơi đây rồi, không ai là tiền bối, không ai là hậu sanh cả, ngươi cứ gọi ta là Nhất Âu, gọi như thế cũng đủ lắm đó!
Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười khiêm tốn:
– Tuy vậy chứ tại hạ đâu dám vô lễ, tiền bối đồng hàng với gia sư, tại hạ tôn kính gia sư, tất phải tôn kính tiền bối ...
Linh Cô cười nhẹ, chen vào:
– Lão gia thích sự thẳng thắn, không chịu nổi mọi ràng buộc, người bảo sao, công tử cứ nghe và làm y như vậy, người sẽ rất hài lòng. Lão gia không muốn nghe ai gọi là tiền bối, vì sao công tử cũng biết chứ? Vì hàng tiền bối là những người sắp chết đến nơi, chẳng còn hưởng thọ được gì nhiều nữa, hiện tại còn đi đứng nằm ngồi, ăn và uống đó, song bất quá chỉ để chờ ngày thiên hạ đập xuống lỗ sâu trong lòng đất lạnh. Lão gia sợ ngộp ở trong đất lắm đó!
Nhất Âu bật cười vang:
– Tiểu quỷ lại châm chích mỉa mai ta đó, phải không? Mỗi một lời nói của ngươi có cái hiệu lực chọc nhột ta, nhột đến khó chịu!
Linh Cô điểm một nụ cười bí hiểm:
– Lão gia nói thế chứ cái chỗ nhột thật sự của lão gia, trên đời này có ai chạm tới được? Bởi, có ai biết chỗ nhột đó nằm tại bộ phận nào trong người lão gia đâu! Huống chi, rất có thể nó nằm ở ngoài cơ thể, và như vậy thì họa chăng chỉ có trời mới biết mà chạm vào!
Nhất Âu thẹn đỏ mặt, gắt:
– Tiểu quỷ đáng ghét quá chừng! Ta phải đánh ngươi mới được!
Lão đưa tay cao, như sắp sửa giáng mạnh xuống vai nàng, nhưng bàn tay đó chỉ rơi nhẹ nơi đầu vai, rồi vuốt xuống lưng phơn phớt vậy thôi.
Linh Cô cười hắc hắc, cười suýt ngã lộn dưới đất, cười suýt nhào vào lòng Nhất Âu.
Trẻ đã cười, gì cũng cười theo, một già một trẻ cười điên đảo, trông chẳng còn tôn ti chi cả.
Lúc đó, nơi các bàn chung quanh, gần cũng như xa, mọi người đều cười cười nói nói to tiếng lên rồi, rượu vào thì nguồn lòng mở rộng, họ vui nhộn, bao nhiêu năm dài mới gặp nhau một lần, bảo sao họ không vui? Giả như có thể, họ sẽ hàn huyên liên tiếp cả mấy hôm liền, cũng chẳng hết chuyện để kể cho nhau nghe, nói gì họ chỉ được vui trong một thời gian quá ngắn?
Ai nói, cứ nói, có chuyện cứ nói, vui thì cười trước, buồn thì sầu trước, chẳng ai nghe ai, chẳng ai cười với ai, sầu với ai. Nhưng, họ cười, họ nói với nhau, tuyệt nhiên chẳng ai dám lưu ý đến Nhất Âu và Quan Sơn Nguyệt.
Thân phận của Nhất Âu rất cao trong Long Hoa Hội, họ đâu dám cười chen?
Đến liếc mắt nhìn sang lão ta, họ vẫn không dám, nói chi là góp lời?
Quan Sơn Nguyệt bây giờ mới hỏi Linh Cô:
– Cô nương là ...
Linh Cô cúi đầu, thấp giọng:
– Tôi ấy à? Tôi là một thị nữ, một kẻ tùy sai của tiên tử, chẳng có thân phận chi cả.
Nhất Âu cười hắc hắc:
– Tiểu quỷ khiêm nhường chi lắm thế? Thì cứ bảo ngươi là khắc tinh của toàn thể mọi người trong Tiên Bảng, thế có thành thật hơn không? Trên đời đâu có cái thứ thị nữ gì mà ai ai cũng ngán?
Linh Cô ngẩng mặt lên, nghênh nghênh, như muốn động thủ lắm, từ trên không trung, có tiếng chuông ngân dài, tiếng ngân thì dài nhưng hồi chuông gấp rút.
Tiệc rượu bị tiếng chuông đó ngăn chặn, mọi người ngừng uống ngừng ăn, ngừng cười nói, mọi người cùng ngẩng mặt nhìn lên cao.
Nhất Âu kinh nhạc, hỏi:
– Bây giờ là lúc nào, mà có tiếng chuông tiên ngân lên như vậy?
Linh Cô khẩn cấp ra mặt:
– Lão gia bước ra xem thử!
Nhất Âu đứng lên, phất đôi ống tay áo, lướt đi ngay. Lão không đi ngang, đi dọc, lão lên cao, đôi tay áo mở rộng ra như đôi cánh chim âu, quạt quạt, lão từ dưới đất, hướng đôi tay áo bay lên không trung.
Nối tiếp lão, Kích Trúc Sanh và người áo đỏ cũng lên theo.
Cuối cùng, là lão nhân gầy ốm.
Cả bốn người đều có một đặc điểm, thân pháp của họ linh hoạt vô cùng, mỗi người một vẻ, vẻ nào cũng đẹp cả. Quan Sơn Nguyệt buột miệng khen:
– Hay quá! Thân pháp Lăng Vân đó, quả thật tuyệt diệu! Trong vũ lâm ngày nay, phỏng có mấy người luyện được tuyệt kỹ đó?
Linh Cô khẩn trương ra mặt, mắt luôn luôn hướng lên không.
Bốn lão nhân lên cao rồi, tiếng chuông dứt ngay. Không gian trở nên trầm tĩnh, một sự trầm tĩnh quá nặng nề, ai ai cũng cảm thấy khó chịu.
Quan Sơn Nguyệt nhìn Linh Cô một lúc, hỏi:
– Tại sao tiểu muội không lên theo với họ?
Linh Cô đáp:
– Trong ngày hội này, Thiên Ngoại Thiên là nơi cấm địa, chỉ có bốn vị Hội Chủ được lên đó thôi! Lên đó, là lên chốn cấm địa đấy!
Bỗng nàng hỏi:
– Hay là công tử đưa tôi lên đó?
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Tiểu muội còn không đủ tư cách lên đó, tại hạ lên sao được?
Linh cô lắc đầu:
– Chẳng quan hệ, bởi công tử chưa phải là người gia nhập chính thức, dù có lên đó cũng chẳng vi phạm quy luật của hội. Huống chi, có Y Ảo tiên tử che chở cho? Công tử cứ lên, tôi giả vờ đuổi theo công tử phía sau, như vậy là cả hai cùng lên.
Quan Sơn Nguyệt cũng muốn lên đó, xem qua cho biết tình hình, nghe Linh cô bày kế như vậy, trầm ngâm một lúc, rồi lộ vẻ lo lắng:
– Cao quá, biết tại hạ đủ sức lên tới hay không?
Linh Cô đáp gấp:
– Chắc chắc là đủ sức. Bất quá, chiều cao hơn hai mươi trượng thôi, lên đến đó, là có chỗ đứng ngay, nhất định không rơi xuống đâu mà sợ. Giả như công tử không lên nổi, tôi ở dưới tiếp trợ, đẩy lên cho!
Khi nào Quan Sơn Nguyệt lại bằng lòng để cho nàng tiếp trợ?
Chàng vọt đi liền, trong khi bên dưới có người kêu lên kinh hãi.
Lớp khói kết tụ thành mây xem thì dày, nhưng lên đến nơi rồi. Quan Sơn Nguyệt nhận ra, rất mỏng bất quá nó vừa đủ che khuất một đỉnh núi, bên dưới nhìn lên, ai ai cũng có cảm tưởng là người bên trên từ khung trời thốt vọng xuống, bởi chẳng ai thấy được đỉnh núi.
Xuyên qua lớp khói, Quan Sơn Nguyệt đáp xuống mặt đá.
Linh Cô theo sát phía sau chàng.
Nhưng, lên đến đây rồi, chàng đâm ra hoang mang, vì chung quanh chàng, chẳng có một bóng người, mà trước mắt thì đường lối ngoằn ngoèo, lại thoạt lên thoạt xuống, bất đồng, bất ổn. Lên đến đây, đã là một việc khó, việc càng khó hơn nữa, là tìm người. Người đâu mà tìm?
Chàng đứng sững lại tại chỗ.
Linh Cô bước tới nắm áo chàng bảo:
– Do phía bên hữu đây. Đi theo tôi!
Như thế là nàng phải dẫn đường, nàng lách mình thoăn thoắt theo lối hẹp, thân pháp di động rất nhanh, mường tượng bay là là trên mặt đường.
Quan Sơn Nguyệt theo sau, vất vả vô cùng, mồ hôi đổ ra như tắm, chàng phải cố gượng lắm mới khỏi phát thở ồ ồ.
Thì ra, nơi chàng đáp xuống, là một đỉnh nhỏ, cô lập, không cao lắm. Như Linh cô đã nói, từ dưới đất lên đỉnh đó, chỉ độ vài mươi trượng cao. Cái chỗ rất cao, chính là bên trên, từ đỉnh đó lên tận bên trên khoảng cách còn xa lắm.
Chung quanh chỗ chàng đáp xuống, là mây, mây bao quanh, mây trên đầu, nhìn lên, chẳng thấy đỉnh cao, nhìn quanh, thấy mờ mờ những ngọn như thế, rải rác khắp nơi, chẳng khác nào những con cờ xuất hiện mà bàn cờ là biển mây bao la.
Những ngọn đá đó, to hơn nắm tay, vừa đủ một bàn chân, ngọn này cách ngọn kia cũng trên mười trượng.
Trên đó, gió thổi rất mạnh, một người không biết vũ công chắc chắn nếu đứng giữa luồng gió, gió cuốn đi như chiếc lá rụng.
Nguy hiểm thật!
Đứng trên ngọn đá đó, nếu thuật Thiên Cân Trụy còn non, hẳn cũng bị gió bốc đi như thường.
Chạy theo Linh Cô, có lúc theo đường hẹp, có lúc phải nhảy từ ngọn đá này sang ngọn đá khác. Nhảy như vậy, Quan Sơn Nguyệt suýt vỡ tim từng cơn, song chẳng lẽ chịu kém Linh Cô, chàng cố gắng trên sức mình, mới theo kịp nàng.
Vất vả như thế qua một lúc lâu, chàng đến một khoảng đất bằng phẳng, nơi đó gió đã dịu lại, mây mù sương tỏa cũng tiêu tan, vầng thái dương sáng chói trên không, nhả ấm xuống, con người nghe khoan khái phi thường.
Cảnh trí vô cùng tráng lệ, song Quan Sơn Nguyệt làm gì có thời giờ để chiêm ngưỡng vẽ đẹp của thiên nhiên, chàng còn bận thở, lấy lại sự điều hòa trong cơ thể.
Linh Cô nhìn chàng, lè lưỡi, tỏ vẻ sợ hãi, sợ chàng chứ chẳng phải sợ những gì đang chờ đợi cả hai ở phía trước kia. Nàng thốt:
– Lỗi quá, chỉ tại tôi thôi, tôi gấp quá, nên quên mất cho công tử biết lộ trình nguy hiểm, đáng lẽ ra tôi phải ở lại phía sau chiếu cố công tử. Cũng may công tử tiến tới được như thường! Trời ơi! Nếu công tử hụt chân, rơi xuống hố sâu, thì thực là tội của tôi to lớn biết bao nhiêu?
Nàng càng nói, Quan Sơn Nguyệt càng đỏ mặt. Dù sao thì chàng cũng lớn tuổi hơn nàng, dù sao thì chàng cũng là một nam nhân! Thế mà chàng lại kém nàng? Những chàng trai học võ mà nhận thấy mình chẳng bằng một thiếu nữ dưới lứa tuổi của mình! Chàng cười gượng, đáp:
– Tiểu muội muội tài quá chừng! Tại hạ học tập vũ công, ít nhất cũng lâu hơn tiểu muội mươi năm, thế mà sở đắc sánh với tiểu muội, chẳng bằng một phần!
Thuật «Lăng Không Phi Độ» của tiểu muội, quả thật đã đến mức cao siêu, tại hạ khâm phục vô cùng.
Linh Cô chớp mắt:
– Đừng đưa tôi lên mây xanh, công tử, đưa lên cao khi rơi xuống đau cho tôi lắm! Bất quá, do thói quen mà thành thạo việc rồi công tử tưởng là tôi giỏi lắm đấy, thẹn tôi chết đi, công tử ơi! Công tử biết không, con đường này, có ngày nào tôi chẳng đi qua một vài lượt? Đi như thế, năm này sang năm khác, tự nhiên phải quen, còn công tử chỉ mới vượt lần đầu, tự nhiên phải hồi hộp. Trên Tiên Bảng hơn được công tử, tôi chỉ sợ có mấy người đâu, thảo nào Y Ảo tiên tử chẳng mến trọng công tử ...
Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:
– Họ ở đâu?
Linh Cô đưa tay chỉ:
– Phía trước đó, song lần này, công tử phải dẫn đường, y như cái kế mình đã sắp đặt dưới đất đó, công tử!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Tại hạ dẫn đường? Dẫn như thế nào? Tại hạ có biết đi theo lối nào mà dẫn?
Linh Cô mỉm cười:
– Tôi là kẻ đuổi theo, chẳng lẽ tôi chạy trước? Thì công tử cứ đi, giả như có sai lối, tôi ở phía sau nhắc chừng.
Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:
– Tại hạ quên mất chỗ lo ngại của tiểu muội muội! Tuy nhiên nhớ nhắc chừng tại hạ nhé, tiểu muội muội đừng để tại hạ lạc hướng đấy!
Linh Cô gật đầu:
– Không lạc đâu, đường đi bằng phẳng, lại chẳng có cạm bẫy, mà dù có gì đi nữa, tôi sẽ kịp thời cảnh báo cho công tử biết.
Quan Sơn Nguyệt vận tụ chân khí, giở thuật khinh công lướt đi, qua mấy đỉnh núi nhỏ, đến một khu rừng tùng, tùng trên ngàn năm, cây cao, tàng rộng, tàng giao tiếp với nhau tạo thành cái mái lợp một vùng rộng lớn.
Giữa khu rừng, có một con đường nhỏ, con đường chạy xuyên rừng tất cả do con đường đó.
Khu rừng dày, nhưng không sâu lắm, một lúc sau, họ qua đến phía bên kia.
Linh Cô gọi khẽ:
– Cẩn thận công tử! Phía trước ...
Quan Sơn Nguyệt dừng chân ngay. Vừa lúc đó, có gió mạnh từ trên đỉnh đầu quạt xuống, hai bóng trắng tấn công chàng. Chưa kịp nhận định hai bóng trắng đó là người hay vật, Quan Sơn Nguyệt cấp tốc vung hai chưởng lên nghinh đón.
Kinh lực song phương chạm nhau, Quan Sơn Nguyệt nghe đôi tay đau đớn lạ. Chàng ngã ngồi xuống đất, còn hai bóng trắng bay trở lại trên không.
Quan Sơn Nguyệt ấn chân nhảy lên, bây giờ chàng mới thấy rõ hai bóng trắng đó chính là hai con bạch hạc.
Chúng lên cao rồi, liền quạt cánh, như sắp sửa đáp xuống lượt thứ hai.
Linh Cô ở phía sau, vọt mình tới, đồng thời hét:
– Súc sanh! Công tử là khách của Y Ảo tiên tử đó nhé, các ngươi chạm vào là có mất mạng đấy!
Bạch hạc ré lên, thay vì đáp xuống thẳng đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt, chúng lại đáp xuống một cành tùng gần đó.
Linh Cô gấp giọng hỏi:
– Quan công tử có bị thương chăng?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên xem, nơi lòng bàn tay có máu chảy, máu do một vết thương khá lớn xuất ra.
Linh Cô lấy một chiếc khăn trong mình, quấn ngang bàn tay chàng, tỏ vẻ hối hận:
– Lỗi tại tôi, tôi quên dặn dò công tử ...
Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:
– Súc sanh lợi hại quá!
Linh cô tiếp:
– Cũng may công tử có nội lực thâm hậu, nếu không thì cái lối xung kích như sấm sét của chúng, dù là sắt đá cũng phải tan ...
Vừa lúc đó, một bóng người chớp lên phía trước.
Người đó chính là Liễu Y Ảo. Bà ta trông thấy Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình hỏi:
– Làm sao ngươi lên đây? Tại sao ngươi thọ thương?
Linh Cô thoái hậu một bước, cung kính đáp thay chàng:
– Quan công tử bị Lôi Nhi đánh trọng thương đó ...
Liễu Y Ảo bước tới, mở mối khăn, soát qua vết thương, đoạn lấy trong mình ra một viên thuốc màu hồng, đắp lên chỗ vết thương.
Quan Sơn Nguyệt hỏi liền:
– Ân sư của tại hạ ...
Liễu Y Ảo không đáp câu hỏi của chàng, bà quay qua Linh Cô, nghiêm sắc mặt thốt:
– Ngươi to gan lắm, ngang nhiên đưa hắn lên đây! Ngu xuẩn như thế thật ra ta không tưởng nỗi ...
Linh Cô chẳng dám phân trần.
Quan Sơn Nguyệt sợ nàng bị quở trách nặng vội đáp:
– Sự việc không liên quan gì đến cô nương ấy, chính tại hạ tự ý đến đây ...
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng. nhưng vẫn hướng về Linh Cô:
– Người bên dưới chết rồi sao? Chết hết rồi à? Sao chẳng ai ngăn trở hắn?
Bây giờ Linh Cô mới giải thích:
– Tiếng chuông Cảnh Tiên bỗng vang lên, ai ai cũng giật mình sửng sốt, không kịp chú ý. Quan công tử lại động tác, nhanh khi Linh Cô phát giác ra thì công tử đã lên cao rồi, Linh Cô cấp tốc đuổi theo song không theo kịp ...
Liễu Y Ảo liếc mắt qua Quan Sơn Nguyệt, trầm giọng:
– Khá lắm! Đi trong không gian, vượt mây được như vậy ...
Linh Cô tiếp:
– Nội lực của Quan công tử cũng thâm hậu vô cùng, chỉ bị thương thôi, chứ không nguy đến tánh mạng!
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:
– Chắc gì nhờ nội lực mà hắn thoát nạn? Nếu ta đến chậm một chút, thì hắn phải chết với súc sanh rồi ...
Linh Cô không tin:
– Nô tỳ theo sát bên công tử mà, bất quá trong lúc bất ngờ, hai súc sanh mới chạm vào mình công tử được, nô tỳ hay biết rồi, chúng làm gì dám hung hăng nữa?
Liễu Y Ảo trừng mắt:
– Ngươi cho rằng ngươi tài lắm phải không? Liệu ngươi ngăn chặn chúng nổi không? Hừ!
Bà tiếp luôn:
– Móng chân của Lôi Nhi và Đình Nhi có tẩm chất độc đấy!
Linh Cô biến sắc:
– Tại sao lại có tẩm độc? Chẳng lẽ ...
Liễu Y Ảo hét lớn:
– Ngươi cứ lải nhải mãi thế à? Sao hôm nay lại lắm lời thế? Nhỏ người mà gan to, xảo quyệt cũng khiếp! Ngươi định qua mắt ta? Qua được không? Chính ngươi muốn lên trên này, ngươi lôi cuốn hắn theo, cốt dựa vào hắn, tắc trách cái tội của ngươi!
Linh Cô rung người, quỳ xuống ngay, van cầu:
– Xin tiên tử thứ tội! Linh Cô không yên tâm ...
Liễu Y Ảo bỗng thở dài:
– Mà thôi, bỏ việc đó đi! Ngươi đã lên đây, vậy cũng tốt. Ngươi hãy đi vòng về phía hậu, vào phòng đại tỷ ta, lấy thanh Bạch Hồng Kiếm, mang đến cho ta.
Chú ý nhé, đừng để ai bắt gặp ngươi!
Linh Cô càng biến sắc hơn.
Liễu Y Ảo hét:
– Có đi gấp hay không? Ngươi dần đà, hại cả bọn mất mạng đấy!
Linh Cô mang tâm trạng đó, thoát đi liền.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Việc gì sắp xảy ra, hở tiên tử? Hay là trên đó ... có biến cố?
Liễu Y Ảo thở dài:
– Nào chỉ có biến cố mà thôi! Phải nói là đại biến cố, đại đại biến cố mới đúng. Tất cả đều do cái vị ân sư quý mến của ngươi đó!
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:
– Ân sư của tại hạ làm sao?
Liễu Y Ảo cười lạnh:
– Lão ta chuồn đi, thì cứ đi một mình thôi, có ai nói chi? Lão lại còn dụ hoặc cho đại sư tỷ ta cùng đi, cả hai đi hết rồi, bỏ cái sự việc lớn lao hôm nay lại cho bọn ta! Thật là phiền phức vô cùng!
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, chẳng hiểu chi cả.
Liễu Y Ảo lại vẫy tay:
– Hiện tại, ta không có thì giờ dư để cho ngươi biết những chi tiết quanh vấn đề, ngươi đã lên đến đây rồi, hãy đi theo ta, ta cần đi ngay, nếu chậm trễ thì họ sẽ liên thủ đối phó với nhị sư tỷ ta, thành ra sự việc càng thêm khó khăn ...
Thốt xong, bà quay mình đi liền.
Quan Sơn Nguyệt vô cùng hoang mang, cấp tốc bước theo bà.
Đi được mấy bước, bỗng Liễu Y Ảo quay đầu lại, hỏi:
– Ngươi có nghe đau đớn gì nơi bàn tay chăng?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Nhờ thuốc của tiên nữ, tại hạ không còn nghe đau đớn chi nữa.
Liễu Y Ảo thở phào:
– Vậy là tốt! Bởi, trong chốc lát nữa đây, nếu sự tình diễn tiến không được thuận lợi lắm, thì ta không thể chiếu cố đến ngươi vẹn toàn, chính ngươi phải tự chiếu cố lấy mình.
Quan Sơn Nguyệt vừa kinh hãi vừa lấy làm lạ:
– Chuyện chi sẽ xảy ra? Tiên tử nói mơ hồ, tại hạ lo ngại quá chừng.
Liễu Y Ảo lại tiếp tục bước, vừa bước đi vừa thốt:
– Ngươi sẽ biết, trong phút giây đây, ta khỏi cần nói.
Dáng dấp của bà ta rất ung dung, song tốc độ thì thật là phi thường. Chẳng rõ khi bà phi hành thực sự, thì bà lướt đi nhanh đến bậc nào.
Quan Sơn Nguyệt phải cố gắng hết sức mình mới theo kịp. Vì bận vận công bước theo Liễu Y Ảo, chàng không thể phân tâm để hỏi gì thêm nữa.
Qua khỏi một gò cao rồi, chàng thấy trước mặt có một tòa kiến trúc óng ánh màu vàng lẫn xanh, hết sức huy hoàng. Nơi vọng lâu, có bốn chữ rất to, còn từ xa, chàng cũng đọc được rõ ràng:
«Tử Hư Tiên Phủ».
Phía trước tòa kiến trúc, có một khoảng đất rộng, trên khoảng đất trống đó, có hai nhóm người đang đối chiếu với nhau.
Trong hai nhóm, có một gồm vỏn vẹn hai người:
một lão bà tóc ngả màu sương, và lão nhân áo xanh, có cái hiệu Nhàn Du Nhất Âu, người đã đối thoại với Quan Sơn Nguyệt lúc còn ở dưới đất.
Còn nhóm kia có nhân số nhiều hơn, gồm lão áo xanh Kích Trúc Sanh, lão nhân áo đỏ, một người có thân vóc cao, ốm, vận áo đen, ba người này đều có xuống dưới đất, Quan Sơn Nguyệt nhận ra dễ dàng. Ngoài ra, lại có một già một trẻ, vận áo trắng, và thêm một nữ nhân rất xấu, vận áo đen.
Trong mỗi nhóm, có một người thủ kiếm, đối trận với nhau.
Như vậy, là hai nhóm đã bắt đầu khai diễn cuộc tranh chấp và mỗi người đại diện cho mỗi nhóm.
Một bên, là một mỹ phụ, tuổi lớn hơn Liễu Y Ảo, còn bên kia là một người mặc áo đỏ, dung mạo tuấn tú, đôi mắt rất sáng.
Nhất Âu trông thấy Liễu Y Ảo trở lại, vội bước tới, hỏi:
– Lôi Nhi và Đình Nhi đã phát hiện ra điều gì đó?
Liễu Y Ảo đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Chẳng có việc gì cả. Chính hắn lên đây, là kinh động hai con súc sanh đó.
Nhất Âu nhìn sang Quan Sơn Nguyệt, thở dài:
– Lão đệ cũng đến cái trường nhiệt náo này nữa! Không khéo rồi chúng ta sẽ là những bạn đồng hành trên con đường về âm cảnh! Lão phu đang hồi hộp lo sợ lão đệ đến, thì lão đệ lại đến!
Quan Sơn Nguyệt hoang mang:
– Việc gì quan trọng thế, tiền bối? Nghe nói gia sư đã đi rồi, có đúng vậy không?
Nhất Âu gật đầu:
– Đúng chứ! Lão ấy là con người thông minh, thấy rõ sự tình như thế nào, nên lánh mặt tìm cái thú tiêu dao bốn biển năm hồ, hưởng thung dung tự tại.
Nhưng, lão đi, lão bỏ lại bao nhiêu phiền phức cho bọn lão phu! Lão cũng ác, không chịu đi sớm, cũng chẳng chịu để cho xong việc rồi hẳn đi, lão đi đúng lúc sự việc mở màn.
Liễu Y Ảo nóng nảy ngăn lại:
– Đừng nói nhảm nữa, lão Âu!
Bà hỏi:
– Trong lúc vắng mặt ta, họ đã trao đổi nhau được mấy chiêu?
Nhất Âu đáp gấp:
– Ba chiêu. Lão phu xem ra, cũng còn một đoạn thời gian.
Liễu Y Ảo gật đầu không nói gì nữa.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi tiếp, Nhất Âu đã ra hiệu cho chàng đừng nói gì thêm. Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, tự hỏi sự tình quan trọng làm sao, mà tất cả đều nghiêm nghị và giữ vẻ thần bí tột độ như vậy. Nhưng, chàng không có thì giờ suy nghĩ, cuộc chiến giữa mỹ phụ và người áo đỏ hấp dẫn chàng ngay.
Động tác của họ rất chậm, cứ theo lời của Nhất Âu và Liễu Y Ảo, thì đây là một cuộc chiến định sự tồn vong của mỗi cánh, thế mà họ giao thủ cũng như họ đang luyện võ. Họ từ từ dịch chân, thay đổi tư thế, bộ vị, từ từ đưa tay phát xuất chiêu thức. Lạ lùng hơn nữa, là chiêu thức vừa thành hình, đưa ra được nữa tầm.
là họ thu về ngay.
Nếu không hiểu rõ tình hình căng thẳng giữa song phương thì ai ai cũng phải cho rằng đây là một cuộc biểu diễn vũ thuật hoặc để làm vui, hoặc để học hỏi, sửa chữa những sơ suất.
Những người dự khán, theo dõi cuộc biểu diễn với thần sắc cực kỳ trang nghiêm.
Và Quan Sơn Nguyệt thì chú ý hơn ai hết. Bởi, song phương biểu diễn những chiêu thức cực kỳ ảo, bình sanh chàng chưa từng trông thấy. Cuộc đấu của họ, sẽ mở rộng tầm kiến thức của chàng quan trọng, bảo sao chàng không lưu tâm theo dõi?
Quan Sơn Nguyệt suy đoán, mỹ phụ hẳn phải là sư tỷ của Liễu Y Ảo. Còn người mặc áo đỏ, giao đấu với bà ta, nếu không thuộc Ma Bảng thì cũng là người trong Quỷ Bảng.
Nhưng, chàng tin chắc người đó, thuộc Ma Bảng, bởi người trong Tiên Bảng, thường mặc y phục xanh, người trong Quỷ Bảng, mặc y phục màu đen. Và người trong Ma Bảng, mặc y phục màu hồng.
Từ lúc vào Thiên Tề Biệt Phủ của Kỳ Hạo, chàng chú ý đến sự ăn mặc của mỗi người xuất hiện trước mắt chàng, đến lúc lên Vu Sơn, tham dự Hội Long Hoa, chàng đã có sự nhận xét đó rất vững chắc rồi.
Cho nên, chàng nghĩ rằng sự ức độ này không sai lắm, và người đang đấu với mỹ phụ kia, hẳn là một nhân vật trong Ma Bảng. Và, nếu người đó thuộc Ma Bảng, thì hẳn y lãnh tụ của quần Ma. Chứ nếu không thì làm sao y có đủ tư cách đối trận với người trong Tiên Bảng.
Theo sự tiết lộ của Liễu Y Ảo thì tại Thiên Ngoại Thiên, có đủ ba hạng người:
Tiên, Ma, Quỷ. Họ đồng thuộc một tổ chức, cầm đầu ba bảng, họ chẳng khác nào là những người nhà, thế tại sao họ còn tranh chấp?
Họ tranh chấp với nhau, phải chi họ chỉ áp dụng cái lối ấn chứng vũ công suông, thì cũng chẳng có gì đáng nói. Ở đây, những chiêu thức họ đưa ra, toàn là những chiêu giết người, dù họ đưa ra nửa tầm về thu về, song kiếm khí phát huy vẫn có thể giết người được như thường.
Như vậy, là một trường tử chiến! Họ đang làm một cuộc đồng môn đồng hội tương tàn!
Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô cùng, do đó chàng hết sức chú tâm theo dõi cuộc đấu.
Qua những thế công và thủ của song phương, Quan Sơn Nguyệt thức ngộ được chỗ tuyệt diệu của đấu pháp mà họ áp dụng, hơn thế, chàng còn tìm được giải đáp những thắc mắc từ lâu chàng không biết phải hỏi nơi ai. Như thế, chứng kiến những cuộc giao đấu như thế này, chàng thu thập những kinh nghiệm rất quý báu, tưởng chừng suốt đời chàng không có một dịp may nào mở rộng kiến thức một cách đầy đủ bằng dịp này.
Tại cuộc đấu, song phương lại trau đổi nhau thêm năm sáu chiêu nữa. Sử dụng mấy chiêu thức đó, họ cần đến một khoảng thời gian độ nữa khắc.
Theo chỗ nhận xét của Quan Sơn Nguyệt, thì người trung niên áo đỏ có vẻ chiếm ưu thế. Y công nhiều hơn thủ. Còn mỹ phụ thì phòng vệ hết sức cẩn mật, thủ nhiều hơn công nhờ vậy, đối phương dù thắng thế, vẫn chưa làm gì bà ta nổi.
Liễu Y Ảo vô cùng khẩn cấp, chừng như bà không thể chịu đựng nổi cái cảnh dằng dai đó kéo thêm dài, cao giọng hỏi:
– Tại sao sư tỷ không thi triển «Đại La Thất Thức»?
Mỹ phụ tại cục diện như chẳng nghe bà ta gọi.
Người trung niên áo đỏ cười nhẹ, thốt:
– Tuy «Đại La Thất Thức» là một kiếm pháp tinh vi, song do các vị phát xuất thì tại hạ chẳng xem ra gì. Cho các vị biết, trừ Lâm Hương Đình ra, tại hạ chẳng hề ngán một tay kiếm nào cả!
Liễu Y Ảo sôi giận:
– Tạ Linh Vận! Ngươi đừng tự đắc thái quá! Ngươi có thấy khi nào «Tu La Tứ Thức» của ngươi làm cho chị em ta ngã chăng?
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới biết được người trung niên áo đỏ có cái tên là Tạ Linh Vận.
Tạ Linh Vận bật cười ha hả:
– Các vị không ngán, chẳng phải là kiếm pháp «Tu La Tứ Thức» của tại hạ kém lợi hại. Chẳng qua, tại hạ không muốn cho Lâm Hương Đình thấy chỗ sơ hở, nên không phát huy kiến pháp đó đúng mức tinh vi. Giờ đây, Lâm Hương Đình vắng mặt giả như các vị không phục, thì xin cứ thi triển «Đại La Thất Thức», tại hạ dám quyết là chỉ đến chiêu thứ ba của môn «Tu La Tứ Thức» thôi, các vị sẽ bị đánh rơi kiếm và cúi đầu nhận bại.
Y nhìn thẳng vào mặt mỹ phụ, tiếp nối với giọng ngạo nghễ:
– Lý Trại Hồng! Ta khuyên ngươi nên trao «Tru Tiên Lịnh» đây cho ta, ngươi ngoan cố đến đâu rồi cũng phải trao thôi, tốt hơn nên trao trước, để tránh khỏi cái nhục bại chán chường.
Y giở cái giọng của kẻ thắng thế, không còn giữ lễ dùng sáo ngữ như trước.
Quan Sơn Nguyệt lại được biết thêm tên mỹ phụ là Lý Trại Hồng. Chàng nhận thấy, hơi thở của bà bắt đầu mất điều hòa rồi, điều đó chứng tỏ chân khí của bà tiêu hao phần lớn.
Nghe Tạ Linh Vận bảo thế, bà cắn răng, cố dằn cơn phẫn uất, hỏi:
– «Tru Tiên Lịnh» về tay ngươi, thì liệu chúng ta sẽ còn sống sót được mấy hôm chứ? Ta biết rõ, ngươi nuôi dưỡng tham vọng đó từ lâu lắm rồi, ngày qua ngày, ngươi hằng mơ tưởng chiếm cho được «Tru Tiên Lịnh», song, cho ngươi biết, chẳng phải dễ dàng như ngươi tưởng đâu!
Tạ Linh Vận cười lớn:
– Vì tình đồng môn, ta không nở sát hại các ngươi đó thôi, chứ nếu ta muốn, thì việc đó có khó khăn gì? Tuy nhiên, ngươi yên trí, chiếm được «Tru Tiên Lịnh» rồi, ta sẽ dành cho các ngươi mọi dễ dãi, ta không đến đối xử khắc nghiệt với các ngươi đâu, dù trước kia, các ngươi chẳng xử tốt gì đối với ta.
Lý Trại Hồng cao giọng:
– Đừng nuôi mộng, Tạ Linh Vận! Ngươi muốn đoạt «Tru Tiên Lịnh», thì cứ chờ sau khi ta chết! Chỉ khi nào ta chết đi, ngươi mới thực hiện vọng tưởng của ngươi được! Ta còn một hơi thở, quyết không chịu nhục.
Tạ Linh Vận bĩu môi:
– Sao gọi là nhục được, hở Lý Trại Hồng? Sự giao tình của chúng ta đã trải qua mấy mươi năm rồi, dù muốn dù không chúng ta vẫn là người thân với nhau, đối với người thân, có ai nỡ quyết liệt thái độ. Ngươi quên sao, trước kia chúng ta đối với nhau như thế nào? Từ ngày sư phụ quy tiên, Lâm Hương Đình thừa kế đại quyền, các ngươi đã bắt đầu khinh miệt ta rồi ...
Lý Trại Hồng hét:
– Ngươi còn mặt mũi nào nhắc lại chuyện ngày trước ...
Tạ Linh Vận bật cười ha hả:
– Tại sao ta không thể nhắc đến việc cũ? Trước kia sư phụ còn tại thế, người ức chế ta, chẳng cho ta xuất toàn lực giúp các ngươi, bây giờ thì khác, ta có trọn quyền hành động theo ý muốn của ta, nhất định ta không để các ngươi thất vọng đâu.
Y tiếp trợ gì Lý Trại Hồng? Câu nói của y đầy bí mật, y đang tử đấu với bà, mà y nói rằng đã đến lúc tự do tiếp trợ bà, không để cho bọn của bà ta thất vọng!
Thế là nghĩa gì chứ? Và, trước kia, họ có cảm tình với nhau như thế nào?
Chỉ biết, nghe nói như thế, Lý Trại Hồng lại càng sôi giận, bà vung tay nhanh hơn trước, thanh trường kiếm trong tay bà rít gió vụt vù.
Tạ Linh Vận cử kiếm, hất thanh kiếm của Lý Trại Hồng qua một bên, đoạn cười mỉa, thốt:
– Ngươi chẳng còn chiêu thức gì khá hơn sao, lại đánh ra cái chiêu chẻ củi như thế?
Y quét kiếm một vòng tròn, bật cười ha hả tiếp:
– Đã đến lúc ngươi trao «Tru Tiên Lịnh» cho ta đó! Đừng kéo dài thời gian vô ích, chẳng một nhiệm mầu nào đến với ngươi đâu, mộng thì bao giờ cũng là mộng, mộng chẳng cứu vãn tình hình được!
Y hất kiếm hơi mạnh tay một chút, Lý Trại Hồng nghe chấn động bàn tay, kiếm bay đi, rơi xuống bên ngoài.
Hiện tại, trước vòng tròn kiếm ảnh của địch, bà ta trở thành tay không, cái nguy đã hiện ra trước mắt.
Tuy nhiên, bà quật cường cực độ, bà ta không lùi, không nhẩy qua bên này hoặc bên kia né tránh, bà ngẩng cao đầu, thốt oang oang:
– Ta không giao. Ngươi giết ta, ta cũng không giao!
Bên ngoài, Liễu Y Ảo và Nhất Âu hết sức khẩn trương, nhưng cả hai không dám vào cuộc.
Tạ Linh Vận vung kiếm uy hiếp không ngừng, đồng thời cao giọng ngạo nghễ:
– Nhất định ta phải lấy cho bằng được «Tru Tiên Lịnh», ta cần chiếm nó để thống trị toàn thể nhân vật trong ba bảng, ta sẽ là bậc chí tôn tại Thiên Ngoại ...
Lý Trại Hồng không sợ, cất tiếng chận y:
– Đừng nuôi mộng! Ngươi có thể giết ta, chứ đừng hy vọng đoạt được «Tru Tiên Lịnh». Không có vật đó, ngươi không thể chỉ huy toàn thể nhân số của ba bảng. Ít nhất cũng có hơn nửa số người, bất luân lịnh ngươi.
Tạ Linh Vận cười lạnh:
– Ngươi muốn chết, ta cho chết! Ta giết ngươi trước rồi việc chi khác ta sẽ giải quyết sau!
Lý Trại Hồng bật cười cuồng dại:
– Giết ta, ngươi thu hoạch được lợi ích gì?
Tạ Linh Vận cười mỉa:
– Giết ngươi, là trừ diệt kẻ chấp chưởng «Tru Tiên Lịnh», ta thay người chỉ huy toàn nhân số ba bảng, dù chẳng lấy được «Tru Tiên Lịnh», ta vẫn chỉ huy như thường, kẻ nào bất tuân, ta hạ sát.
Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:
– Nếu có nhiều người bất tuân? Ngươi cũng giết hết?
Tạ Linh Vận bĩu môi:
– Tại sao ta không thể giết hết? Ta chỉ cần nửa số theo về ta thôi! Với nửa số đó, ta sẽ truy tầm những kẻ bất tuân mà hạ sát, dù họ có trốn lên trời, chưa chắc thoát khỏi tay ta!
Lý Trại Hồng cười lớn:
– Ngươi dám làm một việc như vậy à? Đại sư tỷ ngày nay tuy đã tìm nơi cô tịch, quy ẩn, không còn màng đến những tranh chấp nhỏ nhen, song nếu nghe được ngươi buông lung dã tánh, người sẽ trở về, hỏi tội ngươi! Ta chỉ sợ ngày vui của ngươi quá ngắn, mà rồi ngươi sẽ phải mãi mãi lo âu đến phút thở hơi cuối cùng!
Tạ Linh Vận thoát giật mình. Câu nói của Lý Trại Hồng rất đúng, chính y cũng đã nghĩ đến hậu quả của việc làm hôm nay, dù rằng y có thắng được Lý Trại Hồng, dù rằng y có chiếm được «Tru Tiên Lịnh», chỉ huy toàn thể nhân vật trong ba bảng, giành ngôi vị độc tôn tại Thiên Ngoại Thiên, sự tình đó, bất quá chỉ có tánh cách tạm thời, bởi rất có thể Lâm Hương Đình trở lại trong một ngày nào đó, hoặc gần, hoặc xa, nhưng nhất định phải có và Lâm Hương Đình sẽ đoạt lại chiếc tín phù, phục hồi nguyên vị độc tôn, còn y thì từ ngôi vị độc tôn trở về hàng ngũ quần ma!
Như vậy là nhục!
Y suy tư một lúc lâu, với thái độ ngang ngạnh, thốt liều:
– Ta bất chấp hậu quả như thế nào, ta cứ giết, giết tất cả bọn ngươi, ta lấy được «Tru Tiên Lịnh» rồi, dù sao Lâm Hương Đình cũng phải bái phục trước «Tru Tiên Lịnh» như mọi người, bà ấy dám vi lịnh ta sao?
Lý Trại Hồng cười lạnh:
– «Tru Tiên Lịnh» bất quá là một tín phù, một vật tượng trưng uy quyền điều khiển một tổ chức, một đoàn thể, không hơn không kém! Giả như tất cả bọn ta không tôn trọng vật đó, thì nó sẽ trở thành một vật vô dụng. Ta đưa ra một chứng minh, cho ngươi thấy rõ là tín phù không đảm bảo một uy quyền tuyệt đối, bất di bất dịch. Hiện tại, ta chấp chưởng nó, mà trước mặt ta, ngươi vẫn phóng túng, ngông cuồng, chẳng hề nể trọng ta, thì dù ngươi chiếm được nó rồi, một ngày kia, đại sư tỷ ta trở về, ngươi có đưa tín phù ra, vị tất đại sư tỷ ta tuân phục. Ta giữ lịnh phù, ta không ức chế được ngươi, thì đến lúc ngươi giữ nó, liệu ngươi ức chế nổi đại sư tỷ ta chăng?
Tạ Linh Vận bật cười ha hả:
– Ngươi lầm! «Tru Tiên Lịnh» không hề ước thúc ta trong một giới hạn nào cả, nhưng đối với Lâm Hương Đình thì lại khác, bà ấy dùng Lịnh bài ước thúc người trong ba bảng, bà phải trọng nó, nếu sau này bà không trọng nó, dám chống đối ta, thì chính là bà phá kỷ luật, dù bà chiếm nó lại được từ nơi tay ta, bà cũng chẳng mong dùng nó mà ức chế mọi người, bởi bà phủ nhận cái giá trị của lịnh bài khi nó ở tay ta, tự nhiên nó mất giá trị luôn, khi về tay bà ta! Còn như, quả thật bà còn tôn trọng nó, thì khi ta đưa nó ra, bà phải cúi đầu tuân lịnh ta. Như vậy, ta có sợ gì bà ấy chống đối?
Lý Trại Hồng cao giọng mắng:
– Ngươi đúng là một tên vô sỉ! Ta chẳng hiểu tại sao lúc trước sư phụ lại thu nhận ngươi làm đệ tử! Thật là một tủi nhục cho ta mang tiếng bạn đồng môn với ngươi!
Tạ Linh Vận lộ vẻ đắc ý rõ rệt, bật cười ha hả:
– Ngươi lầm to! Ngươi cứ tưởng sư phụ là một nhân vật quang minh chánh đại, đánh kính, đáng tôn? Ngươi có biết đâu sư phụ lại là người bại hoại nhất trần đời? Bởi là con người bại hoại, nên sư phụ mới sáng lập ra cái thứ hội quái dị như Long Hoa Hội này! Trong giang hồ chẳng có một bang, một hội, một môn, một phái nào có cái tà khí bằng Long Hoa Hội! Tà khí đến quy luật, sư phụ dụ hoặc người ngoài vào hội, lại đưa cả người trong sơn môn vào hội, do đó các ngươi mới thành hội viên Long Hoa Hội! Ngươi biết đâu, sư phụ là một tổ sư ma đạo, chẳng rõ trong những năm sau cùng, người sanh cái chứng tật gì, lại bỗng nhiên thích được liệt mình vào hàng tiên ông, tiên bà rồi gia công tập luyện, gia công nghiên cứu phương pháp thành tiên, tập luyện mãi, nghiên cứu mãi, đến phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma phải mất mạng. Người trao «Tru Tiên Lịnh» cho Lâm Hương Đình, cai quản ba bảng Tiên, Ma, Quỷ, chẳng qua người muốn duy trì cái tà niệm do ma tâm phát sanh. Cho nên, Hội Long Hoa này, sở dĩ còn tồn tại, là chỉ để duy trì cái tà niệm của sư phụ, không hơn không kém! Hội, chẳng giúp ích cho đời, hội chẳng giúp ích cho người, hội còn tồn tại là để làm vui linh hồn người chết!
Lý Trại Hồng biến sắc, hét vang:
– Ngươi đừng bịa chuyện nói xấu sư phụ! Muốn giết ta ngươi cứ hạ thủ, còn về «Tru Tiên Lịnh», ngươi đừng hy vọng vô ích. Ta đã chôn giấu nó ở một nơi an toàn, vĩnh viễn ngươi chẳng bao giờ đoạt được nó đâu!
Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:
– Đừng nói nhảm! Ta sẽ lục soát kỹ trọn tòa Tử Hư Thiên Phủ, ta sẽ đào sâu xuống lòng đất lạnh, nếu cần, ta đập vỡ từng viên đá, từng mảnh ngói thử xem ngươi giấu «Tru Tiên Lịnh» ở chỗ nào?
Lý Trai Hồng ưỡn ngực, vỗ tay vào đó thình thịch, thách:
– Thì ngươi cứ lục soát!
– Ngươi có bằng lòng trao ra cho ta hay không thì bảo?
Lý Trại Hồng quát trả:
– Không!
Đôi mắt của Tạ Linh Vận long lên, hung quang bắn ra, sáng ngời. Cánh tay y vung mạnh, thanh trường kiếm chớp chớp theo, gió rít vù vù. Kiếm khí bốc bốc ra, cuộn cuộn, ai ai cũng trông thấy rõ. Kiếm khí cuốn vút tới, cuốn vút tới, rọc nát ngực áo của Lý Trại Hồng, bày làn da trắng mịn của bà ta.
Từ lúc song phương giao thủ đến bây giờ, những người đứng bên ngoài lạnh lùng theo dõi cuộc đấu, chẳng ai biểu hiện một cảm nghĩ nào chứng tỏ là cái ý thiên về bên này hay bên kia, chỉ có Nhất Âu và Liễu Y Ảo lộ vẻ căm phẫn rõ rệt.
Những người lạnh lùng, không nói tiếng nào đã đành, đến những người căm phẫn, cũng chẳng nói chi cả. Thật là một sư kiện quái lạ!
Người trong cuộc, hẳn phải có bằng hữu, ở bên ngoài đứng xem chứ. Thế tại sao chẳng ai có thái độ gì, bênh vực bằng hữu, chống đối kẻ địch? Hay là cái quy luật tà ma bắt buộc mọi người phải im lặng?
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt, là người ngoài hội, không hề bị ràng buộc do bất cứ quy điều nào của cái hội lạ kỳ này, gia dĩ vốn tính cương trực, chàng không chịu nổi thái độ khiếm nhã của Tạ Linh Vận, cao giọng hỏi:
– Ngươi là người, hay là quái vật lại chẳng biết liêm sỉ? Trên thế gian này, tại sao có cái thứ nam nhân như ngươi? Ngươi lăng nhục một nữ nhân mà chẳng thẹn mình à? Khoát cái lốt tu mi nam tử mà hành động như thế, thật là hèn!
Tạ Linh Vận khinh thường, «xì» một tiếng:
– Tiểu tử từ đâu đến, dám nói năng cuồng loạn thế? Ngươi muốn chết gấp phải không?
Quan Sơn Nguyệt cất giọng sang sảng:
– Ta là Minh Đà truyền nhân! Ta là đệ tử của Hoàng Hạc Tán Nhân! Ta đến để trừ diệt một ác ma như ngươi!
Chàng cúi xuống, nhặt thanh trường kiếm do Lý Trại Hồng vuột tay đánh rơi.
Đoạn, chàng khoa thanh kiếm một vòng, nhún chân nhảy vọt tới.
Quan Sơn Nguyệt đột nhiên can thiệp, làm cho một số người tại cục trường cả kinh, thất sắc. Và người bị kích thích nhiều hơn hết, chính là Liểu Y Ảo. Bà vừa lướt theo phía sau, vừa gọi to:
– Trở lại mau! Ngươi ra đó là chẳng khác nào tìm đường về âm cảnh!
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vì nghĩa khí mà sanh phẫn nộ, cái trí làm trai đã bừng dậy rồi, khi nào chàng vì một lời cảnh cáo buông xuôi mà thay đổi thái độ?
Trái lại, lời cảnh cáo đó còn chạm nặng tự ái của chàng, lời cảnh cáo đó không làm chàng chùn lòng, mà có cái tác dụng đẩy mạnh chàng tới bước.
Cách Tạ Linh Vận độ nửa trượng chàng dừng chân, chỉ thẳng mũi kiếm vào mặt đối tượng, cất giọng oai nghiêm, thốt:
– Ác ma! Có thể tài nghệ của ta chẳng sánh bằng vũ công của ngươi.
Nhưng, một con người ác độc như ngươi, phàm ai ai cũng có bổn phận diệt trừ, dù ta không giết được ngươi, ta có thể chết dưới tay ngươi, ta cũng biểu dương cái chánh khí của hạng quân tử!
Tạ Linh Vận sững sờ, không tưởng là một tiểu tử dám buông tính ngông cuồng đến mức độ đó. Tức uất, thì bất quá chàng nói một vài câu, cho đỡ tức, chứ làm gì có can đảm tuốt kiếm thách thức y? Y quay đầu nhìn lại phía sau, hỏi:
– Tiểu tử đó từ đâu đến?
Những người đứng phía sau y chẳng một ai biết Quan Sơn Nguyệt. Họ không hiểu chàng là ai, thì làm sao họ đáp lời Tạ Linh Vận? Dù Quan Sơn Nguyệt có xưng danh rồi, y vẫn còn hỏi như vậy, thế là nghĩa gì? Y không tin lời Quan Sơn Nguyệt sao? Y không tin, những người kia cũng chẳng ai biết Quan Sơn Nguyệt, thì còn ai dám xác nhận lời chàng? Do đó mọi người im thin thít.
Liểu Y Ảo thấy thế, vội lên tiếng:
– Hắn là đồ đệ của Hoàng Hạc Tán Nhân đấy. Ngươi chạm đến hắn, thì đừng trách sau này Hoàng Hạc và đại sư tỷ ta trở lại, hỏi tội ngươi!
Tạ Linh Vận bật cười lớn:
– Hoàng Hạc Tán Nhân xưa nay từng tỏ ra là người rất cẩn thận, cớ sao lại thu nhận một gã vô dụng làm đệ tử ...
Quan Sơn Nguyệt hét chận liền:
– Ác tặc câm miệng lại! Hãy bước gấp tới đây, ta đưa về gấp chầu tiên tổ!
Tạ Linh Vận vẫn cười vang, cười cuồng dại, thanh trường kiếm trong tay, y chỏi mũi xuống đất, y không buồn nhìn chàng đến nửa mắt.
Quan Sơn Nguyệt không chịu nổi cái vẻ khinh khỉnh đó, quát lớn:
– Ác tặc! Thủ kiếm ngay, ta tấn công đây!
Tạ Linh Vận ngưng cười, bây giờ y mới nhìn chàng, lạnh lùng thốt:
– Tiểu tử ơi! Nếu ta so kiếm với ngươi, thì thật là tủi hổ cho cái đời luyện võ của ta quá chừng!
Y cao giọng gọi:
– Kích Trúc Sanh đâu, ta giao tiểu tử cho ngươi đó!
Kích Trúc Sanh ứng tiếng, bước tới cạnh y, y trao thanh kiếm cho Kích Trúc Sanh, cười lạnh, thốt:
– Trong vòng ba chiêu ngươi chẳng làm gì nổi tiểu tử thì ngươi đừng chường mặt tại cái Hội Long Hoa này nữa!
Kích Trúc Sanh thản nhiên tiếp nhận thanh kiếm, cái vẻ dửng dưng của lão ta chứng tỏ lão khinh thường Quan Sơn Nguyệt. Lão bước ra, đối diện với Quan Sơn Nguyệt, gọi chàng:
– Tiểu tử! Xuất chiêu đi! Tu La Tôn Giả hạn định cho ta ba chiêu, ta thấy cái số đó quá thừa! Bây giờ, ta tuyên bố là với một chiêu thôi, ta sẽ lấy đầu ngươi, nếu ta chẳng làm nổi việc đó, thì ta phải nạp mạng cho ngươi!
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Các hạ lui về đi, tại hạ không muốn động thủ với các hạ! Tại hạ chỉ thích sát hại lão ác ma kia thôi, các hạ là người vô can, nên tránh xa ngoài vòng tranh chấp với tại hạ.
Kích Trúc Sanh sôi giận, trầm giọng tiếp:
– Tu La Tôn Giả đâu có cái hứng thú so kiếm với một gã hậu sanh? Chính ta đây, bị bức bách phải trừng trị ngươi, chứ thực ra thì sao có xứng đối tượng mà ta xuất thủ?
Quan Sơn Nguyệt quay nhìn về phía hậu, cao giọng hỏi bâng quơ:
– Có nên giết lão ấy chăng?
Nhất Âu đáp nhanh:
– Phàm những kẻ đứng về phía đó, đều đáng tội chết cả, càng giết được nhiều, càng hay.
Quan Sơn Nguyệt trở lại nhìn Kích Trúc Sanh gật đầu:
– Cũng được! Ngươi muốn chết, ta cho chết, thu dọn ngươi rồi, ta sẽ tính đến cái lão kia. Bất quá, ta phải chậm lại mấy giây thôi!
Kích Trúc Sanh sôi giận đến xanh mặt, hoành kiếm ngang ngực trả đũa liền:
– Tiểu tử hãy chuẩn bị gấp, nếu không e trễ giờ tốt lên đường về Quỷ Môn Quan đấy!
Quan Sơn Nguyệt không đấu miệng nữa, sang qua giai đoạn đấu kiếm.
Chàng phát xuất một chiêu.
Thanh kiếm dài độ ba thước, kiếm ảnh chớp lên, nối dài thêm một khoảng, cong độ nửa trượng.
Kích Trúc Sanh cười lạnh, vung kiếm nghinh đón.
Hai ánh thép chớp lên, chớp rồi tắt nhanh, song phương lui lại, mỗi người một bước.
Tại sao? Hai thanh kiếm không hề chạm nhau, mà cả hai cùng lùi bước?
Tại cục trường, ai ai cũng kinh dị, trước hiện tượng lạ lùng đó. Giải thích trường hợp, chỉ có mỗi một lý do, là song phương thu hồi chiêu thức khi chiêu thức được phát xuất nửa tầm nhưng lý do đó không vững, bởi bên nào cũng quyết liệt, bên nào cũng muốn hạ sát đối tượng qua một chiêu đầu thôi.
Thực ra, sở dĩ song phương cùng lùi lại, là vì chiêu kiếm của Quan Sơn Nguyệt cao minh trên hẳn chỗ tưởng của mọi người.
Những tay kiếm siêu việt khác, thường sở cậy kiếm khí kích đối phương, chẳng hạn như Tạ Linh Vận vừa rồi, dùng kiếm khí rọc nát ngực áo của Lý Trại Hồng, mà không cần phóng kiếm chạm đích.
Quan Sơn Nguyệt cũng thế, song chàng sở cập kiếm ảnh.
Vung kiếm lên, kiếm ảnh phát sanh, kiếm ảnh và thân kiếm như hoà hợp nhau thành một, vừa hữu hình mà cũng vừa vô hình, biến thanh kiếm thành dài ra, có thể gây thương thế cho địch ngoài tầm thông thường của một kiếm. Như vậy, chàng không cần gần địch trong khoảng cách thông thường đó, cho nên hai thanh kiếm chẳng hề chạm nhau, và chàng vẫn chạm trúng đối tượng dễ dàng. Có điều, chạm trúng địch rồi, chàng lùi lại một bước, bảo trì cái tư thế vững chắc, vì vậy, song phương cùng lùi cả, và người ngoài cuộc chẳng ai biết tại sao.
Còn Kích Trúc Sanh lùi lại là lẽ đương nhiên, bởi lão ta đã lãnh một vết kiếm nơi ngực, máu rỉ ra, thấm đỏ áo nơi đó, vết máu không lớn lắm, nhưng ai ai cũng trông thấy rõ. Lão biến sắc mặt, sững sờ một lúc, sau cùng lão hét to lên:
– Được rồi, tiểu tử! Ta giữ lời hứa, trao tánh mạng ta cho ngươi đây.
Lão hoành kiếm, chỉ mũi ngay ngực, sắp sửa đâm ngược vào.
Tạ Linh Vận nhanh như chớp, vọt mình tới, dùng ngón tay búng bay thanh kiếm.
Kích Trúc Sanh sững sờ, một phút sau, niềm thống khổ hiện lên gương mặt, lão kêu khẽ:
– Tôn giả ơi! Lão phu còn mặt mũi nào sống sót nữa?
Tạ Linh Vận lắc đầu:
– Ngươi không đáng trách. Lỗi tại ta, ta xem thường tiểu tử nên mới có sự đó!
Rồi y tự lẩm nhẩm:
– Không ngờ tiểu tử có vũ học cao thâm như thế! Hắn cũng giỏi che dấu năng lực tiềm tàng, đến ta mà vẫn không thấu đáo, thì còn ai có nhãn lực nhận ra thực tài của hắn? Chiêu kiếm của hắn, nếu chính là ta ở địa vị của Kích Trúc Sanh, vị tất ta tránh khỏi?
Y tự thốt, song Quan Sơn Nguyệt nghe lọt. Chàng cao giọng hỏi:
– Chuẩn bị đi, ta sắp xuất phát chiêu thứ hai đây!
Một tia sáng quái dị chớp lên trong đôi mắt của Tạ Linh Vận. Y «hừ» nhẹ một tiếng, đoạn đáp:
– Tiểu tử đừng vội buông tính ngông cuồng, dù rằng ngươi đắc thủ qua chiêu kiếm đó, song sự kiện không đủ làm cho ngươi hãnh diện đâu. Kích Trúc Sanh sơ suất, mới tạo dịp cho ngươi thành công, chứ gặp bổn Tôn giả rồi, ngươi đừng hòng thi thố một điểm nghệ thuật nhỏ. Cái điều ta lạ lùng, là Hoàng Hạc làm gì tạo được một truyền nhân như ngươi? Ta biết chắc lão ấy chẳng bao giờ lãnh hội được một kiếm pháp cao minh như ngươi vừa thi triển?
Y dừng lại một chút, tiếp hỏi:
– Theo ta hiểu, kiếm pháp của ngươi, chẳng phải do Hoàng Hạc truyền thọ.
Thế ai chỉ điểm cho ngươi?
Quan Sơn Nguyệt cười lớn:
– Ta nói ra, đã chắc gì ngươi chịu tin? Thực sự chiêu thức đó, một phần do ngươi truyền thọ, còn phần kia thì do Lý Trại Hồng Tiên Tử!
Tạ Linh Vận sôi giận, quát:
– Tiểu tử đừng vọng ngôn! Bình sanh ta có biết ngươi là ai đâu ...
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Ngươi quên rằng vừa rồi ngươi giao đấu với Lý Tiên Tử à? Ta đứng bên ngoài xem cuộc đấu, nhận xét chiêu hay, phê phán chiêu dở, ta dung hoà hai kiếm pháp làm một, nghĩ ra những chiêu kỳ lạ, đối phó với các ngươi. Như vậy không phải do ngươi và Lý Tiên Tử truyền thọ, thì là gì chứ?
Tạ Linh Vận biến sắc, ấp úng:
– Tiểu tử ... nói thật?
Quan Sơn Nguyệt cười lớn:
– Không thật thì dễ thường ta đùa với ngươi à? Ta đâu có thì giờ thừa thải để đùa với ngươi? Nghe ngươi nói thế ta đoán ra công phu tu dưỡng của ngươi về kiếm thuật chưa được thâm hậu cho lắm, ngươi còn lâu mới đạt đến mức hỏa hầu!
Chàng dừng lại một chút rồi nghiêm giọng tiếp:
– Ngươi bình tâm, nhận xét chiêu kiếm vừa rồi của ta, tự nhiên ngươi hiểu rõ mà chẳng cần hỏi ta học nơi ai.
Tạ Linh Vận sững sờ, trầm ngâm một lúc. Sau cùng, y gật đầu, thốt:
– Được rồi! Ta muốn xem ngươi học lén lút được bao nhiêu ngón nghề!
Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:
– Câu nói của ngươi chứng tỏ cái trí của ngươi còn thấp quá! Phàm một kiếm pháp cao minh, nào có phải do quy tắc, hình thức mà cao minh. Quy tắc, hình thức, chẳng qua là một phương tiện chỉ dẫn cách tập luyện thôi, còn kiếm pháp có biểu hiện được sự cao minh hay không, là do người lãnh hội, do cái mức lãnh hội của người học tập. Ngươi đánh ra một chiêu, cái chiêu đó có phát huy được chỗ linh diệu hay không là do linh khiếu của ngươi, chứ nào phải tại chiêu?
Ta nhìn hình thức của chiêu, chứ ta có nhìn được chỗ linh diệu đâu? Về chiêu thức, thì ai ai cũng tập được, về linh diệu thì chẳng phải mỗi người mỗi lãnh hội.
Ngươi và ta đánh ra một chiêu giống nhau, cũng như bất cứ ai có học kiếm cũng biết đánh những chiêu thức giống nhau, song điểm linh diệu thì ở mỗi người mỗi có mức độ, do tư chất, ta dù có hơn ngươi, cũng bằng vào tư chất đó, chứ nào phải ta học lén nơi ngươi đâu? Cho ngươi biết, chiêu thức của ngươi đánh ra còn thô sơ lắm đó, ta phải sửa chữa lại cho toàn thiện toàn mỹ mới mang ra xử dụng được!
Chàng kết luận với giọng châm chích:
– Nghĩ cho cùng, kiếm pháp của ngươi ở mức sơ đẳng!
Trước mặt đông người, bỗng nhiên lại bị Quan Sơn Nguyệt chỉ trích, khinh miệt, Tạ Linh Vận phải tức uất, y vung tay, thanh kiếm do Kích Trúc Sanh bõ rơi trên mặt đất bay lên, y chụp thanh kiếm, đoạn quát lớn:
– Tiểu tử khéo khua môi, dùng cường từ toan đoạt lý, cái tội của ngươi khinh thường hạng tiền bối đáng bị trừng trị lắm! Hãy thưởng thức «Tu La Tứ Thức» của ta đây!
Liểu Y Ảo hấp tấp kêu lên:
– Tu La? Ngươi mặt dày mày dạn đến thế à? Ngươi định mang cả «Tu La Tứ Thức» ra đối phó với hắn?
Tạ Linh Vận bật cười hắc hắc:
– Tiểu muội ơi, từ bao lâu rồi ta không hề thấy ngươi đối với nam nhân nào tỏ ra quan tâm như vậy. Hôm nay ngươi cho thấy cái điểm đặc biệt đó! Ta tưởng ngươi cũng biết hắn là đệ tử của Hoàng Hạc, và biết như vậy thì cũng nên giữ sao cho cái tôn ti đừng loạn.
Lão ta nói thế tức nhiên Liểu Y Ảo còn trẻ tuổi, có trẻ tuổi thì Tiên tử mới bị lão ghép với Quan Sơn Nguyệt. Còn nhỏ tuổi Liểu Y Ảo đâu có thể là tiền bối của Quan Sơn Nguyệt?
Thế ra chàng gọi Tiên tử với cái tiếng bà là sai, và chàng phải gọi là cô nương mới đúng.
Chẳng qua con người luyện vũ công thường giữ được cái nhan sắc lúc cao niên như hồi thanh xuân, vũ công càng cao thì nhan sắc càng giữ được lâu dài, cho nên những nữ nhân trong lứa tuổi trên dưới bốn mươi còn trẻ đẹp như lúc trên dưới đôi mươi.
Liểu Y Ảo xanh mặt, nghiến răng ken két, vì giận quá nên Tiên tử chẳng thốt được tiếng nào.
Tạ Linh Vận bật cười hăng hắc, tiếp luôn:
– Trong bao nhiêu năm qua, ta hằng tưởng một biện pháp nào gây cho ngươi một sự thương tâm. Hôm nay cái cơ hội đã đến với ta.
Quan Sơn Nguyệt nghe y càng phút càng nói những tiếng khó để lọt vào tai, bất giác phẫn nộ, hét lên một tiếng, vung kiếm liền.
Kiếm chớp, người chớp, ánh kiếm xẹt ra bóng người cũng vọt theo.
Trong chớp mắt, chàng đánh ra năm nhát, oai lực hùng mãnh phi thường, chiêu thức cực kỳ quái dị.
Tạ Linh Vận tuy đón đở được đủ cả năm chiêu, song không giấu nỗi sự lúng túng. Y hấp tấp kêu lên:
– Tiểu tử! Kiếm pháp gì mà lạ thế?
Quan Sơn Nguyệt luôn tay vung kiếm đồng thời mỉa:
– Đôi mắt của ngươi to thế mà cũng không nhận ra sao?
Tạ Linh Vận vừa hoá giải một chiêu kiếm của Quan Sơn Nguyệt, vừa hét:
– Thì ra tiểu tử dùng «Kim Thần Thập Bát Thức» của lão Hoàng Hạc, sửa đổi một chút để che mặt ta!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm phục nhãn lực của đối tượng rất tinh vi.
Đúng như Tạ Linh Vận nói, chàng vừa xử dụng kiếm pháp «Kim Thần Thập Bát Luân» của Độc Cô Minh, song chàng đánh loạn lên, đảo ngược cả quy tắc.
Sở dĩ chàng phải đánh loạn như vậy, chẳng phải do ý muốn mà là vì sự thể chẳng đặng đừng, Kim Thần là vật nặng, kiếm là vật nhẹ, dùng vật nhẹ mà thi triển một môn công của vật nặng, tự nhiên khó dung hoà, và không tránh khỏi vấp váp ít nhiều lộ liễu.
Quan Sơn Nguyệt biết rõ đối phương có vũ công rất cao, nên cố gắng dụng mọi sơ hở, thế mà vẫn không tránh khỏi sự nhận định của Tạ Linh Vận.
Chàng phải kinh sợ đối phương, song ngoài mặt duy trì sự bình tĩnh, cười lạnh thốt:
– Ngươi tự hào là một danh gia, sao lại nói năng nông cạn như thế?
Tạ Linh Vận giật mình:
– Không lẽ ta đoán sai? Hai mươi năm trước đây, Hoàng Hạc đã xử dụng «Kim Thần Thập Bát Luân», vượt qua «Lôi Đình Tam Kích», vào Hội Long Hoa đoạt luôn chức vị Hội Chủ, mãi cho đến nay, ta còn nhớ rõ kia mà!
Quan Sơn Nguyệt bỉu môi:
– Hành trình muôn vạn dặm, mỗi bước đi là mỗi khác, những bước đi sau đâu phải tuyệt đối giống bước đầu tiên lúc xuất hành? Thì cái việc vài mươi năm sau làm gì giống việc vài mươi năm trước? Ngươi quên rằng sao có thể dời, và vật luôn luôn đổi trò biến chuyển là bí quyết của tạo hoá để mãi mãi được thượng tôn. Ngươi đem kiến thức ngày trước mà luận việc đời sau, tự nhiên phải sai.
Tạ Linh Vận bị Quan Sơn Nguyệt chỉnh cho mấy câu, thẹn đỏ mặt. Thẹn quá, hoá giận, y gằn giọng hỏi:
– Tiểu tử còn bao nhiêu chiêu kiếm nữa? Ta hỏi về cái thứ kiếm pháp quái dị của ngươi đó.
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Học kiếm thuật mà lại đi hỏi đối phương có bao nhiêu chiêu thì thực là ngu ngốc. Ngươi quên rằng vũ học có câu thiên biến vạn hoá chăng? Phàm đã nói đến hai tiếng biến hoá, thì còn hạn định trong một con số thế nào được?
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tuy nhiên, giúp ngươi khỏi thắc mắc, ta có thể cho ngươi biết như thế này, bỏ ra những biến hoá trùng trùng điệp điệp, kiếm pháp của ta gồm chín chiêu gốc, ta đã thi triển bảy chiêu rồi, còn lại hai chiêu cuối, mà cũng là hai chiêu tối lợi hại, hai chiêu đó bao quát tinh hoa của bảy chiêu đầu, sự linh diệu của hai chiêu đó vượt hẳn bảy chiêu kia hợp lại.
Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:
– Ta có thể phản công, nhưng nghe ngươi nói thế, ta cũng kiên nhẫn đợi ngươi xử dụng nốt hai chiêu cuối cùng mà ngươi sở cậy, sau đó ta sẽ giở «Tu La Tứ Thức» của ta, giáo huấn ngươi giảm bớt cái thói ngông cuồng. Ta sợ rằng ngươi không thể tránh khỏi thảm bại dưới lưỡi kiếm của ta.
Y ung dung đối thoại, song trong thâm tâm, niềm lo ngại đã dấy lên rồi, y cho rằng tiểu tử trước mặt có dũng khí, can đảm và cơ trí trên hẳn sư phụ của chàng. Y nghĩ, Hoàng Hạc chẳng phải là con người hàm hồ, thì sự chọn lựa truyền nhân hẳn phải cẩn thận, rồi chính y mục kích hành động của Quan Sơn Nguyệt, y phải công nhận chàng cao minh hơn sư phụ chàng.
Nhận xét như vậy, Tạ Linh Vận càng cẩn thận hơn, dù bên ngoài lại tỏ lộ sự khinh thường.
Quan Sơn Nguyệt đánh tiếp một nhát kiếm, thế kiếm kỳ dị vô cùng, không đi thẳng, mà lại ngoằn ngoèo, theo hình chữ chi, một thế kiếm như vậy hẳn phải ảo diệu, mà đối phương cũng chẳng tài nào ước độ được cái đích của thế kiếm ở bộ vị nào trên cơ thể.
Tạ Linh Vận giật mình. Y chỉ nhận ra nửa phần của chiêu thức thôi, phàm nhận định nửa phần, còn nữa phần kia thì lại mơ hồ, gây cho y sự hoang mang như thế làm sao y hoá giải được?
Không hoá giải được, y phải lui, né tránh, thầm nghĩ:
“Cũng may là ta không quá khinh thường như trước, nếu ta sơ suất một chút, thì nguy rồi!”.
Thế kiếm do chính Quan Sơn Nguyệt chế biến ra, chàng dung hợp kiếm pháp của Độc Cô Minh với «Linh Xà Tiên Pháp» của họ Lạc mà tạo thành. Thực ra, chàng cũng không tin tưởng lắm ở chỗ diệu dụng của những chiêu mới mẻ do chàng sáng chế dung hợp, cho nên chàng đánh ra mà không hy vọng hoàn toàn đắc thủ.
Bất quá, nhân dịp này, chàng mang ra thực nghiệm vậy thôi, vì thế phần lợi hại có kém đi, Tạ Linh Vận không đến độ nào bị bức đến độ khoanh tay chịu bại.
Y không phản công, song y vẫn né tránh được.
Sau lưng Quan Sơn Nguyệt, Nhất Âu cao giọng thốt:
– Bức thoái được Tu La Tôn Giả, khiến cho lão không phương hoàn thủ, ngươi quả là một tay khá đó, tiểu tử, ngươi có thừa tư cách được liệt trên Tiên Bảng ...
Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng. Y mong Quan Sơn Nguyệt đánh tiếp chiêu kế, cái chiêu cuối cùng của kiếm pháp gồm chín chiêu, như chàng đã tuyên bố.
Phàm những tay kiếm cao thâm, gặp được người tài giỏi, ai ai cũng phấn khởi phi thường, phấn khởi vì được dịp nghĩ cách đối phó với những tuyệt chiêu đồng thời sửa chữa những sơ hở của mình.
Thực tâm mà nói, Tạ Linh Vận cũng có ý đó.
Mà chính Quan Sơn Nguyệt cũng vậy. Chàng suy nghĩ một chút, đoạn từ từ đưa kiếm ra, trông thấy thủ pháp của chàng, Tạ Linh Vận giật mình.
Giật mình, không phải vì y khiếp hãi trước một chiêu kiếm kiếm tân kỳ.
Y nghĩ, chiêu đó là chiêu cuối, phàm trong một kiếm pháp những chiêu sau phải là độc đáo hơn những chiêu trước, và chiêu cuối cùng hẳn phải độc đáo hơn tất cả, nó bao gồm tinh hoa của những chiêu trước nó định đoạt cái giá trị của toàn bộ kiếm pháp, nó là chiêu tổng hợp, nếu những chiêu đầu không tạo được thành tích thì chính nó cứu vãn tình hình, chuyển bại thành thắng, thu nhập cái kết quả mong muốn. Do đó, y đinh ninh Quan Sơn Nguyệt phải đánh ra một chiêu hết sức bí hiểm. Y đặt trọn kỳ vọng nơi chiêu đó, để nhân sở năng của đối thủ suy ra sở đắc, rồi tìm cách chế ngự địch. Biết được xuất xứ môn công của địch, là cầm chắc nữa phần thắng lợi, từ cái biết đến hoá giải, chẳng xa lắm.
Ngờ đâu, chiêu thức thứ chín của Quan Sơn Nguyệt rất tầm thường, nếu không nói là một chiêu thô tục, phàm ai học võ đều biết qua, và cũng chẳng ai chịu xuất phát. Chiêu đó, có cái tên là «Biện Trang Thích Hổ»!
Y giật mình, y lấy làm lạ, song chẳng dám khinh thường, thầm nghĩ:
“Sao tiểu tử đánh ra một chiêu như thế? Hay là hắn còn có cách biến hoá quái dị?”.
Y chú mắt nhìn thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt, chực chờ một thay đổi.
Quan Sơn Nguyệt vẫn từ từ đánh ra chiêu đó, đưa nó dần dần trọn đà, và mũi kiếm chong ngực Tạ Linh Vận, chỉ còn cách độ một tấc nữa thôi.
Thanh kiếm đã đến qua gần đích, vẫn chưa có vẻ gì là chiêu thức sẽ biến đổi, như Tạ Linh Vận nghi ngờ.
Bởi chưa lấy chủ ý, Tạ Linh Vận chưa có một động tác nào, bất quá y vận khí toả ra khắp cơ thể, nhất là nơi ngực, biến nơi đó cứng rắn y như kim cương. Y nghĩ, dù Quan Sơn Nguyệt không biến chiêu, cứ cái đà đó mà đâm tới, thì chàng cũng chẳng làm gì y nổi.
Mũi kiếm đã đến sát ngực Tạ Linh Vận. Chàng mỉm cười thốt:
– Ngươi bại rồi! Mũi kiếm của ta đã chạm trúng ngực ngươi rồi đó!
Tạ Linh Vận ngạc nhiên, hỏi:
– Ngươi dùng chiêu gì thế?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Biện Trang Thích Hổ!
Tạ Linh Vận suýt nhảy dựng lên hét to:
– Sao? Chiêu Biện Trang Thích Hổ? Ngươi có thể dùng một chiêu thô tục như vậy à?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Chiêu thức thô tục thật, song công hiệu của nó phi thường, nó khắc địch dễ dàng.
Tạ Linh Vận nổi giận:
– Câm miệng đi, tiểu tử? Nếu ta biết được ngươi xử dụng một chiêu thối tha như vậy, thì ta đã xuất thủ rồi, ta đã thi triển «Tu La Tứ Thức», biến hoá thành mười hai chiêu phụ, ta hạ sát ngươi từ lâu, xác ngươi phải tan nát ...
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Ngươi nói đúng, nhưng ngươi không làm, bởi ngươi chẳng dám làm. Ngươi không tin tưởng là sẽ thành công, ngươi do dự vì chưa biết rõ thực lực đối phương.
Bởi muốn gây hoang mang cho ngươi, ta dùng một chiêu hết sức tầm thường khiến ngươi chẳng biết suy đoán ý tứ của ta ra làm sao nữa. Ngươi biết không, kiếm pháp quý ở chỗ làm sao cho đối phương không thể ức độ chỗ cao thâm, và những chiêu thông thường lại rất thích hợp cho những lúc muốn gây hoang mang, nó từ cái chỗ thông thường biến thành thần kỳ bí ảo, nó tạo kết quả trên chỗ mong muốn, như ngươi đã thấy. Cho nên, đừng bao giờ khinh miệt những chiêu sơ đẳng.
Nhất Âu đứng phía sau, hoan hô ngay:
– Cao minh! Cao minh lắm đó lão đệ! Lão phu bội phục! Bội phục!
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Tiền bối quá khen!
Chàng quay qua Tạ Linh Vận, nghiêm giọng tiếp:
– Ngươi hoang mang, do dự, khinh miệt, rồi nghi ngờ, tự nhiên không dám xuất thủ, trong khi đó, ta cứ nhít mũi kiếm tới, còn ngươi thì chờ đợi một biến hoá.
Mũi kiếm đi tới mãi còn ngươi thì bất động, bảo sao kiếm chẳng chạm đích? Bảo sao ta không thành công?
Tạ Linh Vận tức uất đến có thể chết được. Y hét to:
– Ngươi gian hoạt quá chừng, ngươi tàn độc quá chừng! Đã chiếm tiên cơ, sao ngươi không đâm luôn cho ta mất mạng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Ta chỉ muốn ngươi cúi đầu, chứ ta có muốn ngươi bị lủng ngực đâu?
Tạ Linh Vận cười lạnh:
– Ngươi tưởng việc đó dễ làm lắm sao chứ?
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Ta biết ngươi đã luyện được cương khí hộ thân, ngươi đạt đến mức độ rất cao cho nên ta không muốn đắc thủ một cách quyết liệt, chắc ngươi cũng nhận ra là ta không dụng lực chuyển qua mũi kiếm chứ? Ta có ý cảnh cáo ngươi, từ nay đừng quá ỷ tài, xem thường đồng đạo vũ lâm.
Tạ Linh Vận thẹn đỏ mặt, vội phân tán vầng cương khí bao bọc quanh mình.
Duy trì kình khí đó, bảo vệ cơ thể, tất y phải có tư thế khẩn trương, mà thân phận của y chẳng phải thấp kém gì, đối với một thiếu niên, y tỏ lộ vẻ khẩn trương, thì còn cho là thể thống? Do đó, y phải phân tán chân ngươn, lấy lại bình thường.
Nhưng, vừa lúc đó, Quan Sơn Nguyệt phóng sang một nhát kiếm.
Tạ Linh Vận chưa phân tán hết chân ngươn, y hoảng hồn, vội nhún chân tung bổng người lên không, phần kình khí còn lại thừa hiệu lực lôi cuốn thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt vuột tay, buông luôn thanh kiếm.
Kiếm vuột tay, đà tay còn đi tới, thân hình lướt theo, chàng chới với, chồm về phía trước.
Tạ Linh Vận tránh được nhát kiếm đó, đáp xuống đất, gương mặt biến xanh dờn. Y kêu lên:
– Tiểu tử! Sao ngươi hèn thế.
Mọi người đứng bên ngoài cũng kinh hãi chẳng ai tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể hành động kém tư cách như vậy.
Quan Sơn Nguyệt chới với, chồm về phía trước, ấn chân đứng lại vững vàng rồi, điềm nhiên điểm nhẹ một nụ cười, đáp:
– Tại hạ hành động, toàn bằng ý trời, trời bảo sao là làm vậy, chẳng hề xử sự theo một thủ đoạn nào. Các hạ là một Ma vương, các hạ làm nhiều tội ác, trời phải tru, đất phải diệt, tại hạ vâng theo ý trời, trừ gian diệt bạo ...
Tạ Linh Vận sững sờ, trong phút giây bất ngờ, chẳng làm sao nói được một tiếng.
Quan Sơn Nguyệt lại cười hì hì, tiếp nối luôn:
– Nghe cái hiệu của ngươi, Tu La Tôn Giả, ta biết ngay ngươi là lãnh tụ quần Ma, mà Ma là gì, nếu chẳng phải là một thứ người có hành động vô thường, chẳng ai lường được, phản phúc, xảo trá, gian đoạt, tàn độc, hung bạo, nham hiểm, có cái gì mà Ma chẳng dám làm? Huống hồ ngươi là một lãnh tụ? Phàm là lãnh tụ, hẳn phải có thành tích hơn bọn dưới tay, hẳn phải tàn độc, nham hiểm, xảo trá, gian đoạt hơn bọn dưới tay, thì chính ngươi phải chết trước! Ta nhân dịp ngươi lơi cảnh giác, định trừ diệt ngươi, ta lấy tư cách Ma, trừ diệt Ma, ngươi có lý do gì mắng ta? Từ bao lâu nay, ngươi hành động như thế, sao ngươi chẳng thấy mình kém tư cách? Trái lại, ngươi còn tự hào, ngươi hãnh diện?
Tạ Linh Vận đuối lý, đâm thẹn, càng thẹn càng tức uất. Tuy y nhảy vọt lên, tuy y làm rơi kiếm của Quan Sơn Nguyệt, song nơi ngực y vẫn bị kiếm gây một vết thương. Y đưa một tay chận nơi vết thương, tay kia vung kiếm, cao giọng quát:
– Không trừ diệt tiểu tử này, thì vĩnh viễn Ma giáo chẳng còn vươn cao đầu lên với người đời nữa!
Y vừa buông đứt câu nói, quần ma đứng phía sau y nhát động thân hình, tất cả đều chuyển bước, tạo thành vòng vây quanh Quan Sơn Nguyệt.
Lý Trại Hồng và Liểu Y Ảo hét lên, vọt mình tới, vào tận trung ương, đến Nhất Âu cũng chẳng thể thản nhiên, bước theo hai người.
Thế chiến đã phân thành song phương rõ rệt, và bây giờ, nếu có động thủ, thì chắc chắn là họ hỗn chiến, chứ chẳng còn độc tấu nữa rồi.
Cục diện đã dàn thành tư thế đối chiến. Tạ Linh Vận cao giọng quát:
– Các ngươi còn chờ gì nữa?
Lịnh thủ lãnh đã ra, có thuộc hạ nào lại dám bất tuân?
Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:
– Tu La! Ngươi đã thọ thương rồi, chính ngươi mà còn thế, liệu bọn kia sẽ làm nên được việc gì mà ngươi xua chúng vào cuộc?
Tạ Linh Vận giật mình. Lời nói của Lý Trại Hồng có lý lắm. Chính y mà còn bại cuộc, thì bọn kia chắc gì báo cái hận của y nổi?
Đối phó với Lý Trại Hồng và Liểu Y Ão, quần ma chưa hẳn giữ được thế quân bình, hà huống động thủ với Quan Sơn Nguyệt này cho rằng trên hẳn chị em họ một bậc? Y do dự một chút. Sau cùng, y đáp:
– Lý Trại Hồng, ta nhìn nhận hôm nay ngươi gặp may đó! Ta lầm kế của tiểu tử, ta nhận bại, tuy nhiên tạm thời thôi đấy nhé, các ngươi nên cẩn thận ngay từ giờ này là vừa. Chỉ trong ba hôm thôi, vết thương của ta lành rồi, các ngươi sẽ thấy thủ đoạn của ta. Ta xem các ngươi trốn nơi nào khỏi tay ta cho biết!
Lý Trại Hồng cười lạnh:
– Trong ba hôm nữa, ta sẽ có biện pháp đối phó với ngươi. Ngươi yên trí!
Tạ Linh Vận lạnh lùng:
– Được lắm! Ta chờ xem ngươi sẽ áp dụng biện pháp gì!
Quần ma bao vây bên ngoài, tự động giải tán, chẳng cần chờ Tạ Linh Vận ra lịnh. Rồi tất cả ủng hộ Tạ Linh Vận rời cục trường.
Khi chúng rời xa độ một trượng, Quan Sơn Nguyệt trầm giọng hỏi:
– Dịp tốt, trừ diệt quần Ma, sao Tiên tử bỏ qua? Buông tha chúng, là muôi dưỡng hậu hoạn đó!
Lý Trại Hồng lắc đầu, thở dài:
– Ngươi chẳng biết đâu!
Vừa lúc đó, Linh Cô từ phía toà lầu bước đến, nàng đến với hai tay không.
Nàng kêu lên:
– Không xong rồi, tiên tử ơi! Bạch ...
Liểu Y Ảo dững cao đôi mày, hét lớn:
– Tiểu quỷ! Ngươi học ở đâu cái thói hồ đồ hấp tấp thế?
Liểu Y Ảo lập tức quay qua Lý Trại Hồng, thấp giọng:
– Tôi chỉ sợ sự tình diễn tiến không thuận lợi rồi đó, sư tỷ! Có lẽ đại sư tỷ đã mang luôn theo mình thanh Bạch Hồng Kiếm!
Lý Trại Hồng ngưng trọng thần sắc:
– Ta đã biết trước như vậy rồi, cho nên ta liều sanh tử tranh chấp với bọn kia cốt để ...
Liểu Y Ão khoát tay:
– Đừng cho chúng biết chứ, sư tỷ! Bây giờ, mình phải làm sao đây?
Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:
– Thong thả rồi mình nghĩ ra cách ứng biến với tình thế! Cứ giải quyết vấn đề tại chỗ trước, còn việc kia, chúng ta sẽ thương lượng sau.
Vấn đề tại chỗ, là quan sát kỹ xem bọn người của Tạ Linh Vận có còn lẫn quẫn câu đó, âm thầm nghe ngóng câu chuyện của cả hai hay không. Bởi, Tạ Linh Vận đã đi rồi, thì còn lo ngại gì nữa?
Sau đó, Liểu Y Ảo cởi chiếc áo ngoài, trao cho Lý Trại Hồng, Lý Trại Hồng tiếp lấy, mặc vào mình, đoạn cả hai một trước một sau chạy đi liền.
Nhất Âu bước đến gần Quan Sơn Nguyệt, vỗ tay lên vai chàng, thốt:
– Hôm nay, nhờ có lão đệ, bọn lão phu mới thoát khỏi cơn khó khăn ...
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Sự tình ra sao? Tại hạ nhìn qua thần sắc của các vị nhận thấy có cái gì nghiêm trọng lắm ...
Nhất Âu cười hắc hắc:
– Đừng nóng, lão đệ, trong chốc lát đây, lão đệ sẽ hiểu. Long Hoa Hội đã không còn là bí mật đối với lão đệ nữa, thì lão phu sẽ nói rõ cho lão đệ biết những gì lão đệ chưa biết và muốn biết. Bây giờ, lão đệ đi theo lão phu đây, xem việc ấy ra sao!
Thốt xong, lão chạy đi.
Quan Sơn Nguyệt theo sau liền.
Càng đi tới, họ càng lên cao, họ đến một cái đài, đài bằng đá nhô lên rất cao, bên dưới chân dài, có rất nhiều người, dàn thành hai hàng, như đối trận với nhau.
Người trong ba bảng Tiên, Ma, Quỷ có đủ mặt trong hai hàng đó, họ đứng lẫn lộn nhau, không phân biệt hẳn nhóm nào theo nhóm ấy.
Lý Trại Hồng đã đến nơi đó rồi. Nhìn qua cục diện, bà hỏi:
– Ai có chủ ý phân tách họ ra làm hai nhóm thế?
Khổ Hải Từ Hàng đáp:
– Chính bần tăng an bày như vậy.
Lý Trại Hồng giật mình:
– Sao ngươi biết chứ?
Mặt lộ vẻ từ bi, Khổ Hải Từ Hàng tiếp:
– Một tháng trước đây, bần tăng hân hạnh được Hoàng Hạc và Hương Đình cho biết, Long Hoa Hội sẽ giải tán, và thời gian giải tán là hôm nay ...
Lý Trại Hồng nổi giận:
– Ngươi nói cái gì? Thế ra, các ngươi đã thương nghị với nhau?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Biển khổ không bờ, quay đầu là thấy bến, Hương Đình Tiên Tử đã giác ngộ những lỗi lầm, còn Lý Tiên Tử sao lại cứ chấp mê, không noi theo gương Hương Đình?
Lý Trại Hồng sững sờ, suy tư một lúc lâu, đoạn hỏi:
– Ngươi nói nghe dễ dàng quá chừng! Bây giờ sự việc đã kết thúc như thế này, ngươi bảo ta phải thu xếp cách nào cho ổn thoả?
Khổ Hải Từ Hàng cứ theo cái lối lo trời lo đất, dùng giọng bao hàm, thực thực, hư hư thốt:
– Làm lành, gặp lành, làm dữ gặp dữ, lành có lành báo, dữ có dữ báo trời phật không đặt để một hậu quả nào cho con người, mà chính con người tự tạo, ai có ra sao thì ra nào phải do một Tiên tử thu xếp mà gọi lẽ ổn thoả?
Tạ Linh Vận cũng có mặt tại chỗ, Khổ Hải Từ Hàng quay qua Tạ Linh Vận, tiếp luôn:
– Lòng hướng thiện thì nơi nào mà chẳng là cảnh Tiên, đợi gì phải đến cảnh xa xôi, rồi sanh ra tranh giành, rồi đưa nhau đến cuộc đổ máu? Lòng dưỡng ác, dù ở cảnh Tiên cũng như ở cảnh Ma, có khi nào trí được tịnh thần được nhàn đâu mà hưởng những thú thanh cao của cảnh Tiên? Tiên và Ma khác nhau ở nơi lòng, chứ chẳng phải cái khung cảnh bên ngoài, chẳng phải ở cái tên do con người tự đặt, ở những thứ bậc do con người bày ra ...
Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng, trầm giọng thốt:
– Ta không tưởng ngươi luôn luôn kiếm cách pá vỡ Hội Long Hoa này! Rồi ngươi sẽ trả giá đắt với việc làm của ngươi! Đừng tưởng cái lý thuyết của ngươi có thể lung lạc được tâm hồn của bất cứ ai ngươi lầm to!
Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:
– Các hạ cho là lý thuyết, bần tăng lại nghĩ đó là cái đạo từ bi, bần tăng còn sống ngày nào, là chuyên lo cho đạo từ bi ngày ấy. Bần tăng quyết cứu độ Tôn Giả, đưa Tôn Giả từ cõi Ma về cõi Phật ...
Tạ Linh Vận cười lạnh:
– Ngươi cứ chờ, ngươi đưa ta từ cõi Ma đến cõi Phật hay ta đưa ngươi từ cõi Phật trở lại cõi Ma!
Khổ Hải Từ Hàng niệm phật hiệu, cao giọng tiếp:
– Bần tăng không vào địa ngục, vớt độ quần ma, thì còn ai làm cái việc đó cho bần tăng?
Tạ Linh Vận hét:
– Câm miệng đi, nhà sư điên!
Y gọi to:
– Người của ta đâu? Rời ngay nơi này!
Y vẫy tay, đoạn thoát đi trước, các thuộc hạ ồ ạt theo sau.
Bọn Tạ Linh Vận đã khuất sau đỉnh Thần Nữ Phong rồi Quan Sơn Nguyệt quay đầu, nhìn lại Nhàn Du Nhất Âu, chàng không nói gì, song ánh mắt biểu hiện rất rõ cái ý của chàng. Cái ý của chàng là muốn hiểu nội tình Long Hoa Hội.
Sở dĩ chàng có ý đó, là vì sau việc đối thoại giữa Khổ Hải Từ Hàng và Lý Trại Hồng, tất cả mọi người trong ba bảng Tiên – Ma – Quỷ đều tỏ lộ một thần sắc quái dị ...
Qua thần sắc của họ, Quan Sơn Nguyệt suy đoán, có người tiếc nuối, có người man mác mơ hoài, có người lo ngại, mà cũng có người hoang mang, như tiến không đường, lui không nẻo ...
Chàng muốn hiểu tận tường, Long Hoa Hội đã kết thúc như thế này sao?
Và, cái hội quái dị sẽ hợp vào trong thời gian nào, hay giải tán vĩnh viễn, như Khổ Hải Từ Hàng đã tuyên bố?
Nhất Âu thở dài, lẩm nhẩm:
– Trên thế gian này, chẳng có cái gì trường cửu cả:
Nói tan là tan, nói hiệp là hiệp! Có ai ngờ, một cơ cấu huy hoàng, một cơ cấu có cái thế lực thừa khuynh đảo càn khôn, lại bỗng dưng tan rã như vầng mây trước gió, ngọn sóng giữa trùng dương, mây hiện đó rồi biến, sóng dâng đó rồi chìm ...
Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:
– Có những cái tan, còn lưu lại lòng người một luyến tiếc, có những cái tan mang hạnh phúc lại cho con người! Sanh ra là hiệp, hiệp để đi dần đến cái tan, có cái hiệp nào vĩnh cửu? Thắc mắc làm chi? Khi con người là công cụ của hóa công, thì phải chấp nhận vai trò của mình, lúc nó chấm dứt thì tấN tuồng đã đến lúc hạ màn đừng mong tái diễn! Huống chi, một tổ chức hỗn tạp? Cái gì hỗn tạp thì chẳng thể lâu dài. Một tổ chức rồng chẳng ra rồng, rắn không ra rắn, rắn rồng lẫn lộn, thiện ác chung chạ, thiện nhiễm ác, ác ganh thiện, một tổ chức quy tụ những người hữu dụng, không chuyên cứu thế độ nhân, mà chỉ phục vụ cho tham vọng, cho tự ái ... Cái tổ chức đó, có thể nào tồn tại lâu dài? Cho nên, tan rã là phải. Càng tan rã sớm, mọi cá nhân càng được giải thoát sớm, giải thoát khỏi cái nhỏ nhen, tầm thường, giải thoát khỏi cái tham vọng đê hèn, vì tham vọng đó, mà ai ai cũng mơ thanh toán lẫn nhau, báo thù, phục hận, giành ngôi vị, đoạt uy quyền ...
Nhất Âu trừng mắt nhìn lão tăng:
– Lão trọc khá kín đáo đấy! Mãi đến bây giờ, ta mới biết ngươi cao minh, ngươi thấu triệt nhiều việc, ngươi thấu triệt mà lại gán cho ta cái chách vụ Hội Chủ, để trút tất cả phiền não lên đầu ta! Đáng lẽ ngươi không nên làm thế!
Ngươi âm trầm đến độ đã luyện được pháp thân Quang Minh, mà chẳng một ai hay biết! Ta hỏi ngươi, ngươi luyện môn công đó từ lúc nào?
Khổ Hải Từ Hàng điểm một nụ cười:
– Lâu rồi! Sở dĩ ta không dám thi triển là vì sợ phiền não vướng vào mình.
Các ngươi ham danh nên chuốc lấy phiền não, nếu ta cũng đồng quan niệm như các ngươi, thì giờ phút này ta đâu được an nhàn? Và ta đâu có thì giờ thừa thãi để bố trí cho cục diện xoay trở như ý muốn?
Nhất Âu «hừ» lạnh:
– Thì ra, ngươi đã nuôi dưỡng cái ý nguyện giải tán Hội Long Hoa này từ lâu!
Có cái ý nguyện như vậy, sao ngươi không đảm nhận trách vụ Hội Chủ, mà lại cưỡng ép ta phải tiếp thọ? Là Hội Chủ, dù tạm ngươi cũng dễ hành động hơn chứ? Là Hội Chủ ngươi cũng dễ thực hiện cái ý nguyện đó chứ?
Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:
– Bần tăng đã giải thích rồi, chỉ vì các ngươi không chịu suy xét tận tường, để hiểu cho bần tăng nhiều hơn thôi! Làm Hội Chủ, phải giải quyết bao nhiêu sự việc, phiền phức vô cùng, bần tăng đâu còn thì giờ an bài cái chương trình đã dự định? Không làm Hội Chủ, bần tăng đứng ngoài vòng, sắp xếp sự việc được chu đáo hơn, ngoài ra còn có thể quan sát mọi hành vi của các ngươi, theo dõi từng biến chuyển để kịp thời ứng phó, hầu thực hiện sở nguyện hữu hiệu hơn! Đứng bên ngoài, bần tăng có nhiều phương tiện nào phải nắm quyền Hội Chủ là giải quyết sự việc dễ dàng đâu? Trong khi các ngươi chẳng biết bần tăng làm gì, thì bần tăng thấy rõ mọi hoạt động của các ngươi. Cái lợi không làm Hội Chủ là ở chỗ đó!
Nhất Âu «hừ» một tiếng lớn hơn:
– Ta biết mà, ngươi đã thông đồng với lão Hoàng Hạc từ trước ...
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Nào phải chỉ thông đồng với một Hoàng Hạc mà thôi! Bần tăng cũng có hội ý với Hương Đình, cả ba chúng ta đã tiên đoán là sớm muộn gì Long Hoa Hội cũng phải giải tán, tự nó giải tán, chẳng cần ai làm cho nó tan ra. Ngươi có biết tại sao chăng?
Lão dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn với giọng trầm trầm:
– Hội, gồm có ba bảng, mà cái đạo tâm càng ngày càng suy nhược, trong khi đó khí thế quần Ma càng lúc càng vươn mạnh lên, cái khí đó một khi thành căn cơ rồi, thì đạo tâm cầm như tiêu diệt hoàn toàn, bần tăng chỉ sợ lúc đó Tiên muốn giải tán mà Ma và Quỷ duy trì, Tiên cũng chẳng làm sao cưỡng lại được?
Ma Quỷ duy trì, để cho Ma chế ngự ngược lại Tiên, vận dụng Ma tâm áp đảo Đạo tâm! Chắc ngươi phải thức ngộ cái nguy hại khi Tâm Đạo bị Tâm Ma chế ngự!
Chắc ngươi thấu đáo cái khổ do một cuộc đảo lộn như thế mang đến cho chúng ta!
Lão kết luận:
– Sao cho bằng nên giải tán lúc còn có thể giải tán, chứ nếu đợi đến lúc bất lợi rồi, dù tất cả chúng ta có hợp sức, cũng chẳng làm sao xoay chiều cục diện nổi!
Lý Trại Hồng tiếp nói:
– Tạ Linh Vận nuôi dưỡng ác tâm, điều đó ta cũng đã biết rồi. Chính đại sư tỷ có thảo luận với ta và Liễu Y Ảo hiền muội về sự tình, ta biết là sớm muộn gì, cục diện sẽ chuyển biến quan trọng! Ta cũng chẳng lạ gì, song ta chẳng khỏi thầm trách đại sư tỷ và lão Hoàng Hạc, nỡ bỏ tất cả mà đi ngay trong lúc tình thế khẩn cấp, trút cả khó khăn lên đầu ta và Ảo muội! Thử hỏi, chị em ta làm sao giải quyết được chứ?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Hương Đình Tiên Tử đã có chương trình đối phó, mà bần tăng cũng đã có kế hoạch ứng biến, song không ngờ Tạ Linh Vận lại bộc lộ dã tâm quá sớm, hắn không chờ đợi đại hội khai diễn, hắn hấp tấp giở thủ đoạn, làm bần tăng không kịp đến nơi, tiếp ứng các ngươi. Cũng may có Quan thí chủ ...
Lý Trại Hồng khoát tay:
– Tiếc chi cũng đã rồi. Có nói lại chỉ làm mất thì giờ, chẳng giúp ích gì cả.
Ta hỏi ngươi, đại sư tỷ của ta cùng lão Hoàng Hạc hiện giờ ở tại đâu?
Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:
– Bần tăng không biết đâu. Bất quá, bần tăng hiểu là họ đi đến một nơi xa xôi lắm, xa hẳn người đời, và họ chẳng bao giờ trở lại nhân thế nữa.
Lý Trại Hồng lộ vẻ mơ buồn:
– Cả hai chừng như tâm đầu ý hợp, tương xứng với nhau ...
Khổ Hải Từ Hàng nhìn bà ta, trong ánh mắt có cái ý thâm trầm, một lúc lâu, thốt:
– Hoàng Hạc có nhờ bần tăng chuyển lại Tiên tử hai câu. Nhưng bần tăng nhận ra lúc này bất tiện ...
Lý Trại Hồng nhếch nụ cười khổ:
– Cứ nói đi, bình sanh ta rất thản nhiên đối với bất cứ sự việc gì của ta, lòng ta trống trải như đất bằng, ta chẳng có gì phải che dấu cả.
Khổ Hải Từ Hàng do dự một chút, rồi tiếp:
– Hai câu đó, như thế này:
Ước vọng đã lui về dĩ vãng, đừng tìm trong mộng ý niềm xưa! Hoàng Hạc bảo rằng, tiên tử nhất định thông cảm cho lão ta nhiều.
Lý Trại Hồng điểm một nụ cười, khóe miệng vẽ thành vết ảm đạm thê thảm phi thường. Bà ta lập lại hai câu đó một lượt đoạn thở dài, thốt:
– Lão ấy đã nói như thế, ta còn yêu cầu lão điều chi nữa! Đời ta, là giấc mộng dài, mộng đẹp cũng thế, ác mộng cũng thế thôi, bởi chung quy cũng là mộng! Mộng đẹp dễ tỉnh, ác mộng khó quên, dù là cơn mộng nào, ta cũng chẳng oán trách lão. Đời ta chỉ có mộng, bỏ mộng đi rồi, ta còn gì nữa đâu?
Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên tiếp:
– Phù sanh, nhất mộng! Mấy mươi năm, một cuộc đời, bấm đốt ngón tay, đã thấy mình gần với cát bụi! Mộng cũng thế thôi, tỉnh cũng thế thôi! Tất cả đều giới hạn trong định kỳ, mộng rồi cũng dứt, tỉnh rồi cũng dứt, nào ai vượt quá định kỳ?
Bỗng, Lý Trại Hồng gạt ngang:
– Thôi đi! Đừng giảng lý nhà Phật với ta nữa. Ngươi cũng như ta, ngươi có thông suốt chi hơn ta mà hòng bày vẽ cái trò giáo huấn? Ta chỉ hỏi ngươi một vài câu, ngươi sẽ câm miệng hến, nhưng ta có muốn tranh biện với ngươi làm chi!
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Bần tăng nào dám tự hào mình thông đạt huyền cơ? Bần tăng còn kém Tiên Tử rất xa kia mà! Bởi biết mình ngu, bần tăng không vọng tưởng, và vì không vọng tưởng nên chẳng cần phải lụy cầu, có bao nhiêu, mãn nguyện bấy nhiêu, không có chi hết cũng chẳng cần bận tâm tìm cho có. Bần tăng chủ trương tự mãn nhờ tránh được tự mãn nên tránh được cái tự khổ.
Lý Trại Hồng khoát tay:
– Cho ta xin cái triết lý của ngươi đó đi! Ngươi xuất gia từ lúc nhỏ, nào biết chi đến tình duyên, ngươi hiểu làm sao được những vui buồn sướng khổ của sự yêu đương? Ngươi không đủ tư cách đề cập đến những chuyện đó. Cho ngươi biết, ta không thể nào lượng thứ cho đại sư tỷ của ta!
Khổ Hải Từ Hàng kinh ngạc:
– Tiên Tử lượng thứ cho Hoàng Hạc được, lại cố chấp đối với Hương Đình Tiên Tử hay sao?
Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:
– Ta nói một đàng, ngươi hiểu một nẻo! Cái việc kia, ta chẳng hề lưu ý đến nữa, điều mà ta không lượng thứ cho đại sư tỷ của ta, là ra đi sao lại mang theo thanh kiếm Bạch Hồng làm gì? Suýt chút nữa, ta bị Tạ Linh Vận bức dồn ta vào cảnh chết!
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Thì ra Tiên Tử phẫn nộ vì cái việc đó! Nhưng Tiên Tử trách oan Hương Đình. Hương Đình mang thanh kiếm theo mình là có ý tiếp trợ Tiên Tử chứ chẳng phải cốt tạo phiền phức cho người ở lại đâu.
Lý Trại Hồng nổi giận:
– Ngươi nói nhảm! Bạch Hồng Kiếm là vật duy nhất do sư phụ lưu lại, mọi người đều cố kỵ thần oai của thanh kiếm, bọn Tạ Linh Vận sở dĩ chưa dám phản bội, là vì ngán sợ thanh kiếm đó.
Khổ Hải Từ Hàng cười hì hì:
– Tiên Tử ơi! Đó là một cuộc an bài của Pháp Hoa Thánh Giả, để lừa bọn hậu sanh, chứ thanh kiếm đó, bất quá chỉ là mấy tấc thép tầm thường, nó chẳng có thần oai thánh lực gì cả, chẳng rõ tại sao Tiên Tử lại xem nó là một vật có giá trị to lớn như vậy. Nếu bọn ma đầu kia biết được thì đại loạn đã diễn ra từ lâu trong thiên hạ rồi! Pháp Hoa Thánh Giả an bài cục diện đó, là để ngăn ngừa cơn đại loạn phát sanh, không hơn không kém!
Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo sửng sốt, kêu lên:
– Thật vậy?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Sự thật là thế. Trước khi đi, Hương Đình có nói rõ cho bần tăng biết. Bà ta mang thanh kiếm theo, là để cho bọn Tạ Linh Vận luôn luôn hoang mang, còn hoang mang là còn cố kỵ, chẳng dám buông lung dã tánh, tùy tiện hành động điên cuồng.
Lý Trại Hồng thừ người ra đó, bất động như tượng gỗ. Lâu lắm, bà buột miệng thở dài:
– Ba hôm sau, Tạ Linh Vận lại sẽ đến! Lúc đó chúng ta phải đối phó như thế nào?
Khổ Hải Từ Hàng trấn an:
– Tiên Tử bất tất phải quá lo, bần tăng có cách thoái địch.
Lý Trại Hồng thở dài:
– Ta khó tin là thanh kiếm Bạch Hồng được lưu lại, do cái ý phỉnh phờ của sư phụ ta!
Khổ Hải Từ Hàng chỉnh sắc mặt:
– Tiên Tử không tin cũng chẳng được, bởi sự thật là vậy, và Thánh Giả làm thế là vì sự tình bất đắc dĩ phải làm. Ngày trước thu nhận cả năm vị môn đồ, Thánh Giả hết sức hoan hỉ Tu La Tôn Giả, do đó người đem tất cả sở học bình sanh truyền sang cho Tu La Tôn Giả ...
Lý Trại Hồng chận lại:
– Điều đó, ta đã biết rồi, sư phụ ta truyền cho hắn kiếm pháp «Tu La Tứ Thức», đủ chứng tỏ người hết sức hài lòng về hắn.
Khổ Hải Từ Hàng thở ra, tiếp:
– Tình hình lúc ban đầu là thế, nhưng đến lúc vì gấp thành công, Thánh Giả đốt hai đoạn tập luyện, phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma, người mới thức ngộ ra cái dã tâm của Tạ Linh Vận không xứng đáng thừa kế đại nghiệp của người, điều đáng lo ngại là lúc đó người không còn đủ sức chế ngự Tạ Linh Vận, cho nên người mới chế ra «Đại La Thất Thức», cốt khắc chế «Tu La Tứ Thức» truyền lại cho ba vị. Nhưng, «Đại La Thất Thức» lại là môn công thuần dương cương, không hợp với nữ nhân, do đó bần tăng chỉ sợ ba vị ...
Lý Trại Hồng gật đầu:
– Ngươi nói đúng, cũng vì thế mà đại sư tỷ ta dù cố công tập luyện, chỉ phát huy được bảy thành lực là cùng còn ta và Liễu Y Ảo hiền muội thì lại kém xa ...
Khổ Hải Từ Hàng tiếp:
– Nếu cố gắng lắm, Hương Đình Tiên Tử chỉ cầm cự tương đương với Tạ Linh Vận thôi, chứ không hy vọng gì thủ thắng đối với hắn. Tuy nhiên, đó là vấn đề tương lai, chứ hiện tại thì Hương Đình Tiên Tử có mang «Đại La Thất Thức» ra giao đấu với hắn, cũng chẳng làm sao khắc phục nổi «Tu La Tứ Thức» của hắn.
Dù cả ba vị hiệp sức lại, bần tăng cũng lo ngại là Tạ Linh Vận đánh bại ba vị dễ dàng ...
Lý Trại Hồng cúi đầu, không đáp.
Không đáp, có nghĩa là mặc nhận lập luận của Khổ Hải Từ Hàng.
Khổ Hải Từ Hàng tiếp:
– Bỏ Tạ Linh Vận, tự nhiên Thánh Giả phải tìm người khá để truyền y bát, và người được chọn, là Hương Đình. Song, người lại sợ Hương Đình chưa phải là địch thủ của Tạ Linh Vận, dù có cả hai vị kèm một bên, sẵn sàng tiếp trợ, nên người nghĩ ra một biện pháp. Với biện pháp đó, thanh kiếm Bạch Hồng xuất hiện và tồn tại đến ngày nay. Những gì xảy ra trong ngày long trọng trao kiếm, hẳn tiên tử còn nhớ rõ chứ?
Lý Trại Hồng mơ màng, hồi ức sự việc xa xưa, trầm lặng một lúc lâu, không nói năng gì.
Quan Sơn Nguyệt nóng nghe sự tình, song không tiện thúc giục.
Liễu Y Ảo thấy chàng băn khoăn, liền thốt:
– Lúc đó, ta cũng có mặt ...
Quan Sơn Nguyệt chụp ngay câu nói:
– Thế thì xin Tiên Tử cho nghe những gì xảy ra lúc đó ...
Lý Trại Hồng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, rồi đảo ánh mắt sang Liễu Y Ảo, điểm một nụ cười, cất tiếng:
– Hiền muội cứ nói, nói cho hắn nghe!
Nụ cười của Lý Trại Hồng có ẩn ý, Liễu Y Ảo như đã đoán ra cái ý thầm kín đó, thoáng đỏ mặt, nhưng liền lấy ngay tự nhiên thuật:
– Lúc đó, ta vừa được mười sáu tuổi ...
Dĩ nhiên nàng dùng cái tiếng ta, là hướng về Quan Sơn Nguyệt. Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Ta chưa theo học võ với sư phụ ta được bao nhiêu năm, dù vậy ta cũng được sư phụ cho phép tham dự cuộc đại hội tại sơn môn, quy tụ toàn thể môn nhân, nghe người tuyên bố về tình hình Long Hoa Hội. Người cho biết Hội Long Hoa vừa được thành lập, quy củ chưa chu đáo, cao thủ chưa theo về đông đảo, mà người thì cảm thấy không còn sống được bao lâu nữa, cho nên người ủy trao trách vụ hoàn thành hội lại cho các môn đồ, người trao ra thanh kiếm Tru Tiên, tượng trưng quyền uy tối thượng điều khiển toàn thể hội, ai giữ thanh kiếm lịnh đó, có quyền sanh sát những hội viên nào bất tuân quy luật, phản Hội, lừa bạn. Các môn đồ ai ai cũng đinh ninh là sư phụ sẽ trao kiếm lịnh cho Tạ Linh Vận, và hắn lộ cái vẻ đắc ý rõ rệt ...
Nàng lại dừng thở mấy hơi dài, rồi tiếp:
– Ngờ đâu, sư phụ ta trao kiếm lịnh cho đại sư tỷ Hương Đình, điều đó làm Tạ Linh Vận biến sắc mặt, ánh mắt của hắn tóe lửa sáng ngời. Nếu có thể, hắn dám xuất thủ cướp đoạt thanh kiếm. Huống chi, U Minh Chủ Tể Tây Môn Vô Diệm có mặt tại cục trường, sẵn sàng tiếp ứng hắn, nếu hắn vọng động. Bọn ta thì hồi hộp, lo sợ một biến cố xảy ra. Ngờ đâu, sư phụ đã thấy rõ thâm ý của chúng, lại lấy ra một thanh kiếm, đó là thanh Bạch Hồng Kiếm, cầm thanh trường kiếm trong tay, sư phụ tiếp luôn ...
Nàng dừng lại, nhìn thoáng qua Khổ Hải Từ Hàng và Lý Trại Hồng, rồi tiếp:
– Sư phụ bảo, thanh kiếm Tru Tiên, bất quá chỉ là một thanh kiếm lịnh, cũng như lịnh bài, tượng trưng cái quyền lãnh đạo chẳng có công dụng thực sự, hữu hiệu, giết người, cho nên nó không có đủ oai lực tuyệt đối bắt buộc toàn thể hội viên phải tuân phục, và ai ai cũng có thể khinh lờn, nếu muốn khinh lờn, nếu muốn phản bội. Sở dĩ thế, người trao luôn thanh kiếm Bạch Hồng, để làm hậu thuẫn cho «Tru Tiên Lịnh», kẻ nào khinh lờn «Tru Tiên Lịnh», thì đại sư tỷ cứ dùng Bạch Hồng Kiếm lấy mạng kẻ đó. Để chứng minh oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, sư phụ rút nó ra khỏi vỏ, ánh thép của nó chớp lên sáng ngời, ai trông thấy cũng rợn người. Cạnh cục trường, có một hòn non giả, cách độ hai mươi trượng. Sư phụ ta vung tay, phóng thanh kiếm bay đi, lao vút đến hòn giả sơn đó, đâm thủng vào, sâu đến tám chín thước rồi tự nó bay về tay sư phụ. Đoạn sư phụ trao nó cho đại sư tỷ dõng dạc tuyên bố, từ nay trách vụ làm rạng rỡ Long Hoa Hội thuộc về đại sư tỷ, nếu kẻ nào bất tuân lịnh sai khiến, khinh thường «Tru Tiên Lịnh», thì đại sư tỷ cứ dùng thanh Bạch Hồng Kiếm giết ngay.
Nàng dừng lại, rồi trầm giọng tiếp luôn:
– Đại sư tỷ quỳ xuống, tiếp thọ lịnh dụ. Sư phụ bảo mọi người cùng quỳ xuống, tuyên thệ trung thành với đại sư tỷ, luôn luôn tuân hành lịnh đại sư tỷ. Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm, không phục sự lãnh đạo của sư tỷ, song khiếp đảm vì oai lực của Bạch Hồng Kiếm, nên bắt buộc phải quỳ theo mọi người.
Nàng thở dài, kết thúc:
– Sư phụ điểm nhẹ một nụ cười, rồi đi luôn ...
Nàng thở dài mọi người cũng thở dài, nhưng qua cái thở dài đó, niềm ưu tư trong mọi người như trút bớt ...
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Tiên Tử nhớ rành rẽ quá, rành hơn bần tăng nhiều!
Lý Trại Hồng hỏi:
– Chính mắt bọn ta trông thấy oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, như vậy làm sao cho rằng có sự lừa gạt?
Từ Hàng thở dài:
– Sự kiện đó, ngoài Hương Đình ra, chỉ có mỗi một mình bần tăng biết được mà thôi! Chính Hương Đình thoạt đầu cũng vẫn tin tưởng cái oai lực của thanh kiếm đúng như lúc Thánh Giả thực nghiệm. Sau này, khi vắng người, bà ta có làm thử mấy lần, qua những lần phóng thử đó, bà mới thấu đáo sự khổ tâm của Thánh Giả.
Lý Trại Hồng hấp tấp hỏi:
– Nhưng mà sự tình như thế nào chứ?
Khổ Hải Từ Hàng tiếp:
– Thử như vậy, rồi, Hương Đình tuy biết là thanh kiếm không có oai lực thần bí như lúc Thánh Giả thực nghiệm, song vẫn còn tin tưởng ở chất thép của nó.
Cho đến một hôm ...
Liễu Y Ảo hấp tấp hỏi:
– Đến hôm nào? Và hôm đó đại sư tỷ gặp chuyện gì?
Khổ Hải Từ Hàng tiếp luôn:
– Lúc đó Hương Đình tiếp nhận quyền lãnh đạo Long Hoa Hội, thì bần tăng và Hoàng Hạc chưa gia nhập. Một hôm Hương Đình gặp bần tăng tại Lữ Lương Sơn, cưỡng bức bần tăng vào hội, bần tăng khước từ, do đó có cuộc động thủ giữa song phương. Hương Đình Tiên Tử sử dụng «Đại La Thất Thức» vẫn không hạ nổi bần tăng. Cuối cùng, bà ta phải rút thanh Bạch Hồng Kiếm ra thị oai với ánh thép chớp ngời. Bần tăng thấy ánh thép, khiếp đảm liền, bái phục ngay. Để biểu hiện oai phong rõ rệt hơn, Hương Đình đâm thốc kiếm vào vách đá, kiếm chọc thủng đá, nhưng chẳng phải vì kiếm báu, mà do chính công lực thâm hậu Hương Đình ...
Lý Trại Hồng trố mắt hỏi:
– Rồi sau đó, có gì xảy ra nữa chăng?
Khổ Hải Từ Hàng nhếch nụ cười thảm:
– Mũi kiếm gãy hơn tấc! Từ đó Hương Đình luôn luôn đeo kiếm bên mình, song chẳng bao giờ rút nó ra khỏi vỏ, cho bất kỳ ai trông thấy!
Lý Trại Hồng tuyệt vọng đến mất thần.
Lâu lắm, bà ta mới thốt:
– Thảo nào, từ lúc đó, đại sư tỷ chẳng hề đề cập đến thanh kiếm Bạch Hồng, và luyện tập vũ công không ngừng!
Khổ Hải Từ Hàng tán:
– Ngày trước, Hương Đình Tiên Tử chẳng bằng ngày nay đâu, ngày nay thì vũ công của bà ấy tiến quá mức tưởng tượng, vì có bẩm chất tốt, bà sẽ thành công quan trọng, trên xa bần tăng dù bần tăng luyện được thân pháp Quang Minh!
Bỗng, Nhất Âu hỏi:
– Ngươi đã nói là «Đại La Thất Thức» không thắng nổi thân pháp Quang Minh của ngươi, thế thì do đâu ngươi bằng lòng tiếp nhận sự mời thỉnh của Hương Đình Tiên Tử?
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Không cưỡng ép được bần tăng bằng vũ công, bà ấy dùng ngôn ngữ thuyết phục!
Quan Sơn Nguyệt chen vào:
– Chắc những lời lẽ của Hương Đình Tiên Tử cao minh lắm nên lão Thiền Sư mới cảm phục được, Lão Thiền Sư có thể thuật lại cho tại hạ nghe chăng?
Khổ Hải Từ Hàng trầm ngâm một lúc, đoạn lắc đầu:
– Chịu thôi, bần tăng khó tuân lịnh thiếu Lịnh chủ!
Quan Sơn Nguyệt biết không thể nào bức bách lão tăng nói những gì lão không tiện nói, nên thở dài, lộ vẻ thất vọng ra mặt.
Mọi người đều có một niềm suy tư riêng biệt, ai ai cũng mơ màng theo đuổi ý tưởng của mình, chẳng ai nói với ai tiếng gì nữa.
Qua một lúc lâu Quan Sơn Nguyệt hỏi cả bốn người hiện diện:
– Về Long Hoa Hội, tại hạ đã hiểu được ít nhiều chi tiết, tuy nhiên vẫn còn một vài thắc mắc chẳng hay các vị có bằng lòng giải thích cho tại hạ được hiểu.
Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:
– Về Long Hoa Hội, chưa nghe nói đến thì ai ai cũng tưởng là một tổ chức bí mật, song có thấy rồi, thì chung quy cũng chỉ là một hội tầm thường, cũng bao gồm những tranh chấp nhỏ nhen và hội viên xoay quanh quyền lợi, ngoài ra chẳng có một chủ trương nào cao diệu, có tiện ích thiết thực cho người đời. Nó rất đơn giản như vậy, Quan thế huynh đã biết rõ quá rồi, bần tăng thấy không còn chi tiết nào quan trọng cần giải thích với thế huynh nữa. Giả như thế huynh còn thắc mắc, theo bần tăng nghĩ những thắc mắc đó hẳn phải thuộc về lịnh ân sư, là Hoàng Hạc Tán Nhân. Mà những gì thuộc về lão ấy, thú thật bần tăng chẳng hiểu nhiều bằng hai vị Tiên Tử. Tốt hơn bần tăng xin nhường cho hai vị Tiên Tử làm cái việc giải đáp thắc mắc cho Quan thế huynh.
Lão tăng dừng lại một chút, nhìn thoáng qua Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo điểm một nụ cười bí hiểm, tiếp:
– Quan thế huynh cứ hướng về họ, hỏi gì thì hỏi, chắc chắn là họ sẽ không từ chối phúc đáp đâu!
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:
– Lão trọc không muốn nói, thì cứ để cho bọn ta nói, cần gì phải vẽ vời rườm rà?
Khổ Hải Từ Hàng gật gù:
– Nếu Tiên Tử chịu tiết lộ thì còn chi hơn? Hẳn là sự việc phải rành rẽ lắm!
Lý Trại Hồng trừng mắt nhìn Liễu Y Ảo.
Liễu Y Ảo hấp tấp thốt:
– Sư tỷ yên trí! Tiểu muội chỉ nói những gì có thể nói thôi!
Lý Trại Hồng nhếch nụ cười khổ:
– Nói được một, hai, cứ nói trọn, muội cần gì phải giấu phần này phần nọ?
Đã muốn giấu bớt, thì còn nói làm chi?
Liễu Y Ảo bắt đầu tường thuật ...
Nhưng, Khổ Hải Từ Hàng chừng như nhớ đến một sự gì, vội chen lời chận lại:
– Tiên Tử nên cân nhắc lợi hại đấy nhé! Phải biết quanh vùng, ít nhất cũng có mấy trăm mạng người, mà sự an toàn của họ đều do nơi thái độ của Tiên Tử đó, bần tăng vì sanh mạng của toàn thể, mà nhắc khéo Tiên Tử thôi, còn thì tùy Tiên Tử nói ...
Liễu Y Ảo cau mày:
– Thực ý của ngươi như thế nào hả?
Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:
– Trong mảnh giấy của Hương Đình Tiên Tử lưu lại cho hai vị, có khi rõ ràng những điều quan trọng, bần tăng còn nói gì nữa cho thành thừa!
Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút, đoạn tiếp:
– Ngươi muốn đề cập sự việc của đại sư tỷ, để cảnh cáo ta? Ngươi liên tưởng đến hắn à? Vừa rồi, chẳng qua vì may mắn ...
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Đừng tưởng trên đời này có những may mắn! Không đâu, bất cứ sự thành công nào cũng có nguyên nhân. Chính Hương Đình Tiên Tử ngày trước đã nói với bần tăng như vậy, lúc đó bần tăng không tin, xong bây giờ thì ...
Liễu Y Ảo trừng mắt:
– Ngươi đừng lo nhảm, ta bảo chứng với ngươi mà, chẳng hề có việc đó đâu!
Ngươi cứ đi đi, trong hai khắc thời gian trở lại đây, ngươi sẽ biết!
Họ nói gì với nhau, có vẻ bí mật quá chừng?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Bần tăng cảm kích thành ý của tiên tử. Thực ra, đối với tiên tử, điều đó chẳng gây một tổn hại nào, bất quá bần tăng chỉ khuyên tiên tử đừng gấp, bởi dục tốc bất đạt mà! Hòa hưởn mà hành sự, thì vĩnh viễn được an toàn, vĩnh viễn chẳng có gì lo nghĩ. Trông cái gương của Hoàng Hạc và Hương Đình đó, họ có cái kết cuộc tốt đẹp quá hẳn Tiên Tử cũng biết tại sao chứ!
Liễu Y Ảo gắt:
– Đừng nói nhảm:
Quan Sơn Nguyệt đứng đó, mà tưởng chừng như ở một thế giới cách biệt muôn trùng, cố lắng nghe, cố tìm hiểu, vẫn không thấu đáo nổi những ẩn ý của họ qua cuộc đối thoại.
Khổ Hải Từ Hàng day qua chàng, mỉm cười, thốt:
– Quan thế huynh miễn cho bần tăng cái việc phải vắng mặt bất ngờ nhé, trong hai khắc sau, bần tăng sẽ trở lại, có sự quan trọng cần nhờ thế huynh ...
Khổ Hải Từ Hàng đi rồi, Liễu Y Ảo còn đứng thừ người ra đó, tâm tư trầm trọng, một lúc lâu, lại nhìn sang Lý Trại Hồng chừng như để hỏi ý kiến.
Lý Trại Hồng thở dài:
– Hiền muội hãy nghe theo lời lão trọc đi! Trước kia, ngu thơ có ý khinh thường lão, nhưng hiện nay thì ngu thơ đã bắt đầu thấy cái chân giá trị của con người lão, lão ta cũng thông minh, sáng suốt, có nhiều kinh nghiệm trên trường đời, những nhận xét của lão rất xác đáng ...
Liễu Y Ảo thở dài, trầm ngâm một lúc, đoạn day qua Quan Sơn Nguyệt, bảo:
– Đi thôi!
Nàng tung mình lên không, như chui vào mây, Lý Trại Hồng theo liền.
Linh Cô nắm tay áo của Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng theo luôn.
Ai ai cũng giỏi thuật khinh công, họ lướt đi trong mây mờ, một lúc sau, đến khu rừng tùng, nơi đó, hai con bạch hạc Lôi và Đình còn đậu trên cành cây, chờ họ.
Nơi họ đến, là Tử Hư Tiên Phủ.
Lối kiến trúc đại quy mô, phô rõ vẻ huy hoàng tráng lệ.
Liễu Y Ảo và Lý Trại Hồng vào phủ, Linh Cô đưa Quan Sơn Nguyệt theo sau.
Nhìn qua tiên phủ, Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Tân kỳ quá! Nơi đỉnh núi cao, đường lên hiểm trở như thế này, lại tạo dựng được một cơ sở hoa mỹ, thiết tưởng phải tổn phí công phu và thời gian vô cùng quan trọng!
Linh Cô mỉm cười:
– Đừng nhìn cái vẻ bên ngoài rồi thán phục, tôi chỉ sợ vào trong rồi thiếu hiệp lại thất vọng nặng nề!
Nhưng Quan Sơn Nguyệt chưa thấy cái vẻ gì chứng minh lời nói của Linh Cô, bởi nơi chàng đặt chân là đại sảnh, lối bày trí hết sức huy hoàng. Như vậy thì, bên trong có phản ngược bên ngoài đâu? Tại sao nàng bảo là đừng nhìn vẻ ngoài mà phê phán toàn diện?
Linh Cô lại lôi chàng đi luôn, thay vì dừng lại đại sảnh.
Qua khỏi đại sảnh, cả hai đi theo con đường hành lang, đến trước một gian phòng, Linh Cô vén bức rèm châu qua một bên rồi đưa Quan Sơn Nguyệt vào gian phòng đó.
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Bây giờ, chàng mới chịu nhận ra Linh Cô nói đúng.
Đứng bên ngoài nhìn gian phòng ai ai cũng cho đó là cung vàng, các ngọc, nhưng vào trong rồi mới thấy tường loang lổ, bốn bề tơ nhện giăng mắc bịt bùng, nền phòng lợp những bụi, mùi mốc meo lên, khó ngửi vô cùng.
Một tiên phủ huy hoàng làm gì có một gian phòng tiêu điều hoang phế như thế này?
Trong gian phòng, chẳng có vật dụng chi cả, ngoài mấy chiếc chiếu cỏ, hiện tại Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo mỗi người ngồi trên một chiếc chiếu xếp bằng tròn.
Liễu Y Ảo đưa tay bảo Quan Sơn Nguyệt:
– Hãy tạm ngồi trên chiếu đó!
Quan Sơn Nguyệt ngồi xuống, trên gương mặt vẻ kinh dị vẫn còn hiện rõ.
Liễu Y Ảo mỉm cười, hỏi:
– Thiếu hiệp có nhận thấy, nơi đây thô lậu đơn giản lắm chăng?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn đáp:
– Không hẳn là thô lậu, đơn giản, bởi một cơ sở dù thô lậu, đơn giản, cũng vẫn che mưa đón gió cho con người được như thường. Mình cho là đơn giản, thô lậu, chỉ vì mình có tánh cầu kỳ đó thôi. Có điều, tại hạ lấy làm lạ về chỗ tương phản giữa bên ngoài và bên trong.
Lý Trại Hồng cười nhẹ:
– Thiếu hiệp có biết nơi đây là địa phương nào chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.
Lý Trại Hồng đáp:
– Nơi đây, là địa phương luyện công của chị em tôi đó! Có thể bảo là suốt một năm dài, chị em tôi ở mãi trong gian phòng này, thời gian ở bên ngoài, cộng lại cho trọn năm, chẳng hơn một ngày!
Vì bắt đầu quý trọng Quan Sơn Nguyệt, cả hai tiên tử phải dùng cái sáo của ngôn ngữ để đối thoại với chàng, do đó họ xưng tôi và gọi chàng là thiếu hiệp.
Quan Sơn Nguyệt lại lắc đầu:
– Thật tại hạ không hiểu nổi! Phàm luyện công, nơi nào lại chẳng thuận tiện? Tại sao phải an bài một địa điểm vừa đơn giản, vừa thô lậu như thế này?
Lý Trại Hồng mỉm cười:
– Đó là bí quyết của cái việc tầm Tiên. Tiên, là thoát tục, Tiên phải dứt khoát mọi cám dỗ trên đời, cho nên bên cái cực đoan phú quý, chị em tôi giam mình trong cái cực đoan nghèo nàn. Tập cho quen chịu đựng cái cực đoan nghèo nàn, thiếu thốn, nhìn cái cực đoan phú quý, thừa thãi mà diệt trừ lòng ham muốn, khi nào đạt được cái tập quán đó rồi, mới có thể sống với cảnh tịch mịch.
Quan Sơn Nguyệt chừng như hiểu, chừng như không, tuy nhiên chàng cũng gật đầu.
Lý Trại Hồng tiếp:
– Hoa nở dù đẹp, chẳng có hoa nào tồn tại ngàn năm. Trăng tròn dù sáng chẳng có trăng nào tròn mãi ngàn năm. Cầu Tiên, là tìm lối thoát, thoát khỏi cái luật thừa trừ của tạo hóa! Cái đạo lý đó, chắc thiếu hiệp hiểu rõ ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Cao thâm quá! Huyền diệu quá! Tại hạ không thể nào thấu triệt!
Lý Trại Hồng đột nhiên cười lớn:
– Trong thiên hạ, có cái gì tồn tại mãi với thời gian? Có cái gì chẳng phải là tạm? Mà tạm thì có khác nào là giả tạo? Rời bỏ giả tạo, tìm về chân như, xa cái tạm thời, tìm về vĩnh viễn, trên đời này có mấy ai thừa can đảm làm cái việc đó?
Giọng cười của bà ta nghe sao bi thảm vô cùng!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ ...
Chàng tự hỏi, họ đang mơ màng, hay họ khảo luận với đầy đủ lý trí ...
Sáu mươi năm trước có một nho sĩ, họ Bá Lý, tên Bất Bình từng nuôi mộng công hầu nhưng mỗi lần lều chõng ra đi, mỗi lần đến trường thi là mộng vỡ tan tành, sau cùng lòng nguội lạnh, lìa quê quán, tầm tiên.
Tầm tiên, cũng là một lối nuôi mộng, mà không nơi nào mộng được thực hiện dễ dàng bằng đỉnh Vu Sơn. Bởi, ngày xưa, có vị Vua từng nằm mộng gặp tiên tại Thần Nữ Phong, thì ngày nay muốn tìm tiên, Bá Lý Bất Bình tự nhiên chọn nơi đó để làm cái đích của chuyến viễn hành.
Vào thời gian đó, Bá Lý Bất Bình, tuổi độ hơn ba mươi.
Lên đến đỉnh Thần Nữ Phong rồi, quả nhiên y thấy bóng dáng một nữ nhân!
Nơi đây tịch mịch, quanh năm suốt tháng chẳng có bóng người, mà trong vòng mấy trăm dặm, phụ cận, chẳng có cư dân làm gì có nữ nhân ở trên đỉnh núi cao? Hẳn nhiên, nữ nhân phải là tiên, y nghĩ như vậy.
Mà tiên nữ thì hầu hết đều đẹp, mặc dù lúc đó nữ nhân đưa lưng về y, y chẳng thấy rõ mặt mày, y vẫn hình dung ra nữ nhân hẳn phải đẹp lắm!
Đẹp như tiên!
Bá Lý Bất Bình không tưởng là đã thành tiên lại để gặp tiên như thế.
Gặp tiên, thế là mộng đã thành. Mộng tìm tiên sao dễ hơn mộng công hầu chứ?
Bá Lý Bất Bình hết sức mừng rỡ, bước nhanh tới, đồng thời gọi to. Gọi, y có biết xưng hô làm sao mà gọi? Bất quá y cất tiếng báo hiệu sự hiện diện của y, cho nữ nhân quay mình lại.
Nữ nhân quay mình thật.
Bá Lý Bất Bình vừa trông thấy gương mặt nữ nhân, bất giác giật mình, thay vì tiến tới, y lùi lại mấy bước!
Nữ nhân xấu xí quá, chẳng khác nào nữ dạ xoa!
Y lùi, nữ nhân bước tới, bắt buộc y phải dừng chân, và cuộc đối thoại miễn cưỡng diễn ra.
Qua cuộc đối thoại, Bá Lý Bất Bình được biết nữ nhân họ Ôn tên Kiều.
Thực sự, nữ nhân cũng chẳng biết tên và họ của mình là chi.
Lúc sanh nữ nhân, cha mẹ thấy con xấu xí quá, đoạn tâm đem bỏ nơi chân núi, nhờ một bậc dị nhân trông thấy, nhặt về nuôi dưỡng đặt cho tên Kiều. Họ Ôn, chính là họ của vị dị nhân đó.
Sau khi truyền hết vũ công cho Ôn Kiều, vị dị nhân đó quy tiên. Ôn Kiều lại trở thành cô đơn quạnh quẽ như trước. Nghĩ mình quá xấu xí, không thể chen đứng giữa dòng đời, nên Ôn Kiều cam phận nương náu chốn non cao, sống cảnh tịch mịch.
Cái nhan sắc của Ôn Kiều dĩ nhiên không khích động nổi tâm tình của Bá Lý Bất Bình, bởi y tầm tiên thì gặp quỷ, làm sao y thích chí nổi? Tuy nhiên, lỡ dở nghề văn, y bắt đầu chú ý đến nghiệp võ, thấy Ôn Kiều có võ công cao, y ngưỡng mộ ngay, do đó, lưu lại đỉnh núi, đàm đạo suốt đêm dài.
Ôn Kiều bình sanh chưa hề tiếp cận nam nhân, mà Bá Lý Bất Bình lại khâm phục vũ công của nàng, cả hai cảm thấy có cái gì ràng buộc họ với nhau. Họ trở thành thân mật không mấy chốc, và cuối cùng thì họ kết thành vợ thành chồng với nhau, cùng sống cảnh tịch mịch bên nhau, qua ngày, đoạn tháng ...
Bá Lý Bất Bình nhờ Ôn Kiều truyền thụ vũ công, y quyết tâm trở thành một tay vũ dũng siêu phàm thì tự nhiên phải cố gắng luyện lập.
Ngoài những giờ tập luyện dưới sự chỉ dẫn của Ôn Kiều, Bá Lý Bất Bình còn nghiên cứu tất cả những pho bí kíp do dị nhân để lại.
Ôn Kiều kém chữ nghĩa, nên dù có những quyển sách vô giá trong tay, cũng chẳng dùng được.
Bá Lý Bất Bình thì muốn mình mau giỏi hơn Ôn Kiều, nên tìm tòi được gì hay, lại giấu vợ, âm thầm luyện tập một mình. Do đó, không lâu lắm, y luyện được một tài nghệ trên hẳn Ôn Kiều. Và bắt đầu từ ngày y giỏi hơn hơn vợ, thì y cũng dần dần lạnh nhạt vợ. Trước kia, y chịu đựng nổi dung nhan xấu xí của Ôn Kiều bây giờ thì y lộ vẻ khinh bỉ ra mặt.
Ôn Kiều cũng biết là chàng không còn giữ tình cảm đậm đà tha thiết như trước, thoạt tiên bà cứu tưởng là vì bà xấu xí, nên chồng mau sanh chán. Mãi cho đến lúc vợ chồng cãi vã nhau, đến phải động thủ với nhau, Ôn Kiều mới thức ngộ ra là Bá Lý Bất Bình ỷ trượng tài cao, định phản bội bà, quyết giết bà, bây giờ y không còn cần nhờ bà nữa, thì y cũng chẳng cần vờ vĩnh nghĩa ân chồng vợ.
Thì ra, bà bị y lợi dụng!
Bà vừa căm hận vừa đau đớn về thái độ của chồng.
Cũng may cho Ôn Kiều, trước lúc lâm chung, vị dị nhân đó có truyền lại cho bà ta một chiêu độc đáo, cái chiêu đó bao hàm trọn sở học của vị dị nhân, cho nên dù Ôn Kiều không tra cứu được bí kíp vũ công, dù Bá Lý Bất Bình có ý xấu, giấu giếm vợ để tập luyện một mình, cuối cùng Ôn Kiều giở chiêu thức đó đánh bại Bá Lý Bất Bình.
Tuy Bá Lý Bất Bình quyết hạ sát bà ta, để dứt khoát đoạn tình duyên bất đắc dĩ, Ôn Kiều trái lại nghĩ đến tình chồng nghĩa vợ, không nở hạ thủ đoạn với lão ta, nên sau khi đánh bại lão rồi, bà dùng lời nghiêm trách nặng nề, đoạn bỏ đi luôn.
Bắt đầu từ đó, Bá Lý Bất Bình ỷ trượng vào sở học, làm bất cứ việc gì muốn làm, dù việc làm có trái đạo lý. Lão cũng ly khai Thần Nữ Phong, dấn bước trên khắp mọi nẻo đường khắp Trung Nguyên.
Lão không hề gặp một đối thủ.
Mang tài cao đi khắp núi sông, cốt tìm kẻ đồng sức đồng tài, để thi thố sở năng, con nhà võ ai ai cũng ham thích điều đó, song đi mãi, chân đã chùn, ý đã chán lão không còn hăng say với cái mộng dọc ngang nữa. Lão trở về Thần Nữ Phong tiếp tục luyện công.
Những bí kíp của vị dị nhân lưu lại, gồm ba bộ.
Bộ thứ nhất, chỉ dẫn cách tu tiên, luyện khí, cho thành bậc siêu phàm, dù không hẳn là được thành tiên, song ít ra cũng thoát tục. Bộ sách đó, có cái tên là «Đại La Tiên Kíp».
Bộ sách thứ hai, tên là «Thiên Ma Bửu Lục», chỉ dạy các loại công phu tà ma, luyện bộ sách này được thành tựu, thì cũng nghiễm nhiên là tay vô địch trong thiên hạ.
Bộ cuối cùng, là bộ «U Minh Huyền Kinh», dạy cách luyện một thứ công phu quái dị, đồng thời nghiên cứu cách thức sử dụng các oan hồn và các xác chết.
Hai bộ sách sau thuộc về Ma và Quỷ, không đòi hỏi khó khăn lắm, cho nên bất cứ ai có chuyên tâm, cũng có thể luyện thành.
Chỉ có bộ sách đầu tiên, bộ «Đại La Tiên Kíp», là vô cùng bí ảo, chỉ nội cái việc tra cứu thôi, cũng đủ phí bỏ cả một đời người rồi, nói gì đến việc có thời gian tập luyện?
Tuy nhiên, Bá Lý Bất Bình nản chí ngao du, chứ không nản chí học tập, lão ta cam tâm trong cảnh tịch mịch, quyết kiêm luyện hoàn hảo đủ ba bộ sách.
Trong thời gian tập luyện đó, lão ta có thu nhận bốn môn đồ, đó là Lâm Hương Đình, Tạ Linh Vận, Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm.
Trong bốn người đệ tử, chỉ có Tạ Linh Vận là nam nhân thôi còn ba người kia thuộc phái nữ.
Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng đều là những trang tuyệt sắc, còn Tây Môn Vô Diệm thì xấu xí hơn nữ dạ xoa.
Sở dĩ Bá Lý Bất Bình thu dụng Tây Môn Vô Diệm, chẳng qua lòng còn hoài niệm Ôn Kiều.
Trong bốn người đệ tử, Bá Lý Bất Bình thích hợp nhất Tạ Linh Vận, đúng như lời Khổ Hải Từ Hàng đã nói trước đó với Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo.
Về tiên đạo, Bá Lý Bất Bình chẳng lãnh hội được bao nhiêu bí quyết, có thể nói là lão luyện dở dang pho «Đại La Tiên Kíp». Riêng về hai pho sau:
«Thiên Ma Bửu Lục» và «U Minh Huyền Kinh» thì lão ta có nghiên cứu tận tường nên lão truyền cho các đệ tử những môn công của hai pho sau nhiều hơn pho trước.
Tạ Linh Vận thông minh, học ít biết nhiều, nên chẳng mấy chốc mà đã tỏ ra tay khá.
Rất tiếc, về hai pho bí kíp sau, muốn học qua, tất phải thực nghiệm cuộc hòa hợp âm dương, tức nhiên nam nữ phải gần nhau để suy ra chân lý. Do đó mà Bá Lý Bất Bình dù muốn dù không cũng phải chấp thuận một cuộc dâm loạn tại sơn môn. Nói đúng hơn, chính lão ta ra lịnh cho các môn đồ phải dâm loạn, bởi có dâm loạn mới thực nghiệm được môn học.
Lão ta dành Lâm Hương Đình về phần mình, còn Tạ Linh Vận vẫn ham muốn Lâm Hương Đình lắm, song làm sao y dám tranh giành với sư phụ? Cho nên y phải xoay qua Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm.
Lý Trại Hồng nào có thích gì Tạ Linh Vận, chẳng qua sự tình bắt buộc, bà ta phải chịu vậy thôi, một là để luyện công, hai là vì có lịnh của sư phụ, bà không dám cải.
Chỉ có Tây Môn Vô Diệm vốn xấu xí, lại được chung chạ với Tạ Linh Vận, và sẵn sàng làm mọi việc theo ý muốn của Tạ Linh Vận.
Lâm Hương Đình cũng chẳng thích gì, dù bà ta được sư phụ chọn và ấp yêu rất mực.
Thực là một môn phái cực kỳ quái dị!
Cả sư lẫn đồ, cộng thành năm người, dần dần chia ra ba nhóm, Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng chung nhóm, nhóm thứ hai gồm Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm.
Nhóm thứ ba, chỉ có độc mỗi một mình Bá Lý Bất Bình.
Cả ba nhóm cùng quây quần nhau, vừa loạn dâm, vừa luyện công, thiết tưởng trên giang hồ, chưa từng có một môn phái nào hỗn tạp gần như quy tụ cầm thú ...
Bá Lý Bất Bình cho phép Tạ Linh Vận muốn làm gì thì làm, trừ cái việc xâm phạm đến Lâm Hương Đình thôi, y có làm điều chi sái quấy Bá Lý Bất Bình cũng đều che chở cả. Do đó, Lý Trại Hồng hết sức bất mãn.
Tuy không thành công về đường tu tiên, Bá Lý Bất Bình vẫn tiếp tục nghiên cứu «Đại La Tiên Kíp» như thường. Nhưng, vào những năm cuối cùng, lão ta bỗng thức ngộ là mình làm một việc vô vọng, bởi trên đời chưa phải bất cứ ai dùng nhân lực mà biến thành tiên được, vả lại biết đâu thực sự có tiên hay không có tiên?
Bỏ cái ý định tu tiên, lão xoay qua việc thành lập Long Hoa Hội.
Hội Long Hoa, là Quần Tiên Hội, do các văn sĩ từ nghìn xưa tạo dựng qua ảo tưởng, phàm một cái gì phát sanh từ ảo tưởng thì khi nào cái đó được thành hình, được thực hiện như một sự thể hiển nhiên?
Thế mà lão vẫn tiến hành, lão quyết dùng nhân lực thực hiện cái điều mà người xưa tưởng tượng ra cho vui vậy thôi!
Cùng với bốn đại đệ tử, lão lại rời Thần Nữ Phong, ra đi khắp các phương trời, mỗi người đi một hướng, tìm hào kiệt anh hùng, kết nạp.
Lão đặt căn cứ địa tại Thần Nữ Phong, đổi tên thành Tiểu Tây Thiên, để làm nơi tụ hội quần tiên không có tiên thật thì dùng tiên giả, cho Long Hoa Hội thành hình.
Một sư bốn đồ lao nhọc hơn nửa năm dài, chung quy cũng quy tụ được một số người, và Long Hoa Hội chánh thức được thành lập, và cuộc lễ đầu tiên được khai mạc, dưới quyền điều khiển của chính lão.
Lần thức nhất đó, chỉ có chín mươi tám cao thủ họp mặt, về phương diện hội thì thành hình, còn về phương diện thế lực thì kém quá bởi nhân số rất ít.
Tiên thì phải là ngàn tiên, vạn tiên, chứ tiên đâu có lưa thưa độ trăm người?
Cuộc hội vì thế không nhiệt náo nổi.
Chẳng qua, tại Bá Lý Bất Bình gấp rút thành lập Hội Long Hoa, nên không thể quyến rũ một số đông như mong muốn trong thời gian ngắn ngủi.
Khổ hơn nữa, là trong số chín mươi tám người quy tụ đó tài mạo phẩm cách bất tương đồng, rắn, trâu, heo, chó, lẫn lộn, Ma Quỷ Thần Thánh hỗn tạp, tự nhiên họp thì có họp, mà mỗi người có mỗi tư tưởng riêng biệt, chẳng ai nhân nhượng ai.
Một cuộc họp như vậy, có kéo dài đến bao lâu, cũng chẳng đưa đến một kết quả nào, và dù hội có thành lập, hội chỉ có danh mà không có thực. Cho nên Long Hoa Hội, vốn là Quần Tiên Hội, người trong hội phải đồng đảng, Bá Lý Bất Bình hoạch định một chương trình, tạm thời theo chương trình đó hành sự, chờ ngày phát đạt ...
Đương nhiên lão ta ở riêng một nơi, tự xưng là Tiên, và cái nơi lão ở có cái tên là Thiên Ngoại Thiên.
Lão tuyển chọn trong số chín mươi tám người, lấy ra mười bảy người, cho liệt danh vào Tiên Bảng. Chính lão ta trực tiếp thống lĩnh người trong Tiên Bảng.
Kế đó, lão lập ra Ma Bảng, trao quyền thống lãnh Ma Bảng cho Tạ Linh Vận.
Ma Bảng gồm một số người, đông hơn Tiên Bảng.
Bốn mươi lăm người còn lại, lão cho lập thành Quỷ Bảng, liệt danh họ trên Quỷ Bảng. Quỷ Bảng do Tây Môn Vô Diệm điều khiển.
Đương nhiên bất luận là về bảng nào, tuy có người trực tiếp thống lãnh, quản suất, song cái quyền tối thượng vẫn còn do lão nắm giữ.
Hội đã thành lập, Bá Lý Bất Bình vẫn còn bất mãn với nhân số quá ít. Lão cho rằng quần hùng trong thiên hạ chưa theo về đông đảo, nên ra lịnh năm năm sau, sẽ khai đại hội một kỳ, và các hội viên phải tìm cách gọi cho thật nhiều người gia nhập, làm thế nào cho tất cả cao nhân trong toàn quốc đều tham gia.
Sau ngày thành lập ba bảng Tiên, Ma và Quỷ, lão cũng có lập ra quy điều, luật lệ, ước thúc hội viên ...
Trong số chín mươi tám người tham dự kỳ đại hội đầu tiên phần đông do Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm đưa về Thần Nữ Phong.
Hành vi của bọn này rất ti tiện, khả ố, họ không đợi Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm phải dùng lắm lời khuyên dụ, chỉ nghe cả hai cho biết sơ lược là họ hoan nghinh liền.
Một ít người có hành vi chánh trực, thì bị bức bách mà theo, Tạ Linh Vận có thâm ý dùng số người do y thu nạp, làm hậu thuẫn cho một chủ trương của y sắp thực hiện trong tương lai ...
Thế lực của Tạ Linh Vận càng ngày càng lớn mạnh, lắm lúc y bất tuân cả lịnh của Bá Lý Bất Bình.
Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng thấy rõ, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn, nếu họ không sớm có viện thủ đắc lực, thì trong một ngày rất gần, họ sẽ bị Tạ Linh Vận khống chế, như y đã khống chế bao nhiêu người. Ai khác thì chịu nổi sự khống chế của y, chứ hai người thì nhất định là không rồi. Do đó, cả hai càng nỗ lực tìm người kết nạp.
Lần hồi, họ gặp Nhàn Du Nhất Âu, Vạn Lý Vô Vân, Nhất Luân Minh Nguyệt ... nhưng, dù sao thì người chân chánh bao giờ cũng hiếm, do đó, hai bà vẫn chưa tạo dựng được một thế lực vững vàng, tương xứng với cánh đối lập.
Hai bà nỗ lực, Tạ Linh Vận cũng chẳng ngồi yên một chỗ, y càng cố công thu nạp thuộc hạ, bởi y chẳng cần tuyển chọn người theo tiêu chuẩn phẩm cách, nên thuộc hạ của y càng ngày càng đông. Tuy số người của y thu nạp rất hỗn tạp, tựu trung vẫn có tay rất khá, chẳng hạn Thiên Tề Ma Quân Kỳ Thiên Trường, thân phụ của Kỳ Hạo ...
Riêng về Bá Lý Bất Bình, lão ta cũng có thu nhận thêm một người nữ đệ tử.
Nữ đệ tử đó, chính là Liễu Y Ảo.
Lúc nhập môn, nàng chỉ có mười bốn tuổi, Bá Lý Bất Bình rất mực thương yêu nàng. Lão xem nàng như một đứa con, chỉ trong vòng hai mươi năm thôi, lão truyền thọ cho nàng tất cả sở học, đồng thời không cho nàng trà trộn với các nam đệ tử khác, sợ nàng nhiễm cái lối học tập bằng dâm loạn, nói rằng để phối hợp âm dương, chứ kỳ thực là thỏa mãn nhục dục. Nhờ thế, nàng còn giữ được sự trong trắng của nàng.
Cũng trong thời gian đó, Bá Lý Bất Bình chừng như thức ngộ chân lý của pho Tiên Kíp Đại La, tâm tánh của lão thay đổi nhiều, lão định bỏ con đường tà ma, quay về chánh đạo, do đó ngày đêm lão chuyên luyện.
Là con người thành tựu từ Ma đạo, bỗng nhiên trở về Tiên đạo, hai thái cực đó không thể dung hòa nhau được, cuối cùng lão phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma. Trọn phần dưới thân thể của lão hoàn toàn bất động.
Tuy vậy, lý trí của lão vẫn còn sáng suốt, từ lúc tẩu hỏa nhập ma, lão phát hiện ra, không thể làm hưng vượng cái đạo Ma được, lão lại còn biết rõ, Tạ Linh Vận không thể là người nối chí của lão, nếu đặt tin tưởng quá nặng nơi y, thì cầm như sự nghiệp của lão phải tiêu tan.
Nhưng, đã muộn rồi! Chính lão mặc nhiên chấp nhận cho Tạ Linh Vận gầy thực lực bây giờ, rất khó mà loại trừ y. Công khai loại trừ y trong lúc này, là thế nào cũng có biến, Bá Lý Bất Bình sẽ lãnh hậu quả trước hết. Lão phải nghĩ ra một phương pháp an toàn.
Những sở đắc thu thập từ «Đại La Tiên Kíp», lão truyền cho bọn Lâm Hương Đình, đồng thời lại nghiên cứu một chiêu thức khả dĩ ức chế «Tu La Kiếm Pháp» do lão truyền thọ cho Tạ Linh Vận, phòng khi Tạ Linh Vận manh tâm khuynh loát Long Hoa Hội.
Cho nên Tạ Linh Vận có «Tu La Tứ Thức», bọn Lâm Hương Đình có «Đại La Thất Thức», để khắc chế «Tu La Kiếm Pháp» của Tạ Linh Vận.
Lão lại bày ra luôn một tín phù, đặt tên «Tru Tiên Lịnh». Chiếc tín phù, lão trao cho Lâm Hương Đình.
Lão cũng bịa luôn huyền thoại về thanh Bạch Hồng Kiếm, cốt để chế phục dã tâm của Tạ Linh Vận, chứ thực ra thanh kiếm đó chẳng có giá trị gì, đúng như Khổ Hải Từ Hàng đã tiết lộ với Lý Trại Hồng.
Trong cuộc triệu tập môn đồ, trao quyền lãnh đạo cho Lâm Hương Đình, lão vận dụng công lực còn lại biểu hiện cái oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, dằn được mặt Tạ Linh Vận rồi, lão cũng chết luôn ...
Đại khái, huyền thoại quanh Long Hoa Hội là thế!
Quan Sơn Nguyệt nghe thuật rồi, sững sờ một lúc lâu.
Sau cùng, chàng hỏi:
– Khổ Hải Từ Hàng gọi Bá Lý Bất Bình tiền bối là Pháp Hoa Thánh Giả ...
Lý Trại Hồng chận đáp:
– Đó là danh hiệu của sư phụ xưng ta giữa đại hội Long Hoa. Theo mạng lịnh của sư phụ, thì bất cứ ai cũng chẳng được dùng cái tên thật của mình nữa, và mỗi người tự ý chọn lựa một danh hiệu, phù hạp với Bảng của mình ... Như người thuộc về Tiên Bảng, thì chọn Tiên hiệu, còn người trong Ma Bảng, Quỷ Bảng, thì chọn Ma hiệu, Quỷ hiệu.
Bà tiếp luôn:
– Kẻ nào phạm lịnh đó, phải bị trừng phạt nặng nề, có thể thọ tử hình đấy.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Cho nên, ân sư tại hạ mới xưng là Hoàng Hạc Tán Nhân!
Lý Trại Hồng cũng gật đầu.
Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:
– Cái vị Ôn lão tiền bối?
Lý Trại Hồng lắc đầu:
– Chẳng hiểu rõ nữa! Từ ngày ly khai sư phụ, bà không hề tái xuất hiện trên giang hồ. Nếu tính theo số tuổi thì nếu bà còn sống đến nay, tuổi bà phỏng độ trên dưới số trăm rồi! Rất có thể bà đã ra người thiên cổ!
Quan Sơn Nguyệt nghe u buồn man mác len lỏi vào tâm hồn, dù rằng lão Ôn kia, chẳng mảy mai liên hệ đến chàng, song bi ai của một đồng loại cũng khích động cảm hoài nơi chàng, cũng như nơi tất cả những kẻ có lòng trong thần thế ...
Bà ấy đúng là một con người bạc hạnh, bạc từ dung mạo, bạc đến duyên số, bạc cả vũ công, bà sanh ra trên đời chỉ để chuốc thảm đeo sầu, bà bị ruồng rẫy từ lúc sơ sanh đến khi bạc mái đầu và có lẽ bà đã phơi thây ở một phương trời nào đó, lòng đất lạnh cũng chẳng muốn tiếp nhận bà, bởi bà cô độc đơn côi, lúc chết đi, chắc gì có ai gặp, có ai xót thương nắm xương tàn mà vùi nông vùi sâu?
Suy nghĩ một lúc, Quan Sơn Nguyệt chợt nói:
– Còn mấy pho bí kíp của Pháp Hoa Thánh Giả?
Lý Trại Hồng đáp:
– «U Minh Chân Kinh» và «Thiên Ma Bửu Lục» thì còn đây, bọn này đã học xong toàn bộ, hai quyển đó chẳng còn giúp ích được gì nữa. Quyển «Đại La Tiên Kíp» thì đã bị sư phụ đốt cháy thành tro rồi.
Quan Sơn Nguyệt cao hứng, vỗ tay:
– Đốt là phải! Nên đốt! Chứ nếu vật đó còn tồn tại và vào tay Tạ Linh Vận, thì sẽ có tai hại khôn lường cho thiên hạ về mai hậu!
Lý Trại Hồng nhìn thoáng qua chàng hỏi:
– Giá như pho bí kíp đó vào tay bọn tôi, thì ngược lại tôi và Liễu hiền muội có thể ức chế Tạ Linh Vận chăng?
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Dù bí kíp đó có mang cái tên Đại La, và được xem như là một Tiên vật, song tại hạ chỉ sợ đó là một Tiên vật trá hình, và bên trong hẳn ghi chú những phương pháp tập luyện công phu tà ma quỷ quái. Do đó nếu người nào chuyên luyện, thì cũng như kẻ mù đi sai đường, chẳng có lợi cho mình, mà còn có hại cho kẻ khác.
Lý Trại Hồng chớp mắt:
– Tại sao thiếu hiệp biết như vậy?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Bá Lý lão tiền bối bỗng nhiên có cái ý niệm tổ chức ra hội Long Hoa, thiết tưởng cái ý niệm đó phát sanh từ pho bí kíp Đại La. Sở dĩ hai quyển «U Minh Chân Kinh» và «Thiên Ma Bửu Lục» không đề cập đến việc đó, là vì quyển «Đại La Tiên Kíp» có ghi chú rồi, và chính vì «Đại La Tiên Kíp» có ghi chú nhiều điều lạ kỳ, nên Bá Lý lão tiền bối chẳng dám để quyển sách đó cho mọi người trông thấy, lão liền bối sợ các đệ tử đọc qua, sẽ biết cái giả tạo của lão và mất đi lòng tôn phục mà những người nắm quyền lãnh đạo cần có.
Lý Trại Hồng gật đầu, thở dài thốt:
– Thiếu hiệp nói đúng!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Trên cảnh do ảo tưởng mà có, mông lung phiêu diêu, một cảnh giới trong hư vô, tại sao lấy một việc cố định mà làm căn bản cho sự cầu tiến chứ? Tiên đạo, bất quá chỉ là một Ma đạo cao thâm, do đó càng mơ hồ, người ta không cho rằng mơ hồ, mà lại tán tụng là huyền diệu, bởi cái được gọi là huyền diệu, thì dễ hấp dẫn con người hơn! Cũng may Bá Lý lão tiền bối vì thức ngộ, nếu không thì đã lôi cuốn thêm biết bao nhiêu người vào vòng tai hại, và cái hậu quả sẽ không lường cho giang hồ!
Chàng thở dài, thốt:
– Đốt cháy «Đại La Tiên Kíp», mà Bá Lý tiền bối vẫn còn duy trì Long Hoa Hội, đều đó đủ chứng minh cái ma niệm của lão tiền bối đã quá thâm sâu trong tâm não ...
Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo biến sắc mặt:
– Thế ra, chúng tôi đều là người trong Ma đạo, bởi Tiên đạo như lời thiếu hiệp nói đó, thì chỉ là Ma đạo cao thâm?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đúng vậy! Theo sự nhận xét của tại hạ, thì hai vị tuy đi theo con đường chánh, hành động trong phạm vi chánh đạo, nhưng vẫn không che dấu nỗi cái tà khí bao bọc quanh người.
Lý Trại Hồng nín lặng.
Liễu Y Ảo càng phút càng biến đổi thần sắc. Cuối cùng nàng vụt đứng lên.
Lý Trại Hồng đưa ánh mắt nghiêm nghị, sang nàng, nàng cúi đầu ngồi xuống như cũ.
Quan Sơn Nguyệt lờ đi, như chẳng thấy chi cả. Chàng điểm nhẹ nụ cười, hỏi:
– Trong trường hợp nào, ân sư tại hạ gia nhập Long Hoa Hội?
Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút, đoạn đáp:
– Hoàng Hạc Tán Nhân đến Thần Nữ Phong do đại sư tỷ Lâm Hương Đình hướng dẫn. Người có mặt trong kỳ đại hội cách đây độ hai mươi năm. Đại hội lúc đó nhiệt náo phi thường, thiên hạ anh hùng quy tụ rất đông, và bọn tôi thì đều vượt bậc, không còn ai ở trong bảng nữa, mà đã nghiễm nhiên trở thành hoặc Tiên hoặc Ma, hoặc Quỷ. Cả Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm cũng được hưởng đặc cách đó, không ai còn bận lo lắng về việc của đại hội. Bởi, Long Hoa Hội đã được ủy thác cho bốn vị Hội Chủ chiếu quản. Bốn vị hội chủ đó là Hoàng Hạc Tán Nhân, Nhất Âu, Tây Nhạc Ma Tinh và Bắc Mao Quỷ Sứ ...
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tại hạ có biết những người đó.
Lý Trại Hồng tiếp:
– Bốn người đó là những người đầu bảng, tuyển chọn họ làm Hội Chủ rồi, thì chức vụ đầu bảng khuyết người, cho nên Khổ Hải Từ Hàng được cất nhắc lên đầu Tiên Bảng, cũng như Thiên Tề Ma Quân làm thủ lãnh quần Ma, và Âm Phong Quỷ Quân làm thủ lãnh quần Quỷ. Tiên Bảng gồm ba mươi sáu người, Ma Bảng có bảy mươi hai người, và Quỷ Bảng có đến trăm người. Quang cảnh Long Hoa Hội lúc đó náo nhiệt tưng bừng lòng người phấn khởi phi thường.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Cách thức tuyển chọn người vào Bảng, như thế nào?
Lý Trại Hồng giải thích:
– Dĩ nhiên là phải lấy vũ công làm tiêu chuẩn. Dù vậy, người được chọn ở bảng trên, có quyền xin được xuống bảng dưới, chẳng hạn Thiên Tề Ma Quân ...
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ biết rõ thâm ý của lão ấy. Chẳng qua, ở Tiên Bảng, sao cho bằng sụt xuống một nấc, tuy nấc thấp, song lão lại được đứng đầu, lão chỉ huy một số đông!
Lý Trại Hồng gật đầu:
– Đó cũng là một lý do trong nhiều lý do khác. Sự thay đổi của Thiên Tề Ma Quân sở dĩ có, cũng do Tạ Linh Vận, một phần hắn sợ Thiên Tề Ma Quân nhập Tiên Bảng thì lực lượng của nhóm Tiên quá hùng hậu đi, bởi vũ công của Thiên Tề Ma Quân rất cao. Hắn cố thuyết phục lão ta trở về Ma Bảng, để cùng hắn gây phe, kết đảng, hầu chống lại nhóm Tiên của bọn tôi.
Quan Sơn Nguyệt chau mày:
– Như vậy là sai với quy luật của Hội, tại sao Lâm Hương Đình Tiên Tử chấp nhận chứ?
Lý Trại Hồng thở dài:
– Đại sư tỷ đã phát giác ra, Bạch Hồng Kiếm chẳng hề có oai lực như đã tuyên bố. Thanh kiếm đó không còn dùng ức chế Tạ Linh Vận nổi nữa, thì đành phải để cho hắn mặc tình làm chi thì làm, rồi tùy cơ mà tiết giảm lực lượng hắn dần dần ... Cự tuyệt hẳn với hắn, biết đâu có biến cố xảy ra, rất bất lợi cho bọn tôi?
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt đã hiểu Long Hoa Hội như thề nào rồi. Chỉ còn mỗi một thắc mắc cuối cùng, là sự liên quan giữa ân sư với Lâm Hương Đình thôi.
Lý Trại Hồng tiếp:
– Trong số quần hùng tụ hội, chỉ có Hoàng Hạc Tán Nhân lỗi lạc hơn hết.
Bởi, lão qua khỏi Lôi Đình Tam Kích, không hề bị thương tổn!
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Lôi Đình Tam Kích là sao?
Lý Trại Hồng giải thích:
– Một cách thức trắc nghiệm vũ công của hội đối với người gia nhập. Cách thức đó có ba giai đoạn, nên gọi là Tam Kích. Nhất Kích, do đôi Bạch Hạc bay lơ lửng trên không, bất thình lình nhào xuống tấn công. Đệ Nhất Kích cũng nguy hiểm lắm, tuy rằng đôi hạc là loại thượng cầm song chúng rất lợi hại ...
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tại hạ có gặp chúng rồi!
Lý Trại Hồng lộ vẻ kinh dị.
Liễu Y Ảo thuật sơ lược:
– Lúc thiếu hiệp lên đây. Thiếu hiệp chống trả đôi hạc, mường tượng Hoàng Hạc ngày trước. Lòng bàn tay của thiếu hiệp bị chân hạc quào, gây một vết thương nhỏ, may mà tôi đến kịp thời lấy thuốc giải độc thoa vào, chứ nếu không thì ...
Lý Trại Hồng chỉnh nghiêm thần sắc:
– Đành rằng Quan thiếu hiệp bị móng chân bạch hạc quào trúng, song chúng ta phải công nhận thiếu hiệp có vũ công cao thâm hơn Hoàng Hạc ngày trước một phần. Vì đại sư tỷ luôn luôn đề phòng bọn Tạ Linh Vận, ngày ngày ra công huấn luyện hai con hạc, hiện tại chúng lợi hại hơn xưa gấp trăm, gấp ngàn lần. Gia dĩ, nơi móng chân của chúng, đại sư tỷ tẩm chất tuyệt độc. Chất độc đó thấm vào máu là người bị quào phải chết ngay, thế mà thiếu hiệp lại chịu đựng nổi mấy phút giây, kể cũng là một sự phi thường đó.
Quan Sơn Nguyệt bỗng dưng lại được ca ngợi, hết sức bối rối. Nếu chàng nói mấy lời khiêm nhường, thì chẳng hóa ra mình muốn người ta xác nhận lại một lần nữa sao?
Lý Trại Hồng đáp:
– Hai cách sau, một do đại sư tỷ, một do Tạ Linh Vận. Thắng được một chiêu «Đại La Thất Thức» do đại sư tỷ thủ và một chiêu «Tu La Tứ Thức» do Tạ Linh Vận thủ.
Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:
– Đệ nhị kích và đệ tam kích, xem ra, rất khó mà vượt qua nổi!
Lý Trại Hồng gật đầu:
– Đúng vậy! Và chỉ có mỗi một mình Hoàng Hạc Tán Nhân qua lọt mà thôi.
Lão ta là người duy nhất qua lọt, từ ngày Long Hoa Hội được thành lập đến nay.
Quan Sơn Nguyệt cảm thấy vinh hạnh lây với thành tích của ân sư.
Lý Trại Hồng thốt đến đó, rồi nín lặng.
Quan Sơn Nguyệt chờ một chút, không nghe bà ta nói gì, lại hỏi:
– Rồi sau đó?
Lý Trại Hồng tiếp:
– Qua cuộc thực nghiệm Lôi Đình Tam Kích rồi, là đến những cuộc so tài, phô diễn tuyệt kỹ, tranh nhau giành Bảng, giành ngôi vị trong Bảng. Cuối cùng là tiệc rượu vui, tiệc rượu kết thúc ngày đại hội ...
Bà dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn:
– Đáng lý ra, theo đề nghị của nhiều người, cứ mỗi định kỳ năm năm là Long Hoa Hội được triệu tập một lần, song riêng một Hoàng Hạc Tán Nhân thì chống đối, lão ta quyết giữ y quy lệ cũ, cứ mỗi khoảng hai mươi năm họp một lần.
Lão muốn thế, đại sư tỷ của tôi vốn có cảm tình với lão, phải giữ lệ cũ. Cho nên trong vòng hai mươi năm qua, chẳng có một cuộc hội họp nào cả, mãi đến hôm nay ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Cứ theo lời tường thuật của các vị cũng như của Kỳ Hạo và Khổ Hải Từ Hàng, thì Long Hoa Hội chẳng có gì đáng gọi là bí mật. Thế tại sao người trong hội đối với người ngoài, lại có vẻ thần bí lạ lùng? Đã cho phép hội viên xuất ngoại, kêu gọi, dụ dẫn người gia nhập, mà lại giữ bí mật, thế là nghĩa làm sao?
Còn ai biết mình sẽ tham gia hội gì, sẽ làm gì, mà chấp thuận?
Lý Trại Hồng thở dài:
– Đó là độc kế của Tạ Linh Vận! Chính hắn đã nghĩ ra những điều lệ đó.
Người chấp chưởng đại quyền về hình phạt là Thiên Tề Ma Quân, một người thuộc bè đảng của hắn, giả như người trong Tiên Bảng có phạm quy luật, thì Thiên Tề Ma Quân nhất định áp dụng luật lệ, quyết chẳng dung tình. Chúng cố ý tỉa dần vi cánh của chị em tôi, nên an bài phương thức chế ngự hà khắc như vậy.
Bà trầm giọng tiếp:
– Thiếu hiệp thử nghĩ, suốt thời gian dài hằng hai mươi năm, có ai giữ ý gìn lòng chặt chẽ? Cho nên đã có nhiều người bị cái lệ khắc nghiệt đó hãm hại. Tuy cá nhân của người phạm tội chưa đến đỗi nào, song dù sao Tiên Bảng cũng giảm đi phần nào thịnh thế!
Quan Sơn Nguyệt mơ màng:
– Người trong Long Hoa Hội đông đảo quá, lại rải rác khắp nơi, ai có khả năng nào giám thị toàn thể một cách chặt chẽ nổi?
Lý Trại Hồng đáp:
– Hệ thống trinh sát của chúng rất linh hoạt, chúng huy động rất nhiều thuộc hạ, khắp nơi, âm thầm theo dõi bọn người trong Tiên Bảng, chúng chỉ theo dõi những người của Tiên Bảng thôi, tự nhiên công cuộc của chúng được giản dị hơn, do đó phần hiệu dụng phải tăng gia. Chúng thừa lực lượng giám thị như thường!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:
– Thế mà từ bao lâu nay, ân sư chẳng hề tiết lộ mảy mai.
Lý Trại Hồng mỉm cười:
– Hoàng Hạc Tán Nhân vốn có tính cẩn thận, nếu lão không tiết lộ với thiếu hiệp, chẳng qua lão đã có chủ trương, lão an bài như thế nào cho thiếu hiệp trước rồi đó! Chẳng hạn, cái chủ trương của lão là sẽ đưa thiếu hiệp đến Long Hoa Hội, thay thế lão ta ở chức vị Hội Chủ. Không ngờ nửa chừng lại có cuộc biến hóa ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Lý Trại Hồng điềm nhiên tiếp:
– Chắc thiếu hiệp còn hoang mang? Nếu cần, thiếu hiệp cứ hỏi Khổ Hải Từ Hàng, nhà sư đó sẽ giải thích cho thiếu hiệp hiểu rõ hơn, hay lão ta xác nhận cho thiếu hiệp biết chắc. Ân sư của thiếu hiệp giao tình rất trọng hậu với lão ta, họ chẳng giấu giếm nhau một sự gì cả. Chính những việc có liên quan đến đại hội, mà ân sư của thiếu hiệp chẳng cho chị em tôi biết, chỉ bàn luận với một mình Khổ Hải Từ Hàng thôi, đủ biết họ thân mật với nhau như thế nào. Công cuộc hôm nay, dĩ nhiên chị em tôi biết được phần về người và việc, là nhờ mảnh giấy của đại sư tỷ lưu lại.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ trầm trọng.
Mảnh giấy của Lâm Hương Đình lưu lại! Mảnh giấy đó nói gì? Chàng muốn xem mảnh giấy đó lắm, song làm sao mở miệng hỏi Lý Trại Hồng? Biết bà ta sẵn sàng trao cho chàng xem chăng?
Chàng im lặng trầm tư.
Lý Trại Hồng hỏi:
– Bây giờ, thiếu hiệp còn muốn biết điều chi nữa chăng?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tại hạ muốn biết, Lâm Tiên Tử làm cách nào, mời được ân sư vào hội?
(mất trang) Thượng Xuân, phàm người trong hội, bất cứ thân hay thù, cũng phải xuất lực tiếp trợ Bốc Thượng Xuân, bởi đó là bổn phận của mỗi hội viên, bổn phận tương trợ!
Quan Sơn Nguyệt lại được biết thêm một đoạn sự tình nữa.
Lý Trại Hồng thở dài:
– Thực ra, hơn một trăm người Long Hoa Hội, đối với nhau không ân là oán, không thân là thù, tình thế đã đưa người trong hội vào cái cảnh tranh chấp rõ rệt, và hội viên phân thành hai khối đối lập với nhau ...
Bà dừng lại, cau mày tiếp:
– Ngày thường, hận thù nhau đến đâu, chẳng ai dám khiêu khích ai, ai ai cũng phải nén lòng chờ đến ngày đại hội, lúc đó mặc tình sanh sát nhau, phe nào ủng hộ, bênh vực phe nấy ...
Họ oán thù, hay thân mật với nhau, điều đó chẳng liên quan gì đến Quan Sơn Nguyệt, chàng không cần biết đến. Chàng luôn luôn thắc mắc về trường hợp của Độc Cô Minh. Chàng hỏi:
– Tiên tử nói mãi, chưa đề cập đến sự tình giữa ân sư tại hạ và Lâm Tiên Tử.
Chẳng hay, uẩn khúc bên trong như thế nào?
Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:
– Sau kỳ đại hội hai mươi năm trước, Hoàng Hạc Tán Nhân được đại sư tỷ mời đến biệt phủ. Hoàng Hạc Tán Nhân lưu lại Thần Nữ Phong một thời gian, cả hai hết sức tương đắc. Tạ Linh Vận biết được điều đó, vô cùng bất mãn, cho rằng hắn ghen tức cũng không ngoa, bởi từ lâu, hắn có tình ý với đại sư tỷ rất nặng.
Trước kia, sư phụ tôi còn tại thế, chẳng nói làm gì, sau này sư phụ quy tiên, hắn tưởng là sư tỷ sẽ đổi ý, chưởng hướng tâm tình về hắn, ngờ đâu Hoàng Hạc xuất hiện, chận lối ngăn đường, hắn có ý muốn giết Hoàng Hạc, song còn ngại oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng. Không giết được tình địch, hắn nghĩ ra phương pháp khác. Hắn đem cái việc đại sư tỷ ngày trước, dâm loạn với sư phụ tiết lộ cho Hoàng Hạc biết!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Ân sư tại hạ có cái tâm sáng như nhật nguyệt, khi nào người lư ý đến điều đó! Người xét việc, xét từ căn nguyên, nhất định không bằng vào hậu quả mà đáng giá trị của bất kỳ ai!
Lý Trại Hồng chớp mắt:
– Thiếu hiệp nói đúng. Hoàng Hạc cười nhẹ, đáp lời Tạ Linh Vận như thế này:
«Sở dĩ có những việc như thế, là do sự tình bất đắc dĩ, viên ngọc dù có bị mang vùi bùn, khi lên khỏi bùn, ngọc vẫn sáng chói như thường, chính cái đức tính của con người, mới là ngọc, còn xác thân chẳng qua là vật hữu loại, quý gì mà phải thiết tha?» Câu đáp của Hoàng Hạc, từng gây cảm xúc đến tôi, huống hồ đại sư tỷ.
Quan Sơn Nguyệt thở nhẹ, khoan khoái phi thường.
Lý Trại Hồng tiếp:
– Lần thứ nhất, Tạ Linh Vận thất bại. Hắn chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn phân khai Hoàng Hạc và đại sư tỷ.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Độc kế của hắn như thế nào?
Lý Trại Hồng thoáng đỏ mặt. Lâu lắm, bà ta mới thấp giọng đáp:
– Trong cái kế đó, tôi có dự phần! Và cũng chính tự tay tôi xúc tiến ...
Quan Sơn Nguyệt sửng sốt, giương tròn mắt nhìn bà.
Lấy lại bình tĩnh, Lý Trại Hồng tiếp luôn:
– Nói ra, thiếu hiệp có cười, tôi cũng đành chịu. Tôi thực sự yêu lịnh sư, yêu thầm, yêu trộm, vì đã có đại sư tỷ yêu công khai rồi! Mà cái sự yêu thầm nhớ trộm đó lại không qua lọt đôi mắt của Tạ Linh Vận! Hắn lợi dụng ...
Quan Sơn Nguyệt hết sức chú ý, lắng nghe.
Liễu Y Ảo kêu lên:
– Sư tỷ! Không nói ra lại chẳng được sao?
Lý Trại Hồng thở dài:
– Phải nói mới được, sư muội ạ! Phải nói ra, cho lòng ngu thơ được nhẹ, ngu thơ cảm thấy mình có tội với đại sư tỷ, tuy đại sư tỷ không phiền trách, ngu thơ cũng chẳng thể dung thứ cho mình ...