Quan Sơn Nguyệt thản nhiên, đứng nguyên tại chỗ, không hề vì sự xuất hiện của Tạ Linh Vận mà khích động tâm thần.
Tạ Linh Vận cứ ung dung, miệng điểm nụ cười. Khi còn cách Quan Sơn Nguyệt độ mươi bước, y dừng chân lại.
Quan Sơn Nguyệt bình tịnh thốt:
– Cuối cùng rồi, ngươi cũng ra mặt.
Tạ Linh Vận vẫn giữ nụ cười:
– Phải đó, ta nhận thấy, làm sao cũng phải tự tay thu thập ngươi mới được.
Ta không thể giao phó phần việc đó cho ai khác.
Quan Sơn Nguyệt mỉa:
– Thế ra, những thủ hạ của ngươi toàn bọn vô dụng! Cái bọn chồn bầy, chó lũ của ngươi đó!
Tạ Linh Vận mất ngay bình tĩnh, nổi giận, dửng cao đôi mày quát:
– Tiểu tử! Ngươi đừng quá ỷ trượng vào thanh kiếm Bạch Hồng và «Đại La Kiếm Pháp» của ngươi! Thực ra, bọn ngươi là chi, nếu chẳng phải là một lũ chồn, một lũ chó? Sao ngươi dám khinh miệt bọn ta? Cho ngươi biết, chưa chắc gì kiếm pháp Đại La của ngươi hơn hẳn kiếm pháp Tu La của ta! Bằng cớ là vừa rồi, ngươi chẳng tạo nên một kỳ công nào cả!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Ta hiểu lắm! Và ta tin là do ngươi thi triển, kiếm pháp Tu La phải có oai lực phi thường, chứ không như vợ chồng Kỳ Hạo vừa múa may rối mắt đó đâu!
Và, ta cũng tin luôn là ngươi sẽ gây khó khăn chật vật cho ta lắm đó.
Trước cũng như sau, chàng vẫn giữ sự bình tịnh, như chẳng xem đối tượng ra gì. Dù chàng nói là Tạ Linh Vận sẽ gây khó khăn cho chàng, chàng vẫn không tỏ lộ gì lo lắng, sợ hãi.
Cái thái độ của chàng làm cho Tạ Linh Vận phải ngán, và y tự dặn lòng phải hết sức dè dặt. Y khích một câu:
– Ngươi tự biết vậy, nhưng ngươi tự kiểm soát lại xem, có đủ dũng khí giao đấu với ta chăng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Kiểm soát lấy mình mà làm chi nữa? Dù ta có dũng khí, dù ta có khiếp hãi, ta vẫn giao đấu với ngươi, ta không còn cách nào khác. Bổn phận của ta, là mang lại một bảo đảm cho mạng sống của bao nhiêu người kia, ta không có quyền từ khước bổn phận!
Nghe giọng nói của Quan Sơn Nguyệt yếu quá, Tạ Linh Vận đắc ý vô cùng.
Y cười ha hả, thốt:
– Ngươi buông lời vô lễ, khích nộ ta, chứ thực ra thì ta đâu có thích giết ngươi? Ngươi chẳng biết đó thôi, ta vốn là người có đại lượng lắm, nếu bọn kia đừng làm chi trái ý ta, thì ta sẽ duy trì Long Hoa Hội, mọi người ở bảng nào, theo bảng đó như cũ, tuân theo quy luật mà hành động, giữ hòa khí trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Ta chỉ mong được vậy thôi, tất cả sẽ được vui vẻ như ngày trước, còn ta thì khỏi phải làm cái việc lạm sát.
Quan Sơn Nguyệt cứ giữ vẻ yếu mềm, lắc đầu đáp:
– Khó lắm! Một mình ta không thuyết phục nổi tất cả, ta chỉ sợ sau này có người sanh lòng riêng rẽ, thì chung quy cũng có phiền phức như thường!
Bỗng chàng đổi giọng, pha cái vẻ mỉa mai, tiếp:
– Huống chi, Long Hoa Hội là một tổ chức điên loạn, trước kia, họ bị bức bách mà gia nhập, họ sợ một uy thế nào đó, mà thành cúi đầu chúi vào lao lung ...
Tạ Linh Vận nổi giận:
– Nói nhảm! Trước kia nào có ai uy hiếp sư phụ ngươi đâu, thế tại sao lão ta cam tâm tình nguyện vào hội, và giữ mãi thân phận Hội Chủ suốt hai mươi năm dài? Chẳng lẽ sư phụ ngươi cũng mất lý trí đến độ lao đầu vào một tổ chức điên loạn?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Có gì lạ đâu? Chỉ vì lúc sư phụ ta vào hội, thì hội do Hương Đình Tiên Tử chủ trì, hoạt động của hội còn hợp với chánh nghĩa phần nào. Nhờ Hương Đình Tiên Tử lãnh đạo, hội mới còn tồn tại đến ngày nay, chứ nếu hội do ngươi điều khiển, thì những ai đã lỡ bị ngươi dụ hoặc vào hội rồi, cầm như sống để chờ chết, chết sướng hơn sống!
Tạ Linh Vận phẫn uất cực độ, hét lên:
– Câm ngay cái mõm chó của ngươi lại! Tiểu súc sanh đã chán sống rồi nên khích ta đưa gấp về với tổ tiên phải không?
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên như thường, điểm nụ cười nhạt gật đầu:
– Phải! Ta chán sống lắm rồi! Ta chờ ngươi giết hộ đây! Ngươi làm được việc đó, ta vừa phục ngươi, vừa cảm kích vô cùng!
Bổng, Tạ Linh Vận dằn cơn phẫn uất, lấy lại bình tĩnh, từ từ nói:
– Tiểu tử biết không, bình sanh ta không hề làm một việc gì mà chưa tin là thành công chắc chắn ...
Quan Sơn Nguyệt chận lời ngay:
– Điều đó thì ta biết rõ lắm, chả hạn, trước kia, ngươi đâu có chịu cam phận thấp hèn, bởi ngươi không tin là mình thắng nổi Hương Đình Tiên Tử, nên ngươi ẩn nhẫn đến hôm nay!
Tạ Linh Vận thỏa thích vô cùng:
– Đúng quá! Và, gần đây, nhận thấy Lâm Hương Đình không còn đáng sợ nữa, ta định đến ngày đại hội Long Hoa vừa qua, bức bách Hương Đình chuyển nhượng quyền lãnh đạo toàn thể nhân vật trong Phong Thần Bảng, gồm ba hạng như ngươi đã biết. Ngờ đâu, bà ấy cũng khá thông minh ...
Quan Sơn Nguyệt cười mỉa:
– Hương Đình Tiên Tử thấy rõ cái dã tâm của ngươi, tự nhiên bà phải chuẩn bị. Bà cũng hiểu là chẳng thể chế phục ngươi dễ dàng ...
Tạ Linh Vận bật cười ha hả:
– Và bà ta chuồn mất!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tránh cái thủ đoạn thứ nhất của ngươi, bà ta bắt buộc phải lánh mặt. Hay nói một cách khác, trước kế hoạch của ngươi gồm nhiều giai đoạn, bà cũng chuẩn bị một chương trình ứng phó gồm nhiều giai đoạn, những giai đoạn của song phương đối chọi nhau, ta nhận thấy, phần hữu hiệu thiên hẳn về Hương Đình Tiên Tử. Cho nên, vắng mặt trong ngày đại hội, Tiên tử đã thi triển một thủ đoạn trong nhiều thủ đoạn đó.
Tạ Linh Vận cao ngạo:
– Rồi kế đó, bà ấy đã làm như thế nào? Bà ta chọn ngươi, đại diện cho bà ta, để chế phục ta?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đúng vậy! Bà biết rõ, ta thừa sức làm cái việc đó hộ bà!
Thoạt đầu, Tạ Linh Vận có giật mình một chút, song sau đó, y lấy lại bình tĩnh, bật cười cuồng dại, thốt:
– Hương Đình chọn ngươi! Một cuộc tuyển chọn sáng suốt cực độ. Thật không ngờ bà ấy thông minh quá chừng!
Y nói thật, trong câu nói, không hàm chứa một hậu ý gì chứng tỏ y mỉa mai, còn như thái độ cuồng ngạo của y, sở dĩ hiện lộ ra bên ngoài, chẳng qua y khinh thường Quan Sơn Nguyệt thôi. Y tiếp:
– Ta không hiểu ngươi có thấu đáo câu nói của ta chăng, nhân dịp này, ta công bố ra đây, cho toàn thể nhân số trong ba bảng nghe rõ, đồng thời nếu ngươi chưa hiểu, sẽ có dịp hiểu luôn với mọi người.
Y dừng lại một chút, đảo mắt nhìn quanh cục trường một vòng, đoạn tiếp:
– Trước kia ta ngán sợ Lâm Hương Đình, là vì nàng có thanh kiếm Bạch Hồng và kiếm pháp Đại La. Chính Lâm Hương Đình cũng ỷ trượng vào hai lợi thế đó, chế phục ta. Nhưng, sau nhiều năm nghiên cứu, ta biết rõ kiếm pháp Đại La cũng như thanh kiếm Bạch Hồng, thuộc thuần dương, do đó, một nữ nhân chẳng hề đạt đến mức tinh vi của kiếm thuật, dù cố công luyện tập như thế nào ... Một nữ nhân chẳng bao giờ phát huy trọn vẹn tất cả oai lực của kiếm pháp qua thanh Bạch Hồng!
Quan Sơn Nguyệt chận lời y:
– Ngươi nói phải, trước kia, vì ngán sợ Lâm tiên tử, ngươi cố đè nén dã dâm, rồi từ ngày ngươi phát hiện ra cái đạo lý vừa kể thì ngươi bắt đầu buông lung tàn bạo, thực hiện mưu gian. Trước cái dã tâm bừng dậy như sóng cồn của ngươi, Hương Đình Tiên Tử bắt buộc phải lánh mặt. Bà lánh mặt để truyền thọ kiếm pháp Đại La cho ta, bà lại giao luôn thanh Bạch Hồng Kiếm cho ta ...
Tạ Linh Vận cao giọng chận chàng lại:
– Ta cho, Lâm Hương Đình sơ suất một điều rất quan trọng, là hấp tấp truyền thọ sở học cho ngươi, lại hấp tấp sai ngươi xuất trận đối phó với ta!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Sơ suất như thế nào, ngươi giải thích cho ta nghe xem?
Tạ Linh Vận đáp:
– Bất cứ kiếm pháp nào cũng vậy, muốn đạt đến mức tinh vi, người luyện phải cần một thời gian thích ứng, phàm môn học nào, nếu học viên đốt giai đoạn để mong chóng thành công, thì sự thành công đó, dù có, cũng phù phiếm, cái căn cơ rất mỏng manh, do đó mà hiệu lực không được biểu hiện đúng mức. Lâm Hương Đình chọn ngươi là nam để truyền sở học thuần dương, là hợp lý, song làm sao trong thời gian mấy hôm mà ngươi lãnh hội được chỗ ảo diệu của kiếm pháp?
Làm sao ngươi sử dụng thuần thục được thanh kiếm báu? Mới đây, ta thấy ngươi thi triển kiếm thuật đó, tuy ngươi có thắng được bọn Kỳ Hạo, song ta nhận ra thủ pháp của ngươi còn miễn cưỡng lắm, và công lực của ngươi chưa đủ để phát huy cơ năng của một kiếm pháp tân kỳ với một thanh kiếm cổ truyền. Tuy nhiên, ta cũng thành thật khen ngươi, trong vòng ba hôm, mà ngươi tập luyện được như vậy kể ra cũng khá lắm!
Quan Sơn Nguyệt phải phục sự nhận xét của Tạ Linh Vận. Sự khâm phục đó hiện rõ nơi ánh mắt của chàng.
Tạ Linh Vận nhìn vào mắt chàng, hiểu được tâm tư của chàng, y càng đắc ý hơn, bật cười sang sảng:
– Giả như ngươi luyện tập được ba năm trở lên, thì ta phải sợ ngươi. Chứ còn hiện tại thì ta không hề nao núng ...
Y vừa thốt, vừa cười, giọng càng sang sảng, tiếng cười giành tiếng nói, cuối cùng thì tiếng cười lấn át cả tiếng nói, thành ra đoạn sau của câu nói, chẳng ai nghe lọt.
Chưa biết được cái kết quả như thế nào, những người trước đó, hoàn toàn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt, bây giờ bị Tạ Linh Vận gieo niềm hoang mang, họ đã bắt đầu lo ngại.
Niềm tin, đặt nơi Quan Sơn Nguyệt giảm sút đi phần nào.
Họ lo ngại cũng phải, bởi họ nhìn Quan Sơn Nguyệt, xem thần sắc của chàng có biến đổi chăng, sau câu nói của Tạ Linh Vận. Họ nhận ra chàng có vẻ suy tư. Chàng càng suy tư, họ càng lo ngại.
Một lúc lâu, chàng đáp:
– Ngươi nhận xét rất đúng, tuy nhiên ngươi quên một điều.
Tạ Linh Vận ngưng cười, hỏi:
– Ta quên điều gì?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Ngươi quên nghĩ đến tín tâm của ta! Phàm làm việc gì, việc đó có thành công hay không, phần lớn là do niềm tin của người làm. Việc khó, mà niềm tin vững, việc hẳn phải thành. Việc dễ, mà mất hẳn niềm tin, thì việc đó cầm như vô công.
Tạ Linh Vận trố mắt:
– Tín tâm? Tín tâm có quan hệ gì trong công cuộc này?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:
– Tín tâm giúp ta lập những kỳ công, tín tâm có hiệu lực cải biến tình hình, chuyển bại thành thắng, đổi nguy ra an.
Tạ Linh Vận trầm ngâm một chút:
– Hay!
Bỗng, y bật cười ha hả, tiếp:
– Thế ra, nếu hôm nay bọn các ngươi thoát khỏi tay ta, là do một kỳ công, mà cái kỳ công đó do sự tín tâm của ngươi mang lại! Được lắm! Ta muốn thấy sự tín tâm của ngươi có nhiệm mầu gì, cứu bọn ngươi thoát chết dưới tay ta! Vào đi, Quan Sơn Nguyệt, vào mà lập kỳ công, cứu nhân độ thế! Cái nhân thế ở sau lưng ngươi kia!
Quan Sơn Nguyệt không hề mất bình tĩnh trước sự khiêu khích mỉa mai của Tạ Linh Vận. Chàng điềm nhiên nói:
– Bởi ta có cái chách nhiệm lớn lao, bảo toàn sanh mạng hơn trăm người, ta mới nuôi dưỡng tín tâm, nắm cơ tất thắng. Rồi ngươi sẽ thấy những màu nhiệm tín tâm phát sanh, rồi ngươi sẽ thấy kỳ công của ta tạo ra!
Tạ Linh Vận ngưng cười. Y đã thức ngộ một điều gì đó, qua câu nói của Quan Sơn Nguyệt. Y nhận ra, chàng trai đối diện đó quả là một kình địch đáng sợ cho y, y sợ là vì giao đấu với một người chấp nhận sự vong ngả, thì cuộc chiến phải ác liệt phi thường.
Vong ngả, là bất chấp an nguy cho bản thân, vong ngả để thực hiện một lợi ích cho nhiều người, sự vong ngả đó rất kiên định, và phàm ai nuôi dưỡng một lý tưởng, bằng mọi giá, người đó phải thực hiện lý tưởng cho bằng được! Chiến đấu với một lý tưởng chánh đáng, lẻ tất thắng đã hiện lộ trước khi cuộc chiến bắt đầu rồi.
Còn như y, y chiến đấu với cái gì? Y có lý tưởng chăng? Hay là chỉ để thỏa mãn một tham vọng?
Những kẻ có tham vọng, phần đông đều tham sống, sợ chết, nội cái việc đó cũng đủ chứng tỏ là Tạ Linh Vận yếu! Đem tinh thần không dám chết, giao đấu với một kẻ sẵn sàng chết, cái khí hùng đã kém, thì mong gì chiếm tiên cơ?
Tạ Linh Vận không còn dám khinh thường đối phương nữa. Y từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ, thanh kiếm chạm vỏ kêu xoang xoảng, ra khỏi vỏ rồi, nó bổng sáng ngời ngời.
Thanh kiếm của y quý hơn hai thanh kiếm của Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh là cái chắc, song dù sao thì vẫn còn kém xa Bạch Hồng Kiếm.
Tạ Linh Vận khẽ búng tay vào thân kiếm, bật lên những tiếng kêu «coong coong», đoạn y trang trọng thốt:
– Thanh Minh Kiếm đây! Nó là vật thường dùng của Tôn Quyền thời Tam Quốc phân tranh. Thanh Minh Kiếm đành rằng không sánh kịp Bạch Hồng Kiếm, song ta tin là nó có thể chịu đựng bảy tám chiêu, mà chẳng gãy!
Quan Sơn Nguyệt nhìn thoáng qua Thanh Minh Kiếm, điểm nhẹ một nụ cười:
– Phải! Một thanh kiếm quý! Càng quý hơn nữa, là kiếm pháp phổ vào thanh kiếm. Nhưng, dù sao «Tu La Kiếm Pháp» có thể bảo trì cho thanh kiếm khỏi gãy, ngược lại nó không bảo đảm nổi chiếc đầu của ngươi còn dính liền nơi cổ.
Tạ Linh Vận cười nhạt:
– Hơn một trăm người trong cánh của ngươi, hoặc sanh, hoặc tử, đều do nơi sự tín tâm của ngươi. Hơn một trăm người trong cánh của ta, ký thác sự tồn vong vào sở học của ta, cuộc đấu giữa ta và ngươi hẳn là công bình đúng mức rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Ngươi nói sai! Ta thất bại, là hơn trăm người phải mất mạng. Còn ngươi thất bại, thì bất quá máu chỉ loang trong một địa điểm năm bước tròn, và số người thiệt mạng, chỉ giới hạn với một mình ngươi! Duy nhất một mình ngươi thôi!
Tạ Linh Vận sợ đồng bọn nghe lọt, vội cười to, thốt:
– Đó là chủ trương của ngươi, đối với ta chẳng quan hệ gì. Bởi, ta chết rồi, thì ta làm sao chiếu cố đến ai được nữa? Ngươi cố chấp, họ vẫn chịu, ngươi rộng rãi, họ được nhờ. Đó là việc sau, còn hiện tại thì ta chỉ biết là cuộc đấu giữa chúng ta rất công bình. Ta biết vậy là đủ.
Họ đối thoại, bốn mắt nhìn nhau, bốn chân cùng xê dịch.
Bước đi của họ trầm trọng, đá dưới chân nát nghiền, bật thành tiếng kêu rạo rạo.
Song phương cùng di động, toàn diện cục trường im phăng phắc.
Họ càng đến gần nhau, sự im lặng càng nặng nề.
Trong cảnh im lặng nặng nề đó, đột nhiên một tiếng quát vang lên, rồi một ánh chớp lóe sáng, Thanh Minh Kiếm nơi tay Tạ Linh Vận vút ra. Y xuất phát chiêu đầu.
Chiêu đó, có cái tên là «Vân Thảm Vụ Sầu», kiếm pháp thuộc Ma đạo mà thành, chiêu kiếm cũng có cái tên tà quái, cho nên kiếm vừa xuất phát, là phát sanh mây đen, mây đen che kín ánh dương quang, biến cục trường đang sáng thành tối, nhưng chẳng tối hẳn, rồi trong bóng tối mờ mờ đó, văng vẳng lên tiếng quỷ rú, ma gào. Kiếm pháp Tu La với chiêu thức đó, biến trần gian thành địa ngục, gieo khủng khiếp trọn vùng mờ tối, phàm những ai hiện diện tại cục trường, đều khiếp đảm kinh tâm.
Những người nhát, trong cả hai bên, đều run sợ.
Lo ngại! Đương nhiên là những người đặt trọn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt phải lo ngại là cái chắc, những người bên cánh của Tạ Linh Vận, vì vũ đạo cũng lo ngại như thường, bởi những kẻ thực tâm vì vũ đạo, chỉ chú trọng đến vũ công, mà không hề xem thù oán là quan hệ.
Họ tự hỏi:
“Quan Sơn Nguyệt sẽ làm sao đối phó với chiêu kiếm quỷ khóc thần sầu đó?”.
Họ tự hỏi như thế, chứ có ai tìm được câu giải đáp? Bởi chẳng có một dữ kiện nào giúp họ tìm câu giải đáp. Vì, ít nhất họ cũng phải trông thấy Quan Sơn Nguyệt như thế nào, thần sắc chàng ra sao, chàng ứng phó với chiêu thức gì? Họ chẳng thấy gì cả, hiện tại Quan Sơn Nguyệt đang bị một lớp mây đen, không dày lắm, song mờ mờ đủ che khuất chàng trước tầm mắt của mọi người. Lớp mây đen đó, dần dần lan rộng, che trọn ánh dương quang đang chiếu xuống cục trường, lớp mây bao gồm trọn vẹn số người hiện diện của song phương.
Lớp mây đen bây giờ dày lại, bóng tối càng phút càng dày, chừng như người ta không còn nhìn thấy rõ người đứng bên cạnh!
Đúng là một đường kiếm có ma thuật đáng sợ!
Không lâu lắm, lớp mây đen đó vẫn còn dày, còn đen, song từ bên trong, có một tia sáng xuyên thủng ra ngoài, như vầng mây mưa sau cơn trút nước, mỏng dần, rồi ánh dương quang gặp chỗ hở, lóe ngang, rọi xuống trần gian, dương quang rọi tia hy vọng xuống cho người đời là, sau cơn mưa, trời sẽ sáng lại.
Thì tia sáng nầy cũng mang lại một niềm hy vọng cho những kẻ lo ngại về trường hợp của Quan Sơn Nguyệt.
Dương quang, nếu tỏa rộng khắp không gian trống trải, thì chẳng có chi lạ, bởi người ta xem rất thường, xem suốt ngày, xem ngày này sang ngày khác.
Dương quang có lạ chăng, là bỗng dưng lại tắt mất, bỗng dưng lại bị che khuất đi, làm cho con người bực bội khó chịu rồi sau đó bất thình lình lại rọi xuống.
Những tia sáng nào cũng thế, có đẹp là khi nó phát xuất từ chỗ tối chiếu ra.
Thì, giờ đây, tia sáng từ trong lớp mây mờ bắn ra, vừa đẹp, lại vừa gây niềm tin tưởng, một niềm tin tưởng lung lay, bắt đầu củng cố lại rồi.
Tia sáng đó hiện ra rồi, thoạt đầu rất nhỏ, nhỏ như đường tơ, rồi dần dần lớn, từ cổ họng, lớn dần bằng cành cây, một thân trúc, một cội cây to ...
Tia sáng đó hiện ra, là mây đen phải mờ, bóng tối bớt dày, tia sáng càng lớn, mây đen càng tan biến.
Tia sáng lấn át dần dần qua lớp mây đen, cuối cùng thì mây cuốn, sương biến hoàn toàn, trả không gian trở về quang đãng.
Một loạt tiếng thở phào vang lên, những tiếng thở phào cùng phát ra một lượt, nghe như luồng gió đùa qua đầu cỏ, cỏ chạm nhau kêu lào xào.
Họ nhìn vào cuộc chiến.
Thanh kiếm Bạch Hồng vẫn chiếu sáng nơi tay Quan Sơn Nguyệt, tuy nhiên, nơi trán chàng, lâm râm những hạt mồ hôi. Thần sắc của chàng vẫn vững như thường.
Tạ Linh Vận có phần nào thở mạnh hơn trước, tiếng thở của y nghe hơi nặng, điều đó không thể có được nơi những người có công lực tu vi thâm hậu, trừ trường hợp bị chấn động tâm thần quan trọng.
Hiện tại thì bọn Lý Trại Hồng, Liễu Y Ảo, hai bà họ Lạc cũng như Khổ Hải Từ Hàng đều thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt đã phá xong chiêu thứ nhất của Tu La Tôn Giả Tạ Linh Vận.
Họ hết lo sợ thì họ cười, nụ cười hàm chứa cái ý thán phục Quan Sơn Nguyệt.
Tạ Linh Vận dường như mất thần sau cái bại đầu tiên, thừ người một chỗ rất lâu, cuối cùng, y mới điểm nụ cười nhạt, từ từ thốt:
– Ta đánh giá ngươi rất thấp. Ta khinh thường sở đắc của ngươi! Thì ra đối phó với Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, ngươi không vận dụng toàn công lực! Ngươi đã dành một phần nào kín đáo, dấu ta!
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lau mồ hôi trán, gương mặt trầm nghiêm, giọng nói cũng trầm nghiêm:
– Đừng nói những chuyện mơ hồ, Tạ Linh Vận! Công lực đâu phải là một vật hữu thể, mà người có cách phát huy từng giọt, từng giọt, nhiều ít tùy ý? Đối với vợ chồng Kỳ Hạo, ta dùng bao nhiêu công lực, thì đối phó với ngươi, ta cũng chỉ dùng bao nhiêu công lực đó thôi, ta đã dùng tất lực bình sanh cho cả hai lần, lần nào cũng như lần nào, thì làm gì có việc dành, để? Không, chẳng có việc đó được. Có điều, đối phó với ngươi, đấu pháp của ta tăng cường bằng cái tín tâm mà ta đã giãi bày cho ngươi hiểu trước đây mấy phút.
Chàng gật gù, tiếp:
– Đúng vậy! Tạ Linh Vận, chính tín tâm chi trì ta, nhờ thế mà ta có đủ sức chi trì cuộc đấu.
Tạ Linh Vận chừng như cười, mà cũng như mếu. Y trầm ngâm một chút, đoạn thốt:
– Cái tín tâm của ngươi có bền không? Nó có thể giúp ngươi chi trì cuộc đấu với những chiêu thức kế tiếp của ta chăng?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Tín tâm tương quan với hơi thở. Hơi thở còn, là tín tâm còn, tín tâm diệt là khi nào hơi thở tắt!
Tạ Linh Vận hét:
– Hay! Hùng tráng thay thái độ của ngươi? Ta sẽ dập tắt hơi thở ngươi qua chiêu này, cho ngươi mang tín tâm về địa phủ mà biểu hiện với ma sầu quỷ đói.
Y vung kiếm. Chiêu thứ hai của kiếm pháp Tu La! Nó có cái tên là «Sưu Hồn Đoạt Phách». Lần này, y không cần biểu dương oai khí, nên cái thế công chẳng mở rộng ra khắp cục trường, y tập trung kiếm khí trên mình Quan Sơn Nguyệt.
Khác hơn lần trước, mọi người đều thấy rõ, song họ chỉ thấy hai vầng kiếm quang chứ không thấy người. Bởi chung quanh Quan Sơn Nguyệt và Tạ Linh Vận, có một vầng kiếm quang bao bọc. Hai vầng kiếm quang của song phương, từ nhỏ, lan dần lớn ra, rồi từ lớn, thu dần dần hẹp lại.
Vầng kiếm quang lớn, là song phương biểu dương oai khí, kiếm quang thu hẹp là xong phương tập trung kiếm pháp để áp đảo lẫn nhau.
Hai vầng kiếm quang nhỏ dần, nhỏ đến vừa đủ cho bao bọc cả hai, như mỗi người mặc một bộ y phục chẹt bằng kiếm quang vậy.
Hai vầng kiếm quang thu nhỏ đến đó rồi ngưng lại.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ ung dung, không nói gì.
Tạ Linh Vận cất tiếng:
– Tiểu tử! Ta xem, ngươi đang giả tạo một tư thế rõ ràng! Bởi không lẻ ngươi ỷ trượng vào tín tâm mà chống lại nổi chiêu thứ hai của ta?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Ta không nhờ tín tâm thì nhờ gì chứ? Bất quá lần này thì cái tín tâm phát xuất có phần khác hơn vậy thôi!
Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:
– Khác như thế nào? Tiểu tử ơi, thôi đi, đừng vẽ vời!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Lần trước, tín tâm của ta ở nơi ý chí, lần này tín tâm ở nơi chiêu kiếm.
Chiêu kiếm của ta, tên là «Sơn Nhạc Vĩnh Tri», hoàn toàn thủ thế, thủ vững vàng, chắc chắn, cái chiêu của ngươi dù lợi hại, cũng không thể thu hồn bạc phách một hòn núi được.
Tạ Linh Vận quát to:
– Giỏi! Cho ngươi giỏi! Ta sẽ đánh luôn ra cả bốn chiêu sau, cùng một lúc, xem ngươi có còn là Sơn, Nhạc nữa chăng. Xem ngươi có nát như tro bụi hay chăng! Dù cho ngươi nấp dưới lòng biển sâu, ta cũng đốt cạn khô cả biển, xem ngươi có vững vàng, chắc chắn nữa chăng!
Câu nói buông dứt, y xuất thủ liền. Và, đúng như lời, y xuất phát đủ bốn chiêu. Những chiêu đó có tên là:
«Cuồng Phong Bạo Vũ», «Nộ Lôi Tật Thiểm», «La Hỏa Luyện Thiên» và «Liệt Việm Đằng Tiêu».
Bốn chiêu phát xuất rồi, là cục trường nổi dậy gió, mưa, sấm, chớp, tất cả trợ oai cho lửa bốc bừng bừng.
Trên đời, có cái chi đáng sợ hơn là Thủy Hỏa Phong Lôi? Bốn chiêu kiếm phát xuất, tập họp tất cả bốn thứ đáng sợ, khuấy động cục trường, dù cho núi cũng chẳng chịu đựng nổi, huống hồ con người?
Tất cả đều tập hợp để đổ ào ào xuống thân hình Quan Sơn Nguyệt.
Thoạt tiên, gió lộng, tóc chàng rối bùng lên, phất loạn, rồi đến y phục bốc lửa. Dần dần, sấm nổ từ trên đầu giáng xuống, chớp sáng dăng dăng trước mắt, gió cuốn, nước đùa, chàng sẽ tan như cát bụi ...
Nhưng, oai lực của Thủy Hỏa Phong Lôi không làm dao động ý chí kiên quyết của chàng nổi. Chàng từ từ đưa thanh kiếm Bạch Hồng lên, trước hết, vẽ một vòng tròn đùa khói lửa và nước ra ngoài, một vầng sáng thoạt đầu còn mờ mờ hiện ra nơi khoảng trống đó, mường tượng ánh bình minh vừa lên, và ánh bình minh thu dọn dần dần màn đen tối, ánh bình minh từ từ rạng rỡ với những màu sắc huy hoàng.
Cuối cùng, trong vầng sáng đó, một điểm đỏ hiện ra, điểm đỏ lớn nhanh, càng lớn càng lan ra, lấn áp màu đen tối đang phủ xuống cục trường.
Cái chiêu đó, chính là chiêu «Hút Nhật Sơ Thăng», chàng có sử dụng qua, lúc giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, cho nên ai ai cũng hiểu.
Bình minh lên, là Thủy Hỏa Phong Lôi đều phải tiêu tan, bởi thái dương hiện ra, là bao nhiêu mây mờ phải biến mất.
Y như lần giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, tạo nên vầng sáng rồi, Quan Sơn Nguyệt lại gặt tay. Cái gặt tay đó tạo cho vầng sáng, luôn cả điểm hồng tượng trưng thái dương, sự linh động phi thường.
Vầng sáng chiếu ngời ngời, điểm hồng xoay chuyển, đồng thời gian, một chiếc bóng hiện ra.
Đó là Quan Sơn Nguyệt phát xuất luôn chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».
Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, người bị phong bế huyệt đạo, kẻ lại bị gãy kiếm, do chính chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».
Chiếc mống hiện ra, vút đến Tạ Linh Vận.
Tạ Linh Vận cố vận công lực, loang thanh kiếm Thanh Minh, tăng gia oai thế, song vô ích. Bạch Hồng Kiếm áp đảo Thanh Minh Kiếm rõ ràng, dù Tạ Linh Vận cố gắng đến đâu, cũng chẳng làm sao phát huy một kháng lực hữu hiệu.
Có tiếng ngân dài, loang trong không gian, từ nơi thanh kiếm Thanh Minh, những điểm sáng như những hạt mưa, vừa chớp vừa rơi rụng ...
Tạ Linh Vận hết sức hãi hùng, nhún chân tung mình lên không, chênh đà vọt về phía hậu, đáp xuống, cách vị trí ngoài năm trượng xa.
Quan Sơn Nguyệt không bỏ, thân kiếm hợp nhất, theo ngay.
Tây Môn Vô Diệm rú lên một tiếng, bất chấp hiểm nguy, lướt tới chận chàng.
Bà ta vung tay không, chụp vào kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt.
Liều như thế, thà tự tử còn hơn, bất quá bà ta ngăn chận cái thế tiến của Quan Sơn Nguyệt, chứ bà làm gì chàng nổi? Và, cái gì đến, đã đến với bà. Bà rú lên một tiếng thứ hai, lần nầy đúng là tiếng rú thảm.
Máu! Trong vầng kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt, máu tươi bắn ra như hạt mưa bị gió bốc quăng đi.
Bạch Hồng Kiếm bám theo Tạ Linh Vận, nhưng Tạ Linh Vận không ngã, mà người ngã chính là kẻ đem xương thịt làm bình phong, người ngã chính là Tây Môn Vô Diệm. Hai cánh tay của bà biến thành hai đống xương vụn, da thịt cũng đồng số phận.
Không ai tưởng nổi hiệu lực của nhát kiếm đó, phàm một nhát kiếm nếu có thành công, thì bất quá chỉ tiện lìa một vật gì, hoặc giả gây nên một vài vết thương mà thôi. Chứ làm gì có một nhát kiếm lại chặt cả hai cánh tay thành da thịt xương vụn vằn?
Hay nhiều nhát kiếm? Nếu là nhiều nhát, sao chẳng một ai nhận định kịp?
Gương mặt của Tây Môn Vô Diệm đã xấu, bây giờ máu vấy khắp nơi, máu nhuộm cả y phục, đỏ ngời, trông bà ta đáng khiếp vô cùng, chẳng khác nào một quỷ sứ từ trong ao máu vươn mình lên đòi mạng ai đó.
Quan Sơn Nguyệt thu kiếm về, nhìn xuống Tây Môn Vô Diệm đang lăn lộn trên mặt đất.
Tạ Linh Vận biến sắc mặt như tàu lá, lâu lắm y mới buông tiếng thở dài:
– Tiểu tử tàn độc thật! Tàn độc không phải ở hành động, mà tàn độc vì cái dụng ý của ngươi! Ngươi che giấu sở đắc khiến cho ngoại nhân tin tưởng ngươi là một tay tầm thường ...
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Phải! Ta đến đây, không ngoài mục đích giết ngươi, tất cả mọi người trao cho ta cái sứ mạng đó, thì thực lực của ta được dành lại, dành để cho ngươi, duy nhất mình ngươi! Chẳng một ai khiêu khích ta để bắt buộc ta phải sử dụng tuyệt kỹ, tiêu hao công lực. Ta trừ diệt ngươi rồi, những kẻ kia cầm như rắn không đầu, dù họ có muốn làm gì cũng chẳng dám làm!
Tạ Linh Vận lạnh lùng:
– Thế sao ngươi còn dần dà? Sao ngươi chưa bước tới kết liễu mạng sống của ta? Ta không bao giờ tưởng là phải bại nơi tay ngươi ... Hừ! Tại ta! Nhãn lực của ta quá kém! Ta khinh thường ngươi chẳng làm sao phát huy nổi uy lực của thanh kiếm Bạch Hồng!
Quan Sơn Nguyệt hiện tại vẫn còn thở gấp. Tuy thắng trận, chàng cảm thấy cái thắng này đánh đổi rất nhiều gian khổ, nếu không nói là chàng đánh đổi giá sanh mạng.
Ngươn khí và tinh thần tiêu hao quan trọng qua cuộc đấu. Mãi một lúc lâu sau, chàng mới lấy lại bình thường.
Trong khi đó, Tạ Linh Vận còn rung người, chừng như y không đứng vững tại chỗ.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, nói:
– Không! Ta không giết ngươi, dù sứ mạng của ta là phải giết ngươi, trừ diệt ngươi như chặt đầu một con rắn, để toàn thân rắn tê liệt muôn đời.
Tạ Linh Vận trố mắt, không tin là chàng nói thật.
Bọn người sau lưng chàng cũng trố mắt hãi hùng, tự hỏi chàng nói thế là nghĩa gì?
Chẳng lẽ chàng buông tha Tạ Linh Vận thật sự?
Bọn Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo, Giang Thượng Nhất Âu đều lộ vẻ khẩn cấp, Lý Trại Hồng kêu lên:
– Quan công tử! Bây giờ không giết hắn, sau này ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Ai muốn giết hắn cũng được, riêng tại hạ thì ... tại hạ không thể xuất thủ làm cái việc đó.
Liễu Y Ảo hỏi gấp:
– Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ tay vào thanh kiếm Bạch Hồng, đáp:
– Lúc tại hạ thọ nhận thanh kiếm này, tại hạ có lập trọng thệ là:
«Nếu không gặp một trường hợp quyết định sự sống chết của hàng trăm, hàng ngàn người thì tại hạ không hề sử dụng đến nó. Và, mỗi lần sử dụng đến nó, thì chỉ cho nó đẫm máu một người thôi», giờ đây, trước khi giao đấu với Tạ Linh Vận, tại hạ đã để nó đẫm máu của một người rồi. Tuy sự đẫm máu đó chẳng phải do ý muốn của tại hạ, dù sao thì sự kiện cũng đã xảy ra, cho nên tại hạ không thể dùng nó mà làm cho máu chảy thêm một lần nữa.
Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo sững sờ, nhìn nhau thừ người ra đó.
Giữ được một lời thề như vậy, dù biết rằng đối phương, nhân sự giữ lời thề của chàng, mà thực hiện một kế hoạch phục thù, trên đời này chỉ có chàng thôi.
Bởi, ai không muốn nhổ cỏ, nhổ tận gốc rễ? Bởi, có ai muốn nuôi dưỡng một hậu hoạn bao giờ?
Hiện tại thì Tạ Linh Vận tin được là Quan Sơn Nguyệt thực sự không có ý muốn giết y. Thần sắc của y biến đổi, song chẳng ai nhận định những ý niệm đang hiện lên trong tâm tư y qua thần sắc đó. Mãi một lúc lâu sau, y bật cười, tiếng cười của y chấn dội màng tai của bọn Lý Trại Hồng.
Cười một lúc, y cao giọng thốt:
– Có ai tưởng tượng được một sự kiện như thế chăng? Ta đường đường là một nhân vật thượng đỉnh trong Long Hoa Hội, lại bị một tiểu tử đánh bại, rồi còn được tiểu tử tha chết cho!
Y lại cười. Tiếng cười của y nghe như tiếng khóc, khóc căm, khóc hận, tiếng cười đó khó nghe hơn tiếng khóc. Y dùng tiếng cười thay cho tiếng khóc, bởi làm sao y khóc được? Khóc là hèn nhát, mà trường hợp này, y phải khóc mới đúng hơn. Y mượn tiếng cười thay tiếng khóc, để tiết bớt niềm phẫn uất, để phôi phai tủi nhục.
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên cất tiếng:
– Tu La Tôn Giả! Đừng khó chịu như thế! Thực ra cái ý giết người của ta, kiên quyết lắm chứ, song ta vì lời thề, không thể thực hiện cái ý đó trong dịp này.
Ngươi nên nhớ, mất dịp nầy ta còn nhiều dịp khác, nếu ngươi còn ham sống, thì từ nay nên lánh mặt ta!
Những đường gân, những thớ thịt trên mặt Tạ Linh Vận giật liên hồi. Song y chẳng nói gì cả, y cúi xuống, vòng tay bế Tây Môn Vô Diệm lên, điểm vào mấy huyệt đạo nơi mình bà, ngăn chận máu chảy, đoạn quay mình, lặng lẽ bước đi.
Y đi được mấy bước, Khổ Hải Từ Hàng lướt tới, chận đầu, vòng tay chào, rồi thốt:
– Tôn giả, biển khổ không bờ, quay đầu là thấy bến, bần tăng hy vọng Tôn Giả nghe cho mấy lời.
Tạ Linh Vận trừng mắt, căm hờn gằn giọng:
– Cho lão trọc biết, linh hồn ta sẽ mãi mãi đắm chìm trong khổ ải, ta cam tâm với cảnh trầm luân, ngươi đừng uốn cái lưỡi mà giở giọng thuyết pháp! Vô ích!
Khổ Hải Từ Hàng thở dài:
– Tôn Giả chấp mê, trong khi thừa khả năng thức ngộ! Được lắm, tùy Tôn Giả, bần tăng chẳng nói chi nhiều, chỉ mong Tôn Giả giải tán cái tổ chức dẫy đầy tội ác kia, còn như cần siêu độ thì nơi nào bần tăng lại chẳng thuyết pháp được?
Nơi nào lại thiếu chúng sanh? Tôn Giả xem kìa, bần tăng chẳng cần phải đi xa hơn địa phương nầy ...
Lão đưa tay về phía hậu, chỉ một số người theo sau lão.
Tạ Linh Vận nhếch nụ cười khổ nói:
– Ngươi yên trí, đường ngươi ngươi đi, đường ta ta tiến, ngươi cảm hóa được bao nhiêu người, mặc ngươi, ta không cần biết đến làm gì, cái điều đáng lưu ý nhất, là sau cuộc thảm bại hôm nay, ta chẳng còn mặt mũi nào lãnh đạo họ như trước kia.
Khổ Hải Từ Hàng vòng tay chào lượt nữa:
– A Di Đà Phật! Tôn Giá có ý niệm đó, cầm bằng một công việc đại công đức với đời.
Bởi, lão yêu cần Tạ Linh Vận giải tán tổ chức phi nhân, bất đạo, mà Tạ Linh Vận thì nói là chẳng có mặt mũi nào lãnh đạo bao nhiêu người cũ, như vậy là y gián tiếp thừa nhận giải tán tổ chức rồi.
Khổ Hải Từ Hàng tán một câu, để tạ cái ý niệm đáng ngợi của Tạ Linh Vận!
Tạ Linh Vận mặc cho lão nói gì, làm gì, bế Tây Môn Vô Diệm tiếp tục bước tới. Y đi, không lưu ý đến phía sau lưng.
Sau lưng y, còn có Kỳ Hạo, Khổng Linh Linh, sau đôi vợ chồng này, có thêm một số người nữa. Ai ai cũng lộ cái vẻ thiểu não, như con gà chọi bại cuộc, xù lông, rũ cánh, cụp đuôi, thất thểu bước.
Một đoàn người rất đông, âm thầm đi, trông như một đám tang ...
Bọn Tạ Linh Vận đi rồi, đến lượt bọn Quan Sơn Nguyệt cũng đi, cục trường trở về im lặng, trong không gian cò phảng phất tử khí ...
Xuống đến chân Thần Nữ Phong rồi, mọi người bao quanh Quan Sơn Nguyệt.
Người ta xem chừng như vị anh hùng vừa tạo chiến thắng đánh đuổi quân thù, đem an ninh về cho đất nước, thoát khỏi cái nạn giẫm nát quê hương. Niềm hoan hỉ hiện lên gương mặt, người ta suýt công kênh chàng lên như một thần tượng.
Riêng Liễu Y Ảo tuy hân hoan, song vẫn còn bất mãn, nàng gằn giọng hằn học:
– Sư phụ sao, đệ tử vậy, chẳng khác tý nào! Cái gì mà lời thề? Cái gì mà không thể? Ngày nay, tha cho hắn, ngày sau, hắn có tha lại cho không?
Lý Trại Hồng cười nhẹ:
– Sư muội nói gì thế? Nói gì thì Quan công tử cũng buông tha cho hắn rồi, nói làm chi khi việc đã rồi? Sư muội phải biết, lời thề đối với nam nhân là cái gì trọng nhất đấy, Quan công tử phải hành động như vậy, là vì lời thề, sư muội không thể trách cứ được!
Liễu Y Ảo vẫn tức:
– Giữ lòng nhân theo phường nữ nhân, câu chấp từng tiểu tiết một, lời thề hảo mà phải giữ! Thế thì còn gọi là anh hùng sao được? Phàm anh hùng là trừ hung diệt bạo, tạo an toàn cho đồng loại, chứ vì cố chấp mà lưu hậu hoạn cho thế nhân thì sao gọi được là anh hùng chứ? Theo tôi, làm như vậy là thả cọp về rừng, là duy trì hậu hoạn cho người đời đấy!
Lý Trại Hồng lại cười:
– Ai thì sợ, chứ sư muội mà cũng sợ nữa à? Đã có hòn núi chở che, sấm sét búa rìu gì hại nổi sư muội chớ?
Liễu Y Ảo thẹn đỏ mặt, kêu lên:
– Sư tỷ đừng đùa chớ! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh mà!
Nhất Âu nhếch nụ cười khổ:
– Lão phu đồng tình với Liễu Tiên Tử! Tạ Linh Vận còn sống ngày nào, là ngày đó chẳng ai ăn ngon ngủ yên.
Lão cười khổ, Quan Sơn Nguyệt cũng cười khổ:
– Thú thật với các vị, tại hạ chẳng hề phát thệ như đã tuyên bố, tại hạ cũng không tưởng là phải buông tha cho Tạ Linh Vận. Mà ...
Tất cả đều giật mình.
Liễu Y Ảo hấp tấp hỏi:
– Thế thì vì lý do gì, công tử chẳng giết hắn?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Bởi lúc đó tại hạ không giết hắn nổi, chứ chẳng có lý do gì quan trọng cả.
Trái lại, nếu hắn muốn giết tại hạ, thì dễ như trở bàn tay ...
Mọi người đều kinh ngạc.
Quan Sơn Nguyệt giải thích:
– Với công lực của tại hạ, thì tại hạ chỉ phát huy oai thế một lần thôi, lần đầu tiên lại không làm gì nổi hắn, trái lại bị hắn chống trả! Hụt thế công đầu, tại hạ tiêu hao rất nhiều chân khí, nhưng tại hạ cố gắng đánh tiếp chiêu thứ hai, chẳng khác nào đánh liều lĩnh, giả như Tạ Linh Vận hoàn thủ, thì chẳng biết cái hậu quả như thế nào xảy đến cho tại hạ! May thay, Tây Môn Vô Diệm xuất hiện, người ngoài ai cũng cho rằng bà ấy cứu Tạ Linh Vận, song ngược lại thì chính nhờ sự can thiệp của bà ta, mà tại hạ thoát chết dưới tay Tạ Linh Vận!
Một số người đã hiểu, số khác còn mơ hồ.
Quan Sơn Nguyệt giải thích tiếp:
– Oai lực của Bạch Hồng Kiếm hùng mãnh phi thường, nếu phát huy ra, là đối phương phải mất mạng. Tuy vậy, tại hạ chỉ chém đứt hai bàn tay của Tây Môn Vô Diệm thôi. Điều đó chứng tỏ là tại hạ kiệt sức rồi. Nếu Tạ Linh Vận nhận ra, tiến tới tấn công, thì tại hạ cầm chắc cái chết trong tay. Do đó, tại hạ không dám quyết liệt ...
Liễu Y Ảo trố mắt:
– Rồi công tử bịa chuyện để lừa hắn?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải! May thay hắn lại tin ngay!
Mọi người đều nín lặng.
Niềm vui kém giảm đi phần nào.
Quần hùng lần lượt ly khai Thần Nữ Phong.
Chẳng một ai thốt lời cáo biệt với Quan Sơn Nguyệt, vì lúc đó chàng quá mệt nhọc, tựa mình vào một khối đá to lớn, nhắm mắt lại.
Chàng ngủ, hay chàng không gượng nổi, mà phải mê man trầm trầm, hay chàng hành công, điều tức?
Quần hùng ly khai, chẳng phải tất số, bởi chàng đang ở trong hoàn cảnh đó, ít nhất cũng phải có một vài người, lưu lại tại chỗ, làm cái việc hộ pháp cho chàng.
Những người ở lại, là Liễu Y Ảo, Lý Trại Hồng, Nhất Âu và Linh Cô.
Bất cứ cuộc hội họp nào cũng thế, lúc tụ thì vui vẻ bao nhiêu, lúc phân tán càng buồn lạnh bấy nhiêu.
Bốn người còn lại, bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, không khỏi bâng khuâng man mác, nhìn qua khung cảnh vừa náo nhiệt đó, giờ đây hoang vắng đến se lòng.
Cảnh vẫn hoang vắng như thường, dù hiện diện có đến năm người, một thì hồn chơi vơi tận phương trời xa, bốn thì nín lặng để giữ an tịnh cho người cần ngơi nghỉ. Họ trầm lặng một lúc lâu, Nhất Âu khẽ thở dài, thấp giọng thốt:
– Lần này thì giải tán thật sự rồi! Long Hoa Hội! Ba cái tiếng đó từ nay không còn là một bí mật đối với bất kỳ một ai, người trong hội hay ngoài hội. Tất cả đều giã biệt chúng ta để lui vào dĩ vãng! Tất cả bám vào ký ức, để thỉnh thoảng hiện lên qua những phút dây mơ màng của chúng ta! Cái chi cũng thế, dù đến với chúng ta, hoặc dữ, hoặc lành, lúc ra đi rồi, cũng lưu lại cho ta một niềm luyến tiếc!
Xa xa, nơi tàng cây, cũng còn mấy người. Trong số đó có Khổ Hải Từ Hàng, lão nghe Nhất Âu thở than như thế, nhìn về phía lão, nhà sư điểm một nụ cười, tiếp:
– Trong thiên hạ, làm gì lại có những cuộc họp không tan? Cuộc họp vĩnh cửu hơn hết, là cuộc hôn nhân, dù người không muốn tan, nhưng cái số đã định, kẻ trước người sau, thì không sanh ly cũng tử biệt như thường! Huống chi, có những cuộc hội họp không lành? Lành còn không trường cửu, thì dữ phải tan rã nhanh, là điều rất thường, chẳng có gì phải lấy làm lạ. Long Hoa Hội giải tán được như thế này, đáng cho chúng ta mầng lắm đó, tại sao ngươi còn lưu luyến thiết tha?
Nhất Âu cười khổ:
– Nào phải ta lưu luyến, thiết tha? Ngay từ ngày ta gia nhập, là ta đã có ý ly khai rồi, ta chỉ mong được ly khai, càng sớm càng tốt, bây giờ, ta dù không muốn, cũng được ly khai rồi, bất quá, ta nghĩ về tương lai, sau cuộc giải tán này, ta sẽ về đâu? Lão trọc, nghĩ hộ ta đi!
Khổ Hải Từ Hàng gật gù:
– Không lưu luyến thiết tha, là thức thời đấy! Bần tăng mầng cho! Song, chứa chấp một Ma Vương như ngươi, trên trời không chỗ, dưới đất không nơi, bần tăng còn biết chỉ bảo ngươi về phương hướng nào? Ngươi đừng hỏi bần tăng, hãy hỏi nơi hắn đó!
Hắn đây là Quan Sơn Nguyệt.
Khổ Hải Từ Hàng thốt xong, đưa tay về Quan Sơn Nguyệt đang trầm trầm bên cạnh khối đá.
Nhất Âu kinh ngạc:
– Hỏi hắn? Lão trọc có ý tứ gì lại bảo ta hỏi hắn?
Khổ Hải Từ Hàng chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Ma chướng, tuy đã được diệt trừ trong hiện tại, song Ma nạn sẽ phát sanh ở tương lai, và trách vụ nặng nề diệt trừ Ma nạn, đều nằm trọn trên đôi vai của tiểu tử. Bần tăng chỉ sợ tiểu tử không đảm đương nổi cái trọng trách đó. Tài, thì hắn có thừa, song cái sức của con người có giới hạn, và sự việc trong tương lai, chẳng phải do một người đơn độc là hoàn thành nổi. Ngươi hiểu cái ý của bần tăng muốn nói chứ? Ngươi phải tiếp trợ hắn, cũng như Lý Tiên Tử phải tiếp trợ hắn.
Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:
– Sao lão trọc ghép ta vào vụ? Tiểu sư muội của ta, bởi cái đạo nghĩa đương nhiên, chẳng thể từ chối sự tiếp trợ hắn, chứ còn ta thì phi lý quá!
Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:
– Liễu Tiên Tử tiếp trợ tiểu tử, việc làm đó có một ý nghĩa khác. Còn Lý Tiên Tử tiếp trợ, bất quá, nhận miếng trả miếng vậy thôi, bởi Lý Tiên Tử được an nhàn trong phút giây này, thì sự an nhàn đó chính do tiểu tử tạo nên, với cái giá sanh mạng của hắn. Lý Tiên Tử phải làm một cái gì đáp lại mới cân xứng chứ?
Huống chi, một kẻ có lòng nhân, chẳng bao giờ chỉ nghĩ đến mình!
Lý Trại Hồng khoát tay:
– Được rồi, ta biết ngán cái lưỡi của ngươi rồi! Đừng nói nữa! Bây giờ ta hỏi ngươi, ngươi dồn bọn ta vào cuộc, còn ngươi? Ngươi đứng ngoài cuộc để thung dung với ngày tháng, để nhìn người trong thiên hạ tranh chấp nhộn nhàng.
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười bí mật, thốt:
– Có một địa phương an tịnh, địa phương đó được dành cho bần tăng từ lâu lắm rồi. Vì bần tăng còn nặng mang trần vụ, thành ra phiêu lưu ngày tháng, cái thời gian đảm trách đó đã kéo dài đến hai mươi năm. Bây giờ Long Hoa Hội chấm dứt, đồng thời trần vụ của bần tăng cũng chấm dứt, thời cơ đã đến cho bần tăng, về địa phương an tịnh, sống cuộc đời an tịnh.
Lý Trại Hồng cười lạnh:
– Ngươi đừng nuôi mộng, lão trọc. Nuôi mộng đẹp là quyền của ngươi, thực hiện mộng đẹp là một việc còn tùy thuộc nhiều yếu tố, nào phải ngươi tùy tiện mà định đoạt được đâu? Bao lâu nay, ngươi âm thầm bày bố, ngươi hí lộng cả thân lẫn thù, trường nhiệt náo dứt rồi lại nối, nối mãi không thôi, tất cả đều do ngươi, giờ đây, sự việc mới bắt đầu, mà ngươi tưởng là chấm dứt cho ngươi! Đâu dễ dàng như ngươi tưởng! Ngươi chưa rút lui được đâu, lão trọc ạ!
Khổ Hải Từ Hàng chấp tay trước ngực, đầu cúi xuống, điểm một nụ cười, nhưng nét cười không hiện rõ, lão đáp:
– Việc đời, đã được an bài từ trước, cho mỗi người, đến một lúc nào phải gặp cảnh huống nào, đó là cái số đã định, chúng ta chỉ là những con cờ của tạo vật, chúng ta là những kẻ thụ động, không hơn, không kém, đừng ai tưởng là mình có thể tác chủ được cuộc đời của mình. Lý Tiên Tử tin? Lý Tiên Tử không tin?
Điều đó thì tùy Tiên Tử, tin cũng tốt chẳng tin cũng được. Tuy bần tăng thường hội họp với các vị, song vẫn không hề có cái ý tìm nhàn riêng mà để cho các vị gánh trọn trọng trách đâu ...
Nhất Âu «hừ» một tiếng:
– Ngươi nói cái gì mà ta nghe ra quá mơ hồ như thế, lão trọc? Ngươi vừa nói là có một địa phương an tịnh chờ ngươi, rồi ngươi lại cho rằng không tham nhàn về mình, bỏ lụy cho bằng hữu, ta muốn biết thực sự ngươi có chủ ý như thế nào?
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Bần tăng là con nhà phật, mà phật gia khi đề cập đến mảnh đất an lạc, thì phải hiểu mảnh đất đó không giống với bất cứ khung cảnh nào của trần gian ...
Lý Trại Hồng chận lời:
– Ngươi muốn nói đến khung cảnh viên mãn? Khung cảnh viên mãn của cái tâm?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Các vị là người của trần thế, các vị hành động trong khuôn khổ trần thế, bần tăng là kẻ xuất gia, bần tăng có đường lối của Phật gia. Ngày sau gặp nhau, các vị sẽ minh bạch. Bây giờ, đem việc chưa xảy ra mà bàn, mà luận, thì làm sao chúng ta đi đến chỗ hòa đồng?
Lời nói của lão mênh mông quá, kỳ bí quá, chẳng ai hiểu được.
Chẳng ai tiếp nối câu chuyện, chính lúc đó, một bọn người tụ hội bên ngoài, xa xa, cùng rời bỏ vị trí, bước tới.
Những người đó là Huyết La Sát Lạc Hành Quân, Xú Sơn Thần Liễu Sơ Dương và Bạch Cốt Ma Thần Lạc Tương Quân.
Theo sau, Lạc Tiểu Hồng bước chân thất thểu, vẻ sầu muộn hiện rõ nơi gương mặt.
Nhất Âu nghiêng mình chào, rồi hỏi:
– Tam vị muốn đi?
Lạc Hành Quân gật đầu, rồi thốt:
– Niềm cừu hận mênh mang từ ngày nào, giờ đây đã được thanh toán, cái ơn của Quan công tử rất nặng, chẳng bao giờ họ Lạc quên được. Bọn tôi muốn kính lời cảm tạ, song Quan công tử đang ngủ say, vậy nhờ Âu lão chuyển lại hộ nhé!
Nhất Âu không đáp, chỉ gật đầu.
Hai bà họ Lạc và Liễu Sơ Dương chào qua mọi người, rồi quay mình toan đi, Lạc Tiểu Hồng còn lưu luyến, chưa chịu cất bước. Nàng gọi mẹ:
– Mình không thể nán lại một chút sao mẹ? Con muốn chờ Quan đại ca thức dậy, nói lời cáo biệt ...
Lạc Hành Quân thở dài, nắm tay con gái, bảo:
– Con! Tỉnh ngộ đi con! Đừng hy vọng nói gì với công tử! Hiện tại người chẳng còn là đại ca của con nữa, như ngày nào đâu!
Mí mắt của Lạc Tiểu Hồng mọng lên, vì lệ thảm đang cuộn trào ứ đọng chực đổ ra ngoài. Nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc, rồi chuyển ánh mắt sang Liễu Y Ảo.
Liễu Y Ảo giật mình, ngầm giới bị, đoạn nhìn trả lại nàng, ánh mắt của Liễu Y Ảo chẳng có vẻ hiền hòa chút nào.
Lạc Hành Quân thấy thế, vội lôi con gái chạy đi.
Rời xa bọn Lý Trại Hồng rồi Lạc Tiểu Hồng mới òa lên khóc, vừa khóc vừa rên rỉ:
– Con không tin là Quan đại ca thay đổi khác hơn ngày trước! Bất quá, vũ công của đại ca tiến bộ nhiều, chính đó là sự thay đổi duy nhất, còn con người thì vẫn là đại ca của con!
Câu nói của nàng tuy nhỏ, song không gian tịch mịch, vẫn vọng đến tai Liễu Y Ảo.
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng, hằn học:
– Cái con nhỏ đó đáng ghét lạ!
Lý Trại Hồng liếc xéo nàng, nói:
– Sư muội! Nếu ngươi có một người chồng như thế đó, thì tốt hơn hết đừng bao giờ nói những câu như vậy, mà dù có nói, thì nên tìm những chốn hoang vu mà nói, tuyệt nhiên đừng để lọt vào tai chàng ta!
Bà ta thốt rất khẻ, vừa thốt vừa đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.
Liễu Y Ảo bất phục, lại «hừ» một tiếng:
– Tại sao chứ? Chẳng lẽ tiểu muội gương mắt to, nhìn cái thứ bé con học đòi yêu đương, làm màu làm mè với chàng?
Lý Trại Hồng thở dài:
– Ngu thơ nói lời phải, đành rằng ngươi là sư muội của ta, cái lẽ là ta phải tiếp trợ ngươi trong mọi việc, đại sư tỷ đã có lời dặn dò, bảo ta thời thường chiếu cố đến ngươi, song ta cảm thấy ...
Bà dừng lại, bỏ lửng câu nói.
Liễu Y Ảo nóng nảy, hỏi gấp:
– Sư tỷ cảm thấy như thế nào?
Lý Trại Hồng trầm ngâm một lúc:
– Người như Quan công tử, chẳng phải chỉ thuộc về ngươi duy nhất đâu!
Liễu Y Ảo biến sắc. Lâu lắm, nàng mới cất tiếng, âm thinh của nàng cũng biến đổi quái dị:
– Nếu có kẻ nào toan chia sớt tình yêu của chàng, thì tiểu muội ...
Đoạn cuối của câu nói, nàng nhốt luôn trong lòng, không cho thoát ra, nhưng thần sắc của nàng thì biểu hiện rõ rệt tâm ý của nàng.
Lý Trại Hồng hiểu, nàng hết sức kinh hãi, day qua Khổ Hải Từ Hàng, đưa ánh mắt cầu cứu. Khổ cho bà, lão tăng không hề có một phản ứng. Lý Trại Hồng thở dài:
– Sư muội chưa được người, sao vội ly khai người?
Liễu Y Ảo càng biến sắc hơn, cứ «hừ hừ» mấy tiếng, rồi cười lạnh mấy tiếng thay vì đáp.
Không gian trầm tịch, tuy ở giữa khoảng không, mà ai ai cũng cảm thấy ngột ngạt vô cùng.
Bây giờ mọi người đã ly khai trọn vẹn, chỉ trừ có bọn họ, bên cạnh một Quan Sơn Nguyệt đang thiêm thiếp giấc nồng.
Bỗng họ phát hiện ra, nơi góc núi, còn có một người. Người đó từ lúc nào đến bây giờ, bất động, thành ra chẳng ai để ý đến, bây giờ, họ khó chịu với cảnh trầm tịch, họ đảo mắt nhìn quanh, nhìn để lơi sự căng thẳng, họ mới phát hiện.
Nhất Âu vội bước tới gần người đó, nhận ra là ai rồi, lão kêu lên:
– Trời! Ngươi! Ngươi chưa đi à?
Người đó, là Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, gương mặt bà ta lạnh hơn tiền, đừng ai mong tìm được một nét cảm nghĩ nào nơi gương mặt đó.
Nhất Âu hỏi, bà bất động một lúc lâu, sau cùng bà đáp:
– Ta còn đợi Quan Sơn Nguyệt!
Liễu Y Ảo đang mang nặng niềm uất tức, không nơi phát tiết, gặp dịp này, khi nào nàng bỏ qua? Nàng lướt tới như bay, đồng thời hét:
– Tại sao ngươi dám gọi tên chàng?
Bành Cúc Nhân điềm nhiên:
– Hắn xưng hô ta là đại nương, tại sao ta không gọi được tên hắn? Trước mặt hắn, ta vẫn gọi như vậy, chẳng có gì lạ thường cả!
Liễu Y Ảo dửng cao đôi mày, nhìn sững Bành Cúc Nhân.
Khổ Hải Từ Hàng hấp tấp thốt:
– Liễu Tiên Tử! Quan thế huynh từng thọ trọng thương, nhờ bà ấy chiếu cố mới khôi phục được nguyên trạng như ngày nay, cái việc gọi họ, xưng tên, chẳng có gì quá đáng đâu!
Bành Cúc Nhân lạnh lùng nói tiếp:
– Long Hoa Hội đã giải tán rồi, giữa chúng ta chẳng còn sự cách biệt nào nữa, hiện tại, trong tương lai, chúng ta ai cũng như ai, chẳng còn ai cao ai thấp!
Liễu Y Ảo cố dằn cơn tức uất, hỏi:
– Ngươi chờ Quan công tử để làm gì?
Bành Cúc Nhân bĩu môi:
– Hỏi hắn một việc! Và cho hắn biết một việc.
Liễu Y Ảo cười mỉa:
– Hỏi việc gì? Cho biết việc gì? Ngươi cứ nói với ta, nói với ta cũng như nói với chàng.
Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:
– Ngươi thay thế hắn được?
Liễu Y Ảo thoáng biến sắc:
– Tại sao ta không thay thế chàng được? Chẳng lẻ ngươi không nghe ...
Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng lớn hơn:
– Nghe chứ! Nhưng, ta có lưu ý đến làm gì!
Liễu Y Ảo đặt bàn tay lên đốc kiếm, song còn cố dằn lòng chưa rút kiếm ra khỏi vỏ. Nàng gằn từng tiếng:
– Thế phải làm sao ngươi mới lưu ý?
Bành Cúc Nhân so hai vai:
– Khi nào chính miệng hắn thốt lên!
Liễu Y Ảo sôi giận cực độ.
Lần nầy thì nàng rút kiếm khỏi vỏ thực sự, đồng thời nàng quát:
– Mụ già đáng hận kia, ngươi khinh người thái quá ...
Tuy nhiên, nàng không vung kiếm được, bởi Lý Trại Hồng lúc đó đã bước tới nơi, nắm cổ tay nàng giữ lại. Lý Trại Hồng trách:
– Sư muội nóng nảy quá ...
Liễu Y Ảo vùng mạnh, kêu lớn:
– Để cho cái mụ già mạt lưu cùng hạng kia khinh miệt, thử hỏi tiểu muội làm sao chịu nổi chứ? Sư tỷ buông tôi ra, cho tôi trừng trị mụ một phen, nhất định là từ nay, mụ phải kiêng cái mặt nầy, ăn nói có lễ độ hơn!
Khổ Hải Từ Hàng nhẹ giọng khuyên:
– Liễu Tiên Tử, Long Hoa Hội đã giải tán rồi, đâu còn phẩm trật, thứ bậc Tiên – Ma – Quỷ nữa, từ nay ai cũng như ai. Trước khi mình sỉ nhục người ta, cần nhất là mình phải tẩy trừ quan niệm giai cấp. Quan niệm giai cấp hảo kia còn ngày nào, là Tiên Tử vẫn còn khổ ngày ấy!
Đối với vị lão tăng đó, Liễu Y Ảo có phần nào kính phục, lão đã khuyên nàng, tự nhiên nàng phải vâng theo, dằn cơn tức uất, rút tay về, tra kiếm vào vỏ, rồi quay mình trở lại cạnh Quan Sơn Nguyệt, lắc mạnh chàng gọi cho tỉnh lại:
– Thức dậy! Thức dậy chứ!
Quan Sơn Nguyệt mở mắt, đưa tay chà chà cho bớt cay, đoạn hỏi:
– Việc gì mà ...
Liễu Y Ảo còn hận, đang thở mạnh, không thể đáp.
Bành Cúc Nhân và mấy người kia bước tới, tất cả cùng im lặng, chẳng ai mở miệng.
Cái cảnh tượng đó lạ kỳ quá chừng, Quan Sơn Nguyệt trố mắt, cất tiếng hỏi, song chẳng biết hỏi ai:
– Cái gì thế? Chừng như có sự xung đột ...
Bây giờ Bành Cúc Nhân mới đằng hắng, rồi thốt:
– Chính già cũng Liễu Tiên Tử tranh luận ...
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:
– Đại nương! Việc gì đến nỗi phải tranh luận với Liễu Tiên Tử?
Nghe chàng gọi Bành Cúc Nhân với hai tiếng đại nương, Liễu Y Ảo biến sắc mặt. Bực tức cực độ, nàng hét lên:
– Quan Sơn Nguyệt! Sự việc giữa chúng ta, có thành hay không thành?
Hãy cho ta biết ngay!
Quan Sơn Nguyệt chợt hiểu. Tuy nhiên, chàng vờ vẻ mơ hồ, hỏi:
– Việc vì giữa tại hạ và Tiên tử?
Liễu Y Ảo tức uất đến chết được. Tay nàng sờ lên đốc kiếm, định rút kiếm ra, nhưng kiếm chưa ra khỏi vỏ nàng ngã xuống liền. Nàng hôn mê vì cơn tức uất khích thích quá mạnh.
Lý Trại Hồng cấp tốc bước tới, nâng nàng, niềm ưu tư hiện nơi mặt, bà thở dài, thốt:
– Quan công tử! Tiểu sư muội vì cái việc hôn nhân, do đại sư tỷ an bài đó, mà ra nông nổi! Sự tình đã được tuyên bố công khai trước mặt nhiều người, công tử còn vờ vĩnh nữa ...
Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp vô cùng:
– Điều đó ... tại sao ... do đâu ...
Lý Trại Hồng trừng mắt:
– Tại sao? Chẳng lẽ đại sư tỷ không nói rõ với Quan công tử?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không hề có ...
Đến lượt Lý Trại Hồng biến sắc:
– Thế tại sao giữa đông người, công tử lại mặc nhận?
Quan Sơn Nguyệt đưa mắt sang Khổ Hải Từ Hàng:
– Đại sư! Việc nầy hoàn toàn do đại sư, hãy giải thích cho tất cả được hiểu.
Lúc đó, chính đại sư bảo tại hạ ...
Khổ Hải Từ Hàng há hốc miệng ra, như sửng sốt, lâu lắm mới thốt được thành tiếng:
– Bần tăng vâng chỉ thị của Hương Đình Tiên Tử, tác hợp lương duyên, hơn nữa, Hương Đình Tiên Tử sai Linh Cô đến cho bần tăng biết là Quan thế huynh đã đồng ý ...
Lý Trại Hồng nhìn sang Linh Cô, cao giọng hỏi:
– Tiểu quỷ còn đứng đờ đó à? Sao không giải thích rõ ràng cho mọi người biết sự tình? Đại sư tỷ bảo gì ngươi?
Linh Cô bối rối, lí nhí:
– Được ... được ... tôi nói! Đúng là Lâm Tiên Tử có bảo tôi thông tri đại sư ...
Đúng là Lâm Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã chấp nhận ...
Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp ra mặt:
– Nói nhảm! Tại hạ đồng ý lúc nào?
Linh Cô đáp:
– Hương Đình Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã đáp ứng một việc với bà ấy và công tử còn cam kết là không khi nào hối hận về sự đáp ứng đó ...
Quan Sơn Nguyệt trấn định tâm thần, hồi ức lại những việc đã qua, cuối cùng chàng minh bạch. Chàng hét lên:
– Lầm! Đúng là một sự nhầm lẫn!
Lý Trại Hồng gương tròn mắt:
– Phàm là việc hôn nhân, chỉ có hai lẽ thôi, ưng hoặc không ưng, chứ làm gì có sự nhầm lẫn?
Quan Sơn Nguyệt thở ra:
– Lâm Tiên Tử có yêu cầu tại hạ, giúp làm tròn một việc, bà chỉ nói như vậy thôi, chứ chẳng hề cho biết rõ là vấn đề hôn nhân. Bởi tại hạ cảm kích ơn Lâm tiên tử thành toàn học nghiệp, nên có hứa là sẽ hết lòng làm công việc do bà giao phó. Sự tình như thế đó ...
Linh Cô chen vào:
– Quả đúng như vậy. Song, công tử nghĩ lại xem, Lâm Tiên Tử đã lánh xa trần tục, thì còn có sự việc gì dính dấp với thế gian nữa đâu mà phải nhờ công tử thanh toán?
Lý Trại Hồng giậm chân:
– Khổ chưa! Chung quy cũng tại Lâm đại sư tỷ hồ đồ. Tại sao không nói rõ mà chỉ mơ mơ màng màng?
Linh Cô cãi:
– Không thể trách Lâm Tiên Tử được! Bà có quyết định như vậy, song bà có nói với tôi là thời cơ chưa đến, có thể vì vậy mà bà chưa tiện nói ra chăng?
Tuy nhiên, bà bảo tôi thông tri với đại sư, nhờ đại sư lo liệu, tiến hành.
Mọi người đổ dồn ánh mắt về Khổ Hải Từ Hàng.
Lão hòa thượng thở dài một tiếng:
– Bần tăng nào có muốn gấp tuyên bố đâu? Chỉ tại Liễu Tiên Tử bỗng dưng tham gia cuộc chiến, gây nên khó khăn ... Liễu Tiên Tử nóng nảy quá!
Lý Trại Hồng cũng thở dài:
– Ta cũng có một phần trách nhiệm trong việc nầy! Trước khi ra đi, đại sư tỷ có lưu lại cho ta một phong thơ, đại sư tỷ cho ta biết về cuộc hôn nhân của Liễu sư muội thì người đã an bài rồi. Tuy người chưa nói rõ cái người được chọn làm chồng cho tiểu sư muội là ai, song bằng vào những diễn tiến vừa qua, ta đoán là đại sư tỷ đã đặt vấn đề nơi Quan công tử. Ta muốn tạo nên cái hứng cho tiểu sư muội sớm một chút, thành ra bao nhiêu rắc rối phát sanh ...
Quan Sơn Nguyệt thừ người tại chỗ một lúc lâu, từ lâu lắm rồi bây giờ như chợt tỉnh, trở về thực tại, cũng nhẹ buông tiếng thở dài:
– Lý Tiên Tử ... Tiên tử ...
Nghĩ cũng lạ lùng!
Một cuộc hôn nhân, chẳng biết sẽ có thể kết thúc hay chăng, lại khởi đầu bằng những tiếng thở dài, những vẻ sửng sốt, những bất bình, hằn học.
Người bàn qua, kẻ luận lại, ai ai cũng lắc đầu, cũng tặc lưỡi, ai ai cũng khổ sở quanh vấn đề!
Lý Trại Hồng nhìn nghiêng chàng, gằn giọng:
– Công tử lại định trách cứ tôi lộng giả thành chân, nhân đùa mà đưa mọi người vào cảnh khó xử, phải không?
Quan Sơn Nguyệt không đáp bằng lời, song thái độ, thần sắc của chàng còn rõ rệt hơn lời nói.
Lý Trại Hồng tiếp nối với giọng u buồn có ẩn ước niềm oán hận:
– Thực ra thì lần thứ nhất, tiểu sư muội gặp công tử tại Thiên Tề Biệt Phủ của Kỳ Hạo, con tim của tiểu sư muội đã hướng về công tử rồi. Sư muội trở về cứ nhắc nhở mải đến công tử, chính đại sư tỷ cũng có nghe, và người chẳng hề khiển trách. Có lẽ vì thấy tình ý của tiểu sư muội như vậy, mà đại sư tỷ an bài chăng? Xưa nay, đại sư tỷ có khi nào hành động hồ đồ đâu?
Sự tình càng được diễn giải, càng rõ rệt hơn, nhưng lại càng phức tạp hơn.
Phàm sự việc rõ rệt, thì dễ giải quyết, song ở đây, thì trái lại sự tình càng rõ rệt, mọi người càng nhận thấy càng rối rắm hơn.
Lý Trại Hồng luôn miệng thở dài. Sau cùng, nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt, tiếp:
– Tôi hy vọng Quan công tử cho biết thái độ rõ ràng.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khó khăn.
Lý Trại Hồng lại nói tiếp:
– Tiểu sư muội sở dĩ tình nguyện xuất trận tiếp trợ công tử, là vì quá lo lắng cho sự an toàn của công tử. Bởi đại sư tỷ đã cho tất cả biết cái ý định tác hợp cuộc hôn nhân đó, nên tiểu sư muội mới dám công khai nhận là vợ của công tử.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Tại hạ biết như vậy, nên tại hạ rất cảm kích Liễu Tiên Tử khẳng khái tiếp trợ ...
Lý Trại Hồng thở nhẹ:
– Thế là tốt! Tôi chỉ ngại công tử khinh thị Liễu sư muội thôi!
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp:
– Tại hạ chẳng hề có ý đó.
Lý Trại Hồng trang trọng hỏi:
– Bây giờ, công tử tính sao?
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:
– Tại hạ ... tại hạ không thể kết hôn với Liễu Tiên Tử!
Giọng chàng rất nhẹ, trừ một Bành Cúc Nhân đứng ngoài xa xa, tại đó ai ai cũng nghe rõ.
Và dĩ nhiên ai ai cũng sững sờ, bầu không khí đã nặng nề, càng thêm trầm trọng.
Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:
– Tại sao? Tiểu sư muội không xứng đáng?
Quan Sơn Nguyệt buông được câu nói khó khăn rồi, cứ tiến tới luôn, chàng chính sắc mặt, đáp:
– Vấn đề không ở nơi người có xứng hay không xứng. Vấn đề là ở nơi tình cảm. Tại hạ không thể lấy một người vợ thiếu hẳn tình cảm, có thế thôi!
Lý Trại Hồng cao giọng:
– Nói nhảm! Tình cảm của tiểu sư muội so với bất cứ thiếu nữ nào, cũng chẳng kém phần nồng nàn, không thể cho rằng tiểu sư muội thiếu hẳn tình cảm!
Điều đó, tôi dám bảo chứng.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tiên tử hiểu lầm! Tại hạ nói tình cảm, là chỉ về cá nhân, tại thiếu tình cảm đối với Liễu Tiên Tử, chứ còn Liễu Tiên Tử có như thế nào, thì điều đó tại hạ chưa có dịp nhận xét.
Lý Trại Hồng u buồn ra mặt:
– Thế thì thôi! Không ai có quyền cưỡng ép ai làm một việc trái ý muốn!
Huống chi, về hôn nhân, lại càng không nên cưỡng ép!
Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là Lý Trại Hồng phải sôi giận về lời tuyên bố của chàng, song lạ lùng thay, nàng hết sức bình tịnh, bất quá, nàng chỉ để lộ vẻ u buồn, vậy thôi, và cũng chẳng phiền trách chi chàng.
Chàng tưởng cần phải nói một câu xoa dịu:
– Lý Tiên Tử! Tại hạ hết sức áy náy ...
Lý Trại Hồng lắc đầu, điểm nụ cười khổ:
– Tôi là người ngoại cuộc, công tử nói sao, tôi nghe thế, chẳng có gì quan hệ đến tôi cả. Bất quá ...
Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tôi có mấy lời thành thật muốn tỏ bày với công tử!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm thần sắc:
– Xin Tiên tử cho nghe.
Lý Trại Hồng đưa mắt nhìn qua Liễu Y Ảo lúc đó còn đang đứng sững như chết lặng. Với giọng rung rung, chứng tỏ nàng bị khích động mãnh liệt, Lý Trại Hồng tiếp:
– Công tử không thể lấy Liễu sư muội, thì tốt hơn hãy giết nàng ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình trố mắt nhìn Lý Trại Hồng. Chàng tự hỏi, nàng nói thế là có ý tứ gì? Oán hận chàng mà nói hay thực ra nếu chàng từ chối thì sẽ có điều tai hại xảy đến cho Liễu Y Ảo, chẳng hạn như nàng quẩn chí rồi tìm cách quyên sinh? Hay Lý Trại Hồng muốn đùa chàng? Đùa để mỉa mai chứ chẳng phải để phôi pha một sự bẽ bàng?
Lý Trại Hồng lại tiếp:
– Không đâu, công tử! Tôi không thốt những lời nông nổi! Trong tình cảnh nầy, còn ai có tâm tư nghĩ đến những lời đùa? Trừ ra những người phi phàm thì phần đông thiếu nữ, khi đã yêu hay khi hận, họ đều đi đến chỗ cực đoan, họ có thể làm bất cứ việc gì, kể cả những điều mà họ biết là sẽ mang tai hại đến cho họ.
Riêng về Liễu sư muội thì, theo tôi hiểu, còn vượt qua cái mức cực đoan, có thể bảo nàng hiện tại ở cái chỗ tuyệt đoan rồi đó. Công tử đương diện khước từ, chẳng khác nào dùng ngọn roi mà quất mạnh vào đầu nàng, nàng vừa thất tình, vừa bị chạm tự ái, niềm hận bốc cao, nàng sẽ mất bình tĩnh, nàng sẽ trở nên đáng sợ hơn Tạ Linh Vận nữa đó.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.
Chẳng ai hiểu cái lắc đầu của chàng có nghĩa gì. Lắc đầu vì chạnh nổi niềm dang dở của Liễu Y Ảo, hay chàng muốn xác nhận lại một lần nữa là chàng không thể miễn cưỡng làm một việc chiếm trọn cuộc đời nàng? Hôn nhân là quan trọng, do đó ai ai cũng phải thận trọng, đâu có thể xem như trò đùa, muốn cột thế nào tùy thích, rồi khi cái hứng lắng xuống lại mở ra?
Lý Trại Hồng tiếp luôn:
– Tuy nàng là sư muội của tôi, mối liên quan giữa tôi và nàng rất mật thiết, tôi cũng không oán trách công tử, mà bất cứ ai có hảo tâm với nàng, cũng không thể vì nàng mà oán trách công tử.
Nhất Âu khẻ gật đầu.
Khổ Hải Từ Hàng không gật đầu theo những người đó, song lão tăng không tỏ thái độ phản đối.
Bành Cúc Nhân chớp chớp ánh mắt, ánh mắt đó có ẩn ước ít nhiều ý chí khích lệ Quan Sơn Nguyệt.
Lý Trại Hồng ngưng câu chuyện lại một lúc lâu, chờ xem Quan Sơn Nguyệt quyết định như thế nào.
Nhưng, chàng vẫn bất động.
Bắt buộc, nàng phải cất tiếng:
– Cho rằng công tử không nỡ xuống tay, song bọn chúng tôi lại muốn công tử phải dứt khoát sự tình bằng cách hạ sát nàng. Trên đời nầy, một Tạ Linh Vận đã đủ gây khổ cho bao nhiêu người, thì khi mình biết là sẽ còn một họa hoạn lớn hơn sắp sửa phát sanh, tại sao mình không hủy diệt cái hậu hoạn đó?
Phụ họa với lời nói, nàng đưa cao một bàn tay, như chuẩn bị đánh vào tử huyệt của Liễu Y Ảo.
Quan Sơn Nguyệt nhanh chân, vọt mình tới, ngăn chận:
– Không nên! Đừng, Tiên tử!
Lý Trại Hồng trầm giọng:
– Tại sao? Công tử đã bằng lòng lấy nàng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, tỏ vẻ kiên quyết:
– Điều đó thì không! Tại hạ không thể kết hôn với nàng, mà tại hạ cũng không thể giết nàng. Cả hai điều, không thể thực hiện được, tuy nhiên, tại hạ sẽ ngăn trở bất cứ ai gây tổn thương cho nàng.
Lý Trại Hồng buông tay xuống, thở dài:
– Công tử đã nhất định cái hậu quả như thế nào chứ?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Dù hậu quả như thế nào, tại hạ xin một mình đảm trách, giả như Liễu Tiên Tử vẫn là con người tốt, thì tại hạ sẽ nhận lỗi của mình, dù thực sự tại hạ chẳng có lỗi chi cả, bởi không thể yêu ai đó, là có lỗi với kẻ đó sao? Còn như vì bất mãn, mà nàng trở nên tàn độc, thì lúc đó, tại hạ sẽ giết nàng cũng chẳng muộn.
Dù sao, tại hạ mong muốn thanh kiếm Bạch Hồng nầy sẽ chẳng bao giờ có dịp sử dụng cho trường hợp của nàng.
Lý Trại Hồng suy tư một chút:
– Tôi chỉ sợ, đến lúc đó thì cầm như quá muộn rồi.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Cũng có thể là muộn, song chúng ta đâu có thể vô cớ mà giết người, huống chi người đó lại cùng một cánh với chúng ta? Phải chờ xem nàng có phạm tội như Tiên tử dự đoán. Dù nàng phạm tội, là một điều đáng tiếc cho cả nàng lẩn nạn nhân, song chúng ta phải chờ.
Lý Trại Hồng lại trầm ngâm một lúc nữa. Nàng nhìn Liễu Y Ảo một thoáng, đoạn thở dài, thốt:
– Tôi chưa biết cách an bài như công tử có kết quả như thế nào, song tôi cảm thấy kính phục công tử vô cùng. Về đạo lý, thì tôi không tranh luận được với công tử. Cho nên, tôi giao nàng cho công tử đó.
Quan Sơn Nguyệt nhận ra, tuy nàng nói thế, song ánh mắt của nàng ngời lên cái sát ý rõ rệt. Chẳng những sát cơ hiện nơi ánh mắt nàng, mà trong tia nhìn của Nhất Âu và Linh Cô, sát khí cũng bốc bừng quá lộ liễu.
Khổ Hải Từ Hàng niệm phật hiệu, thốt:
– Bần tăng xin mang nàng theo!
Lão cúi mình xuống, nắm áo Liễu Y Ảo, tay kia lão áp nơi huyệt tâm khẩu của nàng.
Nhanh như chớp, Quan Sơn Nguyệt đánh ra một chưởng, trúng cánh tay lão hòa thượng.
Bàn tay của lão hòa thượng rời ngay huyệt tâm khẩu của Liễu Y Ảo.
Chàng hét:
– Đại sư làm gì thế?
Qua cái chạm đó, Khổ Hải Từ Hàng bị dội lại ba bước, còn Quan Sơn Nguyệt cũng bị đẩy lui về phía hậu, xa hơn nửa trượng.
Không chậm trễ, Khổ Hải Từ Hàng dùng phách không chưởng đánh xuống Liễu Y Ảo đang nằm mê man dưới đất.
Không thể can thiệp kịp thời, Quan Sơn Nguyệt hét lên một tiếng lớn.
Ngờ đâu, Liễu Y Ảo lăn qua một bên, lấy thế tung bổng mình lên không, lộn luôn một vòng, đáp xuống. Nàng nhìn mọi người, ánh mắt bốc lửa căm thù, gằn từng tiếng:
– Tốt lắm! Các ngươi cho rằng chỉ có các ngươi hiểu ta, chứ ta lại chẳng hiểu các ngươi sao? Thái độ của các ngươi đã rõ rệt lắm rồi!
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Tiên tử ... không hôn mê ... thực sự ...
Liễu Y Ảo cười lạnh:
– Ta có hôn mê thật đấy, song chỉ một thoáng thôi, ta tỉnh lại ngay! Cũng may là ta tỉnh lại sớm, nhờ thế mới nghe rõ các ngươi nói với nhau những gì! Hừ!
Sư tỷ, chúng ta cùng sống bên nhau qua nhiều năm, sư tỷ quên đi chăng? Hừ!
Ngươi! Ta cùng ngươi thường sóng đôi nhau, dạo khắp các ngọn đồi, đỉnh núi quanh vùng! Hừ! Ngươi nữa, mở miệng ra là nói toàn những lời đạo đức, luôn luôn nhắc nhở đến chúng sanh! Hừ!
Nàng trách luôn bà người, Lý Trại Hồng, Linh Cô và Khổ Hải Từ Hàng!
Lý Trại Hồng và Linh Cô thẹn đỏ mặt.
Chỉ có Khổ Hải Từ Hàng, giữ vẻ mặt thản nhiên, đáp:
– Bất cứ hành động nào của bần tăng, cũng dựa vào cái đạo từ bi, bác ái.
Cho nên, làm một việc gì, bần tăng chẳng bao giờ thẹn với lương tâm, bất quá, cái quan niệm của mỗi người mỗi khác, do đó sự nhận xét phải bất đồng!
Liễu Y Ảo không buồn lưu ý đến lão nữa, nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, những biểu lộ trên gương mặt nàng vô cùng phức tạp, chứng tỏ tâm tư nàng đang có ngàn ý niệm dâng lên.
Nàng nhìn chàng một lúc lâu, rồi buông nhẹ tiếng thở dài, thốt:
– Còn ngươi! Ta biết nói sao bây giờ! Ngươi là kẻ mà ta hận nhất trong thế gian này, ngươi là kẻ mà ta kính phục nhất trong thiên hạ, giữa hai cực đoan đó, từ nay ta áp dụng một chủ trương! Cái chủ trương của ta, là tận dụng mọi thủ đoạn, đối phó với ngươi, quyết trừ diệt ngươi khỏi dòng đời, cho đến khi nào ngươi ngã gục dưới chân ta mà chết, ta sẽ vì ngươi khóc lên cho vơi niềm uất hận, rồi ta tự tuyệt để đáp lại thịnh tình của ngươi! Cái thịnh tình do ngươi dành cho ta hiện tại, có mọi người chứng kiến!
Quan Sơn Nguyệt thừ người ra đó, chẳng biết phải đối đáp làm sao với nàng.
Nàng thốt xong, còn nhìn chàng một lượt cuối, một phút sau, nàng quay mình nhún chân tung bổng người lên không, thoát đi nhẹ nhàng như con chim lướt gió ...
Nàng đã đi lâu rồi, những người tại cục trường vẫn còn bất động.
Mãi một lúc sau, Bành Cúc Nhân bước tới nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Quan công tử, nếu hiện tại công tử chẳng còn việc gì bắt buộc phải lưu lại đây, thì xin đi theo già, đi gặp một người!
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Ai? Ai?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Trương Thanh! Vị cô nương đáng thương hơn bất cứ ai trên trần gian nầy!
Nàng vì công tử mà trải qua chẳng biết bao nhiêu gian khổ mà giờ đây hầu như chẳng còn là một con người ...
Quan Sơn Nguyệt biến sắc, cấp tốc hú vọng một tiếng dài, con Minh Đà từ đâu đó chạy bay đến.
Chàng không thốt một tiếng cáo từ, nắm tay Bành Cúc Nhân, cùng nhảy lên lưng Minh Đà.
Con thú chẳng đợi chủ nhân giục, cất vó chạy đi ngay ...
Minh Đà lướt vó xuống núi như bay, gió chiều từ đồng nội cuộn về, mang cái mát dịu xoa mệt cho khách lữ hành, song riêng Quan Sơn Nguyệt không nghe nhiệt độ trong người lắng xuống mảy mai.
Chàng nôn nóng cực độ, Minh Đà vừa rời cục trường là chàng hỏi ngay Bành Cúc Nhân:
– Đại Nương! Việc gì đã xảy đến cho Trương Thanh?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Bịnh! Cơn bịnh đến hồi nguy kịch!
Chừng như Quan Sơn Nguyệt không tin như vậy, lại hỏi:
– Làm sao mà nàng thọ bịnh?
Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:
– Bịnh đến, là thọ bịnh, là mang bịnh, chứ còn làm sao nữa? Chẳng lẽ con người ăn ngũ cốc, ăn đủ loại vật thực, trong một cơn bất thường nào đó, không thể ngã bịnh à?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tiểu điệt đâu có ý nghĩ như thế đâu, đại nương! Chẳng qua, tiểu điệt lấy làm lạ là, ngoại tổ nàng, thân phụ nàng, đều là những bậc danh y, nàng phải được hai vị đó truyền cho ít nhiều tri thức về y học, nàng phải biết cách bảo dưỡng, dù có lâm bịnh đi nữa, hẳn nàng cũng hiểu phương pháp chữa trị hữu hiệu chứ! Tại sao lại để cho cơn bịnh chuyển sang giai đoạn nguy kịch?
Bành Cúc Nhân nhếch nụ cười khổ:
– Dược liệu chỉ chữa trị những chứng bịnh về cơ thể, chứ còn về tâm bịnh thì dù cho Hoa Đà, Biển Thước có sống lại cũng phải chào thua!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một lúc lâu, chàng hỏi tiếp:
– Nàng còn thắc mắc về thân phụ của nàng à? Nàng uất hận về phong thinh quanh phụ thân nàng à?
Bành Cúc Nhân gật đầu.
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Lạ thật! Gia gia nàng làm sao thì làm, hành vi của lão ấy có quan hệ gì đến nàng đâu! Huống chi, tại đại hội Long Hoa vừa qua, tiểu điệt có gặp Trương Vân Trúc, cứ theo lời lão thuật sơ lược thì bên trong sự tình có nhiều uẩn khúc, và chừng như những việc đó, chẳng phải do y làm nên ...
Bành Cúc Nhân gật đầu:
– Nàng cũng có nghe như vậy. Chính nàng có đến từng môn phái một, những nơi có bị thiệt hại ít nhiều, người ta cũng cho nàng biết là không hẳn Trương Vân Trúc đã hành động như vậy, và ai ai cũng nghi ngờ có một bàn tay bí mật nào đó gây ra tội tình ...
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Thế thì Trương Thanh còn lý do gì mà uất hận đến độ, phải mang bịnh nặng?
Bành Cúc Nhân lộ vẻ buồn thảm ra mặt:
– Hầu hết các môn phái đều không tin quyết là Trương Vân Trúc có làm điều thiệt hại cho họ, riêng tại Âm Sơn thì ...
Bà thở dài, rồi tiếp:
– Vô Cực Kiếm Phái lại quả quyết là người dụ hoặc thiếu nữ tiên Âm Lệ Hoa, chính là Trương Vân Trúc!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, lắc đầu luôn mấy lượt:
– Không! Không thể có điều đó! Chính tiểu điệt có hỏi qua Trương Vân Trúc, lão cực lực phủ nhận việc ấy. Và tiểu điệt rất tin tưởng Trương bá bá không thể có hành động quá hèn đến mức độ đó!
Bành Cúc Nhân cười lạnh:
– Công tử dễ tin người quá chừng! Trương Thanh cô nương đã điều tra đích xác sự tình rồi, nhất định không thể lầm.
Quan Sơn Nguyệt vẫn không tin:
– Bằng vào đâu mà Trương Thanh dám quả quyết là Trương bá bá có tội?
Bành Cúc Nhân lắc đầu:
– Già nói làm sao được? Công tử muốn biết, cứ hỏi nàng thì biết! Già thú thật không được hiểu rành cho lắm, bất quá, già dám đoán định là Trương Vân Trúc không nói đúng sự thật với công tử. Nếu lão ta là con người tốt, thì chẳng khi nào lão lại chịu giao tiếp với bọn sứ giả Ma Cung.
Quan Sơn Nguyệt nín lặng. Chàng không cãi lý, song chàng vẫn tin tưởng là Trương Vân Trúc không bao giờ làm cái việc quá khốn nạn đó được. Còn như, lão ta có theo bọn sứ giả Ma Cung, thì điều đó hiểu nhiên rồi, lão có dụng ý gì, chỉ có lão mới biết được mà thôi. Chàng không biết, thì làm sao biện hộ cho lão được, trước lời trách cứ của Bành Cúc Nhân?
Chàng trầm ngâm lâu lắm, lại hỏi:
– Trương Thanh hiện tại ở tại Đại Ba Sơn? Nàng làm gì ở đó?
Bành Cúc Nhân «hừ» lạnh:
– Già chẳng đã nói với công tử là nàng mang bịnh sao? Mang bịnh thì tự nhiên dưỡng bịnh, chứ còn làm gì nữa?
Quan Sơn Nguyệt cười gượng, mặc nhận là mình hỏi vớ vẩn nên chàng không lấy làm khó chịu về thái độ của Bành Cúc Nhân trong thái độ mỉa mai chàng. Chàng có vẻ mơ màng, suy tư một lúc, đoạn lắc đầu thốt:
– Thật là kỳ quái! Tiểu điệt chẳng làm sao hiểu nổi! Dưỡng bịnh, ở đâu lại chẳng được, vì lý do gì, nàng lại tìm đến Đại Ba Sơn, cam với cảnh tịch mịch giữa chốn hoang vắng lạnh lùng ...
Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:
– Điều đó không đáng trách! Bởi, ngoài Đại Ba Sơn ra, trong trần gian rộng lớn bao la nầy, chẳng còn nơi nào cho nàng dung thân được!
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, toan hỏi gì đó, Bành Cúc Nhân vội khoát tay ngăn chận:
– Công tử đừng hỏi già nữa, già không thể nói, dù là về vấn đề gì, già cũng không thể giải thích cho công tử hiểu. Khi gặp nàng rồi, tự nhiên công tử sẽ hiểu.
Thú thật với công tử, cả cái việc đi tìm công tử, với công tử đến đó gặp nàng là do chủ ý riêng của già đó thôi, chứ nàng không còn tưởng là gặp mặt công tử.
Quan Sơn Nguyệt lại càng mơ hồ, đôi mày cau lại, kêu khẽ:
– Đại nương càng nói, tiểu điệt càng hoang mang ...
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Hoang mang là phải, bởi công tử chẳng cần hiểu làm gì.
Bà tiếp luôn:
– Hiểu cho nàng, cũng tốt, không hiểu cho nàng cũng chẳng sao! Tình trạng của nàng ngày nay cầm như vô cứu rồi, tuy nhiên, già nghĩ rằng, sự chí tình của công tử có thể giúp nàng thoát ly vòng thống khổ ...
Trước kia, thì chàng còn hiếu kỳ, gặp một bí mật nào, quyết khám phá cho kỳ được bí mật đó. Song từ lúc tham dự cuội đại hội Long Hoa, giữ một vai trò trọng yếu trong những diễn tiến của tổ chức ma quái đó, chàng đã tạo cho mình một tập quán tiếp xúc với mọi bí mật, cái tập quán đó giúp chàng giữ được thản nhiên, và đè nén mọi hiếu kỳ. Và, chàng cũng thu thập luôn một kinh nghiệm, là đừng bao giờ hỏi nơi ai một sự bí mật nào, muốn hiểu một bí mật, chẳng khác gì hơn là tự mình khám phá, có hỏi ai cũng vô ích.
Cho nên, hiện tại, chàng không hỏi gì thêm nơi Bành Cúc Nhân, chàng thừa hiểu, có hỏi bà, vị tất bà lại chịu tiết lộ với chàng? Chàng im lặng, suốt một quãng đường dài.
Bành Cúc Nhân chừng như lấy làm lạ về thái độ của chàng, qua một lúc, lại hỏi:
– Sao công tử không nói gì?
Quan Sơn Nguyệt cười khổ:
– Biết nói gì bây giờ, đại nương? Mà nói gì để làm gì? Điều mà tiểu điệt muốn hỏi, muốn biết, thì đại nương lại chẳng thể nói ra, tiểu điệt nghĩ, nên nín lặng là hơn! Cứ đi, khi nào đến rồi, chạm trán với sự tình rồi, nhìn sự tình, hiểu được cũng tốt, không hiểu được thì đành vậy thôi, đại nương ạ!
Bành Cúc Nhân căm hờn:
– Không hỏi thì đành đi, song ít nhất công tử cũng phải nói gì chứ? Ít nhất công tử cũng phải biểu hiện một vài cảm nghĩ nào đó, chứng tỏ từ ngày chia tay đến nay, công tử vẫn dành cho nàng một điểm nhỏ quan hoài ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Vừa nghe đại nương cho biết về tình trạng của nàng, tiểu điệt chẳng kịp giã từ ai, cấp tốc lên đường, như vậy chưa đủ sao, đại nương?
Bành Cúc Nhân cười lạnh:
– Đủ à? Bao nhiêu đó mà cũng cho là đủ à? Công tử có hiểu được đâu, từ lúc đó đến bây giờ, nàng đã hy sinh như thế nào cho công tử? Mà thôi, những gì nàng đã làm, sau lưng công tử, công tử không hiểu, cũng chẳng đáng trách. Hãy nói đến cái việc nàng trải qua bao nhiêu gian lao, nguy hiểm, đưa công tử từ Lạc Hồn Cốc đến Côn Lôn Sơn, đem sanh mạng của nàng, thử thách với bất thường trên quãng đường vạn dặm, công tử sống lại, nếu không nhờ nàng thì nhờ ai chứ?
Nàng đã khóc cho công tử lúc đó, nàng dùng những hạt lệ bi sầu tẩm liệm lúc công tử mê man như chết, nàng liệm công tử bằng cái tâm thành, trước khi gởi công tử nằm vĩnh viễn trong đất lạnh! Công tử sống lại nhờ nàng, bây giờ nàng hấp hối, thử hỏi vì ai, mà cũng thử hỏi ai có nghĩ đến nàng, ai sẽ cứu nàng?
Quan Sơn Nguyệt hoảng hốt:
– Sao đại nương nói là nàng chỉ thọ bịnh, chứng bịnh có phần nặng, mà thôi?
Thế tình trạng của nàng nguy kịch đến mức độ đó à? Nàng hấp hối?
Bành Cúc Nhân có cái dáng như kẻ lỡ lời, thốt ra rồi là hối hận ngay. Bà hối hận, nên bà sửa chữa:
– Công tử hỏi nhiều, cũng thế thôi, già chỉ tóm lược là nàng hiện tại thống khổ phi thường, nàng đã từ bỏ tất cả những gì đáng tha thiết nhất trên đời chỉ vì công tử đó!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Nàng đã dành cho tiểu điệt một mối tình tha thiết, thế sao nàng không tưởng gặp lại tiểu điệt?
Bành Cúc Nhân rơi vào mâu thuẫn:
– Ai nói là nàng không tưởng gặp công tử?
Quan Sơn Nguyệt nhìn lại bà:
– Đại nương quên rằng chính đại nương vừa nói đó sao?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Phải! Già có nói như vậy! Già hồ đồ quá chừng! Bởi hồ đồ nên nói đầu xuôi đuôi ngược! Thì ra thì, nàng có nói là không muốn gặp lại công tử, tuy nhiên, già hiểu, miệng nàng thốt, mà lòng nàng nghĩ trái ngược. Già hiểu rõ là nàng đang trông chờ công tử, từng phút, từng giây, từng ngày, từng tháng đó, công tử!
Chừng như, nàng nghĩ là thà chết chứ không chịu tỏ ra tha thiết trông chờ!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu. Sau cùng chàng cất giọng u buồn, thốt:
– Tiểu điệt minh bạch rồi, đại nương! Tiểu điệt trước sau, vẫn gìn giữ một sự chân thành đối với nàng, đại nương đã thấy là tiểu điệt từ khước Liễu Y Ảo.
Bành Cúc Nhân chận lời:
– Cũng vì công tử biểu hiện tâm tình như thế, già mới tiết lộ hành tung của Trương Thanh với công tử đó!
Quan Sơn Nguyệt chính sắc:
– Đại nương! Giả như đại nương tin tưởng nơi tiểu điệt, thì hãy tỏ thật tình hình cho tiểu điệt hiểu. Hiện tại, nàng ra sao? Nàng ở tại Đại Ba Sơn ...
Bành Cúc Nhân lắc đầu, thấp giọng đáp:
– Công tử lượng xét cho già. Già không thể nói những gì khó nói. Đưa công tử đến gặp Trương Thanh, là già làm một điều sái quấy rồi đó, làm sao già dám bép xép hơn? Già biết là sái quấy, song vẫn làm, bởi già thọ ơn Tuyết Lão Thái Thái, già mến cái nghĩa của Trương Thanh. Già phải làm một cái gì cho họ. Nếu không vậy, thì đừng mong già hở miệng đối với bất kỳ ai.
Để biểu lộ sự cương quyết, bà cắn môi, nín lặng.
Trước thái độ đó, Quan Sơn Nguyệt còn hỏi han gì được nữa? Chàng thất vọng đến chán chường, cúi đầu, giục lạc đà chạy nhanh.
Đường đến Đại Ba Sơn, dài ngàn dặm, một con đường hầu như hoang vắng, lâu lâu mới có khách lữ hành đi qua, đường hoang vắng thì không được phẳng bằng cho lắm, tuy nhiên Minh Đà vốn quen cất vó trên những nẻo đường gồ ghề, nên không lâu sau, họ cũng đến nơi.
Minh Đà vừa đến chân núi, Bành Cúc Nhân bổng lộ vẻ bất an. Bà nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Già không thể cùng đi với công tử lên đó, thôi thì công tử cứ lên, rồi tùy cơ mà xử trí. Cần nhất là công tử phải kiên tâm, trì chí, vô luận làm sao, công tử cũng phải nghĩ đến Trương Thanh, vô luận làm sao, công tử cũng đừng khinh phụ nàng. Thôi, công tử đi đi, già vái van hoàng thiên phù hộ, trợ giúp công tử thành công!
Bà thốt xong, nhảy xuống đất, rồi phóng chân chạy đi, không đợi nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì.
Thái độ của bà kỳ lạ quá, chàng đâm lo, song chàng chẳng chút nghi ngờ về tâm ý của Bành Cúc Nhân. Qua phút giây sửng sốt, chàng giục Minh Đà vượt qua dòng suối trước mặt, rồi tìm đường lên núi.
Con đường trải ra trước mặt, thoạt đầu rất rộng rãi, nhưng càng lên cao, càng hẹp lại, hẹp đến độ chỉ vừa vặn cho một người lách mình mà đi mới lọt.
Đường lên lại nằm giữa hai vách đá, trên đường rêu xanh mọc dày, trơn trượt.
Người chỉ lách mà đi, thì còn lạc đà, to lớn làm sao qua được? Bắt buộc chàng phải để con vật lại, rồi lấy chiếc Độc Cước Kim Thần giắt vào mình, dè dặt bước đi.
Qua hơn bảy tám dặm đường, chàng trông thấy một khoảng trống vừa cao, vừa bằng phẳng, bên trên có mây che phủ.
Mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả mình chàng.
Lên đến bình đài rồi, chàng thở mệt một lúc, rồi nhìn về phía trước, bất giác chàng lắc đầu, cau mày. Thì ra, con đường đến đây là đoạn cuối, nếu muốn tiếp tục lên cao, thì chẳng còn cách nào khác hơn là biến thành con vượn, chuyền cây.
Cây cao chi chít, dây leo chằng chịt, giây khá lớn, có thể chi trì sức nặng một người đeo. Như vậy, đối với chàng, có gì khó khăn đâu? Thế tại sao chàng cau mày, lắc đầu? Phải có một nguyên do nào đó, khiến chàng cau mày lắc đầu.
Nguyên do, chẳng phải khó leo, chẳng phải thân thể chàng quá nặng, sợ dây leo không chịu nổi chi trì. Nguyên do, là chiếc Kim Thần Độc Cước sau lưng chàng. Chiếc Kim Thần nặng lối ba bốn trăm cân, sức nặng của nó, cộng với sức nặng của thân thể chàng, phải là quan trọng.
Đường dây kia có chịu nổi hay chăng?
Dây leo đứt, tự nhiên phải rơi xuống, mà bên dưới thì đá nhọn tủa lên chơm chởm, như ngàn muôn lưỡi gươm giáo chong lên, xương thịt nào rơi xuống mà còn nguyên vẹn với những mũi nhọn đó? Giá như chàng lừa thế, rơi êm được, thì làm sao chàng trở lên bên trên? Lòng hố sâu gần như trăm trượng, vách đá lại không có chỗ vịn, làm sao chàng trở lên được?
Trong khung cảnh đó, chàng dù có học được một thân bản lĩnh, cái bản lĩnh của chàng cũng cần như vô dụng.
Chàng trầm ngâm một lúc lâu, suy tư, tìm biện pháp vượt qua đoạn đường đó. Sau cùng, chàng phải dùng đến biện pháp cuối cùng, một biện pháp mà ai ai cũng có thể dùng, chẳng cần vận dụng trí óc tìm kiếm.
Chàng lấy chiếc Kim Thần, vận thần lực ấn xuống mặt đá dưới chân, đến khi Kim Thần lún sâu ngang cổ, chàng dừng lại, đoạn chàng lấy chiếc Minh Đà Lịnh, quấn dây quanh cổ kim thần. Sau đó, chàng dùng chỉ lực, viết mấy chữ lên mặt đá, cạnh kim thần:
«Minh Đà Lịnh Chủ để lại».
Cái ý của chàng là chẳng hề có một người nào lấy nổi chiếc Kim Thần. Giả như có người thừa công lực lấy ra, thì người đó hẳn phải là một nhân vật siêu phàm, và nếu là nhân vật siêu phàm, thì chẳng khi nào lại tham cái vật đó. Còn nếu ai lấy lên được rồi, mà lại muốn đoạt luôn thì, người ấy quả có ý muốn chống đối chàng. Kim Thần mất đi, người nào có chống đối chàng, hẳn phải để lại bút tích, cạnh mấy chữ của chàng, và do theo bút tích đó, chàng tìm thấy dễ dàng.
Bởi, người ta dám chống đối, tất phải lưu bút khiêu khích, chỉ rõ địa chỉ.
Làm xong các việc đó, chàng thở phào. Thở phào rồi, chàng ngẩng đầu lên, bất giác chàng giật mình. Bởi, chẳng rõ xuất hiện từ lúc nào, một người đang đứng trước mặt chàng.
Người đó có thân pháp nhẹ nhàng quá, đến gần chàng, mà chàng chẳng hay biết gì cả. Người đó từ nơi nào đến? Từ một nơi bí ẩn dưới hố sâu, hay từ trên cao xuống?
Người đó tuổi độ ba mươi, dung mạo đoan chính, mặc y phục nho sinh, nhìn thoáng qua cũng thấy rõ cái vẻ tư văn thanh nhã.
Nhưng, cái dáng đó không đánh lạc hướng nghĩ của Quan Sơn Nguyệt, vì chàng nhận ra, con người đó phải là một nhân vật hữu danh trên giang hồ, một nhân vật mà cái dáng nho nhã bên ngoài không che dấu nổi một công phu tu vi thâm hậu bên trong.
Ít nhất, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận xét như vậy, và chàng tin tưởng nơi nhãn lực của chàng lắm. Bởi, đánh bại được Tạ Linh Vận, chàng tỏ ra là một tay lợi hại lắm rồi, nhãn quang, thính giác của chàng phải linh diệu vô cùng. Thế mà người đó xuất hiện bên cạnh chàng, chàng chẳng hề hay biết! Nếu người đó chẳng có một bản lãnh tân kỳ, thì làm sao có thân pháp nhẹ như chiếc lá rơi?
Người đó đằng hắng một tiếng, hỏi:
– Tôn giá là «Minh Đà Lịnh Chủ»?
Quan Sơn Nguyệt vòng tay nghiêng mình chào lại:
– Phải, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.
Người đó như không lưu ý đến tên họ của chàng, y cứ nhìn xuống mấy chữ trên mặt đá, buộc miệng tán:
– Khắc chữ được như thế, quả thật đáng phục!
Quan Sơn Nguyệt khiêm tốn:
– Huynh đài quá khen!
Người đó chớp mắt, tiếp:
– Hay thì có hay, song cái cách viết chữ chưa đúng mức hỏa hầu. Điều đó, hiện tại tôn giá không thể nhận ra được, mà chính tại hạ cũng chẳng biết phải giải thích làm sao cho tôn giá hiểu. Sau ba mươi năm, nếu tôn giá có dịp trở lại đây, nhìn bút tích cũ, sẽ thấy rõ là tại hạ phê bình không sai, cho nên, phàm tả tự, cũng phải mất lắm công phu mới luyện được một thủ pháp khả quan!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đa tạ các hạ chỉ giáo những sự khuyết kém, song tại hạ học viết, bất quá chỉ để dùng thay lời, dùng chữ để lưu cái ý lại mà thôi, chứ chẳng phải với niềm kỳ vọng trở thành danh gia ...
Người đó «hừ» một tiếng:
– Tôn giá nói thế là tự mình xem rẻ lấy mình rồi! Tả tự như tôn giá, là có thiên tài đó, có điều cái thiên tài chưa được trau dồi đúng mức thôi. Như một viên kim cương, nó còn nguyên hình, nguyên trạng, là cái giá của nó không được trọng lắm, nó cần phải qua tay thợ khéo đẽo, chuốt, giũa mài, nó mới trở thành một vật ngang giá trị liên thành. Các hạ có thiên tài, không trau dồi thiên tài, thì uổng biết bao? Các hạ xem rẻ thiên tài, là điều đáng tiếc vậy! Phải làm mọi cách để phát huy thiên tài chứ!
Bất ngờ mà bị người chỉnh như vậy, bất ngờ mà tiếp thọ một sự giáo huấn như vậy, Quan Sơn Nguyệt dở khóc, dở cười. Chàng có thích cái đề tài thảo luận này đâu mà phải bàn bạc dài dòng?
Chàng không biết phải giải đáp làm sao cho xuôi, vừa tránh phí phạm thì giờ, vừa không thất lễ độ.
Người đó chưa chịu buông tha chàng, trầm gương mặt tiếp luôn:
– Tại hạ không có ý mạo phạm đến tôn giá đâu, chỉ vì tại hạ có cái tâm liên ái thiên tài, thấy tôn giá không khai thác thiên tài, nên tiếc vậy thôi. Chúng ta là hai kẻ xa lạ, khi nào tại hạ dám vô lễ với tôn giá?
Quan Sơn Nguyệt bắt buộc phải đáp:
– Các hạ có hảo ý, tại hạ hết sức cảm kích ...
Người đó khoát tay:
– Chẳng cần phải khách khí. Tại hạ rất tinh tường về pháp tả tự, bình sanh rất thích xem nét bút của thế nhân, cho nên gặp tôn giá, tại hạ nhận thấy quả có thiên tài, thành hứng khởi, khuyến khích, hy vọng tôn giá trở nên danh gia, mình sẽ cùng nhau nghiên cứu ...
Quan Sơn Nguyệt chán lắm rồi, để chấm dứt câu chuyện, chàng hứa liều:
– Được rồi, ngày sau tại hạ sẽ nhờ các hạ chỉ điểm, hiện tại thì ...
Người đó cười tươi, không đợi chàng dứt câu, chận ngay:
– Hay lắm! Tại hạ ngụ trên đỉnh núi kia, lúc nào các hạ thấy hứng, xin cứ đến đó.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Các hạ ở trên đó?
Người đó cũng giật mình:
– Tôn giá lấy làm lạ? Thế ra, tôn giá cũng ở trên đó? Thế ra chúng ta ở gần nhau, mà từ lâu không ai hay biết?
Quan Sơn Nguyệt khoát tay nhanh:
– Không! Tại hạ là người viễn phương, có một bằng hữu trên đó.
Người ấy thở nhẹ:
– Ạ!
Rồi y tiếp luôn:
– Người ở trên đó không nhiều, chẳng hay vị bằng hữu của tôn giá là ai?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Một thiếu nữ, nàng tên là Trương Thanh.
Người đó thoáng biến đổi thần sắc, chú mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn một chút, đoạn hỏi:
– Đúng rồi, trên đỉnh núi, có một nữ nhân. Tôn giá đến tìm nàng ấy? Có việc chi chăng?
Tại sao y lại hỏi việc riêng tư của người? Mà lại là việc liên quan giữa một nam một nữ?
Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, nhưng nghĩ lại, chẳng phải lúc chàng tranh luận với kẻ xa lạ, và lại điều đó không mang lại cho chàng một mảy mai tiện ích nào cả. Chàng dằn lòng đáp:
– Trương cô nương là người quen biết của tại hạ, hôm nay tiện đường qua Đại Ba Sơn, dừng chân lại thăm viếng nàng ...
Người đó nhìn xuống, lắc đầu:
– Trương tiểu thơ không tiếp khách.
Lần này thì sự bất bình tăng lên một phần và cái phần tăng đó là giọt nước làm tràn cái chén đầy. Chàng trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:
– Lời nói đó, chỉ có mỗi một mình Trương cô nương thốt được mà thôi, chính nàng nói mới hợp lý.
Người đó «hừ» một tiếng, so vai:
– Tại hạ thốt, cũng như Trương tiểu thơ thốt, cả hai cùng thốt được cả và vẫn hợp lý như thường. Bởi từ ngày lên đỉnh núi ẩn cư, Trương tiểu thơ biểu hiện ngay cái ý tạ khách. Bất quá, nàng còn giao du với những người trên đỉnh, chứ khách phương xa thì đừng hòng được nàng tiếp kiến.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Tại hạ không tin! Nàng có thể từ khước tất cả mọi người, nhưng nàng phải dành cho tại hạ một ngoại lệ. Nhất định là nàng sẽ tiếp kiến tại hạ.
Người đó liếc xéo qua chàng, rồi lạnh lùng nói:
– Tại hạ chỉ thay mặt Trương tiểu thơ, biểu lộ cái ý của nàng, với bất cứ ai muốn tìm gặp nàng. Các hạ không tin thì cứ tìm đến nàng. Nàng có tiếp kiến hay không, điều đó chẳng liên quan gì với tại hạ.
Biết là đối tượng có ý mỉa mai chàng, bởi y nghĩ rằng không có đường lên núi, chàng làm gì lên trên đó được mà hòng gặp Trương Thanh? Y thách thức chàng rõ rệt. Chàng cười nhạt, thốt:
– Tuy không có đường lên đỉnh, nhưng chẳng có gì ngăn trở nổi tại hạ, khi tại hạ muốn làm một cái gì.
Người đó cười mỉa:
– Tự nhiên! Các hạ đến được đây rồi, thì còn một đoạn đường ngắn nữa, hẳn cũng thừa khả năng vượt qua. Vậy xin mời các hạ!
Núi, đâu phải là giang san riêng biệt của y? Quan Sơn Nguyệt có cần chi y mời? Giả như chàng cứ tiến tới, thì liệu y ngăn chặn chàng được sao? Chẳng qua, y buông lời mời thỉnh, là có cái ý xác nhận lại một lần nữa sự thách thức đó.
Xác nhận lại sự thách thức, là y tin chắc chẳng bao giờ Quan Sơn Nguyệt lên được.
Quan Sơn Nguyệt trừng mắt nhìn y một phút, đoạn nhún chân, nhảy cao hơn hai trượng, hai tay chụp vào sợi dây cỏ leo.
Chụp dược đường dây rồi, chàng nhìn trở xuống, thấy người đó rút chiếc kim thần từ trong lòng đá ra, cầm nơi tay, quan sát. Chàng kinh hãi, buông tay, đáp xuống chỗ cũ, hét:
– Đó là vật của tại hạ, các hạ không được phép mó đến.
Người đó điểm một nụ cười, tay vẫn cầm chiếc kim thần. Quan Sơn Nguyệt vừa đáp xuống thì y nhún chân nhảy lên, chụp đường dây. Qua mấy lượt uốn mình, y biến mất trong vùng sương mù bên trên đầu Quan Sơn Nguyệt.
Thân pháp của y rất nhẹ, rất nhanh, nhanh đến độ làm cho Quan Sơn Nguyệt phải kinh hãi, bình sanh chàng chưa gặp một nhân vật nào luyện được thuật khinh công đến mức đó.
Từ lúc người đó xuất hiện, chàng đã nhận xét y là người có tài nghệ phi thường, song bất quá chỉ ở trong mức độ mà chàng tưởng tượng nổi. Nhưng, bây giờ, chàng phát hiện ra, cái tài của người đó trên xa chỗ ức đoán của chàng.
Không nói chi đến việc khác, chỉ nội cái việc y rút dễ dàng chiếc kim thần khỏi lòng đá, cũng là phi thường rồi. Trên giang hồ, luyện nội lực được như y, phỏng có mấy tay?
Y là người ẩn cư trên đỉnh núi, mà trên đó, chẳng phải chỉ có một mình y, thế thì trên đó có những ai? Họ sống riêng biệt nhau hay hợp thành tổ chức, chẳng hạn như, Long Hoa Hội?
Cái gì thì chưa biết chắc làm sao, chứ có thể hiểu là những người trên đó có bản lãnh đáng sợ lắm vậy.
Tại sao Trương Thanh lại hòa hợp với những người đó, và cam tâm tình nguyện sống đơn độc trên đỉnh Đại Ba Sơn, quên hẳn những người cũ, vui vầy với những người mới?
Quan Sơn Nguyệt nhớ lại những ngôn từ úp mở, những cử động ngập ngừng của Bành Cúc Nhân, chàng không còn phiền trách Bành Cúc Nhân như trước nữa.
Bởi chàng nghĩ là bà ấy khó nói rõ sự thật, dù biết, dù không biết, bà cũng không thể nói ra với chàng. Nói, để gây hoang mang, chứ có ích gì? Vì, chính bà cũng chẳng tạo nên một ảnh hưởng nào đối với nàng, thì thà câm lặng là hơn, sự thế đã vậy rồi, bà câm lặng là phải. Thà để dành cho chàng nhìn tận mắt, nghe tận tai, rồi tùy chàng liệu định.
Nhưng, điều thắc mắc quan trọng của chàng hiện tại, chẳng phải hoàn cảnh của Trương Thanh, dù chàng tha thiết với nàng. Điều đáng được chàng lưu ý là cái nhóm người đang ở trên đỉnh núi. Họ là những ai?
Xưa nay, những bậc ẩn cư không hề thích để lộ hành tung, họ chẳng muốn người đời nhắc nhở đến tên tuổi của họ nữa, họ tuy còn sống, song chỉ muốn tất cả những ai từng tiếp xúc với họ trong quá khứ, cầm như họ đã chết rồi. Có như vậy, họ mới tiêu dao ngày tháng, sống nốt chuỗi đời còn lại giữa trăng gió, trời mây ...
Bằng cớ, là những người trong Long Hoa Hội, ai không thường đến Thần Nữ Phong, ai không ở trong cái hội kỳ hoặc đó, thì khi nào lại biết được bao nhiêu cao thủ chôn chặt tiếng tăm tại Thần Nữ Phong chứ?
Còn như họ ẩn cư vĩnh viễn, hay họ tạm thời lánh xa trần thế, để chờ một thời cơ nào đó, tái hiện trên giang hồ, thì lại là một việc khác, chỉ có họ biết cho họ mà thôi. Không ai quan tâm đến họ.
Những người trên đỉnh Đại Ba Sơn là ai? Chắc chắn phải là những bậc cao tài, nếu vị nho sinh vừa rồi là một đại biểu. Họ là những bậc cao tài, họ ẩn cư, tự nhiên họ không muốn cho Bành Cúc Nhân tiết lộ sự gì.
Chàng tin chắc là Bành Cúc Nhân cũng ở trên đó, như Trương Thanh và cả hai đều bị một luật lệ quái dị chi phối, như những người trong Long Hoa Hội. Song, Bành Cúc Nhân đã có chân trong Long Hoa Hội, sao lại cũng có liên quan đến nhóm người trên đỉnh Đại Ba Sơn?
Qua khỏi cái khó khăn tại Thần Nữ Phong, Quan Sơn Nguyệt lại cảm thấy chàng sẽ đương đầu với một khó khăn khác, có lẽ không kém quan trọng.
Chàng đắn đo, thầm hỏi:
“Lên? Hay bỏ tất cả, để quay trở về?”.
Lên, chắc chắn là chàng không được hoan nghinh rồi, mà biết đâu lại chẳng nhân đó mà phát sanh ra nhiều cừu hận vô lý.
Còn như không lên? Nếu bỏ dở chuyến đi này, thì làm sao chàng tái ngộ Trương Thanh? Nàng lại đáng thương quá chừng, huống chi nàng lại có ơn với chàng, có thể bảo đó là cái ơn tái sanh, cũng chẳng ngoa, bởi không có nàng thì hẳn là chàng đã chết vì chất độc của Lạc Hồn Cốc chủ. Chàng không có quyền phụ phàng nàn! Chàng còn sống đây, sự sống thừa do nàng ban cho, chàng phải dành nó, để làm bất cứ điều gì hữu ích cho nàng.
Nàng có lâm bịnh thật chăng? Điều đó, chàng chưa biết thế nào mà đoán.
Tuy nhiên chàng nghi ngờ là nàng đang sống trong một sự uy hiếp rõ ràng, dù Bành Cúc Nhân không nói ra cho chàng hiểu. Và cũng vì bị uy hiếp, mà nàng thống khổ triền miên. Bởi lẽ đó, Bành Cúc Nhân mới cố công phiêu bạt khắp bốn phương trời tìm chàng đưa về đây.
Nếu chàng không đến Thần Nữ Phong, thì Bành Cúc Nhân đến bao giờ mới gặp chàng?
Sau một lúc đắn đo, chàng quyết định lên núi.
Lên, trước hết để biết thực trạng của Trương Thanh như thế nào, tình cảm của chàng đối với nàng, cũng nồng nhiệt như của nàng đối với chàng, có khác chăng là khác ở chỗ Trương Thanh lộ liễu còn chàng thì kín đáo.
Kế đó, chàng truy tầm luôn vị thanh niên nho sinh kia, người đã lấy mất chiếc Kim Thần của chàng. Bằng mọi giá, chàng phải giữ vật đó bên mình, chỉ trừ khi nào chàng chết đi, thì ai muốn chiếm lấy, tùy thích.
Nếu còn một lý do thứ ba, là bất quá để quan sát sinh hoạt trên núi thôi.
Trước khi đi, chàng giậm chân phá hủy mặt đá có ghi mấy chữ của chàng, bởi chiếc Kim Thần mất rồi, thì những chữ đó còn lưu lại làm gì? Quái dị thay, hàng chữ của chàng được xóa mất rồi, bên dưới lại có một hàng chữ khác. Chàng trố mắt đọc:
«Trên Vọng Nguyệt Phong, có một gã thơ cuồng, tạm thời lấy chiếc Kim Thần, chờ hội ngộ với Lưu Lang. Tự tích này lưu lại cho khách viễn phương là Minh Đà Lịnh Chủ, cuồng sinh đang chờ để cùng thưởng trăng sáng nơi đồi cao.» Vọng Nguyệt Phong! Hẳn là đỉnh núi mà chàng sắp sửa vượt lên.
Thơ Cuồng! Hẳn là danh hiệu của vị nho sinh trước đó. Thảo nào mà hắn chẳng thích thơ, thích chữ ...
Bút tích lưu lại, chẳng biểu hiện một ác ý nào. Bất quá, hai chữ Lưu Lang làm cho chàng phần nào hoang mang thôi, bởi, chàng không tìm được một sự giải thích nào thỏa đáng.
Nhưng, suy nghĩ một chút, chàng chợt tỉnh ngộ, có lẽ Thơ Cuồng định mượn chuyện xưa, nói đến chuyện nay. Lưu Lang, nếu chẳng phải là Lưu Thần ngày trước, ngẫu nhiên lạc lối đến Thiên Thai, thì là gì?
Đem việc hiện tại, so với việc vừa qua, bất giác Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười khổ.
Thần tiên! Tại sao người đời lại thích đắm chìm trong mộng ảo?
Long Hoa Hội, là một tổ chức quy tụ những người nuôi mộng thần tiên, họ đang còn là người, bằng xương, bằng thịt, song họ tập dần lối sống của thần tiên, lâu rồi họ cứ tưởng mình là thần tiên thật sự!
Họ si mê đến độ điên dại, họ cho rằng họ hóa kiếp vẹn toàn rồi!
Giờ đây, rời Thần Nữ Phong, chàng lại đặt chân đến Vọng Nguyệt Phong!
Rời Long Hoa Hội, chàng lại chạm phải một tổ chức cũng giống Long Hoa Hội, có điều thành phần của tổ chức khác hơn thôi, còn cứu cánh thì cũng lồng trong khung mộng ảo!
Ngoài ra, người trong Long Hoa Hội thì vũ công kém, còn bọn người tại đây chừng như tài nghệ rất cao.
Người ở đây cũng tự ví mình như bậc thần tiên, họ tập luyện ngôn từ, cử động như thần tiên, họ sống cái nếp sống của thần tiên, quên cả thực tại quanh mình, mơ mộng về không gian siêu trần thoát tục. Họ cũng đọc sách, họ cũng làm văn, song về văn, thì họ dốt rõ ràng, bằng cớ là thanh niên nho sinh vừa rồi lưu lại một câu rất dốt.
Lưu Thần vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, thì hắn đâu có thể xem chàng là Lưu Thần, và hắn đang đợi Lưu Thần? Một nam nhân, chờ đợi một nam nhân, thì đâu có thể dùng cái điển tích Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai? Huống chi, Lưu Thần vào động tiên, với trọn niềm thích thú, còn chàng lên đỉnh núi với bao nhiêu suy tư trầm trọng, hai cảnh ngộ khác biệt bởi hai con người có những hoài bão khác biệt!
Đem sánh với Lưu Thần là sự đáng buồn cười! Không nói đến trường hợp của Lưu Thần là thung dung, tự tại, còn chàng thì đôi vai hằn nặng bao nghĩa vụ, trên đường trần còn phải xuôi ngược nhiều năm ...
Qua những nhận xét đó, Quan Sơn Nguyệt nghĩ rằng ở đây cũng như tại Thần Nữ Phong, tổ chức trên đỉnh núi kia, cũng chỉ là một tổ chức của bọn điên dại, có điều cái lối điên hơi khác, đối với Long Hoa Hội thôi.
Chàng tự hỏi sao con người quá u mê đến độ xa rời thực tế, chạy theo cái bóng ma xa xôi? Họ đang làm người, lại cứ mơ tiên, tưởng mình là tiên, rồi khi họ là tiên thực sự, thì họ sẽ mơ điều chi nữa? Họ muốn thoát tục, siêu phàm, song họ cứ đào sâu cái đáy tham vọng. Lòng tham không đáy họ lại đào sâu lòng tham hơn, như thế là họ còn đam mê tục vị, phàm danh, chứ đâu phải là siêu nhiên, ngoại vật?
Tại sao có một số người mơ vọng thành tiên?
Quan Sơn Nguyệt suy tư mãi về một Long Hoa Hội đã giải tán rồi, và một tổ chức nào đó, trên đỉnh Vọng Nguyệt Phong nầy mà chàng sắp sửa tiếp xúc trong chốc lát nữa đây. Cuối cùng, chàng cho rằng nguyên nhân rất giản dị, bởi họ là những người sợ chết. Họ muốn sống lâu dài, sống như trời đất, thiên thu bất diệt mà con người được cấu tạo bằng xương, bằng máu, con người là vật hữu hoại, thì làm gì thọ ngang với đất trời? Chỉ có những bậc thần tiên mới trường tồn với vũ trụ. Do đó mà họ tầm tiên. Tầm chưa gặp tiên, họ tự ví mình là thần tiên, rồi phỏng theo cái lối sống của thần tiên qua truyền kỳ mà tạo cho họ một khung cảnh dị biệt, khác hẳn lối sống của thế nhân.
Họ cũng hiểu, thần tiên là những nhân vật huyền hoặc, song họ nuôi mạnh niềm tin, và niềm tin đó biến họ thành những kẻ tuy chưa điên, song không còn tỉnh nữa.
Tà dương nhuộm những áng mây chiều thành muôn màu rực rỡ, trên nền trời, mây lơ lửng trôi, sáng lạn, huy hoàng, dưới núi cây cỏ mờ dần theo hoàng hôn đậm bóng, rồi từng cơn gió nhẹ cuốn về, trên cao, một vầng sương mỏng phủ giăng ...
Tất cả đều huyền ảo, đúng là cái huyền ảo của cảnh tiên.
Niềm tin của những kẻ ở trên cao kia, được cái khung cảnh ấy khuyến khích hàng ngày, và họ luôn luôn mơ mộng cũng chẳng có gì đáng lấy làm lạ.
Quan Sơn Nguyệt đã quyết định rồi thì cứ lên, lên cho biết không gian bao bọc quanh Trương Thanh có cái gì khác biệt hơn đời ...
Chàng nhún chân, tung mình lên cao, với tay nắm lấy đường dây, thử đu mình, xem giây có chắc lắm không. Rồi chàng phăng lần lên.
Đường dây có chỗ lớn, chỗ nhỏ, đoạn nào lớn thì chi trì thể xác của chàng rất vững, đến đoạn nhỏ thân hình chàng chao chao mường tượng đường dây sắp đứt.
Bây giờ, chàng nhận thấy cái ý kiến lưu chiếc Kim Thần lại, rất hay, nếu chàng mang nó theo mình, thì chắc chắn là hai sức nặng cộng lại sẽ quan trọng và đường dây không thể nào chịu đựng nổi.
Nhưng, chàng giật mình, bởi tự chàng cho là không thể mang chiếc Kim Thần theo, thì tại sao cái gã thơ cuồng kia lại mang được? Xem đó, đủ biết y có vũ công ghê gớm, y hóa trọng làm khinh được như thế, hẳn phải dày công tu vi.
Phàm, vật đồng tính, thường quy tụ nhau, thì những kẻ cùng chung sống với gã, hẳn cũng là những tay phi phàm ...
Chàng cứ lên, càng lên càng cao giới bị, bởi chàng biết rõ hạng người mà chàng sắp sửa tiếp xúc chẳng phải tầm thường.
Lên mãi thì cũng có lúc phải đến đích.
Trăng đã lên, trăng sáng vô cùng, dưới chân chàng, sương mù kết đọng thành một vùng biển mênh mang, nhuốm đen dần dần.
Trước mắt chàng, một thân cổ tùng hiện ra, ngoài cây cổ tùng chẳng có một cái gì khác. Chung quanh là khoáng đãng, là mông lung man mác như vùng trời vô tận ...
Đong đưa đường dây, lấy tư thế, Quan Sơn Nguyệt quăng mình sang cành tùng, chụp cứng.
Cành tùng đó không lớn lắm, chỉ to độ cánh tay, bởi khoảng cách từ đường dây đến cành tùng khá xa, chàng không quăng mình sát thân cây nổi, đành phải với lấy cành ngoài.
Cành tùng đó làm sao chịu đựng nổi sức nặng của thân thể chàng, gia dĩ cái sức nặng đó lại được tăng gia qua sự trìu níu của chàng, vì nhảy sang đó là chàng hỏng chân rồi, thân hình đu xuống phải nặng hơn ...
Một tiếng «rắc» vang lên, cành tùng gãy. Cành gãy, là chàng phải rơi, rơi từ khoảng cao ngàn trượng, gần đỉnh, rơi chẳng biết đến đâu, bởi bên dưới là biển sương mù đen đen, tuy không thấy gì qua biển sương mù, song cứ tưởng tượng cũng đủ sợ rồi.
Sự tình xảy ra ngoài sở liệu của Quan Sơn Nguyệt. Bởi không dự liệu nên chàng không đề phòng. Rơi xuống ba trượng, cảnh giác của chàng mới thức tỉnh, cơ trí động, phản ứng sanh, tay còn cầm đoạn tùng gãy, chàng quăng mạnh nó ra xa, mượn cái quăng đó lấy phản lực, rồi nương theo phản lực, đạp không khí vọt vào vách núi.
Đồng thời gian, chàng vận công lực vào bàn tay, năm ngón cứng như cái móc sắt, năm ngón chụp vào vách đá.
Nhưng, nếu là vách cứng, thì năm ngón tay đó bám sâu vào, giữ chàng như năm cái móc câu treo chàng nơi vách. Khổ thay, vách là đá núi, sao đá lại quá mềm? Tay chàng chạm vào, chẳng khác chạm bùn, thì làm sao chịu nổi sức nặng của chàng? Chàng hết sức kinh khiếp, mồ hôi lạnh toát ra đẫm ướt mình.
Thế là nguy vẫn hoàn nguy. Và chàng cứ rơi như trước ...
Cũng may, từ mấy lúc sau này, từng gặp nhiều nguy hiểm, chàng luyện được tâm tính bình tịnh, bất cứ trong trường hợp nào, chàng cũng không hề bối rối, lý trí vẫn sáng suốt, nhờ thế mà chàng đã vượt qua bao khó khăn suýt mất mạng mấy lần.
Bàn tay không bám víu vào vách đá được, chàng rút thanh kiếm Bạch Hồng chém loạn vào nơi đó. Trong khi đó, chàng giở thuật Du Long bò dần lên, chui mình vào khoảng sâu.
Bò trên một chất nhão, chẳng phải là việc dễ, nếu không lún xuống thì đã khá lắm rồi, huống hồ trườn tới khi hai tay, hai chân chẳng có chỗ chịu?
Vào chỗ trũng đó rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn sợ rơi tuột xuống dưới nữa. Chàng thở mệt một lúc.
Nơi đó, cách cây cổ tùng ba trượng, khoảng cách ba trượng đối với chàng chẳng nghĩa lý gì.
Chân đạp lên đất cứng, chàng nhún mình, vọt lên, lần này chàng cẩn thận hơn, nhắm trước cành nào khả dĩ nắm cứng mà không sợ gãy như trước, chàng hướng về cành đó.
Chàng không dùng tay chụp, mà lại đáp chân xuống. Theo sự ức đoán của chàng, thì dù chàng có nhún mạnh đến đâu, cành cùng đó không thể gãy nổi. Trừ ra, có người nào đó ẩn mặt, ngầm giở trò quỷ quái gì ...
Lên đến cành tùng rồi, chàng nhún chân, thân hình vừa tung cao, cành tùng lại gãy như trước.
Cũng may, chàng đã rời nó rồi, chứ nếu không thì chẳng làm sao chàng có chỗ chịu chân lấy đà nhảy lên.
Đồng thời gian, chàng thấy một vệt sáng chớp lên, vệt sáng xuất hiện rồi lại tắt nhanh. Bất giác chàng sôi giận, buông giọng khinh bỉ:
– Ám toán là một thủ đoạn hèn hạ! Nếu cho mình có tài, cứ xuất hiện so tài, bằng sợ chết, thì lủi như chuột đi, đỡ bẩn mắt ta.
Chàng đáp xuống một khoảng đất bằng, cách đó độ năm, sáu trượng.
Không một tiếng người đáp lại.
Chàng chờ đợi một phút, chẳng thấy động tịnh gì, ngẩng mặt nhìn ra phía trước, một khu rừng trúc giăng mắc, ngăn chận nhãn tuyến của chàng.
Gió quét qua, khua động cành trúc, có tiếng kẽo kẹt hòa lẫn với tiếng xạc xào do cành lá phát lên.
Quan Sơn Nguyệt nghĩ, người ám toán chàng hẳn nấp trong khu rừng trúc đó, chứ chẳng lẽ kẻ ấy từ dưới lòng đất chui lên, phóng ám khí rồi lại chui xuống ẩn trốn? Chàng cất cao giọng, mắng luôn:
– Bọn hèn nhát nào đó, làm gì ẩn mặt như chồn? Chẳng biết hành động như vậy, kém hẳn nhân cách sao?
Từ trong rừng trúc, một âm thinh vọng ra, đáp lời chàng:
– Cái gã ngu xuẩn kia, sợ quá rồi thành mất trí phải không? Một trò đùa chào nhau lúc ban đầu, đùa cho vui với nhau, cớ sao lại phẫn nộ rồi dùng lời thô tục, la hét vang rền? Lên đến đây mà còn mang theo lòng tục, thì thà đừng lên là hơn!
Âm thinh vang lên, nghe rất gần.
Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, quát lên một tiếng lớn, vung thanh kiếm Bạch Hồng, vừa tạo một bức bình phong với kiếm quang, che trước mặt vừa lướt tới.
Kiếm quang đến đâu, cành trúc rơi ào ào, vòng kiếm quang dần dần lan rộng, chiếm một khoảng tròn độ bốn năm trượng.
Nhưng, chẳng có một bóng người!
Xông xáo một lúc, chẳng phát hiện ra được gì, Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng, chàng tin chắc là chẳng bao giờ nghe lầm hướng, nhưng tại sao lại có sự thể như vầy được?
Chàng dừng lại, đảo mắt nhìn ra bốn phía, trông thấy một phiến đá xanh, bằng phẳng như mặt bàn, hai bên bàn có hai chiếc đôn, trên bàn có một bàn cờ đen trắng còn bày ra đó, chứng tỏ cuộc cờ đang bỏ dang dở. Như thế, là vừa rồi có người chơi cờ, và hiện tại, người chơi cờ đã thoát đi, có lẽ còn lẩn trốn đâu đây.
Và, như thế, là chàng không nhận định lầm phương hướng.
Chàng nghĩ, tại vì chàng đến chậm một phút, thành ra không phát hiện kịp thời, chàng lại suy tư, chưa biết làm thế nào sưu tra tung tích người đó ...
Bỗng, có âm thinh vang lên, từ đâu đó vọng đến tai chàng:
– Tư Kỳ! Cái lối đùa đó, cũng thích thú chứ! Tuy nhiên ngươi gây ra một thiệt hại không nhỏ! Ngươi nghĩ, một khu rừng trúc tốt đẹp, bị ngươi đùa ác mà thành ra khuyết mất một khoảng lớn, khiến cho mười cảnh đẹp của cung Quảng Hàn lại mất đi một, còn chín! Làm sao chúng ta đối đáp với Nguyệt Hoa Phu Nhân đây?
Câu nói buông dứt, hai bóng người bước ra ...
Dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ, Quan Sơn Nguyệt cố nhận xét hai người vừa đến để hiểu nhân phẩm của họ, cũng như ức đoán tâm tư của họ để lấy thái độ thích ứng.
Hai người đó cùng đội mão cao, cùng vận nho phục, hình vóc thì một người cao, một thấp, họ suýt soát tuổi nhau, cả hai vào trên dưới năm mươi.
Người cao có râu dài đến ngực, người thấp thì râu ngắn quẳng ngược lên, cả hai có nhãn quang sáng rực.
Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ trong hai người hẳn phải có một là kẻ đã ám toán chàng vừa rồi, nhưng may mắn thay chàng lại thoát nạn. Và cứ theo lời nói của một trong hai người thì kẻ đó chính là Tư Kỳ. Nhưng trong hai người, ai là Tư Kỳ? Người cao hay người thấp? Chàng nghiêm giọng nói:
– Vị nào vừa rồi ám toán tại hạ?
Người thấp trừng mắt nhìn chàng đáp:
– Ta! Ngươi là chi? Bất quá là một tiểu tử, ngươi lỗ mãng quá chừng, ta chỉ đùa với ngươi, ngươi lại không dằn được tính khí, chẳng những mắng ta lại còn phá hủy một góc rừng trúc! Ta nghĩ ngươi đã gây thiệt hại thì ngươi phải bồi thường.
Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, chàng biết người thấp là Tư Kỳ. Dung mạo hình dáng của Tư Kỳ không gây nổi một hảo cảm nào nơi chàng rồi, cái giọng nói của lão ấy lại còn làm cho chàng khó chịu hơn.
Tư Kỳ không tạo nổi một ấn tượng tốt đẹp nơi chàng, thì chàng cần gì phải đối xử lễ độ? Giả dĩ chính lão ám toán chàng kia mà? Đùa cái gì mới được chứ?
Giả như chàng không tránh kịp thì đã mất mạng rồi! Nhưng thế mà gọi là đùa được sao? Đùa trên sanh mạng người ta à?
Chàng mắng luôn:
– Vô lý! Các hạ xem mạng người như cỏ rác, dám đem sự sống chết của người ra làm trò đùa. Con người như vậy liệu có tư cách đáng trọng chăng?
Lão thấp đưa tay vuốt qua hàm râu ngắn, cao ngạo tiếp:
– Tiểu tử, ngươi đừng có mở miệng là mắng người ta, ta đã nói ta đùa, là đùa, nếu ta có ác ý muốn giết ngươi thì hai quân cờ vừa rồi không nhắm vào cành tùng đâu.
Quan Sơn Nguyệt thấy lão ngoan cố dùng cưỡng từ để đoạt lý, bất giác sôi giận phừng phừng toan phát tác, nhưng người cao khoát tay, điểm một nụ cười thốt:
– Thế huynh không nên phẫn nộ làm gì. Thật sự thì Tư Kỳ muốn đùa thế huynh đấy, điều đó tại hạ dám bảo chứng. Giả như thế huynh không nhảy được xa, dù có vì cành cây gãy mà rơi ngay xuống bên dưới vị tất phải mất mạng mà lo.
Quan Sơn Nguyệt trừng mắt:
– Đừng nói nhảm! Từ trên cao như thế đó ...
Người cao mỉm cười tiếp:
– Xem thì bên dưới rất sâu, song khi nào thế huynh rơi đến đáy được? Bởi bên dưới có lưới hứng, bất quá thế huynh phải một phen khiếp hãi thôi.
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái lão cao này xem ra cũng là con người thức thời vụ, tánh tình hòa dịu, đáng tin tưởng được. Như vậy là lão nói đúng sự thật, chàng không còn căm hận lão thấp nữa.
Một phút sau, chàng lẩm nhẩm:
– Các hạ nói sao tại hạ hay vậy, chứ tại hạ nào biết được.
Lão thấp «hừ» một tiếng:
– Nếu ngươi hiểu được thì trò đùa của ta còn thú vị gì nữa?
Quan Sơn Nguyệt không thể có thiện cảm đối với lão thấp, lập tức chàng trả miếng:
– Dù cho bên dưới thật sự có lưới hứng đi nữa, các hạ cũng không nên đùa như thế, bởi núi thì cao trăm trượng hố thì sâu chẳng biết bao nhiêu trượng, cao và sâu cộng lại, cái khoảng cách đó quan trọng như thế nào chứ? Nếu gặp một người không biết võ công mà các hạ đùa như vậy, thì có khác nào giết chết người ta chăng?
Lão thấp cười lạnh:
– Người không biết võ công thì chẳng bao giờ lên được nơi đây, đường dây đó đâu phải mỗi ai cũng phăng theo lên được? Như vậy thì làm gì có việc hại chết kẻ không biết võ công? Còn những kẻ biết võ công thì khi nào lại ngã mà chết được? Thị Thơ có nói là ngươi mường tượng thông minh, bây giờ ta nhận ra ngươi chẳng thông minh chút nào, trái lại ngươi ngu xuẩn thì có.
Thị Thơ? Có phải là Thơ Cuồng chăng?
Cái lý của Tư Kỳ vững quá, Quan Sơn Nguyệt không đánh đổ nổi, chàng đành nín lặng.
Lão thấp đắc ý, nhìn chàng trừng trừng, tiếp:
– Tiểu tử! Sao không tranh luận nữa? Ngươi hồ đồ quá, tưởng là vung kiếm sẽ gây trọng thương cho người, không ngờ chỉ có tài chém trúc. Trúc của ta ngã đổ hết rồi, ngươi làm sao bồi thường cho ta? Phải biết, trên núi cao, trồng được một khu rừng trúc là cả một sự khó khăn không tưởng nổi đấy.
Quan Sơn Nguyệt tức uất, lại muốn phát tác.
Lão cao cười nhẹ chen vào:
– Tư Kỳ, đừng quy trách nhiệm về ai cả. Đành rằng trúc do vị thế huynh kia chém ngã, song truy ra căn nguyên thì lỗi về phần ngươi bởi ai bảo ngươi đùa?
Lão thấp kêu lên:
– Cầm Khiêu! Ngươi bênh vực người ngoài toan bức hiếp ta ...
Lão cao cười hì hì:
– Ta chỉ luận theo đạo lý, việc làm sao, ta luận như vậy, ngươi lỗi, ta phải nhận xét là ngươi lỗi, tốt hơn ngươi nên nhận lỗi, dù sự tình này có được đưa đến Nguyệt Hoa Phu Nhân, ta dám chắc phu nhân cũng phán đoán lỗi về ngươi thôi.
Lão thấp tặc lưỡi:
– Nguy! Thế thì nguy cho ta rồi. Cứ như thế này thì ta phải đến tận Đại Thanh Sơn, nói khó với lão Bạch Đà làm khổ công cho lão ta ba tháng, xin một bình nước Tái Sanh Tuyền đem về đây tưới mấy đoạn trúc ngã cho sống lại.
Lão cao lại cười:
– Sự việc đâu có đơn giản như vậy. Điều thứ nhất là cái lão Bạch Đà đó khó thương lắm, xưa nay lão ta có dễ dãi với ai bao giờ đâu? Lão bằng lòng hay không thì sự đó cũng chẳng cần nói làm gì. Chính cái điều thứ hai mới rắc rối hơn, là ba tháng khổ công đó ngươi có chịu nổi hay không?
Lão thấp kêu khổ:
– Thế thì ta phải làm sao? Tự ta làm, ta phải chịu, khổ ơi là khổ!
Lão cao lại cười hì hì:
– Còn điều thứ ba nữa là dù ngươi xin được Tái Sanh Tuyền Thủy mang về đây, những đoạn trúc đó hẳn là khô thành gỗ mất!
Lão thấp gãi đầu, gãi tai, kêu lớn:
– Làm sao bây giờ? Tiểu tử ơi, ngươi hại chết ta!
Trước đó, Quan Sơn Nguyệt thấy lão đáng ghét lạ, bây giờ thì chàng thương hại lão vô cùng. Bất giác động tính hùng, chàng cao giọng thốt:
– Vị tiên sinh đó không nên khẩn cấp, tại hạ đã chém ngã bao nhiêu trúc, nghĩ ra cũng có lỗi phần nào.
Lão thấp kêu lên:
– Nói làm gì? Ngươi có nói cũng vô ích. Bởi chẳng lẽ ngươi dám vỗ ngực nhận lỗi khi Nguyệt Hoa Phu Nhân trách cứ ta?
Nguyệt Hoa Phu Nhân! Chàng đã nghe hai lão này nhắc đi nhắc lại mãi danh xưng đó, đã thành phu nhân thì hẳn là nữ nhân.
Thị Thơ là Thơ Cuồng, hẳn chuyên về thơ. Cầm Khiêu hẳn chuyên về cầm, mà Tư Kỳ thì dĩ nhiên là chuyên về kỳ.
Cầm, Kỳ, Thơ là ba nhã thú, còn Họa?
Cả ba có thể là những người thường tiếp cận Nguyệt Hoa Phu Nhân. Và Nguyệt Hoa Phu Nhân hẳn phải trên bậc cả ba người này. Họ có quan hệ gì với nhau?
Chàng buông gọn:
– Chẳng sao. Tại hạ có lỗi, dù đến nơi nào, trước mặt người nào tại hạ cũng nhận lỗi như thường.
Lão thấp hấp tấp hỏi:
– Ngươi nhận lỗi như thế nào?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Tại hạ nói rằng chính tại hạ đã chém ngã những thân trúc đó, tại hạ tuyệt đối không hề đề cập đến việc tiên sinh đùa cợt.
Lão thấp tươi ngay nét mặt:
– Ngươi khẳng khái như vậy thì tốt quá! Tốt quá! Mà tại sao ngươi lại chặt ngã một khoảng trúc như thế?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Tại hạ nói rằng khi lên đến đỉnh núi, tại hạ nghe hai vị đàm đạo với nhau.
Tại hạ hỏi han chi đó, ngôn ngữ đối chọi nhau, tại hạ nổi nóng động thủ với các vị nên chém ngã bao nhiêu thân trúc.
Lão cao cười nhẹ:
– Như vậy là thế huynh giúp Tư Kỳ một việc vô cùng quan trọng đó! Tại Quản Hàn Cung có tất cả là mười cảnh đẹp, riêng về khu rừng trúc này thì Nguyệt Hoa Phu Nhân ưa thích hơn hết. Nếu Tư Kỳ hủy hoại một số trúc như thế, hẳn phu nhân phải trách cứ nặng nề, lão ta không làm sao chịu nổi hình phạt. Bây giờ thế huynh đảm nhận trách nhiệm, mà thế huynh lại là ngoại nhân, có lẽ vì lý do đó phu nhân sẽ khoan hồng không bắt tội. Ngoài ra, tại hạ và Tư Kỳ sẽ hết lòng van cầu phu nhân châm chước cho thế huynh ...
Lão thấp không còn khẩn trương nữa, tâm tư lão cởi mở dần dần, niềm vui hiện rõ nơi gương mặt. Lão gật đầu:
– Phải đó! Nhất định là chúng ta sẽ cố hết mình thuyết phục phu nhân bỏ qua. Chẳng lẽ phu nhân không vị tình chúng ta?
Quan Sơn Nguyệt khẳng khái:
– Hai vị không phải thắc mắc. Dù sự việc kết thúc như thế nào, tại hạ đã hứa rồi thì sẵn sàng gánh chịu hậu quả!
Dừng lại một chút, chàng hỏi:
– Bất quá tại hạ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là người ra sao?
Hai vị đó sững sờ. Họ không tưởng là Quan Sơn Nguyệt đột nhiên hỏi như vậy. Một phút sau, lão thấp thốt:
– Không biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là ai, thế mà ngươi lên đỉnh núi cao tìm gặp?
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp giải thích:
– Tại hạ lên đây chẳng phải có ý đi tìm Nguyệt Hoa Phu Nhân, mà chính là muốn gặp một người quen họ Trương.
Cả hai đồng thanh kêu lên:
– Trương Thanh.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải. Nghe nói nàng đang ở tại đây!
Người thấp cau mày lẩm nhẩm:
– Quái chưa. Tại sao Thị Thơ không nói rõ?
Người cao đưa tay ra hiệu rồi thấp giọng:
– Đừng bàn luận gì cả, ta đã biết cái ý của hắn rồi.
Đoạn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, lão hỏi:
– Làm sao các hạ biết Trương cô nương hiện ở đây?
Thoạt đầu Quan Sơn Nguyệt định đáp là chính Bành Cúc Nhân cho biết, nhưng chàng kịp suy nghĩ, Bành Cúc Nhân có cố kỵ như thế nào đó nên đã nửa úp nửa mở với chàng, bây giờ tiết lộ ra thì thành phụ lòng tốt của bà ấy. Biết đâu sự tiết lộ đó chàng sẽ đẩy Bành Cúc Nhân vào cảnh khó, và bà sẽ gặp sự bất lợi sau này?
Người cao không chờ nghe chàng đáp lại tiếp luôn:
– Tại hạ nghĩ rằng có thể là mụ họ Bành tố cáo với các hạ, mà các hạ nhất định là họ Quan, các hạ là người mà Trương cô nương thường nhắc nhở qua ba tiếng Quan đại ca.
Quan Sơn Nguyệt không thể không thừa nhận, đành gật đầu:
– Đúng vậy, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.
Người cao chỉnh nghiêm thần sắc, thấp giọng tiếp:
– Gặp Nguyệt Hoa Phu Nhân, tốt hơn hết là các hạ đừng tiết lộ danh tánh mà cũng đừng đề cập đến mụ họ Bành, ngoài ra cũng không nên hỏi han gì đến Trương cô nương.
Quan Sơn Nguyệt kinh dị:
– Tại sao thế?
Người cao lại tiếp:
– Các hạ đừng hỏi gì cả, tại hạ chẳng thể giải thích rõ ràng hơn được, bởi sự tình bắt buộc phải vậy thì đành chịu vậy. Nếu các hạ muốn gặp Trương cô nương, thư thả rồi bọn tại hạ sẽ nghĩ ra biện pháp giúp các hạ.
Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô cùng.
Mặc dù cho người cao đã bảo chàng đừng hỏi gì nhiều, song làm sao chàng im lặng với sự hoang mang đó nổi. Chàng toan cất tiếng yêu cầu người cao cho biết lý do, chàng nhất định phải biết mới được, chàng chưa kịp mở miệng thì người thấp đã chen vào, thần thái của y khẩn trương thấy rõ:
– Có người đến rồi đó, ta phải chận đầu họ, có lẽ bọn này đi tìm cảnh để vẽ vời chắc. Cầm Khiêu, ngươi hãy chỉ điểm thêm cho vị thế huynh này mấy điều cần thiết nhanh lên đi, đừng để dở dang mọi việc.
Thốt xong y bước đi liền.
Người cao hấp tấp chỉ thanh trường kiếm của Quan Sơn Nguyệt, bảo:
– Dấu thanh kiếm trước đi, rồi các hạ chú ý ghi nhớ những gì tại hạ dặn dò thêm.
Quan Sơn Nguyệt tra kiếm vào vỏ, kéo tà áo phủ bên ngoài.
Người cao vẫn với giọng gấp, tiếp:
– Trong cung Quản Hàn của Nguyệt Hoa Phu Nhân có tất cả bảy thị giả, tại hạ là Cầm Khiêu và hai người nữa là Tư Kỳ và Thị Thơ thì các hạ đã biết rồi, còn lại bốn người:
Chử Trà, Nhập Hoạch, Đạn Kiếm, Phi Thương, trong bốn người đó chỉ có Đạn Kiếm là nam nhân, y có thể giúp các hạ, còn ba người kia đều là nữ nhân, đối với những lão phụ đó, các hạ phải hết sức cẩn thận giữ gìn từng cử động từng ngôn từ, tuyết đối không nên tiết lộ lai lịch với ba mụ ấy. Ngoài ra còn một ...
Lão chưa dứt câu, từ nơi rừng trúc Tư Kỳ đằng hắng một tiếng, người cao lập tức nín lặng, lại còn lắc nhẹ một đầu vai ra ý bảo Quan Sơn Nguyệt hãy đề cao cảnh giác.
Liền theo đó có giọng nói của một nữ nhân vang lên:
– Phu nhân truyền lịnh đưa tiểu tử đến gấp, các ngươi còn dần dà ở đây, ý muốn giở trò gì phải không?
Câu nói vừa dứt âm vang, hai bóng người xuất hiện. Hai người đó là Tư Kỳ và một nữ nhân tuổi chưa tròn ba mươi, nhan sắc cực kỳ xinh đẹp, trong cái đẹp có vẽ xảo chứng tỏ con người không có tính tình hiền dịu.
Vừa đến nơi, nữ nhân quắc mắt quan sát Quan Sơn Nguyệt liền, từ đầu đến chân, rồi gượng cười rộng miệng, rồi thốt:
– Thị Thơ khoe khoang là tiểu tử có nghi biểu phi phàm, ta không tin, bây giờ thấy hắn rồi, ta phải nhìn nhận hắn đúng là một mỹ nam tử.
Nàng gọi Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Tiểu huynh đệ. Có phải tiểu huynh đệ tên là Minh Thiên Lý chăng?
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái tên đó nàng tìm ở đâu mà gán cho chàng?
Tư Kỳ hấp tấp đáp:
– Phải. Minh lão đệ quả thật là một nhân tài trong thiên hạ ngày nay, con người tuấn tú thanh kỳ mà võ công cũng siêu quần bạt tụy, vừa rồi Minh lão đệ chỉ thi triển mấy chiêu kiếm mà ta và Cầm Khiêu suýt thảm bại.
Y vừa đáp thay Quan Sơn Nguyệt vừa láy mắt ra hiệu. Đến lúc đó chàng mới tỉnh ngộ là cái tên Minh Thiên Lý do y bịa ra mà, mà cũng có lẽ Thị Thơ bịa ra trước mặt Nguyệt Hoa Phu Nhân.
Cởi Minh Đà vượt thiên lý đến đây, nhân sự kiện đó mà đặt tên, quả thật bọn này cũng cao nhã.
Thay họ đổi tên là điều tối kỵ đối với Quan Sơn Nguyệt, song trong trường hợp này chàng không thể không thừa nhận mình là Minh Thiên Lý. Chàng vòng tay chào nữ nhân, đoạn gật đầu:
– Tại hạ là Minh Thiên Lý, dám hỏi ...
Tư Kỳ lại chận lời:
– Nhập Hoạch đấy, Minh lão đệ chỉ nhỏ hơn nàng mấy tuổi, có thể dùng hai tiếng đại thơ xưng hô nàng.
Nhập Hoạch cười duyên, hơi uốn éo thân hình, buông nhẹ:
– Đâu dám nhận hai tiếng đại thơ. Tuổi tác có chênh lệch bao nhiêu đâu mà dám làm lớn chứ.
Nàng biểu lộ phong tình quá rõ rệt, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy xốn mắt vô cùng. Có thể là chàng phản ứng ngay, song Tư Kỳ không ngớt ra hiệu bảo chàng nhẫn nại thành thử chàng miễn cưỡng gọi:
– Đại thơ ...
Nhập Hoạch bật cười khanh khách:
– Thôi thì ta cũng cam chịu với thân phận đại thơ vậy, tại ta lớn hơn ngươi một chút, chính cái một chút đó hại ta đấy nhé.
Rồi nàng hỏi:
– Thị Thơ khoe rằng ngươi có lối tả tự rất đẹp còn hai gã quái vật này lại khoe ngươi có kiếm pháp rất cao, ngươi còn sở trường nào khác nữa chăng?
Cầm Khiêu cười nhẹ:
– Cái gì Minh huynh đệ cũng hay, có thể bảo Minh huynh đệ quán trường chứ chẳng phải chỉ sở trường về một vài điểm mà thôi. Văn cũng quán tuyệt, võ cũng quán tuyệt. Cầm là thánh thủ hoặc là truyền thần, kỳ là vô địch, thi là thần cú, mà tửu thì bậc trưởng thượng của Lưu Linh.
Nhập Hoạch «ạ» lên một tiếng:
– Thế thì hay quá, Quản Hàn Cung có thêm Minh huynh đệ thì thật là hoàn toàn. Ta phải chạy về báo cáo ngay với phu nhân mới được.
Tuy nói thế, nàng chưa đi ngay, nàng suy tư một chút rồi lẩm nhẩm:
– Chúng ta mỗi người có một sở năng nên tùy theo khả năng mà đặt tên, bây giờ Minh huynh đệ lại đến và là người vạn năng, thế chúng ta phải xưng hô làm sao?
Tư Kỳ cười khanh khách:
– Điều đó thì tùy phu nhân chứ, ngươi nghĩ đến làm chi cho mệt?
Nhập Hoạch gật đầu:
– Phải. Chúng ta không có quyền quyết định, cứ để tùy phu nhân là phải hơn. Đi, Minh huynh đệ, chúng ta đi thôi.
Nàng quay mặt lại. Đến bây giờ nàng mới phát hiện ra một khoảng rừng trúc bị chém ngã, thân trúc nằm ngổn ngang trông điêu tàn vô cùng. Bất giác nàng kêu lên thất thanh:
– Ai? Ai dám phá hoại khu rừng trúc như thế này? Nếu phu nhân biết được thì ... thì ...
Tư Kỳ đâm lo nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, sợ chàng thay đổi chủ ý.
Nhưng chàng ưỡn ngực bước tới một bước, dõng dạc đáp:
– Chính tại hạ.
Nhập Hoạch hoảng hốt hỏi:
– Trời! Tại sao ngươi gây nên đại họa?
Tư Kỳ thở phào, cười khan mấy tiếng:
– Ta và Cầm Khiêu có ý muốn trắc nghiệm võ công của Minh huynh đệ nên vờ ngăn trở, Minh huynh đệ chẳng hiểu, sôi giận lên vung kiếm phản công, hai chúng ta chạy thoát kịp, thành để khổ bao nhiêu thân trúc ...
Nhập Hoạch giậm chân thình thịch:
– Các ngươi quả là một lũ vô dụng! Muốn sanh sự, sao không đưa nhau đến một nơi nào khác lại chọn ngay chỗ này?
Tư Kỳ vờ nhếch nụ cười khổ:
– Nào có ai ngờ Minh lão đệ dễ nổi tính khí như vậy đâu! Một con người ở lứa tuổi đó, lại có kiếm pháp rất cao, thiết tưởng trong một thời gian nữa tài nghệ của Minh lão đệ sẽ siêu việt không lường nổi!
Nhập Hoạch đưa hai tay lên trời kêu lớn:
– Bây giờ phải ăn nói làm sao với phu nhân? Minh huynh đệ vừa đến lại gây nên cớ sự ...
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên đáp:
– Việc đã xảy ra rồi, tại hạ cứ chờ cái hậu quả đến làm sao nhận làm vậy, các vị không nên quá quan tâm!
Nhập Hoạch khoát tay:
– Đừng, Minh huynh đệ. Gặp phu nhân rồi, tuyệt đối Minh huynh đệ không nên buông tính quật cường. Tôi khuyên Minh huynh đệ nên ăn nói nhún nhường một chút, bên ngoài còn có bọn tôi, tất cả sẽ tùy cơ mà cầu tình với phu nhân, may ra phu nhân khoan dung không nỡ bắt tội Minh huynh đệ.
Tư Kỳ mỉm cười:
– Phải đấy. Phu nhân từng tỏ ra là thiên vị ngươi lắm, ngươi chịu khó nói giúp là cầm chắc phu nhân nghe liền. Ngươi cứ khoe khoang Minh huynh đệ có nhiều tài năng, hẳn phu nhân liên tài trọng đãi.
Nhập Hoạch trầm ngâm một chút đoạn thở dài:
– Thì đành là vậy rồi chứ còn cách nào khác hơn đâu. Tại ta! Ai bảo ta nhận là đại thơ của Minh huynh đệ làm chi, đã là đại thơ thì phải lo chu toàn cho tiểu đệ chứ.
Nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, điểm nụ cười duyên dáng tiếp:
– Minh huynh đệ đừng cười nhé, chứ ... sự thật thì ... vừa trông thấy Minh đệ là ... ta ...
Nàng đưa ánh mắt lơi lả quá chừng, Quan Sơn Nguyệt gớm đến buồn nôn, nàng lại buông cái giọng đẩy đưa, chàng càng bực, tưởng chừng như ai lấy mũi nhọn mà chích chích màng tai. Tuy nhiên chàng cũng phải ỡm ờ phụ họa:
– Mới thấy nhau mà mường tượng như có quen nhau từ muôn thuở! Xin đại thơ chiếu cố cho tiểu đệ!
Nhập Hoạch cười hì hì:
– Tự nhiên! Phải vậy rồi, tiểu huynh đệ! Chúng ta trước đây chưa biết mặt biết mày nhau, bây giờ thì có khác nào đôi bằng hữu thân nhau từ thuở bé?
Tư Kỳ sờ hàm râu, vừa vuốt vuốt vừa thốt:
– Chúng ta sống bên cạnh nhau từ lâu rồi, sau ngươi không thân mật?
Minh huynh đệ mới đến mà ngươi tha thiết quá chừng!
Nhập Hoạch đỏ mặt, vẩu môi mắng:
– Lão quỷ lùn, ăn nói dè dặt một tí chứ, liệu hồn, ta sẽ bứt đứt râu cằm của ngươi đấy nhé!
Tư Kỳ rụt cổ lè lưỡi.
Nhập Hoạch hướng sang Quan Sơn Nguyệt thốt gấp để khỏa lấp sự đùa cợt của Tư Kỳ:
– Minh huynh đệ không khinh đại thơ ...
Nàng bỏ lửng câu nói.
Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, biết đáp làm sao cho thích hợp với xử cảnh?
Cầm Khiêu chen vào:
– Nhập Hoạch về gấp đi, đừng để phu nhân chờ đợi, phàm ai chờ đợi cũng phải nóng nảy, phu nhân nóng tính lên là bất lợi cho cả bọn đấy.
Nhập Hoạch gật đầu:
– Phải! Ta trở về mà các ngươi cũng theo ta về luôn, phu nhân bảo ta đi gọi các ngươi, ta quên cho các ngươi biết.
Cầm Khiêu cười nhẹ:
– Thì ngươi cứ về trước báo cáo với phu nhân, ta và Tư Kỳ đưa Minh huynh đệ về sau, nên nhớ là khéo ăn khéo nói một chút đấy nhé. Cố gây một ấn tượng tốt cho Minh huynh đệ, có như vậy phu nhân mới dành một mỹ cảm rất lợi cho chúng ta.
Sợ Nhập Hoạch không hiểu hết ý của lão, lão đưa tay chỉ khoảng trúc bị chặt ngã.
Nhập Hoạch gật đầu:
– Ta hiểu. Phu nhân nổi giận lên rồi, hai ngươi cũng chết luôn!
Nàng quay mình thoát đi nhanh hơn trốt lốc.
Nàng đi rồi Quan Sơn Nguyệt thở phào xem như thoát nạn, song nhận thấy thân pháp nàng linh diệu vô cùng chàng không khỏi kinh hãi.
Tư Kỳ mỉm cười, bước đến gần chàng thốt:
– Lão đệ có số đào hoa thật. Cái mụ điên đó vừa thấy lão đệ là si tâm ngay, có nàng tiếp trợ thì trong cung Quản Hàn lão đệ sẽ là người được ưu đãi nhất!
Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt.
Cầm Khiêu trách:
– Tư Kỳ đừng ăn nói hồ đồ như thế. Người ta đã nhận tội thế cho ngươi, ngươi không ghi ơn lại còn châm chích, thế là nghĩa làm sao?
Nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, lão tiếp:
– Quan thế huynh, tại hạ thấy rõ cái nàng đó có ý tứ với thế huynh lắm đấy!
Tại hạ biết là thế huynh không thích những trò lẳng lơ, song dù sao thì thế huynh cũng nên chịu khó một chút, đừng quá lạnh nhạt với nàng, chẳng những nàng được phu nhân tin cậy mà nàng có võ công rất cao, trong cung nàng chỉ nhường có mỗi một mình phu nhân thôi!
Quan Sơn Nguyệt bất bình, trầm giọng:
– Tại hạ bắt buộc phải đóng kịch với nàng à? Không được đâu, vừa thấy mặt nàng là tại hạ lợm giọng rồi, bảo tại hạ làm hơn thế, tại hạ làm sao kham nổi chứ? Còn các vị nữa, bỗng dưng lại đặt cho tại hạ một cái tên! Đặt tên rồi lại bày vẽ đủ điều, bảo tại hạ làm thế này tránh thế kia.
Cầm Khiêu thở dài:
– Xin Quan thế huynh nhẫn nại một chút. Việc thay tên đổi họ là do chủ ý của Thị Thơ chớ nào phải bọn tại hạ tự chuyên? Thế huynh nên tin là bọn tại hạ thành thật tiếp trợ thế huynh, tiếp trợ Trương cô nương. Hiện tại thì bọn tại hạ không đủ thì giờ giải thích rõ ràng cho thế huynh hiểu, sau này có cơ hội chúng ta sẽ trở lại vấn đề.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Về những gì khác, tại hạ không cần hỏi đến, chỉ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là con người như thế nào! Tại hạ cần biết bà ta, để chốc lát nữa đây lấy thái độ thích ứng đối phó với bà ta. Mong quý vị đừng từ khước sự thỉnh cầu của tại hạ.
Cầm Khiêu thở dài:
– Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nữ nhân vĩnh viễn chẳng ai hiểu nổi. Bất quá tại hạ chỉ thế huynh biết đại khái là bà ấy có võ công rất cao, cao đến mức độ vô lường. Biết như vậy cũng đủ lắm rồi đó thế huynh! Thôi, chúng ta đi, đừng để phu nhân chờ lâu sanh giận mà thành bất lợi cho chúng ta.
Dừng lại một chút, lão tiếp luôn:
– Nhập Hoạch tuy có thái độ cử chỉ không thuận nhãn thế huynh, song thực ra nàng là con người rất tốt, có tâm địa thiện lương, nàng cũng như một viên ngọc tốt nhưng chẳng được trau dồi, hoặc giả cũng có thể ví nàng như một kẻ thông minh nhưng kém học, nàng thẳng thắn lắm, chẳng bao giờ nuôi dưỡng một mưu cơ nào đối với bất kỳ ai. Thế huynh có thể tín nhiệm nàng ...
Lão lại thở dài rồi vẫy tay giục mọi người:
– Đi thôi, có lẽ trễ lắm rồi đấy.
Tư Kỳ nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng đi, xuyên qua khu rừng trúc.
Quan Sơn Nguyệt nhận ra khí lực của y rất hùng mạnh, chàng muốn cưỡng lại song không cưỡng nổi, bắt buộc phải bước theo y.
Khí lực của Tư Kỳ phát huy hết sức quái dị, y nắm tay phía trước nhưng Quan Sơn Nguyệt lại nghe như một lực đạo ở phía sau đẩy tới, chàng bước thì thôi, chàng cố dừng lại thì lực đạo đó như hốt chàng hổng đất quăng tới.
Qua hết khu rừng trúc đến khu rừng hoa, trong rừng hoa có đài có các, nhưng họ không dừng chân lại những đài những các đó, họ đi hết rừng hoa đến một dãy nhà khác ở phía sau, lối kiến trúc cực kỳ hoa lệ.
Nơi cổng chánh có tấm biển, bốn chữ to lớn hiện trong tầm mắt của Quan Sơn Nguyệt từ xa xa:
«Quảng Hàn Cung Khuyết». Hai bên có đôi câu liển, đại khái tả cái đẹp của trăng nhưng phảng phất cái ý niệm tịch mịch của người trong trăng.
Bên trong cửa ẩn ước có bóng người, Quan Sơn Nguyệt nhận ngay chính là Thị Thơ. Hắn chạy tới nghinh đón bọn Cầm Khiêu.
Hắn muốn nói gì đó, Cầm Khiêu vội khoát tay bảo:
– Ta biết nỗi khổ tâm của ngươi rồi Thị Thơ! Khỏi cần nói!
Thị Thơ thấp giọng:
– Tại hạ chỉ biết làm tròn những gì có thể làm cho các hạ, về cái việc đổi họ thay tên thì bất đắc dĩ lắm tại hạ mới mạo muội như vậy. Gặp phu nhân rồi, các hạ cứ nói là chúng ta gặp nhau nơi chân núi, tại hạ đưa các hạ lên đây yết kiến phu nhân, chứ đừng bao giờ nói là các hạ vì Trương ...
Cầm Khiêu chận lời:
– Bọn ta đã giải thích điều đó với Quan thế huynh rồi, ngươi chẳng cần dặn dò thêm.
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp tỏ thái độ, từ trong hoa sảnh Nhập Hoạch bước ra cao giọng thốt:
– Phu nhân truyền lịnh Minh Thiên Lý vào ngay.
Nàng nhìn chăm chú Quan Sơn Nguyệt, trong ánh mắt ẩn ước có sự van cầu chàng nên có thái độ cung kính đối với phu nhân.
Quan Sơn Nguyệt vốn tính quật cường, dù biết rằng Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nhân vật siêu phàm, song bảo chàng hạ mình đối với một người xa lạ khi chưa biết tư cách người đó ra sao thì khi nào chàng vâng theo! Do đó chàng ngẩng cao mặt chững chạc bước tới.
Khi đi ngang qua Nhập Hoạch, chàng nghe nàng buông nhẹ một tiếng thở dài.
Khách sảnh đúng là một cung điện trần thiết hết sức huy hoàng.
Nơi trung ương có một đài khá cao, trên đài có một chiếc ghế dài và ghế cẩn vàng chạm ngọc, trên ghế có một phụ nhân tác trung niên đang ngồi, thần thái ung dung.
Tự nhiên, phụ nhân chính là Nguyệt Hoa Phu Nhân.
Nguyệt Hoa Phu Nhân trác độ tứ tuần, tóc vấn cao, mặc áo lụa trắng, tuổi tuy cao, sắc còn đẹp, một vẻ đẹp trang nghiêm, ai nhìn qua cũng sanh lòng tôn kính.
Sau lưng bà, có hai nữ nhân, ngoài ba mươi tuổi, trang phục y như Nhập Hoạch, Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ hai người nầy hẳn là Phi Thương và Chữ Trà.
Bên tả, có một đại hán trung niên, thần thái oai mãnh, râu ngắn đen ngời bọc quanh hàm, mặc y phục võ sĩ, mang giày cao ống, đeo trường kiếm nơi hông.
Người ấy hẳn là Đạn Kiếm.
Cái ngạo khí của Quan Sơn Nguyệt bốc bừng từ bên ngoài tiêu tan phần lớn khi chàng chạm mặt với Nguyệt Hoa Phu Nhân. Vô hình trung, chàng trở nên khiêm tốn, không còn cao hãnh như lúc còn ở bên ngoài cửa hoa sảnh. Chàng vòng hai tay, cung kính thốt:
– Tại hạ là Minh ... Thiên Lý, kính tham kiến phu nhân.
Suýt chút nữa, chàng đã buông tiếp Minh Đà Lịnh Chủ theo sau tiếng Minh, và nếu xưng được là Minh Đà Lịnh Chủ, thì chàng cũng có thể tiết lộ luôn tánh danh thật của mình. Cũng may là chàng thức ngộ, kịp thời đổi lại.
Bọn Tư Kỳ đi theo sau chàng, buộc miệng thở phào, như thoát nạn.
Nguyệt Hoa Phu Nhân bình thản đến lạnh lùng, chưa nói gì, một trong hai nữ nhân đứng sau lưng bà, hét lớn:
– Sao ngươi chưa quỳ xuống?
Chỉ một câu nói ngắn đó đủ làm cho tính khí quật cường của Quan Sơn Nguyệt sôi động trở lại. Chàng ngẩng cao mặt, hỏi:
– Tại sao tại hạ phải quỳ?
Nữ nhân đó trầm gương mặt, định phát tác, Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫy tay ngăn chận:
– Phi Thương, không nên lắm lời. Hắn mới đến, tự nhiên hắn chưa hiểu rõ nghi lễ trong cung, thư thả rồi sẽ giáo huấn hắn dần dần.
Bà gọi:
– Minh Thiên Lý! Ngươi bước lại gần đây một chút nữa đi!
Nữ nhân đó im lặng, Quan Sơn Nguyệt thì bước tới, gần hơn mấy thước.
Hiện tại, chàng cách bình đài độ nửa trượng.
Phu nhân quan sát chàng một lúc lâu, gật gật chiếc đầu, tỏ vẻ hài lòng, thốt:
– Được lắm! Một thiếu niên hùng tráng, có khí thái hiên ngang, tinh hoa hàm túc sung mãn! Tương lai hẳn phải huy hoàng! Thị Thơ thì bảo ngươi có nét bút thần kỳ, còn Nhập Hoạch thì nói là ngươi có kiếm pháp linh diệu, một con người kiêm toàn văn võ, gẫm rất hiếm trên đời nầy!
Âm thinh của bà rất dịu dàng, nhưng trong cái dịu dàng đó, ẩn ước một cái oai, người nghe không vì chỗ dịu mà dám lờn. Bởi, oai phong của bà, không nương nơi cái đạo, cái oai của bà xuất từ cái đức của bậc thức ngộ hoàn toàn đạo lý của nhân sinh.
Tuy nhiên, đối với một người chưa hề quen biết, trong lần gặp gỡ đầu tiên, mà bà đưa ra một nhận xét như vậy, có khác nào bà tự xem mình là bậc trưởng thượng? Bà quen tánh bắt buộc mọi người phải cúi đầu khuất phục trước mặt bà sao? Bà quở trách, là lẳng lặng nghe, bà khen tặng, là quỳ lạy tạ ơn, bà muốn ở cao mà nhìn xuống như vậy sao?
Chỉ nội cái chỗ ngồi của bà cũng đủ nói lên tánh cách tự cao của bà. Trên thế gian nầy, trừ bậc vua, chúa ra, có ai tiếp khách mà phải ngồi trên ngai cao vòi vọi chứ?
Bà lập dị đến độ giữa khách sảnh, tạo cho mình một chiếc bình đài, trên bình đài lại có ghế cao, bất cứ ai vào đây yết kiến bà, cũng đều đứng dưới chân bà!
Như thế, Quan Sơn Nguyệt khi nào chịu nổi trước cái ngông nghênh của bà?
Huống chi, chàng vốn tính quật cường, lại từ lúc xuất thân hành hiệp đến nay, chàng đã tạo nhiều thành tích phi thường, gần đây nhất, chàng đã nổi bật rõ ràng giữa đại hội Long Hoa, đánh bại Tạ Linh Vận. Dù muốn dù không, chàng cũng phải cao hãnh phần nào. Cho nên, hai cái cao hãnh gặp nhau, đương nhiên chẳng thể dung nhau được.
Chàng bật cười ngạo nghễ, đáp:
– Tại hạ có xứng đáng chi đâu mà bà quá khen! Văn, bất quá tại hạ có một số vốn gồm vài trang sách, vũ thì cầm như biết múa may một vài cách thức đủ tạo cười cho bọn trẻ con vậy thôi! Bà không nên tin lời bịa của kẽ khác mà lầm nhận xét tại hạ!
Lời nói thì thấp, khí khái thì cao, sự mâu thuẫn đó được biểu hiện do chàng cố ý, chứ tuyệt nhiên không vì khiêm cung, từ tốn. Và, như vậy là vô lễ rồi!
Nhập Hoạch hoảng hốt, kêu lên:
– Minh ... Thiên Lý! Sao ngươi ăn nói như thế trước mặt phu nhân?
Suýt chút nữa, là nàng gọi chàng với ba tiếng Minh huynh đệ! Nàng không thể nói tròn ý bằng lời, ánh mắt nàng thay lời, làm nốt cái việc đó.
Quan Sơn Nguyệt lờ đi, cứ tiếp với thái độ ngạo nghễ:
– Chứ tại hạ phải ăn nói như thế nào mới hợp lý?
Nhập Hoạch càng khẩn cấp, giậm chân, toan nói chi đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, cất tiếng:
– Nhập Hoạch! Không phải việc của ngươi, đừng nên lắm lời! Thái độ của hắn chứng tỏ niềm bất phục, mà hắn bất phục tất nhiên phải có lý do, cái lý do đó, cái lý do khiến hắn bất phục, phát xuất từ nơi các ngươi đó! Cho đến phút giây nầy, các ngươi chưa làm được cái gì khiến cho hắn phục, đáng trách là các ngươi chứ không phải hắn đâu!
Bà không giận vì thái độ ương ngạnh của Quan Sơn Nguyệt, bà giữ vẻ bình tịnh như thường, điều đó làm cho bọn Nhập Hoạch bảy người vô cùng kinh ngạc.
Bà lại cười, rồi tiếp:
– Quanh ta, có tất cả bảy người, mỗi người có một sở trường, và sở trường của chúng cầm như tuyệt kỹ, chắc chắn là chẳng có ai hơn chúng. Ngươi có biết như vậy chăng?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Tại hạ có nghe nói!
Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp luôn:
– Nhân tuyệt kỹ của chúng, mà thành danh, gọi đến tên người nào là biết ngay người đó sở trường về môn gì. Ta công nhận chúng đã đạt đến mức siêu việt, giữa cõi đời nầy, tìm được một người siêu việt về một tuyệt kỹ như chúng, hẳn không phải dễ đâu! Thế mà chúng lại cho rằng ngươi cao minh hơn chúng ...
Quan Sơn Nguyệt lần này thì khiên tốn thực sự:
– Bà nói quá lời, tại hạ đâu dám tiếp nhận? Về nét bút, tại hạ làm sao sánh được Thị Thơ tiên sanh? Còn như kiếm pháp, kỳ pháp, hoạch pháp, bất quá tại hạ biết qua vậy thôi, mong phu nhân đừng quá tặng, tại hạ thẹn lắm!
Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn sang Thị Thơ.
Thị Thơ hấp tấp trình bày:
– Thực ra thì, Minh huynh đệ chưa tả tự đúng mức hỏa hầu, song y là một thiên tài đó, phu nhân! Nếu y chịu khó trau dồi, chắc chắn một ngày nào đó, y sẽ vượt xa thuộc hạ ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ:
– Thì ta cũng nghĩ như thế, chứ làm gì ở cái tuổi của hắn, hắn lại có nét bút thần kỳ, hơn hẳn ngươi được? Còn như trong tương lai, hắn thành tựu ra sao, điều đó chưa phải lúc cần bàn đến. Có điều, từ bao lâu nay, ngươi tự hào là trong thiên hạ, chẳng một ai tập luyện được như ngươi, mà có những nét bút thần, do đó ta nghĩ dù hắn khổ công trau dồi đến đâu, cũng khó theo kịp ngươi. Chí như Cầm Khiêu và Tư Kỳ thảm bại dưới tay hắn, thì ...
Tư Kỳ vội nghiêng mình, cung kính thốt:
– Quả thật kiếm pháp của Minh huynh đệ rất cao minh ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:
– Ta không nói đến kiếm thuật, ta chỉ ...
Tư Kỳ cười gượng:
– Về cầm điệu và cầm lý, thuộc hạ chưa được biết Minh huynh đệ lãnh hội như thế nào, song bằng vào cuộc đàm luận giữa nhau, thuộc hạ đoán là ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:
– Được rồi! Ngươi bất tất phải giải thích. Ta lấy làm lạ, bình sanh các ngươi không hề nhận kém một ai, thế mà giờ đây bỗng nhiên đối với một thiếu niên, các ngươi lại thừa nhận bậc dưới! Thừa nhận mà không cần có cuộc so tài!
Bà vụt chỉnh nghiêm thần sắc.
Bọn Tư Kỳ Cầm Khiêu rợn người, Thị Thơ vội phân trần:
– Bọn thuộc hạ nhận thấy Minh huynh đệ có bẩm chất hơn người, do đó mạo muội dẫn kiến với phu nhân.
Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:
– Thật vậy à? Các ngươi hiệp nhau nói tốt cho hắn, tuy nhiên ta thấy khó tin.
Bà gọi:
– Đạn Kiếm! Hãy thực nghiệm hắn qua một vài chiêu xem sao!
Đại hán vận y phục võ sĩ vâng một tiếng, rút thanh trường kiếm bên hông ra khỏi vỏ, thanh kiếm màu xanh nhạt, thép mờ mờ, không chớp lên như các loại kiếm khác. Thanh kiếm lại có hình thức cổ quái.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, thốt:
– Tại hạ đến đây, không vì mục đích so kiếm!
Nguyệt Hoa Phu Nhân hừ nhẹ:
– Thế ngươi đến với mục đích gì?
Thị Thơ đổ mồ hôi lạnh.
Quan Sơn Nguyệt biết rõ, hắn sợ chàng nói lên sự thật. Chàng cười nhạt, đáp:
– Thị Thơ tiên sanh mời tại hạ đến đây, để tiếp xúc với mấy vị cao nhân!
Thị Thơ thở phào:
– Thuộc hạ thấy Minh lão đệ có nhân tướng phi phàm, nên nảy sanh cái ý đưa đến đây, giới thiệu với phu nhân ...
Phu nhân «hừ» một tiếng, lớn hơn tiếng trước một chút:
– Thế là vừa rồi, ngươi nói dối với ta!
Thị Thơ rung người.
Cầm Khiêu vội biện bạch:
– Thị Thơ khi nào dám lừa dối phu nhân! Thị Thơ tuy không nói rõ tình hình tại đây cho Minh huynh đệ biết, song có ủy thác bọn thuộc hạ làm hộ cái việc đó.
Và bọn thuộc hạ đã tỏ bày cho Minh huynh đệ hiểu rồi!
Nguyệt Hoa Phu Nhân hướng sang Quan Sơn Nguyệt:
– Ngươi đã biết tình hình tại đây, tại sao ngươi từ khước cuộc trắc nghiệm?
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:
– Cuộc trắc nghiệm gì?
Cầm Khiêu vội giải thích:
– Tại sao lão đệ mau quên thế? Tại hạ đã nói với lão đệ, phàm muốn lưu lại Quảng Hàn Cung, tất phải có một sở trường, một tuyệt kỹ chi đó. Phu nhân bảo Đạn Kiếm so tài với lão đệ, là muốn trắc nghiệm cái sở trường về kiếm pháp của lão đệ vậy.
Thấy lão ta có vẽ khẩn cấp cực độ, Quan Sơn Nguyệt không nở gieo thất vọng cho lão, nên liền điểm một nụ cười, đáp:
– Thì ra là thế! Chỉ vì tại hạ không hiểu rõ ràng cái ý của phu nhân, cứ tưởng đấu kiếm là sát phạt nhau, quyết tranh thắng bại, thắng thì sống, bại thì chết, bởi nghĩ như thế, tại hạ phải từ khước. Huống chi dù là một cuộc trắc nghiệm đi nữa, tại hạ cũng không thấy hứng chút nào, bởi dù sao thì đao kiếm vẫn là vật vô tình, vô duyên vô cớ mà động thủ, biết đâu may rủi sẽ như thế nào, và ai tránh được khỏi gây ra điều tiếc hận?
Chàng có cái vẽ thanh thản vô cùng, giả như có một cuộc đấu trí mạng, chàng cũng xem thường, huống hồ là một cuộc trắc nghiệm xuông? Vẽ thanh thản đó chứng tỏ chàng tự tín tột độ, chàng nắm chắc cái thắng trong tay.
Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, không biểu thị ý kiến nào nữa.
Đạn Kiếm sửa dáng nghiêm trang, bên trong dáng nghiêm trang đó, ẩn ước có chiều tự đắc. Hắn vòng tay, thốt gọn:
– Mời!
Vung tay, hoành thanh kiếm ngang ngực, hắn chờ.
Nhìn tư thế của hắn, bất giác Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nhận ra tư thế đó không lạ gì với chàng, bởi đó là một trong bảy tư thế của «Tu La Kiếm Pháp».
«Tu La Kiếm Pháp», là một tuyệt học, Bách Lý Bất Bình chỉ truyền dạy độc một mình Tạ Linh Vận, thì làm sao đại hán nầy lại biết được để hôm nay mang ra sử dụng đối phó với chàng?
Tư thế thì đúng vậy rồi, song chiêu thức chưa được phát xuất, Quan Sơn Nguyệt trước khi thấy chiêu thức, không thể đoán định quả quyết.
Chàng từ từ rút thanh kiếm Bạch Hồng, ánh kiếm chớp lên, chàng nhìn qua phu nhân, thấy bà ta hơi biến đổi thần sắc.
Chàng cầm thanh kiếm nơi tay, có nghĩa là chàng chấp nhận cuộc đấu.
Đạn Kiếm nhẹ giọng thốt:
– Xin Minh huynh xuất thủ!
Bởi muốn thấy rõ chiêu kiếm của đối phương như thế nào, để chàng đoán định, chàng mỉm cười, lắc đầu đáp:
– Không! Tiên sanh nên xuất thủ trước là phải hơn.
Đạn Kiếm không khiêm nhượng quá độ, bước tới một bước, phát chiêu ngay.
Đúng rồi! Hắn sử dụng đúng kiếm pháp Tu La! Hắn đang phát xuất chiêu «Vân Thảm Vụ Sầu». Tuy nhiên, có điểm bất đồng là thanh kiếm không phát sanh vân thảm vụ sầu, như lúc Tạ Linh Vận đánh ra, mà cũng chẳng có tiếng ma gào quỷ hú. Có điều, oai lực thì hùng mãnh hơn nhiều.
Không do dự, Quan Sơn Nguyệt sử dụng ngay kiếm pháp Đại La, ứng phó với địch. Chàng đánh ra chiêu «Càn Khôn Thỉ Định».
Hai đạo kiếm khí chạm nhau, quấn vào nhau thành một khối, không gây nên một tiếng động nhỏ. Một phút sau, hai đạo kiếm khí rời nhau ra.
Quan Sơn Nguyệt thở phào, chừng như chàng kiêu hãnh phần nào, bởi chàng nhận thấy, cái oai lực do Đạn Kiếm phát huy, đành là hùng mãnh, song hắn không biểu hiện nổi những hiện tượng ma quái như Tạ Linh Vận đã cho thấy.
Hơn thế, chàng cũng nhận rõ từng sự biến hóa nơi thanh kiếm của đối phương, mà «Đại La Kiếm Pháp» lại chuyên khắc chế những biến hóa đó. Nhờ vậy, chàng tiếp nhận nổi chiêu đầu.
Nhưng, sự nhận xét của những người đứng bên ngoài lại bất đồng.
Bất đồng, chẳng phải là dị đồng; Nguyệt Hoa Phu Nhân âm thầm thán phục, còn bọn Cầm Khiêu và Nhập Hoạch thì không trầm lặng như phu nhân, họ tỏ lộ rõ sự thán phục, họ suýt reo hò.
Đạn Kiếm cũng tán thưởng đường kiếm của Quan Sơn Nguyệt vô cùng.
Một phút trôi qua, Đạn Kiếm phát xuất chiêu thức thứ hai, cũng là một trong những chiêu của «Tu La Kiếm Pháp», có cái tên là «Sưu Hồn Lạc Phách».
Quan Sơn Nguyệt đưa liền chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ» ra nghinh đón.
Hai đạo kiếm khí lại quyện vào nhau, tuy nhiên Quan Sơn Nguyệt cảm thấy công lực của Đạn Kiếm mường tượng thâm hậu hơn Tạ Linh Vận, bởi công lực của hắn quá mạnh, thành ra luồng khí của Quan Sơn Nguyệt bị kiếm khí của hắn từ từ đè nặng, như bị kềm cứng lại, không còn linh động như lần chạm kiếm đầu tiên.
Cũng may, chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ», là một chiêu chuyên về thế thủ, do đó, chàng cố gắng giữ vững tư thế, cũng chẳng đến đổi nào. Giả như chàng sử dụng một chiêu chuyên tấn công, thì lúc đó hẳn chàng không làm sao phát huy thế công nổi.
Song phương lại rời nhau ra.
Đạn Kiếm lùi lại hai bước, thần sắc ngưng trọng, tựa hồ hắn không tin là sự thật như thế.
Nguyệt Hoa Phu Nhân không còn giữ vẽ bình thản như cũ, buột miệng kêu lên một tiếng «ạ» rất nhẹ.
Sau chiêu kiếm thứ hai, Quan Sơn Nguyệt bắt đầu thở mạnh, hơi thở mạnh, hơi thở của chàng nghe rõ ràng.
Tuy nhiên, thay vì nghỉ mệt, chàng lập tức bước tới, tấn công. Với thủ pháp cực kỳ nhanh, chàng đánh ra luôn cả hai chiêu cùng một lúc, chiêu «Húc Nhật Đông Thăng» và chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».
Hai chiêu đó, thuộc về thế công, chàng đánh ra, kể cũng hợp lý, bởi đúng là chiêu công, chứ không phải chiêu thủ. Song, đánh như vậy, là sai với tuy tắc của kiếm pháp. Vì «Đại La Kiếm Pháp» chỉ được dùng với cái thế thụ động, phải chờ khi địch tấn công, chàng mới thi triển, tuyệt đối không nên xuất thủ trước. Rồi tùy ý, lúc phản công, chàng dùng chiêu công, hay chiêu thủ, mặc chàng, do theo sự ức độ của chàng. Bây giờ, chàng bỏ cái thế thụ động, không chờ địch tấn công, chính chàng tấn công trước.
Sở dĩ chàng vi phạm quy tắc, là vì chàng nhận ra, Đạn Kiếm có đấu pháp rất kín đáo, khi hắn xuất chiêu, là cái thế rất chặt chẽ, chẳng có một sơ hở nhỏ nào, chàng có chờ hắn xuất thủ trước cũng không lợi dụng một thời cơ nào được.
Hơn nữa, công lực của hắn quá mạnh, chàng ước lượng sức mình, không làm sao giữ vững thế thủ nổi, nếu bình lặng mà chờ hắn tấn công, đúng theo quy tắc, thì cầm chắc là bị hắn đánh bay, rời xa vị trí. Do đó, chàng phải liều.
Thà liều mà còn có cái may, hơn là đứng một chỗ với cái bại chắc chắn.
Chiêu thứ nhất, «Húc Nhật Đông Thăng» vừa bay sang, Đạn Kiếm khoa kiếm một vòng, tạo thành bức tường phong vững, kín che chở toàn diện. Hắn hóa giải dễ dàng chiêu kiếm đó của Quan Sơn Nguyệt.
Nhưng chiêu kế tiếp lại đến liền, vừa nhanh, vừa ảo diệu, Đạn Kiếm không làm sao xoay kiếm, biến thế, ngăn chặn, thành ra phải để kiếm Bạch Hồng xuyên vào màu kiếm quang của hắn.
Một tiếng «rẻng» vang lên.
Ngàn tia lửa bắn ra, chớp ngời, hai vũ khí chạm nhau, Quan Sơn Nguyệt lùi lại một bước, tay cầm kiếm tê dại, chàng phải cố gắng lắm mới giữ cho nó khỏi rơi.
Vẻ hãi hùng hiện ra nơi gương mặt chàng.
Chàng hãi hùng, không vì chiêu kiếm kỳ ảo của đối phương, mà vì công lực quá thâm hậu của Đạn Kiếm.
Đúng là chàng đâm trúng nhược điểm của đối phương, đối phương cũng không làm sao hóa giải kịp. Thế mà trong cơn nguy cấp, Đạn Kiếm vận dụng kình lực, dồn vào kiếm, thanh kiếm phát huy một áp lực kinh hồn đẩy bật Bạch Hồng kiếm trở về, hắn thoát nạn, mà Quan Sơn Nguyệt lại bị chấn dội đến tê dại cánh tay, suýt buông rơi kiếm.
Chàng còn nhận ra, thanh kiếm màu xanh của Đạn Kiếm rất quý, Bạch Hồng Kiếm chạm vào, nó chẳng hề sứt mẻ, đừng nói là gãy.
Đạn Kiếm không đến đổi mất bình tĩnh như Quan Sơn Nguyệt, hắn vòng tay hướng lên không vái một lượt, rồi tra kiếm vào vỏ, sau cùng quay nhìn Quan Sơn Nguyệt, lại vòng tay thốt:
– Minh huynh có kiếm thuật tuyệt luân, tại hạ không dám sánh!
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc cực độ, câu nói đó, đáng lý phải do chàng phát xuất, sao hắn lại thốt lên, bởi rõ ràng là chàng kém hắn xa kia mà? Dù bên ngoài, không ai thấy rõ, chàng cũng phải tự ức lượng sức mình chứ? Tại sao hắn nhận bại?
Suy nghĩ một lúc, Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ.
Trước khi đến đây, chàng được nghe Cầm Khiêu cho biết là Đạn Kiếm là con người rất tốt, sẵn sàng tiếp trợ bất cứ ai nếu hắn có dịp làm, huống hồ chàng đã được bằng hữu của hắn là bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, luôn đến Nhập Hoạch dành cho nhiều hảo cảm? Có lẽ vì thế nên trong lúc đấu kiếm, hắn vờ kém thế, rồi khi dứt cuộc hắn lại tuyên bố phục tài chàng.
Tuy nhiên, chàng đâu phải thuộc hạng người chấp nhận một hư danh khi chẳng có thực tài làm hậu thuẫn? Cái tánh đó, tốt thật, song chàng không thể tiếp nhận được. Chàng cười lạnh, đáp:
– Tiên sanh khách khí quá chừng, tại hạ còn giữ được kiếm trong tay, là nhờ tiên sanh châm chước cho đấy, chứ nếu không thì ...
Đạn Kiếm nhếch nụ cười khổ, không đáp.
Nhập Hoạch bổng nói:
– Thật không tưởng nổi, Minh huynh đệ đã luyện kiếm pháp đến mức cao minh như vậy! Đạn Kiếm từng khoe khoang là ngoài phu nhân ra, chẳng một ai tiếp được mấy chiêu kiếm của hắn! Thế mà Minh huynh đệ lại đánh bại hắn không khó khăn gì.
Quan Sơn Nguyệt quay mặt sang nàng, mắt hơi trừng, hỏi:
– Tại hạ đánh bại Đạn tiên sanh?
Nhập Hoạch bật cười khanh khách:
– Chứ sao! Lão đệ nên kiêu hãnh mới phải! Nếu hắn không nhờ diệu năng của thanh kiếm thần đó thì hắn đã mất đầu trong chiêu kiếm thứ nhất của lão đệ rồi. Ta dám quả quyết là kiếm pháp của lão đệ xứng đáng được coi là thiên hạ đệ nhất kiếm khách!
Chừng như nàng tỉnh ngộ là mình lỡ lời, vội chữa:
– Đương nhiên là tôi không gồm phu nhân trong cái gọi là thiên hạ đó!
Vừa thốt câu bổ túc, nàng vừa liếc sang Nguyệt Hoa Phu Nhân, chỉ sợ bà ta không ưng ý câu đó.
Ngờ đâu, phu nhân mỉm cười nói:
– Nhập Hoạch, ngươi lầm rồi đó nhé! Có thể là ta dựa vào công lực thủ thắng trước hắn, nhưng luận về chiêu thức thì ta còn kém Đạn Kiếm một phần, kém Đạn Kiếm thì ta phải bại nơi tay hắn là cái chắc!
Không ai tưởng là bà ta thốt một câu như vậy, và có lẽ đây là lần thứ nhất, bà nhận kém trước một người.
Ai ai cũng kinh ngạc, Quan Sơn Nguyệt trái lại chẳng lấy đó là một vinh dự, chàng thản nhiên như thường. Hay đúng hơn, chàng không lưu ý đến ai, chàng không nghe phu nhân nói gì, đôi mắt chàng chăm chú nơi thanh kiếm trong tay Đạn Kiếm.
Kiếm đã tra vào vỏ rồi, tay Đạn Kiếm bất quá sờ lên vỏ, có gì lạ mà chàng nhìn?
Chàng đang suy nghĩ về cái tên của thanh kiếm! Cái tên kiếm là Thanh Sách Kiếm!
Lúc học kiếm với Ôn Kiều, chàng có nghe lão bà kể tên vài thanh kiếm, ngoài thanh Bạch Hồng. Chẳng hạn, thanh Tử Sính, thanh Thanh Sách ...
Những thanh kiếm đó, có oai lực trên hẳn thanh Bạch Hồng. Giờ đây, chàng gặp một trong hai thanh, hiện ở nơi tay Đạn Kiếm.
Chàng cũng hiểu, chiêu thức «Bạch Hồng Quán Nhật» rất tuyệt diệu, đối phương không làm sao tiếp nhận nổi.
Sở dĩ Đạn Kiếm thoát khỏi áp lực của thanh kiếm Bạch Hồng qua chiêu thức đó, là nhờ sự thần hiệu của thanh Thanh Sách!
Thảo nào hắn chẳng nhận bại?
Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm nụ cười thốt:
– Minh Thiên Lý! Bắt đầu từ phút giây này, ngươi là một phần tử trong cung Quảng Hàn đấy ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hấp tấp đáp:
– Không! Không thể được!
Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn cười tươi:
– Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Tại hạ không thể làm một người tùy hầu cho phu nhân ...
Phu nhân gật đầu:
– Đương nhiên! Khi nào ngươi là kẻ thị giả của ta được? Ngươi học rộng tài cao, bắt một kẻ như ngươi sung vào hàng ngũ tùy hầu, thì có khác nào mai một bậc anh tài? Phải vậy chăng?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không nghĩ như vậy, phu nhân đoán sai!
Nguyệt Hoa Phu Nhân không cho chàng nói tiếp, chận lại liền:
– Ta hiểu rõ ý tứ của ngươi rồi. Tài năng của ngươi phát hiện trên nhiều phương diện, mà sung vào hàng ngũ thị giả, bất quá ngươi chỉ đảm trách một đặc vụ nào đó thôi, ngươi không làm sao biểu hiện hoặc trau dồi những ưu điểm khác cho được tận thiện tận mỹ. Tuy nhiên, ngươi thử nghĩ xem, bất quá về kiếm pháp, ngươi có phần nào cao minh hơn cả bọn kia, chứ về cầm, kỳ, thi họa, đã chắc gì ngươi vượt bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, Nhập Hoạch? Ta cho rằng với sở trường của bọn đó, họ thừa khả năng chỉ điểm ngươi, họ không là sư, cũng là trưởng! Hạng thanh thiếu, quật cường, cao hãnh, tự đắc, ngạo mạn, là sự thường, có thể là cần phải có những tính đó nữa là khác, song quật cường, cao hãnh tự đắc, ngạo mạn, nếu giúp ngươi bảo trì phẩm cách, khí thái thì hay, trái lại nếu khuyến khích ngươi nuôi cuồng vọng, thì rất dở!
Bà nói có lý lắm, song bà nói sai quan niệm của Quan Sơn Nguyệt. Dĩ nhiên, chàng bất bình, khi nào chàng chịu nổi những lời phủ đầu của Nguyệt Hoa Phu Nhân? Chàng cau mày, toan tranh biện, Nguyệt Hoa Phu Nhân lại chận tiếp:
– Ta biết ngươi bất mãn, song ta còn biện pháp nào hơn? Có thể ... bởi ta nhận thức ngươi quả là một nhân tài, có thể ... ta bổ nhậm ngươi làm một hộ pháp trong cung, với chức hộ pháp, người cai quản cả bảy thị giả của ta, như vậy là thích hợp với ngươi lắm rồi!
Nhập Hoạch thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt còn phản đối, vội ngăn:
– Minh huynh đệ! Phu nhân đã dành cho lão đệ một vinh dự lớn lao lắm đó, tuy cai quản bọn ta, lão đệ chẳng thu hoạch ích lợi gì, song tiếp cận với phu nhân thường xuyên, lão đệ sẽ học hỏi được những điều hay, lão đệ sẽ trở nên bậc đại thành ...
Nàng vừa thốt, vừa nheo nheo mắt, ngầm truyền cái ý cho chàng, cái ý đó là niềm khuyến khích chàng nên tiếp thọ đề nghị của Nguyệt Hoa Phu Nhân.
Đồng thời bọn Thị Thơ, Cầm Khiêu, Tư Kỳ, cũng ra hiệu bằng ánh mắt với chàng như vậy.
Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, tiến thoái lưỡng nan. Nếu chàng chấp nhận? Thì biết đến bao giờ chàng giải thoát được sự ràng buộc tại nơi nầy? Và, trong khi chờ đợi sự giải thoát, chàng sẽ có những tao ngộ như thế nào? Lợi hay hại? Không hiểu được ngày mai cái gì sẽ xảy đến với chàng, thì làm gì ức độ được một hậu quả xa xôi?
Bất giác, chàng lấy một chủ ý. Thực hiện chủ ý đó, chàng phải khoác một thái độ trái ngược với tư cách của chàng. Chàng biểu hiện vẻ cao ngạo cực độ, bật cười ha hả, cười một lúc, lại cất giọng sang sảng:
– Lời nói, là như vậy, sự sắp xếp, xem ra thì rất đẹp, rất hợp lý, tuy nhiên, dù sao, phu nhân cũng vẫn xem tại hạ là kẻ dưới tay, một kẻ tùy sai, bất quá là một thị giả có chút vinh diệu hơn các thị giả khác, huống chi cái quyền cai quản các thị giả kia, chỉ là một hư quyền, bởi cai quản họ, mà tại hạ được lợi lộc gì, ngoài cái khổ nhọc giám thị họ phục vụ phu nhân tận tụy? Tại hạ chẳng biết được, khi phu nhân nhận tại hạ làm một hộ pháp trong cung thì phu nhân đã định dành cho tại hạ những đặc huệ gì?
Nhập Hoạch biến sắc, kêu lên:
– Minh huynh đệ điên rồi! Làm sao bỗng nhiên lại xúc phạm phu nhân?
Quan Sơn Nguyệt chỉ cười không đáp.
Trái với sự lo sợ của tất cả, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, thốt:
– Chẳng có gì phải trách hắn. Nếu ta không biểu lộ một vài tuyệt kỹ cho hắn thấy trong trường hợp nầy, thì chẳng khi nào hắn phục! Gã trẻ tuổi kia, ngươi định tranh cao thấp với ta, phải không?
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Tranh cao thấp, thì hơi quá đáng, phu nhân đừng nói thế, bất quá, khi chưa thấy sở học, sở năng của phu nhân như thế nào, thì tại hạ không thể đi sâu vào vấn đề, và đương nhiên là không đáp ứng được.
Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn giữ nụ cười:
– Ngươi cứ nêu cái ý, muốn thử thách ta như thế nào ta sẽ cho ngươi thấy cái giải pháp thích ứng của ta.
Quan Sơn Nguyệt cao ngạo gần như ngông cuồng, bà ta cũng cao ngạo không kém. Gặp kẻ cao ngạo ngang độ, Quan Sơn Nguyệt càng nâng cái độ ngông lên cao hơn, bật cười ha hả, thốt:
– Tại hạ nhận thấy, có thể miễn cưỡng ứng phó trước sự thi triển mọi sở năng của phu nhân!
Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình. Từ lâu lắm rồi, trong Quảng Hàn Cung, chưa có một ai dám thốt câu đó. Lần thứ nhất, phu nhân mới nghe nói như vậy, và là một thiếu niên nói lên! Tự nhiên bà phải sững sờ.
Bảy thị giả cũng sững sờ như bà. Một phần, họ lo ngại cho Quan Sơn Nguyệt, phần khác họ kinh dị, không tưởng nổi Quan Sơn Nguyệt là con người như thế nào, thành ra họ đâm hoang mang, chẳng hiểu sự lo ngại cho chàng đó, có thừa hay không?
Một lúc lâu, Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ, thốt:
– Hay quá! Hay vô cùng! Đại khái, cái tài của ngươi bao gồm mọi mặt, thế mà ta cứ tưởng ngươi chỉ có một vài tuyệt kỹ thôi! Vậy thì, bảy ngón nghề trong Quảng Hàn Cung, ta sẽ biểu hiện cho ngươi thấy rõ, bảy ngón nghề đó là cầm, kỳ, thi, họa, kiếm, trà, tửu, ta sẽ cho ngươi thấy chỗ tuyệt diệu của mỗi thứ, có như thế, ngươi mới khẩu phục, tâm phục.
Bà gọi:
– Cầm Khiêu, lấy đàn đem ra đây!
Cầm Khiêu vâng một tiếng, bước vào một góc đại sảnh, mang ra túi đàn.
Lão ta lấy chiếc đàn trong túi, đặt trên bàn.
Nguyệt Hoa Phu Nhân đứng lên, bước đến cạnh chiếc đàn, điểm một nụ cười, thốt:
– Nói rằng làm một cuộc so hơn kém với ngươi, thì đúng là một chuyện đáng buồn cười quá chừng. Song ngươi đã muốn thấy cái chỗ hơn kém, thì ta cũng chẳng quản công, biểu hiện cho ngươi thấy. Ta sẽ dạo lên bản Ỷ Lan, nếu nghe rồi mà ngươi chẳng xúc động tâm tình, thì ta công nhận ngươi là một danh cầm, hoặc giả ngươi muốn xưng là đệ nhất danh cầm trong thiên hạ, ta cũng chấp nhận cho luôn!
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt muốn thoái thoát để chấm dứt một sự việc lạ lùng, cũng chẳng còn kịp nữa!
Chàng hết sức lạ lùng, tại sao chàng có những tao ngộ như thế này! Long Hoa Hội vừa dứt, liền theo đó, lại gặp cái tổ chức quái dị cho rằng điên cũng chẳng sai lắm!
Ngày trước, chàng từng nghe sư phụ là Độc Cô Minh dẫn và giảng qua cầm lý cho chàng hiểu. Nhưng sự hiểu biết của chàng còn trong một phạm vi nhỏ hẹp, chàng chưa xứng đáng là một tay cao minh về cầm lý cũng như cầm điệu.
Tuy nhiên, chàng cũng rõ, cao thủ dạo đàn, có phổ hóa công lực theo tiếng đàn, nếu người nghe không cẩn thận, sẽ bị kình lực do tiếng đàn phát huy, vô hình trung thọ thương ngay. Thương thế tinh thần, nguy hại hơn là thương thế thể xác.
Tuy nhiên chàng biết rõ, Nguyệt Hoa Phu Nhân không thực tâm sát hại chàng, mà chàng cũng biết luôn là thinh âm của đàn cầm có thể gây tại hại cho người nghe, cái tai hại đó bắt đầu từ sự rối loạn thần trí, rồi vì không tự chủ được, phải rơi vào vòng thao túng của người gảy đàn.
Đại khái chàng biết như vậy.
Chàng nghĩ, nếu chàng giữ được cái tâm thanh tịnh, cái ý kiên cường nghe mà như chẳng nghe, thì tiếng đàn kia làm gì dụ hoặc chàng nổi?
Chàng ngồi xuống, xếp bằng tròn, hai tay đặt lên gối, mắt nhắm hờ, mường tượng một nhà sư nhập định. Chàng thốt:
– Xin phu nhân cho nghe nhả tháo!
Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn tư thế ngồi của chàng, gật gù tán:
– Xem ra, ngươi cũng hiểu biết đôi chút! Hãy chú ý, ta bắt đầu đàn đây!
Chàng có quyết tâm nghe đâu mà bảo chú ý?
Có lẽ phu nhân thách thức chàng, bảo chàng chú ý giữ mình dù cho cảnh giác của chàng có đề cao tột độ, vị tất chàng không bị ảnh hưởng của tiếng đàn.
Bà bắt đầu so dây. Mới so dây, bà cũng tạo nên một âm thanh huyền hoặc rồi!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm sợ âm điệu của phu nhân phát huy. Do đó, chàng cố trấn định tâm thần, ngồi yên như tượng gỗ.
Phu nhân lấy làm lạ. Bất cứ ai không thể nghe nổi những âm thanh đầu tiên của cung đàn Ỷ Lan của bà. Người khác thì rung rẩy mình, nhưng Quan Sơn Nguyệt bất quá chỉ lộ vẻ kinh dị rồi bình tĩnh lại ngay.
Chính bọn thị giả, nhất là Cầm Khiêu cũng hết sức hãi hùng, không tưởng nổi chàng định tâm vững chắc như vậy.
Phu nhân bắt đầu dạo bản Ỷ Lan thực sự.
Quan Sơn Nguyệt vẫn trơ trơ như tượng gỗ, ai ai cũng lấy làm kỳ. Chính phu nhân cũng lấy làm kỳ.
Bà bực tức, bởi bực tức nên bà đàn gấp, trong âm điệu ẩn ước có sát ý, sát ý càng phút càng bốc mạnh.
Bọn thị giả bên ngoài càng phút càng kinh sợ, nhưng Quan Sơn Nguyệt càng phút càng vững hơn, nơi mép miệng, thoáng hiện nở nụ cười.
Phu nhân nổi giận, thay vì đàn gấp, bà đàn chậm lại, cái ý trầm trầm, chứng tỏ sát ý bốc mạnh hơn trước.
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vẫn bình lặng như cũ.
Phu nhân sôi giận thực sự. Bà bỏ luôn cung điệu Ỷ Lan, định đàn sang một bản khác.
Trong ánh mắt của bà, hiện lộ rõ sát cơ.
Cầm Khiêu kêu lên thất thanh:
– Không được đâu, phu nhân!
Phu nhân không cần dè dặt nữa, nạt ngang:
– Ngươi muốn ta cúi đầu nhận bại trước tiểu tử à?
Cầm Khiêu không dám nói gì hơn.
Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, nhếch mấy ngón tay, sắp sửa đàn tiếp. Vẽ cương quyết hiện rõ nơi gương mặt bà.
Cầm Khiêu sợ hãi quá chừng, nhắm mắt lại, nhưng lâu lắm rồi, lão ta chẳng nghe tiếng đàn nổi lên.
Bất giác, lấy làm lạ, lão mở mắt ra, nhìn phu nhân. Vừa nhìn qua bà, Cầm Khiêu càng kinh hãi.
Bà không đàn, mặt bà xanh lại, bàn tay còn đưa cao trên chiếc đàn, những dây đàn đứt hết, đứt tất cả.
Dây đàn đứt một cách lạ lùng, không gây lên một âm vang nào cả!
Bất thình lình, bà đưa tay chỉ ra ngoài cửa.
Tất cả bảy thị giả đồng một loạt, tung mình vọt ra ngoài. Nhập Hoạch nhanh chân hơn đồng bọn, dẫn đầu.
Họ vừa nhích động thân hình, thì bên ngoài có tiếng cười vang vọng vào, tiếp theo là một câu nói, cũng oang oang:
– Khách không mời, cho đến là hân hạnh lắm rồi, đâu dám nhận sự tiếp đón long trọng như thế!
Nhập Hoạch giật mình, nhận ra người đến, bất giác kêu lên:
– Lão Đà đã đến!
Người mới đến, là một lão nhân gù lưng, lão đưa tay véo vào má Nhập Hoạch, cười hì hì, thốt:
– Liễu đầu dám vô lễ với lão phu à? Cái tiếng lão Đà, ngươi xưng hô thế nào được?
Bị lão véo má đau quá, Nhập Hoạch đau quá song không dám thoát chạy.
Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:
– Đà Ông nên thận trọng một chút, cái bọn đó đâu phải ngang hàng đùa cợt với chúng làm chi!
Lão nhân gù bật cười ha hả:
– Tốt! Tốt! Lịnh đã ban ra rồi, lão phu đâu dám chẳng tuân!
Lão buông tay.
Nhập Hoạch trừng mắt nhìn về chỗ cũ, trừng mắt nhìn lão hận phừng phừng, nhưng chẳng dám nói gì.
Phu nhân vẫn với giọng lạnh lùng, hỏi:
– Đà Ông cao hứng thế nào, bỗng dưng lại cất công đến đây?
Lão nhân gù đáp:
– Nghe nói phu nhân không được an khương, lão phu đến tận vùng Tây Tạng, tìm nước của Tửu Đạt Mộc Hà, mang về tặng phu nhân.
Phu nhân cười lạnh:
– Đa tạ thạnh tình của Đà Ông, hiện tại già cảm thấy khỏe như lúc thường.
Lão nhân gù mỉm cười:
– Lão phu cũng biết vậy, lúc đến Vọng Nguyệt Phong, nghe tiếng đàn, lão phu nhận ra phu nhân đã bình phục rồi.
Phu nhân chặn lại:
– Cái việc tìm thánh thủy, già xin tri ân, chỉ vì Đà Ông ...
Lão nhân gù vội phân trần:
– Hẳn là phu nhân trách cứ lão phu làm gián đoạn cao hứng ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh, không đáp. Mặc dù lão nhân ngưng câu nói chờ bà ta xoa dịu một tiếng. Phu nhân không nói gì, lão nhân gù lại tiếp:
– Phu nhân cũng nên lượng thứ cho lão phu. Đã lâu lắm rồi, lão phu không được nghe phu nhân buông nhả tháo, may mắn thay hôm nay lại có cơ hội lắng nghe âm diệu huyền, bất giác tâm thần phấn khởi, không kềm hãm được xúc cảm, ca lên mấy câu, hòa lại, thiết tưởng đó cũng là sự thông thường, bởi âm nhạc có sức truyền cảm nhiệm mầu ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt, nhìn lão rồi nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, trừng mắt thốt:
– Già biết lắm, có kẻ thứ ba làm trò quỷ chi đó, chứ nếu không thì tiểu tử làm sao khống chế nổi áp lực của bản Ỷ Lan của già.
Bây giờ Quan Sơn Nguyệt mới vỡ lẽ. Thì ra, sở dĩ chàng giữ sự bình tịnh được là nhờ lão nhân gù đã phá hấp lực của điệu đàn. Thoạt đầu, chàng nghe tiếng đàn, như xói lỗ tai, suýt vùng lên, nhưng liền sau đó, có tiếng ca đâu đây vọng tới, tuy nhỏ song nghe rất rõ, tiếng ca rất dịu, xoa dịu ngay niềm khó chịu do tiếng đàn gây lên. Nhờ thế, chàng thản nhiên được, trái lại còn khoan khoái đến nở nụ cười sung sướng.
Lão nhân gù thốt:
– Bản Ỷ Lan là một bản êm dịu, nhưng lúc dạo lên, phu nhân tỏ lộ cái ý sát phạt. Do đó, lão phu mạo muội ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:
– Đà Ông bứt đứt dây đàn của già!
Lão nhân gù mỉm cười:
– Lão phu biết là phu nhân phẫn nộ, bắt buộc phải phát xuất «Chấn Thiên Thần Âm», tuy biết đó là hạ sách, song không còn cách nào khác hơn!
Phu nhân hừ một tiếng:
– Đà Ông khách khí quá đi thôi! «Chấn Thiên Thần Âm» dù lợi hại, vẫn chẳng làm gì nổi Đà Ông ...
Lão nhân gù lại cười:
– Phu nhân khỏi phải đấu khí với lão phu, bởi lão phu có muốn tranh hơn giành thắng với phu nhân đâu? «Chấn Thiên Thần Âm» vốn là một bản bất tường, gây thương tổn cho thiên hạ mà phu nhân bình nhật lại tu tâm dưỡng tánh, thiết tưởng không nên dạo đến khúc đàn đó!
Nguyệt Hoa Phu Nhân toan phát tác. Nhưng, bà có ý đắn đo, chừng như bà có đố kỵ lão nhân gù mấy phần, sau một phút, bà dằn cơn uất, lấy lại bình thường.
Đoạn, bà lạnh lùng thốt:
– Đà Ông đến đây, chỉ để mang thánh thủy đến cho già, hay còn chỉ giáo điều chi nữa chăng?
Lão nhân gù chỉnh nghiêm thần sắc:
– Ngoài việc đem thánh thủy đến cho phu nhân, lão phu còn muốn cho phu nhân biết là đã khám phá ra sự tình.
Phu nhân biến sắc mặt, hấp tấp khoát tay, bảo bảy thị giả bước ra ngoài.
Cầm Khiêu đến gần Quan Sơn Nguyệt, định lôi chàng ra luôn nhưng lão nhân gù vội ngăn:
– Để hắn ở lại đó!