Ghi chú đến thành viên
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 18-04-2008, 01:30 AM
donkihotexuthanh's Avatar
donkihotexuthanh donkihotexuthanh is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 293
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 11 Times in 5 Posts
Huyền thoại cụm tình báo H63 anh hùng

VietNamNet) - Có một cụm tình báo đặc biệt, suốt 13 năm gồng mình trong tuyến lửa, mở những mạch máu vận chuyển thông tin, tài liệu thông suốt từ nội đô Sài Gòn ra tới chiến khu, chưa một lần đứt đường dây dù trong giai đoạn gian khổ, ác liệt nào. Cụm tình báo có bí số H.63, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân từ năm 1970, khi miền Nam còn chưa hoàn toàn giải phóng
Những câu chuyện sau đây kể về phần nổi trong tảng băng chìm dày, về những chiến công, hy sinh của những người hoạt động trên mặt trận thầm lặng: Tình báo quân sự, với niềm tin cống hiến “Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công, khi hy sinh”.
Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Cuộc sống luôn có những điều kỳ lạ. Giữa gian nan, ta tìm thấy bạn. Giữa chiến tranh, ta thấy lòng trung thành. Trong chiến tranh Việt Nam có những anh hùng tình báo gắn kết với nhau bởi những điều... không thể lý giải. Tổ quốc có một Phạm Xuân Ẩn - người anh hùng có cái tên như cuộc đời (1).

Còn Phạm Xuân Ẩn lại có một người bạn - người đồng đội cũng có cái tên như cuộc đời như thế: Nguyễn Thị Mỹ Nhung - người đẹp giữa đất Sài Gòn...

Chuyến trở về bão táp

Ngày 10/10/1959, trên chuyến bay từ Mỹ về Sài Gòn có một thanh niên còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp 2 năm du học báo chí tại California. Anh trở về với tâm trạng ngổn ngang: Mình là ai? Ai đã biết về mình? Liệu có chiếc còng tay hay họng súng nào chào đón?.

Từ hôm nay (17/08/2007), báo điện tử VietNamNet sẽ khởi đăng loạt phóng sự dài kỳ về Cụm tình báo huyền thoại H.63 trong những năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả!

Khi máy bay vừa hạ cánh, anh tận mắt thấy chiếc xe bịt bùng của an ninh quân đội chế độ Sài Gòn hú còi trên đường băng Tân Sơn Nhất. Chiếc xe dừng sát chân cầu thang máy bay, đưa lên xe... một người đàn ông trẻ khác. Chỉ đến khi mọi hành khách đi rồi, anh mới từ từ đặt chân xuống Tổ quốc.

Thấy người nhà ra đón, thấy nụ cười của mẹ và em trai, lúc bấy giờ anh mới thở phào "tạm ổn".

Người thanh niên trẻ có nụ cười tinh nghịch ấy, về sau, đã viết nên một huyền thoại mẫu mực về một điệp viên chui sâu trong lòng địch, là cơ cán đi sâu thường được biết tới với cái tên Phạm Xuân Ẩn.

Nhưng câu chuyện này không chỉ kể về vị thiếu tướng tình báo huyền thoại của Việt Nam mang tên Phạm Xuân Ẩn, có tên thật là Trần Văn Trung (Hai Trung)…

Câu chuyện con két và con chó xù

Năm 1957, Hai Trung rời Sài Gòn, mang theo một mệnh lệnh: "Sang Mỹ, học thật giỏi. Phải học Mỹ, hiểu Mỹ, mới đánh Mỹ tốt được". Ngành học được chọn là báo chí, nghề duy nhất thời bấy giờ chưa có người Việt Nam nào được đào tạo tại Mỹ.

Ngoài ra, anh học tất cả mọi thứ để có thể hiểu Mỹ, sống như Mỹ, trở thành một thứ "Mỹ con" (thuật ngữ dùng để gọi những người được Mỹ đào tạo và nâng đỡ thời bấy giờ ở miền Nam Việt Nam, khi người Mỹ chính thức hất cẳng người Pháp năm 1954 để can thiệp vào Việt Nam) như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Anh còn cố công học từ cách nhảy đầm thật ngọt cho tới việc... chửi thề sao cho thật giống Mỹ.

Cuối năm 1959, khi vừa hoàn thành nửa chặng đường (dự kiến khoá học kéo dài 4 năm), Trung nhận được bức thư nhà của người em trai, kể đại ý: Có 2 anh em nhà nọ vào rừng, người em bị quái vật bắt. Người anh thương em quay trở lại tìm, bị quái vật bắt nốt. Cả con chó và con két, vốn là vật nuôi thân thiết của 2 anh em, cũng chung số phận.

Bức thư gửi vào dịp lễ Phục Sinh, và Trung phải đoán mất mấy ngày mới nhớ ra: Người chỉ huy trực tiếp của mình, bí danh "anh Ba", từng được ba Trung cho 1 con két và 1 con chó xù về làm quà cho con gái, đã bị bắt. Người chỉ huy khác, Trung thường gọi là "anh Hai", cũng đã bị cầm tù.

Mãi về sau, trong tự thuật của mình, Hai Trung nhớ lại: "Lúc bấy giờ, Trung thật sự hoang mang. Địch đã biết tung tích của mình chưa? Các anh bị bắt có khai ra mình không? Địch sẽ triệu hồi mình về nước để bắt, hay bắt ngay tại bên này? Hay chúng sẽ chờ mình về, rồi theo dõi bắt trọn ổ?...".

Hàng loạt câu hỏi đau đáu theo Trung cho đến khi hoàn thành 3 tháng thực tập tại các toà soạn báo lớn ở Wasshington DC, lấy vé máy bay lên đường về Sài Gòn. Trước đó, anh đã tính tới trường hợp đi qua Canada hoặc Mexico, từ đó qua một nước thứ ba (Pháp) rồi tìm đường về Hà Nội.

Tuy nhiên, lòng trung thành tuyệt đối của anh vào Đảng, vào nhân dân và vào những người đồng đội đã giúp anh có thêm bản lĩnh vững vàng. Được tôi luyện ngay trong lòng địch khi còn ở Việt Nam, được thử lửa trong môi trường đầy hấp dẫn trên đất Mỹ, trách nhiệm của một người lính đã thôi thúc anh trở về: "nếu bỏ trốn là đào ngũ", "nếu bỏ cuộc thì bao nhiêu công lao của tổ chức gây dựng sẽ đổ sông đổ bể hết".

Hơn thế nữa, với lòng tin tuyệt đối vào tình đồng chí thuỷ chung, “các anh chỉ huy sẽ không bao giờ khai ra mình", cộng với việc phân tích tình huống, diễn biến qua trao đổi thư nhà, Hai Trung đã quyết định "trở về".

Một quyết định dựa trên tất cả lòng tin vào những người đồng chí, dựa trên sự hy sinh thầm lặng của đồng đội mà mãi về sau đã được khẳng định: Đó là niềm tin tuyệt đối đúng.

Thâm nhập ổ sói

... Chỉ trong vòng 1 năm từ khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Hai Trung nhanh chóng xác lập các mối quan hệ nguồn tin trên tư cách là nhà báo đầu tiên được đào tạo từ Mỹ về, theo con đường tự túc.


Ông Phạm Xuân Ẩn và tấm thẻ nhà báo của mình từ năm 1965 - Ảnh do Hãng AP chụp năm 2000.

Việc đầu tiên của Trung sau khi về nước là tiếp xúc với Việt Tấn Xã, cơ quan do Nguyễn Thái (Thái "trắng") đứng đầu. Thái "trắng" vốn từng làm báo tại Mỹ, nhưng quan trọng hơn, ông ta là một trong số bốn người được Tổng thống đương nhiệm của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm "thương như con" (dù Ngô Đình Diệm không lập gia đình), dìu dắt từ bên Mỹ về để giao trọng trách.

Nhưng có một điều bất ngờ mà phải đến sau khi cuộc đảo chính của lính dù cuối năm 1960 do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, Hai Trung mới phát hiện ra: Hoá ra Thái "trắng" làm việc cho CIA (Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ), và là một trong số những nhân vật giấu mặt trong cuộc đảo chính "cảnh cáo" gia đình “cha nuôi” Diệm - Nhu. Bàn tay của CIA đã thò vào và thao túng giới chức Sài Gòn ngay từ rất sớm.

Tuy nhiên, biên chế của Việt Tấn Xã không cho phép Thái "trắng" tiếp nhận Trung (dưới cái tên Phạm Xuân Ẩn). Thái "xui" Trung đến gặp Trần Kim Tuyến - Giám đốc Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Phủ Tổng thống, cơ quan mật vụ của Diệm - Nhu.

Trung lại thông qua Lê Văn Thái, phụ tá của Tuyến, để tiếp xúc với nhân vật từng có quan hệ từ trước với mình, nhưng đã quá lâu rồi chưa gặp mặt. Kênh tiếp theo nữa để tác động là The Asia Foundation (Cơ quan Văn hoá Á châu), tổ chức tình báo ngầm của Mỹ, từng giúp Hai Trung khi xin giấy tờ đi du học.

Rốt cuộc, 1 tháng sau khi từ Mỹ trở về, Hai Trung đã chính thức trở thành nhân viên biệt phái của Biệt bộ phủ Tổng thống, làm việc tại Việt Tấn Xã (giúp Thái “trắng” quản lý 4 nhân viên của Tuyến đi biệt phái tình báo dưới hình thức làm nhà báo nhưng quanh năm không viết bài nào), trao đổi công việc trực tiếp với Lê Văn Thái, Trần Kim Tuyến.

Tới tháng 10/1960, Trung kiêm nhiệm thêm công việc thứ ba: Trở thành thông tín viên cho hãng Reuters, chi nhánh tại Sài Gòn.

Tròn 1 năm trở về, Hai Trung - Phạm Xuân Ẩn đã chính thức đặt dấu ấn lên làng báo Sài Gòn, với hàng loạt nguồn tin từ Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Trần Kim Tuyến; The Asia Foundation; làm thêm cho tờ nguyệt san “Quê hương" do Tuyến tổ chức; làm việc cho Việt Tấn Xã; quan hệ với Hội cựu sinh viên Việt Nam ở Mỹ (The American University Alumni Association) mà Đại sứ Mỹ tuần nào cũng mời đến nhà chơi để giúp đỡ; một số sỹ quan có ảnh hưởng trong chế độ Diệm; phòng Thông tin của Anh và nhân viên toà đại sứ Anh...

Khi đã "chắc chân" trong hàng ngũ địch, Hai Trung bắt đầu tự đi tìm lại tổ chức mà ông đã mất liên lạc từ lâu. Biết là nguy hiểm, vi phạm nguyên tắc, nhưng với Trung lúc bấy giờ, đó là sự lựa chọn duy nhất. Và người Trung chọn, là chị em Tám Thảo...

Trong di cảo còn lưu giữ lại đến giờ, Phạm Xuân Ẩn đã dành hẳn những dòng viết đầy trang trọng cho người phụ nữ ấy: Năm 1960, Tám Thảo (Mỹ Nhung) chính là người đã móc nối cho Hai Trung (bí số 2T) trở lại với tổ chức. [...] Đến sau này, khi phải chiến đấu âm thầm trong lòng địch, đôi lúc vì quá cô đơn giữa kẻ thù, Hai Trung đã tự ý tìm đến gia đình cô, để được nói chuyện, được sống thật và được cân bằng lại chính mình.

Tám Thảo hay Mỹ Nhung: Cô là ai mà nhà tình báo lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn dành trọn niềm tin đến như vậy?



Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của donkihotexuthanh

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 18-04-2008, 08:14 AM
donkihotexuthanh's Avatar
donkihotexuthanh donkihotexuthanh is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 293
Thời gian online: 0 giây
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 11 Times in 5 Posts
Huyền thoại cụm tình báo H63 anh hùng

Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết
09:05' 18/08/2007 (GMT+7)
(VietNamNet) - Đứng ở góc nhìn giai cấp và lý tưởng, không ít người đã từng băn khoăn hỏi: Tại sao một tiểu thư con nhà tư sản, đẹp và giàu có như Mỹ Nhung (Tám Thảo) lại xuất hiện trong cuộc chiến tranh này?

>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Nếu hiểu chiến tranh dưới góc độ ý thức hệ giai cấp: Cộng sản – Tư bản, thì rõ là giai cấp mà cô xuất thân hoàn toàn xa lạ với giai cấp công nông. Người công nhân, nông dân đấu tranh để giành cơm no, áo ấm, độc lập dân tộc và công bằng xã hội, để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn sự hy sinh của Tám Thảo và gia đình cô trong cuộc chiến này lại là một lát cắt khác mà không phải học giả nào cũng có thể lý giải được.
"Hoa" truyền đơn
Chuyện về cô khó có thể bắt đầu bằng hình ảnh nào khác ngoài một bức tranh về người con gái đẹp bước ra từ nhung lụa.
Là con một gia đình tư sản giàu có ở Sài Gòn, ngay từ bé, Mỹ Nhung chẳng phải làm gì, chỉ biết học, chơi và xem tiểu thuyết. Cô mê những con người trong thế giới chữ nghĩa, mê những truyện ngắn đăng báo hằng tuần của Thế Lữ, mê tiểu thuyết của các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Những câu chuyện về một lớp thanh niên trí thức cứ trăn trở tìm đường làm cách mạng lôi cuốn cô suốt một thời thiếu nữ. Cô đọc chỉ để... chơi. Nhưng ai dè, chơi rồi thành thật. Cái đẹp, cái bi của những cuốn tiểu thuyết anh hùng rốt cuộc lại vận vào chính cuộc đời cô.
Năm 1948, tiểu thư Mỹ Nhung theo gia đình rời Sài Gòn về Vĩnh Long kháng chiến. Khi ấy cô mới 16 tuổi, chưa từng biết nấu nướng, chỉ mê sách, điện ảnh và hoa. Thế nên trong hành trang chiến đấu, vũ khí của cô chỉ là... tiểu thuyết.
Hàng ngày, cô bé Nhung được tận mắt chứng kiến cảnh các chị bên hội phụ nữ đi rải truyền đơn. Trước mỗi lần “xuất trận”, các chị đều kín đáo đặt truyền đơn lên một góc xe hơi, đợi đến khi xe nổ bánh, gió thổi bạt lại làm tung tròn những lá truyền đơn lên không trung rồi rụng xuống lả tả. Cô nhìn mà cứ mê đi vì cảnh rải truyền đơn... “đẹp hơn cả tiểu thuyết!”.
Mê quá rồi, cô nằng nặc đòi theo, nhưng đều bị các chị gạt phắt đi vì “còn con nít”. Các chị biết giải thích thế nào cho bé Mỹ Nhung hiểu đây, rằng đằng sau những “chùm hoa” truyền đơn đó là đòn roi, là trừng phạt, là tù đày đang giăng lưới?
Phải đến sau này, khi đã thực sự trải qua ranh giới khốc liệt giữa cái sống và cái chết, cô mới hiểu rằng khoảnh khắc “đẹp hơn tiểu thuyết” ấy chỉ là phút giây thăng hoa tột đỉnh của một chuỗi dài gian nan, nguy hiểm đến chết người.
Thiếu nữ Sài Gòn trên chiếc xuồng hoa
Không được đi rải truyền đơn, song Mỹ Nhung vẫn không chịu lùi bước. Nhân lúc có người chèo đò ngang sông, cô liều nhảy xuống xin quá giang để được đi “chiến đấu”. Bà cô bắt đi lên, nhưng cô nhất định ở lại và tìm kế... trốn. Mãi rồi cũng lần mò được ra chiến khu, cô tiếp tục tự đi tìm tổ chức.
Khi thực sự trải qua ranh giới khốc liệt giữa cái sống và cái chết, cô mới hiểu rằng khoảnh khắc “đẹp hơn tiểu thuyết” ấy chỉ là phút giây thăng hoa tột đỉnh của một chuỗi dài gian nan, nguy hiểm đến chết người.
Tại đây, sau khi tìm được người chị gieo “chùm hoa” truyền đơn cũ, cô xin được một công việc rất vinh quang của tuổi 16. Đó là hằng ngày, bé Mỹ Nhung phải tập... dậy sớm và học bơi xuồng. Sướng quá, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng gật đầu nhận ngay.
Thế là từ đó, cứ sáng sớm, cô lại đẩy xuồng ra giữa dòng sông, tập bơi, tập lái. Nhưng với cô, chèo xuồng khó đến độ cô toàn lóng ngóng để nước tràn vào trong. Dưới ánh nắng lung linh, xuồng của cô cứ quay tròn trên mặt nước. Chẳng biết làm sao, cô đành ghé tạm bên những bụm hoa trôi, vừa để neo xuồng tát nước, vừa tranh thủ... hái hoa rồi chất đầy lên khắp xuồng.
Đến khi biết chèo rồi, cô nhận thêm nhiệm vụ đưa cán bộ qua sông. Cứ mỗi khi nghe tiếng gọi “Mỹ ơi” (tên gọi thời ở chiến khu), cô lại tất bật đẩy xuồng ra giữa dòng đón cán bộ. Ở đây, cô đã gặp một con người mà đến tận bây giờ, cuộc đời của ông vẫn là kho bí mật chưa tiết lộ.
“Cuộc đời tôi có nhiều cái may mắn, thuở bé đã được gặp một trong những anh hùng tình báo vĩ đại nhất Việt Nam, lớn hơn thì làm đồng đội với chính họ: anh hùng Phạm Xuân Ẩn, anh hùng Tư Cang...”.
Những lần gặp gỡ của cô chỉ là khoảnh thời gian đưa người sang sông, nhưng đến tận bây giờ, khi chiến tranh đã qua thêm nửa cuộc đời nữa, ấn tượng của cô về người cán bộ đó vẫn còn nguyên vẹn.
“Buổi sáng đầu tiên đưa anh đi, nhìn anh cười, tôi tin anh ngay lập tức. Anh không đẹp, mắt lé, da ngăm ngăm, nhưng nụ cười của anh thì luôn nói với mọi người rằng, anh là người tốt”.
Thế rồi sáng nào cũng vậy, ông được cô bé Mỹ Nhung chở đi trên chiếc xuồng bé xíu chất đầy hoa. Đến khi chiều xuống, ông trở về, trên tay luôn là một bó hoa rừng nho nhỏ. Cô không biết ông đi đâu, làm gì, nhưng nhìn là biết chặng đường của ông dài tới cỡ nào, bởi khi được tặng cho cô thì bó hoa đã rủ héo.
Nhận hoa, cả cô và ông cùng cười. Những bông hoa ấy sau này cứ cuộn hương đi theo cô trong suốt hành trình bí mật. Nó giống như sợi dây nối thiêng liêng giữa những người đồng đội: họ thậm chí có thể tìm thấy nhau, nhận ra nhau chỉ trong linh cảm. (Trong các loạt bài tiếp theo, VietNamNet sẽ tiếp tục công bố những bí mật về chân dung và tầm vóc của người anh hùng vĩ đại này).
Hai năm sau, khi vừa tròn 18 tuổi, cô được kết nạp Đảng. Cũng trong năm đó, ba cô trở thành Đảng viên. Nhớ lại giây phút biết tin ba cũng vào Đảng, cô vẫn cười tinh nghịch. “Ông cụ theo lễ giáo nhà Nho, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất dân chủ với các con. Ngày ba cô được kết nạp, cô cứ chọc ba hoài, vì ba con lại cùng một năm tuổi Đảng”.
Ba cô, dù đứng trong hàng ngũ tư sản, nhưng ông chưa bao giờ quên nói với các con về quê hương, về dân tộc, về những người cùng khổ. Với cô, ông là hình mẫu lý tưởng còn trên cả tiểu thuyết, bởi ông luôn hướng cô đi theo những con đường thiện trên đời.

Đường về với Cách mạng

Những năm đầu 1940, đất Sài Gòn rất quen thuộc với tiệm vải Tân Mỹ. Chủ cửa hàng, ba cô – ông Nguyễn Đăng Phong – vốn là người Kinh Bắc. Sau khi đưa cả gia đình vào Nam lập nghiệp, chỉ trong một thời gian ngắn, lòng đại hiệp và khả năng kinh doanh nhanh nhạy của ông đã biến Tân Mỹ thành một thương hiệu có tiếng thời bấy giờ.
Ngày đó, gia đình cô sống cạnh nhà hai “đại gia” nổi tiếng - một người Hoa, một người Ấn - trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng ngày nay). Khi hè sang, ba mẹ cô thường đưa các con về “nhà mát” ở Bạc Liêu chơi. Gọi là “nhà mát” bởi đó là nhà chỉ để... nghỉ mát. Căn nhà nằm ngay cạnh tư dinh của ông Hội đồng Trạch – gia đình bên chồng của “người đẹp Tây Đô” Lâm Thị Phấn.

Gia đình Tám Thảo

Sống giữa toàn các bậc đại gia và những người ngoại quốc giàu có, gia đình cô rất hiểu cái màu ẩn phía sau đồng tiền. Thế nên ba mẹ cô luôn hướng ngược về những người đồng bào đói khổ.
Mỗi khi vợ chuẩn bị sinh, ông lại đưa bà về Bắc để cho các con được chào đời và được ngấm cái hồn thiêng của quê cha đất tổ. Chính vì thế, đến bảy mươi năm sau, các con ông, cứ ai có dịp ra Hà Nội lại nhất định phải về thăm quê cũ, dẫu cho ở đó chỉ còn vài mảnh ký ức rất xa xăm.
Năm 1945, nghe theo lời kêu gọi của cụ Hồ, mẹ cô góp toàn bộ đồ nữ trang bằng vàng cho cách mạng. Đến khi Tây về (23/9/1945), gia đình cô phải tản cư vào Vĩnh Hưng, giáp với Cần Thơ. Biết nhà cô giàu có, ba má quan hệ rộng, quen biết từ tỉnh trưởng cho tới địa chủ nên tụi quan Tây treo giá 5.000 đồng để kiếm ba cô về theo chúng.
Ngày đó, cô bé Mỹ Nhung còn nhỏ, đâu biết 5.000 là giá làm sao, chỉ nhớ khi em cô đòi ăn khoai lang, má liền cho 1 hào. Bé em mang 1 hào đi đổi lấy 1 củ khoai lớn mang về, khiến cô bán hàng phải sấp ngửa đuổi theo để... thối lại tiền.
Nhưng tới năm 1946, trên đường về Sài Gòn trị bệnh, ba cô bị chỉ điểm bắt. Biết tính ông cụ ngang tàng, không chịu luồn cúi nên quan Tây nghĩ ra một chiêu độc để moi tiền. Chúng lôi người bà con của gia đình ra đánh cho hộc máu mũi ngay trước mặt ông. Thương quá, ba cô liền nộp 12.000 đồng tiền Đông Dương để chuộc. Còn với những người ở chung, hễ cứ ai bị mất gì thì ba má cô lại đền giúp.
Đến khi cạn túi, ba cô đành trở về Bắc Ninh cùng hai cô con gái út. Mỹ Nhung và các anh chị khác tá túc tại Vĩnh Long với người họ hàng. Cái duyên đưa cô tới Vĩnh Long để làm nghề tình báo bắt đầu từ những chuyện gập ghềnh như vậy.



"Tổ Quốc là trên hết"

Sau này, trong những ngày ở chiến khu, cô thiếu nữ Sài Gòn đã rung động trước một người lính cũng mê văn học không kém. Thời ấy, “thơ ca thúc đẩy sự nhiệt huyết của tôi nhiều lắm”. Ở chỗ cô, ai cũng thuộc lòng khổ thơ đầu của Tố Hữu:



“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề cổ súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa”

“Vâng, thế em ở lại. Tổ Quốc là trên hết”
Nhưng thơ ca thôi cũng không đủ làm cho chiến tranh dừng bước. Yêu nhau không được bao lâu, ông phải đi tập kết. Ngày ông lên đường, cô hớt hải chạy đi tìm. Song nỗi trớ trêu của tiểu thuyết cũng chẳng từ cô: khi Mỹ Nhung vừa đến thì ông lại vừa đi.

Hai người không kịp nói với nhau dù chỉ một lời tạm biệt, để rồi suốt gần 20 năm sau đó, hình ảnh của ông cứ không thôi ám ảnh trong cô.

Năm 1954, khi Hiệp định Geneve được ký kết, cô liền xin tập kết ra Bắc để gặp người yêu. Nhưng ông Mười Hương - chỉ huy của cô bấy giờ - thuyết phục cô ở lại, bởi người thầy tình báo ấy rất hiểu, trong cô còn có một tình yêu lớn nữa: tình yêu Tổ Quốc.

Ông còn hiểu rõ, nếu cô ra đi, cuộc chiến trong Sài Gòn sắp tới có thể sẽ khốc liệt hơn, bởi không dễ gì tìm ra một gia đình tư sản yêu nước ngay trong nội thành như vậy. “Em mà ra Bắc, không ai liên lạc được với gia đình thì cơ sở mất một căn cứ tốt”.

Nghe vậy, cô đắn đo một lúc rồi trả lời: “Vâng, thế em ở lại. Tổ Quốc là trên hết”.
Tài sản của donkihotexuthanh

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 16-07-2008, 08:56 AM
tieumi's Avatar
tieumi tieumi is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 111
Thời gian online: 30 phút 9 giây
Xu: 0
Thanks: 3
Thanked 3 Times in 1 Post
Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời

Tài sản của tieumi


Last edited by tieumi; 16-07-2008 at 09:31 AM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 16-07-2008, 09:01 AM
tieumi's Avatar
tieumi tieumi is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 111
Thời gian online: 30 phút 9 giây
Xu: 0
Thanks: 3
Thanked 3 Times in 1 Post
Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!


Tài sản của tieumi


Last edited by tieumi; 16-07-2008 at 09:35 AM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 16-07-2008, 09:05 AM
tieumi's Avatar
tieumi tieumi is offline
Phá Quan Hạ Sơn
 
Tham gia: May 2008
Bài gởi: 111
Thời gian online: 30 phút 9 giây
Xu: 0
Thanks: 3
Thanked 3 Times in 1 Post

Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà


Tài sản của tieumi


Last edited by tieumi; 16-07-2008 at 09:38 AM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Từ khóa được google tìm thấy
cụm tình báo h63, chuyen cum tinh bao h 63, nhom tinh bao h63, tinhbaoh63

Ðiều Chỉnh


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™