Tất cả trẻ em, trừ một đứa, đều lớn lên. Và chúng biết rõ điều đó từ rất sớm. Wendy khám phá ra sự thật như thế này: hồi lên hai, một hôm bé đang chơi trong vườn, bé hái một đóa hoa và chạy ù vào tặng mẹ, chắc lúc đó nom bé rạng rỡ và đáng yêu lắm vì mẹ bé, bà Darling đã xúc động đưa tay ôm ngực thốt lên : "Ôi, ước gì con cứ như thế này mãi !" Mẹ chẳng nói gì thêm nữa nhưng Wendy hiểu ngay rằng bé sẽ phải lớn lên. Mọi đứa trẻ hai tuổi đều biết điều này. Hai tuổi là khởi đầu của con đường đi tới sự kết thúc.
Gia đình Darling sống ở số nhà 14 và cho tới khi Wendy ra đời, bà Darling là nữ chủ nhân tuyệt đối trong nhà. Bà là một thiếu phụ duyên dáng, tâm hồn lãng mạn với một nét nhăn hơi giễu cợt nơi khóe miệng. Tâm hồn bà cũng tựa như các loại hộp đồ chơi phương Đông bí ẩn đối với chúng ta - bạn cứ thử mở một hộp, thế là lại thấy ngay một chiếc hộp bé hơn nằm trong. Và trên khóe môi hơi giễu cợt của mẹ phảng phất một nụ hôn mà Wendy chẳng bao giờ hái được, dù nó vẫn đậu chếch trên khóe miệng phải.
Còn ông Darling đã chinh phục bà Darling bằng cách như sau : lúc bà còn là một thiếu nữ, tất cả các chàng thanh niên đồng thời phát hiện rằng mình mê côgái và đều bổ nháo bổ nhào đến xin cưới nàng làm vợ. Riêng ông Darling nhanh chân hơn hết thảy, đã nhảy lên một chiếc xe ngựa và chiếm chỗ đầu tiên. Chàng được nàng trao cả trái tim, trừ chiếc hộp nhỏ nhất và nụ hôn. Về chuyện chiếc hộp thì ông không bao giờ đoán ra, còn về nụ hôn thì mãi rồi ông cũng đành thôi không cố thử nữa. Wendy cho rằng nếu ba là hoàng đế Napoleon thì mẹ sẽ xiêu lòng nhưng tôi có thể tưởng tượng ra là kể cả ông vua đó, cứ cố mãi cuối cùng cũng phát cáu, bỏ cuộc ra đi sau khi sập cửa cái rầm.
Ông Darling sẵn lòng giải thích trước mặt Wendy rằng không những mẹ yêu ba mà còn tôn trọng ba. Ông là một nhà thông thái rất rành về sự tăng giảm trên thị trường chứng khoán. Tất nhiên chẳng ai hiểu gì nhiều về những vấn đề tài chính đó cả nhưng ông thì tỏ ra đặc biệt sành sỏi và cái cách ông tuyên bố rằng cổ phiếu này đang lên hoặc trái phiếu kia đang sụt giá khiến phụ nữ kính trọng vô cùng.
Ngày cưới bà Darling vận đồ trắng và sau khi cưới, bà thích thú lập và theo dõi sổ chi tiêu gia đình một cách thật hoàn hảo, coi như một trò chơi, đến một cây cải Bruých-xen bé xíu cũng không lọt khỏi sổ. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, bảng chi tiêu bỏ qua cả từng cây súplơ to đùng và được thay bằng hình vẽ các em bé không có mặt. Đáng ra phải cộng các khoản chi, bà Darling lại ngồi vẽ. Điều này cũng hợp với một số hy vọng của bà.
Wendy sinh ra đầu tiên, rồi đến John, và sau cùng là Michael.
Một hoặc hai tuần lễ sau ngày sinh Wendy, ba mẹ bé tự hỏi không biết liệu họ có nuôi nổi bé không vì gia đình này thêm một miệng ăn. Ông Darling rất tự hào về cô con gái mới sinh, nhưng là người trọng danh dự, ông ngồi bên giường vợ, cầm tay bà và bắt đầu tính toán các khoản chi tương lai trong khi bà nhìn ông với ánh mắt khẩn khoản. Bà quyết tâm gánh chịu mọi rủi ro nhưng dường như ông không cùng quan điểm với bà. Tay giấy tay bút, ông liệt kê ra các con tính và mỗi khi bà ngắt lời ông, ông lại phải bắt đầu từ đầu.
- Em ơi, em đừng có làm anh rối ruột – Ông xin. Đây anh có một livrơ mười bảy xu và còn hai livrơ sáu xu ở văn phòng nữa ; anh có thể bỏ bữa café sáng, coi như bớt được mười siling, thế là ra hai livrơ chín siling và sáu xu, em còn mười tám siling và ba xu, vị chi là còn ba livrơ chín siling. Con cựa quậy kìa. Rồi… Tám livrơ, chín siling bảy, phẩy và anh nhớ bảy. Xin em, em yêu, rồi còn một livrơ em cho cái anh chàng đến xin nhà ta nữa, này, bé ơi, phẩy và anh nhớ bé sang… Này em làm anh nhầm loạn lên rồi. Anh bảo gì nhỉ, chín, chín, bảy ? Xong rồi, vấn đề là ở chỗ liệu ta có thể sống một năm với chín livrơ, chín siling và bảy xu không?
- Được chứ kìa Georges – Bà thốt lên, bụng thầm biết rằng bà quá yêu Wendy nên chẳng thể nào khách quan được.
- Em phải nhớ là còn bệnh quai bị nữa, ông bật ra. Quai bị : một livrơ, anh ghi thế thôi chứ thực ra có khi đến gần ba mươi siling đấy, em đừng cãi, sởi, một livrơ năm xu, bạch hầu, mười siling sáu xu, là ra hai livrơ mười lăm siling sáu xu, em đừng có giơ ngón tay lên thế ! Còn ho gà, coi như là mười lăm siling đi.
Danh sách ngày càng dài ra và tổng số chẳng lúc nào giống nhau. Cuối cùng, Wendy may mắn thoát nhờ giảm chi phí quai bị xuống còn mười hai siling sáu và hai căn bệnh lây lan kia được quy hết về một bệnh mà thôi.
Lúc John ra đời, một cuộc tranh luận tương tự cũng diễn ra còn Micheal cũng thoát trong gang tấc. Cả ba chị em đều được giữ lại nuôi và chẳng mấy chốc các bạn có thể gặp cả ba đứa nhỏ nối hàng đến vườn trẻ nhà cô Fulsom, đi cùng nhũ mẫu.
Bà Darling rất tôn trọng hình thức và ông Darling cương quyết không để mình khác gì so với hàng xóm láng giềng ; vậy nên họ có nhũ mẫu cho trẻ. Và vì họ nghèo, bọn trẻ uống nhiều sữa quá, họ bèn chọn một cô chó giống tecnơp khá trịnh trọng vốn chẳng thuộc về ai cả trước khi được nhà Darling tuyển vào. Cô chó này tuy vậy rất yêu trẻ nhỏ và nhà Darling làm quen với cô ta tại vườn Kenshington nơi cô ta suốt ngày nhìn ngắm lũ trẻ nằm trong nôi đến đó chơi. Các chị bảo mẫu hay lơ đễnh với trẻ nhỏ không ưa cô chó này lắm vì cô ta có thể theo họ đến tận nhà để phàn nàn với gia chủ.
Trong vai trò mới là làm bảo mẫu, Nana tỏ ra thật xuất sắc. Nhắc trẻ đi tắm rất đúng giờ, hơi có tiếng trong oe là Nana nhảy bổ đến ngay bất kể vào giờ nào trong đêm. Và tất nhiên, chuồng của Nana cũng đặt trong buồng trẻ em. Nana rất tài trong việc phân biệt đâu là tiếng ho gió đâu là viêm họng cần cho trẻ quấn thêm một chiếc tất len quanh cổ. Nó tin tưởng vào các phương thuốc cổ truyền như lá cây bạc hà chua để chữa ho và lầu nhầu khinh miệt mỗi khi nghe nói đến các học thuyết thời thượng về vi trùng, vi khuẩn hoặc các trò dớ dẩn tương tự. Khi đưa bọn trẻ đi học, Nana quả là một mẫu mực về cư xử, bước đi đều đặn bên chúng khi chúng ngoan và la rầy mỗi khi bọn trẻ cãi cọ nhau trên đường. Những ngày John chơi bóng đá, Nana không bao giờ quên áo len của John và nó luôn luôn ngậm theo một cái ô đề phòng trời mưa. Cô Fulsom đã cho sửa sang tầng hầm thành một phòng đợi dành riêng cho các cô bảo mẫu. Họ đều ngồi trên ghế dài còn Nana nằm dưới đất, sự khác biệt chỉ có thế. Tuy nhiên các cô bảo mẫu đều ra bộ coi thường Nana như một kẻ thuộc tầng lớp thấp kém còn Nana thì chả coi cái trò bi be tán gẫu của họ ra gì. Nana rất không thích việc các bạn của bà Darling thăm phòng trẻ nhưng nếu có khách đến thăm, nó nhanh chóng tháo chiếc tạp dề thường ra để choàng cho Michael chiếc tạp dề có thêu hoa xanh, chỉnh đốn lại áo quần cho Wendy và chải sơ lại đầu tóc cho John.
Chẳng đâu có phòng trẻ gọn gàng ngăn nắp như ở nhà Darling và ông Darling biết rõ điều này, tuy ông vẫn hơi áy náy khi nghĩ tới những lời đàm tiếu của hàng xóm. Vì dù sao ông cũng cần phải giữ thể diện của mình.
Ông còn ngần ngại với Nana vì một lý do khác nữa. Đôi khi ông cảm thấy Nana hơi coi thường ông. "Em biết là nó rất khâm phục anh mà, George", bà Darling cam đoan và bà ra hiệu cho bọn trẻ con phải tỏ ra đặc biệt dễ thương với ba. Thế là sau đó các màn nhảy múa diễn ra tưng bừng trong nhà và đôi khi người ở duy nhất còn lại, Liza, cũng được phép tham gia. Với chiếc váy dài thậm thượt và chiếc mũ trùm, Liza nom hệt như một người lùn, tuy cô ta thề sống thề chết với nhà chủ là đã quá mười tuổi rồi.
Ôi! Thời kỳ đó mới vui sao! Và vui nhất là khi bà Darling xoay tròn xoay tròn một cách cuồng nhiệt đến nỗi người ta chỉ còn nhìn thấy nụ hôn thấp thoáng của bà và nếu bạn nhảy bổ tới đúng lúc, có thể bạn đã với được tới nụ hôn. Chưa bao giờ có gia đình nào đơn giản và vui vẻ đến thế cho tới lúc Peter xuất hiện.
Bà Darling nghe nhắc tới Peter lần đầu tiên trong khi bà đang cố gắng sắp xếp lại đầu óc bọn trẻ cho có trật tự một chút. Các bà mẹ có thói quen hay sắp xếp lại đầu óc của trẻ thơ sau khi chúng đi ngủ, xếp gọn gàng vào chỗ biết bao nhiêu là đồ đạc lẫn lộn lung tung trong suốt cả ngày. Nếu bạn còn có thể thức được, điều này cố nhiên là không rồi, bạn sẽ thấy bà mẹ của mình đang dọn dẹp và bạn có thể sẽ rất thích thú thấy bà như vậy. Cũng giống như xếp dọn đồ đạc trong ngăn tủ vậy thôi. Bạn sẽ thấy bà quỳ xuống và mỉm cười nhìn tất cả những gì bạn đã tích cóp được, lòng thầm hỏi làm sao mà bạn có thể nảy ra cái ý đó, và bà đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, không phải ngạc nhiên nào cũng là dễ chịu, bà ôm chặt lấy ý nghĩ này như ôm một chú mèo con, xua đuổi ý nghĩ kia ra khỏi tầm nhìn của bà.
Khi bạn ngủ dậy, cái ác và những ham thích xấu cùng bạn vào giường tối hôm trước đã được xếp gọn và cất kỹ tận đáy tâm tư của bạn, và bên trên là các ý tưởng xinh xắn, dễ thương, được mẹ phơi phóng cho thơm khô và bày ra sẵn sàng cho bạn khoác lên.
Tôi không biết đã bao giờ các bạn nhìn thấy bản đồ trí tuệ của một con người chưa. Các thầy thuốc đôi khi vẽ nên sơ đồ các bộ phận khác của cơ thể bạn, việc này có thể cũng rất hay, nhưng bạn cứ thử nhìn họ vẽ bản đồ ý nghĩ của một đứa trẻ không những rối tinh rối mù mà còn thường xuyên lượn lờ ngoài đồng mà xem! Bạn sẽ thấy vô số các đường chữ chi, giống như biểu đồ nhiệt độ của bạn ở bệnh viện vậy và chắc đó chính là các con đường nhỏ chạy ngang dọc hòn đảo với các vệt màu đây đó tuyệt đẹp, các rặng san hô, ngoài khơi có những con tàu cướp biển, các hang hốc hoang dại và đơn độc, các chú lùn (đa số là thợ may), các hang động với sông ngầm chảy qua, một căn lều sập sệ và một bà cụ già lụ khụ mũi khoằm. Nếu chỉ có thế thôi thì tấm bản đồ này còn gọi là tương đối dễ vẽ. Thế nhưng còn phải tính đến ngày đi học đầu tiên, tôn giáo và các đức cha, bồn nước tròn, tập đan thêu, các vụ án mạng, các vụ treo cổ, động từ bất quy tắc, ngày nào mẹ làm bánh socola, ngày đeo nịt bít tất đầu tiên, coi như là ba mươi ba, sáu xu nếu ta tự nhổ răng cho mình, và v.v… Tất cả các yếu tố đó là một phần của đảo trừ phi lại còn một tấm bản đồ nữa chạy đè ngang qua làm ta chẳng còn hiểu gì nữa cả, chưa kể là cả cái mớ hổ lốn này lại luôn biến đổi.
Tất nhiên, xứ Neverland với mỗi người một khác. Trong hòn đảo của John chẳng hạn, ta thấy có một cái đầm nhỏ với các con hồng hạc bay ngang và John hạ chúng bằng súng cạc bin trong khi Michael bé hơn nên cũng có một con hồng hạc nằm dưới nhiều đầm nước đang bay. John sống trong vỏ một con tàu bị lật úp trên cát còn Michael trong một cái lều của thổ dân Da đỏ, Wendy thì trong một ngôi nhà bằng lá dính vào nhau một cách khéo léo. John không có bạn. Michael đến tối mới có và Wendy chăm nom một bé sói con bị bố mẹ bỏ rơi. Nhưng đại thể các xứ sở Neverland có một nét gì đấy giông giống nhau. Nếu các bạn xếp chúng nằm kề nhau, các bạn có thể nói rằng chúng có mũi giống nhau, có cái nhìn giống nhau, v.v… Bên các dòng sông thần diệu đó, đám trẻ chơi đùa không biết mệt với các con tàu tết bằng dương liễu. Chúng ta cũng đã từng chơi ở đó và còn giữ trong mình dư âm tiếng ồn của sóng dội vào ghềnh đá trên đảo, dù ta biết chẳng bao giờ cập được bến bờ đó nữa.
Trong tất cả các hòn đảo tuyệt thú đó, xứ sở Neverland là vùng êm ái nhất và đầy rẫy sự kiện nhất, chẳng cần kéo dài khoảng cách vô vị giữa hai cuộc phiêu lưu mà tất cả đều cuốn vào nhau. Khi bạn chơi lúc ban ngày với chăn và ghế, nó chẳng có gì đáng sợ cả, nhưng khi chỉ còn hai phút nữa là ta chìm vào giấc ngủ, xứ sở đó trở nên rất thật. Chính vì thế mà người ta phải có đèn ngủ đấy.
Đôi khi trong lúc đi qua các ý nghĩ của các con, bà Darling tìm ra những thứ thật khó hiểu. Và cái đáng ngại nhất là Peter. Bà không quen ai tên là Peter thế mà nó hiện diện trong đầu John, Michael và cũng bắt đầu nhấp nhô trong tâm tưởng của Wendy. Cái tên này in dấu đậm nét hơn nhiều tên khác và bà Darling, càng nhìn vào cái tên đó càng thấy nó có vẻ vênh váo.
- Đúng, cậu ấy khá là tự phụ đấy, Wendy hơi nuối tiếc thừa nhận.
Mẹ hỏi:
- Nhưng đó là ai hả bé cưng?
- Peter Pan mà mẹ, mẹ biết thừa rồi.
Mới đầu, bà Darling không hiểu nhưng sau khi ngược trở lại thời thơ ấu của chính mình, bà nhớ ra một chú Peter Pan nào đó mà người ta bảo sống cùng với các nàng tiên. Nhiều chuyện kỳ dị được kể về Peter Pan, chẳng hạn như khi trẻ em bị chết, Peter Pan đi cùng với chúng một quãng đường để chúng đỡ sợ. Thời nhỏ bà đã tin rằng có Peter nhưng nay bà đã có gia đình và là người đứng đắn, bà chẳng tin lắm vào sự tồn tại của Peter.
- Với lại, từ đó tới nay thì Peter phải lớn lên rồi chứ, bà Darling bảo con.
- Ôi không mẹ ơi, cậu ấy có lớn lên đâu, cậu ấy chỉ to bằng con thôi.
Wendy muốn nói rằng Peter cũng trạc như cô cả về vóc dáng lẫn tinh thần. Cô không biết tại sao nhưng rõ là phải như vậy.
Bà Darling hỏi ý kiến ông Darling nhưng ông chỉ mỉm cười coi thường:
- Em ơi, tin anh đi, đó chỉ là những câu chuyện dấm dớ mà Nana lại nhồi vào đầu bọn trẻ con thôi. Thật đúng là ý kiến của loài cầy. Em đừng để tâm, rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.
Nhưng mọi chuyện không ổn cả và chẳng bao lâu sau, chú Peter hiếu động sẽ khiến bà Darling phải sốc.
Bọn trẻ trải qua những cuộc phiêu lưu kỳ lạ nhất mà không hề thấy xáo động. Chẳng hạn chúng có thể nhớ lại một tuần sau rằng chúng gặp ba đã chết và chơi với ba trong rừng. Cũng vô tình như thế mà Wendy một hôm để lộ ra sự thật đáng lo ngại. Trong phòng trẻ con có vài chiếc lá rơi rụng mà rõ là tối hôm trước lúc bọn trẻ đi ngủ chưa hề có. Bà Darling sững người khi Wendy vừa nói vừa mỉm cười độ lượng:
- Lại Peter đấy mà!
- Wendy, con nói gì vậy?
- Cậu ấy không quét đi thì là hư mẹ nhỉ, Wendy mỉm cười nhận xét, cô là một cô bé ngăn nắp.
Cô bình thản giải thích rằng đôi khi Peter đến chơi phòng trẻ em ban đêm và ngồi ở đầu giường Wendy mà thổi sáo. Không may là Wendy chẳng bao giờ thức giấc nên không hiểu tại sao cô biết chắc đến vậy nhưng rõ ràng là như thế.
- Cưng ơi, con nói linh tinh rồi. Chẳng ai vào nhà lại không gõ cửa cả.
- Con nghĩ cậu ấy đi bằng đường cửa sổ.
- Phòng mình tầng hai cơ mà con.
- Mẹ ơi, thế mọi khi làm gì có lá trước cửa sổ đâu.
- Đúng vậy, có một đống lá gom lại ngay dưới cửa sổ.
Bà Darling chẳng biết nghĩ sao nữa. Bí ẩn này dường như lại rất đỗi bình thường đối với Wendy nên bà chẳng thể cho qua với lý do rằng Wendy mơ ngủ.
- Tại sao con không nói cho mẹ biết sớm hơn?
- Con quên mất, Wendy hồn nhiên đáp, vì cô đang rất vội đi ăn sáng.
Chắc là Wendy nằm mơ rồi. Thế nhưng mặt khác, đống lá vẫn còn đó. Bà Darling xem xét kỹ đống lá: đó là những cái lá khô, có khi chỉ còn trơ gân lá thôi, nhưng bà tin chắc đó không phải lá của bất cứ loại cây nào mọc được trên đất Anh. Bà bò toài ra trên sàn, soi cả nến để tìm dấu chân lạ. Bà lấy que cời lửa ngoáy trong lò sưởi, dộng lên tường. Bà thử thả một sợi ruy băng từ cửa sổ xuống đất. Tường cao phải đến mười mét và chẳng có chút góc cạnh nào cho người dễ trèo leo.
Chắc chắn là Wendy mơ ngủ.
Nhưng Wendy thực ra đâu có mơ, như những sự kiện đêm sau sẽ chứng minh, mà từ đó bắt đầu cuộc phiêu lưu thần kỳ của lũ trẻ.
Buổi tối mà chúng tôi vừa kể, bọn trẻ đi ngủ như thường lệ. Hôm đó là ngày Nana nghỉ và bà Darling đã cho các con tắm và hát ru chúng cho tới khi lần lượt từng đứa một buông tay mẹ ra và chìm dần vào giấc ngủ. Các con trông bình yên và tin cậy đến độ bà cười thầm về mối lo ngại của mình và ra ngồi cạnh lò sưởi khâu áo. Bà may áo cho Michael vì bé sắp đến tuổi mặc chiếc áo sơ mi đầu tiên. Tuy vậy, lò sưởi ấm cúng, ánh đèn phòng trẻ chỉ sáng mờ mờ với ba ngọn đèn ngủ, mọi thứ khiến cho mảnh vải tụt khỏi tay bà Darling và tuột xuống đầu gối. Rồi mái đầu bà nhẹ nhàng gục sang bên: bà Darling cũng ngủ. Các bạn thử nhìn xem cả bốn người, Wendy và Michael ở đằng kia, John ở góc này và bà mẹ ngồi gần bên lò sưởi. Lẽ ra phải có một ngọn đèn thứ tư mới phải chứ.
Trong giấc ngủ, bà Darling mơ thấy mình đang tới gần xứ sở Neverland và có một cậu bé kỳ dị từ đó ló ra. Bà không thấy sợ cậu bé đó vì bà nghĩ đã từng nhìn thấy nó trên gương mặt của biết bao phụ nữ không con. Cũng có thể người ta còn gặp cậu trên nét mặt của vài bà mẹ nữa. Nhưng trong giấc mơ của mình, bà thấy cậu vạch tấm màn che xứ sở Neverland và Wendy, John, Michael đang tò mò nhìn qua chỗ vén lên.
Giấc mơ này tự nó chẳng có chuyện gì, nhưng trong khi bà Darling đang mơ, cửa phòng trẻ con tự nhiên bật tung ra và một chú bé con nhảy xuống sàn. Một vầng sáng kỳ lạ, to chẳng hơn nắm tay mấy tí, bay theo chú loạn lên trong phòng như mọt sinh vật sống. Và chắc là chính vầng sáng này đã đánh thức bà Darling, bà ngồi bật dậy và thét lên một tiếng, nhìn thấy chú bé con và hiểu ngay đó là Peter Pan. Nếu bạn hoặc tôi hoặc Wendy có mặt lúc đó, chắc chúng ta sẽ thấy ngay rằng chú bé rất giống với nụ hôn của bà Darling. Chú thật xinh xắn, mặc quần áo bằng lá cây đính lại bằng nhựa cây. Nhưng xinh nhất hẳn là những chiếc răng sữa của chú, chẳng mất chiếc nào. Khi thấy trước mặt mình là một người lớn, cả bộ răng trắng nõn như ngô non nghiến lên kèn kẹt.
Bà Darling hét lên một tiếng và để đáp lời bà, như khi ta giật chuông gọi người giúp việc, cửa mở và Nana vừa đi nghỉ về, chạy vào phòng. Nó gầm gừ và lao bổ vào đứa trẻ. Chú ta nhẹ nhàng nhảy vọt qua cửa sổ. Bà Darling lại kêu lên, hoảng sợ vì lo thằng bé ngã chết mất. Bà chạy vội xuống cầu thang tìm chú nhưng chẳng thấy dấu vết gì. Bà ngẩng đầu lên nhưng cũng chẳng thấy gì trên bầu trời đêm ngoài một cái gì tựa vệt sao băng.
Bà quay vào phòng trẻ con và thấy Nana ngậm trong mồm thứ gì đó. Nhìn gần, hóa ra là cái bóng của chú bé. Khi chú ta nhảy qua cửa sổ, Nana vội khép cửa thật nhanh nhưng đã muộn, chỉ bắt được cái bóng của chú không theo kịp chủ.
Bà Darling xem xét kỹ lưỡng cái bóng này nhưng không thấy có gì đặc biệt.
Nana rõ là đã có cách xử lý với chiếc bóng. Nó treo bóng ngoài cửa sổ với ý nghĩ rằng: Chú bé sẽ quay trở lại tìm bóng, ta cứ thu xếp để chú ta lấy lại bóng của mình mà không làm phiền đến bọn trẻ.
Nhưng không may là bà Darling không thể để cái bóng treo như thế được, trông cứ như đồ lót đem phơi vậy và gia đình sẽ mang tiếng với hàng xóm láng giềng. Bà định đem cho ông Darling xem cái bóng mới bắt được nhưng ông đang bận cộng giá tiền của áo măng tô mới của John và Michael, đầu quấn một chiếc khăn ướt cho tỉnh táo và nếu làm phiền ông lúc này hẳn sẽ chẳng hay. Vả chăng, bà biết trước ông sẽ nói gì: “Đấy, có chó làm bảo mẫu thì sẽ phải như thế thôi”. Bà quyết định cuộn cái bóng lại và xếp vào tủ chờ đến lúc nào thuận lợi hơn mới báo cho chồng.
Cơ hội này đến vào tuần sau, vào cái ngày thứ sáu sẽ trở thành vô cùng đáng nhớ trong gia đình. Mà hiển nhiên là nó phải xảy ra vào ngày thứ sáu rồi.
- Lẽ ra em phải cẩn thận hơn vào ngày thứ sáu mới phải, bà thường nhắc lại nhiều lần với chồng trong khi Nana đứng cạnh đỡ tay bà.
- Không, không, bao giờ ông Darling cũng trả lời. Anh mới là người có lỗi. Lỗi tại anh, George Darling. Mea culpa, mea culpa.
(Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng - tiếng Latin trong nguyên bản)
Các bạn thấy đấy, ông là người được giáo dục theo kiểu cổ điển.
Hàng đêm, họ nhớ về ngày thứ sáu bất hạnh với từng chi tiết nhỏ, được khắc sâu trong tâm khảm họ đến đỗi có cơ hằn lên như một đồng xu đúc kém.
- Giá như em không nhận lời đi ăn tối với nhà 27, bà Darling bảo.
- Còn anh, giá như anh đừng đổ thuốc của anh vào bát của Nana, ông Darling thừa nhận.
- Giá như tôi cứ giả vờ thích món thuốc ấy, đôi mắt hoen lệ của Nana như nói vậy.
- Lỗi tại em cứ sính mấy cái trò giao tế, George ạ.
- Không, tại anh đùa chẳng đúng lúc tí nào.
- Tại tôi cứ động lòng mấy cái việc nhỏ nhặt, ông bà chủ ạ.
Lần lượt hoặc đôi khi cùng nhau, họ ứa nước mắt một cách chua xót và Nana tự nhủ trong tuyệt vọng: “Đúng vậy, lẽ ra nhà chủ không nên lấy chó làm bảo mẫu mới phải”. Và cũng nhiều lần, ông Darling lấy khăn mùi xoa lau nước mắt cho nó.
“Cái tên quỷ sứ ấy!” Ông Darling rên rỉ và Nana sủa phụ họa theo. Nhưng không bao giờ bà Darling nghĩ đến chuyện trách móc Peter, có một cái gì đó ở góc môi bên phải của bà, ngăn không cho bà nói xấu chú.
Và trong phòng trẻ em vắng lạnh, họ ngồi nhớ lại từng chi tiết một của cái buổi tối kinh hoàng kia. Một buổi tối bắt đầu rất bình yên như bao tối khác. Nana đi ra đi vào để chuẩn bị tắm cho Michael và cõng Michael đến tận bồn.
- Con không đi ngủ đâu! Michael kêu lên như thể nó có tiếng nói nào đó trong vấn đề này. Không, Nana, ứ ừ, mới chưa đến sáu giờ. Ôi, Nana hư, không yêu Nana. Con bảo là con không tắm cơ mà. Không đâu, không đâu nào.
Lúc đó bà Darling bước vào phòng, mặc áo dài màu trắng để đi dự cơm tối bên ngoài. Bà bận đồ sớm để chiều Wendy vì em muốn thấy mẹ ăn bận đẹp, đeo vòng cổ ba mua tặng mẹ. Bà đeo nơi tay chiếc vòng Wendy cho mượn vì Wendy rất thích cho mẹ mượn vòng. Hai đứa lớn đang chơi trò làm bố mẹ ngày Wendy ra đời và John bảo:
- Tôi vui mừng thông báo để bà biết rằng bà đã làm mẹ, giọng nó bắt chước giống hệt giọng ông Darling nhân dịp trọng đại.
Wendy vui mừng nhảy múa, cũng giống như bà Darling thật đã làm vậy. Rồi đến lượt John ra đời, với những sự trang trọng đặc biệt theo ý nó dành cho sự chào đời của một người đàn ông, và Michael vừa ra khỏi bồn tắm cũng xin được ra đời nhưng John thô bạo tuyên bố rằng nó không muốn có thêm con đến nỗi Michael gần khóc.
- Chẳng ai muốn có con cả, Michael bảo.
Dĩ nhiên là thiếu phụ xinh đẹp bận đồ trắng không thể cầm lòng được.
- Có chứ, tôi đang rất muốn có thêm con đây này.
- Con gái hay con trai? Michael nghi ngờ hỏi.
- Con trai.
Thế là Michael nhỏ bé ôm chầm lấy mẹ. Đó quả là một kỷ niệm rất nhỏ bé mà ông bà Darling và Nana cùng gợi lại. Nghĩ cho cùng thì chi tiết này cũng chẳng bé vì đó là đêm cuối cùng Michael ngủ trong phòng trẻ em. Họ lại tiếp tục gợi lại những kỷ niệm.
- Đúng lúc đó, anh lao vào phòng như một cơn lốc vậy - ông Darling nói với giọng tự giễu.
Quả là lúc đó, ông lao vào phòng như một cơn lốc.
Có thể là ông cũng có lý do: ông cũng diện bảnh để đi dự cơm tối và mọi thứ đối với ông đều ổn cho tới lúc ông thắt cà vạt. Lạ ghê lắm nhưng phải thừa nhận là một quý ngài giỏi giang như vậy trên thị trường chứng khoán lại xoay xở chẳng ra sao với chiếc cà vạt của mình. Đôi khi, cái cà vạt cũng ngoan ngoãn tuân lệnh nhưng thường thì tốt nhất cho mọi người là ông nên dằn tự ái của mình xuống và đeo một chiếc cà vạt vẽ còn hơn!
Tối hôm đó cũng vậy. Ông đột ngột bước vào phòng trẻ với chiếc cà vạt đáng nguyền rủa nhàu nhĩ trong lòng bàn tay.
- Chúa ơi, ba làm sao vậy?
- Ba làm sao ấy à! - Ông gầm lên - Cái cà vạt tội nợ này chẳng sao thắt được - Ông chua chát gằn giọng - Lúc thắt quanh cọc giường thì được, ba đã thắt mấy chục lần quanh cọc giường rồi! Nhưng đến lúc thắt quanh cổ thì không ra gì. Ôi thật xin lỗi em!
Ông nghĩ thế chưa đủ để gây ấn tượng với bà Darling và nghiêm giọng nói tiếp:
- Mẹ nó này, anh báo cho em biết là nếu cái cà vạt này không chịu nghe lời anh mà chịu thắt quanh cổ, tối nay chúng mình không đi ăn nữa, và nếu tối nay chúng mình không đi ăn nữa, anh sẽ không bao giờ đến văn phòng nữa, có nghĩa là chúng mình sẽ chết đói còn các con sẽ ra đường.
Bà Darling vẫn bình tĩnh:
- Nào anh để em thử xem nào.
Và quả thực ông cũng chỉ mong có thế. Những ngón tay thon mát dịu của bà thắt chiếc cà vạt chẳng khó khăn gì và lũ trẻ đứng quanh xem mẹ định đoạt số phận của nó. Cóvài ông có khi phát tức vì vợ khéo léo đến vậy nhưng ông Darling được cái không phải người nhỏ nhen. Ông cảm ơn vợ một cách qua loa, quên ngay là mình vừa cáu và chỉ lát sau đã nhảy múa quanh phòng cùng với Michael trên vai.
- Chúng mình hồi ấy mới vui làm sao! - Bà Darling nhớ lại.
- Đấy là lần cuối cùng - ông Darling than.
- George, anh có nhớ lúc Michael đột nhiên hỏi em “Mẹ ơi, sao mẹ lại quen con” không?
- Anh nhớ chứ.
- Các con mình dễ thương quá!
- Hồi đó các con là của chúng mình, bây giờ chúng đã đi mất rồi!
Cuộc vui dừng lại lúc Nana bước vào phòng. Không may là ông Darling va phải Nana khiến quần ông đầy lông. Không những đó là một chiếc quần mới mà còn là chiếc đầu tiên có dải viền và ông phải mím môi mới khỏi bật khóc vì tức. Tất nhiên là bà Darling lại chải quần cho ông, nhưng ông lại nhân dịp làu nhàu về nỗi sai lầm đã lấy chó vào làm bảo mẫu.
- George, Nana là của quý đấy.
- Rõ rồi, tuy nhiên, đôi khi anh cứ nghĩ là nó coi con mình cũng là chó con luôn.
- Không đâu anh, em tin chắc là nó biết rằng bọn trẻ là con người, có linh hồn.
- Anh cũng đang tự hỏi về chuyện đó đây - ông Darling hơi trầm xuống.
Bà Darling thấy đã đến lúc nói về cậu bé bí ẩn. Thoạt tiên, ông chẳng giấu vẻ giễu cợt nhưng khi bà vợ cho ông xem cái bóng, ông trở nên nghĩ ngợi.
- Không phải trong số những người anh quen - ông vừa nói vừa xem xét kỹ cái bóng - Trông nó có vẻ du đãng.
- Chúng mình vẫn đang nói dở - ông Darling bảo - đúng lúc Nana bước vào với liều thuốc nước của Michael. Nana, không bao giờ được mang thuốc của em trong mõm như vậy nữa nhé, lỗi tại tôi đây mà.
Dù cương quyết đến đâu, ông cũng xử sự một cách ngốc nghếch đối với chỗ thuốc ấy. Điều ông hay khoe nhất đó là uống thuốc không bao giờ nhăn nhó. Trong khi Michael đẩy cái thìa về phía Nana, ông nghiêm giọng chê trách:
- Michael, đàn ông con trai thì phải thế nào chứ!
- Con không muốn uống! - Michael nũng nịu kêu.
Bà Darling đi tìm một thỏi socola và ông Darling cho rằng bà quá chiều con:
- Mẹ nó ạ, đừng chiều con quá như thế. Michael, hồi bố bằng con, bố uống thuốc như không. Bố còn bảo: “Cám ơn bố mẹ cho con uống các thứ thuốc nước này để chữa bệnh cho con!” Thế cơ mà.
Ông tin rằng đã nói lên sự thật và Wendy, trong bộ đồ ngủ, cũng tin vậy vì để động viên Michael, em khuyên:
- Ba ơi, thuốc mà ba thỉnh thoảng phải uống ấy, còn đắng hơn nhiều đúng không ba?
- Rất đắng, và nếu ba không đánh mất chai thuốc thì ba đã uống ngay cho con xem, Michael!
Chính xác ra là ông không đánh mất chai thuốc. Nửa đêm hôm trước, ông đã trèo lên một chiếc ghế cao để giấu nó trên tít nóc tủ. Ông không biết là cô bé giúp việc Liza đã tìm ra nó và lại để nó trên giá rửa mặt.
- Ba ơi, con biết nó ở đâu rồi - Wendy vốn luôn thích giúp đỡ mọi người - để con đi tìm cho.
Và cô bé biến đi trước khi ông Darling kịp giữ con gái lại. Ngay lập tức tinh thần ông Darling sa sút trông thấy.
- John - ông rùng mình nói - chất nước ấy là một thứ kinh tởm, hôi rình, nhờn nhờn, gớm chết lên được.
- Ba ơi, ực một cái là xong thôi mà - John vui vẻ khuyên.
Vừa mới nói xong thì Wendy chạy ào vào phòng, tay cầm thuốc rót sẵn trong cốc.
- Con cố chạy nhanh nhất đấy - cô hổn hển nói.
- Thật chẳng thể nào nhanh hơn! - Ông bố nói với vẻ lịch sự mà Wendy không thể nhận ra cái ý chán chường - Nào Michael uống trước đi.
- Ba uống trước - Michael nói, với bản tính hay nghi ngờ.
- Con biết là nếu ba uống ba sẽ phát ốm lên mà - ông Darling đe.
- Nào ba ơi, dũng cảm lên - John kêu gọi.
- Con ngậm cái mồm con lại - ông bố quát.
Wendy hết sức kinh ngạc:
- Con tưởng ba uống thuốc dễ lắm mà…
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Cái khác là có nhiều thuốc trong cốc của ba hơn trong cái thìa của Michael.
Trái tim cao quý của ông gần vỡ tung.
- Thật không công bằng, có chết ba cũng vẫn phải nói là không công bằng.
- Ba, con đang chờ đây - Michael lạnh lùng nói.
- Con nói hay đấy, ba cũng đang chờ đây.
- Ba sợ nhé.
- Con sợ đấy chứ.
- Con không sợ.
- Ba cũng không.
- Thế thì ba uống đi.
- Con uống trước.
Đột nhiên Wendy nảy ra sáng kiến:
- Hay cả ba và Michael cùng uống một lúc?
- Đồng ý - ông Darling phán - Con sẵn sàng chưa Michael?
Wendy hô một, hai, ba và Michael nuốt xong phần thuốc. Nhưng ông Darling giấu cốc thuốc của ông sau lưng.
Michael hét lên vì tức còn Wendy thốt lên:
- Kìa ba!
- Con định bảo Kìa ba cái gì? - Ông Darling hỏi - thôi ngay đi Michael. Ba cũng đang định uống nhưng… nhưng bị trượt tay.
Cả ba đứa trẻ nhìn ông với ánh mắt dữ dội, dường như chúng từ bỏ tất cả niềm thán phục nơi ba chúng.
- Nghe này các con – ông Darling nói với giọng ngọt ngào trong khi Nana biến vào phòng tắm – Ta sẽ đùa vui một chút. Ba sẽ đổ chỗ thuốc này vào bát của Nana, nó sẽ tưởng là sữa và sẽ uống đấy.
Thuốc có màu sữa thật, nhưng bọn trẻ chẳng thấy ý tưởng này của ba chúng hài hước tẹo nào và nhìn ba trách móc trong lúc ông Darling trút thuốc vào bát của Nana.
- Buồn cười nhỉ? – Ông Darling nói không chắc chắn lắm.
Và bọn trẻ cũng không dám lên tiếng tố cáo khi bà Darling và Nana quay trở vào phòng.
- Nana, cún cưng – ông Darling vừa nói vừa vuốt ve đầu con chó – ba cho ít sữa vào bát của Nana đấy.
Nana vẫy đuôi, lon xon chạy đến chỗ bát ăn của nó và tớp tớp. Rồi nó nhìn ông Darling: Ôi, một cái nhìn không hề tức giận mà lại lấp lánh một giọt nước mắt to đùng khiến trái tim chúng ta tan nát mỗi khi chúng ta thấy các người bạn bốn chân chịu đau khổ. Rồi nó trốn vào trong chuồng.
Ông Darling cảm thấy vô cùng xấu hổ nhưng ông không muốn để lộ điều đó.
Trong im lặng nặng nề, bà Darling ngửi cái bát:
- Ồ George, thuốc của anh đây mà!
- Anh đùa đấy mà – ông lầm bầm trong khi bà cố an ủi bọn trẻ con.
Wendy ra ôm lấy cổ Nana.
- Thật bõ công tôi mua vui cho các người đấy nhỉ! – Ông Darling chua chát nói.
Wendy vẫn ôm lấy cổ con chó.
- Rõ rồi, cứ âu yếm nó đi! Còn tôi thì ai thương đây. Thôi cũng chẳng sao. Tôi chỉ là người đi kiếm cơm nuôi cái nhà này thôi. Việc gì mà ai phải thương tôi. Cần quái gì phải thế cơ chứ!
- George, đừng nói to thế, kẻo kẻ ăn người ở nghe thấy đấy – Bà Darling nhắc chồng.
Cũng chẳng biết tại sao họ lại chuyển Liza thành “kẻ ăn người ở”.
- Tôi không cần – ông tức quá vặc lại – Cho cả thiên hạ nghe thấy cũng được nhưng con chó này sẽ không tự tung tự tác một giờ nào nữa trong phòng trẻ nhà tôi!
- George, kìa anh George – bà Darling thì thầm – anh có nhớ em nói gì với anh về cậu bé kia không?
Thật không may, ông Darling quyết cho thiên hạ biết ai mới là chủ nhà, ông chẳng thèm nghe bà Darling nói và khi thấy Nana không chịu chui ra khỏi chuồng theo lơi ông ra lệnh, ông bèn ngọt ngào dụ nó rồi thô bạo túm lấy nó lôi ra khỏi phòng trẻ con, dù ông xấu hổ về hành động của mình, vì bản chất quá tình cảm cứ muốn được ngưỡng mộ.
Sau khi buộc Nana ngoài sân, người cha bất hạnh ngồi im lìm trong hành lang, nắm tay che mắt.
Trong lúc đó, bà Darling đã cho bọn trẻ đi ngủ trong sự im lặng hiếm thấy và thắp các ngọn đèn ngủ lên. Người ta nghe rõ tiếng Nana sủa trong sân và John buồn rầu nói:
- Đó là vì ba xích nó lại đấy.
Nhưng Wendy tỏ ra khôn hơn:
- Khi nào mà Nana sủa như vậy – cô bé nhận xét mặc dầu cô chẳng hề tưởng tượng ra chuyện gì sắp tới – Đó chẳng phải vì Nana khổ, mà là vì nó cảm thấy nguy hiểm đấy.
- Nguy hiểm à? Con chắc không Wendy?
- Chắc mà!
Bà Darling rùng mình và đến gần cửa sổ. Cửa đóng chặt. Bà nhìn ra bên ngoài: đêm đen, rải rác có nhiều vì sao dường như đang tò mò tụ tập quanh nhà để xem những gì sắp xảy ra. Nhưng bà Darling không nhận thấy điều đó. Và bà cũng không thấy có hai hoặc ba vì sao bé nhất nháy mắt với bà. Tuy nhiên, một nỗi sợ khó giải thích bóp nghẹt trái tim, khiến bà ứa nước mắt.
- Ôi, mình ước gì không phải đi tối nay!
Đã gần ngủ đến nơi nhưng Michael vẫn nhận ra nỗi lo lắng của bà và hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, khi đã thắp đèn ngủ rồi thì có gì sợ nữa không hả mẹ?
- Không con, đèn ngủ là mắt của mẹ để lại để canh cho các con mà.
Bà đi từng giường một, miệng khẽ hát những lời cầu bình yên và bé Michael vòng tay ôm cổ mẹ.
- Mẹ ơi, có mẹ ở đây con thích lắm.
Đó là những lời cuối cùng bà nghe Michael nói trước thời gian chia cách đó.
Nhà số 27 chỉ cách có vài bước chân nhưng tuyết đã rơi nhẹ và ông bà Darling phải đi rất cẩn thận để không làm bẩn giầy. Họ là những người duy nhất đi trong phố và các ngôi sao chăm chú theo dõi họ. Sao rất đẹp nhưng chúng chẳng tham dự vào những điều diễn ra trên Trái Đất, hành tinh mà chúng cứ phải nhìn mãi mãi. Đó là sự trừng phạt dành cho chúng vì những lỗi lầm phạm phải trong một quá khứ xa xôi đến mức chúng cũng chẳng còn nhớ nữa. Cũng vì thế mà các ngôi sao già nhất sáng một cách nhợt nhạt và ít khi nói (chúng chỉ bày tỏ bằng cách nhấp nháy); duy các ngôi sao nhỏ thì vẫn còn ngây ngất trước từng sự kiện bé xíu. Chúng cũng không đặc biệt có cảm tình với Peter vốn hay chơi khăm bằng cách luồn sau lưng chúng rồi thổi chúng đi. Tuy nhiên, các ngôi sao thích được đùa vui đến độ tối đó chúng đều về hùa với Peter và chỉ mong người lớn đi cho nhanh. Vì vậy, ngay lúc cửa nhà 27 vừa đóng lại sau lưng khi ông bà Darling bước vào, trên bầu trời xôn xao náo động rồi ngôi sao bé nhất trong tất cả các sao trên dải Ngân hà kêu lên :
- Vào đi kìa, Peter
Đèn ngủ vẫn sáng trong phòng trẻ một lát lâu sau khi ông bà Darling đi. Đó là những chiếc đèn con xinh xắn và giá mà chúng thức được để xem Peter nhỉ, thế nhưng chiếc đèn của Wendy nhấp nháy rồi ngáp dài đến nỗi hai chiếc đèn kia cũng ngáp theo, rồi chúng chưa kịp khép miệng thì cả ba đều tắt lịm.
Có một làn ánh sáng khác lấp lánh trong phòng trẻ con, ngàn lần sáng hơn các ngọn đèn ngủ và chỉ trong nháy mắt, đã lục hết các ngăn tủ, lục từ trên xuống dưới và lật tung các túi để tìm bóng của Peter. Đó cũng không hẳn là một cái đèn mà là một nguồn phát ra các tia sáng liên tục và trong một thoáng, cho ta thấy đó là một cô tiên, không lớn hơn bàn tay và vẫn còn trẻ con. Tên cô ta là Tinker Bell và cô mặc một chiếc váy bằng lá cây rất lộng lẫy, cổ vuông hở rộng làm nổi bật thân hình mũm mĩm xinh xắn của cô. Cô tiên vừa xuất hiện thì cửa sổ mở tung do các ngôi sao cùng thổi và Peter Pan nhảy vào phòng. Chú ta đã mang Tinker Bell suốt một đoạn đường và tay chú còn dính đầy bụi thần.
- Tinker Bell – Chú khẽ gọi sau khi tin chắc lũ trẻ đã ngủ - Tinker Bell, cậu đâu rồi ?
Cô tiên đã chui vào trong một cái côc to và tỏ ra rất thích ở trong đó; chưa bao giờ cô ta thám hiểm một cái cốc to.
- Nghe này, cậu ra khỏi cái cốc đi và trả lời tớ ngay! Cậu có biết họ đã làm gì cái bóng của tớ không.
Có tiếng chuông khẽ thánh thót đáp lại câu hỏi của Peter. Đó là tiếng nói của loài tiên. Các bạn trẻ con bình thường sẽ không bao giờ nghe thấy tiếng đó nhưng nghe rồi thì các bạn sẽ nhận ra đã từng nghe đâu đó rồi.
Tinker Bell đáp rằng bóng nằm trong cái hộp lớn. Đó là cô ta định nói tới cái tủ và Peter nhảy bổ tới các ngăn tủ, thò hai tay lôi mọi thứ trong đó vứt tung xuống đất, cũng tựa như các ông vua vứt tiền vàng xuống cho thần dân vậy. Chú nhanh chóng tìm thấy lại bóng của mình và vui quá chú quên mất rằng mình đã nhốt Tinker Bell trong ngăn tủ. Vì chú vẫn nghĩ, giả sử là chú ta biết nghĩ – tôi chưa chắc lắm về điểm này, rằng chỉ cần đặt cạnh nhau, bóng và người chú sẽ gắn lại như hai giọt nước lăn vào nhau, thì nay chú hoảng sợ thực sự khi thấy bóng chẳng chịu gắn vào người. Chú thử lấy bọt xà phòng gắn mà không xong. Peter rùng mình, và ngồi xệp xuống đất, chú khóc.
Tiếng nức nở của Peter làm Wendy thức giấc và cô ngồi dậy. Việc có người lạ khóc trong phòng trẻ chẳng làm cô e sợ chút nào, cô chỉ thấy tò mò.
- Chú bé này - Wendy lịch sựhỏi - tại sao chú khóc?
Peter cũng chứng tỏ mình là người vô cùng lịch sự vì chú đã học cách cư xử thượng lưu qua các buổi tiệc của các cô tiên. Chú đứng dậy và nghiêng mình duyên dáng cúi chào Wendy.
Wendy rất thích thú và cũng đáp lễ lại Peter với phong thái thật thoải mái.
- Cậu tên là gì? - Peter hỏi.
- Wendy Moira Angela Darling - Wendy đáp thoải mái – Còn cậu?
- Peter Pan.
Wendy đã biết ngay rằng đó là Peter nhưng tên chú bé dường như có phần ngắn ngủi đối với cô.
- Thế thôi sao?
- Đúng vậy - Peter hơi lạnh lùng trả lời.
Lần đầu tiên trong đời, chú nhận ra sự cụt lủn của tên mình.
- Xin lỗi cậu - Wendy Moira Angela chữa.
- Không sao - Peter nói mà họng như khô lại.
Wendy lại hỏi nhà cậu ở đâu.
- Ngã tư thứ hai rẽ phải, sau đó đi thẳng tới bình minh.
- Địa chỉ lạ nhỉ!
Peter cảm thấy hơi cú. Lần đầu tiên chú nhận thấy địa chỉ nhà mình kỳ quặc.
- Không, có gì lạ đâu – chú vặc lại.
- Tớ định nói là - Wendy chợt nhớ ra Peter là khách và nói với giọng mềm mỏng - có phải bác đưa thư bỏ thư ở đó cho cậu không?
Chẳng hiểu tại sao cô lại nói tới chuyện này.
- Tớ không nhận thư - Peter khinh khỉnh đáp.
- Nhưng mẹ cậu phải nhận thư chứ?
- Tớ không có mẹ.
Không những chú không có mẹ mà chú chẳng hề muốn có mẹ chút nào. Những người kiểu như mẹ đối với chú quả là không thích hợp. Wendy cảm nhận ngay lập tức một bi kịch ở đâu đây.
- Ô Peter, hóa ra vì thế mà cậu khóc phải không?
Và cô rời khỏi giường để chạy đến với Peter.
- Nếu tớ khóc, đó chẳng phải vì việc gì dính dáng đến mẹ cả - Peter tực nghẹn lên đáp - Tớ khóc bởi vì tớ không buộc lại được cái bóng của tớ… Với lại tớ có khóc đâu.
- Bóng của cậu bị tuột ra à?
- Ừ.
Lúc bấy giờ Wendy mới nhìn thấy cái bóng nằm trên sàn nhà trông thật tội nghiệp và cô cảm thấy thương Peter vô cùng.
- Thật kinh khủng – cô công nhận.
Nhưng cô không thể nín cười khi thấy Peter đã định dán lại bóng bằng bọt xà phòng. Bọn con trai có những thứ suy nghĩ buồn cười thật! May quá, cô nghĩ ngay ra cách giải quyết vấn đề.
- Phải khâu lại thôi – cô nói với giọng ra bề kẻ cả.
- Khâu lại á? Khâu lại là gì?
- Sao cậu chẳng biết gì hết thế nhỉ!
- Tớ ấy à? Làm gì có chuyện!
Nhưng cái sự dốt nát ấy lại càng khiến Wendy thích thú.
- Cậu bé ơi, tớ sẽ khâu lại cho cậu – Dù Peter cũng bằng lứa Wendy, cô cứ nói vậy.
Cô đi lấy đồ may và bắt đầu khâu cái bóng vào chân Peter.
- Có lẽ hơi đau một tí đấy - Wendy báo trước.
- Ồ, tớ chẳng khóc đâu - Peter giờ hoàn toàn tin chắc rằng cả đời mình chưa khóc bao giờ.
Chú nghiến răng lại, không khóc và chẳng bao lâu sau, bóng của chú đã lại di động được bình thường mặc dù nó còn hơi nhăn nhúm.
- Hay tớ là nó đi một tí - Wendy nghĩ ngợi rồi nói.
Nhưng Peter tỏ ra là đấng nam nhi không thèm đếm xỉa gì đến hình thức bên ngoài, bắt đầu nhảy múa mừng vui. Than ôi, chú đã quên mất rằng niềm vui của chú trở lại là nhờ có Wendy. Chú tưởng như tự chú đã gắn lại bóng cho mình.
- Tớ khéo chưa! – Chú hân hoan - Về mặt khéo tay, chẳng ai sánh kịp tớ!
Cũng khá là xấu hổ khi phải thừa nhận rằng sự huênh hoang mù quáng này lại là một trong những phẩm chất đáng kinh ngạc nhất của Peter. Nói thẳng tuột ra là trên đời này chưa có ai huênh hoang hơn chú.
Nhưng Wendy lại hết sức bất bình.
- Đồ khoác lác – cô giễu cợt nói - Thế ra tớ chẳng làm gì đấy chắc.
- Ồ, tí tẹo ấy mà - Peter vô tư đáp.
Và chú lại tiếp tục nhảy nhót.
- Cái gì, tí tẹo thôi sao - Wendy kiêu kỳ nói - Nếu tớ không giúp gì được cậu, tớ lại đi ngủ đây.
Với vẻ tự trọng bị tổn thương, cô quay về giường, trùm chăn kín đầu.
Để lôi Wendy ra khỏi chăn, Peter giả vờ bỏ đi rồi thấy chẳng ăn thua gì, chú bèn đến ngồi bên giường Wendy và lấy chân khẽ đá đá vào cô bé.
- Này Wendy, đừng bỏ đi. Tớ không thể kìm khỏi huyênh hoang khi tớ đang vui.
Dù Wendy đang lắng nghe rất chăm chú, cô chẳng cựa quậy tí nào.
- Này Wendy - Peter nói tiếp bằng cái giọng mà không người phụ nữ nào cưỡng lại nổi - Wendy này, một cô bé còn bằng hai chục lần bọn con trai đấy.
Đột nhiên Wendy tự cảm thấy mình là con gái từ đầu tới chân và cô he hé mắt qua một góc chăn.
- Peter, cậu có tin lời cậu vừa nói không đấy?
- Trăm phần trăm ấy chứ.
- Thế thì cậu thật dễ thương - Wendy tuyên bố - Và vì vậy, tớ dậy.
Và cô đến ngồi cạnh Peter. Cô cũng nói rằng cô có thể sẽ trao cho Peter một cái hôn nếu chú thích nhưng Peter không hiểu gì cả. Chú chìa tay ra.
- Thế ít nhất cậu cũng biết hôn là gì chứ? - Wendy ngạc nhiên hỏi.
- Tớ sẽ biết ngay khi nào cậu đưa nó cho tớ - Peter đáp giọng cộc lốc.
Để cậu ta khỏi bị hẫng, Wendy đưa cho Peter một cái đê khâu.
- Thế là bây giờ tớ sẽ trao cho cậu một cái hôn nhé - Peter bảo.
Wendy nhanh nhẹn đáp:
- Nếu cậu thích.
Và cô bé chìa má ra một cách trơ tráo nhưng Peter chỉ đặt một cái cúc hình bầu dục vào lòng bàn tay cô. Wendy hạ má xuống và nói rằng cô sẽ mang nụ hôn của chú ở sợi dây chuyền trên cổ. Điều đó thật may mắn vậy vì cái cúc này sau đây sẽ cứu tính mạng cô.
Khi những người thuộc cái giới chúng ta làm quen với nhau, họ thường hay hỏi tuổi nhau. Wendy vẫn quen phong tục, bèn đi hỏi tuổi Peter, nhưng câu hỏi tỏ ra không ổn. Không ổn y như kiểu bạn bị quay về môn ngữ pháp trong khi bạn cứ tưởng là thầy giáo sắp hỏi mình về lịch sử các triều đại nước nhà.
- Tớ không biết - Peter lúng túng trả lời - nhưng tớ còn rất trẻ.
Thật ra là chú chỉ hiểu biết lờ mờ về lĩnh vực này nên chú nói đại:
- Wendy à, tớ trốn khỏi nhà ngay khi tớ vừa mới đẻ.
Wendy vừa ngạc nhiên vừa tò mò và vén một bên chiếc áo ngủ một cách duyên dáng để cho Peter ngồi gần hơn.
- Ấy là vì tớ nghe bố mẹ tớ nói chuyện với nhau về việc tớ phải làm gì khi thành người lớn - Peter thì thầm giải thích.
Và chú đột nhiên xúc động:
- Tớ không muốn trở thành người lớn, không bao giờ - chú hùng hồn nói - Tớ muốn là trẻ con mãi để được chơi. Thế là tớ trốn khỏi Vườn trẻ Kenshington và sống với các cô tiên.
Wendy khâm phục nhìn Peter. “Chắc có lẽ là vì mình trốn nhà”, Peter nghĩ chứ không đoán ra rằng việc thân cận với tiên mới là lý do khiến Wendy khâm phục. Ở nhà chẳng có nhiều chuyện khác thường nên chẳng có gì khiến Wendy mê bằng việc quen biết các cô tiên. Cô bèn ra sức hỏi Peter về tiên, điều này khiến chú ngạc nhiên vì chú thấy tiên tính cũng hơi chán vời cái kiểu họ cứ hay xen vào chuyện của người khác nên đôi khi chú cũng phải cho họ một bài học. Tuy vậy về tổng thể chú cũng vẫn yêu quý họ và chú kể cho Wendy biết họ từ đâu tới.
- Cậu biết không Wendy, khi nào đứa trẻ ra đời cười lần đầu tiên, các mảnh tiếng cười bay tứ tung thế là hình thành ra các cô tiên.
Thật là một lời nói vớ vẩn nhưng đối với Wendy cả đời ở nhà thì nó mới thú vị làm sao!
- Thế là – Peter hứng chí nói tiếp - Mỗi một cậu bé hoặc mỗi một cô bé lẽ ra đều có một cô tiên.
- Thế sao lại lẽ ra, phải có một cô tiên chứ?
- Vì là cậu có biết không, bây giờ trẻ con biết nhiều thứ quá nên chẳng mấy chốc mà chúng chẳng tin gì vào tiên nữa cả, mỗi khi có một đứa trẻ bảo: “Con không tin có tiên”, thế là một cô tiên ở đâu đó ngã lăn ra chết.
Đối với Peter, nói về tiên như vậy là quá đủ và đột nhiên chú tự hỏi sao Tinker Bell không thấy ồn ào như mọi khi.
- Cô ta đâu rồi nhỉ? – Chú vừa hỏi vừa đứng dậy.
Chú gọi tên Tinker Bell còn Wendy trống ngực đập thình thịch.
- Peter, chẳng lẽ lại có một cô tiên trong phòng này à? - Wendy túm cánh tay Peter hỏi dồn.
- Ban nãy cô ấy ở đây, thế cậu không nghe thấy cô ấy sao? - Peter sốt ruột đáp.
Cả hai đều vểnh tai nghe ngóng.
- Tớ chỉ nghe có tiếng chuông kêu đinh linh đinh linh.
- Tinker Bell đấy, cô ấy nói bằng ngôn ngữ của tiên mà, mà tớ cũng nghe thấy đây này.
Tiếng chuông vang lên từ phía tủ và Peter vui vẻ nhăn mặt. Chẳng ai tươi vui hơn chú và tiếng cười trẻ thơ của chú vang lên lanh lảnh.
- Ôi Wendy, hình như tớ nhốt cô ấy trong ngăn tủ rồi - Peter vui thích kêu lên.
Cậu mở tủ cho Tinker Bell và cô ta bắt đầu bay lượn trong phòng, vừa bay vừa mắng mỏ rầm rĩ.
- Tinker Bell, cậu không được nói như thế. Tớ rất ân hận nhưng làm sao tớ biết rằng cậu lại ở trong tủ kia chứ.
Wendy không nghe Peter nói.
- Ôi Peter, ước gì cô ấy dừng lại để tớ ngắm cô ấy một tí nhỉ.
- Các cô tiên ít khi đứng yên lắm, cậu biết đấy!
Nhưng Wendy thấy Tinker Bell dừng trong phút chốc trên chiếc đồng hồ treo tường.
- Ôi xinh quá – cô thốt lên ngây ngất mặc dù mặt Tinker Bell đang cau lại vì tức giận.
- Tinker Bell - Peter nhẹ nhàng nói – cô bé này rất mong cậu sẽ là tiên của cô ấy.
Tinker Bell hỗn xược vặc lại.
- Cô ta bảo gì Peter?
Buộc phải dịch, Peter đáp:
- Cô ta không lịch sự lắm, cô ta bảo rằng cậu là một con bé xấu xí to tướng và cô ta là tiên của tớ.
Nhưng Peter cũng cố thương lượng với Tinker Bell:
- Cậu biết rằng cậu không làm tiên của tớ được, tớ là con trai còn cậu là con gái cơ mà.
Tinker Bell bật lại:
- Đồ ngốc!
Và cô ta biến mất trong phòng tắm.
- Tiên này rất bình thường thôi - Peter ra điều xin lỗi – Người ta đặt tên cho cô ta là Tinker Bell vì cô ta mạ kẽm cho các nồi niêu siêu chảo ấm đun nước.
Cả hai nay đã ngồi gọn trong chiếc ghế bành to và Wendy không ngừng đặt câu hỏi.
- Thế là bây giờ cậu không còn ở Vườn trẻ Kenshington nữa…
- Đôi khi như vậy đấy.
- Thế bình thường thì cậu sống ở đâu?
- Tớ sống với bọn trẻ lạc.
- Trẻ lạc là như thế nào?
- Đó là bọn trẻ con bị rơi ra khỏi xe đẩy vì các cô bảo mẫu mải nhìn chỗ khác. Nếu không ai xin lại chúng trong vòng bảy ngày thì chúng được gửi đến xứ Neverland để tiết kiệm chi phí. Tớ là chỉ huy của bọn đó.
- Ô vui quá nhỉ!
- Đúng vậy, nhưng chúng tớ cũng hơi cô đơn, chỗ chúng tớ chẳng có bọn con gái.
- Thế không có con gái trong đoàn à?
- Không, cậu hiểu không, bọn con gái khôn lắm nên không rơi khỏi xe được.
Wendy thấy rất tự hào:
- Tớ thấy cậu kể rất hay về bọn con gái đấy, thằng John nhà tớ toàn coi thường bọn con gái thôi, nó kia kìa.
Thay vì trả lời, Peter đứng dậy và chỉ bằng một cú đá đã tống luôn John và cả đống chăn ra khỏi giường. Wendy thấy cách cư xử như vậy có hơi quá đáng trong lần gặp đầu tiên và cáu kỉnh nhắc nhở Peter rằng trong nhà Wendy, Peter không phải là người chỉ huy. Tuy nhiên, John vẫn tiếp tục ngủ say sưa trên sàn nhà và Wendy cũng không muốn làm phiền em trai.
- Tớ biết cậu làm vậy vì tử tế nên tớ cho phép cậu trao cho tớ một cái hôn - Wendy nói, đã dịu lại.
Wendy quên mất nỗi dốt nát của Peter về mặt hôn hít.
- Biết ngay là cậu lại đòi hôn mà - Peter chua chát nói.
Và giơ cái đê khâu ra giả lại Wendy.
- Ái chà - Wendy độ lượng nói - tớ quên, tớ không định bảo là cái hôn mà là cái đê khâu.
- Nó là cái gì?
- Là thế này này.
Và cô ôm hôn Peter.
- Ngộ nhỉ - Peter nghiêm trang nói - thế bây giờ tớ lại cho cậu một cái đê khâu được không?
- Nếu cậu thích - Wendy ngẩng đầu nói.
Peter ôm hôn Wendy còn cô bé thì hét lên chói lói.
- Sao vậy, Wendy?
- Tớ thấy có ai rứt tóc tớ.
- Chắc là Tinker Bell, tớ không ngờ cô ta lại xấu tính thế.
Đúng là Tinker Bell thật, cô tiên đang bay dích dắc và nguyền rủa lung tung.
- Cô ấy bảo là cứ khi nào tớ cho cậu một cái đê khâu cô ấy lại sẽ rứt tóc cậu đấy.
- Tại sao vậy nhỉ?
- Ừ, tại sao hả Tinker Bell?
Tinker Bell lại rủa “Đồ ngốc!”. Peter chẳng hiểu rõ lắm về nghĩa của câu này nhưng Wendy hiểu ngay. Tuy nhiên cô còn đang thất vọng vì nghe Peter tuyên bố rằng chú bé đến cửa sổ phòng trẻ không phải để gặp cô mà chính là để nghe kể chuyện.
- Tớ không biết chuyện nào hết cậu hiểu không? Ở chỗ chúng tớ, chẳng ai biết câu chuyện nào cả.
- Eo ơi, chán thế - Wendy nhận xét.
- Thế cậu có biết tại sao chim én lại làm tổ ở dưới mái nhà chỗ ống máng không? Không phải để thoát nước đâu, để nghe kể chuyện đấy. Mà Wendy này, mẹ cậu có kể cho cậu nghe một chuyện rất hay.
- Chuyện nào?
- Chuyện chàng hoàng tử không tìm được cô thiếu nữ mang đôi giày da hươu ấy.
- Peter, đấy là chuyện Lọ Lem mà, cuối cùng hoàng tử đã tìm thấy nàng và cả hai người sống rất hạnh phúc.
Peter cũng cảm thấy hạnh phúc đến nỗi chú bay lên khỏi mặt đất nơi cả hai đang ngồi và bay đến ngang cửa sổ.
- Cậu đi đâu đấy? - Wendy lo lắng gọi.
- Tớ đi kể chuyện cho bọn con trai đây.
- Ở đây đã Peter - Wendy khẩn khoản - tớ còn biết nhiều chuyện nữa cơ mà.
Wendy đã nói vậy. Cho nên sau này chúng ta cũng chẳng thể chối rằng cô là người gây ra mọi chuyện trước tiên. Peter quay trở lại, nhìn Wendy với ánh mắt tham lam mà lẽ ra Wendy phải nhận thấy ngay nhưng cô lại không để ý.
- Ô, tớ có ối chuyện để kể cho bọn con trai - Wendy nói và Peter bèn nắm tay cô lôi ra phía cửa sổ.
- Thả tớ ra chứ! - Wendy ra lệnh.
- Wendy, đi cùng tớ về để kể chuyện cho bọn kia đi.
Được cầu cạnh như vậy kể ra cũng thích nhưng Wendy đáp:
- Chúa ơi, tớ không thể! Cậu nghĩ sao, còn mẹ nữa chứ, với lại tớ không biết bay.
- Tớ dạy cậu bay.
- Ôi, bay được thì thích quá!
- Nào, tớ sẽ dạy cậu nhảy lên lưng gió rồi chúng mình cùng bay.
- Ôi, ôi, ôi - Wendy ngây ngất.
- Này Wendy, thay vì ngủ trong cái giường dở hơi này, cậu lẽ ra có thể bay cùng với tớ và nói chuyện với lũ sao.
- Thật à?
- Cậu biết không, còn bọn tiên cá nữa chứ.
- Tiên cá à, có đuôi không?
- Có đuôi dài như thế này này.
- Ôi thích quá, tớ muốn xem tiên cá!
Peter ngày càng mưu đồ:
- Wendy, chúng tớ sẽ kính trọng cậu ghê lắm.
Wendy bứt rứt khổ sở như thể cô đang cố gắng để không bay khỏi mặt sàn nhà. Peter chẳng tha:
- Wendy, cậu cũng có thể dém chăn cho chúng tớ tối nay.
- Ôi!
- Bọn tớ chưa đứa nào được ai dém chăn cho bao giờ.
- Ôi, ôi, ôi - Wendy giơ tay về phía Peter.
- Cậu cũng có thể vá lại quần áo cho chúng tớ, may thêm túi, chúng tớ chưa bao giờ có túi cả.
Làm sao mà cưỡng lại được cơ chứ!
- Thôi được, tuyệt quá đi mất! Peter, cậu có thể dạy cả cho John và Michael bay được không?
- Nếu cậu thích thế cũng được! - Peter thản nhiên đáp.
Wendy chạy tới lay John và Michael dậy.
- Dậy nào các em ơi! Peter Pan đang ở đây và cậu ấy sẽ dạy chúng mình bay!
John dụi mắt:
- Thế thì em dậy đây – các bạn chớ quên là John đang nằm dưới đất – em dậy rồi này.
Michael cũng dậy, mặt đã tươi tỉnh ngay được nhưng Peter gạt tay yêu cầu im lặng. Chúng có cái vẻ chăm chú như của lũ trẻ con đang rình nghe chuyện người lớn. Trong phòng im lặng đến ruồi bay cũng nghe thấy tiếng. Mọi việc đều ổn. Không, các bạn nhầm, chẳng ổn tí nào, Nana vốn không ngừng sủa một cách lo lắng, nay cũng im bặt. Chính là chúng nghe thấy sự im tiếng của Nana.
- Tắt đèn đi! Nhanh, trốn đi – John nắm ngay quyền chỉ huy trong tay.
Vậy là khi Liza bước vào phòng cùng Nana, phòng trẻ tối tăm lại mang dáng vẻ bình thường quen thuộc,dường như có thể nghe thấy tiếng thở yên bình của ba đứa trẻ đang say giấc. Chúng đang giả vờ thở một cách tài tình, tuy đang nấp sau riđô.
Liza đang bực mình vì trong khi cô đang chuẩn bị món bánh pút đinh cho lễ Noel trong bếp, mặt còn dính nho khô, cô ta đã bị nỗi nghi ngờ của Nana lôi ra khỏi công việc. Muốn được yên thân chỉ có cách đi cùng với Nana vào phòng ngủ nhưng vẫn phải giữ dây buộc Nana.
- Thấy chưa, đồ ngốc nghếch – Liza mừng thầm vì thấy Nana nhầm - mọi việc bình thường mà. Bọn trẻ đang ngủ say. Nghe mà xem chúng thở có đều không kìa.
Nghe thấy vậy, Michael sung sướng quá thở mạnh đến nỗi suýt nữa cả bọn bị lộ. Vì Nana không hề bị lừa bởi cái kiểu thở như vậy, cố giằng tay Liza nhưng cô này cương quyết:
- Đủ rồi Nana – Liza nghiêm khắc nói và kéo con chó ra khỏi phòng – Tao báo trước cho mày biết là nếu mày còn sủa nữa, tao sẽ đi gọi ông bà chủ đang dự cơm tối gần đây, tao sẽ gọi họ về và mày thể nào cũng sẽ bị đòn cho mà xem.
Cô bèn lôi Nana đi, nhưng các bạn cho rằng con chó tội nghiệp chịu ngưng sủa hay sao? Gọi ông bà chủ về chính là điều nó muốn. Nó đâu có cần biết sẽ bị đòn hay không, miễn là bọn trẻ được bình yên. Không may thay, Liza lại quay về với bánh pút đinh và Nana thấy cô ta chẳng giúp được gì, bèn kéo mạnh đến mức dây trói bị đứt. Vài phút sau đó, nó chạy bổ vào phòng ăn nhà số 27, đứng dựng lên, hai chân trước vươn lên trời, đó là cách biểu đạt tình huống hùng hồn nhất của nó.
Ông bà Darling hiểu ngay có chuyện đang xảy ra tại phòng trẻ và chẳng kịp chào gia chủ, họ chạy lao về. Nhưng mười phút đã trôi qua từ khi bọn nhóc chơi trò giả ngủ và trong mười phút, Peter Pan đã làm được nhiều chuyện!…
Ta hãy quay trở lại phòng trẻ.
- Ổn rồi – John vừa nói vừa chui ra khỏi chỗ nấp – này Peter, cậu biết bay thật đấy à?
Chẳng thèm trả lời, Peter nâng mình trên không và bay quanh phòng, sượt qua bệ lò sưởi.
- Hết ý! – John và Michael cùng kêu lên.
- Tuyệt! - Wendy thán phục.
- Đúng, tớ là tuyệt! Tuyệt! - Peter cũng kêu to vì chú lại quên là phải ứng xử ra sao.
Bay nom có vẻ như trò trẻ và lũ trẻ thử tập từ dưới đất trước, rồi từ trên giường. Nhưng lần nào chúng cũng rơi bịch xuống chứ không nâng người trên không được.
- Này, cậu làm như thế nào ấy nhỉ? – John vừa hỏi vừa cọ cọ đầu gối - Cậu quả là một chàng trai có đầu óc thực tiễn.
- Chỉ cần nghĩ tới những điều kỳ diệu và thế là các cậu sẽ bay bổng lên thôi - Peter giải thích.
Chú lại trình diễn thêm lần nữa.
- Cậu làm nhanh quá – John phê phán - cậu thử làm chậm chậm hơn xem nào.
Peter làm theo, một lần nhanh, một lần chậm.
- Xong rồi, Wendy, em hiểu rồi.
Nhưng rồi nó hiểu ngay là nó nhầm. Không ai trong số ba chị em lại có thể bay lên được dù chỉ một centimet.
Cố nhiên là Peter chế giễu chúng vì chẳng ai có thể tự nhiên bay được nếu không rắc phấn thần lên người trước đã. May mắn thay, như chúng tôi đã nói, một tay Peter vẫn còn đầy vệt phấn và chú ta bắt đầu thổi lên tay, hướng về phía bọn trẻ. Kết quả thật phi thường.
- Bây giờ, lắc vai như thế này và bay nào.
Cả ba đều đang đứng trên giường và Michael bay đầu tiên. Nó không quả quyết lắm nhưng vừa phềnh lên được trong không khí là nó bay ngay quanh phòng.
- Em bay, em bay đây này – nó kêu tướng lên từ góc trần.
John cũng bay được lên và đụng phải Wendy gần phòng tắm.
- Tuyệt chưa!
- Quá siêu!
- Nhìn này!
- Nhìn này!
- Nhìn này!
Chúng không nhẹ nhàng như Peter và vẫn còn đâm sầm vào nhau, đầu chạm vào trần. Nhưng còn niềm vui nào hơn thế? Peter mới đầu còn cầm tay hướng dẫn cho Wendy nhưng sau đành thôi vì Tinker Bell giận điên lên. Cả bọn bay lên, lượn xuống, xoay tròn, quay giật lùi.
- Hết ý! Thật là hết ý!
- Này, hay là chúng mình ra khỉo đây đi? – John rủ.
Tất nhiên đó là điều Peter muốn.
Michael đã sẵn sàng: nó muốn biết phải mất bao nhiêu lâu mới đi hết qua một tỉ km, nhưng Wendy còn do dự.
- Này, có cả tiên cá đấy! - Peter nhắc nhở.
- Ái chà…
- Có cả bọn cướp biển nữa.
- Cướp biển à? – John vừa la vừa nhặt chiếc mũ đội ngày chủ nhật – Đi ngay đi thôi!
Đúng lúc ấy, ông bà Darling chạy ra khỏi số nhà 27 cùng với Nana. Họ chạy bổ ra giữa đường để nhìn lên cửa sổ phòng trẻ. Cửa sổ vẫn đóng nhưng có ánh sáng chói lọi trong phòng và kinh hãi thay, họ nhìn thấy in trên ri đô cửa sổ là ba hình bóng bé nhỏ mặc đồ ngủ bay lượn trong phòng.
Mà không, không phải ba mà là bốn!
Run lên vì sợ, họ mở cửa ra vào. Ông Darling muốn lao lên tầng trên luôn nhưng bà Darling ra hiệu để ông đi chậm lại. Và cũng cố gắng giữ cho trống ngực khỏi đập mạnh quá.
Liệu họ có đến kịp phòng trẻ không? Nếu kịp thì thật là hạnh phúc vô bờ đối với họ và cả chúng ta nữa. Chắc các bạn sẽ như tôi, thở hắt ra nhẹ nhõm. Nhưng nếu thế thì còn chuyện gì nữa. Mặt khác, nếu họ về muộn quá, tôi xin trịnh trọng hứa rằng mọi việc vẫn sẽ diễn ra tốt đẹp.
Lẽ ra họ cũng đã kịp lên đến phòng trẻ nếu như các ngôi sao không nhìn thấy họ trước. Lại một lần nữa, bọn sao này lại phồng hơi thổi, mở tung cửa sổ và ngôi sao nhỏ nhất kêu lên :
- Peter, cẩn thận kìa!
Thế là Peter biết không thể chần chừ gì được nữa.
- Đi thôi! – Chú ra lệnh.
Chú lao lên bầu trời đêm, theo sau là John, Michael và Wendy.
Ông bà Darling cùng Nana vào phòng trẻ muộn mất rồi. Đàn chim đã bay đi.
Ngã tư thứ hai rẽ phải, rồi đi thẳng tới bình minh.
Đấy là đường tới xứ sở Neverland, theo như Peter giải thích cho Wendy. Nhưng giải thích như thế thì cả lũ chim cho dù có mang theo bản đồ và dừng lại ở mỗi ngã tư nơi gió giao nhau cũng chẳng thể nào tìm ra đường được. Các bạn thấy đấy, Peter nói năng quả là linh tinh.
Trước hết phải nói là các bạn của Peter hoàn toàn tin tưởng nơi chú và vì quá say mê với niềm vui được bay nên chúng mất khá nhiều thời gian bay quanh các gác chuông hoặc những tòa nhà cao vút tương tự mà chúng gặp trên đường đi. Rồi John và Michael bắt đầu thi bay và Michael bay trước. Chúng dè bỉu nhớ lại rằng cách đây chưa lâu, chúng đã từng coi việc bay quanh phòng như một kỳ tích.
Cách đây chưa lâu à ? Nhưng đó là lúc nào mới được chứ? Chúng đang bay quanh biển thì ý nghĩ này bắt đầu khiến Wendy quan tâm một cách thực sự. John cho rằng đó là lúc chúng bay qua biển thứ hai vào đêm thứ hai.
Trời lúc thì tối, lúc thì sáng. Lúc thì chúng lạnh, lúc lại bị nóng. Không biết bọn trẻ có thực sự bị đói không là chúng chỉ giả vờ đói bụng thôi vì Peter có cách tiếp tế lương thực thật ngộ nghĩnh. Chú đuổi theo các con chim đang mang trong mỏ những thứ gì ăn được và cướp của chúng, thế là lũ chim lại ra sức đuổi theo giành lại. Và cả bọn rúc rích bay đuổi theo nhau trong không trung để rồi cuối cùng chia tay không oán giận gì cả. Wendy hơi lo khi thấy Peter không tỏ ra e ngại gì trong cách ăn uống như vậy và dường như chú cũng không nghĩ ra cách kiếm ăn nào khác.
Quả tình lũ trẻ không giả vờ buồn ngủ mà là chúng buồn ngủ thực sự và điều này rất nguy hiểm, cứ hơi thiu thiu chợp mắt là chúng lại bị rơi. Tệ hơn cả là Peter thấy chuyện này thật ngộ nghĩnh.
- Đấy, nó lại ngủ kìa ! - Peter khoái chí kêu lên khi thấy Michael bắt đầu rơi như một hòn đá.
- Cứu nó đi Peter - Wendy hét lên kinh hoảng vì biển nằm ngay phía dưới.
Peter đợi một chút rồi thực hiện một cú bay bổ nhào xuống và hớt ngay được Michael đúng lúc chú ta sắp chạm vào các con sóng. Nhưng bao giờ chú cũng chờ đến phút cuối và ta hiểu ra rằng chú chỉ quan tâm đến sự khéo léo của chú thôi chứ chẳng để ý gì đến việc cứu mạng ai. Hơn nữa, chú lại khá là đồng bóng nên trò chơi này lúc này có thể khiến chú thích thúthì chỉ một lát sau đã khiến chú chán. Lúc đó thì nếu bạn lại rơi nữa thì có thể chú sẽ chẳng động tay động chân.
Chú lại có thể ngủ ngay trong không trung mà chẳng rơi, chỉ cần nằm ngửa người ra thôi. Nhưng lợi thế này của Peter là nhờ chú rất nhẹ, nếu bạn đi sau chú mà thổi vào người chú thì chú lại bay nhanh hơn.
- Lễ phép với cậu ta nhé - Wendy thì thầm bảo John trong khi chúng đang chơi trò "Theo chân người chỉ huy".
- Thế chị bảo hắn cứ bớt huyênh hoang đi! – John vặc lại.
Trong trò "Theo chân người chỉ huy”, Peter bay sát mặt nước và vuốt sượt qua đám vây của lũ cá mập, cũng giống như bạn vừa chạy vừa đưa tay quệt ngang các thanh sắt ở hàng rào các ngôi nhà trong phố. Ba chị em tránh không bắt chước Peter làm các trò nguy hiểm đó dù chú cũng tỏ ra tử tế quay lại xem chúng có vuốt trượt cái nào trong khi bay theo chú.
- Tử tế với cậu ta nhé - Wendy nhắc lại - chứ nếu hắn bỏ rơi chúng mình thì sẽ ra sao.
- Thì chúng mình lại bay về nhà - Michael bảo.
- Không có hắn thì mình không tìm được đường đâu.
- Hay là không tìm được đường thì chúng mình lại bay tiếp – John đề nghị.
- Thế mới chết đấy John. Phải tiếp tục bay vì chúng mình đã học cách dừng lại đâu.
Quả là Peter quên không bảo chúng cách đỗ lại như thế nào.
John tuyên bố tệ nhất thì chúng cũng chỉ cần bay thẳng vì ai chẳng biết Trái Đất tròn và chắc là bay mãi thì cũng phải tìm lại được cửa sổ nhà mình.
- John, thế mình ăn bằng gì?
- Wendy, ban nãy em vừa ăn cái gì ngon lắm cướp được của con chim ưng.
- Em phải thử hai chục lần mới cướp được một miếng ấy đấy, còn chưa kể nếu ăn được kiểu ấy, mình phải cộc đầu bao nhiêu lần vào các đám mây nếu Peter không có ở đây để giúp mình.
Vì thực tế là bọn trẻ vẫn cứ vấp liên tục. Bây giờ chúng bay tương đối nhanh rồi nhưng chúng vẫn còn có những cú đạp chân vô ích và nếu đột nhiên có một đám mây hiện ra trước mặt, chúng càng cố tránh thì lại càng dễ đâm vào. Nếu có Nana ở đây, nó chắc đã buộc băng đô quanh đầu Michael từ lâu.
Peter tạm thời bay xa khỏi ba chị em và chúng cảm thấy bơ vơ vô cùng, như bị bỏ rơi vậy. Peter bay nhanh hơn chúng nhiều, đôi khi chú lao vèo đi như một mũi tên và biến mất trong những trò nghịch ngợm của chú mà chẳng cần ba chị em tham gia. Rồi chú lại bay về, cười rũ rượi vì các trò đùa cợt với một ngôi sao mà chú đã quên ngay, hoặc lại bay lên mà người vẫn còn dính vẩy tiên cá nhưng cũng không kể lại chuyện gì vừa xảy ra. Đối với bọn trẻ chưa bao giờ được nhìn thấy tiên cá, điều này thật là tệ.
- Đấy hắn quên nhanh vậy đấy - Wendy nhận xét – làm sao mình có thể mong hắn nhớ ra chúng mình được?
Quả là đôi khi, Peter không nhớ ra ba chị em hoặc chỉ láng máng. Wendy chắc chắn thế. Peter bay sượt qua trước mũi bọn trẻ nhiều lần mà suýt không nhận ra chúng và một hôm, Wendy thậm chí còn phải nhắc chú biết tên cô là gì.
Peter tỏ ra ân hận thực sự.
- Wendy này, khi nào cậu thấy tớ quên mất tên cậu, cậu cứ nhắc tớ “Wendy đây”, thế là tớ nhớ được ngay.
Lơ mơ như vậy chẳng ổn chút nào. Tuy nhiên, để bọn trẻ bỏ qua lỗi của chú, Peter dạy chúng cách nằm dài trên một ngọn gió đi cùng hướng. Ba chị em thích đến độ chúng thử nhiều lần và phát hiện rằng chúng có thể tranh thủ ngủ một cách an toàn. Lẽ ra chúng có thể ngủ được nhiều hơn nhưng Peter nhanh chóng chán trò ngủ và lại hô lên với giọng chỉ huy:
- Dừng lại!
Vừa chành chọe nhau, vừa đùa nghịch như quỷ sứ, chúng dần tiến đến gần xứ sở Neverland. Sau nhiều tháng, chúng cuối cùng đã đến nơi chẳng phải nhờ Peter hay Tinker Bell để khỏi bay lạc hướng mà vì xứ ấy cũng đi tìm chúng. Đó là dịp may duy nhất để đến được bến bờ thần tiên này thôi
Đảo kia rồi - Peter bình thản nói.
- Đâu, đâu?
- Kia, chỗ các mũi tên ấy.
Quả là có đến hàng triệu mũi tên chỉ vào đảo, do bác mặt trời bạn chúng phóng ra trước khi đi ngủ, bác sợ chúng lạc.
Wendy, John và Michael kiễng chân trong không trung để nhìn lên đảo. Lạ nhất là chúng đều nhận ra đảo ngay và cho tới lúc nỗi sợ xâm chiếm, chúng rối rít chào hòn đảo không chỉ như một giấc mơ nay thành hiện thực mà còn như một người bạn thân thiết gặp lại trong kỳ nghỉ hè.
- John kìa, đầm nước mặn ven biển kìa.
- Wendy, xem bọn rùa đang chôn trứng trong cát kìa.
- Này John, chị thấy con hồng hạc gãy chân của John đấy.
- Michael, cái hang của em kìa.
- John, có cái gì trong cái đống lùng nhùng kia?
- Có con chó sói mẹ với bọn sói con. Wendy, hình như là con sói con của chị đấy.
- Đây là thuyền của chị, hai bên nó bị thủng rồi.
- Đâu mà, thuyền của chị chúng mình đã đốt rồi cơ mà.
- Đã bảo là đúng thuyền của chị mà lại. Này John, chị còn thấy có khói phía trên trại của người Da đỏ nữa cơ.
- Đâu, đâu, chỉ em xem. Em sẽ bảo cho mà biết khói bay kiểu nào là sẽ có chiến tranh.
- Kia, đúng phía trên suối Bí ẩn ấy.
- Em thấy rồi, đúng là chúng chuẩn bị chiến tranh.
Peter hơi tức vì lũ trẻ biết quá nhiều nhưng nếu chú muốn dẹp bớt chuyện lép xépcủa ba chị em thì cũng chẳng cần phải cố gắng mấy hồi nữa… Tôi đã chẳng bảo các bạn là nỗi sợ sẽ xâm chiếm bọn trẻ là gì?
Sợ hãi đã ập đến khi lũ tên vàng bỏ đi, để lại hòn đảo chìm trong bóng tối.
Trước đây khi còn ở nhà, xứ sở Neverland luôn bắt đầu trở nên tối dần và đầy đe dọa khi bọn trẻ con phải lên giường. Lúc đó, cả một xứ hoang dại bung ra xung quanh chúng, các bóng đen cử động, các tiếng gầm của súc vật trở nên khác đi và nhất là ta chẳng còn tin chắc sẽ thắng được kẻ thù nữa. Thật nhẹ cả người khi mẹ thắp đèn ngủ ban đêm lên! Và thật dễ chịu khi nghe Nana bảo rằng cái mà ta nhìn thấy chỉ là bệ lò sưởi và xứ sở Neverland chỉ là chuyện huyễn hoặc.
Tất nhiên, lúc đó thì xứ sở Neverland là chuyện huyễn hoặc, còn giờ đây nó mới thật làm sao; chẳng có đèn ngủ, đêm càng tối hơn và… Nana đâu rồi nhỉ?
Cho tới lúc đó ba chị em bay tách nhau; nhưng giờ chúng túm tịm lại gần bên Peter. Peter dường như cũng thôi không tỏ ra vô lo nữa, mắt chú lóe lên và mỗi khi một đứa trẻ sượt qua người chú, chúng cảm thấy như có điện giật. Chúng đang bay qua hòn đảo đáng gờm, bay thấp đến nỗi đôi khi một ngọn cây chạm cả vào mặt chúng. Không có mối nguy hiểm nào trong không trung vậy mà chúng chỉ tiến lên một cách rất khó khăn như thể chúng phải chiến đấu với các thế lực thù nghịch bí ẩn. Có lúc bọn trẻ bay treo lơ lửng tại chỗ chờ cho Peter giúp chúng mở đường bằng cách đấm tay vào không khí.
- Chúng không muốn cho chúng mình hạ cánh - Peter giải thích.
- Chúng là ai vậy? - Wendy rùng mình hỏi.
Peter không thể, hoặc không muốn trả lời. Tinker Bell ngủ trên vai chú, và chú đánh thức Tinker Bell dậy, tung cô ta ra phía trước.
Đôi khi, Peter dừng lại trên không trung, vòng tay lên tai nghe ngóng. Có khi chú lại quắc mắt nhìn xuống phía dưới như thể muốn chọc thủng mặt đất ra. Rồi chú lại bay tiếp, chú tỏ ra dũng cảm phi thường.
- Cậu bé muốn có chuyện ngay lập tức hay muốn uống trà trước? - Peter hờ hững hỏi John.
- Uống trà trước - Wendy vội vàng đáp.
Michael siết tay chị đầy vẻ biết ơn, còn John can đảm hơn, ngập ngừng hỏi:
- Có chuyện là chuyện gì cơ?
- Có một tên kẻ cướp đang ngủ trong cánh đồng cỏ, ngay phía dưới chúng ta. Nếu các cậu thích, mình xuống giết chết nó đi.
- Tớ đâu có thấy nó – John im lặng hồi lâu rồi nói.
- Tớ thấy đấy.
- Thế… thế nếu chúng mình thức nó dậy? – John nghẹn giọng hỏi.
Peter bực mình vặn lại :
- Các cậu không nghĩ rằng tớ có thể giết nó trong khi nó đang ngủ đấy chứ? Trước hết, tớ phải đánh thức nó dậy đã rồi mới giết nó. Tớ chưa bao giờ làm khác.
- Thế… cậu đã giết được nhiều chưa?
- Vô khối.
John tuyên bố: “Tuyệt nhỉ!” Rồi quay sang xin bắt đầu bằng việc uống trà. Nó hỏi xem bây giờ có nhiều cướp biển trên đảo không và Peter cho biết chú chưa bao giờ nhìn thấy nhiều đến thế.
- Ai là chỉ huy bọn đó?
- Hook - mặt chú lạnh tanh khi nói đến cái tên đáng sợ đó.
- Jack Hook ấy à?
- Chính thế.
Michael bật khóc còn chính John cũng nghẹn họng vì cả hai đều biết tiếng Hook.
- Đó là tên cầm đầu của băng Râu Đen – John thì thầm. Tên độc ác nhất. Người duy nhất mà cả Barbecue cũng phải sợ.
- Chính hắn đấy - Peter thêm.
- Trông lão như thế nào, có to lớn không?
- Không lớn như hồi trước nữa.
- Sao vậy?
- Tớ cắt bớt lão đi rồi.
- Cậu ấy à?
- Đúng, tớ đấy - Peter đai giọng nói.
- Tớ không có ý nghi ngờ cậu đâu.
- Thôi được, bỏ qua đi.
- Nhưng mà này, cậu cắt bớt cái gì của lão ấy?
- Bàn tay phải.
- Thế thì lão ta chắc không đánh nhau được nữa nhỉ?
- Đánh tốt ấy chứ lại!
- Thế lão thuận tay trái à?
- Lão ta có một cái móc sắt thay cho tay phải, lão mócdc đủ mọi thứ đấy.
- Móc à?
- Này John… - Peter nói.
- Sao cơ?
- Phải nói là, vâng, thưa chỉ huy.
- Vâng, thưa chỉ huy.
- Có một điều mà tất cả bọn con trai dưới quyền tớ phải hứa. Và cậu cũng thế.
John tái mặt.
- Như thế này: nếu chúng ta gặp phải Hook trên đất liền, cậu phải để tớ một mình đánh nhau với lão.
- Tớ hứa – John chân thành thề.
Chúng tạm thời cảm thấy đỡ sợ vì Tinker Bell bay cùng chúng và ánh sáng từ cô ta cho chúng nhìn thấy nhau. Không may là cô ta không thể bay chậm như chúng và buộc phải bay vòng xung quanh và tạo nên những vầng sáng rộng quanh cả bọn. Wendy thích mê đi cho tới khi Peter giảng cho cô biết cái hại của vầng sáng:
- Tinker Bell bảo tớ là bọn cướp biển đã phát hiện ra chúng mình từ trước khi trời tối và chúng đã chuẩn bị cho khẩu Long Tom rồi.
- Khẩu đại bác Long Tom ấy à?
- Ừ, và dĩ nhiên là chúng nó đã nhìn thấy ánh sáng của Tinker Bell. Nếu chúng nghĩ rằng Tinker Bell đang đi cùng chúng mình, chắc chắn là chúng sẽ bắn ngay đấy.
- Wendy ơi!
- John!
- Michael!
- Peter ơi, cậu bảo cô ấy đi đi - Cả ba đứa trẻ đồng thanh kêu lên.
Nhưng Peter từ chối.
- Cô ấy cho rằng chúng ta bị lạc đường nên cô ấy hơi sợ - Peter vặc lại – Các cậu không nghĩ là tớ có thể xua cô ấy đi khi cô ấy đang sợ chứ?
Vòng sáng ngưng lại trong giây lát và Peter cảm thấy có ai cấu chú một cách thân tình.
- Thế hay cậu bảo cô ấy tắt bớt ánh sáng đi vậy - Wendy khẩn khoản.
- Cô ấy không thể tắt chứ. Đấy có lẽ là điều duy nhất các tiên không làm được. Ánh sáng chỉ tắt khi họ ngủ thôi, như các ngôi sao ấy.
- Thế thì bảo cô ấy ngủ ngay đi – John nói giọng như ra lệnh.
- Cô ấy không thể ngủ vì không buồn ngủ. Đó cũng là một điều nữa mà các cô tiên không thể làm.
- Rõ là hai điều đáng làm nhất thì lại không thể - John càu nhàu.
Đến lượt nó bị cấu, nhưng chẳng có gì là thân ái cả.
- Nếu ai trong chúng mình có túi thì có thể cho cô ta vào đó.
Nhưng chúng ra đi nhanh quá nên chẳng đứa nào nghĩ đến việc mang túi theo.
Peter chợt nảy ra một ý tuyệt vời: cái mũ của John! Tinker Bell chấp nhận tiếp tục bay trong mũ của John nếu có ai cầm mũ trong tay. John nhận nhiệm vụ tuy cô ta thích được Peter cầm mũ hơn. Rồi đến lượt Wendy phải cầm mũ vì John kêu rằng mũ làm vướng chân nó trong khi bay. Quả là một quyết định rất không ra gì vì như chúng ta sẽ thấy: riêng cái việc phải nhờ vả Wendy đã khiến Tinker Bell ghét rồi.
Nằm trong đáy chiếc mũ đen, ánh sáng của Tinker Bell hoàn toàn không nhìn thấy được và tụi trẻ bay một lúc trong im lặng. Đó là sự im lặng hoàn toàn mà chúng chưa bao giờ biết, chỉ thỉnh thoảng có tiếng tớp tớp từ xa vọng tới - Peter giải thích đó là tiếng các con thú hoang uống nước nơi con suối bìa rừng – và lúc lúc lại có tiếng gì như tiếng cành cây sột soạt mà thực ra đó là tiếng của thổ dân Da đỏ đang mài dao.
Rồi những tiếng động này cũng tắt dần. Michael cảm thấy bơ vơ vô cùng.
- Giá mà có tiếng gì nữa nhỉ! – Nó thốt lên.
Cầu được ước thấy, không gian đột nhiên vang lên tiếng ầm ầm dễ sợ. Bọn cướp biển bắn vào chúng bằng khẩu Long Tom. Tiếng nổ vang trong núi và dường như dội lại một cách hung tợn: “Chúng đâu? Chúng đâu? Chúng đâu?”
Ba chị em kinh hoàng thấy rõ sự khác biệt giữa một hòn đảo tưởng tượng và một hòn đảo có thật là như thế nào. Khi yên tĩnh trở lại, Michael và John bay trong bóng tối hoàn toàn. John đạp chân trong không khí theo quán tính còn Michael vẫn bay mà không biết làm sao mình bay được.
- Michael có bị trúng đạn không? – John run run hỏi.
- Em không biết - Michael cũng thì thầm đáp lại.
Chúng ta giờ đã biết rằng không ai bị thương. Tuy nhiên, Peter đã bị hơi thuốc súng thổi ra xa ngoài khơi còn Wendy bị cuốn lên cao cùng với Tinker Bell. Lúc đó, Wendy lại vô ý để rơi tuột mất cái mũ. Tôi không biết tự nhiên Tinker Bell nảy ra ý đồ hay cô ta đã âm mưu từ lâu, chỉ biết là đột nhiên Tinker Bell nhảy ra khỏi mũ và bắt đầu lôi kéo Wendy vào chỗ chết. Tinker Bell không phải là quá độc ác, mặc dù lúc này cô ta quả là ghê gớm, nhưng cô ta cũng có thể tỏ ra là người rất tốt. Tiên đều hoặc tốt hoặc tồi như vậy bởi vì họ bé quá nên chỉ có một loại tình cảm. Họ có thể thay đổi nhưng là thay đổi hoàn toàn luôn. Lúc này, Tinker Bell đang ghen ghê gớm với Wendy. Wendy dĩ nhiên là không hiểu gì trong tiếng đinh linh êm áivà tôi cho rằng trong cả đống những lời nguyền rủa được nói ra với giọng rất dễ thương của Tinker Bell. Tinker Bell đã vừa bay quanh Wendy vừa nói: “Theo tớ rồi mọi việc sẽ ổn cả thôi.”
Wendy còn biết làm sao được? Cô gọi Peter, John và Michael nhưng chỉ nghe có tiếng vọng lại như giễu cợt. Cô còn không biết rằng Tinker Bell ghét mình như một người lớn có thể ghét.
Hoang mang, vạ vật bay, Wendy đành phó thác số phận mình cho Tinker Bell.
Nhờ cảm thấy rằng Peter đang quay về, xứ sở Neverland đang dần sống lại.
Trong lúc Peter đi vắng, cuộc sống trên đảo rất bình yên: buổi sáng, các cô tiên dậy muộn hơn một tiếng đồng hồ, các con vật chăm lo cho lũ con. Người Da đỏ yến tiệc phè phỡn liên tục sáu ngày sáu đêm liền và khi lũ cướp biển và bọn trẻ lạc đánh nhau thì chúng chỉ tung ra những lời thách thức. Nhưng Peter là người vốn ghét sự trì trệ, khi chú về mọi người lại trở nên hoạt bát hơn: nếu bạn ghé tai xuống đất mà nghe, bạn sẽ thấy cuộc sống đang sôi động trên cả hòn đảo.
Tối hôm đó, các lực lượng chính của đảo đang được bố trí như sau: bọn con trai bị lạc đang đi tìm Peter, bọn cướp biển đang đi tìm lũ trẻ lạc, người Da đỏ đang đi tìm cướp biển và lũ dã thú đang đi tìm người Da đỏ. Chúng chạy đi tìm nhau vòng quanh như vậy trên đảo nhưng chẳng bao giờ gặp nhau vì cả bọn đều chạy nhanh như nhau.
Tất cả đều rất khát máu ngoại trừ duy nhất lần này bọn trẻ lạc đang nhăm nhăm tìm cho được thủ lĩnh của chúng. Số lượng chúng thay đổi rất nhiều trên đảo tùy theo chúng có bị giết hay không. Mỗi khi chúng bắt đầu lớn lên, và việc này là sai quy định, Peter liền tiêu diệt chúng không thương xót. Tối hôm đó, có sáu đứa trẻ lạc, kể cả hai anh em sinh đôi. Ta cứ giả vờ nằm dài ra trong vườn mía mà nhìn chúng cầm dao nối đuôi nhau mà xem. Peter đã cấm chúng không được tìm cách giống thủ lĩnh và chúng mặc những tấm da gấu do chúng giết. Trong da gấu, trông chúng tròn trịa và mịn màng lông lá đến nỗi nếu chúng ngã chắc chắn chúng sẽ lăn lông lốc. Bởi vậy, chúng đặt bước chân cho thật chắc chắn.
Đi đầu lúc này là Tootles, không phải vì nó dát nhất mà vì nó là đứa không may nhất trong số bọn trẻ đầu óc điên rồ này. Nó không biết nhiều cuộc chiến phiêu lưu như những đứa khác vì các sự kiện quan trọng đều diễn ra trong lúc nó vắng mặt. Tỉ như khi nó thấy mọi việc đều yên tĩnh, nó đi kiếm củi đốt lửa và lúc quay về thì các bạn đã đang chùi máu vấy bẩn rồi. Sự không may đó khiến nó có vẻ u sầu và đáng ra phải tức tối cảu rảu thì tính cách nó lại mềm yếu đi và nó trở thành thằng dễ tính nhất trong cả bọn. Tội nghiệp Tootles, tối nay cậu đang gặp nguy hiểm đấy. Cuộc phiêu lưu đang rình rập cậu có khi lại khiến cậu đau buồn vô hạn. Cẩn thận, Tootles, tối nay Tinker Bell đang bị nỗi độc ác ám ảnh, đang tìm kiếm trả thù và nghĩ rằng Tootles sẽ là cậu bé dễ bị lừa nhất trong cả bọn. Hãy cẩn thận với Tinker Bell!
Ước gì chúng nghe thấy nhỉ, nhưng chúng ta có đang ở trên đảo đâu và Tootles tiếp tục vừa đi vừa gặm móng tay.
Sau đó đến Nibs, vui tươi và mũm mĩm, theo sau là Slightly, người gọt còi từ các cành cây, và nhảy múa say sưa theo các điệu nhạc của riêng mình. Slightly cao ngạo nhất trong bọn trẻ lạc. Nó cứ tưởng rằng nó nhớ được những gì xảy ra hồi nó chưa bị lạc, phong tục xứ sở của nó, và sự hoang tưởng này khiến mũi nó đã hếch lại càng hớt lên trời. Curly đi thứ tư và nó hay phải tự nhận tội mỗi khi Peter oai phong ra lệnh: “Kẻ nào chịu trách nhiệm về việc này, hay việc kia, hãy bước ra khỏi hàng!” Đến nỗi mà bây giờ nó liền máy móc bước ra cho nhanh ngay khi được lệnh.
Cuối cùng là đến hai đứa sinh đôi, chẳng thể nào tả được chúng vì chính chúng cũng còn nhầm. Peter không bao giờ biết bọn sinh đôi là như thế nào và toàn băng đảng không được phép biết điều mà thủ lĩnh không biết, hai đứa sinh đôi đành chịu sự mơ hồ về nhân thân của chúng và luôn cố gắng làm cho mọi người hài lòng bằng cách luôn ở cạnh nhau, như thể để xin lỗi vì cái nỗi quá giống nhau.
Bọn trẻ lạc biến đi trong bóng đêm và sau đó một lúc, một lúc ngắn ngủi thôi vì mọi việc diễn ra rất nhanh chóng trên hòn đảo này, đến lượt hiện ra bọn cướp biển đang đuổi theo trẻ lạc. Chúng ta nghe thấy tiếng chúng trước khi nhìn thấy và bao giờ chúng cũng hát bài hát đó:
Chuẩn bị thả neo nào! Gỡ cuộn dây neo!
Cướp biển sau lưng nào! Tấn công tàu chiến!
Và nếu chúng ta bị dính
Bởi loạt đạn súng trường
Chúng ta sẽ về chầu Diêm vương
Chưa bao giờ ta lại thấy lủng lẳng trên giá treo cổ một đám người đáng khinh hơn thế. Đi vượt lên phía trước là gã Cecco đẹp trai người Ý, hơi động tĩnh gì là lại ghé tai xuống đất để lắng nghe, đôi tay to lớn để trần, tai đeo hoa tai hình số tám. Hắn ta đã từng khắc tên mình bằng máu trên lưng quan thống đốc nhà tù thành Goa. Tiếp sau là tên da đen khổng lồ có rất nhiều tên từ khi hắn từ bỏ cái tên mà các bà mẹ da đen đặt cho để dọa bọn trẻ sống dọc bờ sông Guidjo-Mo. Rồi đến Bill Jukes, khắp người không chỗ nào không xăm, cũng là gã đã được nhận sáu lần mười hai roi chín dải từ tay Flint trước khi buông rơi túi tiền. Và rồi là Cookson, được coi là anh em với Murphy Đen (điều chưa bao giờ được chứng minh), và đến Startkey, trước kia là gác cổng trường học và bao giờ cũng giết người với phương pháp hết sức tinh tế. Rồi là Skylights (Skylights của Morgan), rồi Smee, viên quản lý người Ai-rơ-len, một gã vui tính sẵn sàng giết kẻ đối đầu mà chẳng thù oán gì và là tên duy nhất không có tính ba phải trong đội của Hook, và gã nhà quê Noodler có tay gắn trên lưng, và Robulus Mullins, Alf Mason và còn nhiều tên cướp khác nổi tiếng và được nể vì trong toàn vùng biển Caribe.
Giữa đám cướp đó là con người đen tối nhất và cũng đáng sợ nhất, James Hook, hay như chính hắn đã tự viết, Jas. Hook, kẻ duy nhất mà See-Cook sợ. Ngồi chễm chệ trong một chiếc xe thô kệch do quân của hắn kéo, Hook mang một chiếc móc sắt thay cho tay phải và thỉnh thoảng dùng móc đó để thúc quân kéo xe đi nhanh hơn. Tên kẻ cướp đáng sợ này xử sự với lính như với một bầy chó và chúng cũng tuân lệnh hắn như bầy chó. Về hình dáng bên ngoài, hắn gầy, da ngăm ngăm, mớ tóc dài đen nom xa trông như một chuỗi nến đen khiến cho nét mặt đều đặn của hắn đầy vẻ đe dọa. Mắt hắn màu tím nhạt và mang nét ưu phiền, trừ khi hắn ngoắc cái móc vào thân thể bạn. Khi đó, trong ánh mắt hắn lóe lên hai ngọn lửa hung bạo. Hắn tỏ ra quý phái kiểu cách như một nhà quý tộc, kể cả lúc hắn mổ bụng bạn ra, và có người cam đoan với tôi hắn quả là một tay kể chuyện có hạng. Hắn tỏ ra khủng khiếp nhất khi hắn thể hiện sự lịch sự tinh tế, là dấu hiệu rõ nét nhất của sự quý phái. Ngôn từ tao nhã, kể cả khi hắn đang nguyền rủa, làm nổi bật rõ sự khác biệt về tầng lớp xã hội giữa hắn và bầy đoàn của hắn. Là người rất dũng cảm, hắn chỉ sợ có mỗi việc nhìn thấy máu của chính mình vốn rất đặc và có màu khác thường. Hắn ăn mặc theo kiểu của Saclơ đệ nhị vì trong cuộc đời cướp biển của hắn, có người đã bảo trông hắn có nét giống những người trong dòng họ Stuart với số phận bi thảm. Mồm hắn ngậm một thứ dụng cụ kỳ quặc do chính hắn tự phát minh ra cho phép hắn hút được hai điếu xì gà một lúc. Nhưng rõ rành như hai với hai là bốn, nổi bật nhất trên con người hắn vẫn là cái móc sắt.
Bây giờ ta hãy cho một tên cướp biển chết đi để minh họa cho phương pháp của Hook. Bớt Skylights đi chẳng hạn. Trong lúc toàn đoàn đang tiến lên, Skylights vụng về vấp phải chủ tướng, làm xô lệch cổ áo viền đăng ten của Hook, thế là cái móc sắt loáng lên như tia chớp, có tiếng rít lên ngắn gọn, tiếng kêu thét, rồi xác Skylights bị vứt sang bên và bọn cướp đi qua. Hook thậm chí còn không bỏ xì gà ra khỏi miệng. Đó chính là con người đáng sợ mà Peter phải đối đầu. Ai sẽ thắng đây?
Im lìm bám theo sau bọn cướp biển trên con đường chiến tranh, là người Da đỏ với ánh mắt nhìn cảnh giác, ai không tinh thì không nhìn thấy họ. Họ mang rìu của dân Da đỏ và dao quắm, thân thể để trần của họ vẽ sơn nhằng nhịt và bôi dầu. Ngang lưng treo những bộ da đầu của cả bọn trẻ lạc lẫn bọn cướp biển vì đây chính là người Da đỏ thuộc bộ lạc Negrito, chớ nên nhầm họ với bộ lạc Delaware đầy lòng nhân hậu hoặc với người Huron. Đi tiên phong trinh sát trong tư thế bò là Báo Nhỏ Lớn, một chiến binh có nhiều tấm da đầu treo ngang thân đến nỗi việc bò của anh ta gặp khá nhiều khó khăn. Đi cuối đoàn là Hoa Huệ Vằn, dáng đi kiêu hãnh đúng như một công chúa đích thực phải như vậy. Đó là cô gái xinh đẹp nhất trong các cô sơn nữ da màu đồng và là người được các chiến binh Negrito yêu quý nhất. Tâm tính nàng lúc thì điệu đà, lúc thì kiêu hãnh xa cách, khi thì lại si tình. Không một người chiến binh nào lại không mơ có nàng làm vợ, nhưng nàng có cách sử dụng lưỡi rìu để tránh bị đưa tới làm lễ cưới trước ban thờ. Hãy nhìn xem họ tiến lên trên những cành cây mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào. Người ta may lắm cũng chỉ nghe thấy tiếng thở hơi dồn dập của họ. Thực tế là họ có hơi mập ra do ăn uống phè phỡn, nhưng rồi họ sẽ thon gọn lại ngay thôi và lúc này đó chính là mối nguy duy nhất đang đe dọa họ.
Người Da đỏ biến nhanh như khi họ tới, như những hình bóng. Tiếp sau đó là các loài dã thú trong đội hình vừa lộn xộn vừa dàn trải nào hổ, nào sư tử, nào gấu và vô vàn những con vật khác bé hơn đang chạy trốn vì dã thú, nhất là những loài ăn thịt người, sống cạnh nhau trên hòn đảo được ưu đãi này. Chúng chạy, lưỡi thè lè ra. Đêm nay, chúng đang đói.
Khi cả bầy đã đi qua, hiện lên một con cuối cùng, một con cá sấu to kinh dị. Chúng ta sẽ biết nó đuổi theo ai.
Cá sấu qua xong rồi lại đến bọn con trai vì cuộc đuổi bắt phải tiếp tục mãi cho đến khi nào một trong số các tốp này dừng lại hoặc thay đổi tốc độ. Khi đó chúng sẽ nhanh chóng va vào nhau. Nay thì tốp nào cũng đang chăm chăm nhìn về phía trước mà chẳng mảy may bận tâm đến mối hiểm nguy có thể xuất hiện từ phía sau. Đó là thực tế trên đảo.
Những kẻ đầu tiên tách ra khỏi cái vòng quay đèn cù này là đám trẻ lạc. Chúng lăn vào đám cỏ cao gần nơi chúng ở dưới đất. "Giá mà Peter trở về nhỉ", chúng lo lắng nghĩ vậy, mặc dù tất cả đều to lớn hơn thủ lĩnh.
- Tớ là đứa duy nhất không sợ bọn cướp biển – Slightly nói với cái giọng khiến nhiều đứa khác phát chán.
Chắc có tiếng gì đấy từ nơi xa vọng về khiến nó lo ngại nên nó vội thêm:
- Nhưng tớ rất mong Peter về và cho chúng mình biết thêm tin tức về Lọ Lem.
Cả bọn bắt đầu kể về Lọ Lem và Tootles cam đoan rằng mẹ nó rất giống Lọ Lem. Chỉ khi nào Peter đi vắng, bọn trẻ mới dám nói chuyện về mẹ chúng, một chủ đề mà Peter không bao giờ cho phép động tới.
- Kỷ niệm duy nhất của tớ về mẹ tớ là mẹ tớ rất hay bảo bố tớ: « Ước gì em có tài khoản riêng nhỉ! » Tớ không biết tài khoản là cái gì nhưng tớ cũng rất thích nếu được mẹ cho một cái.
Trong khi chúng nói chuyện, có tiếng gì từ xa vọng tới. Bạn cũng như tôi không quen với đời sống hoang dã chắc chẳng thể nào nghe được gì, nhưng tai bọn trẻ rất thính đã bắt được bài hát này:
Yô hô, đời cướp biển là đây
Xương sọ, xương ống chân lủng lẳng treo đầy!
Rượu ngon, nhắm tốt, dây thừng dẻo
Hát lên nào Davy Johns, hoan hô!
Ngay tức thì, bọn trẻ lạc… nhưng chúng đâu rồi nhỉ? Chúng đã biến mất, nhanh hơn thỏ.
Tôi sẽ bảo cho các bạn biết chúng ở đâu. Trừ Nibs đang đi trinh thám, cả bọn đã chui vào trong nhà ngầm dưới đất, một nơi ở đầy thú vị. Nhưng chúng làm thế nào mà được như thế? Vì chẳng thấy lối vào ở đâu, dù cho ta có dọn đi một đống bụi cây, ta cũng chỉ thấy có lối vào một cái hang mà thôi. Tuy vậy, bạn thử nhìn kỹ hơn mà xem, có khi bạn sẽ thấy trên bảy thân cây to mà rỗng, có những lỗ khoét vừa với thân hình một đứa trẻ. Đó chính là bảy lối vào của nơi ẩn náu dưới đất mà Hook đã vô vọng tìm kiếm bao đêm trăng. Liệu đêm nay hắn có tìm thấy không?
Trong lúc bọn cướp biển đang tiến lên, đôi mắt tinh tường của Startkey thoáng thấy Nibs đang lẩn lướt đằng sau các gốc cây và ngay tức thì, hắn chĩa súng ngắn vào cậu bé. Nhưng một cái móc sắt đã cào lên vai hắn.
- Thủ lĩnh, thả tôi ra - hắn vặn người vì đau kêu lên.
Và thế là lần đầu tiên ta được nghe giọng của Hook. Giọng tên cướp rắn đanh.
- Dẹp súng của mày đi đã - hắn đe dọa nói.
- Nhưng đó là một thằng ranh con mà thủ lĩnh căm thù ghê gớm cơ mà, tôi đang định hạ nó đây.
- Để bọn Da đỏ nghe thấy tiếng súng ấy hả. Mày có định để chúng lột da đầu hay không đấy?
- Thủ lĩnh, hay để tôi đuổi theo nó? – Smee đề nghị - tôi sẽ dùng máy khoan Johnny ngoáy cho nó một cái?
Smee luôn nghĩ ra các loại tên gọi đủ kiểu cho mọi thứ, và con dao dài của hắn tên là máy khoan Johnny vì hắn có thói quen dùng lưỡi dao ngoáy trong vết thương. Ta còn có thể nêu những điểm hay ho khác của Smee. Chẳng hạn như sau khi giết người, không phải hắn chùi vũ khí mà hắn lau kính.
- Johnny làm việc không gây tiếng động - hắn nhắc Hook.
- Bây giờ không phải lúc, Smee – Hook hầm hừ - Thằng này chỉ có một mình và ta muốn tóm được cả bảy đứa. Nào, tản ra và tìm bằng được lũ chúng cho ta.
Bọn cướp biển tan vào bóng đêm và chỉ còn lại tên thủ lĩnh cùng Smee. Hook thở dài, tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại như vậy, có thể là vì buổi tối quá trong lành. Và thế là hắn bèn tâm sự với tên phụ trách trung thành.
Hắn nói rất lâu, giọng đầy xúc động, nhưng Smee vốn đơn giản và thiển cận, chẳng hiểu gì. Tuy vậy, hắn chỉ nghe được có tên Peter:
- Trước nhất, là ta cần phải tóm được thằng thủ lĩnh của chúng, Peter Pan – Hook hung dữ nói – chính nó đã cắt cụt tay ta.
Hắn giơ cái móc sắt lên đe dọa.
- Từ lâu ta đã chờ được bắt tay nó với cái móc sắt này! Ta sẽ băm nhỏ nó ra!
- Nhưng tôi đã nghe thủ lĩnh bảo là cái móc sắt này lợi hại bằng mười hai lần bàn tay trong việc chải đầu và một lô các công dụng khác cơ mà.
- Đúng thế, nếu ta là đàn bà, ta sẽ ước gì đẻ ra được lũ con với cái móc kiểu này thay cho tay.
Hắn tự hào ngắm nhìn móc sắt và khinh thị nhìn sang bàn tay lành lặn. Rồi hắn lại cau mày.
- Peter đã ném tay ta cho con cá sấu qua đường lúc đó - hắn nghiến răng nói.
- Tôi cũng nhận thấy thủ lĩnh sợ cá sấu quá thể - Smee nhận xét.
- Không phải ta sợ cá sấu, ta chỉ sợ có một con cá sấu ấy thôi.
Hắn hạ giọng.
- Smee, tay ta quá ngon đối với nó, cho nên từ đó nó bèn cứ nhằng nhẵng đuổi theo ta, trên đất liền, trên biển, vừa đi vừa liếm mép khi nghĩ tới lúc nó được xơi nốt phần còn lại.
- Nói cho cùng thì đấy cũng là nó khen thủ lĩnh.
- Tao chẳng cần khen kiểu đấy – Hook gào lên – tao muốn giết cái thằng Peter Pan đã dám cho con quái vật ấy bén mùi thịt tao.
Hắn ngồi xuống một cây nấm lớn và run lên :
- Smee, con quái sấu ấy đáng ra đã bắt được ta và xơi tái từ lâu rồi nhưng do vận may không ngờ, nó lại ăn phải một cái đồng hồ cứ kêu tích tắc trong bụng nó, thế là cứ khi nào nó tới gần, ta đều nghe thấy trước và ta chạy thoát.
Hắn cười nhưng tiếng cười không có gì là vui.
- Có ngày đồng hồ chết và nó sẽ bắt được thủ lĩnh – Smee tiên đoán.
Hook liếm đôi môi khô:
- Đúng vậy, chính thế mà nỗi sợ cứ đeo bám theo ta.
Từ khi hắn ngồi xuống, cảm giác nóng kỳ lạ dính vào hắn:
- Smee, chỗ ta ngồi nóng bỏng lên này!
Hắn nhảy dựng dậy :
- Smee, quỷ tha ma bắt, đít ta cháy rồi.
Chúng xem xét kỹ cái nấm. Đó là một cây nấm có kích cỡ chắc chắn chưa từng thấy trên đảo. Chúng túm lấy rìa nấm và giật ra dễ dàng vì nấm không có chân. Lạ hơn nữa là có khói bốc ra từ lỗ thân nấm. Hai tên cướp nhìn nhau :
- Ống khói ! – Chúng cùng kêu lên.
Quả là chúng đã phát hiện ra ống khói của ngôi nhà dưới đất. Mỗi khi kẻ thù tới gần, tụi trẻ lạc thường hay lấy một cây nấm che ống khói lại.
Không những có khói bay lên từ đó mà người ta còn nghe thấy cả giọng trẻ con vì lũ trẻ cảm thấy an toàn trong nơi ẩn nấp nên tán gẫu và cười đùa một cách vô tư. Bọn cướp căng thẳng lắng nghe một hồi, rồi chúng đặt cây nấm vào chỗ cũ. Sau đó, chúng tìm kiếm xung quanh và chẳng mấy chốc đã tìm ra bảy lỗ trổ trên bảy cái cây.
- Thủ lĩnh có nghe thấy chúng bảo nhau là Peter không có nhà hay không? – Smee vừa thì thầm hỏi vừa mân mê máy khoan Johnny.
Hook gật đầu. Hắn trầm tư suy tính một lúc rồi nở một nụ cười lạnh lẽo trên gương mặt sạm nắng. Smee đành chờ phản ứng của sếp.
- Thủ lĩnh tính sao đây ? - Hắn săn đón hỏi.
- Quay trở về tàu – Hook nghiến răng chậm rãi trả lời – Ta làm một chiếc bánh thật to rồi đổ đường xanh lên trên. Chắc đây chỉ có một phòng, vì chỉ có một ống khói. Cái lũ chuột chũi ngu xuẩn ấy không biết rằng chúng chẳng việc gì lại cần phải có mỗi thằng một cửa ra vào. Chứng tỏ rằng chúng không có mẹ. Ta sẽ để chiếc bánh trên bờ hồ Tiên cá. Bọn này hay ra đấy bơi và chơi với lũ tiên cá. Chúng sẽ thấy cái bánh và sẽ xơi kỳ hết thì thôi. Vì chúng không có mẹ nên không thể biết rằng ăn một cái bánh quá bổ và quá béo là nguy hiểm như thế nào.
Hắn phá lên cười, lần này thì hắn cười thật thoải mái.
- Ha ha ha ! Và thế là chúng sẽ chết !
Smee càng nghe càng phục.
- Thật là mánh khóe khôn ngoan và gian nhất mà tôi được biết!
Trong cơn vui sướng, chúng nhảy múa và hát:
Áp sát mạn tàu khi ta xuất hiện
Cả lũ bay đều run sợ trong quần
Xương thì dày còn da lại mỏng
Móc sắt vào là thiệt đến thân
Chúng vừa cất lời thì chợt có tiếng động. Tiếng kêu ken két khẽ đến nỗi lá rơi cũng có thể làm át đi, rồi tiếng động rõ nét hơn:
Tích! Tích! Tích! Tích!...
Hook đứng sững người, rùng mình, một chân co lên.
- Con cá sấu ấy đấy - hắn nói như nghẹn đi.
Rồi hắn chuồn lẹ, theo sau là tên quản lý.
Đó quả là con cá sấu thật. Nó đã vượt qua được toán Da đỏ đang đi truy lùng bọn cướp biển còn nó thì đuổi theo Hook.
Lại một lần nữa, bọn con trai trồi lên mặt đất nhưng những mối hiểm nguy trong đêm tối chưa tan hết vì Nibs hiện ra giữa đám, thở không ra hơi, kéo theo một bầy chó sói lưỡi thè lè đang hú lên những tiếng kêu ghê rợn.
- Cứu tớ với ! Cứu tớ với – Nibs vừa kêu vừa ngã vật xuống đất.
- Chúng tớ phải làm gì ? Làm gì ?
Đối với Peter thì quả là sung sướng khi biết rằng trong những phút giây nguy hiểm, mọi người đều nghĩ đến cậu.
- Nếu Peter ở đây thì cậu ấy làm gì nhỉ ? - Cả bọn đều kêu lên.
Gần như đồng thời, chúng cùng nói :
- Có khi Peter sẽ nhìn chúng qua hai cẳng chân.
Rồi chúng cùng tiếp :
- Chúng mình cùng làm như Peter đi.
Quả là không có cách nào tốt hơn để rũ bỏ được lũ sói. Và cả bọn cùng chổng mông lên trời, cúi nhìn lũ chó sói qua hai chân dang rộng. Vài giây dài tưởng chừng như thế kỷ trôi qua rồi chiến thắng đã rõ ràng. Khi tụi trẻ tiến lên trong tư thế đáng sợ đó, lũ chó sói đột nhiên quay ngoắt lại và bỏ chạy cúp cả đuôi. Nibs bấy giờ mới đứng dậy đượcvà bọn trẻ tự nhủ rằng mắt thằng bé này vẫn còn như đang nhìn thấy chó sói mà lại không phải là chó sói.
- Tớ nhìn thấy một thứ tuyệt vời trên cả tuyệt vời – nó kể trong lúc bọn trẻ vây quanh nó – Có một con chim trắng, bay ở phía này này.
- Là chim gì ?
- Tớ không biết – Nibs thích thú kể - nhưng nó có vẻ mệt mỏi. Với lại nó vừa bay vừa kêu "Khổ thân Wendy!"
- Khổ thân Wendy à ?
- Tớ nhớ là có những loài chim tên là chim Wendy – Slightly vội kêu.
- Nhìn kìa, nó đấy ! – Curly vừa la vừa giơ tay chỉ về phía Wendy trên không trung.
Wendy giờ đây gần như bay ngay phía trên đầu tụi trẻ và chúng nghe thấy tiếng cô rên rỉ. Nhưng còn rõ hơn nữa là tiếng Tinker Bell. Cô tiên ghen tức đã buông rơi tất cả những dấu hiệu giả danh tình bạn và ra sức nhào vào Wendy, cấu xé cô này thật tàn nhẫn.
- Chào Tinker Bell! - Bọn trẻ ngạc nhiên kêu lên.
Tinker Bell lanh lảnh kêu lên:
- Peter muốn các cậu bắn vào con Wendy này đấy.
Bọn trẻ không có thói quen cãi lại lệnh của Peter.
- Tuân lệnh sếp – chúng ngây thơ kêu – nhanh nhanh, chúng mình lấy cung tên ra thôi.
Tất cả đều chạy về lỗ cây của mình trừ Tootles. Nó đã mang sẵn cung tên trong tay. Tinker Bell nhìn thấy và xoa tay.
- Nhanh lên, Tootles, nhanh. Peter sẽ vui lắm đấy.
Tootles luống cuống chỉnh mũi tên.
- Tránh ra, Tinker Bell.
Rồi nó thả dây cung và Wendy rơi phịch xuống đất, mũi tên cắm trên ngực