Ông Bénédict từ căn nhà nhỏ bé của ông đi ra. Ông đứng trên bậc cửa, bị khó chịu một cách đau đớn vì nắng. Ông tự cảm thấy thấp hèn hơn mọi người. Một con chó nhỏ lon ton chạy qua, với cặp mắt tinh khôn, quá tinh khôn đến nỗi ông Bénédict không thể chịu nỗi cái nhìn của nó. Một thằng bé hiện ra ở chổ cái ngáng bằng sắt rào bao quanh nghĩa địa ở gần giáo đường, và ông Bénédict phát run lên trước sự tò mò ngây thơ nhưng bén nhọn của đứa bé.
- Ông là người thực hiện các nghi lễ tang ma hả? - Thằng bé nói.
Làm ra bộ mặt thấp hèn, ông Bénédict không nói một lời.
- Ông là người sở hữu giáo đường phải không? Cuối cùng thằng bé hỏi.
- Phải, ông Bénédict nói.
- Và nơi làm các đám tang?
- Phải, ông Bénédict hòan tòan ngơ ngác nói.
- Và cái nghĩa địa, và những hầm mộ phải không? thằng bé ra vẻ kinh ngạc.
- Phải, ông Bénédict nói với một vẻ kiêu hãnh rõ ràng. Và đúng vậy. Đó là một điều kinh khủng, một vận may thật sự đã làm phồn thịnh các dịch vụ của ông và đã đem lại cho ông những đêm ồn ào họat động trong nhiều năm trường. Thọat đầu ông mua được cái giáo đường và nghĩa địa, với vài ngôi mộ phủ đầy rêu xanh khi bọn Bapfister (1) đi khỏi thành phố. Rồi ông xây một cái nhà xác nhỏ theo kiểu gô tich, chắc chắn là thế, và ông trồng trường xuân đằng che phủ lên nó. Sau đó ông làm thêm căn nhà nhỏ của riêng ông ở đằng sau. Thật là quá tiện lợi khi chết, nhờ có ông Bénédict. Ông ấy khiêng bạn vào bên trong hay bên ngòai các tòa nhà với tình trạng lộn xộn tối thiểu và những lễ ban phúc giả tạo tối đa. Không cần tới đám ma! Những cột quảng cáo lớn của ông trong tờ báo buổi sáng tuyên bố như vậy. Đi thẳng từ giáo đường tới nghĩa địa, mau lẹ và tốt đẹp! Người ta chỉ sử dụng những thứ thuốc sát trùng hảo hạng!
Thằng bé tiếp tục nhìn ông, và ông run lên như một ngọn nến trước cơn gió thổi. Ông cảm thấy mình quá thấp hèn. Tất cả những gì sống và cựa quậy đều làm cho ông bối rối và buồn vẩn vơ. Bao giờ ông cũng sống hòa nhịp với mọi người, không bao giờ dám tranh cải, phản kháng, hoặc nói tiếng “không”. Bất luận bạn là ai, nếu ông Bénédict gặp bạn ở ngòai phố, thì ông cũng ngước mắt lên nhìn vào lỗ mũi bạn, quan sát hai tai của bạn hoặc ngắm kỹ hình dạng mái tóc bạn bằng cặp mắt nhỏ lệ và lơ láo của ông, nhưng không bao giờ ông nhìn thẳng vào mắt bạn. Ngòai ra, ông còn có thói quen nắm lấy bàn tay bạn vào giữa hai bàn tay lạnh giá của ông, như thể bàn tay bạn là một vật quý giá , và ông nói:
“ Ồ, ông thật là quá lịch sự!”
Nhưng mỗi khi người ta nói với ông, người ta cảm thấy không bao giờ ông lắng nghe những gì mà người ta nói.
Và khi thằng bé cứ nhìn ông mãi lúc ông đang đứng trên bậc cửa, ông nói với nó:
- Cháu là một cậu trai nhỏ đáng yêu, ông sợ rằng thằng bé không mến ông.
Ông Bénédict đi xuống các bậc thang và không thèm nhìn tới cái nhà xác bé nhỏ của ông. Ông để dành sự thích thú đó cho về sau. Điều quan trọng là mọi việc phải đi theo một cách đúng đắn tiến trình của chúng.
Thật không ích lợi gì khi vui vẻ nghĩ tới những xác chết trong nhà xác đang đợi chờ các tài năng của ông. Không, tốt nhất là cứ theo các lề lối thông thường của ông ngày này qua ngày khác. Ông cứ để cho sự tranh chấp bắt đầu.
Ông biết một cách chính xác là đi tới nơi nào để chuốc lấy sự bực bội. Ông để ra nữa ngày để đi ngao du, nơi này nơi nọ trong cái thành phố nhỏ bé, tự để cho mình bị chà đạp bởi sự cao sang của những đồng bào còn sống của ông, và cảm thấy sự thấp hèn của chính ông làm ông tan biến đi, làm mồ hôi ông chảy ra như tắm, buộc chặt trái tim và khối óc đang run rẩy của ông.
Ông và ông Rodgen, một dược sĩ đã có một cuộc đàm thọai vô vị và chẳng có một ý nghĩa gì. Ông suy tưởng và bỏ qua một bên những sự xúc phạm nhỏ, những giọng điệu có ác ý và những lời sĩ vả mà ông Rodgen đã giáng xuống ông. Bao giờ ông Rodgen cũng có một điều gì khủng khiếp khi nói tới vấn đề người lãnh thầu các tang lễ. Và ông Bénédict vẫn cười cho tới lời bông đùa cuối cùng nhằm vào ông trong khi đó thật ra ông muốn hét lên những tiếng kêu của sự hung bạo thống khổ.
- Ông ấy à, miếng thịt nguội! – Sáng hôm đó ông Rodgen nói.
- Miếng thịt nguội! – ông Bénédict nhắc lại. Hà, hà!
Ở cửa hiệu bách hóa, Bénédict gặp Stuyvesant, người bỏ thầu. Ông Stuyvesant nhìn đồng hồ để ước định một cách chính xác xem ông có thể bỏ phí bao nhiêu thì giờ với Bénédict, trước khi sắp xếp một cái hẹn nào đó.
- Ồ, chào Bénédict. – Stuyvesant nói lớn. – Công việc ra thế nào rồi? Tôi đánh cuộc rằng ông hăng say trong công việc đến tối tăm mặt mũi đó. Ông hiểu chứ? Tôi nói rằng tôi đánh cuộc là ông hăng say trong công việc đến…
- Vâng, vâng. – Ông Bénédict nói một cách mơ hồ trong lúc cười thầm – Và công việc của ông ra thế nào, hở Stuyvesant?
- Hãy nói đi Benny, người bạn già của tôi, làm thế nào ông có được những bàn tay lạnh lẽo đến thế? Ông có một cái bắt tay ướp đá đó. Ông vừa làm xong việc ướp xác một người đàn bà lạnh ngắt phải không? Việc đó không tệ lắm phải không, hả? Ông có nghe thấy những gì tôi nói không? – Ông Stuyvesant gào lên trong khi lấy tay vỗ vào lưng ông Bénédict.
- Nghe thấy, nghe thấy! – Ông Bénédict nói, với một nụ cười khô khan. – Chào ông!
Và tình trạng đó cứ tiếp diễn, hết gặp người này lại gặp người khác. Ông Bénédict bị đối xủ tàn tệ bởi hết người này tới người nọ. Ông là một cái hồ to mà mọi thứ rác rưởi đều được quẳng xuống đó. Mọi người bắt đầu bằng những viên sỏi nhỏ, và vì ông Bénédict đã không chau mày, mà cũng không phản kháng, họ ném một hòn đá, một hòn gạch, rồi một tảng đá. Không có đáy sâu cho ông Bénédict, không có bùn và không có kho chứa. Cái hồ không trả lời. Với thời gian, ông trở nên càng ngày càng thêm lạc lỏng và nổi xung với họ; đi từ nhà này tới nhà khác, thực hiện những cuộc gặp mặt ngắn ngủi và trò chuyện với từng người, ông đã đi tới chỗ tự chán ghét mình với sự khóai trá của những kẻ chỉ thích để cho người ta hành hạ, đánh đập mình. Nhưng ông được nâng đở bởi cái ý tưởng duy nhất về những khóai lạc mà đêm sắp tới sẽ dành cho ông. Cứ như thế ông luôn tự thể hiện mình đối với những tên tàn bạo ngu ngốc và hợm hĩnh này. Ông cúi đầu trước mặt họ, chìa những bàn tay ra một cách khốn khổ, và không đòi hỏi gì lớn là được người ta chế nhạo.
- Này, ông đấy à, cái máy xắt thịt – Fliger nói – Tên hàng thịt. Những miếng thịt đóng hộp và những bộ óc ngâm giấm của ông thế nào rồi?
Những lời lẽ cứ phồng lên cho tới tột điểm cuối cùng của sự hạ nhục. Cuối cùng thì với những cái tai ù lên vì những lời nhục mạ, và một cảm tưởng khủng khiếp của sự thấp hèn, ông Bénédict tìm giờ chính xác ở cái đồng hồ đeo tay của ông, ông quay lại và trở về bằng cách chạy qua thành phố. Ông đã về đến nhà, bây giờ ông đã sẳn sàng để làm việc gì cần phải làm với niềm hân hoan trong lòng. Cái phần đáng sợ của một ngày đã trôi qua, bây giờ thời điểm tốt đẹp có thể bắt đầu.
Ông hăng hái leo lên các bậc thang dẫn tới nhà xác.
Gian phòng đợi chờ lặng lẽ như trước một cơn tuyết đỗ. Trong chỗ tối tăm có những đám nhỏ trắng tóat và những hình thể nằm duỗi dài dưới những tấm vải phủ.
Cái cửa mở một cách đột ngột, và cái bóng đen của ông Bénédict, bao quanh bởi một luồng ánh sáng, nỗi bật lên trong khuôn cửa. Đầu ngửa về đằng sau, ông giơ một bàn tay lên trong một cái chào long trọng; bàn tay kia siết chặt cái nắm tay cầm cánh cửa với một sự cứng đơ thiếu tự nhiên.
Về tới nhà rồi, ông là chủ nhân của những con rối. Ông đứng một lúc lâu ở ngay giữa cái sân khấu của ông. Trong đầu ông có lẽ những tiếng vỗ tay đang vang lên ầm ĩ. Ông không nhúc nhích, nhưng cuối đầu xuống, giả bộ một cái chào đê tiện về phía đám thính giả khả ái là những người đang vỗ tay.
Ông thận trọng cởi bỏ áo chòang ra, treo nó lên; mặc vào một cái áo blouse trắng mới tinh, cài các cúc áo ở cổ tay với một sự gọn ghẽ nhà nghề. Rồi ông rửa tay, trong khi ngắm nghía những người bạn tốt ở xung quanh mình.
Có một số khá lớn những xác chết nằm dưới các tấm vải phủ, và khi Bénédict đứng trước những cái xác này, ông cảm thấy mình cao lên.
- Giống như Alice! – Ông kinh ngạc nói lớn. – Cao hơn, cao hơn, mỗi lúc mỗi kỳ cục hơn!
Ông giơ hai tay lên. Ông đã không bao giờ rời bỏ tính hòai nghi, không tin vào điều gì huyền bí của mình khi ở trong gian phòng với những người chết. Ông vừa khoan khóai vừa sửng sốt khi phát hiện ra rằng ở nơi đây ông là ông chủ của mọi người. Ở nơi đây ông có thể làm mọi điều ông muốn với mọi người, và do sự cần thiết họ phải tỏ ra lễ độ và sẳn sàng cộng tác với ông. Họ không thể trốn khỏi được. Và lúc này, giống như các ngày khác, ông cảm thấy được tự do và đầy sức năng động, và ông cao lên, cao lên như Alice.
- Ồ, cao quá, cao quá, cao một cách đặc biệt…cho tới lúc đầu ta…đụng vào…cái trần nhà!
Ông đi lòng vòng giữa đám người tụ họp được phủ lên bằng những tấm vải. Ông cảm thấy rất khỏe, rất tỉnh táo và rất tự tin, như khi ông từ một buổi chiếu bóng trở về lúc đêm khuya. Khi rời khỏi phòng, ông có cảm giác là tất cả mọi người đều nhìn ông, và ông có tất cả những đức tính của vị anh hùng trong phim: sự duyên dáng, phong cách đoan trang và lòng dũng cảm. Tiếng nói của ông trở nên quá âm vang và quá thuyết phục! Ông? theo một cách khít khao dáng điệu của ông với dáng điệu của vị anh hùng, bắt chước giống hệt các cử động của lông mày bên trái và lối đập cái ba-tong xuống mặt đất . Và đôi khi trạng thái thôi miên được gây ra bởi phim chiếu bóng này kéo dài trên suốt con đường trở về và còn dai dẳng trong giấc ngủ của ông. Chỉ có trong hai trường hợp này là ông mới cảm thấy ông thanh lịch một cách kỳ diệu. Ở rạp chíêu bóng, hoặc là ở đây, trong cái rạp hát bé nhỏ, lạnh lẽo của riêng ông.
Ông đi giữa những dãy người đang ngủ, ghi nhận tên từng người trên tấm thẻ trắng.
“Bà Walters, Ông Smith, cô Brown, Ông Andrews…”
- Chào buổi chiều, chào tất cả mọi người không ngọai trừ ai! Hôm nay bà có khỏa không, thưa bà Shellmund? Ông hỏi thăm trong khi nâng tấm vải lên, như thể ông đang tìm một đứa bé dưới cái giường. Thưa bà, bà có một diện mạo tuyệt vời đó!...
Trong suốt đời bà, chưa bao giờ bà Shellmund nói một lời nào với ông; bà vẫn thường đi qua gần ông như một pho tượng trắng lớn có những chiếc giày có bánh xe nhỏ ẩn giấu dưới cái váy của bà, lọai giày này tạo cho bà một sự chuyển động nhanh, đầy vẻ sang cả, trơn trợt và không thể bị nao núng.
- Thưa bà Shellmund thân mến của tôi – ông nói, trong khi kéo một cái ghế và nhìn bà khách của ông qua một cái kính lúp. – Thưa bà, bà có biết rằng bà có một làn da nhiều mỡ không? Khi bà còn sống, bà đã có một nước da sáp ong. Một sự giãn nở của các lỗ chân lông. Chất dầu, chất mỡ và những mụn ngòai da, một chế độ ăn uống quá bổ béo, bà Shellmund ạ, đó là sự sai lầm của bà. Quá nhiều bánh ngọt, những cái bánh ngọt Savoie và bánh bích quy có cà rem. Thưa bà Shellmund, lúc nào bà cũng moi tính kiêu căng từ bộ óc của bà, và bà nghĩ rằng tôi chỉ là một đồng xu, hay một đồng hào dưới chân bà. Nhưng bà giữ gìn bộ óc kỳ diệu và vô giá của bà bằng những thứ cà rem ướp đá, những lọai rượu sủi bọt, những nước li-mo-nát và nước sô-đa, và bà cao sang hơn tôi tới một mức độ mà lúc này thì, thưa bà Shellmund, đây là những gì sẽ tới với bà…
Ông thực hiện một cuộc phẫu thuật hẳn hoi trên người bà. Cắt chỗ da có tóc thành một vòng tròn, ông lấy chỗ da ấy ra, rồi lấy bộ óc ra, sau đó ông sửa sọan một cái bể của thợ làm mứt. Với cái bể này, ông đổ đầy vào cái đầu trống rỗng thứ cà-rem đánh nhuyễn, những khúc ruy băng và những ngôi sao bằng đường, những viên kẹo ngậm màu hồng, trắng và xanh, và ở bên trên ông đặt một hàng chữ kiểu Á Rập màu hồng rất đẹp: Những giấc mơ ngọt ngào. Rồi ông đặt cái đầu vào chỗ cũ, khâu lại, và che kín các dấu vết bằng sáp ong và bột.
- Và đó kìa! – Ông nói – Hòan tất rối!
Ông đi tới cái bàn kế tiếp. Chào buổi chiều. Thưa ông Wren, hôm nay vị tôn sư của sự hằn thù chủng tộc có mạnh khỏe không? Ông Wren, con người thuần chủng, người da trắng làm cho mình thành trắng. Sạch như tuyết, trắng như một miếng vải, chính là ông đó, ông Wren ạ. Người thù ghét dân Do Thái và người da đen, những dân thiểu số, thưa ông Wren những dân thiểu số.
Ông kéo tấm vải ra đằng sau. Ông Wren nhìn trừng trừng lên phía trên, với những con mắt lờ đờ và lạnh lẽo.
- Thưa ông Wren, xin ông hãy hạ thấp cái nhìn xuống một kẻ của một sắc dân thiểu số. Chính tôi đó. Nhóm thiểu số của những người hạ lưu, những kẻ mà tiếng nói không lên cao được bên trên tiếng thầm thì, những kẻ sợ hãi không dám nói lớn tiếng, những kẻ vô giá trị nhỏ nhoi bị làm cho hỏang sợ đó, những con chuột nhắt đó. Ông có biết tôi sắp làm gì với ông không, thưa ông Wren? Thọat đầu tôi sẽ hút máu trong thân thể ông đó, ông bạn thiếu tính khoan dung ạ.
Máu được rút ra.
- Bây giờ là việc bơm vào cái thứ mà ông có thể gọi là …chất lỏng ướp xác.
Ông Wren trắng như tuyết, tinh khiết như một tấm vải trắng, nằm cứng đờ trên cái bàn trong khi chất lỏng tuôn vào người ông.
Bénédict cười.
Ông Wren trở thành đen, đen như than, đen như đêm tối.
Chất lỏng để ướp xác là …mực!
- Và xin chào ông, ông Edmund Worth!
Ông ấy đã có một cái thân thể đẹp đẽ làm sao chứ, cái ông Worth này! Khỏe mạnh với những cơ bắp hòan hảo, một bộ xương to lớn phi thường và một cái ngực như một khối đá. Khi ông đi qua, các phụ nữ đều câm lặng vì xúc cảm và bọn đàn ông thì nhìn theo ông một cách thèm muốn, mơ tưởng mượn được cái thể xác đó một đêm, và cứ như thế trở về nhà họ gần gũi với những bà vợ của họ làm cho các bà ấy có một sự ngạc nhiên thích thú. Nhưng thân thể của Worth bao giờ cũng là vật sở hữu của ông, và ông dùng nó cho các công việc và các sự vui thú của ông, những chuyện này đã làm cho ông trở thành đề tài thường xuyên trong các buổi mạn đàm tại nhà của tất cả những ai có sở thích về tội lỗi.
- Và bây giờ ông nằm đó trong khi mắt nhìn xuống cái thân thể này với sự khóai trá. – Bénédict nói.
Trong một lúc ông mê đắm trong sự hồi tửơng về cái thân thể của chính ông, trong cái dĩ vãng của chính ông.
Ngày xưa súyt nữa ông đã tự làm cho mình nghẹt thở với một trong những cái phát minh mà người ta đóng vào khung một cái cửa để người ta tự treo mình lên bằng quay hàm, với hy vọng là cho thêm một tấc nữa vào khung sườn ngắn một cách kỳ cục của mình. Để cải biến lại sắc tái nhợt của người đã chết trên da, ông đã nằm dài ngòai nắng, nhưng người ông bị nóng như luộc, và da ông bắt đầu rơi ra thành những mảnh nhỏ “màu hồng” chỉ để lại ở phía dưới một lớp da còn đỏ hồng nom nhớp nháp hơn, và nhạy cảm hơn. Và ông có thể làm gì với cặp mắt diễn tả ý nghĩ của ông? Những con mắt nhỏ, lờ đờ, ở quá gần nhau này, và cái miệng nhỏ xíu và lở lóet này. Người ta có thể sơn lại những cái nhà, đốt rác rưởi, rời khỏi một cái nhà lụp xụp, bẩn thỉu, mua các quần áo mới, có một cái xe, kiếm tiền, và biến đổi các điều kiện bên ngòai của đời sống thành một cái gì mới mẻ. Nhưng người ta có thể làm quỷ gì được, khi người ta bị ngâm như một miếng phô mai trong cổ họng một con chuột nhắt? Hòan cảnh riêng của ông đã phản bội ông; nước da của chính ông, thân thể ông, màu sắc của ông, giọng nói của ông đã không cho ông một cơ hội nào để lọt vào cái thế giới bao la, rực rỡ, nơi mà người ta vuốt ve cái cằm của những vị phu nhân, nơi mà người ta hôn vào miệng các bà ấy, nơi mà người ta siết chặt những bàn tay bằng hữu, và là nơi mà người ta buôn bán những điếu xì gà thơm phức.
Trong khi mải nghĩ ngợi như thế, ông Bénédict đứng bên trên cái thân thể khôi vĩ của Edmund Worth.
Ông cắt cái đầu của Worth ra, đặt nó vào trong một cái quan tài, trên một cái gối nhỏ bằng sa- tanh, mặt ngữa lên phía trên, rồi ông để một trăm tám mươi cân gạch vào trong quan tài, và để một vài cái gối vào bên trong một cái áo đen, với một cái sơ mi trắng và một cái cà vạt; cái mình người được tái tạo như vậy rồi ông cho che phủ tất cả lại, cho tới cằm, với một cái mền bằng nhung xanh. Ảo cảnh thật là hòan hảo.
Sau đó ông đặt cái thân mình vào trong hầm ướp lạnh.
- Khi tôi chết, tôi sẽ để lại những điều lệnh rõ ràng. Ông Worth ạ, để cái đầu tôi được cắt ra và chôn xuống đất, gắn liền vào với thân mình của ông. Vào lúc đó , tôi sẽ có tay phụ tá, y sĩ chấp nhận hòan thành một công việc như thế để kiếm tiền. Nếu người ta không thể có một thân hình xứng đáng cho tình yêu trong cuộc sống của mình, thì ít nhất họ cũng có thể kiếm được một cái trong cõi chết. Cám ơn!
Bằng một cách hung hãn, ông đậy lại cái nắp lên trên Edmund Worth.
Trong thành phố, vì người ta có tục lệ đậy nắp quan tài lại trước khi đem đi chôn; nên ông Bénédict đã nhiều lần có dịp trút những nỗi uẩn ức lên những vị khách bất hạnh, nhiều người đã bị ông nhét nháo nhào vào trong quan tài, và nhiều người khác mặt úp xuống dưới hoặc đang làm những cử chỉ tục tĩu. Ông có sự thích thú kỳ diệu nhất với một nhóm những cô gái già bị nghiền nát bấy trong một cái xe trong khi đi tới một tiệc trà vào buổi chiều. Đó là những mụ ngồi lê nói mách nổi tiếng, lúc nào cũng nói xấu người này hay người nọ. Điều mà những người phụ giúp trong cái đám ma bộ ba đó không biết (ba cái nắp của các cổ quan tài đã bị đóng kín) là giống hệt như khi còn sống, những cô gái đó cũng được xum họp trong cùng một cổ quan tài, thỏa sức cùng nhau mãi mê trong một cuộc ngồi lê nói mách muôn đời, lạnh lẽo và hãi hùng. Hai cổ quan tài khác được nhét đầy đá cuội, vỏ sò và xơ vải. Đó là một tang lễ tốt đẹp. Mọi người đều rơi nước mắt.
- Cuối cùng thì ba người bạn không thể chia lìa này đã phải chia lìa! Mọi người đều thổn thức khóc.
- Vâng, đúng thế! – Ông Bénédict nói, mặt ông làm ra bộ thiểu não.
Không thiếu ý thức về lẽ công bằng, ông Bénédict chôn cất một người giàu hòan tòan trần truồng. Và một người nghèo lại được quấn trong một tấm vải màu vàng, với những đồng tiền vàng năm đô la làm cúc, ông còn đặt thêm cả những đồng hai mươi đô la lên trên mỗi bên mi mắt. Ông nhất định không chôn một ông luật sư, mà lại thiêu ông ta trong cái máy đốt rác, cổ quan tài của ông ta chứa xác một con chồn hôi bị bắt trong bẫy ở trong rừng vào một ngày chủ nhật.
Trong một dịch vụ khác, một cô gái già đã là nạn nhân của một sự sắp xếp ghê gớm. Bên dưới tấm mền đắp chân bằng lụa, những bộ phận của một ông già đã được chôn xuống với cô ta. Cô ta cứ nằm trơ ra như vậy, bị lăng nhục bởi những bộ phận lạnh như băng, trong khi cái bàn tay được che kín bên dưới làm cho cô ta có một sự vuốt ve lạnh như băng giá. Sự chấn động chỉ được nhìn thấy chút ít trên nét mặt cô ta.
Cứ như thế ông Bénédict đi từ cái xác này tới cái xác khác trong cái nhà xác của ông buổi chiều hôm đó, nói với tất cả những người được phủ bằng một tấm vải, kể cho họ nghe từng người một về các điều bí mật của họ. Cái xác cuối cùng của ngày hôm đó là cái xác của một ông Merriwell Blythe nào đó (một người đã có tuổi, đã trải qua những thời kỳ hôn mê). Đã hơn một lần ông Blythe được mang tới vì người ta cho rằng ông đã chết nhưng lần nào ông cũng tỉnh lại kịp thời để ngăn chận một vụ chôn cất quá sớm.
Ông Bénédict kéo tấm vải phủ mặt ông Blythe ra.
Ông Merriwell Blythe nhấp nháy hai mắt.
- A! – Ông Bénédict nói trong lúc để cho tấm vải rơi xuống
- Ông! - tiếng nói bên dưới tấm vải kêu lên.
Ông Bénédict tựa lưng vào tấm đan để cái xác chết nằm lên, bỗng nhiên ông bị chấn động và bệnh họan.
- Cho tôi ra khỏi chỗ này! - Tiếng ông Merriwel Blythe kêu lớn.
- Ông còn sống! Ông Bénédict nói, trong khi kéo tấm vải sang một bên.
- Ôi chà, những điều mà tôi đã nghe thấy, những điều mà tôi đã lắng nghe trong suốt cái giờ vừa qua! – Ông già rên rỉ trên tấm đan, trong khi hai mắt nhìn lấc láo.
“Nằm ở đây, nằm sóng sượt, không thể cựa quây được, và nghe thấy ông tuôn ra những lời như thế! Ôi, cái hạng người tàn độc, tên đểu cáng đáng sợ, đồ quỷ, đồ quái vật, hãy để cho tôi ra khỏi chỗ này. Tôi sẽ kể lại tất cả mọi việc đó với ông thị trưởng, với hội đồng và với tất cả mọi người. Ôi, đồ súc sinh, đồ vô lại hắc ám! Đồ phỉ báng thánh thần, đồ bạo dâm, đồ chó má đồi bại, đồ đểu cáng khủng khiếp, hãy đợi xem tôi kể lại, tôi kể lại tất cả mọi chuyện về ông!”. Ông gìa la lớn, bọt mép sùi lên. – Cho tôi ra khỏi chỗ này!
- Không, ông Bénédict nói trong khi quỳ xuống.
- Ôi, đồ đểu cáng khủng khiếp! – Ông Merriwell Blythe thổn thức khóc.
“Và nói rằng việc này đã kéo dài trong bao nhiêu năm trong thành phố của chúng ta, và không bao giờ chúng ta biết được những việc mà ông đã làm với mọi người! Ôi, đồ quái vật!”
- Không, ông Bénédict nói lẩm bẩm, trong khi cố đứng lên, và lại ngã xuống, tòan thân tê liệt vì sự kinh hòang.
- Những lời ông đã nói ra – ông già gầm lên với một sự khinh bỉ sâu đậm - những hành động mà ông đã làm!
- Tôi đau khổ quá chừng, ông Bénédict nói lẩm bẩm.
Ông già toan ngồi dậy.
- Đừng động đậy! – Ông Bénédict nói, và ông giữ chặt lấy ông ta.
- Buông tôi ra! – Ông già nói.
- Không! – Ông Bénédict nói. Ông cầm lấy một cái ống tiêm dưới da và chích vào cánh tay của ông già.
- Này các ông! – Ông già la lên như một người điên, ông nói với tất cả những người đang được phủ kín bằng một tấm vải. – Hãy cứu tôi!
Nổi cơn điên cuồng, ông nhìn khắp mọi phía. Nhìn ra cửa sổ, nhìn ra cái nghĩa địa ở phía dưới, với những tấm mộ bia của nó.
- Cả các ông nữa, ở bên ngòai kia kìa, dưới những tảng đá, hãy cứu cấp! Hãy nghe tôi đi!
Ông già lại ngã xuống, hơi thở rít lên và bọt sùi ra ở miệng. Ông biết là ông sẽ chết.
- Tất cả mọi người hãy nghe tôi đây! – Ông nói lẩm bẩm. - Hắn đã sĩ nhục tôi và sĩ nhục các ông, tất cả các ông, hắn đã sĩ nhục quá đỗi, quá lâu. Các ông đừng chấp nhận việc đó! Không, chớ để cho hắn hành động cái lối đó nữa!
Ông già thè lưỡi ra liếm đống nước dãi quá nhiều trên môi. Mỗi lúc ông càng trở nên yếu ớt hơn.
- Hãy bắt hắn chịu một sự trừng phạt!
Ông Bénédict vẫn đứng yên tại đó, bàng hòang sửng sốt, và ông trả lời:
- Họ không thể làm gì được tôi. Họ không thể làm gì được sự trừng phạt. Tôi cho rằng họ không thể làm được việc đó!
- Hãy ra khỏi những nấm mồ của các ông đi! - Ông già nói với một giọng khè khè. Hãy cứu tôi! Tối nay, ngày mai, hoặc sớm hơn nhưng các ông hãy đứng lên và ngăn cản không để hắn tác hại. Ôi, con người khủng khiếp này! – Và ông khóc òa lên.
- Thật là điên cuồng, ông Bénédict nói lẩm bẩm như thể đang bị tê cóng. – Ông đang sắp chết đó và ông thật là lố bịch!
Ông Merriwell Blythe không thể động đậy được. Hai mắt ông lồi ra khỏi tròng.
- Hãy đi khỏi, hãy chết lúc này, mau lên!
- Tất cả mọi người đứng lên! Ông già la lớn. Tất cả mọi người xông ra đi! Cấp cứu!
- Tôi xin ông, chớ nói gì nữa, – ông Bénédict nói. - Quả tình tôi không thích nghe những lời đó!
Căn phòng đột nhiên trở nên rất tối tăm. Đêm đã xuống.Trời đã muộn rồi. Mỗi lúc một yếu hơn, ông già vẫn tiếp tục nói mê sảng. Cuối cùng thì ông nói trong một nụ cười:
- Họ biết rất nhiều về sự ngược đãi của ông, con người khủng khiếp ạ. Tối hôm nay họ sẽ hành động.
Rồi ông tắt thở.
Người ta kể lại rằng đêm hôm đó có một tiếng nổ trong nghĩa địa. Hoặc đúng hơn là có một lọat tiếng nổ, một cái mùi của những vật kỳ dị, một sự xung động, hung hãn, cuồng lọan. Đã có rất nhiều ánh sáng và tia chớp, và một thứ mưa; những cái chuông của giáo đường vang lên và ngân nga trong tháp chuông; những hòn đá rơi xuống và những vật thể bay qua không trung; người ta nghe thấy những tiếng va chạm dữ dội và những tiếng la hét; những cái bóng đen trườn bò trên mặt đất, và tất cả những ngọn đèn trong nhà xác đều sáng đỏ rực lên, những vật lạ đi vào và đi ra từng chặp một, to và hình như chúng lướt đi. Những cái cửa sổ tự mở tung ra, và những cái cửa lớn bị giật ra khỏi bản lề; lá cây kêu xào xạc, và cái ngáng bằng sắt kêu kèn kẹt; cuối cùng người ta trông thấy bóng ông Bénédict chạy lăng xăng hết chỗ này đến chỗ nọ, rồi biến mất. Bỗng nhiên các ngọn đèn tắt phụt và một tiếng kêu trong cảnh khảo tra xé tan bầu không khí, tiếng kêu này chỉ có thể tới từ chính bản thân ông Bénédict.
Sau tiếng kêu đó – không còn gì nữa – là sự im lặng. Những người trong thành phố đi vào trong nhà xác buổi sáng hôm sau. Họ lục sóat căn nhà để người chết và giáo đường, và sau đó họ đi ra nghĩa địa.
Và họ không thấy thứ gì khác ngòai máu, một lượng máu lớn được vẩy lên phun ra, rải ra khắp mọi nơi, làm như trong suốt cả đêm trời đã chảy ra rất nhiều máu.
Nhưng không có một dấu vết nào của ông Bénédict cả.
- Ông ta có thể ở chỗ nào? - Tất cả mọi người đều tự hỏi.
- Làm sao chúng ta biết được ông ấy ở đâu? – Họ đều bối rối trả lời.
Và cuối cùng họ đã có đáp án.
Trong lúc đi ngang qua nghĩa địa, họ ở trong bóng râm dày đặc của cây cối, nơi đó có những nấm mộ, hết dãy này tới dãy khác, đều cũ kỹ, mòn mỏi vì thời gian, và tất cả đều xiêu vẹo, không có một con chim nào hót trong những lùm cây. Cuối cùng thì mặt trời cũng xuyên thủng được đám lá cây dày rậm, trông nó giống như ánh sáng yếu ớt của một cái bóng đèn điện nhỏ.
Họ dừng lại gần một tấm mộ bia.
- Đây rồi! - Họ cùng kêu lên.
Những người khác cũng dừng lại và cúi xuống trên một phiến đá xanh nhạt, lốm đốm rêu, và họ thốt ra những tiếng kêu.
Vừa mới được viết nguệch ngọac lên, như thể bởi những ngón tay điên lọan (thật sự chữ viết rất mới và hình như được viết nguệch ngọac bằng những ngón tay) một hàng chữ kéo dài: Ông Bénédict
- Trông kìa! - Một người nào đó la lên.
Tất cả mọi người đều quay đầu lại.
- Cái này, cái này, và cái này, và cái này nữa! - Một người đàn ông kêu lên, lấy ngón tay chỉ bốn ngôi mộ khác.
Tất cả mọi người đổ xô tới xung quanh chỗ đó để nhìn, rồi mọi người cùng có một cử động chung là lùi lại.
Trên mỗi ngôi mộ đều được viết nguệch ngọac bằng những nhát móng tay, cùng một hàng chữ đó xuất hiện: Ông Bénédict
Những người trong thành phố đều sững sờ kinh ngạc.
- Nhưng không thể như vậy được, một người trong bọn họ phản đối một cách yếu ớt. Ông ta không có thể được chôn dưới tất cả những ngôi mộ này!
Họ dừng lại ở đó, trong một lúc lâu, một cách không định tâm, họ cùng nhìn nhau với vẻ nôn nóng, áy náy trong sự im lặng và bóng tối của những cái cây. Tất cả bọn họ đều chờ đợi một đáp án. Từ cặp môi vụng về và vô cảm, một người trong bọn tự trả lời một cách đơn giản:
- Có bao giờ người ta biết được không?