Chuế Tế (Ở Rể) Tác giả: Phẫn Nộ Đích Hương Tiêu
Quyển 1: Gió sớm Giang Ninh
-----oo0oo-----
Chương 15: Nhận thức muộn màng
Dịch: Trần Mộ
Biên tập: Thuan0
Nguồn: TTV
Xe ngựa tiến vào Tô phủ từ cửa bên, vừa lúc gặp được đoàn người của nhị thúc uống rượu say tới bảy tám phần quay trở về. Tô Đàn Nhi được hỏi mấy câu về chuyện tối nay, đại loại là hội thơ có thật vui không,.. Tô Đàn Nhi vẫn thong thả ứng đáp.
Đến lúc này đã có rất nhiều bài từ được truyền lan trong thành, Thủy Điệu Ca Đầu tất nhiên là tác phẩm xuất sắc, nhưng muốn tạo thành chấn động hoặc đạt được mỹ danh quán tuyệt đêm nay tạm thời là không thể. Mấy câu giáo huấn của Khang Hiền bên hội thơ Chỉ Thủy vẫn còn chưa lan truyền, trong con mắt của bình dân, những bài từ tuyệt tác nhìn chung là chênh lệch không đáng kể. Mọi người đều đánh giá bài từ này tuy hay, nhưng so với đám Tào Quan cùng Lý Tần thì cũng chỉ suýt xoát. Có lẽ bởi những người này thấy vị tài tử kia không danh tiếng nên bọn họ mới đánh giá thấp bài Thủy điệu ca đầu, chỉ những người có tài học chân chính mới nhận ra độ sâu sắc của bài từ này đã tới mức phản phác quy chân, cảm nhận được chênh lệch.
Đêm nay Tô Trọng Kham chỉ cùng người bàn chuyện làm ăn, chơi gái, uống rượu,... thơ phú lão vốn không mấy quan tâm, những chuyện liên quan tới Ninh Lập Hằng tất nhiên chưa truyền đến tai lão. Thúc cháu hai người đứng nói chuyện vài câu rồi tách ra, bốn người chủ tớ Tô Đàn Nhi một đường trở lại tiểu viện. Ngoại trừ đèn lồng lớn còn sáng trước cửa viện, trong sân đã hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có ánh trăng như nước trên trời cao chiếu xuống.
Tô Đàn Nhi nhìn về phía gian phòng đang chìm trong bóng tối ở lầu hai vài lần, tiểu Thiền hỏi:
- Tiểu thư có muốn em đi gọi cô gia..
- Không cần. Tướng công đã ngủ, không cần đánh thức. Thiền nhi chuẩn bị nước ấm. Hạnh nhi Quyên nhi, các em đi ngủ sớm đi.. Thiền nhi, nếu em còn tỉnh táo thì kể cho ta nghe cố sự mà cô gia kể cho em có được không?
Thiền nhi cười gật đầu, ở bên Quyên nhi cùng Hạnh nhi cũng vội phản ứng.
- Tiểu thư tiểu thư, chúng em không mệt.
- Chúng em cũng muốn nghe.
Nàng hơi bực bội nhìn hai đứa nha đầu một chút, rồi cười nói:
- Vậy thì cùng nghe. Ài, Nói đến lại nhớ, lâu lắm rồi chưa được nghe kể chuyện.
- Nhớ hồi bé tiểu thư cầm sách giảng chuyện xưa cho chúng em..
- Đúng đúng rồi, em còn nhớ mà..
Mấy nữ hài tử líu lo, sau đó Tô Đàn Nhi lên lầu, Quyên nhi với Hạnh nhi cùng đi giúp Thiền nhi đun nước ấm, bưng bồn gỗ và khăn mặt lên.
Nơi thành thị đèn đuốc xa xa dần an tĩnh, trong sân tiểu viện tĩnh lặng, ngọn đèn vàng bập bùng trong phòng hắt lên cửa sổ lầu hai bóng hình chủ tớ ở trong đang chuyện trò nói cười khe khẽ.
Không biết đã được bao lâu, đêm đã rất khuya ba ả nha hoàn mới đi ra khỏi phòng, sau đó đóng cửa lại rồi đi xuống lầu. Trở lại gian phòng của mình, sau khi đóng cửa Thiền nhi liền nhẹ nhàng tựa cửa, hai tay ôm ngực, ngẩng đầu hít sâu một hơi, trên khuôn mặt hồn nhiên có thêm phần thần sắc phức tạp, là hài lòng, là nghi hoặc, là sợ hãi, là ước mơ,…
Tô Đàn Nhi đã dạy cho nàng rất nhiều chuyện. Bởi vậy, trong lòng nàng tự nhiên cũng không hoàn toàn thuần túy. Cũng có những tâm tư nho nhỏ, chẳng qua những tâm tư nho nhỏ này đều là suy nghĩ về của những người thân yêu bên cạnh, như tiểu thư, như Tô gia, hoặc như bây giờ còn thêm vào cả Ninh Lập Hằng nữa.
Trước đây nàng có thể vì họ Tô mà phản bác Tần lão ở chỗ đánh cờ ven sông. Đoạn thời gian này đi theo Ninh Nghị, tuy tính tình của Ninh Nghị đạm bạc nhưng sinh hoạt ngày thường vẫn có những niềm vui thú riêng. Những chuyện đã làm, tuy rằng không phải là chính sự gì nhưng gã vẫn làm nhẹ nhàng thanh thoát như người lòng đầy hoài bão. Ninh Nghị cư xử hòa nhã với nàng, nàng tự nhiên cũng rất thích.
Mặt khác, đối với tiểu thư tình cảm của nàng không chỉ là mến mộ mà còn có cảm kích cùng tâm tình báo ân các loại, có thể coi là vô cùng vô cùng yêu quý. Nàng rất rõ nỗi khổ trước đây của tiểu thư, cũng biết rõ tiểu thư yêu thích thứ gì. Bây giờ nếu tiểu thư đột nhiên phát hiện cô gia không phải là con mọt sách như lời đồn thổi, tất sẽ nghĩ đến chuyện thực sự cùng cô gia thành vợ thành chồng. Nếu bọn họ yêu thương lẫn nhau, hai bên tự nhiên mà tiến tới đương nhiên là tốt nhất. Chuyện nàng muốn làm cũng không nhiều, để tiểu thư biết được chuyện của cô gia, lại để cho cô gia biết được tiểu thư là người tốt, đó chính là nhiệm vụ của nha hoàn thiếp thân như nàng.
Nàng biết tiểu thư yêu thơ phú, chỉ là những thứ trước đây cô gia viết ra không thể dùng được, thậm chí đôi khi nàng còn cảm thấy chắc cô gia cố ý đùa cợt mới viết ra những thứ kia. Đêm hôm nay thấy cô gia sáng tác ra bài Thủy Điệu ca đầu, Tuy nàng không học nhiều nhưng cũng đủ để phát hiện bài từ này câu cú rất tuyệt. Chợt phát hiện được bảo bối, nàng lập tức cầm đi tới hội thơ Bộc Viên, ý định tìm thời điểm thích hợp đưa cho tiểu thư đọc, rồi sau lại thấy Tiết Tiến mò tới, hiểu được chuyện gì sắp xảy ra chuyện nàng mới thuận nước đẩy thuyền mà lấy bài thơ ra. Cho dù hế nào bài từ này cũng rất tuyệt, không hay mới là chuyện lạ.
Chỉ là nàng không ngờ được, trong con mắt của mọi người, bài từ này lại hay đến mức ấy.
Nếu trước đó nàng có được khái niệm chính xác, chắc chắn nàng sẽ không lấy bài từ này ra tùy tiện như vậy. Bây giờ nghĩ lại, cứ tưởng là để cho tiểu thư thấy được tài văn chương của cô gia, ai ngờ lại phản tác dụng – xem ra tiểu thư cũng bị dọa khiếp, lúc trên thuyền bộ dáng không thể ngờ khiến nàng cũng thấy chột dạ. Vốn là muốn dành cho tiểu thư một bất ngờ nho nhỏ, ai biết bất ngờ quá lớn, chính mình cũng bị dọa khiếp..
Ài, chuyện này làm sao bây giờ..
Lửa đèn như hạt đậu bập bùng, cơn buồn ngủ chưa tới, tiểu Thiền hai tay nâng cằm ngồi cạnh bàn suy nghĩ. Trên tay nàng chính là nguyên bản bài Thủy điệu ca đầu do Ninh Nghị viết cho nàng, khiến nàng phải nhìn đi nhìn lại.
Cô gia ơi, người có tài là tốt lắm rồi, chẳng cần cao tới mức này đâu.. mấy chuyện thế này, ngày mai tiểu Thiền làm sao nói cho người biết được đây cơ chứ..
Quả nhiên là cô gia sai rồi.
Nàng bĩu môi, vươn ngón tay nhè nhẹ chọc vào tờ giấy hai lần. Lúc nhìn tới câu cuối cùng, sắc mặt dần dần lại đỏ, sau đó cầm tờ giấy lên cẩn thận gấp lại rồi cất vào tầng đáy của ngăn kéo.
Thổi tắt ngọn đèn, trên mặt nàng càng lúc càng nóng, càng nóng càng xoa, rồi chậm rãi chìm dần vào trong giấc ngủ.
“Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên.. hi”
o0o
Buổi sớm, sương trắng tràn ngập thành Giang Ninh, những hạt sương mù long lanh bắt đầu tà tà bay trên mặt đất lộ ra tia nắng ban mai tươi đẹp.
Trải qua một giấc, Ninh Nghị cảm thấy thần thanh khí sảng, tinh thần đã khôi phục gần như hoàn toàn. Nghỉ thêm một ngày nữa, hôm sau là có thể lên lớp rồi. Ngày hôm nay làm gì nhỉ? Chắc là đưa người gỗ với bao cát từ hộ viện qua đây, cái thân thể này đã yếu đuối nhiều năm, không rèn luyện triệt để một phen là không được.
Quản sự quản lý hộ hình như là họ Trương, căn cứ vào bầu không khí nhà họ Tô bây giờ mà đoán thì Tô lão thái công vẫn còn chiếu cố mình, chỉ là cần phải suy tính xem chuyện đem người gỗ, bao cát các loại vào trong viện có làm cho Tô Đàn Nhi các nàng bị chấn động quá lớn không?! Một kẻ thư sinh chạy bộ còn không xong, đột nhiên nói muốn luyện võ công, phỏng chừng các nàng sẽ nghĩ mình hoang tưởng.
Muốn cho các nàng hiểu được mình có đôi chút khác biệt với người thường, có lẽ phải từ từ mới được, chuyện này có vẻ hơi nhanh. Trong lòng Ninh Nghị ngầm cân nhắc những điều này. Sau đó, trong lúc húp bát cháo thịt buổi sáng, gã thấy hình như Tô Đàn Nhi cứ nhìn chằm chằm vào mình, ánh mắt có vẻ kỳ quái.
Liếc qua liếc lại mấy lần, một lát sau Ninh Nghị buông bát, cùng thê tử nghi hoặc nhìn nhau một lúc:
- Có chuyện gì à?
- Không có.
Tô Đàn Nhi khẽ cười nhẹ, lắc lắc đầu.
- Chỉ là, thấy tinh thần của tướng công sáng nay rất tốt thôi.
- Ồ, bệnh tình xem ra đã khỏi, khục.. cổ họng hình như vẫn còn hơi rát, chắc qua hôm nay là ổn, mai có thể đi tới thư viện được rồi.
- Sức khỏe không có vấn đề gì là được rồi. Mấy hôm tới đây, e rằng tướng công sẽ rất bận rộn đó.
- Bận rộn?
- Vâng.
Tô Đàn Nhi gật đầu một cái, không giải thích nhiều, cái miệng nhỏ vô cùng ôn nhu húp cháo. Nghi quá, Ninh Nghị cảm thấy khóe miệng nàng sao giống nụ cười của nàng Mona Lisa đến thế..
Vậy có chuyện gì đây? Thư viện giao cho ta thêm công việc ư? Trong đầu Ninh Nghi quay cuồng những suy đoán về ẩn ý trong lời nói của đối phương, mãi cho đến lúc trở về phòng, tiểu Thiền rụt rè đi tới khai báo với gã chuyện tối ngày hôm trước, rốt cục gã mới hiểu được tâm tình ẩn hàm trong ánh mắt thê tử.
- Dạ, thật có lỗi với cô gia. Tiểu Thiền chỉ là muốn.. chỉ là muốn cho tiểu thư đọc mà thôi, ai ngờ cái tên Tiết Tiến kia quá ghê tởm..
Ninh Nghị hơi trợn mắt há mồm nghe nàng nói, rồi vẻ mặt cũng bình tĩnh trở lại, sau một thoáng suy nghĩ liền bật cười thú vị.
- Ồ, không sao đâu. Chuyện cũng không lớn.
Thấy gã không tức giận, Thiền nhi cao hứng gật đầu nói:
- Đúng rồi, cô gia tài hoa..
"Cốc"
Ngón tay Ninh Nghị gõ lên trán của nàng một cái.
- Ai nói ta có tài?! Sau này không được nói với người khác như vậy.
“Xem ra, hôm nay hẳn ta không ra ngoài được!”
Ninh Nghị suy nghĩ một chút rồi nở nụ cười:
- Xem ra phải ốm thêm mấy ngày nữa mới được…
Ánh nắng chiếu qua song cửa, Ninh Nghi cầm lấy một quyển truyện rồi đi trở lại giường, giả bộ bệnh phải nằm bệt một chỗ. Một lát sau vẫy vẫy tay, lúc này tiểu Thiền mới hết thấp thỏm trong lòng, vui vẻ chạy tới góc phòng lấy hộp cờ vây cùng bàn cờ dùng để chơi cờ năm quân mang tới.
Đêm qua Trung thu nhiều người ngủ muộn nên sáng nay cũng lười dậy khỏi giường, thành Giang Ninh đại khái phải mất nửa canh giờ mới nhộn nhịp lại như mọi ngày. Đến tận quá trưa, chuyện xảy ra ở hội thơ Chỉ Thủy mới dần lan tỏa, ảnh hưởng của bài Thủy điệu ca đầu mấy ngày sau mới tạo nên cơn chấn động trong thành Giang Ninh, rồi theo thời gian càng ngày càng lan rộng..
Sau Trung thu, thời tiết ở thành Giang Ninh nắng ráo được hai ngày rồi chuyển sang âm u, trên đường phố gió thu se lạnh cuốn lá vàng khiến cho thành thị náo động thêm phần hiu quạnh.
Đương nhiên, trong con mắt của phần lớn người dân thành thị vẫn là dáng vẻ như thường ngày. Mùa thu là như vậy, nước sông một màu xanh ấy, thuyền hoa như cũ, vẫn tiếng chèo khuấy nước, tiếng liễu rủ lao xao, gió cuốn lá rụng lên rồi lại thả xuống sông, theo sóng nước dập dềnh mà trôi về phương xa. Đường phố người ngựa lại qua, áo xanh, kiệu nhỏ, muôn vẻ những người buôn bán dạo. Đường to ngõ hẹp, thềm đá dài dài, cầu gỗ xíu xiu bắc qua dòng nước chầm chậm trôi. Trên bờ thềm đá, vẫn thiếu nữ đang ngồi giặt áo, vẫn cảnh chuyện phiếm nói cười, trà lầu yến tiệc, tửu quán thơm hương.
Đại đa số mọi người vẫn hối hả bận rộn vì sinh nhai, hiển nhiên đó là một phần không thể thiếu của cuộc sống. Nhưng nếu tới nhàn đình, hay ngồi trà quán, hay ở quán cóc ven đường mà vô tình nhắc tới những lời đồn thú vị gần đây, chắc chắn không thể thiếu được chuyện đêm Trung thu mấy ngày trước. Mà trong đó, được nhắc tới nhiều nhất lại chính là xuất xứ của bài Thủy Điệu ca đầu cùng chuyện lý học đại gia Khang Hiền tức giận mắng mọi người trong hội thơ Chỉ Thủy.
Một vở kịch phải có mở có kết, có nguyên nhân bắt đầu để diễn biến dẫn tới kết thúc, tình tiết và diễn biến phải khiến người xem cảm thấy phù hợp và ngóng trông. Thơ cũng vậy,nếu chỉ là vần thơ thể hiện chí ở bốn phương của một vị tài tử nào đó thì mọi người cũng nghe đã mòn, nhưng nếu trong thơ còn có giai nhân, thơ sẽ được tăng thêm mấy phần hấp dẫn, mà bài Thủy Điệu ca đầu này lại hội đủ những điều kiện như vậy. Mọi người yêu thơ, nhưng cũng thích những sự tích như thế. Mấy ngày qua, từ thanh lâu, tửu quán tới bàn trà, khi các cô nương xuất hiện, không thể không thiếu khúc “Mấy lúc có trăng thanh?” cùng những lời bình về những điểm diệu kỳ trong bài thơ.
Tin tức về tác giả của bài thơ đến nay vẫn còn trong suy đoán, chưa có nguồn tin nào đáng tin cậy được truyền bá.
Tô phủ, Ninh Nghị, Ninh Lập Hằng, người đi rể ở Tô phủ.
Mấy câu răn dạy của Khang Hiền trong hội thơ Chỉ Thủy đã khẳng định Thủy Điệu ca đầu là kiệt tác, nhưng trong lòng người dân vẫn còn nghi hoặc: vậy sao trước đây danh tiếng của y không có, sao phải đi ở rể trong một nhà thương nhân. Và quan trọng nhất là: bài ca này của y liệu có phải là mua được hay đạo văn từ đâu đó không?! Đây chính là sự tình được các nhà bàn luận quan tâm nhất.
Lời gièm pha nhiều hơn so với khen ngợi, khuynh hướng trong lòng mọi người thường là như vậy. Lời đồn văn nhân đi mua thơ đổi lấy danh tiếng không phải là không có, khi nhắc đến mọi người đều có chiều hướng suy đoán như vậy. Dù sao đi chăng nữa, thân phận của người ở rể vốn thấp kém, thậm chí có thể nói là không có cốt khí, không biết nhục nhã, từ bỏ tổ tông. Những người có chút ngạo khí đều không làm như vậy.
Nhưng mấy ngày này cũng có giả thuyết nói: Nhị tiểu thư Đàn Nhi của Tô phủ thiên tư quốc sắc, ôn nhu phóng khoáng, Ninh Nghị vừa gặp đã thương, bởi tương tư sâu nặng mà cam nguyện ở rể. Nhưng trong thời đại trọng nam này, người tin tưởng câu chuyện này đã ít lại càng ít. Trong cái xã hội chơi gái thành phong trào, phụ nữ chỉ là hàng hóa, một nữ nhân đạt được tới mức độ này ai có thể tin tưởng?! Lui lại một bước mà nói: kể cả có người tin tưởng, nhưng nếu người kia vô tài bất học thì chẳng nói làm gì, đằng này lại có thực tài mà vẫn chịu đi ở rể, vậy thật là một chuyện đáng để cho trời giận người chê, uổng cho một thân nam nhi, uổng cho công đọc sách thánh hiền, thậm chí là uổng cho kiếp làm người.
Ở thời đại này, mọi người vẫn thích dạng chuyện: nam nhân kim bảng đề danh, vinh quy về cưới nữ tử. Chuyện vì một nữ nhân mà vứt bỏ tương lai như vậy thật khiến mọi người không thể chấp nhận được.
Bởi vậy, mấy ngày gần đây, suy đoán của mọi người thường thiên về mặt trái của nó, trong đó ở rể chính là nguyên nhân. Đương nhiên bây giờ còn chưa xuất hiện kết luận. Sau khi suy đoán xong, tâm lý mọi người vẫn giữ lòng hiếu kỳ đợi tin tức mới. Còn về chất lượng bài Thủy Điệu ca đầu cùng tài hoa của tác giả, mọi người vẫn tiếp tục kinh thán, độ nóng của nó vẫn tăng hàng ngày: trong mấy ngày qua, những từ ca ngợi nó vẫn không ngừng phát triển. Trong đợt đấu thơ Trung thu lần này, danh tiếng cùng lời phẩm bình về nó vượt xa những bài còn lại, tình huống này đã nhiều năm chưa từng xuất hiện.
Nơi náo nhiệt nhất sông Tần Hoài là miếu Phu Tử - khu vực trường thi thơ, cùng với các quán thanh lâu bên bờ sông đối diện. Lúc này mới qua buổi trưa, những chỗ này vẫn chưa mở rộng cửa nhưng mọi người cũng đã thức dậy rời giường. Đi dạo ở dưới phố đã có thể thấy một vài cô nương trên lầu hoặc một mình tựa cửa, hoặc đang chuyện phiếm chơi đùa, từ trong tường viện mơ hồ truyền ra tiếng sáo trúc thoang thoảng.
Những tiếng nhạc này phát ra do những cô nương đã học nhạc lý vài năm đang luyện tập, các tiểu cô nương này được thanh lâu an bài theo sư phụ học tập một cầm khúc. Lúc này, trong nội viện của Kim Phong lâu, khóa học dạy đàn đã sắp kết thúc, mấy cô bé vẫn còn đang chăm chú biểu diễn khúc nhạc vừa được truyền thụ, vị nữ sư phụ váy vải, trâm cài trên tóc, y phục mộc mạc đang ngồi ở trước cái bàn nhỏ, nghiêng cằm nghe đàn.
Nàng ước chừng hai mươi tuổi, tuy ăn mặc mộc mạc không sánh được với những mầu sắc rực rỡ của gái thanh lâu, nhưng diện mạo của nàng cực kỳ xuất chúng: khuôn mặt trái xoan thanh nhã, đôi mi thanh tú, khí chất thanh thoát. Nàng ngồi đó lặng lẽ nghe đàn, thân ảnh làm cho người ngắm cảm giác như đang ngắm bức tranh thủy mặc, so với những bé gái học đàn ở dưới thì xuất chúng vượt hơn nhiều lắm.
Dựa theo qui trình thường ngày, đợi cho khúc nhạc được đàn xong nàng sẽ chỉ điểm thêm một lần cuối. Buổi học hôm nay cũng chỉ tới đây, nhưng ngay khi lúc nàng đang chuẩn bị thu dọn đồ, mấy bé gái ngồi dưới nhìn nhau vài lần, rồi một bé cười nói:
- Vân Trúc tỷ, Vân Trúc tỷ, tỷ có thể dạy chúng em hát bài Thủy Điệu ca đầu được không?
- Gì cơ? Thủy Điệu ca đầu..
Cô gái được gọi là Vân Trúc hơi ngẩn người rồi nhướn mắt nhìn các nàng phía dưới một lượt, không rõ vì sao các nàng lại muốn học bài ca vừa được cô bé nhắc tới.
- Mấy hôm vừa rồi khách nhân đều thích nghe bài này..
- Chính là bài trong đêm trung thu..
- Chúng em cũng rất thích.
Cô gái nghe tới đó mới hiểu:
- Trung thu? Lần trung thu này có ra được một bài thơ hay sao?
- A? Vân Trúc tỷ, tỷ còn chưa biết sao?
- Dạo này có việc nên tỷ không để ý tới trung thu..
Cô gái mỉm cười, chỉ là ẩn dưới nụ cười này có chút mệt mỏi. Nhưng e rằng mấy nữ hài tử trước mắt này chưa thể nhìn ra được.
Tiếp theo mấy cô bé ríu rít lấy ra quyển sách có chép bài Thủy Điệu ca đầu, cô gái ngồi đó mấp máy môi đọc từng câu từng chữ, nàng thực sự nhận ra chỗ hay của bài thơ này. Chỉ một chốc lát sau, thần tình của nàng trở nên chăm chú, trong lúc đó mấy nữ hài tử ở dưới bắt đầu kể lai lịch của bài thơ đêm đó.
- Đáng tiếc người kia lại tới nhà người ta ở rể.
- Đúng vậy, là một người ở rể..
- Bây giờ mọi người đều nói bài ca này là do mua mà có..
- Nhưng lời ca thực sự rất hay nha..
“Mấy lúc có trăng thanh?
Cất chén hỏi trời xanh:”
Líu líu lo lo, các cô bé ngồi ở dưới mỗi người một lời kể lại lai lịch cùng bối cảnh, rồi xướng lên lời bài hát. Tuy âm luật của các cô bé mới dừng ở mức đang học, nhưng do các đàn chị trong Kim Phong lâu ngày nào cũng xướng bài này nên hát nó không khó. Sự thực là trong lâu cũng đã có khúc phổ dành cho bài Thủy Điệu ca đầu này, các cô bé đã học các phép gảy, tự mình cũng có thể đàn, nhưng nếu được người dạy dỗ thì mới là tuyệt nhất.
“Người ở rể ư..”
Sau khi Vân Trúc xem xong, nghe mọi người giảng giải xong mới cười nói:
- Nói như vậy, Thủy Điệu ca đầu này hẳn là các em đều đã thuộc?
- Chúng em cũng đã gảy theo, nhưng có những chỗ đàn không hay..
- Ừm, khúc nhạc học xong mới gảy được, Thủy Điệu ca đầu này có một số điểm đặc biệt, khi hát nó lên cũng có thể biến hóa đơn giản mẫy chỗ, ta sẽ dẫn các em biểu diễn một lần, rồi mới giảng giải..
Nghe vậy, các cô bé lại trở về ngồi trước đàn, Vân Trúc nhìn quanh một vòng, ngón tay án lên dây dao cầm, khuôn trăng nở nụ cười nhẹ nhàng u nhã như sương như khói, rồi đầu ngón tay khẽ gảy một cái.
- Mấy lúc có trăng thanh?
Tiếng đàn khắp nơi vang lên trong phòng, đồng diễn nhiều người là việc mà phần lớn mọi người chưa quen thuộc, đáng lẽ phải hỗn loạn, nhưng nhờ có tiếng đàn ưu mỹ ổn định nhất dẫn dắt mà dàn nhạc đã thành giai điệu, tuy to nhỏ khác nhau nhưng ý cảnh mỗi tiếng đàn vẫn hoàn toàn đồng hóa với các tiếng nhạc còn lại. Tiếp theo, chất giọng ngọt ngào dẫn xướng mọi người cũng vang lên, nếu lúc này có người tinh nghề tới chơi, hẳn sẽ nhận thấy đạo nhạc cũng chất giọng này xuất sắc hơn so với tuyệt đại đa số các cô gái trong Kim Phong lâu nhiều lắm, thậm chí so với người đứng đầu Kim Phong lâu bây giờ là Nguyên Cẩm Nhi cũng không thua kém chút nào.
Chất giọng của Nguyên Cẩm Nhi đi theo hướng nhẹ nhàng hoạt bát linh hoạt, còn chất giọng này lại như êm đềm như dòng nước chảy xuôi khiến tâm hồn người nghe thanh thản lắng đọng. Sau khi tiếng đàn vang lên, một vài cô nương ở xung quanh cũng hướng về, từ xa xa mà nghe nhạc. Đến lúc khúc ca kết thúc mới có ai đó thốt lên:
- Là Vân Trúc tỷ..
- Giọng ca của Vân Trúc tỷ vẫn hay như ngày nào..
Hoặc bội phục hoặc đố kỵ. Không bao lâu, buổi học kết thúc, các cô bé vẫn tự mình luyện tập. Cô gái áo quần mộc mạc cầm túi nhỏ bước ra khỏi phòng, xuyên qua hành lang, chào hỏi qua loa cùng mấy người quen cũ rồi tới phòng ma ma nhận phí giảng bài. Trên đường rời đi, nàng gặp Nguyên Cẩm Nhi ở hành lang ngoài.
- Vân Trúc tỷ.
- Cẩm Nhi muội muội.
- Mới vừa rồi muội ở trên lầu nghe được Vân Trúc tỷ hát. Quả thật là bài Thủy Điệu ca đầu này phải do Vân Trúc tỷ hát mới hay, Cẩm Nhi vẫn cảm thấy mình không đồng điệu, hát lên nghe cũng chưa đạt.
Nguyên Cẩm Nhi năm nay mười bảy tuổi, tính tình lanh lẹ hoạt bát, hai bên hàn huyên vài câu rồi nàng mới thu lại nụ cười sán lạn, nhẹ giọng hỏi:
- Vân Trúc tỷ, Hồ Đào muội muội thế nào rồi?
- Mấy ngày nay đã khỏe hơn rồi, chắc mất thêm mấy ngày nữa bệnh tình mới khỏi hẳn.
- Vậy cũng tốt..
Nguyên Cẩm Nhi gật gật đầu, nhìn quanh thấy không có người, nàng mới lấy từ trên người ra một gói nhỏ:
- Vân Trúc tỷ, em biết tính tình của tỷ, nhưng Hồ Đào muội muội không ngờ phát bệnh, hẳn là cần gấp. Ở đây có chút tiền mong được tỷ tỷ thu nhận, lúc trước tỷ tỷ chiếu cố cho Cẩm Nhi, trong lòng Cẩm Nhi vẫn nhớ..
Nàng muốn đưa túi tiền nhỏ đặt vào tay đối phương, nhưng Vân Trúc từ chối. Tuy rằng rất cảm động, nhưng cuối cùng nàng vẫn không nhận lấy.
- Bệnh tình của Hồ Đào đúng là đã tốt lên rồi, nếu không tỷ tỷ nhất định sẽ lấy để chống đỡ. Cẩm Nhi muội muội nên tích cóp tiền bạc, nếu có một ngày nào đó có thể chuộc thân cho chính mình, thì lúc đó mới tự do tự tại được..
- Muội không có được tâm tính như tỷ tỷ.
Hai người vừa mới đề cập tới tiếng lòng, viền mắt đã hồng lên đôi chút. Nguyên Cẩm Nhi lấy ngón tay gạt khóe mắt, nở nụ cười:
- Bây giờ Cẩm Nhi đã tới dạng này, cũng định là tìm lấy một nam nhân nào đó dựa dẫm, tiền bạc ở bên người kỳ thực cũng không có nhiều chỗ sử dụng. Huống hồ cũng không nhiều, muội còn có..
- Nếu có thể gặp được tài tử nào ưng ý..
- Cẩm Nhi mới là người không nơi nương tựa không tích cóp, chỉ có thể dựa vào miệng lưỡi, lời ngon tiếng ngọt mà kiếm miếng ăn. Vốn là mệnh: làm thiếp, làm tỳ, vẫn muốn là tìm một ai đó có tiền tài có địa vị để dựa vào, cũng may bây giờ có được chút danh, muốn gả đi cũng không quá khó..
Mỗi người một chí hướng riêng, dọc đường đi ra hai người tâm sự với nhau, nhưng cuối cùng vẫn phải chia tay tại cửa bên của Kim Phong lâu. Nguyên Cẩm Nhi cười vẫy tay, mãi cho đến khí bóng dáng của đối phương biến mất mới hạ tay xuống.
Cũng có chút ước ao, cũng có chút thở dài, nàng cũng không rõ tâm tình của chính mình cho lắm.
Cô gái được gọi là Vân Trúc tỷ tên là Nhiếp Vân Trúc, mấy năm trước cũng là một trong những cô gái danh giá nhất Kim Phong lâu; tài đàn, giọng hát, văn thơ, thư họa đều là nhất tuyệt, chỉ là nàng tâm tính đạm bạc, những lần Tần Hoài thi tuyển hoa khôi nàng cũng không chịu tham gia, bởi vậy danh khí thủy chung không vào hàng nổi nhất. Hai năm trước, sau khi tích góp đủ tiền bạc, nàng tự chuộc thân cho mình cùng nha hoàn Hồ Đào rồi tìm một nơi định cư. Cho tới hôm nay, thỉnh thoảng vẫn có người tới Kim Phong lâu hỏi hàng.
Các nữ nhân thanh lâu khác, dẫu có chuộc thân cũng thường giữ quan hệ cùng khách quen, vẫn cùng tài tử tham gia các hội thơ hội văn, nhưng Vân Trúc lại khác, hầu như nàng đoạn tuyệt với những con người trong dĩ vãng. Sau hai năm không xuất hiện, nàng cũng đã nhạt phai trong thế giới thanh lâu đơn bạc: chào khách đến-tạm biệt khách đi, chỉ là vẫn nhận làm người dạy đàn, coi như là kiếm một chút phí sinh hoạt.
Thực sự thì tiền kiếm được bằng việc dạy đàn không nhiều, nếu nàng không dạy, trong lâu cũng có rất nhiều người có thể đảm nhiệm được. Hai năm trước, sau khi chuộc thân nàng vẫn còn dư chút tiền bạc, nhưng tới bây giờ nghe đồn tình hình không được tốt lắm. Chủ tỳ hai người trước đó cả đời sinh hoạt trong thanh lâu, Hồ Đào tuy cũng là người hầu nhưng có nhiều chuyện liên quan đến đời sống vẫn không hiểu. Sau hai năm, tiền bạc cũng đã cạn, các nàng chỉ có thể nhận làm một số việc trong thanh lâu. Gần đây nghe nói Hồ Đào phát bệnh, cuộc sống của hai người xem chừng không ổn, cảm kích trước sự chiếu cố trước đây nên Nguyên Cẩm Nhi mới xuất ra chút tiền giúp đỡ. Lượng tiền tuy không nhiều, nhưng không ngờ đối phương vẫn không chịu nhận.
Nữ nhân mà! Trên thế giới này làm gì có được bốn chữ tự do tự tại! Thanh lâu cứ tưởng phong quang.
“ Ngũ lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.” (1)
Ai tính trước được, có lẽ cuối cùng kết cục vẫn chỉ là số tỳ phận thiếp, liệu có ai dám cưới một nữ nhân thanh lâu về làm chính thê mà chờ với đợi?! Vân Trúc tỷ tâm tính cứng cỏi, bằng như chính mình nếu tự chuộc thân ra ngoài, một nữ nhân yếu đuối không có chỗ dựa trong cõi đời này, sợ là kết cục cuối cũng vẫn chỉ là trở lại với thanh lâu mà thôi vậy.
Nàng nhẹ thở dài một tiếng, xoay người rời đi..
o0o
Sau khi rời khỏi dược điếm, Nhiếp Vân Trúc bỏ tiền dư vào túi áo sát trong người.
Thêm vào tiền bán cây trâm cũng có thể chi tiêu thêm một thời gian. Điều khiến nàng yên tâm nhất chính là: bệnh tình của Hồ Đào cuối cùng đã khỏi, đây là điều mừng nhất.
Hai năm rời khỏi thanh lâu vừa rồi, hai người cũng không có bao nhiêu kinh nghiệm sống độc lập. Tuy lúc còn bé Hồ Đào sống rất cơ cực, nhưng đã ở thanh lâu nhiều năm nên đọng lại chỉ là ký ức, có thể nấu cơm luộc đồ đã là quá tốt rồi. Cuộc sống tạm bợ của hai chủ tớ cũng đã được một thời gian, tuy có làm một số công việc công nhật như dạy đàn ở Kim Phong lâu, nhưng tới nay vẫn là thu không đủ chi. Cho tới bây giờ, tuy tiền bạc còn lại không nhiều, nhưng chỉ cần Hồ Đào khỏe trở lại, hai chủ tớ cùng làm việc vẫn có thể cân bằng thu chi được.
Một tay cầm túi vải nhỏ, tay kia xách gói thuốc đã được bao kỹ, nàng cúi đầu một đường đi về nhà, luôn chú ý đến chỗ số tiền trong túi nhỏ trên người. Sau khi cùng Hồ Đào thoát ra ở riêng đã hai lần bị móc túi ở chốn đông người, giờ nhớ lại mới cảm thấy tiếc. Một đường rời khỏi đại lộ Chu Tước, người đi dần dần thưa thớt, lúc này tâm tình cảnh giác mới được buông lỏng. Bốn phía vẫn là những cửa hàng tạp hóa như cũ, khi sắp chuyển mình qua phố, một bóng người phía trước đột nhiên thoảng qua khóe mắt.
Ồ..
Nàng ngẩng đầu lên nghi hoặc mà nhìn. Đạo thân ảnh kia đã khuất nơi ngõ rẽ. Mang theo tâm tình nặng trĩu rảo bước tới chỗ ngã tư, rốt cục nàng mới thấy rõ được đạo thân ảnh.
Đúng là y rồi..
Ở ven đường cách đó không xa, một nam nhân đơn bạc văn nhã đang đứng ở trước mấy cửa hàng, trên tay cầm một tấm gỗ lớn. Gã vừa nhìn mấy cửa hàng tạp hóa, vừa vung vẩy tấm gỗ, sau đó gật gật đầu rồi tiến vào một cửa hàng lớn.
Xem ra là y muốn mua than hoa.
Nhiếp Vân Trúc suy nghĩ một chút rồi tiến tới..
------------------------------------------------
(1) Nguyên văn: “Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu, Nhất khúc hồng tiêu bất tri sổ” Đây là hai câu trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Ngũ lăng là nơi đặt lăng tẩm của vua quan và người quyền quý tới đời nhà Đường, nên Ngũ Lăng niên thiếu là chỉ các công tử nhà giàu. Có nhiều bản dịch thơ, nhưng phần nhiều là ở thể lục bát. Dạng thất ngôn không có nhiều, dưới đây là bản dịch thơ của Băng Đình tuân thủ thể thơ của nguyên tác:
Canh khuya tiễn bạn bến Tầm Dương
Hiu hắt hơi thu hoa lá vương
Khách tựa mạn thuyền chủ xuống ngựa
Nâng ly luống hận thiếu đào nương
Say nào nguôi được sầu ly biệt
Man mác trăng sông dãi ánh suông
Chợt tiếng đàn ai trên sóng vẳng
Bỗng quên trở gót ngại lên đường
Lần theo tiếng nhạc tìm ai dạo
Cung bực ngừng im tơ trúc buông
Cập mạn thuyền hoa mong ngó mặt
Mâm bầy đèn thắp chuốc quỳnh tương
Nài van mời mọc càng e ấp
Nửa mặt đàn che nửa mặt buồn
Sửa trục chỉnh giây vài tiếng dạo
Đã nghe uyên vỡ cổ gào ương
Rỉ rên tơ gọi u hoài trúc
Thân thế ngậm ngùi phả mấy trương
Dìu dặt mày chau tay nhấn phím
Não nề tâm sự hận vương vương
Nắn êm vuốt nhẹ đàn thêm khúc
Đứt ruột thương ôi nỗi đoạn trường
Giây vũ ào ào mưa chĩnh đổ
Giây văn thầm thĩ giọng người thương
Thấp cao trầm bổng tình lưu mãi
Mâm ngọc vang rền hạt ngọc buông
Oanh yến dưới hoa lừng tiếng hót
Non cao nước bỗng đổ xuôi nguồn
Nhạc ngưng nước lạnh dòng ngưng bặt
Ngưng bặt niềm tơ trúc vấn vương
Nhạc dứt cho sầu lên bát ngát
Tơ chìm ăn đứt thủa tơ đương
Nước bình bạc vỡ tràn lai láng
Thiết kỵ gươm đao rộn chiến trường
Tạm dứt tơ đàn tay búng nhẹ
Bốn giây xé lụa tiếng còn vương
Đông tây thuyền bến im sào cắm
Đáy nước thu ngời ánh nguyệt gương
Gỡ vuốt trầm ngâm đàn xếp lại
Tâm tư xin gửi khách qua đường
“Vốn xưa quê quán miền đô hội
Dưới xóm yên hoa thuộc giáo phường
Tuổi mới mười ba tay đã nhuyễn
Xế hồ cung bắc nối cung thương
So tơ tuyệt kỹ đều khâm phục
Điểm phấn hoa khôi cũng phải nhường
Công tử vương tôn vung vãi của
Chất cao chồng lụa thắm the hường
Gõ tan lược bạc hòa xênh phách
Rượu đẫm quần hồng đêm bứt cương
Năm quyến theo năm cười cợt mãi
Gió trăng xuân bắt đổi thu buông
Mẹ trăm tuổi hạc em biên thú
Sớm lại chiều qua lạt phấn hương
Xe ngựa lối xưa rêu biếc phủ
Đời chiều thân gửi khách thương buôn
Người ham lợi lộc khinh ly biệt
Mải miết buôn trà tận viễn phương
Bến vắng neo thuyền ly phụ mãi
Quanh thuyền trăng nước lạnh màn sương
Nửa khuya gặp nửa hồn xuân mộng
Lã chã châu hoen lớp phấn mòn”
Nhạc đã khiến lòng đây bịn rịn
Nghe lời tâm sự lại càng thương
“Bên trời hai đứa mình luân lạc
Hạnh ngộ can chi phải bạn đường
Năm ngoái tạ từ nơi cửa khuyết
Bệnh nằm đất trích xứ Tầm Dương
Tầm Dương quê kệch không đàn địch
Thiếu cả cung vui lẫn nhạc buồn
Kề cận Bồn giang sông bãi thấp
Lau vàng trúc võ lớp quanh tường
Tai nghe nào tiếng nào thanh lịch
Máu hạ quyên gào vượn khóc thương
Xuân thắm bờ hoa thu dãi nguyệt
Từng phen độc ẩm muốn say cuồng
Sáo thôn địch nội dù không thiếu
Khổ nỗi nghe ra gịong líu lường
May được đêm nay nàng dạo phím
Tưởng như tiên giới khúc Nghê Thường
Xin vì ta nắn buông lần nữa
Ta sẽ vì nàng soạn một chương”
Thông cảm lòng đây lòng đấy hẳn
Nhạc dần lan tỏa với trầm hương
Nhặt khoan thê thiết càng thê thiết
Khắp tiệc ai mà chẳng xót thương
Dám hỏi mắt say nào đẫm lệ
Giang Châu Tư Mã vạt đầm tuôn
Chuế Tế (Ở Rể) Tác giả: Phẫn Nộ Đích Hương Tiêu
Quyển 1: Gió sớm Giang Ninh
-----oo0oo-----
Chương 17: Khí Trường
Dịch: Trần Mộ
Biên tập: th_cu_ex_pe
Nguồn: TTV
Hai năm trước khi chủ tớ Nhiếp Vân Trúc, Hồ Đào rời Kim Phong lâu. Hai người phải cố gắng bươn chải làm đủ loại công việc kiếm sống. Mặc dù thân nhau như tỷ muội nhưng chủ tớ vẫn cứ là chủ tớ, phần lớn việc nhà đều do Hồ Đào đảm trách, Nhiếp Vân Trúc chỉ làm một số chuyện đơn giản. Hàng ngày thêu thùa gấm vóc, có khi thêu mấy đôi hài, lâu lâu lại đi Kim Phong lâu dạy đàn để duy trì cuộc sống gia đình. Nàng lựa chọn việc thêu thùa vì ưa thích, nên sản phẩm tạo ra có chất lượng nhưng lại tốn quá nhiều thời gian và chi phí, kết quả là kiếm không được bao nhiêu tiền.
Tháng trước Hồ Đào ngã bệnh, Nhiếp Vân Trúc không thể không đảm nhiệm việc nhà, phải nấu ăn mấy món đơn giản, giặt giũ quần áo, dù trước đây không quen nhưng vẫn phải làm, chỉ là không được sạch như Hồ Đào giặt. Trước trung thu mấy ngày, nàng có mua một con gà mái để bồi bổ thân thể cho Hồ Đào, đến lúc muốn cắt tiết không biết làm sao, lại nhốt gà vào trong một cái sọt rồi chọc liên tục vào nó.
Bắt được gà mà không dám giết, lại để gà chạy mất, đuổi theo bị té xuống sông, dao cắt tiết gà bị mất, còn khiến cho người có lòng hảo tâm kéo mình lên bờ phải chịu liên lụy: người ta vớt mình lên, vậy mà phản ứng đầu tiên của mình sau khi tỉnh lại là đánh đối phương một bạt tai. Ngày thứ hai tới mò dao, lại để đối phương nhìn thấy, còn giúp mình giết gà..
Xưa nay nàng vốn là cô gái thong dong điềm tĩnh, nhiều năm trong thanh lâu cũng gặp phải rất nhiều dạng người, hình tượng bản thân nàng trước nay luôn được coi trọng. Ai ngờ lần này tất cả những chuyện mất mặt đều bị người khác chứng kiến, nghĩ mà thấy xấu hổ. Mấy ngày trước nàng sinh bệnh như Hồ Đào, may mà nhiễm phong hàn không nặng nhưng cũng phải sau Trung thu mới khỏe lại. Vị ân công kia đến tên mình cũng quên hỏi. Hô Diên Lôi Phong.. không biết có phải là Hô Diên Lôi Phong không, ai ngờ hôm nay lại tình cờ gặp lại ở chỗ này.
Trước đây, Nhiếp Vân Trúc từng gặp gỡ qua rất nhiều người, nam nhân trẻ tuổi này khoảng hai mươi, xem ra cũng có chút văn khí. Nhưng ngẫm lại hành động người này hơi khác thường, lời nói hay hành vi cũng vậy, trông cứ có vẻ như hờ hững tùy hứng. Từ lúc cứu mình, bị mình cho một bạt tai cho đến sau này giúp mình giết gà, lúc nói chuyện, khi rời đi đều là như vậy. Nhiếp Vân Trúc đi theo gã, thấy gã hình như muốn mua than củi, nhưng sau khi nhìn đống than rồi trò chuyện với ông chủ mấy câu thì có vẻ không phải.
Trời đã cuối thu, mùa đông dần đến, phần lớn mọi người đều cần mua than nên có nhiều nơi bán. Cửa hàng này buộc than lại thành từng túi từng túi, nam tử kia sau khi nói chuyện cùng ông chủ, liền đem một túi than đổ xuống mặt đất, cầm cái túi ngồi xổm mà chọn từng viên từng viên. Than được gã chọn không nhiều, gã lại còn vẽ trên mặt đất vài lần rồi mới cho vào trong túi. Chủ quán cũng không giận, chỉ hiếu kỳ dò hỏi vài câu rồi kệ cho gã lựa chọn.
Quan sát một lát, Nhiếp Vân Trúc mới từ phía sau tiến tới, đến ngang đối phương thì dừng lại, khom người xuống:
- Ân công?
- Hả?”
Nam tử quay đầu liếc một cái, liền nhận ra nàng:
- Ồ, là cô à, trùng hợp nhỉ.
Tay gã lúc này vẫn chuyên tâm chọn than củi.
Hành động và lời nói gã đều có chút kỳ quái. Văn hóa Nho gia tới giờ đã phát triển đến đỉnh điểm, các loại lễ nghi ứng đối khá là phức tạp. Nam nhân bình thường khi gặp một nữ nhân đi tới, không thể không đứng thẳng ghìm hơi, dùng dáng vẻ tao nhã đợi sẵn, phong cách nho nhã này đã trở thành thói quen của toàn xã hội. Nhưng cách nói chuyện tùy ý: “Ồ, là cô à, trùng hợp nhỉ..” này Nhiếp Vân Trúc lần đầu tiên gặp phải, nhưng vẫn có cảm giác rất tự nhiên.
Nàng hơi sững sờ, mở to hai mắt, sau đó thu gấu váy ngồi xuống bên cạnh.
- Ân công..
- Ài, chẳng qua chỉ là giết con gà mà thôi. Chuyện chẳng to tát gì, không cần gọi ta là ân công.
Nam tử cười phất tay một cái, thuận miệng nói.
- Chẳng lẽ trong lòng ân công chỉ nhớ được chuyện giết gà, mà không nhớ chuyện vớt thiếp từ dưới sông lên sao?
- A..
Đối phương ngẩn người rồi mới có phản ứng trở lại. Nhiếp Vân Trúc không nhịn được mà bật cười, hai người lúc này ngồi song song trước đống than củi, Nhiếp Vân Trúc nghiêng đầu nhìn gã:
- Thiếp thân tên là Nhiếp Vân Trúc.
Nàng hơi dừng lại một chút, xác định đối phương có vẻ nhớ được cái tên này rồi mới hỏi:
- Danh tính của ân công có phải là Hô Diên Lôi Phong không?
- Hô.. Hô Diên Lôi Phong..
Nhất thời, vẻ mặt nam tử như là bị co rút vài lần, trông rất phức tạp, rồi sau đó bật cười:
- Ha ha, Ninh Nghị.
Gã nói rõ hơn:
- Ninh Nghị, Ninh Lập Hằng.
Nghe tới cái tên này, Nhiếp Vân Trúc cũng ngây ngẩn cả người.
“Bài Thủy điệu ca đầu..”
“Người đó tên Ninh Nghị, tự Lập Hằng..”
“Ở rể ở Tô phủ..”
“Có lẽ là hạng người bỏ tiền mua thơ để mua danh chuộc tiếng..”
Cảm giác kinh diễm khi đọc bài thơ trong Kim Phong lâu đến giờ vẫn quanh quẩn trong đầu nàng, lúc đám nữ hài bàn tán cũng loáng thoáng nhắc tới Ninh Nghị-Ninh Lập Hằng. Vốn nàng chỉ hân thưởng câu từ, chưa kịp tiêu hóa sức hút của bài thơ nên không tiện bàn luận xôm tụ với mọi người. Bởi vậy cái tên kia đối với nàng mà nói là vô vị, không đáng để nhớ tới. Nhưng lúc này, đầu óc của nàng lại thêm một lần choáng váng.
Nàng sửng sốt hồi lâu rồi mới có phản ứng:
- Ninh công tử.. mua chỗ than củi này về làm gì vậy?
- Ừ, để viết chữ thôi.
Ninh Nghị gõ gõ tấm ván gỗ được sơn trắng xuống đất, sau đó cầm một mẩu than viết xuống một chữ Nhiếp. Đại khái gã định thuận tay viết cái tên Nhiếp Vân Trúc vừa nghe, nhưng sau khi viết xong nét cuối của chữ Nhiếp thì dừng lại một chút, đoán chừng viết tên người ta như vậy có vẻ hơi mạo phạm nên gã liền đổi sang viết hai chữ Ninh Nghị.
Chữ được viết theo kiểu chữ Khải, bút lực hùng hồn mạnh mẽ, viết xong nét cuối cùng mẩu than cũng bị nén vỡ. Nhiếp Vân Trúc có hiểu biết nhất định về thư pháp nên trong lòng so sánh, thủ pháp cầm than củi cùng cầm bút lông khác nhau, nếu tự mình cầm than mà viết, nét chữ nhất định kém xa tít tắp. Gã có thể dùng than củi mà tiện tay viết thành như vậy thì lý giải về thư pháp sợ đã là chuyên gia rồi.
Ở thời đại này, thơ từ và thư pháp vẫn còn có điểm chung. Phần lớn những người có tạo nghệ thâm hậu trong thư pháp được xưng tụng là đại Nho, nếu có kém cũng không kém bao nhiêu. Người có thể viết ra chữ như vậy, việc sáng tác ra bản Thủy điệu ca đầu cũng chẳng có gì phải nghi ngờ.
“Quả nhiên phần lớn lời đồn là không thể tin được.”
Nhiếp Vân Trúc thầm nghĩ.
Nàng nào có biết, Ninh Nghị chỉ nhìn thấy người khác dùng bút lông, còn viết chữ nghệ thuật bằng phấn hay bằng bút máy gã đã luyện qua. Về sau có được thân phận và địa vị nên tâm cảnh cũng được tôn lên, chữ viết ra có thêm phần khí thế. Lúc này nhìn hai chữ kia thấy đã thụt lùi đôi chút, nhưng tổng thể cũng đủ để khiến nhiều người thán phục.
Luyện chữ cũng không phải một sớm một chiều mà thành, mấy chữ khó lão sư viết cũng không thể để đám học sinh khổ luyện bút lông cả ngày.
- Lên lớp giảng bài, có thể dùng bảng trắng này viết chữ. Chữ viết rồi có thể lau, dùng bàn cát nét viết không rõ ràng, lại phải quét tới quét lui. Hơn nữa bàn cát đặt ngang làm học sinh nhìn cũng mệt, bảng này có thể dựng lên hoặc treo thẳng.
- Lớp học.. học đường? Ninh công tử là tiên sinh ở học đường sao?
- Ừ, một học đường nho nhỏ. Dạy mấy đứa học sinh ngốc đọc sách viết chữ ấy mà..
- A.. Ninh công tử, mẩu than này có được không?
Trong thanh lâu quán xá đều phải học tập nghệ thuật giao tiếp sao cho có thể xã giao một cách tự nhiên nhất. Chỉ cần có chuẩn bị, Nhiếp Vân Trúc tự tin có thể trò chuyện tự nhiên với bất kể người nào mà không cảm thấy lúng túng. Lần nói chuyện này cũng rất tự nhiên, nhưng sự tự nhiên này không phải từ nàng mà ngược lại: là do thái độ của đối phương. Hai người cùng chọn những viên than, chỉ chốc lát đã đầy cái túi vải nhỏ, hai tay cũng đen thui. Lúc trả tiền Ninh Nghị trả mười văn tiền cho cái túi than.
- Chủ quán rất hiểu chuyện, chừng ấy than cái mà chỉ thu mười mấy văn.
Ra tới cửa, Nhiếp Vân Trúc bình luận.
- A, làm phiền người ta cũng là không tốt. Chắc là nghe ta nói sẽ dùng nó trong học đường nên mới cho chọn lựa đấy, dùng thân phận lão sư đi gạt người đúng là tốt thật.
- Lần sau công tử muốn mua, chi bằng mua vài túi về nhà mà chọn. Biết đâu trong nhà lại cần dùng, cũng tiết kiệm được số tiền này.
- Ha ha, lần sau ta sẽ không tới chọn nữa, để đám học sinh tự mình chọn mấy viên phù hợp mang tới học đường thôi.
Chốc lát sau, hai người rửa tay ở bến sông Tần Hoài. Một người ôm tấm ván gỗ và túi than củi, một người cầm túi vải cùng gói thuốc, một trước một sau cùng đi tới. Nhiếp Vân Trúc lại nói đến chuyện ngã xuống sông được gã cứu, Ninh Nghị chỉ phất tay một cái ý nói không phải chuyện lớn gì, hời hợt mà cho qua chuyện.
Hai người thỉnh thoảng lại trò chuyện vài câu, bầu không khí tự nhiên tới mức lạ kỳ. Hai người cùng đi một đoạn, chậm sau một bước chân, Nhiếp Vân Trúc nghĩ đến ý cảnh của bài Thủy Điệu ca đầu rồi chợt cảm thấy: chắc chỉ có người hào hiệp thong dong tới bậc này mới có thể viết ra lời thơ hay tới vậy.
Cứ như vậy đi tới chỗ khúc cua của bờ sông, Ninh Nghị mới dừng lại nói lời từ biệt. Sóng bên sông dập dềnh, liễu một màu xanh ngắt, một tòa trà lầu cùng mấy tiểu điếm tọa lạc. Bên cạnh trà lầu có một cái bàn cờ nhỏ, hai lão già đang ở đó an nhàn đánh cờ, một người toàn thân tơ lụa, khá là cao quý.
Nàng hướng về đối phương hành lễ rồi nói lời từ biệt, nói được mấy câu thì hơi ngừng một lúc rồi cất bước mà đi. Đối phương cũng tiến về chỗ không xa phía trước, chính là hướng tới bàn cờ ở bên trà lầu. Hai vị lão nhân hình như có quen biết với gã, cười nói mấy câu, nàng mơ hồ nghe thấy tiếng của gã truyền đến:
- Mấy ngày nay bị hai vị làm hại thật thê thảm.. Buổi sáng hôm nay, Ngu Tử Hưng lại chạy đến tìm ta..
Nàng định bước tiếp nhưng cuối cùng vẫn quay đầu lại. Nam tử đang ngồi ở đó xem cờ, tay cầm chén trà nhẹ nhàng uống một hớp. Giữa hai người chưa gặp mặt nhiều, không cần nói nguyên do, thành Giang Ninh to như vậy, ngày sau có gặp lại hay không cũng là chuyện khó nói. Đối phương nói chuyện như một người không màng tới công danh lợi lộc, so với những tài tử danh sĩ mà nàng đã gặp thì quả thực là hiếm thấy, một đường tự do tự tại, hào hiệp phóng khoáng, không lễ nghi phiền phức khiến người đời cảm thấy vướng bận, phiền hà. Đơn giản là có khí khái văn nhân. Văn nhân bây giờ mở lời ra là quân tử, nhưng phong thái quân tử hẳn phải là thế này mới đúng.
Có thể sau này sẽ không còn gặp lại, đối phương cũng không ghi nhớ những “ân tình” kia trong lòng, chẳng qua bóng hình này, có lẽ nàng sẽ mãi ghi tạc trong lòng.
Ninh Nghị Ninh Lập Hằng..
Nhiếp Vân Trúc cứ mang theo suy nghĩ đó mà đi về nhà
Chuế Tế (Ở Rể) Tác giả: Phẫn Nộ Đích Hương Tiêu
Quyển 1: Gió sớm Giang Ninh
-----oo0oo-----
Chương 18: Tự treo cành đông nam (1)
Dịch: Triệu gia
Biên tập: thuan0
Nguồn: TTV
Từ đêm trung thu đó khi khúc Thủy điệu ca bị tiểu Thiền vô tình làm lộ, mấy ngày nay Ninh Nghị vẫn giả đò bị bệnh nằm nhà đọc sách, rảnh rỗi thì cùng tiểu Thiền chơi cờ năm quân. Đến hôm nay mới ra ngoài lần đầu tiên. Sáng lên học đường giảng bài, xế chiều đi lấy tấm ván gỗ đặt người ta sơn trắng, sau đó tiện thể mua vài cục than, thẳng một đường đến đây vừa vặn gặp hai người Tần lão và Khang lão.
Đối với thơ từ, Ninh Nghị cứ tiện là mở miệng ngâm nga không chút ngại ngần. Gã biết những bài thơ đó ở thế giới này là một cái vốn rất quý hiếm, nếu ngày sau không chịu nổi nhàm chán, muốn làm việc gì mà cần chút danh khí hỗ trợ, khi đó xuất ra một bài hẳn sẽ thu được tiếng tăm không nhỏ. Nhưng hiện tại, nếu chỉ vì thỏa mãn một chút hư vinh mà lấy ra dùng thì rất là vớ vẩn.
Tài tử văn nhân thời đại này nói chuyện đều dẫn kinh trích sử, nếu muốn thu lấy ít danh tiếng chắc hẳn không tránh được chuyện bị người suy xét, so sánh này kia. Vậy nên dù hôm nay có nôn nóng lấy hết vốn thơ Đường thơ Tống lận lưng ra thì cũng chẳng đủ. hiện tại nếu có mấy cuốn sách như Luận Ngữ hay Cao Học nằm trước mặt, gã đều có thể trình bày lý luận linh tinh một hồi, thậm chí có khi còn đề xuất không ít ý tưởng mới lạ, nhưng về mấy phương diện khác thì lại không biết gì nhiều. tiếc là bài thơ kia bị lộ ra quá sớm, nhưng chuyện đã xảy ra rồi, với tính tình của gã thì cũng thoải mái tiếp nhận thôi.
Với gã vấn đề này không có gì to tát, đi đường vòng hay đường thẳng cũng vậy, phương thức giải quyết vấn đề đều luôn thiên biến vạn hóa. Hôm trước, mấy vị Tô lão thái công và Tô Bá Dung kêu gã cùng Tô Đàn Nhi đến dò hỏi một phen, gã tùy tiện bịa chuyện rằng bài từ này không phải do mình viết, đâu biết trời đưa đất đẩy thế nào mà…
Tô lão thái công nhìn gã hồi lâu, rồi cười nói:
- Chuyện đã đến nước này, đối với bên ngoài phải bí mật mới được…
Lão nhân gia tinh minh, chuyện tin hay không đều rất khó nói. Nhưng nếu thực sự gã là một đại tài tử thì trên lập trường của Tô gia cũng hơi khó xử, trước mắt mọi người là đang đoán xuôi đoán ngược.
Đâu có tài tử nào đi ở rể mà thoải mái như gã: không cần làm việc nhiều, không phải chịu trách nhiệm. Mọi người cũng chẳng chờ mong nhiều ở gã nên không hề có chút áp lực, lại được lão thái công chiếu cố, cuộc sống thế này mà muốn thoát ra thì đúng là thằng ngốc. Dễ gì mới có được năm tháng nhàn hạ như vậy, nếu không gặp phải chuyện gì lớn, cái thân phận ở rể này gã kiên quyết giữ lấy. Trong lòng nghĩ như vậy tự nhiên cảm thấy thú vị, chỉ là nếu nói với người khác, sợ ngay cả tiểu Thiền cũng không chịu tin gã..
Mấy ngày vừa qua nhất định đã bắt đầu có lời đồn, đại khái cũng có thể tự đoán được sơ bộ, nhưng khi tiểu Thiền kể với gã tình buống ở hội thơ Chỉ Thủy lúc đó, gã mới bị cái tên Khang Hiền dọa cho hết hồn, cuối cùng nhịn không nổi bật cười. Trước đây đã biết lão đầu này không đơn giản, chỉ không ngờ tên tuổi lại lớn như vậy.
Sau mấy ngày nghỉ ngơi, mấy chuyện kia bị gã ném qua một bên, quay lại với nhịp sống bình thường. đâu ngờ lúc giảng bài sáng nay lại bị người tới tận thư viện Dự Sơn tìm kiếm, người tìm đến là kẻ đã bị Khang lão khiển trách, Ngu Tử Hưng, cùng vài tên văn sĩ tới xin lỗi.
Nói theo một nghĩa nào đó, Ngu Tử Hưng bị Khang lão răn dạy giữa hội thơ đã khiến thanh danh y tổn thất mất bảy tám phần, thực sự là tai bay vạ gió. Thế nhưng Khang lão tiếc tài nên sau khi rời khỏi hội thơ đã gặp riêng dặn dò, chỉ bảo cho y tới đây xin lỗi, sau này khi việc truyền ra y còn có thể gỡ lại được ít danh tiếng. Dù sao thì việc dám nhận lỗi, biết sửa sai cũng một hành động đẹp.
Bên kia là có ý mà đến, Ninh Nghị cũng phối hợp diễn xuất một phen, cả bọn còn mời gã tối đến tham dự hội học sinh tài tử gì gì đó, nhưng Ninh Nghị cũng thuận miệng từ chối. Sau khi từ biệt với mấy tên tài tử kia mới đi lấy cái bảng trắng.
- Phẩm chất Tử Hưng cũng không tệ, tài học tuy không kiệt xuất nhưng cũng thuộc nhóm nổi bật.
Khang Hiền cười nói:
- Bài Thủy điệu ca ngươi viết thực sự hay, e là vài mùa trung thu nữa, Tần Hoài cũng khó có người làm được bài thơ vịnh nguyệt tốt như vậy. Không ngờ tiểu tử vô học như ngươi mà biết làm thơ cơ đấy.
- Ta đã nói rồi, thực sự không hiểu thơ từ gì đâu.
Ninh Nghị uống một ngụm trà rồi tiếp:
- Lúc nhỏ có một đạo sĩ áo quần rách rưới tha phương đi ngang trước cửa nhà, ngâm bài thơ này. Ta nghe xong liền nhớ, chuyện là vậy đó…
Lúc giải thích với Tô lão thái công gã cũng nói thế. Tần lão cười phá lên:
- Ngươi nói như vậy sợ là thằng nhóc ba tuổi cũng không tin.
Khang Hiền cũng nói:
- Tên này bại hoại quá mức, đáng đánh đòn…Cái danh tài tử chẳng tốt sao, nhìn cô nương vừa rồi xem, từ dáng vẻ đến khí chất đều rất tốt, vừa rồi đồng hành trò chuyện với ngươi cũng rất vui vẻ, nếu mối nhân duyên mà thành thì…tiểu tử nhà ngươi phải cảm kích lão phu đấy..
Với thân phận ở rể như Ninh Nghị, muốn mơ tưởng tới người phụ nữ khác không phải là chuyện đơn giản, thực ra Khang Hiền chỉ là tiện thể trêu chọc gã mà thôi. Khi Ninh Nghị nói ra chuyện cứu người trước đây thì hai lão mới hiểu rõ mọi việc. Lúc này, ván cờ vừa xong, ba người ngồi nghỉ ngơi, Tần lão cầm lấy chén trà gật gù, nhất thời hứng thú với câu chuyện.
- Viết chữ? Nói vậy là ngươi muốn dùng miếng than này viết lên bảng để dạy học ư?
- Vâng. Bàn cát mỗi lần viết được ít chữ quá, làm như vậy thật là phiền phức, chung quy không bằng lấy cái này viết, vừa thuận tiện vừa dễ nhìn.
Nói về chuyện dạy học, hiện nay trên lớp toàn dùng bàn cát để viết chữ, thường thì viết một chữ lại phải lắc phẳng một lần, lão sư chỉ có thể diễn giải cho học sinh cách viết mà thôi. Phần lớn tri thức đều được truyền tải bằng miệng, yêu cầu học sinh phải tập trung tinh thần nghe giảng, sau khi lão sư giảng xong phải tự động ghi nhớ và hiểu lấy. Nếu không phải là học sinh thực sự thông minh hoặc có tinh thần tự giác học tập, vậy việc bắt kịp tiến độ học tập thực sự rất khó.
Phương pháp dạy học này đã kéo dài cả ngàn năm, đối với những người như Tần lão và Khang lão hẳn sẽ ko cảm thấy có vấn đề gì. Học vấn vốn là thứ cao quý, vậy muốn làm người cao quý mà không chịu khổ thì sao có thể, đây coi như là một loại thử thách vậy.
Tần lão cầm lấy một viên than viết lên tấm bảng trắng, sau đó nhíu mày:
- Bàn cát thì mềm mại, dùng cành cây viết lên cũng giống như cầm bút lông mà viết. Trong khi, than củi lại rất khó viết, cải tiến kiểu này sợ không thích hợp.
Vừa rồi Nhiếp Vân Trúc chỉ chú ý chữ viết trông ra làm sao, còn Tần lão thì khác, cầm viên than vạch hai vạch lão đã thấy được sự khác biệt nên đưa ra thắc mắc. Làm một vị tiên sinh đứng lớp mà không lấy kĩ thuật viết chữ bằng bút lông làm trọng, chuyện này nói lớn cũng lớn mà nói nhỏ cũng nhỏ. sau đó Khang lão cũng tới thử, cau mày nói:
- Việc này nên thận trọng một chút.
Nếu Ninh Nghị là đệ tử của lão, nói không chừng đã bị lão mắng cho một trận, bắt dừng lại, nghiêm khắc cảnh cáo tính nghiêm trọng trong việc này.
Dĩ nhiên Ninh Nghị có thể hiểu được lo lắng của bọn họ, gã cười cười, ngồi xổm xuống cầm một miếng than củi:
- Vấn đề này cũng không lớn, viết chữ là để hun đúc tính tình, huống hồ những chữ này gần như tương đồng với viết bằng bút lông, nếu dùng để ghi chép sao không nghĩ thoáng hơn một chút, coi như là thêm một cách viết nữa?!
Câu này viết bằng lối chữ khải (4), sau đó đổi thành thể chữ lệ. (5)
“Ngoài đình cổ, ven đường xưa, (6) một hàng cò trắng vút trời xanh”. (7)
Hai hàng vừa viết xong, kiểu chữ chuyển sang thành Tống thể (8):
“Ba ngọn thanh sơn trời khuất nửa”. (9)
Thể chữ Tống đến bây giờ vẫn chưa xuất hiện, Tần lão và Khang lão liếc mắt nhìn nhau. Những vấn đề thế này, phương thức đánh thẳng vào cảm nhận luôn có hiệu quả tương đối tối. Trước đây khi chào hàng sản phẩm, Ninh Nghị luôn ưa thích phương thức đánh thẳng vào cách nhìn của đối phương, gã viết luôn một hàng bay bướm theo dạng Sấu Kim thể (10):
"Một vùng Bạch Lộ nước chia đôi."
Tiếp phía dưới lại chuyển thành chữ thảo (11): “Tây bắc có giai nhân, tự treo cành đông nam.”
Sau đó là lối chữ nghiêng in đậm: “Muốn trông xa vạn dặm, tự treo cành đông nam.” (12)
Cái bảng trắng to lớn như vậy cuối cùng cũng viết xong, gã vừa thu lại cục than hỏi thế nào? Tần lão và Khang lão đã cười mắng luôn:
- Chữ thì có thể xem được, thơ từ thì quá tệ...
- Bôi nhọ văn chương, quá thất vọng ..
- Tính tình tiểu tử ngươi cũng quá mức bại hoại, thứ này cũng tính là thơ từ ư…
Miệng thì nói vậy nhưng ánh mắt của hai người vẫn không rời khỏi tấm bảng gỗ màu trắng, miệng lẩm nhẩm đọc lên thành tiếng rồi cũng cho ra lời bình phẩm.
- “Tây bắc có giai nhân..” thực sự là bất học vô thuật, rõ ràng là câu "Phương bắc có giai nhân, Tuyệt thế mà đơn chiếc"(13) này xuất phát từ Hán thư, thế mà câu tiếp lại là “tự treo cành đông nam”, haha.. chẳng lẽ ngươi cảm thấy tây bắc vần với đông nam sao..
- Khang lão anh minh.
- Nếu ngươi là đệ tử của ta, không thể không gọi người quất ngươi vài côn, tùy tiện bêu xấu lây đến cả danh tác của tiên hiền. “Muốn trông xa vạn dặm”, lại vẫn là tự treo cành đông nam. Ngươi không sợ Vương Chi Hoán hóa thành ác quỷ tới tính sổ với ngươi sao?! Câu nào cũng “tự treo cành đông nam”, bài Khổng tước đông nam phi (14) này thật không may, bị ngươi lấy cái cành đông nam kia đem đi giải trí.
- Haha, chỉ là đột nhiên có một ngày cảm thấy nếu đem thơ từ chắp vá một phen cũng có thể tạo ra một phong vị khác. Chẳng lẽ Khang lão không cảm thấy sao?
“Tây bắc có giai nhân, tự treo cành đông nam”
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, tự treo cành đông nam” (15)
“Núi trống vắng tanh người, tự treo cành đông nam” (16)
“Xưa nay thánh hiền đều bặt tiếng, chỉ đành tự treo cành đông nam” (17)
“Xưa nay hỏi có ai không chết, chi bằng tự treo cành đông nam” (18).
Khang lão lắc đầu:
- Chuyện động đến tiên hiền cần phải nghiêm túc.
Trong giọng nói có mấy phần buồn cười, mấy phần cảnh giác. Tần lão ở bên lại đang xem mấy chữ, đột nhiên nói một câu:
- Ngẩng đầu nhìn trăng sáng.
Khang lão liền tiếp lời:
- Chung quy cũng phải là “tự treo cành đông nam.”
Nói xong rồi phá lên cười.
Sau đó Tần lão cầm cục than chỉ chỉ mấy từ của câu đầu:
- Tuy cũng là chắp vá, không biết xuất xứ nhưng ta đoán là Lập Hằng sáng tác từ trước. Haha.. “Tay trắng muốt, rượu vàng rót..” câu tiếp phía sau không hợp. Câu “Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, một hàng cò trắng vút trời xanh” hẳn là một câu.. Còn câu “Ba ngọn thanh sơn trời khuất nửa, một vùng Bạch Lộ nước chia đôi” này ý cảnh tuyệt hay, hẳn là ở một bài thơ khác..
Lão lấy cục than khoanh vài vòng, cô lập hai câu “Tay trắng muốt, rượu vàng rót” cùng câu “Bên đình cổ, ven đường xưa”, hơi nhìn một chút rồi vạch ở giữa một cái, đại để là hai câu này không cùng một bài. Khang Hiền cũng gật đầu: “Hẳn là hai bài” rồi nhìn Ninh Nghị. Ninh Nghị tỏ ra khá bội phục, nếu ở trong tình huống tương tự mà gã đọc mười hai từ này, có lẽ sẽ nhận định chúng là những câu thuộc cùng một bài thơ. Dù sao thì nó cũng cân xứng, câu cú dài như nhau, cũng cùng nhịp chuyển điệu, mười hai từ này không dễ phân chia nhưng hai người trước mắt đây chỉ dựa vào trực giác là phân tách được chúng.
- Vậy là bốn bài thơ, không biết là đã có toàn bài hay chỉ là tàn câu?
Tần lão nhìn sang Ninh Nghị, cất tiếng hỏi.
---------------------------------
(1) Đưa chú thích này lên đầu nhằm giải thích về câu “tự treo cành đông nam” Nguyên văn: "Tự quải đông nam chi."nhằm giúp độc giả dễ hiểu hơn vì cả phần thơ trên đều liên quan đến câu này: Đây là một câu trong bài Tiêu Trọng Khanh thê, một bài văn vần theo dân ca đời Hán. Theo thói quen lấy câu đầu của bài thơ làm tên, Bài này còn có tên là Khổng tước đông nam phi (Chim khổng tước bay về hướng đông nam). Năm Kiến An đời Hán mạt, tiểu lại phủ Lư Giang là Trọng Khanh có vợ họ Lưu, vì bị mẹ Trọng Khanh đuổi, thề không tái giá. Bị nhà bức ép, nhảy xuống nước tự vẫn. Khanh nghe tin, cũng tự thắt cổ ở cây trước sân. Có người thời đó thương tâm, làm thơ thuật lại. Bài ca này được chia làm 4 đoạn: Đoạn 1 kể về cuộc sống của Lan Chi khi làm dâu nhà họ Tiêu đến khi bị đuổi, - Đoạn 2 kể việc Lan Chi bị đuổi và cảnh chia tay với Trọng Khanh, - Đoạn 3 kể từ khi Lan Chi về nhà đến khi bị anh mình ép gả cho nhà quan Thái thú, - Đoạn 4 kể từ khi Lan Chi bị buộc tái giá đến khi nàng và Trọng Khanh tự tử.
Câu "Tự quải đông nam chi" (tự treo (cổ) ở cành phía đông nam) là một câu thuộc đoạn 4, tả Tiêu Trọng Khanh tự tử:
Nguyên văn Hán Việt (trích):
"Bồi hồi đình thụ hạ
Tự quải đông nam chi"
Điệp luyến hoa dịch thơ: (nguồn: Thivien.net)
"Cây bên đình bước tới
Hướng cành đông nam treo"
Hướng "đông nam" trong câu thơ này cũng khớp với câu mở đầu "Khổng tước đông nam phi" (chim khổng tước bay về phương nam), lại lấy tứ từ câu: "Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi" (Con ngựa Hồ thấy gió bắc thì hí, con chim Việt làm tổ chọn cành nam), ý của câu này là không quên nguồn gốc, còn trong bài ca thì là không quên vợ cũ (nên tự tử).
(2) Hai câu mở đầu của bài Thoa đầu Phượng do Lục Du sáng tác. Bài từ Thoa đầu phượng được Lục Du sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt: ban đầu Lục Du lấy người em họ (con cậu) là Đường Uyển, hai người rất tâm đầu ý hợp, nhưng thân mẫu của Lục Du lại không ưa Đường Uyển, lại nghe thêm những lời gièm pha nên bà buộc hai người phải ly hôn. Về sau, Lục Du lấy Vương Thị, Đường Uyển cũng tái giá, lấy Triệu Sĩ Trình. Mấy năm sau, vào mùa xuân, hai người tình cờ cùng đi chơi vườn Thẩm, ngẫu nhiên gặp nhau. Đường Uyển lấy tình anh em họ, gửi rượu và dã vị mời Lục Du. Lục Du vô cùng thương cảm, vung bút đề lên bức tường trong vườn Thẩm bài Thoa đầu phượng này. Đường Uyển sau khi đọc được bài này trong lòng rất đau khổ, làm một bài từ cũng theo điệu Thoa đầu phượng họa lại. Sau đó nàng đau buồn, lâm trọng bệnh mà qua đời.
Nguyên văn Hán Việt:
Hồng tô thủ,
Hoàng đằng tửu,
Mãn thành xuân sắc cung tường liễu.
Đông phong ác,
Hoan tình bạc.
Nhất hoài sầu tự,
Kỷ niên ly tác!
Thác! Thác! Thác!
Xuân như cựu,
Nhân không sấu,
Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu.
Đào hoa lạc,
Gian trì các.
Sơn minh tuy tại,
Cẩm thư nan thác.
Mạc! Mạc! Mạc!"
Nguyễn Xuân Tảo dịch thơ (nguồn: thivien.net):
Tay trắng muốt,
Rượu vàng rót,
Cây liễu cung sân xuân cách bức.
Gió đông dữ,
Tình thắm lỡ.
Một mối tơ sầu,
Bao năm tan vỡ.
Dở! Dở! Dở!
Xuân như trước,
Người gầy rạc,
Ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt.
Hoa đào rữa,
Lầu gác trở.
Non thề còn kia,
Tờ hoa khôn ngỏ.
Chớ! Chớ! Chớ!
(3) Câu trong bài Tuyệt cú tứ thủ kỳ 3 của Đỗ Phủ:
Nguyên văn Hán Việt:
Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
Tản Đà dịch thơ:
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
(4) Chữ khải (khải thư hay chính thư 正書) là cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III cn. Đây là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc nhất và vẫn là phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay.
(5) Chữ lệ: là thư thể thông dụng trong công văn, kiểu chữ này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN.
(6) Hai câu mở đầu trong bài Tống Biệt của đại sư Hoằng Giác.
Nguyên văn Hán Việt:
Trường đình ngoại, cổ đạo biên
Phương thảo bích liên thiên
Vãn phong phù liễu địch thanh tàn
Tịch dương sơn ngoại sơn
Thiên chi nhai,
Địa chi giác
Tri giao bán linh lạc
Nhất hộc trọc tửu tận dư hoan
Kim tiêu biệt mộng hàn
.
Mr.Lookluck dịch thơ:
Ngoài đình cổ, ven đường xưa
Cỏ xanh tới chân trời
Gió chiều thổi liễu buồn reo rắt
Tà dương đồi lại đồi
Nơi chân trời,
Nơi góc bể,
Tri kỷ sắp chia ly
Một bình rượu cay uống cho cạn
Miễn đêm mơ chớ buồn.
(7) Xem ghi chú (3)
(8) Tống thể là một dạng kiểu chữ trong in ấn. Kiểu chữ này được phát minh từ thời nhà Tống, do đó có tên gọi như vậy. Vì là kiểu chữ trong in ấn do đó nó không thuộc về thể loại thư pháp. Kiểu chữ này có các nét chính sau: các nét sổ dầy, các nét ngang nhỏ, cuối mỗi nét ngang (hay cả hai đầu nét ngang) có một tam giác nhỏ, còn được gọi là "vảy cá". Kiểu chữ Tống thể có các nét chính như vậy vì thời nhà Tống để in người ta phải khắc các con chữ lên bản gỗ. Các nét ngang nằm dọc theo thớ gỗ nên dễ khắc, do vậy mà chúng có bề rộng nhỏ. Các nét sổ không theo thớ gỗ, nên khó khắc và dễ bị hỏng, do vậy mà người ta phải để dầy. Cuối mỗi nét ngang có cái vảy cá cũng với mục đích là để nét ngang được bền, lâu hỏng. Tham khảo thêm tại đâyhttp://donga01.blogspot.com/2010/03/tong-trong-in.html
(9) Câu trong bài Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài (Đến Kim Lăng lên đài Phượng Hoàng) của Lý Bạch:
Nguyên văn Hán Việt:
Phượng Hoàng đài thượng phượng hoàng du,
Phượng khứ, đài không, giang tự lưu.
Ngô cung hoa thảo mai u kính,
Tấn đại y quan thành cổ khâu.
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thuỷ trung phân Bạch Lộ châu,
Tổng vị phù vân năng tế nhật,
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
Khương Hữu Dụng dịch thơ:
Đài Phượng Hoàng cao, phượng đến chơi,
Phượng đi, đài vắng, dải sông trôi!
Cung Ngô hoa cỏ che đường lối,
Đời Tấn cân đai hoá núi đồi.
Ba ngọn thanh sơn, trời khuất nửa,
Một vùng Bạch Lộ nước chia đôi.
Chỉ vì mây nổi che vầng nhật,
Chẳng thấy Trường An não dạ người.
(10) Kiểu chữ "sấu kim thể" được sáng lập bởi Tống Huy Tông. Gọi là Sấu Kim thể vì kiểu viết của Huy Tông thanh mảnh tương tự như sợi vàng, xoắn và đảo ngược. Tham khảo thêm về Tống Huy Tông tại đây:http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91ng_Huy_T%C3%B4ng
(11) Chữ thảo (thảo thư) là thư thể được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng. Có chữ Hán khi viết bình thường theo lối chữ khải thì phải viết rất nhiều nét nhưng với thảo thư thì có thể viết bằng một nét. Nhiều chữ có thể viết liên miên nối tiếp nhau chỉ bằng một nét, thí dụ như cuồng thảo (狂草) (chữ thảo viết điên cuồng) của Hoài Tố (懷素, khoảng 730-780)
(12) Một câu trong bài Đăng Quán tước lâu (Lên lầu Quán Tước) của Vương Chi Hoán. (nguồn thivien.net)
Nguyên văn Hán Việt:
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Mailang dịch thơ:
Mặt trời theo núi lặn,
Hoàng Hà hướng biển sâu.
Muốn trông xa vạn dặm,
Lại bước lên tầng lầu.
Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập,
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc.
Giai nhân nan tái đắc.
Về sau, cụm từ "khuynh thành khuynh quốc" đã trở thành điển cố để hình dung người đẹp
(14) Xem ghi chú (1)
(15) Câu trong bài Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ đêm yên tĩnh) của Lý Bạch
Nguyên văn Hán Việt
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Tương Như dịch thơ:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(16) Câu trong bài Lộc trại (Trại hươu) của Vương Duy
Nguyên văn Hán Việt:
Không sơn bất kiến nhân
Ðản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
Trần Trọng San dịch thơ:
Núi trống vắng tanh người,
Chỉ nghe vọng nói cười.
Nắng vào trong núi thẳm,
Lên đám rêu xanh soi.
(17) Câu trong bài Tương tiến tửu (Mời rượu) của Lý Bạch
Nguyên văn Hán Việt (trích):
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Hieusol dịch thơ (trích): (ưu ái cựu smod TTV nhá)
Xưa nay thánh hiền đều bặt tiếng
Duy còn bợm rượu mãi lưu danh
(18) Câu trong bài Quá linh đinh dương (Qua biển Lênh Đênh) của Văn Thiên Tường.
Nguyên văn Hán Việt:
Tân khổ tao phùng khởi nhứt kinh,
Can qua liêu lạc tứ châu tinh.
Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,
Thân thế phù trầm vũ đả bình.
Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng,
Linh Ðinh dương lý thán linh đinh.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Trần Trọng San dịch thơ:
Cay đắng do từ một sách kinh,
Bốn năm quạnh quẽ cảnh đao binh.
Bông tung gió: vỡ tan sông núi;
Gió đập bèo: chìm nổi kiếp mình.
Ghềnh Sợ Hãi kể niềm sợ hãi,
Biển Lênh Ðênh than nỗi lênh đênh.
Xưa nay hỏi có ai không chết?
Hãy để lòng son chiếu sử xanh!
Ghi chú thêm là hai câu cuối "Xưa nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh!" có lẽ do Trần Trọng San dịch quá hay nên không/chưa tìm thấy người dịch lại, chỉ thấy trích dùng (có hoặc không có ghi chú tên người dịch). Nguyên văn Hán Việt của câu này cũng được Nguyễn Công Trứ đưa vào bài thơ "Chí nam nhi" nổi tiếng của mình.
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Ðã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ
Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu
- Tiểu tử này không thành thật, bằng không hôm nay lại có được mấy bài thơ hay..
Nói thì nói thế, thi nhân làm thơ chỉ làm được tàn câu cũng là chuyện bình thường, hai người không nói tiếp nữa mà chuyển sang lĩnh vực thư pháp. Đây là một lĩnh vực riêng, thơ viết ra cũng có thể nói là do người khác sáng tác, nhưng không thể nói chữ là do người khác viết ra được, huống hồ mấy kiểu chữ ở phía trên rõ ràng là tự cấu thành một hệ thống, hai người đều là cao nhân trong việc này, tự nhiên có thể nhìn ra môn đạo trong đó.
Đối với những đại gia thư pháp như bọn họ mà nói, từng chữ dùng bút viết ra đều có cái hồn trong đó, những chữ viết bằng than này tuy còn chưa tới trình độ đại gia, nhưng công lực cũng đã hiển lộ rõ ràng. Giống như Nhiếp Vân Trúc, thời đại này không ai nghĩ lại có người ở nhà chuyên luyện thứ bút pháp dạng này, kẻ có thể dùng mẩu than mà viết ra được như vậy trình độ hẳn là còn cao hơn nữa, đặc biệt là những loại thư pháp trước đây chưa từng thấy lại càng có giá trị cao tới mức khó mà định lượng.
Xét đến mấy chữ nghiêng đậm viết ở cuối, tuy mới lạ nhưng giá trị tham khảo chả được mấy, chỉ có thể coi như một trò giải trí. Nhưng mấy chữ “Ba ngọn thanh sơn trời khuất nửa, một vùng Bạch Lộ nước chia đôi” viết theo dạng Tống thể và Sấu Kim thể kia mới đúng là thứ làm cho bọn họ phải tán thưởng rất nhiều, vì trong nó ẩn chứa rất nhiều môn đạo.
Hai kiểu chữ này đúng là xuất hiện từ thời Tống, quỹ tích của triều Vũ cũng như triều Tống, văn nhân đông đảo, Nho học phát triển mới sản sinh ra nhiều thứ mới mẻ, hai kiểu chữ này không thể nghi ngờ là vừa mới lạ lại vừa phù hợp với phong tục và thẩm mỹ của thời đại.
Vượt trước thời đại một bước là thiên tài, vượt trước hai bước thông thường được coi là kẻ điên, hai kiểu chữ này vừa vặn có nền tảng cơ sở của thời đại, xem như là lượng biến thành chất, đạt được hiệu quả thẩm mỹ đột phá. Lúc Ninh Nghị viết ra cũng không có chủ định trước chuyện này, nếu có thì chỉ là muốn làm cho đối phương kinh ngạc khi nhìn nhận vấn đề mà thôi. Với cách tư duy của gã, không thể tính là chủ động thi thố, các suy tính phức tạp đã xử lý xong từ trong tiềm thức, giờ chỉ thể hiện ra theo cách đơn giản nhất mà thôi. Những thứ liên quan tới văn hóa này không đáng kể để mà dấu dốt, kiểu chữ nghiêng đậm không căn cứ kia vừa đủ để chứng minh ngày thường gã hay giải trí vớ vẩn bằng những trò gã có hứng thú, cũng vừa đủ để duy trì ấn tượng của kiểu chữ Tống thể cùng Sấu Kim thể, khiến ấn tượng kinh diễm này diễn ra một cách tự nhiên không quá lộ liễu.
Trong lúc hai người nghị luận về thư pháp, Ninh Nghị chủ yếu là giữ im lặng, chỉ thỉnh thoảng nói vài điểm then chốt mà gã biết. Hai người này thực sự là đại hành gia, kiến thức cơ bản hơn gã không biết bao nhiêu lần, chi bằng ít nói giấu dốt là hơn. Mấy ngày qua gã nhàn tản vô vị, cũng đầu tư nâng cao kỹ năng thư pháp, thỉnh thoảng nghe được mấy lời cũng thấy có nhiều lợi ích.
Nếu là dạng học sinh tài tử thông thường, sợ là không được học từ những bậc thầy có trình độ như hai người đây. Đương nhiên, thái độ của hai người đều là như đang dạy học, nói chung là như giảng giải và phân tích cho đệ tử nghe, học sinh bình thường mà nghe quá nhiều chỉ sợ cũng là vô ích. Nhưng năng lực quy nạp, biện luận, chỉnh lý của Ninh Nghị rất mạnh mẽ, đối với kiến thức uyên bác của hai người này cũng chỉ là bội phục, không đến nỗi sùng bái mù quáng nghe theo, thậm chí còn tìm ra một vài điểm không quan trọng.
Lần thảo luận thư pháp này kéo dài ước chừng nửa canh giờ, thỉnh thoảng mấy người lại cầm mẩu than viết viết vẽ vẽ lên tấm bảng trắng, tay đen thui một mảng, tiếp đó ra bờ sông rửa tay. Tần lão và Khang lão lúc này cũng không bàn tới chuyện bút pháp của bút than với bút lông nữa, với trình độ mà Ninh Nghị biểu hiện ra, đổi mới đôi chút trong một thư viện nho nhỏ tất không cần bọn họ góp ý. Đương nhiên, nếu như muốn phát triển mở rộng ra ngoài, chuyện này hẳn có vấn đề. Ninh Nghị phủi phủi tay, sau đó vẫy những hạt nước trên tay thuận miệng nói:
- Thật ra thì than củi viết vẫn không tốt lắm, ta tính qua mấy ngày nữa đi kiếm ít thạch cao làm vài cây bút phấn để sử dụng. Đến lúc đó chỉ cần sơn đen tấm bảng, bên trên viết chữ màu trắng, rõ ràng hơn nhiều so với chữ viết bằng than củi, lau chùi cũng đơn giản hơn.
- Thạch cao?
Khang lão ngờ vực hỏi:
- Bút phấn là cái gì?
- Thạch cao sau khi nung qua lửa thì cho thêm nước rồi khuấy lên, rồi ngưng kết thành thỏi trong khuôn đúc. Nó có thể dùng để viết chữ và không mờ như than củi, cầm trong tay cũng không bẩn như thế này.
thạch cao Triều Vũ cũng đã có, Khang lão suy nghĩ một lát rồi gật đầu:
- Đúng thế, thạch cao sau khi nung khô xác thực có thể dùng để viết... A, chuyện này khỏi cần nhờ ai, để lão phu dặn đám người làm chế cho ngươi là được. Không biết yêu cầu hình dạng cụ thể lớn nhỏ thế nào và còn có gì cần chú ý không?
Ninh Nghị vốn biết Khang Hiền nhà to nghiệp lớn, nếu lão đã mở miệng tất cũng không chối từ, gã lập tức khoa tay múa chân phác họa phấn viết một phen. Quy trình làm phấn viết vốn đơn giản, dù cho không làm, lấy một khối vôi đóng rắn trong lò miễn cưỡng cũng có thể viết chữ được, nên điều muốn nói cũng không nhiều:
- Có thể kêu thợ thủ công làm thử vài lần, hoặc là trộn chút đất sét, tốt nhất là cố gắng tìm ra tỉ lệ pha trộn sao cho thích hợp nhất để viết.
- Chuyện này lão phu đương nhiên hiểu. A Quý.
Khang lão mỗi lần ra khỏi nhà đều có bốn gã người hầu, hai nam hai nữ lúc nào cũng ở gần đó, lúc này gọi tới một người:
- Lời Ninh công tử ngươi đã nghe được, sau khi trở về hãy phân phó xuống làm.
Người nọ liền khom người nói:
-Vâng.
- Ha ha, vừa rồi chỉ toàn luận chữ, trà nguội mất rồi....
Lúc nãy ba người tay cầm than nên không tiện rót trà, bây giờ thời gian đã không còn sớm, cũng không còn bao nhiêu tâm tư chơi cờ, mấy người ra quán trà ngồi một lát, nha hoàn của Khang Hiền lại rót trà mới. Tấm ván gỗ màu trắng vẫn còn để ở bên, đề tài tự nhiên vẫn loanh quanh chuyện con chữ. Một lát sau, bình luận của Tần lão bình chuyển sang phong cách một số bậc thầy thư pháp đương đại, lão vốn am hiểu thư pháp, một hơi bình luận hoa rơi nước chảy, tiện thể trêu chọc kiểu chữ của Khang Hiền một phen, Khang Hiền cười mắng:
- Thể chữ Lệ với cuồng thảo, lão phu có lẽ không bằng ông, nhưng nếu luận về chữ Khải thì ông thua xa lão phu lắm lắm.
Tần lão cười nói:
- Đấy gọi là thuật nghiệp phải có chuyên công, Minh công cả ngày lấy đạo quân tử dạy người, chữ Khải nếu kém không khỏi mất đi tính tín phục. Chỉ vì muốn dạy người cho thuận tiện mà luyện chữ Khải tới cảnh giới như vậy, Minh công đáng làm “sử thượng đệ nhất nhân...”
Cười giỡn như thế chốc lát, Tần lão ngẫm lại, chuyển sang đề tài khác:
- ... chữ viết của Lập Hằng khiến lão phu nhớ tới một người, người này cũng là họ Tần, rất tài hoa, trước kia lúc ở Đông Kinh cũng quan hệ chữ nghĩa với lão phu, tài ăn nói cực kỳ xuất chúng mà viết chữ cũng rất đẹp, phong cách của y cũng giống phong cách câu "Ba ngọn thanh sơn trời khuất nửa" của Lập Hằng, có thể coi là Nhan cân Liễu cốt (1)... Tiếc là nét chữ của y năm đó còn chưa thoát khỏi khuôn mẫu cũ, giờ đây cũng không biết ra sao.
Khóe mắt Ninh Nghị khẽ giật giật, không ngờ Khang Hiền ở bên lại nở nụ cười:
- Lời Tần công nói, chẳng lẽ là người vừa mới nhậm chức ngự sử trung thừa Tần Cối Tần Hội Chi?
Tần lão gật đầu:
- Chính là người này, mấy năm trước người Liêu xuôi nam, từng bắt đi cả nhà của y, song người này hữu dũng hữu mưu, thâm nhập vào nơi hổ sói, vẫn có thể giả trá cùng người Liêu (2), năm trước, thừa cơ người Liêu tấn công Sơn Dương, y dẫn người nhà về nam. Haiz... Bây giờ y đã là ngự sử trung thừa rồi sao?
- Bản thông báo tháng trước đã truyền tới chuyện này. Từ khi quay về đến giờ y rất được trọng dụng, đặc biệt là trong thời khắc nguy nan vẫn không quên vợ cả. Nghe nói lúc ấy ở nước Liêu, người Liêu vốn muốn giam giữ vợ y, hai người hao tổn tâm huyết diễn một vở kịch hay mới có thể cùng nhau trốn về nam, trên đường chạy trốn bị người Liêu phát hiện, cũng nhờ mấy tên đầy tớ trung thành liều chết đoạn hậu mới đào thoát thành công, đủ thấy ngự phê cũng có ý... Ai, cũng vì chiến sự tiền tuyến bất lợi, sự tích của y mới lại càng trân quý. Nhưng bây giờ trong triều cũng không phải hoàn toàn tán thưởng, chuyện y về nam bị hoài nghi rất nhiều, cho rằng chuyện này khả nghi, sợ là có điều quái lạ khác..
Tần lão suy nghĩ, lắc đầu:
- Việc này cũng khó nói, nhưng chuyện đoán mò vô căn cứ không phải là hành vi của quân tử, dựa vào lão phu ngày đó chứng kiến, người này đoan chính ngay thẳng, là người công minh chính trực, yêu quốc yêu dân tuyệt không phải là giả vờ, sau này ra sao phải xem hành động thực tế mới biết được. A... Lại nói tiếp, Hội Chi lão gia cũng đang ở Giang Ninh, sau này nếu y đến, Lập Hằng cũng nên gặp, nói không chừng có thể cùng chung tiếng nói...
Ninh Nghị nháy nháy mắt, tiếp đó có chút phức tạp mà sờ sờ mũi, qua một lát rốt cuộc bật cười, gật gật đầu lấy lệ.
Tần lão và Khang lão không thấy có gì không ổn, Khang Hiền nâng tách trà lên uống một ngụm, nhìn về phía Ninh Nghị:
- Có điều là Lập Hằng tài hoa như thế, chẳng lẽ thật không một chút ý niệm công danh gì sao?
Nói về thời gian gặp mặt, Ninh Nghị cùng hai người lui tới cũng chưa lâu, hình như Khang Hiền đã từng nói, chẳng qua chỉ là giao tình trong như nước giữa những bạn cờ, cùng nhau nói chuyện phiếm (3), nhưng nhìn chung văn nhân đều nung nấu ý tưởng vì nước vì dân, vì thiên địa tu tâm, vì dân sinh mà sống, vì kế thừa học thức tiên hiền, vì vạn thế mở thái bình, nếu không thì cũng là học văn tập võ luyện nghệ để ra sức cho hoàng đế, đây đều là những chuyện nghiễm nhiên khỏi cần bàn luận. Bây giờ trông Tần lão mỗi ngày nhàn nhã chơi cờ, Khang Hiền cũng lộ ra là người phú quý rảnh rỗi, nhưng trong đó cũng có ẩn tình phức tạp.
Những ngày tiếp xúc vừa qua, từ bài Thủy điệu ca đêm trung thu tới chữ viết rồi bút phấn, đối với hai lão mà nói, chuyện Ninh Nghị có tài khỏi cần bàn luận, nghi vấn cũng là dần dần lớn. So với ngày xưa khi có lần Tần lão thở vắn than dài đáng tiếc cho chuyện gã đi làm một kẻ ở rể, lúc đó chỉ là thở dài mà không nghi vấn, nhưng lần này ý nghĩa của vấn đề đã không còn giống như trước nữa.
Lần này nói chuyện cả chiều là về những con chữ, ý đồ phủ nhận cái danh tài tử của Ninh Nghị rất rõ ràng, không phải là nói giỡn hay thuận miệng cho có lệ. Thế gian sao lại có người không có ý tưởng công danh cơ chứ, hẳn là có ẩn tình gì đó. Mà thân phận của hai người này đều không đơn giản, nếu Khang Hiền đã hỏi với thái độ như vậy, hẳn đã thực sự động lòng mến tài. Điều này có nghĩa là.. tỏ thái độ sẵn sàng động thủ hỗ trợ.
Gió thu vi vu hiu hắt từ bờ sông thổi xao xác cành liễu, Tần lão nhấc chén trà, chầm chậm thổi lá trà trong chén, nhướn mắt nhìn sang, hiển nhiên cũng đang hiếu kỳ đợi câu trả lời của Ninh Nghị. Cảm nhận được hàm nghĩa trong câu hỏi, Ninh Nghị nhàn nhạt lắc đầu.
- Ta biết nói ra không ai tin, nhưng mà.. có một số việc thực sự không muốn làm. Tài tử cũng tốt, thanh danh cũng tốt, công danh cũng được nhưng không muốn tranh giành. Điều này.. là sự thật.
--------------------------
(1) Nhan cân Liễu cốt: Nhan: Đời Đường có hai đại hành gia về thư pháp là Nhan Chân Khanh và Liễu Tông Nguyên, lập ra hai thể chữ là Nhan thể và Liễu thể. Cân chỉ khí lực, cốt chỉ cốt cách đặc biệt.
Nhan cân Liễu cốt: ý chỉ chữ viết có khí lực như của Nhan Chân Khanh, có cốt cách sắc sảo như Liễu Tông Nguyên.
(2) Nguyên văn: hư dữ ủy xà: ý là lịch sự nhưng không chân thành, lá mặt lá trái.
(3): Nhại lại câu: “Quân tử giao tình trong như nước”. ý là giao tình giữa những bạn cờ, chuyện phiếm không vồ vập nhưng lại như giao tình của những người quân tử.