Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #6  
Old 07-03-2008, 06:56 PM
hoanghai402's Avatar
hoanghai402 hoanghai402 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: THĂNG LONG THÀNH
Bài gởi: 83
Thời gian online: 1 tuần 4 ngày 5 giờ
Xu: 0
Thanks: 350
Thanked 9 Times in 6 Posts
Bảo Thụ kể tiếp:
-Sấm Vương luôn có bốn vệ sĩ bên mình, ai nấy đều võ nghệ cao cường, trung thành rất mực. Một người họ Hồ, một người họ Miêu, một người họ Phạm, và một người họ Ðiền. Trong quân thường gọi tắt là Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền...
Bọn Ân Cát, Ðiền Thanh Văn nghe đến bốn chữ "Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền" thì biết ngay rằng bốn vệ sĩ này ắt hẳn có liên quan mật thiết tới câu chuyện ngày hôm nay.
Ðiền Thanh Văn liếc nhìn Miêu Nhược Lan thấy đang cầm thanh sắt cời lửa nhè nhẹ khơi những cục thanh cháy hồng trong lò , vẻ mặt thẫn thờ, đôi má mịn như ngọc trắng, ửng hồng trước anh lửa bật bùng.
Bảo Thụ ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà, nói tiếp:
-Bốn vệ sĩ này theo Sấm Vương vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu gian lao nguy hiểm, đã từng cứu Sấm Vương thoát chết bao nhiêu lần, Sấm Vương coi họ như ruột thịt của mình. Trong bốn người đó, vệ sĩ họ Hồ võ công cao cường,lại tài cán hơn cả. Trong quân, SấmVương gọi ông ta là "Phi Thiên Hồ Ly"!
Nghe đến đây, mọi người đều "ồ" lên một tiếng.
-Sấm Vương bị vây hãm núi Cửu Cung vô cùng nguy khốn -Bảo Thụ tiếp tục câu chuyện -Thấy sứ giả nào Sấm Vương cử đi cầu kiến hễ vừa tới chân núi là bị bên địch giết chết, chỉ còn cách cử ba vệ sĩ họ Miêu, họ Phạm, họ Ðiền nhân lúc đêm tối phá vây xông ra đi cầu kiến, vệ sĩ họ Hồ ở lại bảo vệ Sấm Vương. Không ngờ, khi ba vệ sĩ kia trở về cùng đoàn quân cứu viện, thì Sấm Vương bị sát hại rồi.
Ba vệ sĩ thanh khóc hồi lâu. Ngay bấy giờ, vệ sĩ họ Phạm định tự vẫn chết theo chủ soái, song hai người kia ngăn lại, nói rằng hãy nên báo mối thù sâu tựa biển này trước đã.
Ba người đi khắp các xóm dưới núi Cửu Cung để hỏi thăm tường tận về việc Sấm Vương tuẫn nạn ra sao, cảm thấy hình như vệ sĩ họ Hồ vẫn còn sống ở đâu đây.
Họ biết rằng, người ấy võ nghệ siêu quần, lại có nhiều mưu lược; nếu có người ấy đứng đầu, thì có thể trả thù cho Sấm Vương được. Thế là họ chia nhau đi các ngả dò la tin tức về vệ sĩ họ Hồ.
Các bậc trưởng lão trong giới võ lâm vẫn truyền nhau rằng, vì việc tìm kiếm đó mà gây ra việc động trời. Ba vị Miêu, Phạm, Ðiền sau này đều kể lại tường tận mọi việc ấy cho lớp con cháu nghe, và lập tức quy ước trong gia tộc rằng mỗi đời đều kể lại cho đời sau nghe để lớp con cháu của ba họ Miêu, Phạm, Ðiền không bao giờ quên.
Nói đến đây, Bảo Thụ nhìn Miêu Nhược Lan:
-Bần tăng chỉ là người ngoài, nên chỉ biết một cách đại khái thôi. Miêu cô nương bằng lòng nói thêm, hẳn là sẽ tỉ mỉ hơn nhiều.
Mọi người đều nghĩ: "Hoá ra cha con Miêu Nhân Phượng là lớp con cháu của vị vệ sĩ họ Miêu".
Miêu Nhược Lan đăm dăm nhìn vào lửa hồn kể:
-Năm tôi lên bảy, vào một buổi tối thấy cha tôi mài thanh trường kiếm. Tôi nói tôi sợ đao kiếm lắm, muốn cha tôi cất đi đừng đùa nữa. Cha tôi bảo, cần phải dùng kiếm này để giết một người đã, rồi mới có thể cất đi không bao giờ dùng đến nó nữa.
Tôi bá cổ cha tôi, xin ông không giết người, cha tôi bèn kể cho tôi nghe một câu chuyện.
Rất nhiều năm về trước, dân chúng khổ cực chẳng có cơm ăn áo mặc. đành ăn vỏ cây, rễ cỏ. Rồi ngay cả vỏ cây rễ cỏ cũng hết, đành ăn cả đất bùn, rất nhiều người phải chịu chết đói. Người mẹ không có cơm ăn nên không có sữa, nhiều trẻ sơ sinh chết ngay trong tay mẹ. Thế mà các quan phủ vẫn đòi dân chúng phải nộp lương thực, các nhà giàu vẫn thúc ép dân nghèo nộp tô trả nợ. Dân chúng không kiếm đâu ra được, nên rất nhiều người bị quan phủ giết, bị các chủ nợ bắt nhốt lại.
Cha tôi có dạy tôi một bài hát, bảo là bài ấy do một công tử văn võ song toàn làm ra. Các vị có muốn nghe tôi đọc lại không?
-Xin cô nương cứ đọc đi -Mọi người đồng thanh.
Riêng Bảo Thụ nghe nói đến "vị công tử văn võ song toàn" thì biết ngay đó chính là Lý Nham, viên đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành.
Miêu Nhược Lan đọc:
Sâu hạn năm qua khổ thật tình
Mất mùa, lúa má phá tan tành
Gạo cao thóc kém bao lần gấp
Chốn chốn dân lành sống bấp bênh
Lá cây rễ cỏ cho no bụng
Con trẻ oa oa khóc thất thanh
Bụi bám nồi niêu bếp tắt ngấm
Mấy ngày cháo loãng húp sao đành
Quan trên thu thóc sai hổ dữ
Hào phú đòi tô thả sói "lành"
Thương bấy, chỉ còn hơi thở dốc.
Hồn đã lìa xác xuống mồ xanh
Khôn qua ải đói bao oan nghiệt
Khắp chốn xương khô chất tựa thành
Rơi lệ ai là người tránh khỏi?
Lệ rơi hoá máu thấm hoen mình!
Mọi người đều nhớ là vào khoảng giữa đời vua Càn Long. tuy nói là thời thái bình thịnh trị, song hàng năm việc hạn hán và lũ lụt sảy ra vẫn khiến trăm họ khốn khổ.
Nghe cô gái đọc rõ ràng từng câu từng chữ, giọng đọc đượm nỗi đau thương da diết, ai cũng liên tưởng đến những cảnh ngộ mắt thấy tai nghe trong cuộc đời giang hồ của mình và đều thấy mủi lòng thương cảm.
Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Cha tôi còn kể rằng, sau đấy quả tình là dân chúng không sao chịu đựng nổi được nữa. Rồi thì có một vị đại anh hùng đứng lên cầm đầu mọi người đánh vào Bắc Kinh. Tiếc rằng, từ sau khi lên ngôi hoàng đế, vị anh hùng ấy đã xử sự không thoả đáng, đã không đối đãi dân chúng tử tế mà trái lại, các tướng lĩnh dưới quyền còn đi tàn hại dân chúng, cướp bóc của cải của họ. Dân chúng bèn không theo người ấy nữa. Vị anh hùng đó cho rằng lòng dân đều hướng về chàng công tử làm bài hát kia bèn sát hại luôn công tử. Thế là đám thuộc hạ của ông nhốn nháo cả lên. Chẳng bao lâu vị anh hùng đó bị kẻ gian sát hại.
Nói đến đây, Miêu Nhược Lan thở dài, ngừng một lát rồi nói tiếp:
-Còn ba người vệ sĩ của vị anh hùng thì bàn nhau đi tìm người vệ sĩ họ Hồ, hi vọng người ấy sẽ bày kế hoạch báo thù cho chủ soái.
Lúc ấy, người dị tộc đã lên ngôi hoàng đế, truy nã các bạn hữu của vị anh hùng đó ở khắp mọi nơi. Ba người vệ sĩ nọ khó bề yên thân, đành cải trang ẩn trốn. Một người cải trang thành ông lang bán thuốc, một người cải trang thành kẻ ăn mày,còn người thứ ba có sức vóc hơn cả cải trang thành làm người phu khuân vác.
Ba người bọn họ và người vệ sĩ thứ tư kia là bốn anh em két nghĩa, đã đồng cam cộng khổ mấy chục năm trời, còn thân thiết hơn cả anh em ruột. Cả ba đều khắc khoải, chờ mong người thứ tư kia, song suốt bảy tám năm trưòi tìm kiếm mà vẫn bặt tin. Họ nghĩ có lẽ người ấy đã tử trận trong khi bảo vệ chủ soái rồi, và thấy vô cùng đau xót.
Mọi người nghe giọng nói trầm bổng của cô gái, tựa như cách kể chuyện cho trẻ con, đều đoán rằng có lẽ cô gái bắt chước cách kể chuyện của cha mình năm xưa,và thầm nghĩ "xưa nay tuy nghe trong danh hiệu Kim Diện Phật có chữ "Phật",song ông ta luôn căm ghét điều xấu như kẻ thù, đã ra tay là rất dữ dằn... thế mà đối xử với con gái lại ôn hoà, nhân ái đến thế".
Miêu Nhược Lan kể tiếp:
-Sau đó mấy năm, cả ba quyết định thôi không tìm người anh em kết nghĩa kia nữa. Họ gặp nhau bàn bạc, biết rằng kẻ gian năm xưa sát hại vị anh hùng, nay đã được phong tước Vương, đang sống sung sướng ở Vân Nam. Họ bèn quyết định đi Vân Nam để giết hắn, báo thù cho thủ lĩnh và người anh em kết nghĩa kia. Thế là cả ba người lên đường đi Vân Nam.
Lưu Nguyên Hạc, Hùng Nguyên Hiến đưa mắt nhìn nhau, cùng hiểu rằng, kẻ gian mà cô gái nói đến chính là Ngô Tam Quế, người được phong làm Bình Tây Thân Vương.
Ba người đi đến Côn Minh -Miêu Nhược Lan kể tiếp -và dò la kỹ lưỡng quanh nơi ở của tên Hán gian đó. Vào tối mồng năm tháng ba năm ấy, cả ba đem gươm đao và ám khí trèo tường nhảy vào.
Hắn phòng bị vô cùng cẩn mật, nên cả ba vừa vào là bị các vệ sĩ phát hiện ngay. Ba người tuy võ nghệ cao cường, nên mới ra tay đã sát hại và đánh bị thương hơn hai chục tên vệ sĩ. Cả bọn vệ sĩ không chặn nổi ba người, và họ đã xông vào tận phòng ngủ của tên Hán gian. Những tưởng hắn không sao trốn thoát, nào ngờ có một người nhảy xổ ra che chắn cho hắn. Ba người nhìn mặt thì kinh ngạc vô cùng, vì chính đây là người anh em kết nghĩa họ vẫn tìm kiếm bấy lâu nay. Người ấy võ công cao cường hơn họ, bảo vệ tên Hán gian không cho họ giết hắn. Cả ba vừa ngạc nhiên, vừa giận dữ, xông vào đấu ngay. Lát sau,từ phía ngoài tràn vào thêm mấy chục vệ sĩ nữa nên biết không sao địch nổi đành tháo chạy. Riêng người cải trang thành ohu khuân vác vì sểnh tay bị bắt giữ.
Chính tên Hán gian Ngô Tam Quế xét hỏi ông ta. Ông ta lớn tiếng mắng chửi hắn đã bán cả giang sơn của người Hán cho người dị tộc. Tên Hán gian đã cho đánh gẫy hai chân ông ta rồi giam vào ngục. Người anh em kết nghĩa nghĩ thấy xấu hổ, đã lẻn vào nhà giam thả ông ta ra.
Sau đấy, khi cả ba người gồm ông thầy thuốc, kẻ ăn mày và người phu khuân vác gặp lại nhau, họ ôm nhau khóc lóc thảm thiết, không ngờ người huynh trưởng kết nghĩa năm xưa lại tha y lòng đổi dạ chạy theo kẻ thù. Cả ba lại ngầm nghe ngóng, và phát hiện ra một câu chuyện đáng căm phẫn: thì ra năm xưa khi cả bọn xuống núi đi cầu viện binh, người huynh trưởng chờ mấy hôm không thấy viện binh, chính huynh trưởng đã ra tay hạ sát chủ soái rồi đầu hàng kẻ địch. Hoàng đế Mãn Thanh phong cho ông ta một chức quan to, hiện giờ được thăng đến chức đề đốc dưới quyền của tên Hán gian.
Nghe đến đây, mặt mọi người đều biến sắc. Họ từng nghe nói Sấm Vương bị sát hại núi Cửu Cung. Có kẻ đồn là bị dân chúng giết, có kẻ bảo là bị quan binh giết nhưng không ngờ hung thủ lại chính là vệ sĩ tâm phúc của Sấm Vương.
Miêu Nhược Lan thở dài:
-Ba người nghe ngóng xác định đúng là như vậy, bèn quyết chí tính sổ với kẻ ấy.
Có điều cả ba vốn khó lòng thắng nổi, giờ đây người đóng vai phu khuân vác lại bị thương nặng thì càng yếu thế. Ðang trù trừ chưa biết tính sao, bỗng người anh kết nghĩa sai người mang thư tới, hẹn cùng đến uống rượu ở Ðiền Trì vào tối ngày rằm tháng ba.
Cả ba hiểu ắt có quỷ kế chi đây, song lại nghĩ người ấy đã biết rõ nơi ở cùng với động tĩnh của mình, lại có quyền lực lớn ở vùng này, dẫu muốn tránh cũng khó. Cơ sự đến nước này, dẫu có là hang hùm miệng sói cũng đành liều mà đi vậy! Thế là đến ngày hẹn, cả ba ngầm giắt binh khí trong mình cùng đến Ðiền Trì. Người huynh trưởng kết nghĩa năm xưa đã đợi từ sớm và chỉ có một mình, ăn vận quần màu xanh bằng vải thô, giống như năm xưa khi cả bốn ngưòi cùng ở quân doanh.
Bốn người vào một quán rượu nhỏ ven hồ, gọi ít thịt luộc, à nướng, bánh bao và mười mấy cân rượu trắng, rồi lên thuyền cùng ra giữa hồ uống rượu ngắm trăng.
Bốn người vừa uống rượu vừa ôn lại những chuyện oanh liệt khi cùng trong quân ngũ năm nào. Ba người để ý thấy người huynh trưởng cũ không hề nhắc đến tên của vị anh hùng, nên cũng kìm nén không đả động tới.
Rồi thấy người ấy liên tiếp cứ uống rượu thừng bát lớn, mãi khi trăng đã lên lưng trời mới ngửa mặt kêu lên: "Các nghĩa đệ! Chúng ta lâu ngày mới có dịp gặp lại nhau, nên hôm nay ta vui sướng lắm!". Câu nói chứa đầy hào khí sảng khoái lại được phát ra bởi miệng một cô gái hiền lành tao nhã là mnl, kể ra có lẽ không được hợp lắm, song mọi người đang bị lôi cuốn bởi các tình tiết hấp dẫn của câu chuyện nên không ai bận tâm để ý.
Miêu Nhược Lan kể tiếp:
-Người cải trang làm thầy lang không nén nhịn được nữa, cười nhạt: "Anh làm quan to, có đủ vinh hoa phú quý cả rồi, cố nhiên là thấy vui! Có điều là không rõ Nguyên soái giờ này nghĩ gì nhỉ?".
Tuy vị đại anh hùng sau này đã từng làm hoàng đế, song cả bốn vệ sĩ thân tín vẫn gọi ông ta là "Nguyên soái".
Huynh trưởng thở dài nói: "Ôi! Hẳn là Nguyên soái cô đơn lạnh lẽo lắm. Giờ thì đại sự đã xong rồi, ta muốn bảo các nghĩa đệ đi gặp Nguyên soái đấy".
Nghe thấy thế, cả ba nổi giận đùng đùng, thầm nghĩ: "Gớm thật! Mi lại còn muốn giết luôn cả ba chúng ta nữa, để cho chúng ta xuống âm tào địa phủ gặp Nguyên soái ư?".
Người đóng vai phu khuân vác rờ tay vào trong người định rút dao. Người đóng giả thầy lang bèn đưa mắt ra hiệu, rồi nâng vò rượu rót cho huynh trưởng kết nghĩa, và nói: "Từ sau ngày ba chúng tôi từ biệt núi Cửu Cung, thì rốt cuộc Nguyên soái ra sao?".
Huynh trưởng nhướng lông mày lên: "Hôm nay ta hẹn các nghĩa đệ đến đây, là nhằm nói chuyện đó". Người đóng vai ăn mày bỗng chỉ tay về phía sau lưng huynh trưởng, hỏi to: "Kìa, có ai đến thế nhỉ?".
Huynh trưởng quay người lại nhìn, thì người đóng vai ăn mày và thầy lang đều vung đao chém luôn. Một nhát đã chặt đứt cánh tay phải của huynh trưởng và một mũi dao găm đâm vào giữa lưng sâu đến mấy tấc.
Huynh trưởng kêu to một tiếng, quay phắt lại dùng tay trái đoạt cả hai con dao và ném luôn xuống hồ lại trở bàn tay bóp chặt huyệt đạo ở cổ của người đóng vai thầy lang.
Huynh trưởng sắc mặt tái xanh, hét lên: "Bốn chúng ta kết nghĩa sâu nặng với nhau, vậy sao... vậy sao lại ngầm giở trò hại ta thế?". Người đóng vai thầy lang bị bóp trúng huyệt đạo, người cứng đơ không cựa quậy được. Người đóng
vai phu khuân vác giơ đao quát: "Mi đã sát hại Nguyên soái, đã bán chúa cầu vinh,còn mặt mũi nào nói đến hai chữ "Nghĩa khí" nữa?".
Huynh trưởng tung chân đá văng con dao, cười lớn "Ðược! Ðược! Có nghĩa khí đấy! Có nghĩa khí đấy!". Cả ba thấy huynh trưởng đã mất một cánh tay, lưng bị trọng thương mà vẫn dũng mãnh như vậy, đều kinh ngạc ngây người. Huynh trưởng dứt tiếng cười, thì bỗng lệ trào đôi mắt: "Thật đáng tiếc! Tiếc rằng việc lớn của ta không thành". Nói rồi lỏng tay, thả người đóng vai thầy lang ra. Người đóng vai ăn mày sợ rằng huynh trưởng còn giở trò gì hiểm độc, bèn đấm một quyền mạnh trúng giữa ngực huynh trưởng. Trái đấm này nặng kinh hồn, làm huynh trưởng "hự" một
tiếng, mồm hộc máu tươi. Bỗng huynh trưởng giơ bàn tay trái đập mạnh vào mạn thuyền, làm mạn thuyền bị thủng một lỗ, các mảnh gỗ văng ra tứ tung. Huynh trưởng cười cay đắng: "Tuy bị thương nặng, song nếu ta muốn giết các nghĩa đệ thì vẫn cứ dễ như trở bàn tay!. Nhưng các nghĩa đệ là anh em tốt của ta, ta đâu nỡ làm thế!.
Cả ba người cùng lùi về phía mũi thuyền. Ðứng kề sát nhau đề phòng. Song huynh trưởng than rằng: "Ngàn vạn lần không được tiết lộ câu chuyện xảy ra hôm nay! Nếu để con trai ta biết chuyện, thì các nghĩa đệ không đáng là đối thủ của nó đâu. Ta cố nhiên sẽ tự vẫn mà chết để tránh cho các chú mang tội sát hại nghĩa huynh."
Dứt lời, huynh trưởng rút thanh đao cứa vào cổ rồi ngã gục xuống. Người đóng vai phu khuân vác cảm thấy không nhẫn tâm đứng nhìn bèn chạy lại đỡ, miệng kêu lên: "Ðại huynh!".
Huynh trưởng nói: "Các nghĩa đệ thân yêu! Ta phải đi đây!!. .
Thanh đao mà Nguyên soái vẫn dùng trong quân doanh... có can hệ lớn lắm...
Nguyên soái ở hẻm Thạch Môn...". Chưa nói hết lời, cổ họng đã tràn đầy máu,huynh trưởng gục chết bên thuyền.
Cả ba nhìn xác huynh trưởng vừa đâu khổ vừa mừng rỡ thấy thanh đao mà huynh trưởng dùng để tự vẫn có khắc mười bốn chữ, họ biết đó là thanh đao Nguyên soái vẫn dùng năm xưa.
Nghe đến đây, mọi người đều dồn ánh mắt nhìn vào thanh đoản đao mà Bảo Thụ đang cầm. Lưu Nguyên Hạc bỗng lắc đầu:
-Tôi không tin!
Ðào Bách Tuế tức giận gắt lên:
-Người thì biết gì!
Nguyên Hạc vặn lại:
-Lý Tự Thành giết người như ngóe, gây đổ máu ở muôn nơi, sao lại có thể khắc mấy chữ đó để coi là quân lệnh được?
Mọi người đều ngớ người, không biết trả lời ra sao. Bỗng Vu quản gia nói xen vào:
-Bảo Sấm Vương giết người như ngóe, có ai chứng kiến chuyện đó không?
Lưu Nguyên Hạc đáp:
-Thiên hạ đều nói thế cả, chẳng lẽ lại sai hết ư?
-Các vị là người làm quan với triều đình, cố nhiên là bảo Sấm Vương giết người bừa bãi -Vu quản gia nói -Thực ra, Sấm Vương chỉ giết bọn quan lại tham nhũng,bọn thổ hào ác bá mà thôi. Bọn ấy vốn không đáng gọi là người. Cái lệnh "Giết một người như giết cha mình", có ý cấm các thuộc hạ giết những người lương thiện.
Ðiều này là quá đúng rồi.
Lưu Nguyên Hạc còn định nói gì đó nữa, song nhìn khí thế uy nghi của Vu quản gia, bỗng ngừng lại ngay.
Hùng Nguyên Hiến có ý muốn làm dịu tình hình, bèn nói:
-Miêu cô nương! Cô nương kể tiếp, câu chuyện sau đó ra sao.
Miêu Nhược Lan nói:
-Người đóng vai phu khuân vác lại nói: "Huynh trưởng bảo là... Nguyên soái... ở chỗ hẻm núi Thạch Môn... nghĩa làm sao?". Người đóng vai thầy lang nói: "Chẳng lẽ có ý muốn nói chôn Nguyên soái ở Thạch Môn ư?". Người đóng vai ăn mày lắc đầu: "Tên này gian trá thật. Sắp chết mà vẫn còn lừa bịp người khác".
Thì ra vốn thế này: Hán gian Ngô Tan Quế về Bắc Kinh để lĩnh thưởng. Hoàng đế cho bêu đầu Nguyên soái ở cổng thành để thị uy với dân chúng. Ba vệ sĩ đã mạo hiểm lấy trộm thủ cấp đem về chôn ở một nơi hiểm yếu cheo leo không có dấu chân người. Bởi vậy, khi huynh trưởng kết nghĩa kia nói"...ở khe núi Thạch Môn" thì đương nhiên cả ba đều không tin.
Sau khi đã giết huynh trưởng, cả ba tìm cách hành thích tên Hán gian, song vì hắn phòng bị cẩn mật nên nhiều lần đột nhập đều thất bại. Rồi câu chuyện họ vì đại nghĩa mà giết huynh trưởng lan truyền dần trong giới giang hồ. Các anh hùng hảo hán trong võ lâm nghe chuyện đều giơ ngón tay cái tán thưởng: "Giết đi là phải!".
Chuyện ấy dần dần đồn đại tới quê hương của huynh trưởng. Con trai huynh trưởng vô cùng đau buồn, bèn tìm đến Côn Minh nhằm báo thù cho cha...
Ðào Bách Tuế tiếp luôn:
-Người con ấy... đã sai rồi. Tuy mối thù giết cha lớn thật đấy, nhưng cha mình đã làm điều gian ác, ai cũng có quyền trừ khử. Không nên báo thù mới phải chứ.
Miêu Nhược Lan nói:
-Hồi trước, cha tôi cũng bảo thế. Song ý nghĩ của người con thì vẫn vậy. Người con tìm đến Côn Minh, ít lâu sau thấy ba người kia trong một cái miếu hoang bèn xuất thủ luôn. Võ công của người con được người cha truyền bảo chu đáo, nên quả nhiên cả ba vệ sĩ của Nguyên soái năm xưa đều không đáng là đối thủ. Chưa đầy nửa canh giờ, họ đều lần lượt bị đánh ngục. Người con của huynh trưởng nói: "Ba vị thúc thúc! Cha tôi đã nhẫn nhục, cam chịu mang tiếng là kẻ bán chúa cầu vinh,ba vị sao hiểu được ý nghĩa sâu xa trong đó?
Vì tình kết nghĩa với cha tôi năm xưa,hôm nay tôi tha mạng ba vị! Hãy mau về nhà mà sửa soạn trước "hậu sự" đi. Ngày rằm tháng ba sang năm là ngày giỗ cha tôi, tôi sẽ đến thăm ba vị đó". Nói rồi,người ấy đoạt lấy thanh đao của Nguyên soái nghênh ngang bỏ đi.
Dịp ấy là khoảng giữa đông rét đậm. Ba người lập tức ngược về bắc, kéo tất cả gia quyến ba nhà cụm vào một nơi và kể tường tận cuộc đổ máu trên thuyền cho mọi ngươì nghe.
Ai nấy đều bảo: "Hắn đã sát hại vị đại anh ùng, lại làm vệ sĩ cho tên Hán gian, làm quan to dưới trướng người dị tộc... liệu còn có thâm ý gì nữa?
Thằng con hắn xảo trá nói cứng thế thôi, ai mà tin được". Các bạn giang hồ nghe tin, đều kéo đến rất đông để hỗ trợ.
Quả nhiên, vào tối ngày rằm tháng ba năm sau, gã con trai đó đến thật. Gã đến có một mình.
Mọi người chăm chăm nhìn Miêu Nhược Lan, chờ cô gái tiếp tục kể. Cô hầu gái bước tới gần Miêu Nhược Lan, tay bưng một lò than hồng bằng đồng bạch được ủ trong giỏ bằng gấm, đặt vào lòng chủ nhân.
Miêu Nhược Lan nói nhỏ nhẹ:
-Hãy châm lư hương đi!
Cầm Nhi vâng lời, lát sau lại bưng ra một lư hương bằng bạch ngọc, đặt bên cạnh chủ nhân. Một làn khói xanh nhè nhẹ uốn lượn toả ra từ mỏ chim phượng hoàng chạm trổ trên nắp lư hương.
Mọi người gửi thấy một mùi hương thơm dìu dịu, từa tựa mùi hoa lan, lại thoảng như mùi xạ hương... dẽ chịu khoan khoái vô cùng.
Miêu Nhược Lan nói:
-Lúc nào ta ở một mình trong phòng, thì mới châm thứ tố hương này... chứ ở đây có đông người, sao lại châm loại ấy?
Cầm Nhi cười, thưa lại:
-Ôi, em thật hồ đồ quá.
Rồi bưng lư hương vào để đổi thứ hương khác.
Miêu Nhược Lan lại bảo:
-Chỗ này gió Bắc thổi tới, tuy phía Bắc gian nhà không trổ cửa sổ, nhưng gió trên đỉnh núi vẫn thổi rất mạnh, thế nào cũng lọt vào. Em thử nhìn xem, lư hương đã đặt đúng chỗ chưa nào?
Cầm Nhi lại cười, bưng cả cái kỉ nhỏ cùng lư hương đặt vào góc phía Tây Bắc gian nhà, pha cho chủ mình một bát trà nóng rồi mới lui ra.
Mọi người đều nghĩ: "Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng là một đại hiệp lừng danh, thế mà lại cưng chiều cô con gái đến mức này cơ à?".
Miêu Nhược Lan chậm rãi bưng lên và mở nắp bát, ngắm nhìn những lá chè và cánh hoa hồng trong bát trà, nhấp một ngụm nhỏ rồi từ từ đặt xuống.
Mọi người chỉ muốn nghe cô gái kể chuyện tiếp, song chẳng ngờ cô lại bảo:
-Tôi hơi bị nhức đầu, muốn vào trong nghỉ ngơi một lát. Mong chư vị bá bá, thúc thúc hãy thư thả ngồi.
Nói rồi, cô gái đứng lên đi vào nhà trong. Mọ người ngớ ra nhìn nhau. Tào Vân Kỳ là người đầu tiên không nén nổi, định tỏ thái độ phật ý thì Ðiền Thanh Văn đưa mắt ra hiệu. Vân Kỳ toan nói câu gì đó song đành kìm lại. Chỉ một lát sau, Miêu Nhược Lan lại ra nmbgay. Cô gái thay một chiếc áo da màu lục sáng, một váy gấp nhiều nếp vàng nhạt, và đã rửa sạch các lớp phấn kem xoa trên mặt từ lúc mới lên núi, Trông cô càng thêm trang nhã hồn nhiên. Hóa ra cô gái chẳng nhức đầu gì cả,mà chỉ vào để thay y phục và rửa mặt thôi.
Cầm Nhi đi theo sau, tay cầm một đệm bằng da chồn màu ánh bạc đặt lên ghế.
Miêu Nhược Lan hẹ nhàng ngồi xuống, lúc này mới hé môi hồng thấp thoáng hàm răng ngà, chậm rãi nói tiếp:
-Tối hôm đó, nhà người vệ sĩ đóng vai thầy lang đang mở tiệc lớn, mời hơn một trăm anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến dự, cùng đợi người con của huynh trưởng kết nghĩa năm xưa đến thăm. Ðợi đến giữa canh một, chỉ nghe một tiếng "xịch", và bàn tiệc bỗng có thêm một người khách.
Có biết bao cao thủ đang ngồi trước bàn tiệc, thế mà không một ai nhìn rõ người ấy vào đây như thế nào.
Người ấy chừng hai mươi tuổi, mặc áo vải gai thô, đội mũ trắng, tay cầm một cái gậy đưa tang, lưng cài chéo một thanh đao. Gã không hỏi han ai khác, chỉ chăm chú nhìn ông thầy lang, người ăn mày, người phu khuân vác -ba vệ sĩ của Nguyên soái năm xưa -và nói: "Xin ba vị thúc thúc tìm một chỗ vắng vẻ, chúng ta nói chuyện!".
Ba người chưa trả lời, thì một vị thuộc tiền bối phái Nga Mi đã nói luôn:
"Ðấng nam nhi đại trượng phu có gì cần thì cứ nói luôn, hà tất phải thậm thà thậm thụt thế? Cha mi đã bán chúa cầu vinh, thì chắc mi cũng chẳng tử tế gì, hẳn là định giở trò khỉ gì đây. Ba vị đại ca chớ có mắc lừa hắn".
Bỗng sáu tiếng "Bốp bốp..." liên tiếp, mọi người này bị tát liền sáu cái tát, hộc máu tươi, có tới chục cái răng rơi xuống đất.
Tất cả mọi hào kiệt dự tiệc đều đứng phắt dậy. Hơn một trăm con người đều im phăng phắc, thầm nghĩ: "Hành động của gã trẻ tuổi này sao mà nhanh kỳ lạ?". Vị trưởng lão phái Nga Mi bị đánh đòn nặng, sợ quá không nói được nửa lời nào. Lúc chàng trai tát ông ta, không một ai quan sát rõ được, khi trở về chỗ ngồi cũng quá mau lẹ, chỉ một chớp mắt. Trong toàn bộ khoảnh khắc đi về ấy, đường như toàn thân gã không hề di chuyển.
Ba vị chủ trì bữa tiệc -tức ba vệ sĩ năm xưa -đã trải mấy chục năm ăn ở cùng một nơi với cha gã, biết ngay đó là tuyệt chiêu khinh công gia truyền, gọi là "Phi Thiên Thần Hành" rồi. Có điều gã là kẻ "con hơn cha" nên dường như siêu phàm hơn cha.
Chàng trẻ tuổi nói: "Thưa ba vị thúc thúc! Nếu như tôi định hãm hại, thì sao tôi không ra tay ngay hôm ở miếu hoang hồi nọ? Giờ thì tôi có mấy lời quan trọng muốn nói, không tiện để cho người khác nghe".
Ba người thấy có lý. Người đóng vai thầy lang bèn dẫn chàng vào một gian phòng nhỏ ở nhà trong. Còn hơn trăm hào kiệt là khách dự tiệc ở ngoài đại sảnh đều ngừng bữa rượu, nhìn nhau, và lắng tai nghe ngóng động tĩnh.
Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơn, cả bốn người cùng ra.
Ông thầy lang vái chào khắp lượt các anh hào dự tiệc, và nói: "Xin đa tạ các vị đã tới dự và đã tỏ rõ nghĩa khí hảo hán giang hồ". Mọi người chưa kịp đáp lễ, đã thấy ông ta giơ thanh đao cứa cổ tự vẫn làm ai nấy đều sửng sốt. Tiếp đó hai vị đóng giả ăn mày và phu khuân vác kia cũng lần lượt tự vẫn. Sự việc diễn ra quá nhanh, tuy trong đám khách khứa có rất nhiều cao thủ song không ai kịp ra tay ngăn cản.
Chàng trai quỳ lạy ba thi thể mấy lạy, nhặt ba đoản đao mà ba người dùng để tự vẫn rồi nhảy vọt lên nóc nhà. Mọi người hét lớn: "Thằng gian tặc chớ chạy trốn" và cùng nhảy lên đuổi theo. Chàng trai đã biến mất tăm. các con của ba người ôm lấy xác cha kêu khóc ầm ĩ. Các hào kiệt thăm hỏi an ủi người nhà và bọn tôi tớ, không một ai biết rằng bốn người đã nói những chuyện kín gì trong căn phòng. Lại càng không hiểu gã con trai kia đã dùng gian kế gì để đến nỗi cả ba người đều phải tự vẫn. Các hào kiệt nhìn thi thể ba người nằm vật trên đất đều trào dâng căm giận,
thề sẽ báo thù cho ba người. Có điều là... từ đó, chàng trai nọ mai danh ẩn tích,không biết ở nơi nào. Các con của ba vị đều được các anh hào nuôi dạy khôn lớn vì họ đều xót xa thương cảm cho cha họ đã vì chủ mà báo thù, để đến nỗi rơi vào thảm cảnh đau lòng. Bởi thế ai cũng tận tình dậy dỗ các con của họ.
Những người này vốn cũng đã được học võ công gia truyền do người cha truyền dạy, cũng đều có sẵn căn bản võ công, lại được các minh sư chỉ bảo nên sau này đều đúc kết được những cái hay của mọi môn phái rồi lập nên từng môn phái nổi tiếng riêng.
Kể đến đây, Miêu Nhược Lan nhè nhẹ thở dài than rằng:
-Võ công của họ càng cao bao nhiêu, thì ý chí báo thù càng mãnh liệt bấy nhiêu.
Luyện võ công rút cuộc là phúc hay họa quả thực tôi không biết nữa.
Bảo Thụ thấy Miêu Nhược Lan đăm đăm nhìn ngọn lửa, còn mọi người thì sốt ruột muốn nghe nốt đoạn sau.
Bảo Thụ bèn nói:
-Miêu cô nương kể câu chuyện này thật là hay. Tôi không rõ họ tên, song các vị cũng đều biết: người huynh trưởng kết nghĩa đó -chính là vệ sĩ số một của Sấm Vương, họ Hồ, tức là Phi Thiên Hồ Ly. Còn vị đóng vai phu khuân vác, họ Miêu; vị giả dạng ăn mày, họ Phạm; vị đóng vai thầy lang, họ Ðiền. Lớp người kế tục họ đều đã học được các tuyệt kỹ, mỗi nhà dựng riêng một ngọn cờ. Võ công nhà họ Miêu, gọi là Miêu gia kiếm; họ Phạm sau trở thành thủ lĩnh của Hưng Hán Cái Bang; nhà họ Ðiền sau này lập ra phái Thiên Long Môn.
Nguyễn Sĩ Trung và Ân Cát tuy là bậc tiền bối của Thiên Long Môn, song mãi tới lúc này mới biết rõ về lai lịch của sư môn, hai người bất giác cảm thấy xấu hổ .
Bảo Thụ nói tiếp:
-Lớp con cháu nỗi dõi của ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền thì hai mươi năm sau đã tìm được gã con trai của huynh trưởng họ Hồ kia. Lúc ấy, gã đang ốm nặng, bị bộ ba này dồn ép đành phải tự vẫn. Từ đó, lớp con cháu của bốn họ này cứ truyền đời báo thù. Hơn trăm năm nay, không một người con hay cháu chắt nào của bốn họ này được sống trọn đến già cả. Bần tăng cũng đã từng chứng kiến một cuộc đấu khủng khiếp của đám hậu thế bốn nhà đó.
Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn Bảo Thụ:
-Thưa đại sư, tôi đã được biết chuyện đó... mong đại sư đừng kể làm gì...
-Nhưng các vị ngồi đây thì chưa biết. Cô nương hãy kể cho họ nghe đi.
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Năm ấy... cha tôi kể chuyện về bốn vị võ sĩ của Sấm Vương xong, lại kể một câu chuyện nữa. Cha tôi bảo rằng vì câu chuyện đó mà cha tôi buộc phải giết chết một người, phải đem kiếm ra mài cho sắc. Có điều là câu chuyện này bi thảm quá.
Hễ cứ nghĩ đến là tôi đã thấy khiếp rồi. Tôi vẫn mong rằng, giá mà cha tôi đừng kể cho tôi nghe thì hơn.
Trầm ngâm một lát, Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Chuyện ấy xảy từ mười năm trước khi tôi ra đời. Tôi không rõ đứa trẻ đáng thương ấy ra sao, tôi thực lòng mong cho nó được sống yên ổn...
Mọi người nhìn nhau, đều không hiểu "đứa bé đáng thương" là người thế nào, có liên qua ntới câu chuyện sắp kể?
Tất cả đều ngóng nhìn Miêu Nhược Lan, lại nhìn Bảo Thụ, chờ xem ai trong hai người sẽ giải tỏa cho họ nỗi thắc mắc.
Bỗng một người đầy tớ đứng bên hầu trả lời:
-Tiểu thư có lòng tốt như thế, hẳn sẽ được báo đáp. Chắc "đứa trẻ đáng thương" ấy vẫn sống bình an ạ.
Giọng nói của người ấy nghẹn ngào. Mọi người cùng ngoái đầu nhìn. Người ấy tóc bạc lòa xòa, tuổi đã cao, mất một tay phải, dùng tay trái bưng khay trà. Một vết sẹo to do bị đao chém chạy từ lông mày bên phải qua mũi xuống tới mép trái.
Mọi người nghĩ thầm: "Người này đã từng bị thương nặng thế mà vẫn trụ lại được, quả là không dễ gì".
Miêu Nhược Lan nói:
-Sau khi nghe cha tôi kể câu chuyện ấy, tôi vẫn thường thầm cầu xin ông Trời hãy phù hộ đứa trẻ ấy được trưởng thành bình an. Song tôi mong cho người ấy đừng học võ giống như tôi bây giờ, không hề biết một chút võ nghệ gì cả, mới hay.
Tất cả đều ngớ ra, đều lấy làm lạ: "Cô gái này dáng vẻ cao nhã thanh tú, tự nói ra là không biết võ nghệ gì. Song cô ta là ái nữ của Kim Diện Phật Miêu đại hiệp có biệt hiệu là "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" kia mà, lẽ nào cha cô ta lại không truyền cho một vài tuyệt kỹ nhỉ?"
Nhìn vẻ mặt mọi người, Miêu Nhược Lan hiểu được họ đang nghĩ gì, bèn nói:
-Cha yôi bảo rằng, hơn một trăm năm nay, con cháu bốn họ Hồ, Miêu, Phạm,Ðiền báo thù lẫn nhau, không có thế hệ nào được sống yên ổn đến gìa cả. Ai dù có võ công cao cường đến đâu đi nữa, suốt đời chỉ hoặc mải đi giết người để báo thù,hoặc đề phòng đối phương đến báo thù. Trong một năm, khó mà có được vài tháng ăn no ngủ yên. Mà dù có sống được bảy tám mươi tuổi đi nữa, cũng vẫn còn bị đối phương chém chết để báo thù. Vậy là, luyện võ công không những vẫn không thể phòng thân mà trái lại, càng mang thêm họa. Cho nên, cha tôi nêu lên một điều gia
huấn là, kể từ cha tôi trở đi, sẽ không cho các con cháu học võ công nữa. Cha tôi cũng quyết không thu nhận một đồ đệ nào.
Cha tôi còn nói rằng, nếu như cha tôi bị kẻ thù giết hại, con cháu họ Miêu không biết võ nghệ gì, thì đương nhiên là chịu không có cách gì báo thù cho ông. Và thế là các khoản nợ máu chồng chất ngày một cao từ hơn trăm năm nay, các mối oan nghiệt chồng chéo ngày càng rối ren cũng theo đó mà được xoá sạch.
Bảo Thụ chắp hai tay:
-Thiện tai! Thiện tai! Miêu đại hiệp đã có sự giác ngộ thấu đáo đến như vậy,cầu mong kiếm pháp tuyệt thế vô song của nhà họ Miêu sẽ chấm dứt ở đời của Miêu đại hiệp thôi. Tuy sẽ là một tổn thất cho giới võ lâm, nhưng vẫn là một việc thiện to lớn.
Nhìn ánh mắt khác thường của người đầy tớ mặt sẹo, Miêu Nhược Lan thấy hơi lạ lùng, bèn nói với Bảo Thụ:
-Tôi xin phép vào nghỉ một lát. Xin lỗi đại sư và chư vị bá bá, thúc thúc. Nói rồi cô vái chào, lui vào nhà trong.
Bảo Thụ nói:
-Miêu cô nương có tấm lòng nhân ái, không nỡ nào ngồi nghe câu chuyện này,nên có ý lánh đi.
Bần tăng sẽ kể hầu tiếp chuyện các vị.
Hôm nay, từ sáng ớm tới giờ chỉ là vài canh giờ, chưa quá giờ ngọ, thế mà mọi người đã trải qua bao sự việc li kỳ, trong lòng còn biết bao điều thắc mắc muốn được làm sáng tỏ.
Thế rồi, Bảo Thụ bèn kể:
-Sau thời kỳ bốn vệ sĩ của Sấm Vương tàn sát lẫn nhau thì con cháu bốn nhà không ngừng xung đột suốt hơn một trăm năm. Có điều là vì nhà họ Hồ bán chúa cầu vinh nên bị các đạo hữu võ lâm tẩy chay; mỗi lần giao chiến, đều bị ở thế cô lập, phần nhiều bị lép vế. Tuy nhiên, võ công gia truyền của nhà họ Hồ vẫn tỏ ra lợi hại vô cùng. Cứ cách chừng ba bốn chục năm, nhà họ Hồ thế nào cũng trội lên một hai người con cháu kiệt xuất để báo thù cho ông cha. Dù thắng hay thua, các cuộc đọ sức đều làm đầu rơi máu chảy rất hãi hùng. Còn ba nhà họ Miêu, Phạm,Ðiền tuy lực lượng đông và mạnh, lại được các đạo hữu trợ giúp, nhưng vẫn không sao phòng bị được, bởi con cháu họ Hồ thường bí mật tập kíck bất ngờ.
Năm đầu đời vua Ung Chính, ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền lại xảy ra cuộc tranh chấp quyền nắm giữ thanh bảo đao của Sấm Vương. Và vừa khéo nhà họ Hồ nảy ra hai anh em có võ công siêu việt. Loáng một cái, họ đã hạ thủ hơn ba mươi người của ba nhà. Ba nhà đâm hoảng, cử nhà họ Ðiền đứng đầu và mời thêm các cao thủ giang hồ nữa, cùng hợp sức đánh giết hai anh em họ Hồ. Năm ấy, các anh hùng hào kiệt khắp mọi miền núi sông Nam Bắc hội tụ ở Lạc Dương, ăn thề liên minh với nhau. Từ đó, thanh bảo đao của Sấm Vương do họ Ðiền thuộc phái Thiên Long
Môn nắm giữ, nếu sau này con cháu họ Hồ còn đến khiêu chiến gây sự, thì họ Ðiền ở Thiên Long Môn sẽ dùng bảo đao này hiệu triệu các hảo hán giang hồ cùng chung sức đối phó. Các anh hùng ở mọi miền hễ nhìn thấy thanh bảo đao này, thì dẫu là việc tày đình cũng phải gác lại để ứng nghĩa theo lời hiệu triệu.
Việc này xảy ra đã lâu, và người đời sau đã dần quên lãng. Chỉ riêng chưởng môn Thiên Long Môn vẫn rất coi trọng thanh bảo đao này. Nghe nói về sau Thiên Long Môn chia làm hai phái Nam Tông và Bắc Tông, thì mỗi phái sẽ lần lượt thay nhau giữ mười năm. Nguyễn sư huynh và Ân sư huynh thấy bần tăng này kể có đúng không?
Cả hai đồng thanh:
-Ðại sư kể đúng đấy!
Bảo Thụ cười:
-Chuyện xảy ra đã lâu năm. Các môn đệ của Thiên Long Môn tuy đều biết thanh đao này là báu vật biểu trưng của môn phái mình, song lai lịch của nó ra sao thì rất hiếm ai khảo cứu. Chuyện đã quá xưa rồi, kể ra cũng không có gì đáng trách cả. Riêng bần tăng có chỗ chưa thật tỏ tường, mong Tào sư huynh chỉ giáo.
Tào Vân Kỳ lớn tiếng:
-Chuyện gì vậy?
-Bần tăng nghe nói mỗi khi chưởng môn cũ, mới bàn giao chức cho nhau,chưởng môn cũ nói rõ lai lịch của thanh đao cho người kế tục được biết. Vậy sao Tào sư huynh được vinh hạnh làm chưởng môn rồi mà vẫn không được biết? Chẳng lẽ Ðiền Quy Nông lã chưởng môn đã quên mất điều quy ước này ư?
Tào Vân Kỳ đỏ bừng mặt, định nói điều gì đó, song Ðiền Thanh Văn đã đỡ lời:
-Môn phái chúng tôi thật là bất hạnh, tiên phụ qua đời đột ngột nên không kịp dặn dò kỹ cho Tào sư huynh được biết.
-Thế là rõ rồi -Bảo Thụ nói -Ôi! Thế là bần tăng đã hai lần được nhìn thấy thanh bảo đao này. Lần đầu tính ra cũng là hai bẩy năm về trước còn gì!
Ðiền Thanh Văn nhẩm tính: "Miêu cô nương chừng mười bảy mười tám tuổi. Cô ta nói câu chuyện bi thảm xảy ra trước khi cô ta ra đời mười năm, thế thì đúng là hai mươi bảy năm về trước. Vậy việc hòa thượng này nhìn thấy thanh đao lần đầu, hẳn là có liên quan tới câu chuyện mà Miêu cô nương nói".
(hết hồi 3)
Tài sản của hoanghai402

  #7  
Old 07-03-2008, 07:00 PM
hoanghai402's Avatar
hoanghai402 hoanghai402 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: THĂNG LONG THÀNH
Bài gởi: 83
Thời gian online: 1 tuần 4 ngày 5 giờ
Xu: 0
Thanks: 350
Thanked 9 Times in 6 Posts
Hồi 4

Bảo Thụ Ðại Sư Kể Chuyện Xưa


Bảo Thụ kể tiếp:
-Lúc bấy giờ, bần tăng vẫn chưa xuất gia, đang làm thầy lang kiếm sống ở một thị trấn miền quê huyện Thương Châu, tỉnh Trực Liệt.
Dân Thương Châu ham võ nghệ, các con em ít nhiều đều học qua vài đường quyền cước. Bấy giờ, bần tăng chuyên bán thuốc, xoa bóp giảm đau, từng học qua chút võ nghệ. Thị trấn đấy tuy dìu hiu, chỉ chừng năm sáu trăm cư dân. Bần tăng chỉ dựa vào nghề thuốc gượng sống qua ngày, thân mình còn không lo nổi, nói chi đến việc lấy vợ sinh con.
Một ngày tháng chạp năm ấy, bần tăng húp xong ba bát cháo hoa rồi đi ngủ.
Ðang lúc nằm mơ thấy mình phát tài, sắp lấy một cô vợ đẹp như tiên, thì mẹ khiếp,bỗng nghe tiếng đạp cửa ầm ầm.
Bên ngoài, gió bắc đang thổi mạnh, giường lò của bần tăng đã tắt lửa từ lâu,chân thì mỏng tang, quả tình không muốn trở dậy tí nào. Giấc mơ đẹp đẽ đó bị người kia làm cho đứt đoạn, lại càng thêm mất hứng. Song tiếng đạp cửa mỗi lúc một dữ dội hơn, và thêm tiếng gọi to: "Ông lang ơi! Ông lang ơi!".
Nghe giọng, biết là người miền tây chứ không phải người địa phương. Xem chừng nếu không mở cửa có lẽ người ấy cũng phá cửa mà vào cũng nên! Tôi không hiểu đã xảy ra chuyện gì, vội khoác áo vùng dậy. Vừa nhấc then cửa thì ầm một tiếng, người ấy cũng gắng sức đẩy cửa mở vào. Nếu không nhanh nép sang một bên, chắc trán tôi đã bị cánh cửa đập sưng vù lên rồi. Một người đàn ông tay cầm bó đuốc, xộc vào nhà gọi: "Xin mời thầy đi luôn giúp cho!".
Tôi hỏi lại: "Có việc gì vậy? Lão huynh là ai?". Người kia đáp: "Có người ốm nặng nguy kịch lắm!". Ông ta không trả lời câu hỏi của tôi, vung tay trái ra, một tiếng "xoạch", ném lên bàn tôi một đĩnh bạc lớn. Ðĩnh bạc ấy nặng tới hai mươi lạng! Tôi chữa thuốc nơi thôn quê, chỉ thường kiếm được vài chục hay vài trăm tiền, đã bao giờ được trả khối bạc hai chục lạng như thế này đâu, nên vừa bất ngờ,vừa vui sướng. Tôi vội nhận ngay đĩnh bạc, mặc quần áo xỏ giầy. Người đàn ông giục luôn miệng. Vừa mặc áo quần, tôi vừa quan sát tướng mạo ông ta, thấy nét mặt rắn rỏi, có vẻ con nhà nền nếp, có điều mặt đượm vẻ buồn rầu.
Người ấy không đợi tôi cài xong khuy áo, một tay xách hòm thuốc giúp tôi, một tay lôi tôi đi luôn. Tôi nói: "Chờ tôi khoá cửa đã", ông ta bảo ngay: "Sợ mất trộm à? Tôi sẽ đền hết cho!". Nói rồi kéo tôi rảo bước, đi đến nhà trọ Bình An. Ðó là nhà trọ duy nhất ở thị trấn này, chuyên cho những người đánh xe, phu khuân vác trên đường xuôi ngược Bắc Kinh ngủ trọ. Diện tích không chật lắm song nhà cửa tối và bẩn. Tôi nghĩ thầm, người này có vẻ khá giả sao lại vào chốn này nghỉ trọ nhỉ? Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, ông ta đã kéo tôi vào gian cửa chính nhà trọ. Ở đây thắp nến sáng trưng, có năm người đàn ông đang ngồi chờ. Người đàn ông kéo tôi đến đây nói: "Ông lang đến đây rồi!". Mọi người tỏ ra mừng rỡ, cùng đưa tôi vào chái phía Ðông.
Vừa bước vào, tôi bỗng giật mình: trên giường lò nằm sóng xoài hàng bốn người khắp mình bê bết máu. Tôi bảo người đàn ông nọ cắm nến lại soi cho rõ, thấy cả bốn người đều bị thương nặng. Có người bị chém vào mặt, có người bị chặt đứt tay.
Tôi nói: "Sao đến nỗi bị thương nặng như thế này? Có phải bị bọn giặc cướp tấn công không?". Người đàn ông nhiêm giọng: "Thầy mau cứu chữa đi, chúng tôi sẽ hậu tạ nhưng không được hỏi han lôi thôi!".
Tôi thần nghĩ: "Gớm nhỉ! Sao mà dữ thế?" Nhưng, nhìn bọn họ đều dữ dằn,người lại giắt binh khí, tôi không dám hỏi han gì nữa, chỉ đắp thuốc chữa vết chém,băng bó cầm máu cho bốn người chu đáo.
Người đàn ông nọ nói "còn ở bên này nữa" rồi dẫn tôi đi sang chái phía Tây, có ba người bị thương nằm trên chiếc giường lò. Các vết thương đều là mới bị chém cả, Tôi lại đắp thuốc cầm máu, còn đưa thêm ít thuốc nước cho họ uống để an thần và giảm đau. Cả bảy người bị thương đều lần lượt ngủ thiếp đi.
Mấy người đàn ông thấy tôi chữa chạy có hiệu quả, bấy giờ mới đối xử với tôi có chút nể nang hơn, không thô bạo như lúc đầu. Bọn họ bảo nhà trọ lấy cánh cửa kê thành giường cho tôi nằm ở gian chài phía đông, đề phòng khi các vết thương có biến chứng gì, đã có tôi kịp thời điều trị.
Ngủ đến khi gà gáy sáng, thấy bên ngoài có tiếng vó ngựa phi, tiến gần nhà trọ.
Mấy người đàn ông cũng vùng dậy chạy ra đón. Tối cứ vờ ngủ, hé mắt nhìn trộm,thấy có hai người mới đến. Một người ăn mặt như kẻ ăn mày, có đôi mắt sáng quắc; còn người kia khuôn mặt thanh tú, còn trẻ. Hai người ấy lại gần lò thăm các người bị thương. Những người bị thương cố nhịn đau và gượng ngồi lên, tỏ ra rất cung kính với hai người này. Tôi nghe thấy họ gọi người ăn mày là Phạm bang chủ,gọi người trẻ tuổi kia là Ðiền tướng công.
Bảo Thụ nói đến đây, ngừng lại một lát, rồi nói với Ðiền Thanh Văn:
-Khi bần tăng lần đầu trông thấy lệnh tôn, thì cô nương vẫn chưa chào đời đâu!
Lệnh tôn là người thông minh sắc sảo. Dáng vẻ quyết đoán, tháo vát của lệnh tôn sáng sớm hôm đó, cho tới nay vẫn hiện rõ mồn một trước mắt bần tăng.
Ðiền Thanh Văn đôi mắt đỏ hoe, hơi cúi đầu xuống.
Bảo Thụ nói tiếp:
-Một trong những người không bị thương khẽ nói: "Thưa Phạm bang chủ và Ðiền tướng công! Chú đàn em họ Trương từ ngoài quan ải đã bám sát đôi vợ chồng nọ đi xuống miền nam, chú ấy đã điều tra chính xác "chiếc hộp sắt" đúng là đang ở trong người đối tượng ấy ạ!".
Mọi người nghe ba tiếng "chiếc hộp sắt" đều nhìn nhau và nghĩ "Bảo Thụ đã nói vào vấn đề chính rồi đây".
Bảo Thụ tiếp tục:
-Phạm bang chủ gật đầu. Người kia nói thêm: "Chúng tôi đợi ở thôn Ðường Quan để tiếp ứng, cử người về đưa tin bẩm với hai ngài và Kim Diện Phật Miêu đại hiệp. Không ngờ đối tượng ấy phát hiện ra mọi sự. Một mình hắn đứng chặn đường và nói: "Ta và các ngươi chưa hề quen biết nhau, sao cứ bám sát ta suốt dọc đường thế? Các ngươi do ba nhà Miêu, Phạm Ðiền sai đi có phải không?". Chú Trương đáp: "Hai vợ chồng ngươi biết thế là được rồi!". Gã kia hơi sầm nét mặt,ghì tay đoạt luôn đao của chú Trương bẻ làm đôi ném xuống đất, rồi nói: "Ta không muốn giết thêm người nữa đâu, mau cút đi!". Chúng tôi thấy gã hung hăng,bèn xông cả vào. Chú Trương đá luôn vào bụng vợ hắn đang mang thai. Gã bèn nổi xung đáp: "Ta vốn định tha cho cả lũ bay, mà lũ bay vô lễ quá thể!". Gã đoạt luôn một thanh đao và chém bị thương một loạt bảy người chúng tôi.
Ðiền tướng quân nói: "Hắn còn nói gì nữa không?". Người đàn ông trả lời: "Lẽ ra hắn còn định đâm chém nữa, nhưng vợ gã ngồi trong xe kêu to: "Ði thôi! Chàng hãy tu nhân tích đức vì đưa con sắp ra đời nào!". Thế là gã bèn cười cười, co tay lại và bẻ gẫy đôi thanh đao".
Ðiền tướng công đưa mắt nhìn Phạm bang chủ, rồi lại hỏi tiếp: "Ngươi nhìn kĩ đấy chứ? Có đúng là hắn dùng tay bẻ gẫy đao không?". Người ấy trả lời: "Bẩm đúng thế. Lúc ấy tiểu nhân đứng ngay bên cạnh hắn ta, nhìn rõ ràng lắm ạ".
Ðiền tướng quân "ờ" một tiếng rồi ngẩng lên nghĩ ngợi. Phạm bang chủ nói:
"Hiền đệ chớ lo. Miêu đại hiệp nhất định sẽ đối phó được với hắn". Người đàn ông kia lại nói thêm: "Hắn ta đi Giang Nam, thì nhất định phải đi qua đây. Nếu hai ngài chốt lại ở vùng này, thì hắn ta trốn sao cho thoát ạ?". Lúc này vẻ mặt của hai vị Phạm, Ðiền đều nghiêm nghị, bàn bạc khẽ một hồi, rồi từ từ đi ra.
Bần tăng đợi hai vị đó đi rồi, mới giả vờ tỉnh ngủ, trở dậy dắp thuốc thay băng cho mấy người bị thương, tự hỏi rằng không hiểu nhân vật bị theo dõi kia là ai?
Người ấy rõ ràng là ngượng nhẹ nương tình, nên các vết thương tuy nặng song không nguy đến tính mạng.
Xẩm tối hôm đó, mọi người đang ăn cơm ở phòng chính của quán trọ, thì một người đàn ông chạy vào gọi to: "Ðến rồi". Ai nấy mặt đều biến sắc, buông bát đĩa xuống, cầm binh khí, chạy xô ra ngoài. Bần tăng lặng lẽ đi theo, thấy sợ hãi nhưng cũng muốn ra xem cho thoả trí tò mò.
Trên đường cái, cát bụi bay mù mịt, một cỗ xe lớn đang phóng tới. Hai vị Phạm,Ðiền dẫn đầu mọi người xông lên. Tôi đi sau cùng. Cỗ xe lớn phóng tới trước mặt mọi người thì dừng lại. Phạm bang chủ nói lớn: "Tên họ Hồ kia, ra ngay!". Trong xe, có tiếng người nói vọng ra qua tấm rèm che: "Bọn ăn mày đến lĩnh thưởng phải không? Ðược! Cho mỗi đứa một đồng tiền!". Rồi chỉ thấy nhiều ánh vàng lóe sáng,đám đông kia lần lượt ngã gục.
Hai vị Phạm, Ðiền võ công cao cường nên không bị ngã, nhưng lại bị trúng phi tiêu "Kim Tiền" vào cổ tay nên đều thõng tay buông gậy và kiếm rơi xuống đất.
Ðiền tướng công vội kêu lên: "Phạm đại ca! Chạy thôi!".
Phạm bang chủ bản lĩnh cao siêu, cúi mình nhặt cây gậy lên, rồi vụt chạy nhanh như gió đến bên các các người bị đánh ngã định giải các huyệt đạo cho họ.
Bần tăng hồi học võ, sư phụ đã dạy cho biết ba mươi sáu huyệt lớn trên thân thể con người, nên khi Phạm bang chủ giơ tay tay giải huyệt cho họ, bần tăng cũng hiểu đôi chút. Nhưng không ngờ, Phạm bang chủ ấn đi ấn lại hồi lâu, mà những người bị ngã vẫn không động cựa gì được!
Người ngồi trong xe cười nói vọng ra: "Thôi được! Cho một đồng chưa đủ, vậy cho thêm đồng nữa đây này!". Thế là lại thêm một đống tiền nữa ném ra nối tiếp nhau. Số người bị trúng huyệt đạo lúc nãy bỗng cử động được chân tay và lần lượt đứng lên.
Ðiền tướng công giơ ngang kiếm che người, gọi to: "Tên họ Hồ kia! Hôm nay bọn ta đành chịu lép. Nếu có gan, mi hãy đứng lại!". Người trong xe không đáp.
Chỉ thấy "soạt" một tiếng, một đồng tiền nữa văng mạnh ra, trúng vào mũi kiếm của Ðiền tướng công kêu "keng" rồi thanh kiếm bật ra xa cắm phật xuống đất.
Ðiền tướng công giơ bàn tay cầm kiếm lên nhìn, thấy máu tuôn ra ở chỗ giữa ngón cái và ngón trỏ.
Thấy kẻ địch quá lợi hại như thế, Ðiền tướng công thất sắc, vẫy tay ra hiệu,cùng Phạm bang chủ dẫn mọi người trở về quán trọ, cõng bảy người bị thương kia cùng lên ngựa rồi đi xuôi về phía nam. Trước khi đi, Ðiền tướng công còn cho tôi hai mươi lạng bạc.
Qua phong độ hiên ngang của ông, tôi hiểu đó là một bậc quân tử hào hiệp, và nghĩ rằng kẻ ngồi trên xe kia chắc chắn là một tên xấu xa gian ác vô cùng; nếu không thì sao hắn lại nuôi mối oán thù với một người tử tế như Ðiền tướng công?
Bần tăng đang tính về nhà mình, thì lại thấy chiếc xe lúc nãy phóng tới cửa quán trọ và dừng lại. Vì tò mò, tôi rất muốn thử nhìn xem gã xấu xa đó mặt mũi ra sao,nên tôi nấp ngay vào sau quầy rượu của quán trọ nhìn ra cửa xe.
Rém xe vén lên, một người đàn ông bước xuống. Vẻ mặt hắn thật hung ác, sắc mặt đen sì, râu quai nón xồm xoàm, tóc không tết đuôi sam, mà rối bời trên đầu.
Trông thấy hắn như vậy, tôi giật cả mình: "Cha mẹ ơi! ở đâu lại chui ra một thằng quỷ sứ thế này?". Tôi chỉ mong sao chóng thoát khỏi nhà trọ này để về nhà. Nhưng mà kì lạ thay, hai mắt tôi như dán chặt vào hắn, không rời ra được. Tôi rủa thầm:
"Ðúng là gặp quỷ sứ giữa ban ngày! Hay là hắn có phép lạ?".
Hắn hỏi chủ quán: "Xin phiền hỏi ông vùng này có ai làm thầy lang không?".
Chủ quán chỉ luôn vào tôi: "Chính người này đây!". Tôi xua tay cuống quýt:
"Không, không...". Hắn ta cười: "Ðừng sợ! Ta không luộc chín ông để ăn đâu!".
Tôi lắp bắp: "Tôi... tôi...". Hắn sa sầm nét mặt: "Nếu có định ăn thịt ông, ta chỉ ăn thịt sống thôi đấy nhé!". Tôi càng hoảng, hắn bèn cười ha hả. Bấy giờ tôi mới hiểu là hắn nói đừa. Tôi nghĩ bụng: "Mày định đùa cũng phải tuỳ mặt chứ!. . Cụ mày đây để cho mày mày cười đùa à?". Chỉ thoáng nghĩ như vậy thôi chứ tôi đâu dám hé răng.
Hắn lại nói: "Ông chủ quán! Cho tôi hai phòng nhà trên sạch sẽ nhé! Vợ tôi sắp sinh cháu. Hãy mau đi tìm bà đỡ hộ tôi!". Hắn cau mày, rồi nói tiếp: "Trên đường bị động thai, e là khó để! Này, ông lang chớ có đi đâu mất đấy nhé!".
Chủ quán nghe nói vợ hắn sắp đẻ, sợ làm uế tạp quán trọ, nhưng nhìn vào vẻ hung tợn của hắn, đành im như thóc.
Có điều là bà Lưu, vẫn làm bà đỡ ở thị trấn này vừa chết cách đây vài hôm, nên chủ quán đành nói thực cho hắn ta biết. Nét mặt của hắn trông càng dữ tợn hơn.
Hắn lôi ra một đĩnh bạc lớn đặt mạnh lên bàn: "Phiền ông chủ quán hãy đi khắp nơi tìm bà đỡ giúp tôi, càng nhanh càng tốt!". Tôi nghĩ bụng: "Sao mà bọn người này hễ xỉa tiền ra là hai mươi lạng nhỉ?".
Người khách mặt mũi xấu xí như là ác quỷ ấy chờ chủ quán dọn phòng xong xuôi thì ra xe dỡ một người phụ nữ bước xuống. Người phụ nữ ấy được trùm kín trong tấm áo da cừu, chỉ để lộ khuân mặt. Nếu so sánh một nam một nữ này thì có thể ví Ðiêu Thuyền với Trương Phi vậy!
Tôi thấy người đàn bà ấy quá đẹp, giật mình suy nghĩ: "Ðây rõ ràng là một tiểu thư lá ngọc cành vàng, sao đến nỗi bị ép lấy cái gã quỷ sứ này nhỉ? Thôi đúng rồi!
Chắc là hắn cướp đem về làm ấp trại phu nhân cũng nên". Không hiểu sao, tôi nảy ra ý nghĩ lạ lùng: "Người này và Ðiền tướng quân mới đẹp đôi! Chưa biết chừng hắn cướp vợ của Ðiền tướng quân, vì thế mới nảy sinh ra oán thù".
Ðến giữa trưa hôm sau, vợ hắn vã mồ hôi trán, rên rỉ kêu đau. Gã quỷ sứ cuống cả lên toan đích thân đi tìm bà đỡ. Người vợ hắn bèn nắm tay hắn kéo lại, không cho đi. Chừng sang giờ Mùi, thì đứa trẻ đòi ra đời, không thể không chờ bà đỡ được nữa. Tên quỷ sứ bảo tôi đỡ đẻ, tất nhiên là tôi không chịu. Các vị nghĩ xem, tôi đường đường một đáng nam nhi, lại đi đỡ đẻ cho đàn bà thì sao ổn? Ðấy là việc xúi quẩy đến ngàn vạn lần. Hễ mó vào chuyện đó, thì đen đủi xui xẻo cả đời cả khiếp!
Tên quỷ sứ ấy bèn bảo tôi: "Ông cứ đỡ đẻ đi. Tôi có hai trăm lạng bạc đây. Nếu không chịu thì tuỳ ông đấy!". Gã giơ tay đập chát một tiếng, phạt bay một góc bàn vuông. Tôi nghĩ: "Mạng mình là hơn cả. Vả lại số bạc hai trăm lạng này, mình có chữa gân bong đến cả chục năm cũng không kiếm nổi. Một lần xúi quẩy thì đã sao nào?". Thế là tôi nhận lời, vợ hắn sinh được đứa con trai trắng trẻo mũm mĩm.
Thằng bé đó khóc vang lên, mặt đầy lông tơ, mắt mở thao láo, mới đẻ ra tướng mạo đã hung dữ giống hệt như cha nó. Sau này lớn lên, cầm chắc sẽ lại là một kẻ ác! Tên quỷ sứ đó rất vui mừng, quả nhiên cho tôi mười khối bạc Ðại Nguyên Bảo,mỗi khối hai mươi lượng. Người vợ còn tặng cho tôi một đĩnh vàng trị giá bằng khoảng tám chín mươi lạng bạc, hắn còn bưng một khay bạc ra tặng khắp mọi người từ chủ quán đến đầu bếp mỗi người mười lạng. Thế là ai cũng hể hả! Hắn còn kéo mọi người cùng uống rượu, kể cả những kẻ sai vặt, quét dọn trong quán không sót một ai! Mọi người gọi hắn là "Hồ đại gia".
Hắn bảo: "Tôi họ Hồ. Cả đời tôi, hễ gặp kẻ làm điều xấu xa là tôi cho một đao ngay, cho nên mọi người còn gọi tôi là "Hồ Nhất Ðao". Các người đừng gọi tôi "Ðại gia" làm gì! Tôi cũng xuất thân nghèo khổ, chỉ cướp lại chút tièn bạc của lũ ác bá để sống mà thôi, "Ðại gia" cái nỗi gì? Cứ gọi tôi là Hồ đại ca đi!".
Bần tăng sớm biết hắn không phải người lương thiện, và quả nhiên hắn tự nói ra điều đó!. Mọi người không dám gọi "đại ca", hắn bèn ép mọi người phải gọi như thế. Sau đấy, mọi người uống nhiều, thấy bạo hơn, mới dám gọi hắn là đại ca.
Ðêm ấy, hắn không cho tôi về nhà, bắt tôi ở lại cùng uống rượu với gã. Uống đến tận canh hai, mọi người đều say mèm. Riêng tôi, tửu lượng khá, nên còn nốc với hắn hết bát này đến bát khác. Hắn càng uống càng phấn chấn, đi vào phòng bế đứa con ra, chấm ngón tay mình vào rượu để cho đứa trẻ mút. Thằng bé mới sinh chưa đầy một ngày mà mút rượu nặng không hề khóc, trái lại mút ngon lành. Ðúng là con sâu rượu bẩn sinh.
Chính vào lúc ấy, có tiếng vó ngựa phi từ phía nam. Tất cả có chừng hai ba chục con ngựa lao nhanh đến, dừng bước trước cửa quán trọ. Tiếp theo là tiếng đập cửa mạnh. Chủ quán đang say bí tỉ, loạng choạng bước ra mở cửa, hai ba chục người đàn ông tiến vào, ai cũng đeo binh khí. Họ xếp thành hàng trước cửa và im lặng.
Một người trong bọn họ tiến lên phía trước, ngồi xuống bên cạnh bàn, cởi chiếc túi vải màu vàng đeo trên lưng xuống đặt lên bàn. Dưới ánh nến soi, nhìn rõ bảy chữ "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" thêu trên túi bằng sợi chỉ đen...
Nghe Bảo Thụ kể đến đây , mọi người đều ngẫng lên nhìn mấy chữ "Nói khoác thế gian không địch thủ" mà Miêu Nhân Phưọng viết trên đôi câu đối treo trong đại sảnh.
Bảo Thụ nói:
-Mấy chữ này là biệt hiệu của Miêu Nhân Phượng... Cho đến bây giờ tôi vẫn cảm thấy có phần coi thường thiên hạ quá . Cái buổi tối gặp ông ta, tôi rất kinh ngạc. Người cao lêu đêu và đét, trông như cái sào, da mặt vàng ệch trông như người ốm, đôi bàn tay to như cái quạt nan rách xòe rộng trên mặt bàn. Tôi nói đôi tay ấy như cái quạt nan rách, vì chúng gầy guộc đến nổi chỉ thấy những xương và xương. Dĩ nhiên, lúc ấy tôi không biết ông ta là ai, sau này mới biết đó là Kim Diện Phật Miêu Ðại hiệp.
Hồ Nhất Ðao đang mãi đùa với con, nên hình như không biết có đông người vừa vào . Còn Miêu Ðại hiệp cũng chẳng nói gì, tự người tùy tùng rót rượu cho ông ta .
Mấy chục người kia trợn mắt nhìn Hồ Nhất Ðao đang chấm ngón tay vào rượu cho đứa trẻ mút . Hắn chấm một giọt cho con xong , lại ngữa cổ lên uống một bát , hai cha con cứ thi nhau mà uống rượu .
Trống ngực tôi đập thình thịch , chỉ muốn mau tránh xa cái chốn này , nhưng tôi đâu dám dời một bước . Lúc đó chỉ cần ai khè động đậy ,là mấy chục lưỡi đao kiếm kia sẽ bổ xuống ngay . Dù không nhằm vào tôi , nhưng chỉ cần dính hẹ thôi , tôi cũng đũ bị thương nặng rồi .
Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng đều im lặng , không ai nhìn ai , mỗi người đều uống hơn chục bát rượu . Bỗng người vợ Hồ Nhất Ðao tĩnh giấc , từ trong phòng gọi ti :
-Ðại ca !
Ðứa trẻ nghe tiếng mẹ bèn "òa" một tiếng rồi khóc ầm lên . Hồ Nhất Ðao hơi run tay , đánh rơi bát rượu xuống đất , "choang" một tiếng vỡ tan . Mặt gã biến sắc , ôm đứa con đứng lên . Miêu đại hiệp chỉ cười nhạt ba tiếng "hà,hà,hà" , quay người bước ra cửa . Ðám đông kia đi theo . Một lát sau , tiếng vó ngựa xa dần .
Tôi vẫn nghĩ rằng , khó tránh khỏi một trận ác chiến xảy ra , không ngờ đứa trẻ khóc óa lên như thế , thì Miêu đại hiệp lại bỏ đi luôn . Tôi và chủ quán cùng bọn người hầu nhìn nhau , không ai hiễu ra sao .
Hồ Nhất Ðao bế đứa bé vào phòng . Vách gỗ của gian phòng rất mỏng , nghe tiếng người vợ nói :
-Ðại ca ! Ai đến đây thế ?
Hồ Nhất Ðao trả lời :
-Có mấy thằng giặc cỏ thôi mà , nàng cứ ngủ đi ! Ðừng lo !
Người vợ thở dài :
-Ðừng nói dối muội nữa . Muội biết là Kim Diện Phật đã đến .
Hồ Nhất Ðao nói :
-Không phải đâu , nàng đừng có đoán mò .
Người vợ lại hỏi :
-Thế sao giọng đại ca run run như thế ? Xưa nay đại ca có bao giờ như vậy đâu ?
Hồ Nhất Ðao im lặng một lát rồi nói:
-Nàng đã đoán trúng rồi đó. Ta chẳng sợ hắn đâu.
Người vợ nói:
=Ðại ca!Càng chớ lo cho muội và con. Nếu chàng lo lắng, sẽ không đánh nổi hắn đâu.
Hồ Nhất Ðao thở dài nói tiếp:
-Ta cũng không hiểu vì sao xưa nay ta chẳng sợ một cái gì, thế mà tối nay đang ôm con trong tay thì Kim Diện Phật bước vào rồi đặt cái túi của hắn lên bàn, mặt hắn liếc nhìn thằng bé một cái, thế là ta vã mồ hôi ướt đầm người! Nàng nói phải lắm, ta thấy sợ Kim Diện Phật.
Người vợ nói:
- Chàng thực ra không sợ hắn, mà là sợ hắn hại muội và con chúng ta.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Ta nghe đồn Kim Diện Phật hành động rất có nghĩa khí, nên giới giang hồ gọi hắn là Miêu đại hiệp. Chắc là hắn không đến nỗi hại đàn bà và trẻ con đâu.
Khi nói mấy câu này giọng hắn càng run rẩy thêm hơn, rõ ràng chính gã cũng không thực sự tin. Tôi nghe thấy thế, bỗng thương hại cho hắn, nghĩ bụng:
-Gã này mặt mũi hung tợn, hoá ra trong lòng cũng sợ thật rồi!.
Lại nghe người vợ khẽ nói:
-Ðại ca hãy bế con về nhà đi. Muội sẽ ở lại nghỉ cho khoẻ hẳn đã, rồi sẽ tìm đại ca ở ngoài biên ải.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Thế sao được? Nếu phải chết, thì vợ chồng chúng ta cùng chết một nơi.
Người vợ than thở:
-Nếu sớm biết thế này, thì năm nọ muội không ngăn đại ca xuống miền Nam thách đấu với Kim Diện Phật mới đúng! Năm ấy, đại ca chưa vướng bận gì trong lòng, chắc sẽ thắng ông ta.
Hồ Nhất Ðao cười:
-Hôm nay gặp gỡ, chưa hẳn ta sẽ thua hắn đâu! Ta e rằng cái túi màu vàng thêu chữ "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" của hắn sẽ phải đổi chủ phen này cũng nên!.
Tuy vừa cười vừa nói thật, song giọng Hồ Nhất Ðao vẫn run; tôi cảm nhận điều đó rõ ràng, mặc dù nghe cách bức gỗ mỏng.
Người vợ bỗng nói:
-Ðại ca nên nghe muội chuyện này.
Hắn hỏi :
-Chuyện gì vậy?.
Người vợ nói:
-Chúng ta hãy nói hết mọi việc với Kim Diện Phật, để xem ông ta bảo sao. Danh hiệu ông ấy là "Ðại hiệp", lẽ nào ông ta lại không theo đạo lý ?.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Ta ngồi ngoài kia vừa uống rượu vừa tính toán tỉ mỉ đến tất cả mười mấy cách để dàn xếp. Nàng mới sinh con xong, làm sao ra gió được? Ta tự đi nói chuyện thì chỉ đôi ba câu là hỏng. Nếu như kiếm được một người để sai bảo,
thì ý kiến nàng thực hiện được đấy!.
Nghĩ một lát, người vợ nói:
-Ông thầy lang kia cũng rất tháo vát, ăn nói hoạt bát,hay là phiền ông ta một chuyến?.
Hồ Nhất Ðao bảo:
-"Người này ham tiền, không đáng tin lắm đâu.
Người vợ lại nói:
-Chúng ta trả ông ta nhiều tiền là ổn thôi!.
Ha ha! Bần tăng thời trẻ quả là ham rượu và ham tiền thật! Có nói ra, cũng chẳng ngại các vị chê cười. Nghe đến mấy tiếng "trả nhiều tiền bạc", thì đầu óc đã nghĩ luôn dẫu có phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, mình cũng đi giúp họ một phen!
Hai vợ chồng họ bàn bạc to nhỏ mấy câu, rồi thấy Hồ Nhất Ðao đi ra gọi tôi vào phòng nói rằng:
-Sáng sớm mai có người đưa thư cho tôi. Tôi nhờ ông đi theo người ấy, rồi đưa giúp thư trả lời của tôi cho Kim Diện Phật Miêu đại hiệp là cái ông mặt vàng ban nãy đến uống rượu ấy mà!.
Tôi nghĩ rằng điều này có khó gì đâu, nên nhận lời ngay.
Sáng sớm tinh mơ hôm sau, quả nhiên có người cưỡi ngựa đến đưa một bức thư cho Hồ Nhất Ðao. Tôi nghe người vợ đọc thư, hóa ra nội dung là Miêu đại hiệp hẹn Hồ Nhất Ðao đọ tài, muốn để cho Hồ Nhất Ðao tự chọn ngày và địa điểm đấu võ.
Hồ Nhất Ðao viết thư trả lời và giao cho tôi. Tôi mượn chủ quán kia một con ngựa, rồi đi cùng người kia. Ði chừng ba mươi dặm về phía nam, người ấy dẫn tôi vào một ngôi nhà lớn.
Miêu đại hiệp, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công đều đang ở đó, ngoài ra còn có thêm bốn năm chục người khác gồm đàn ông, đàn bà, nhà sư, đạo sĩ đủ mặt.
Ðiền tướng công đọc bức thư xong, bèn nói:
-Không cần gì phải hoãn sang hôm khác. Ngày mai chúng ta cứ đến.
Tôi nói:
-Tướng công còn dặn dò gì nữa không?.
Ðiền tướng công nói:
-Ông cứ về nói với Hồ Nhất Ðao rằng hãy mua trước ba cỗ quan tài đi, hai cỗ lớn, một cỗ nhỏ, chớ để các đại gia đây phải tốn kém!.
Về đến nhà trọ, tôi lại nói với vợ chồng Hồ Nhất Ðao những lời đó, nghĩ rằng họ tất sẽ lớn tiếng mắng chửi tôi. Song họ chỉ nhìn nhau và im lặng. Hai người thay nhau bồng bế đứa trẻ lên hôn hít yêu thương, dường như tự biết rằng giờ tận số đã đến gần, muốn nâng niu đứa con dẫu thêm một khắc cũng quý.
Ðêm ấy, tôi toàn mơ thấy những cơn ác mộng. Lúc thì mơ thấy Hồ Nhất Ðao đã giết chết Miêu đại hiệp, lúc thì mơ thấy Miêu đại hiệp giết được Hồ Nhất Ðao, lúc thì mơ thấy cả hai người ấy giết chết tôi. Ngủ đến được nửa đêm, bỗng có những tiếng lạ thường làm tôi tỉnh giấc. Hóa ra là Hồ Nhất Ðao đang khóc ở phòng bên cạnh. Tôi rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:
-Thế mà cũng là trang nam nhi hùng hổ! Ðại trượng phu chết thì thôi, việc đã tới nơi còn khóc lóc nỗi gì? Sao lại xoàng đến vậy?.
Rồi lại nghe thấy hắn nghẹn ngào:
-Con ơi! Con mới được có ba ngày... mà thành đứa trẻ mồ côi cha mẹ mất rồi, sau này ai sẽ thương yêu con?
Con bị đói rét,ai sẽ chăm lo cho con? Con bị ức hiếp ai sẽ bênh vực con?.
Thoạt đầu, tôi còn mắng hắn là đồ vô tích sự, nghe đến mấy câu này, lại thấy xót xa, thầm nghĩ:
-Một kẻ cao lớn hung dữ thô lỗ thế này, mà lại yêu thương con đến thế cơ đấy!.
Hắn khóc lóc một hồi lâu, người vợ bỗng lên tiếng:
-Ðại ca! Ðừng đau lòng như thế nữa. Nếu quả đại ca chết bởi tay Kim Diện Phật, thì muội quyết định sẽ không chết, mà sẽ nuôi con cho khôn lớn!.
Hồ Nhất Ðao mừng rỡ:
-Nàng ơi! Ðiều ta lo lắng nhất, chính là điều đó, nếu chẳng may ta chết, thì nàng sống sao nổi nữa. Nhưng giờ đây nàng lại dám cứng cỏi nhận lấy gánh nặng này,thì ta chẳng còn phải lo buồn gì nữa.
Ha ha... ở đời này, xưa nay có ai mà chẳng phải chết?
Ðánh một trận cho thật sướng tay với tên cao thủ bậc nhất thiên hạ này, cũng là cơ hội trăm năm hiếm có đấy.
Nghe ngần ấy câu, tôi cũng cảm thấy hắn thật kỳ quặc. Hắn cười hồi lâu, bỗng lại thở dài:
-Nàng ơi ! Một nhát gươm thọc vào, cổ thấy nhói đau, thế là hết chuyện.
Chết thì thật là dễ. Nàng phải sống, đó mới là điều khó. Khi đã chết, thì chẳng biết gì nữa, còn nàng phải thương xót khổ sở suốt ngày đêm. Ôi! Ta thực lòng không muốn xa nàng!.
Người vợ nói:
-Muội sẽ ngắm nhìn con, coi như trông thấy đại ca rồi. Sau này con lớn lên, muội sẽ dạy dỗ nó để được như bố: hễ gặp bọn quan lại xấu xa, bọn thổ hào ác bá là cho luôn một nhát đao.
Hồ Nhất Ðao hỏi lại:
-Những điều ta làm trong đời, nàng thấy không có gì sai trái ư?.
Người vợ nói:
-Không có gì sai trái cả. Muội muốn con sẽ noi gương đại ca.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Thế thì hay lắm! Dù ta còn sống hay chết, thì cuộc đời ta không có gì hổ thẹn với trời đất cả! Chiếc hộp sắt này, nàng hãy trao cho con vào ngày sinh nhật nó khi nó tròn 16 tuổi.
Bảo Thụ này bèn nhòm qua khe cửa, thấy người vợ đang bế con, Hồ Nhất Ðao lấy từ trong túi đẫy đựng quần áo ra một chiếc hộp sắt bây giờ đây, có điều là thời ấy, thanh bảo đao của Sấm Vương lại đang ở trong tay họ Ðiền chứ không có trong hộp. Vậy thì trong hộp sắt đó chứa cái gì? Chắc các vị đều hỏi thế. Ngay lúc ấy tôi cũng thắc mắc lắm, song Hồ Nhất Ðao không mở hộp ra nên tôi cũng chịu, không nhìn thấy gì cả.
Hồ Nhất Ðao dặn dò vợ xong, thấy lòng nhẹ nhõm, bèn nằm xuống ngủ, chỉ lát sau đã gáy vang như sấm rền. Tôi biết là chẳng còn chuyện gì để nghe nữa, cũng định đi ngủ song tiếng gáy ở gian bên vang rền như thế thì ngủ sao được?
Tôi nghĩ bụng:
-Cái người vợ trẻ kiều diễm xinh tươi như hoa kia mà lại đi lấy một kẻ thô lỗ xấu xí như Hồ Nhất Ðao đã là một điều kì lạ rồi. Lại còn hết lòng hết sức tôn kính và yêu mến hắn nữa, lại càng làm cho mọi người không sao có thể hiểu nổi!.
Hôm sau, lúc trời chưa sáng rõ, người vợ đã ra khỏi phòng dặn dò người hầu trong quán trọ mổ một con lợn, làm thịt một con dê, cắt tiết gà, vịt để nàng đích thân vào bếp nấu.
Tôi bèn canh rằng:
-Phu nhân mới sinh cháu chưa được ba ngày,không nên làm việc nặng kẻo sau này đau lưng nhức xương phiền hà lắm đấy.
Người vợ bèn cười đáp:
=Những việc trước mắt, quá đủ phiền hà rồi, còn ngại gì sau này?.
Hồ Nhất Ðao thấy vợ tất bật, cũng khuyên nên vào nghỉ. Người vợ chỉ mỉm cười với chồng, vẫn tiếp tục tự mình xào nấu thức ăn.
Hồ Nhất Ðao cười:
-Thôi được! Lại ăn thêm một lần các món ăn do chính tay nàng làm, thì dẫu có phải chết cũng không hối tiếc gì nữa!. Ðến lúc này tôi mới vỡ lẽ ra là, người vợ hiểu rằng giờ chia tay của hai vợ chồng đã đến gần, nên dù sao mặc lòng, cô ta cứ muốn làm cho chồng ăn một bữa cơm.
Ðến khi trời sáng hẳn, người vợ đã làm xong chừng hai ba chục món ăn, bày ngập trên bàn. Hồ Nhất Ðao bảo người hầu bàn đem tới mấy chục cân rượu nữa, rồi đánh chén cho thoả chí. Người vợ ôm con ngồi bên cạnh, rót rượu và tiếp món ăn cho chồng, vẻ mặt nàng tươi tỉnh.
Hồ Nhất Ðao uống một hơi bảy tám bát rượu trắng, bốc mỗi lần vài miếng thịt dê bỏ vào miệng. Vẳng nghe tiếng vó ngựa từ xa đang lại gần. Hồ Nhất Ðao và vợ cùng nhìn nhau, mỉm cười, vẻ mặt tỏ ra rất quyến luyến không muốn rời nhau.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Nàng hãy vào phòng nghỉ đi. Bao giờ con khôn lớn, hãy nhớ bảo nó rằng, cha con muốn con dữ dằn hơn, phải cứng rắn hơn, chỉ cần nhắn nó một câu ấy thôi!.
Người vợ gật đầu:
-Hãy để muội thử nhìn xem Kim Diện Phật mặt mũi ra sao.
Chẳng mấy chốc, tiếng vó ngựa đều ngừng bặt ở trước cửa quán trọ. Kim Diện Phật, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công đem theo mấy chục người nữa tiến vào.
Hồ Nhất Ðao chẳng buồn ngẩng đầu, nói cộc lốc:
-Ăn đi!". Kim Diện Phật nói "được" và ngồi đối diện với Hồ Nhất Ðao, bưng bát rượu lên định uống.
Ðiền tướng công vội giơ tay ra ngăn lại:
-Miêu đại hiệp! Hãy coi chừng trong rượu thịt có cái gì đó cũng nên.
Kim Diện Phật nói:
-Xưa nay vẫn nghe nói Hồ Nhất Ðao là đấng nam nhi đường hoàng, làm việc gì cũng quang minh chính đại, đâu có lén hại tôi thế được!. Nói rồi, ngửa cổ uống cạn một hơi và gắp thịt gà nhắm luôn. Cách ăn uống của Kim Diện Phật trang nhã lịch sự hơn hẳn Hồ Nhất Ðao.
Người vợ Hồ Nhất Ðao nhìn Kim Diện Phật mấy lần, rồi thở dài nói với chồng:
-Ðại ca! Trong đám hào kiệt đời nay, ngoài vị Miêu đại hiệp này ra, chẳng có người thứ hai nào đáng là đối thủ của đại ca nữa đâu! Ông ta thẳng thắn thật bụng với đại ca, phong cách khẳng khái như thế này, trên đời này chỉ có hai người với nhau mà thôi!".
Hồ Nhất Ðao cười ha hả:
-Muội cũng xứng đáng được coi là một bậc trượng phu trong giới nữ lưu đấy!.
Người vợ nói với Kim Diện Phật:
-Miêu đại hiệp! Ông là bậc nam nhi đại trượng phu, quả là tiếng đồn không ngoa. Chồng tôi nhỡ có chết bởi tay ông, cũng chẳng đến nỗi chết uống! Nếu ông bị chồng tôi giết, cũng chẳng tổn hại gì đến thanh danh của ông xưa nay đâu! Nào, tôi mời ông một bát!. Nàng rót hai bát, tự mình uống một bát.
Kim Diện Phật có vẻ không hay nói, chỉ nhíu đôi lông mày, đáp "được" và đón lấy bát rượu.
Phạm bang chủ đứng bên sa sầm nét mặt, tiến lên một bước:
-Miêu đại hiệp hãy coi chừng lòng dạ đàn bà nham hiểm!.
Kim Diện Phật hơi cau mày, không để ý đến, và uống luôn bát rượu.
Người vợ Hồ Nhất Ðao ôm con đứng dậy và nói:
-Miêu đại hiệp! Ông còn điều gì băn khoăn, xin hãy nói cho tôi biết đã,nếu chẳng may ông kỡ bị người ta giết chết giết, thì các bạn của ông e rằng chưa chắc đã giúp được gì cho ông đâu!...
Kim Diện Phật trầm ngâm giây lát rồi nói:
-Bốn năm trước, tôi có việc đi Lĩnh Nam, có một người đến nhà tôi, tự xưng tên là Thương Kiến Minh, người huyện Vũ Ðịnh, tỉnh Sơn Ðông...
Vợ Hồ Nhất Ðao nói xen vào:
-Ồ, người này là đệ tử của Vương Duy Dương uy danh vang dội vùng vùng Hà Sóc, là một tay cừ khôi trong môn phái Bất quái. Bát quái chưởng và Bát quái đao thì khỏi phải nói!.
Tài sản của hoanghai402

  #8  
Old 07-03-2008, 07:02 PM
hoanghai402's Avatar
hoanghai402 hoanghai402 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: THĂNG LONG THÀNH
Bài gởi: 83
Thời gian online: 1 tuần 4 ngày 5 giờ
Xu: 0
Thanks: 350
Thanked 9 Times in 6 Posts
Kim Diện Phật nói:
-Ðúng thế! Hắn nghe nói tôi có biệt hiệu là "Ði khắp thiên hạ không địch thủ", thì trong lòng không phục nên đến tìm tôi để đấu võ. Gặp lúc tôi không có nhà, hắn lời qua tiếng lại với em tôi, rồi ra tay dùng chiêu sát thủ đánh chết hai người em trai, một người em gái của tôi. Ðấu võ tất có thắng thua.
Các em tôi võ nghệ chưa tinh thông nên bị chết vì tay hắn đã đành. Nào ngờ hắn còn đánh chết luôn cô em dâu tôi, cô ấy không hề biết tí võ nghệ gì.
Vợ Hồ Nhất Ðao nói:
-Chuyện này ông cứ giao cho chúng tôi là được.
Kim Diện Phật gật đầu, đứng lên rút kiếm ra nói::::
-Hồ Nhất Ðao! Nào!.
Hồ Nhất Ðao chỉ cắm đầu ăn, không để ý gì hết.
Người vợ nói:
-Miêu đại hiệp!
Chồng tôi tuy võ nghệ cao cường, nhưng chưa chắc đã thắng nổi ông đâu!.
Kim Diện Phật nói:
-Ấy, tôi cũng quên chưa hỏi: Hồ Nhất Ðao, ông có chuyện gì còn băn khoăn không nào?.
Hồ Nhất Ðao chùi mép đứng lên:
-Nếu ông giết được tôi, thì thằng con tôi sau này lớn lên nhất định tìm ông để báo thù. Nhờ ông chăm sóc nó giúp tôi!.
Bảo Thụ tôi nghe vậy nghĩ bụng:
-Người ta thường nói nhổ cỏ nhổ cả rễ, nếu Kim Diện Phật giết được Hồ Nhất Ðao, thì ông ta đâu chịu tha cho vợ con hắn?
Hồ Nhất Ðao còn e Kim Diện Phật sẽ quên, nên còn nhắc lại một lần nữa cho rõ ràng. Chẳng ngờ Kim Diện Phật lại nói ngay:
-Ông yên tâm đi!. Nếu ông lỡ bị tôi giết chết, tôi sẽ chăm sóc thằng bé này như con đẻ của tôi!.
Phạm bang chủ và Ðiền tướng công đều cau mày đứng sang một bên, xem chừng tỏ ra rất ngán ngẩm. Chính tôi lúc đó cũng thầm ngạc nhiên, bởi lẽ nhìn cảnh hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao và Kim Diện Phật dặn dò nhau trịnh trọng như thế giống như những đôi bạn chí thân của nhau, chứ đâu có vẻ sắp sửa liều mạng với nhau?
Chính vào lúc này, Hồ Nhất Ðao rút đao ở lưng ra, lấp loáng ánh sáng:
-Nào! Xin huynh ra chiêu trước!.
Kim Diện Phật giơ kiếm "xin lĩnh giáo" rồi huơi hai nhát vào khoảng không.
Ðiền tướng công nhắc:
-Miêu đại hiệp chớ nên khách khí nữa! hãy xuất chiêu đi !.
Bỗng Kim Diện Phật thu kiếm về, quay đầu lại nói :
-Xin mời tất cả các vị hãy đi ra cho!.
Ðiền tướng quân cụt hứng, song nhìn Miêu đại hiệp sắc mặt nghiêm nghị đành theo lời cùng Phạm bang chủ lui ra đứng ở chỗ cửa để xem vậy.
Hồ Nhất Ðao lớn tiếng:
-Nào, đến lượt tôi , và tiến lên một bước vung đao bổ mạnh xuống đấu đối thủ.
Kim Diện Phật bước chéo sang, lưỡi kiếm xoay vòng, mũi kiếm rung rinh, nhằm vào chỗ sườn phải đối phương.
Hồ Nhất Ðao nói "hãy cẩn thận, đao của tôi là bảo đao đấy", vừa nói vừa vùng đao chém vào lưỡi kiếm. Kim Diện Phật nói: "xin vâng lời chỉ bảo" và giật cổ tay một cái, lưỡi kiếm đã tránh sang một bên.
Hồi ở Thương Châu, Bảo Thụ này đã từng được xem không biết bao nhiêu lần cảnh đấu gươm đao, nhưng chưa được thấy ai nhanh nhẹn như hai người này. Họ mới tung ra chừng bảy tám chiêu thôi, mà hai bàn tay tôi đã vã đầy mồ hôi lạnh.
Lại thêm một ít chiêu nữa, thì binh khí hai người chạm nhau: một tiếng "choang", thanh trường kiếm của Kim Diện Phật bị chém gẫy đôi! Ông ta thản nhiên vứt thanh kiếm gãy xuống, chỉ với hai tay không xông vào đối thủ.
Hồ Nhất Ðao nhảy vọt ra ngoài vòng: "Ông hãy đổi kiếm khác đi!", Kim Diện Phật nói:
"Không sao hết".
Song Ðiền tướng công cũng đã rút thanh trường kiếm của mình đưa đến.
Kim Diện Phật nghĩ ngợi rồi nói: "Tôi chỉ có tay không, thì chẳng lại được với đao của huynh, thôi thì cứ dùng kiếm vậy" và cầm lấy kiếm, tiếp tục đấu.
Tôi nghĩ bụng: "Bọn trẻ tuổi ở Thương Châu khi đấu với nhau dù đã thua rõ ràng vẫn tỏ ra không phục, thế nào cũng phải nói vài câu cho đỡ thẹn. Thế mà vị Kim Diện Phật tự xưng "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" này, tay kiếm chưa thua chiêu nào, miệng lại nói nhún, kể cũng là một sự lạ". Về sau này tôi mới hiểu hai người đều là cao thủ hàng đầu thiên hạ, chỉ qua vài chiêu thôi, lòng đều thấy thấy cảm phục đối phương, không dám coi thường.
Lúc này, cả hai đều di chuyển theo vòng tròn, nên đứng xa nhau, thỉnh thoảng bất ngờ bổ vào nhau một hai chiêu thức, rồi lại nhảy lùi ra ngay. Cứ như vậy, họ đấu với nhau hơn chục hiệp.
Bỗng Kim Diện Phật đâm thẳng một mũi kiếm vào đầu Hồ Nhất Ðao. Ðường kiếm này cực mạnh và nhanh, những tưởng đối thủ khó mà tránh được, song Hồ Nhất Ðao đã lăn một vòng trên mặt đất, tay chĩa đao lên.
Lại một tiếng "choang", thanh trường kiếm kia lại bị chém gãy.
Hồ Nhất Ðao bật dậy ngay, nói "Xin lỗi! Không phải tôi cậy dao mình sắc, mà quả thực chiêu của ông vừa rồi quá ghê gớm, nếu tôi không xử trí như vậy thì không thể nào phá được!"
Kim Diện Phật gật đầu: "Không sao". Ðiền tướng công lại đưa tới một thanh kiếm khác cho Kim Diện Phật. Hồ Nhất Ðao nói "Này! Các vị cho tôi mượn thanh đao vậy. Ðao của tôi sắc quá, làm hai chúng tôi không trổ hết tài nghệ ra được".
Ðiền tướng công mừng rỡ, lấy ngay một thanh đao của người tuỳ tùng đưa cho Hồ Nhất Ðao nhấc thử xem sao. Kim Diện Phật nói: "Nhẹ quá ư" rồi cầm ngang thanh kiếm dài, dùng ngón cái và ngón trỏ tay phải kẹp mũi kiếm bẻ "cách" một cái gẫy bớt một đoạn mũi kiếm của mình đi.
Lực của hai ngón tay quả là cực mạnh. Tôi nhìn mà trong bụng thấy quá kinh ngạc.
Hồ Nhất Ðao cười: "Miêu Nhân Phượng! Huynh không chịu chiếm lợi thế hơn người một chút nào cả! Thật xứng đáng với chữ "đại hiệp" vậy".
Kim Diện Phật nói: "Ðâu dám! Tôi có điều này muốn nói với huynh".
Hồ Nhất Ðao: "Cứ nói đi".
Kim Diện Phật nói: "Từ lâu, tôi đã biết võ công của huynh hơn đời. Miêu Nhân Phượng này chưa chắc đáng là đối thủ của huynh. Nhưng tôi đã tuyên bố trên giang hồ mấy chữ "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" rồi, điều ấy không phải là Miêu Nhân Phượng này không biết trời cao đất dày ra sao, ăn nói bừa bãi ngông nghênh đâu...".
Hồ Nhất Ðao xua tay trái, ngắt lời: "Tôi cũng sớm hiểu ngụ ý của huynh rồi. Huynh muốn tìm tôi để tôi để đọ tài, mà không tìm thấy,huynh bèn rao lên mấy chữ ấy để khích tôi vượt biên ải đến đây".
Hồ Nhất Ðao ngượng cười, nói tiếp: "Bây giờ tôi đã ở đây rồi, nếu huynh thắng được tôi, thì mấy chữ tên hiệu đó vẫn đúng và xứng đáng lắm. Nào, ra chiêu đi".
Nghe đoạn này, mọi người mới hiểu được ý định thật sự của Miêu Nhân Phượng khi dùng mấy chữ biệt hiệu đó. Bảo Thụ lại kể tiếp:
-Nói rồi, hai người lại đao kiếm sáng loà xông vào nhau. Giờ đây binh khí ngang nhau nên hai người dốc sức trổ tài. Hơn hai trăm chiêu đầu tiên, dường như không ai chiếm được ưu thế cả. Sau đấy thì Hồ Nhất Ðao có phần nao núng, có thế đao chỉ thiên về phòng thủ.
Hai vị Phạm, Ðiền sắc mặt tươi tỉnh hơn.
Tuy vậy, Hồ Nhất Ðao phòng thủ vô cùng kín chắc; Kim Diện Phật tấn công từ mọi hướng đều không làm gì được. Hồ Nhất Ðao bỗng thay đổi đao pháp, xuất chiêu toàn những phát bổ chém cực mạnh. Kim Diện Phật di chuyển khắp đại sảnh, thanh trường kiếm lúc đâm lúc phạt cũng cực kỳ linh hoạt.
Nói về luyện đơn đao, bần tăng cũng từng khổ học thầy đến bảy tám năm, biết rằng đơn đao chia làm năm vị trí gọi là: "Thiên, địa, quân, thân, sư". Vùng sóng đao, gọi là Thiên, lưỡi đao gọi là Ðịa, giữa cán gọi là Sư, ngạnh che tay gọi là Thân, cuối cán gọi là Sư. Trong năm vùng này, thì vùng Thiên và Ðịa là chủ chốt.
Xem đao pháp của Hồ Nhất Ðao, thì các chiêu vận Thiên -Ðịa cố nhiên là tài tình quá rồi, khi vận ba vùng Quân -Thân -Sư cũng cừ, có thể dùng tấn công hoặc phòng ngự được.
Có lúc Kim Diện Phật bất ngờ giở những chiêu lạ của trường kiếm ra tấn công vào những khu vực đối thủ không ngờ; nếu dùng sống đao hoặc lưỡi đao để đỡ thì rất khó.
Lúc đó Hồ Nhất Ðao đột nhiên chúc mũi đao xuống, dùng cán đao đánh vào mũi kiếm, ép cho đối phương phải thay đổi chiêu thức!.
Còn về sáu chữ "lia, gạt, giật, băm, chặt, chém" thì lại càng tỏ ra biến ảo khôn lường!.
Còn nói về kiếm thuật thì thời kì ấy bần tăng chưa hiểu lắm. Chỉ biết đao pháp của Hồ Nhất Ðao điêu luyện như vậy mà Kim Diện Phật đọ lại cũng ngang tài ngang sức, vậy rõ ràng cũng cực kì thần diệu. Ðao, kiếm, giáo là ba môn binh khí chủ đạo của con nhà võ.
Thường có câu rằng: "Ðao như mãnh hổ, kiếm như phượng bay, giáo như rồng lượn". Hai người này, dùng đao thì tựa như mãnh hổ xuống núi, dùng kiếm thì giống như phượng hoàng lượn bay, không ai áp đảo nổi ai. Lúc đầu, tôi còn nhìn rõ được các thế đánh đỡ, về sau thì nhức đầu hoa mắt, chỉ lo mìmh ngã giúi ngay xuống đất, nên đành quay đầu tránh không nhìn nữa. Tôi chỉ còn nghe thấy những tiếng đao kiếm réo trong không khí, những tiếng "choang" khi chúng gặp nhau.
Nhìn vẻ mặt người vợ của Hồ Nhất Ðao, tôi thấy vẫn bình thản, không đượm chút lo âu cho sự nguy hiểm của chồng.
Khi quay lại nhìn Hồ Nhất Ðao, tôi thấy Hồ Nhất Ðao càng đánh càng vững vàng, vẻ mặt tươi cười như cảm thấy mình sẽ chắc thắng.
Còn Kim Diện Phật thì không bộc lộ một tâm trạng gì trên sắc mặt vàng xỉn; không thấy căng thẳng, cũng không thấy nản lòng.
Hồ Nhất Ðao liên tục tấn công, Kim Diện Phật cứ lùi dần.
Phạm bang chủ cùng Ðiền tướng quân tỏ ra mỗi lúc một căng thẳng.
Tôi nghĩ bụng: "Chẳng lẽ Kim Diện Phật lại chịu thua Hồ Nhất Ðao ư?".
Bỗng nghe "xoạch, xoạch, xoạch" một hồi, thì ra Ðiền tướng công giương cung bắn một loạt đạn sắt tròn vào vùng đầu, mình và chân Hồ Nhất Ðao.
Hồ Nhất Ðao cười ha hả, quăng luôn đao xuống đất.
Kim Diện Phật sa sầm nét mặt, vung trường kiếm gạt các viên đạn sắt ra, rồi nhảy đến bên Ðiền tướng công giằng lấy cây cung bẻ gẫy làm đôi vứt thật xa ra ngoài cửa, giọng trầm xuống "Ra ngoài".
Tôi lấy làm lạ: "Người ta sợ ông thua, nên có ý giúp ông như thế, vậy mà ông không biết điều".
Ðiền tướng công mặt đỏ gay, tức giận trợn mắt nhìn Kim Diện Phật, rồi đi ra ngoài.
Kim Diện Phật nhặt thanh đơn đao lên, ném trả lại cho Hồ Nhất Ðao và nói:
"Bọn ta tiếp tục đi". Hồ Nhất Ðao bắt lấy, nhân đà ấy lia đao luôn; một tiếng "choang", đao kiếm lại gặp nhau. Tiếp tục đấu một hồi nữa, thì trời đã quá trưa.
Hồ Nhất Ðao lên tiếng: "Ðói rồi đấy! Huynh ăn cơm với tôi chứ?".
Kim Diện Phật đáp "Phải đấy! ăn một chút đã!". . Và hai người ngồi vào bàn ăn cùng ăn, coi như bên cạnh mình không còn ai khác!
Hồ Nhất Ðao ăn như rồng cuốn, một hơi ăn liền mấy chục cái bánh bao, hai con gà, một cái đùi dê.
Kim Diện Phật chỉ ăn hai cái đùi gà.
Hồ Nhất Ðao cười: "Huynh ăn quá ít đấy! Chẳng lẽ vợ tôi nấu nướng không được khéo ư?".
Kim Diện Phật đáp: "Nấu ngon lắm!" và ăn thêm một miếng thịt dê khá to.
Ăn cơm xong, hai người lau mồm rồi lại đánh nhau tiếp.
Lát sau, hai người thi triển khinh công bay lướt khắp gian nhà.
Hồ Nhất Ðao tuy người thô kệch song tiến lui né tránh đều vô cùng linh hoạt.
Còn Kim Diện Phật chân tay đều dài, nên cố nhiên là nhanh nhẹn rồi!
Trận xung đột này, Bảo Thụ tôi nhìn lại càng thêm hoa mày chóng mặt. Bỗng nghe một tiếng "ái chà", Hồ Nhất Ðao hụt chân trái nên khuỵu xuống. Kể ra thì đó cũng là một cơ hội tốt cho Kim Diện Phật xuất chiêu; chỉ cần chém luôn xuống thì đối thủ không sao đỡ nổi. Thế nhưng Kim Diện Phật nhảy lùi lại và nhắc: "Ông giẫm phải viên đạn tròn đấy! Hãy cẩn thận một chút!".
Hồ Nhất Ðao đầu gối chưa khuỵu xuống đất đã đứng lên ngay dậy, nói: "Ðúng thế!"; rồi dùng tay trái nhặt viên đạn lên búng viên đạn bay "vù" ra ngoài cửa.
Kim Diện Phật lại nói: "Hãy trông kiếm đây!" và giơ kiếm xông tới. Hai người quyện vào nhau xoay vòng, đấu mãi đến xâm xẩm tối, không rõ đã trao đổi bao nhiêu chiêu thức nữa, song đều tự thấy khó mà phân thắng bại.
Kim Diện Phật nhảy ra vòng chiến nói: "Hồ huynh! Võ nghệ của huynh thật cao cường, tại hạ vô cùng khâm phục! Chúng ta thắp đèn lên để tiếp tục đấu, hay là để đến mai lại quyết một phen sống mái?".
Hồ Nhất Ðao cười: "Huynh để cho tôi sống thêm một ngày nữa chắc?".
Kim Diện Phật đáp: "Không dám" rồi giơ trường kiếm, ra chiêu "Ðan phượng triều dương" và xoay người đi luôn.
Chiêu "Ðan phượng triều dương" này vốn là một chiêu kiếm thuật, nhưng Kim Diện Phật đã lùi lại ba bước rồi mới xuất chiêu, cho nên nó biến thành một kiểu chào tôn kính.
Hồ Nhất Ðao chống thanh đơn đao lên, chĩa chếch lên phía trên; đó là chiêu "Tham báo Bắc Ðẩu" cũng như là một lời chào đối phương.
Hai người lúc mới vào cuộc, đều quyết chí thanh toán nhau, song đấu đã một ngày trời rồi, thì ai nấy đều thấy khâm phục đối thủ. Bởi thế, lúc tạm chia tay, mỗi người đều dùng nghi thức cung kính nhất của giới võ lâm để chào nhau.
Hồ Nhất Ðao đợi đối thủ đi rồi, bèn ngồi vào bàn ăn một bữa thỏa thê, rồi lên ngựa phóng đi gấp.
Bảo Thụ tôi thầm nghĩ chắc là hắn đi đến toà nhà ở phía Nam để dò la đối thủ, chưa biết chừng lại tìm cách đánh lén cũng nên. Chỉ cần làm cho Kim Diện Phật bị thương là được, vì những người còn lại chẳng ai xứng đáng là đối thủ của hắn cả. Tôi bồn chồn định đi báo cho Ðiền tướng công biết tin mà đề phòng, nhưng lại sợ chạm trán với Hồ Nhất Ðao thì nguy, nên không dám đi.
Ðêm hôm đó, tuy không có tiếng ngáy ở phòng bên, nhưng tôi vẫn không sao ngủ được chỉ để ý nghe xem tiếng vó ngựa của Hồ Nhất Ðao đã về chưa. Cho đến nửa đêm, vẫn thấy yên lặng.
Tôi lại đoán rằng, nếu ngựa chạy nhanh không tới một canh giờ đã đến được ngôi nhà lớn phía nam, chẳng lẽ hắn đã bị Kim Diện Phật phát hiện, một mình không chọi nổi số đông nên đã bỏ mạng?
Càng chưa thấy gã về, tôi càng không yên tâm, chỉ nghe văng vẳng tiếng người vợ ru đứa bé, có vẻ không lo lắng gì cho chồng cả, thì tôi lấy làm lạ.
Cho đến khi gà gáy sáng, vào lúc canh năm, Hồ Nhất Ðao cưỡi ngựa trở về. Tôi vội vàng trở dậy, thấy gã trở về bằng con ngựa khác; lúc đi hắn cưỡi ngựa xám, lúc về lại cưỡi ngựa vàng. Con ngựa vàng phi đến trước quán trọ, Hồ Nhất Ðao nhẩy vụt xuống, còn nó loạng choạng khuỵu xuống đất, mồm sùi bọt trắng và chết luôn.
Tôi đi ra xem, thấy toàn thân con ngựa mồ hôi vã ra đầm đìa. Hoá ra nó mệt quá mà chết. Xem ra, Hồ Nhất Ðao đã đi đâu đó suốt cả đêm qua. Tôi nghĩ, hôm nay hắn còn phải đấu với Kim Diện Phật, hôm qua sao không ngủ cho kỹ mà dưỡng sức lại đi đâu cho nhọc xác cả đêm? Thật là kì quặc!
Lúc này, người vợ cũng đã dậy và lại làm một mâm cơm. Hồ Nhất Ðao không ngủ nghê gì nữa, bế con tung tung nó lên mà đùa. Cho đến khi trời sáng hẳn, thì Kim Diện Phật, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công và cả bọn lại đến.
Cả hai người Miêu, Hồ cùng uống với nhau mỗi người ba bát rượu, không nói năng một lời, đá dẹp bỏ ghế, rút đao kiếm ra đấu tiếp.
Ðấu cho đến tối, hai người thu binh khí lại, chào nhau. Kim Diện Phật nói: "Hồ huynh! Hôm nay sức lực huynh giảm sút đi rồi đấy, tôi e rằng ngày mai huynh sẽ thua mất thôi!".
Hồ Nhất Ðao nói: "Chưa chắc đâu, vì đêm qua tôi không ngủ đấy thôi. Ðêm nay tôi ngủ kỹ, sẽ lại sức ngay!".
Kim Diện Phật ấy làm lạ: "Ðêm qua huynh không ngủ ư? Làm gì có chuyện đó?".
Hồ Nhất Ðao cười: "Miêu huynh ạ! Tôi xin biếu huynh chút quà đây!" rồi vào phòng lấy ra một cái bọc ném cho Kim
Diện Phật bắt lấy.
Mở ra xem, Kim Diện Phật thấy trong túi có một đầu người, bên cạnh còn bảy mũi phi tiêu nữa. Phạm bang chủ nhìn cía đầu người, kinh ngạc kêu lên: "Trờì, Bát quái đao Thương Kiếm Minh!".
Kim Diện Phật cầm một mũi phi tiêu lên nhấc thử xem sao, thấy mũi phi tiêu khá nặng, thân khắc mấy chữ "Bát quái môn Thương", bèn hỏi "Ðêm qua huynh đến tận huyện Vũ Ðịnh ở Sơn Ðông đấy à?".
Hồ Nhất Ðao cười đáp: "Tôi phải phi nhanh làm chết cả thảy năm con ngựa để về đây khỏi lỡ hẹn vơi huynh đấy!".
Bảo Thụ tôi thấy khiếp hãi, đờ người ra nhìn Hồ Nhất Ðao. Từ Thương Châu, Trực Lệ đến Vũ Ðịnh, Sơn Ðông cách nhau gần ba trăm dặm đường, thế mà hắn đi rồi về trong có một đêm, lại còn lấy đầu một coa thủ võ lâm đem về. Tên này hành sự thật là quỷ xuất nhập thần.
Kim Diện Phật hỏi: "Huynh dùng đao pháp gì mà hạ thủ được hắn?.
Hồ Nhất Ðao trả lời: "Võ công Bát quái đao của người này quả là ghê gớm. Tôi bắt được bảy mũi phi tiêu Liên Châu của hắn, tiếp đó tôi dùng chiêu "Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm" phá được chiêu "Xoay người chém núi" là chiêu thứ hai mươi chín đao pháp Bát quái môn của hắn".
Kim Diện Phật ngớ người: Huynh dùng chiêu "Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm"? Ðó là kiếm pháp nhà họ Miêu tôi đấy chứ?".
Hồ Nhất Ðao nói: "Chính thế! Chiêu ấy tôi học lỏm ở huynh trong cuộc đấu ngày hôm qua. Ðêm qua tôi không dùng đao mà là dùng kiếm để hạ thủ hắn!".
Kim Diện Phật nói: "Tuyệt! Huynh đã báo thù cho họ Miêu, và dùng ngay kiếm pháp họ Miêu, đủ thấy huynh thật có thịnh tình".
Hồ Nhất Ðao nói: "Kiếm pháp họ Miêu độc đáo trong thiên hạ, nên dùng nó để giết hắn có khó gì đâu! Tại hạ chỉ
làm thay huynh thôi mà".
Lúc này, tôi mới hiểu thêm, Hồ Nhất Ðao luôn tôn trọng Kim Diện Phật ở mọi phương diện. Thương Kiếm Minh đã giết hại bốn người nhà họ Miêu, nếu Hồ Nhất Ðao lại dùng đao pháp để hạ thủ hắn, thì chẳng hoá ra kiếm pháp họ Miêu lại không sánh nổi Bát quái đao ư? Lại càng không sánh nổi đao pháp họ Hồ ư? Riêng chỉ qua một ngày đấu võ mà hắn học lỏm được một tuyệt chiêu của kiếm pháp họ Miêu, rồi vận dụng đẻ hạ sát một cao thủ võ lâm phái khác, cũng đủ làm mọi người rùng mình thán phục. Và mãi tới cuối ngày đấu võ hôm nay, hắn mới đưa cái thủ cấp kia ra mà không hề có ý kể công khoe tài gì cả, càng chứng tỏ hắn thật đàng hoàng minh bạch. Gã tự nhận đã chiến thắng, cũng rất rành rọt.
Ðiều tôi nghĩ đến thì hai vị Phạm, Ðiền cũng đã hiểu cả. Cả hai mặt tái xanh, đưa mắt cho nhau rồi quay người đi ra. Kim Diện Phật nhìn người vợ của Hồ Nhất Ðao, đang bế đứa con, rồi cởi cái túi vải vang đeo trên lưng xuống, mở túi ra. Tôi nghĩ không hiểu trong túi đó có cái gì lạ bèn nghển cổ nhìn, thì thấy trong đó có vài quần áo bình thường. Kim Diện Phật giỡ một mảnh vải vàng trên đó thêu bảy chữ ra, hạ giọng nói nhỏ: "Hà hà!" Ði khắp thiên hạ không địch thủ" đây này! Ba hoa khoác lác thật!". Rồi giơ tay đỡ đứa bé, lấy tấm vải đấy bọc cho nó, nói với Hồ Nhất Ðao: "Hồ huynh! Chẳng may có mệnh hệ gì, thì chớ lo có kẻ nào dám ức hiếp cháu bé này".
Hồ Nhất Ðao cả mừng, luôn miệng cảm tạ.
Kim Diện Phật đi rồi, Hồ Nhất Ðao lại ăn uống no say rồi mới đi ngủ. Vừa mới ngủ, tiếng ngáy đã vang rền như sấm.
Ðến khoảng canh hai, bỗng thấy tiếng bước chân đi trên nóc nhà và có tiếng gọi: "Hồ Nhất Ðao! Hãy mau ra chịu chết đi!".
Hồ Nhất Ðao không tỉnh giấc, vẫn ngáy vang rền. Tiếng quát mắng ngày càng lớn hơn, người kéo đến cũng càng đông hơn.
Hồ Nhất Ðao vẫn như điếc, cứ ngủ như chết. Tôi nghĩ, hắn tuy có võ nghệ cao siêu thật, song vẫn không được nhạy bén lắm. Bao nhiêu là kẻ địch kéo đến, thế mà vẫn chẳng nhận biết gì cả.
Nhưng, kể cũng lạ, là tuy Hồ Nhất Ðao không nghe thấy gì, song người vợ thì rõ ràng đang thức mà vẫn hát ru con khe khẽ, chẳng buồn để ý đến sự huyên náo ở trên nóc nhà và ngoài cửa sổ cả.
Bọn người bên ngoài ra sức gào thét, nhưng vẫn không dám xông vào trong. Hồ Nhất Ðao thì cứ ngáy ông ổng. Tiếng ồn bên trong và bên ngoài nhà xen nhau hòa trộn là một. Bọn ngoài kia mắng chửi độ nửa canh giờ, thì bỗng thấy người vợ nói thủ thỉ: "Con ơi! Ngoài kia có bao nhiêu chó hoang định sủa suốt đêm khiến cha con ngủ không yên để ngày mai đấu võ bị thua đấy! Con thấy lũ chó hoang đó có tồi không nào?". Thằng bé mới sinh được có vài hôm, tất nhiên không biết nói, chỉ oe oe mấy tiếng.
Người vợ lại nói: "ồ, con tôi ngoan quá! Con cũng bảo chúng tồi à? Ðể mẹ ra đuổi chúng đi vậy nhé!".
Thằng bé lại oe oe mấy tiếng.
Người vợ lại bảo: "ừ! Con cũng bằng lòng à? Thật không phụ lòng cha mẹ yêu con đâu...".
Người vợ tay trái ẵm con, tay phải cầm chiếc thắt lưng lụa ở đầu giường lên rồi mở rèm cửa nhẩy vọt ra ngoài.
Tôi rất dỗi ngạc nhiên. Không ngờ một phụ nữ yêu kiều như vậy mà lại có bản lĩnh khinh công tài tình thế. Tôi vội đến bên cửa sổ, chọc thủng một lỗ nhỏ trên giấy dán các ô cửa nhòm ra ngoài, thấy trước cửa nhà có chừng hai ba chục đàn ông kẻ cao người thấp đứng lố nhố, ai cũng có binh khí, đang hòi hét.
Người vợ Hồ Nhất Ðao vung tay phải, dải lụa dài vung ra như một con rắn, quấn chặt thanh đơn đao của một người cao to, lúc giật lấy, lúc buông ra. Người ấy kêu ầm ĩ, rơi cả đao kiếm, ngã lăn xuống đất đánh huỵch một tiếng. Những người còn lại hò la ầm lên và xông lại.
Dưới ánh trăng, người vợ với dải lụa trắng dài như con rồng đang cuộn mình uốn lượn, giập giờn lên xuống... Lần lượt những tiếng loảng xoảng, ối á vang lên, chẳng mấy chốc binh khí của mấy chục người kia đều bị giật mất. Những người trên nóc nhà cũng bị ngã vật nằm xuống đất. Tất cả bọn họ đâu còn dám đánh đấm gì nữa, chỉ lo chạy tháo thân, có người còn bỏ cả ngựa mà chạy thục mạng.
Tôi há hốc mồm nhìn quang cảnh ấy, tim đập người run lên.
Người vợ Hồ Nhất Ðao nhảy lên nóc nhà, đá những thứ binh khí kia cho rơi xuống đất, chẳng buồn nhặt rồi bế con vào nhà cho con bú. Hồ Nhất Ðao vẫn ngủ ngáy vang như sấm, hình như không hề biết chuyện vừa xảy ra.
Sáng hôm sau, người vợ lại làm cơm rượu: bảo lũ hầu bàn thu lượm đám binh khí, buộc lại rồi treo các thứ đao, kiếm, trùy, roi sắt lên mái hiên. Gió Bắc thổi, chúng va chạm nhau kêu leng keng thật vui tai.
Ăn cơm sáng xong, Kim Diện Phật lại đến. Nghe thấy các âm thanh ấy, ông ta nghoảnh sang nhìn và đã hiểu rõ nguồn cơn.
Kim Diện Phật bực bội trợn mắt nhìn bọn người đi theo, bọn họ đều cúi gầm mặt, không dám nhìn lại.
Kim Diện Phật la mắng: "Lũ vô liêm sỉ! Ðàn ông gì mà lại thế? Cút đi cho rảnh!".
Bọn họ im lặng, lùi lại vài bước.
Tôi nghĩ, nếu đêm qua người vợ có giết hết bọn kia thì cũng dễ ợt,hoặc muốn lần lượt đánh gục ngã cả bọn cũng chẳng khó gì, song làm như thế là vỗ mặt Kim Diện Phật quá.
Kim Diện Phật nói: "Hồ huynh! Cái lũ đốn mạt này đã làm ầm ĩ để huynh không nhủ được. Vậy hôm nay chúng ta ngừng chiến, huynh hãy ngủ cho đầy giấc, mai tiếp tục chiến đấu!".
Hồ Nhất Ðao cười: "Vợ tôi đuổi họ đi đấy! Tại hạ đây vẫn ngủ say có biết gì đâu! Nào, ta đấu!". và xốc thanh đao lên, thủ thế.
Kim Diện Phật lại bảo: "Rất may là phu nhân đã nới tay rộng lòng tha cho bọn họ".
Người vợ cười tủm tỉm. Sau vài câu xã giao, Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng lại giơ đao kiếm đọ nhau luôn.
Lại đấu cho đến tối, vẫn không phân thắng bại.
Kim Diện Phật thu kiếm về: "Hồ huynh! Hôm nay tại hạ không về nhà nữa, muốn uống với huynh một bữa tuý luý
rồi ta gác chân lên nhau mà ngủ, bàn chuyện võ thuật cho vui".
Hồ Nhất Ðao cười:"Hay! Hay tuyệt! Tại hạ xin hỏi Miêu huynh về kiếm pháp, nếu có chỗ nào chưa rõ, đêm nay huynh chỉ giáo!".
Kim Diện Phật bèn nói với Phạm bang chủ và Ðiền tướng công: "Các vị hãy về đi, đêm nay tôi ở lại đây".
Phạm bang chủ bất giác thất kinh: "Miêu đại hiệp hãy chú ý đề phòng gian kế của hắn".
Kim Diện Phật lạnh lùng đáp: "Ta muốn làm gì thì làm chứ, tạo sao huynh lại can ngăn?".
Ðiền tướng công nói: "Huynh chớ quên mối thù giết cha mà trở thành người con bất hiếu đấy!".
Kim Diện Phật sa sầm nét mặt. Hai vị Phạm, Ðiền không dám nói gì thêm, dẫn đám thủ hạ ra về.
Ðêm ấy, hai người uống rượu và bàn luận về võ công.
Miêu đại hiệp giảng giải từng chiêu từng đường cốt yếu của kiếm pháp họ Miêu cho Hồ Nhất Ðao nghe.
Hồ Nhất Ðao cũng cặn kẽ truyền thụ cho Miêu đại hiệp đao pháp họ Hồ. Hai vị càng trò chuyện càng thấy tâm đắc, đều nói rằng tiếc vì gặp nhau quá muộn. Mỗi người cứ uống vài bát rượu lại đúng lên trình diễn vài chiêu, xong lại ngồi xuống uống tiếp. Họ chuyện trò với nhau về những tinh tuý của võ công, tuy tôi đều nghe rõ cả, song cũng không hiểu chút nào.
Chuyện trò mãi đến nửa đêm, Hồ Nhất Ðao bảo chủ quán mở cửa một gian phòng khác và hai người vào đó nằm chung một gường thật. Tôi thầm nghĩ: "Hai kẻ đang còn sống đây, vào chung một phòng, hẳn ngày mai có một kẻ chết! Nhưng không rõ ai ra tay trước nhỉ ?
Kim Diện Phật không có vẻ phải là người nham hiểm, vậy chắc là ông ta thiệt thân rồi!".
Rồi tôi lại nghĩ, Hồ Nhất Ðao thô bạo lỗ mãng thật, song lại kém xa Kim Diện Phật về sự tỉ mỉ tinh tế. Võ công hai người ngang tài ngang sức nhau, song nói về đấu trí và mẹo mực thì rõ là Kim Diện Phật hơn hẳn. Vậy thì kẻ ngày mai còn sống để ra khỏi phòng ắt là Kim Diện Phật chứ không phải là Hồ Nhất Ðao rồi.
Lòng hiếu kì nổi lên, tôi bàn rón rén đi lại sát cửa sổ phòng hai người để nghe trộm xem sao. Lúc đó, họ không nói chuyện võ công mà là những chuyện lạ, chuyện bí mật của giới giang hồ và những việc mà hai người họ đã từng hành động khi xưa. Lúc thì Kim Diện Phật nói đã từng giết một tên hung đồ ở một nơi nào đó,lúc thì Hồ Nhất Ðao kể về chuyện đã cứu một người khốn khổ trong một dịp nào đó. Kể đến chỗ lí thú nhất, cả hai người đều vỗ tay cười ầm lên làm tôi cứ há hốc mồm ra mà nghe. Tôi nghĩ một kẻ hung ác dữ dằn như Hồ Nhất Ðao mà giết người này nọ thì chẳng có gì lạ; song Miêu Nhân Phượng có chữ Phật trong biệt hiệu Kim Diện Phật thế mà ông ta cũng là kẻ giết người không chớp mắt.
Nói một hồi, bỗng Kim Diện Phật than thở: "Ðáng tiếc! Ðáng tiếc quá!".
Hồ Nhất Ðao nói: "Ðáng tiếc về cái gì?".
Kim Diện Phật nói: "Nếu như huynh không phải người họ Hồ, hoặc tôi không phải người họ Miêu thì nhất định hai ta sẽ kết nghĩa sinh tử có nhau. Xưa nay, tôi vẫn quá tự phụ, dịp này được gặp huynh, tôi thấy thực sự bái phục huynh rồi! Ôi!. . Gầm trời này tuy rộng thật, song ngoài Hồ Nhất Ðao ra, chẳng có ai là người đáng để Miêu Nhân Phượng này kết giao nữa đâu!".
Hồ Nhất Ðao nói: "Nếu tôi có bị chết đưới tay huynh, huynh cũng nên luôn luôn trò chuyện với vợ tôi. Vợ tôi là một hào kiệt trong phái nữ lưu, còn hơn lũ bạn nhút nhát kia của huynh đấy!".
Kim Diện Phật nổi cáu: "Hừ! Bọn họ đâu đáng làm bạn với tôi!".
Nói hết chuyện này sang chuyện nọ, song họ vẫn không đả động gì đến mối thù truyền đời của hai bên. Nếu ngẫu nhiên một người nói gần đụng chạm tới, thì người kia liền nói lái sang chuyện khác ngay. Ðêm ấy, cả hai đều không ngủ, làm tôi đứng ngoài cũng mệt lây. Ngoài sân gió lạnh thấu xương, hai chân tôi đã lạnh tê hết cả. Ðến lúc trời sáng hẳn, bỗng Kim Diện Phật đến bên cửa sổ cười nhạt:
"Hừ! Ðã nghe chán rồi chứ?". Lại nghe "cách" một tiếng, Hồ Nhất Ðao nói: "Miêu huynh! Người này là người tốt đấy! Hãy tha cho ông ta!". Một cái gì đó đập mạnh vào đầu, và làm tôi ngất liền.
Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đã nằm ngủ trên gường lò của mình. Lúc này, trời đã quá trưa. Tôi nghĩ chắc Kim Diện Phật phát hiện tôi nghe trộm ở ngoài cửa sổ, nên đã mở cửa ra thoi cho tôi một quyền; nếu không có Hồ Nhất Ðao xin hộ cho, thì chắc tôi đã đi đời nhà ma rồi! Tôi bò xuống gường, đầu nặng chình chịch, bèn lấy gương ra soi, thấy một nửa mặt tím đỏ, sưng phồng lên có đến một tấc. Tôi hoảng quá buông rơi cái gương đánh "choang" một cái, vỡ vụn trên nền nhà.
Hôm sau, hai người lại đấu võ trên nền nhà chính. Tôi không dám lên xem nữa.
Tôi vốn mong Kim Diện Phật thắng, nhưng bây giờ mặt sưng vù và từng cơn đau rát mặt cứ giần giật nổi lên, tôi lại mong để cho Hồ Nhất Ðao báo thù cho tôi, bằng cách chém được cả Miêu Nhân Phượng một hai nhát đao mới hả.
Ðến lúc trời tối, thấy tiếng Kim Diện Phật nói vọng qua vách gỗ: "Hồ huynh! Tôi vốn muốn đêm nay lại nằm chung gường để trò chuyện nữa, song lại e phu nhân trách móc. Vậy hẹn tối mai, nếu chúng ta vẫn không phân thắng bại, thì chúng ta lại ngủ chung nói chuyện một đêm. Ðược chứ?".
Hồ Nhất Ðao cười ha hả "Ðược! Ðược!".
Sau khi Kim Diện Phật đi rồi, người vợ rót một bát rượu bưng tới cho Hồ Nhất Ðao: "Chúc mừng đại ca!". Hồ Nhất Ðao đỡ lấy uống cạn, cười hỏi: "Chúc mừng về điều gì?".
Người vợ nói: "Ngày mai đại ca sẽ đánh bại Kim Diện Phật!".
Hồ Nhất Ðao ngạc nhiên: "Ta đã đấu có đến vài ngàn chiêu rồi mà vẫn không thấy ông ấy có chút gì sơ hở, vậy ngày mai sao lại thắng?".
Người vợ cười mỉm: "Muội thì lại nhìn thấy ra chỗ sai sót của ông ta. Con ơi! Chính cha con mới là "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" đấy!". Câu nói sau, người vợ nói với đứa con nhỏ.
Hồ Nhất Ðao vội hỏi: "Chỗ sơ hở nào? Sao ta lại không nhận thấy nhỉ?". Người vợ đáp "Chỗ sơ hở là ở phía sau lưng. Ðại ca chỉ mải đấu ông ta chính diện thôi,nên nhìn không ra là thế".
Hồ Nhất Ðao trầm ngâm. Người vợ nói tiếp: "Ðại ca đã đấu với ông ta bốn hôm rồi, muội đã quan sát mãi mà kinh hãi, thấy rằng nếu cứ tiếp tục đấu, thì thế nào đại ca cũng có lúc lớ tay sơ xuất và phàn thắng sẽ thuộc về ông ta. Song, cho đến chiều nay, muội mới phát hiện ra chỗ sơ hở của ông ta. Ðại ca thử nói xem, trong kiếm pháp của ông ta thì chiêu nào là lợi hại nhất?".
Hồ Nhất Ðao đáp: "Có nhiều chiêu lợi hại, như các chiêu "Tẩy kiếm hoài trung bão nguyệt", "Nghênh môn thoái phản phách Hoa Sơn, "Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ", "Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm"...
Người vợ nói: "Chỗ sơ hở là ở chiêu "Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ" đó!".
Hồ Nhất Ðao cười: "Chiêu ấy lấy tấn công làm phòng ngự, trong cái cứng có cái mềm,vô cùng hiểm độc đấy!". Người vợ nói: "Khi đại ca dùng chiêu "Xuyên thủ tàn đao", "Tiến bộ liên hoàn đao" hay chiêu "Triển thiên trích tâm đao" thì đôi khi ông ta dùng chiêu "Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ"để phản kích. Nhưng trước lúc ông ta giở chiêu đó ra thì giữa lưng thấy nhô lên, hình như là sợ bị ngứa".
Hồ Nhất Ðao lấy làm lạ: "Thật thế ư?".
Người vợ đáp: "Hôm nay, ông ấy hai lần giở chiêu đó ra, thì lần nào cũng thấy lưng nhô lên. Nếu ngày mai trong khi đấu võ mà muội lại nhìn thấy hiện tượng ấy, muội sẽ đặng hắng lên, lúc đó đại ca hãy ra tay trước luôn, không chờ ông ta giở chiêu đó ra nữa. Ðại ca hãy dùng chiêu "Bát phương tàng đao" để tấn công dữ dội, thì ông ta không thể không thu kiếm lại, xin nhận phần thua!".
Hồ Nhất Ðao cả mừng luôn miệng kêu: "Diệu kế, diệu kế!".
Nghe hai vợ chồng nói chuyện, tôi nghĩ hãy đi thông báo cho Kim Diện Phật để ông ta phòng trước. Nhưng khi sờ lên mặt còn đau nhức, tôi nhớ đến quả đấm nặng tay quá thể ông ta giáng vào tôi thì lại nghĩ: "Kệ, ông ta thua cho đáng đời!".
Hôm sau là ngày đấu thứ năm. Mặt đã bớt sưng, tôi lại đứng xem như hôm nọ.
Chẳng hề thấy vợ Hồ Nhất Ðao ho hắng gì cả, tôi đoán là Kim Diện Phật không giở chiêu kiếm kia ra. Ðến bữa ăn trưa, người vợ rót rượu cho chồng và đưa mắt ra hiệu cho chồng vài lần, tôi nhìn rất rõ ràng, hiểu ý rằng người vợ bảo chồng hãy nhử để Kim Diện Phật giở chiêu kiếm đó ra, và lúc đó chồng mình sẽ nắm được phần thắng. Hồ Nhất Ðao lắc đầu, có vẻ như lòng thấy không nỡ. Người vợ lại chỉ đứa con, giằn mạnh một cái làm cho nó ngã trên ghế, thằng bé khóc oà, tôi cũng hiểu được dụng ý của người vợ muốn nói rằng nếu cha nó lỡ mà thua trận, thì nó sẽ mồ côi cha, chịu khổ cả đời.
Hồ Nhất Ðao thấy con khóc ré lên, bèn thong thả gật đầu.
Buổi chiều, hai người tiếp tục đấu và được vài chục hiệp. Hồ Nhất Ðao bỗng chém mạnh vài phát. Người vợ ho lên mấy tiếng. Hồ Nhất Ðao hơi cau mày, không dấn lên mà lùi lại. Quả nhiên, Kim Diện Phật iở chiêu "Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ" ra. Bảo Thụ tôi vốn không hiểu gì chiêu này song vì đêm qua khi nghe lỏm hai vợ chồng họ bàn bạc với nhau, đã mấy lần tôi nghe người vợ nói đến chiêu này, thầm nghĩ: "Người vợ có con mắt thật tinh tường". Nếu lúc này Hồ Nhất Ðao hành động theo kế của vợ thì hẳn đã dành phần thắng rồi, thế nhưng đúng lúc đó Hồ Nhất Ðao lại rụt tay, không phải vì thương cảm không nỡ sát hại Kim Diện Phật,mà vì nghĩ rằng có người giúp mình như vậy, dẫu có thắng cũng chẳng có tinh thần thượng võ chút nào!
Tôi cũng lại nhớ đến lời Hồ Nhất Ðao dặn vợ: "... Sau này con lớn lên, hãy bảo cho nó biết rằng cần phải dữ dằn và cứng rắn hơn cha". Ðủ thấy, tuy mặt mũi hung ác, song lòng Hồ Nhất Ðao lại yếu mềm, việc đã đến trong tầm tay mà lại không quả quyết hành động!
Người vợ bèn véo vào tay đứa con một cái làm nó khóc ầm lên. Tiếng đao kiếm va chạm nhau chát chúa xen lẫn với tiếng khóc trẻ con. Người vợ lại khẽ ho lên.
Hồ Nhất Ðao dấn thêm một bước giở chiêu "Bát phương tàng đao" ra, ánh đao lấp loáng khóa ngay được đường kiếm của Kim Diện Phật.
Thấy Kim Diện Phật không cách gì chống đỡ, vì ông mới chỉ xuất được nửa chiêu "Ðề liêu bạch hạc thư si" mà thôi. Theo kiếm pháp, tay phải cần đâm chéo, tay trái dơ lên tựa như con hạc trắng xoè đôi cánh ra, song Hồ Nhất Ðao đã sớm ra tay, nên khi Kim Diện Phật vừa mới định vung hai tay ra thì đã bị Hồ Nhất Ðao chém liền hai nhát liên hoàn, vậy chẳng phải Kim Diện Phật giơ cả đôi tay ra hứng lấy đường đao của đối thủ chém xuống ư?
Nhưng thật không ngờ là võ công của Kim Diện Phật cũng thật thần kì! Trong lúc nguy khốn đó, ông cong đôi tay lại, quặc mũi kiếm về phía ngực mình ngay.
Hồ Nhất Ðao cả kinh, nghĩ là ông ta thấy thua, nên xoay kiếm lại để tự sát, bèn gọi ngay: "Miêu huynh! Ðừng làm thế!". Hồ Nhất Ðao quên rằng, ngay hôm đấu võ đầu tiên, Miêu đại hiệp đã lấy ngón tay bẻ gẫy mũi kiếm. Bây giờ mũi kiếm đã cùn, Miêu đại hiệp lại vận khí kiếm ấy đâm vào ngực thì lại bật ngược trở ra.
Chiêu này một là biến hoá thật kì ảo, hai là Hồ Nhất Ðao đang khuyên Miêu đại hiệp đừng tự sát, không hề đề phòng ông ta dùng thế kì ảo để giành phần thắng, nên khi thanh trường kiếm bật ngược, chuôi kiếm thọc đúng vào huyệt "Thần tàng" trên ngực Hồ Nhất Ðao.
"Thần tàng" là huyệt lớn trên thân, vừa bị điểm trúng huyệt đó Hồ Nhất Ðao bủn rủn ngã gục.
Kim Diện Phật giơ tay đỡ lên, nói: "Ðắc tội rồi!". Hồ Nhất Ðao cười: "Kiếm pháp của Miêu huynh thật là quỷ thần khôn lường, tại hạ bái phục vô cùng". Kim Diện Phật nói: "Nếu không được sự quan tâm thu xếp của Hồ huynh,
thì tại hạ sao xuất được chiêu này?". Rồi hai người ngồi bên bàn uống liền ba bát rượu hâm nóng.
Hồ Nhất Ðao cười vang, rồi giơ đao ngang cổ cứa luôn. Cổ họng phun máu tươi, hắn gục xuống bàn chết ngay.
Bảo Thụ tôi đờ người ra. Người vợ vẻ mặt vẫn thản nhiên: "Miêu đại hiệp hãy đợi một chút, để tôi cho cháu bé bú no đã!". Nói rồi đi vào gian trong. Một lúc chừng ăn xong một bữa cơm, người vợ Hồ Nhất Ðao lại ra, hôn thật sâu đứa con, cười nói: "Cháu đã ăn no, nó ngủ say rồi" và đưa con cho Miêu đại hiệp: "Tôi vốn hứa với nhà tôi rằng sẽ tự tay mình nuôi dậy cháu trưởng thành, song năm hôm nay thấy Miêu đại hiệp chân thành hơn người, nghĩa nặng như núi, nếu đại hiệp đã bằng lòng chăm sóc cháu, tôi xin đành chịu tiếng lười biếng để trốn cái khổ sở nhọc nhằn trong hai chục năm vậy". Nói rồi, người vợ Hồ Nhất Ðao cúi lạy Kim Diện Phật, cầm thanh đao của Hồ Nhất Ðao cứa cổ mình. Thế là cả hai vợ chồng ngồi sóng đôi trên chiếc ghế dài. Người vợ cầm tay chồng, rồi không động cựa nữa.
Bảo Thụ tôi không đành lòng nhìn, quay mặt lại thấy đứa trẻ trong tay Miêu đại hiệp đang ngủ say, khuôn mặt nhỏ bé dường như thoáng nét mỉm cười.
(hết hồi 4)
Tài sản của hoanghai402

  #9  
Old 07-03-2008, 07:07 PM
hoanghai402's Avatar
hoanghai402 hoanghai402 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: THĂNG LONG THÀNH
Bài gởi: 83
Thời gian online: 1 tuần 4 ngày 5 giờ
Xu: 0
Thanks: 350
Thanked 9 Times in 6 Posts
Hồi 5

Bình A Tứ Kể Lại Chuyện Xưa


Bảo Thụ đã kể xong câu chuyện, cả gian đại sảnh im phăng phắc. Mọi người tuy đều là những người lòng dạ sắt đá, nhưng nghe kể về cái chết khảng khái của vợ chồng Hồ Nhất Ðao thì đều thấy thương cảm.
Bỗng một giọng nữ cất lên:
-Bảo Thụ đại sư! Tại sao câu chuyện tôi được nghe lại khác chút ít với lời kể của đại sư thế".
Mọi người cùng quay lại nhìn, thì ra là Miêu Nhược Lan. Ai nấy đều chăm chú lắng nghe Bảo Thụ kể chuyện, nên đã không để ý Miêu Nhược Lan đã ra đại sảnh từ lúc nào rồi.
Bảo Thụ nói:
-Thời gian trôi đi đã lâu, e rằng có những điểm bần tăng đã nhớ nhầm. Không rõ lệnh tôn đã kể lại ra sao?
-Cha tôi kể cho nghe chính xác mọi điều phần đầu câu chuyện, đúng như đại sư vừa kể, chỉ khác về các tình tiết quanh cái chết của Hồ bá bá và Hồ bá mẫu thôi.
Bảo Thụ hơi đổi sắc mặt, chỉ "ừ " một tiếng không căn vặn gì nữa. Ðiền Thanh Văn nói:
-Miêu cô nương, lệnh tôn đã kể thế nào?
Miêu Nhược Lan mở chiếc hộp bọc gấm đeo bên người, lấy ra một nén hương màu tro nhạt châm lửa rồi đặt vào trong lư hương. Mọi người đều ngửi thấy mùi hương dịu nhẹ lan tỏa. Vẻ mặt Miêu Nhược Lan trang nghiêm trịnh trọng:
-Từ hồi tôi còn nhỏ mỗi khi mùa đông tới, tôi thấy cha tôi cứ có vẻ buồn không bã vui. Tôi cố trêu cha tôi thế nào, cha tôi vẫn cứ như vậy, khó mà làm cha tôi cười lên được. Cứ gần đến tết mỗi năm, cha tôi thường hương khói cúng hai bài vị: một bài vị viết rằng "Nghĩa huynh Hồ công Nhất Ðao đại hiệp, chi linh vị", bài vị kia viết "Nghĩa tẩu Hồ phu nhân chi linh vị". Bên cạnh bài vị, còn đặt một thanh đao hoen gỉ đã nhiều, không có gì khác lạ cả. Cha tôi thường bảo nhà bếp làm một mâm cỗ đầy đặn, rót mười mấy bát rượu nữa. Từ ngày hăm hai tháng chạp trở đi,liền năm ngày, tối nào cha tôi cũng uống mười mấy bát rượu bên bàn thờ. Uống xong, bưng mặt khóc thảm thiết.
Những dịp đầu, tôi hay hỏi cha tôi "Hồ bá bá" ghi trên bài vị là ai, cha tôi thường lắc đầu, không nói. Có năm cha tôi bảo là tôi đã lớn, đã hiểu việc đời rồi, thế là cha tôi bèn kể cho tôi nghe câu chuyện cha tôi và Hồ bá bá tỉ thí võ nghệ với nhau.
Cả quá trình đấu võ, Bảo Thụ đại sư đã kể rành rọt rồi.
Cha tôi và Hồ bá bá đấu võ bốn ngày liền, cả hai người càng đấu càng hợp tính nhau, không ai nỡ làm đối phương bị thương. Ðến ngày thứ năm, Hồ bá mẫu nhìn ra điểm sơ hở phía sau lưng cha tôi, bèn ho lên một tiếng. Hồ bá bá lập tức ra chiêu "Bát phương tàng đao" ra khống chế cha tôi. Bảo Thụ đại sư nói là cha tôi bỗng giở quái chiêu và đánh thắng Hồ bá bá, song cha tôi kể thì không phải như thế. Lúc ấy,Hồ bá bá đã ra tay trước, cha tôi chỉ đành bó tay chịu chết mà thôi. Nhưng Hồ bá bá bỗng nhảy lùi lại nói rằng: "Miêu huynh! Tôi còn có điều này chưa hiểu...". Cha
tôi nói: "Tôi đã thua rồi mà. Huynh còn hỏi điều gì nữa?". Hồ bá bá hỏi rằng:
"Kiếm pháp của huynh có đến mấy nghìn chiêu, đều kín kẽ không sơ hở. Tại sao trước lúc giở chiêu "Ðề liêu bạch hạc thư sĩ" thì lưng huynh lại hơi vồng lên để vợ tôi phát hiện thấy được?".
Cha tôi thở dài: "Khi tiên phụ tôi dạy kiếm pháp cho tôi, người cực kì khắt khe.
Năm tôi mười một tuổi, khi người đang truyền cho tôi chiêu thức này, bỗng có một con rận cắn lưng tôi, rất ngứa khó chịu. Tôi không dám thò tay gãi, đành cứ gồ lưng lên hòng làm cho con rận bỏ đi. Thế nhưng càng gồ lưng lên thì càng ngứa,càng khó chịu. Tiên phụ thấy tôi có cử chỉ khác lạ, cho rằng tôi không chuyên tâm,bèn nên cho tôi một trận nhừ tử. Sự việc này tôi nhớ mãi và từ đấy, mỗi lần vận đến chiêu kiếm này, thì tuy lưng không ngứa gì cả, song tôi đã thành thói quen, cứ gồ lưng lên một cái. Phu nhân thật là tinh tường".
Hồ bá bá cười: "Vì có nhà tôi trợ giúp, nên không thể coi là tôi đã thắng được.
Huynh hãy đỡ lấy!" nói rồi tung thanh đao sang cho cha tôi bắt lấy.
Cha tôi nắm thanh đao, không hiểu dụng ý của Hồ bá bá ra sao. Hồ bá bá lại cầm thanh trường kiếm của cha tôi và nói: "Trải qua bốn ngày quần nhau dữ dội,hai ta hầu như đã quá hiểu võ công của nhau rồi. Thế này vậy: tôi sẽ dùng kiếm pháp nhà họ Miêu, còn huynh hãy dùng đao pháp nhà họ Hồ, chúng ta lại quyết tranh thắng bại. Dù người thắng người thua cũng đều không tổn hại gì đến uy danh cả".
Nghe Hồ bá bá nói, cha tôi mới hiểu dụng ý của bá bá. Hai họ Miêu, Hồ thù oán bao đời, bắt nguồn từ tổ tông cách đây hơn trăm năm để lại. Cha tôi và Hồ bá bá xưa nay chưa từng gặp mặt nhau, và cũng chẳng có thù hằn cá nhân gì cả. Lời đồn đại trên giang hồ thì lung tung. ¤ng nội tôi và thân phụ của Ðiền Quy Nông thúc thúc đột nhiên cùng mất tích chẳng đưa được hài cốt về quê, đều do Hồ Nhất Ðao bá bá hạ độc thủ cả! Cha tôi nửa tin nửa ngờ, vì xưa nay vẫn nghe nói Hồ bá bá hào hiệp trọng nghĩa, mọi việc làm khiến mọi người cảm phục, không đến nỗi mờ ám hại người. Có điều, nhiều lần cha tôi tìm cách gặp mặt mà vẫn chưa có dịp.
Ðiền thúc thúc và Phạm bang chủ đã từng mời cha tôi đi Liêu Ðông tìm kẻ thù.
Cha tôi vốn rất thân tình với Phạm bang chủ, song lâu nay lại coi thường tư cách của Ðiền thúc thúc. Ôi! Xin lỗi Ðiền tiểu thư nhé! Tiểu thư đừng quở giận, đó là cha tôi nói vậy mà! Cha tôi bảo là chẳng thà cha tôi tự mình làm việc đó, chứ không muốn chung tay với Ðiền thúc thúc. Dịp này, nghe nói Hồ bá bá đã vào Trung Nguyên, cha tôi mới nhận lời mời của hai nhà Phạm, Ðiền đi Thương Châu chặn Hồ bá bá lại để đấu võ. Tuy nhiên, trước hết cần hỏi kĩ bá bá về sự thật một việc.
Sau đó, thì biết rằng ông nội tôi và phụ thân Ðiền thúc thúc đúng là bị Hồ bá bá sát hại. Cha tôi tuy có kính trọng khí phách anh hùng của bá bá thật, song vẫn không thể không báo thù cho cha. Có điều cha tôi thực tình không muốn để cho mối thù giữa bốn nhà cứ truyền mãi từ đời này sang đời khác cho con cháu nữa, và rất muốn chính tay mình sẽ kết thúc sự thù hằn truyền đời đó.
Khi thấy Hồ bá bá muốn đổi đao kiếm cho nhau để tiếp tục tỉ thí, cha tôi thấy hợp ý với mình. Vì nếu cha tôi thắng, cũng chỉ là dùng đao họ Hồ đánh bại kiếm họ Miêu mà thôi. Nếu ngược lại, cũng chẳng qua là kiếm họ Miêu đánh bại đao họ Hồ. Việc thắng hay thua chỉ liên quan đến cá nhân, không ảnh hưởng gì đến uy danh võ công hai họ Miêu, Hồ cả.
Thế là hai người đổi binh khí và đấu tiếp. Trận kịch chiến này có khác với các trận đấu bốn ngày trước. Vì tuy cùng là cao thủ cả, song binh khí và các chiêu thức đều trái sở trường, hơn nữa mỗi chiêu thức tung ra thì không chiêu nào đối phương không thuộc lòng từ lâu rồi. Muốn dựa vào những võ công mới học của đối phương trong bốn ngày qua để khống chế và đánh bại đối phương, thì đâu có dễ? Cha tôi nói, trận đấu dữ dội ấy là trận ác liệt nhất trong đời mình. Hồ bá bá trông bộ dạng thô kệch song cực kì thông minh, đã trình diễn kiếm pháp nhà họ Miêu tựa như
từng khổ luyện mấy năm trời vậy. Chỉ riêng việc bác ấy dùng kiếm pháp họ Miêu để phá Bát quái đao của Thương Kiếm Minh, cao thủ ở Sơn Ðông đã quá đủ nói lên điều ấy.
Cha tôi không được nhạy bén như Hồ bá bá song nhờ tinh thông thập bát ban võ nghệ nên tuy mới nắm đao pháp họ Hồ lần đầu nhưng cũng có lợi thế hơn bởi lúc niên thiếu đã từng luyện tập đơn đao rồi. Bởi vậy, cha tôi vẫn ngang sức ngang tài với Hồ bá bá.
Ðấu qúa giờ ngọ, cả hai đều đi những đường đao, kiếm một cách chắc chắn thận trọng, tốc độ chậm dần. Hồ bá bá bỗng nói "Miêu huynh! Cái chiêu "Bế môn thiết phiến đao" ấy, huynh đã ra tay có phần hơi nhanh, nên lực chưa đủ mạnh đâu".
Cha tôi đáp: "Xin cảm ơn huynh đã chỉ giáo, tôi cứ tưởng như thế là đủ chậm rồi". Hai người dốc sức đấu nhau, nhưng hễ thấy một chiêu nào của đối phương không đạt, thì đều thành thực nhắc nhở nhau, không hề dấu giếm. Ðánh qua đỡ lại mãi đến mấy trăm hiệp, hai người đều thấy thuần thục mọi chiêu thức.
Cha tôi thấy Hồ bá bá càng đấu càng tỏ ra điêu luyện với kiếm pháp nhà họ Miêu, thầm kinh ngạc và nghĩ: "Tài học kiếm của ông ta còn hơn cả tài học đao của mình. Nếu còn đấu nhau lâu nữa, thì mọi đao thuật mà mình đã luyện lúc thiếu niên sẽ chẳng còn nghĩa lí gì nữa, cần lập tức biến chiêu ngay kẻo cầm chắc phần thua mất". Thế là cha tôi bèn xuất chiêu "Sa âu lược ba" vốn là phải chém xuống trước, rồi chém ngược lên sau, nhưng cha tôi lại biến ngược đi, tức là chém lên trước, rồi bổ xuống sau.
Hồ bá bá chững lại nói "Sai rồi!". Cha tôi đáp: "Xem nữa đây!" và bỗng thốc ngược lưỡi đao lên luôn. Lần thứ hai lẽ ra bổ xuống thì lại biến thành chém thốc ngược lên. Ðó là đường đao do cha tôi sáng tạo ra. , tuy xuất phát từ đao pháp họ Hồ mà thành, song kì ảo mới lạ làm đối phương không ngờ. Nếu một người khác đấu với cha tôi, hẳn người ấy sẽ tránh được chiêu này; tiếc rằng Hồ bá bá đã quá quen thuộc với đao pháp họ Hồ, nên không ngờ là cha tôi biến chiêu đột xuất tạo thành một thế mới, nên Hồ bá bá không kịp trở tay. Mũi đao của cha tôi đã rạch một đường trên cánh tay trái Hồ bá bá.
Mọi người đều kinh ngạc ré lên, Hồ bá bá bất thần vùng lên vung chân đá một cước, cha tôi ngã ngay vật xuống đất không gượng đứng lên được nữa. Hoá ra cha tôi đã bị đá trúng huyệt "Kinh môn" ở vùng thắt lưng.
Phạm bang chủ, Ðiền tướng công và các người khác cùng xông tới. Hồ bá bá ném thanh trường kiếm xuống đất, dùng hai tay co đẩy, tóm từng người một ném ra xa, rồi lập tức đỡ cha tôi dậy, giải huyệt cho cha tôi, cười nói "Miêu huynh! Huynh đã sáng tạo ra chiêu mới, quả lợi hại thực! Có điều là mỗi một chiêu thức trong đao pháp họ Hồ đều có thế dự phòng cả. Huynh thốc liền hai nhát lên, thì không tránh khỏi bị sơ hở, có khoảng trống ở vùng thắt lưng".
Cha tôi im lặng. Vừng thắt lưng bị co thắt từng hồi, nên chẳng nói năng gì được.
Hồ bá bá lại nói: "Nếu huynh chẳng nể tình nhẹ tay cho, tôi đã bị mất cánh tay trái rồi còn gì! Hôm nay coi như chúng ta vẫn hoà thôi. Huynh về nghỉ cho khoẻ, mai ta đấu tiếp, được chứ?". Cha tôi nén đau, đáp: "Hồ huynh! Lúc tôi xuất chiêu ấy, cố nhiên là nể nang đấy. Nhưng dẫu có chém gẫy tay trái huynh, thì cú đá của huynh vẫn làm tôi phải chết như thường. Cách cư sử của huynh đủ thấy huynh không thể là người ám hại cha tôi. Huynh hãy nói thẳng cho tôi biết, thực chất cha tôi bị chết như thế nào đi". Nét mặt Hồ bá bá lộ rõ vẻ kinh ngạc: "Chẳng phải là tôi đã nói rõ ràng với huynh rồi ư? Huynh không tin, cứ quyết đòi đấu võ nên tôi đành liều mình để hầu huynh đấy!".
Cha tôi quá ngạc nhiên: "Huynh đã nói với tôi rồi ư? Nói bao giờ nhỉ?". Hồ bá bá quay đầu lại chỉ một người đứng bên nói: "Ngươi. . ngươi..." chỉ nói được có thế,bá bá bỗng khuỵu hai chân rồi rũ người xuống đất. Cha tôi hoảng quá, giơ tay đỡ dậy. Bá bá mặt biến sắc, kêu lên "Ðược, được lắm! Ngươi..." rồi ngục đầu xuống,chết luôn.
Cha tôi vô cùng kinh ngạc, nghĩ rằng bá bá vốn khoẻ mạnh, chỉ bị một vết thương xoàng ở cánh tay, sao mà dẫn đến cái chết được? Cha tôi ôm lấy bá bá, luôn miệng nói: "Hồ huynh! Hồ huynh!". Song thấy sắc mặt bá bá chuyển dần
sang màu tím, thì biết rằng đó là dấu hiệu bị trúng chất độc cực mạnh rồi. Cha tôi vội xé ống tay áo của bá bá ra xem sao, thấy cánh tay đã sưng to lên gấp đôi, chỗ vết thương rỉ ra toàn máu đen.
Hồ bá mẫu vừa kinh ngạc vừa buồn bã, đặt đứa con xuống, cầm thanh đơn đao lên nhìn kĩ. Lúc ấy, cha tôi cũng hiểu rằng lưỡi đao đã bị bôi thuốc độc cực mạnh.
Hồ bá mẫu nhìn cha tôi trầm ngâm, bà nói: "Miêu đại hiệp! Thanh đao này, Hồ đại ca mượn của bạn ông. Ðại ca tôi đương nhiên không biết lưỡi đao đã tẩm thuốc độc. Tôi cũng thế chất cho huynh vì huynh cũng không biết điều ấy; nếu không thế, thì hai người đâu thèm dùng thứ binh khí hèn hạ như vậy? Âu cũng là số phận đó thôi, chẳng trách ai được! Tôi vốn dĩ đã hứa với đại ca của tôi là mình sẽ nuôi nấng đứa con cho trưởng thành, nhưng trải qua năm ngày vừa rồi, tôi đã chứng kiến Miêu đại hiệp lòng dạ hơn người, coi trọng nghĩa khí. Huynh đã chấp thuận chăm sóc cháu rồi, thì cho phép tôi khỏi phải chịu dựng hai chục năm vất vả ấy nữa...".
Nói rồi, phu nhân cầm ngang thanh đao cứa cổ mình và chết ngay lập tức. Tôi đã trực tiếp nghe cha tôi kể lại hoàn cảnh Hồ Nhất Ðao bá bá qua đời như thế. Có điều là lời kể của Bảo Thụ đại sư lại khác xa. Tuy câu chuyện xảy ra đã hơn hai chục năm về trước, có thể có chỗ không được đầy đủ, nhưng tôi nghĩ không thể có những chỗ sai lạc nhau quá xa như vậy, và tôi cũng không rõ tại sao lại như thế?".
Bảo Thụ lắc đầu thở dài:
-Lúc ấy, lệnh tôn là người trong cuộc, đang dồn tâm trí say sưa đấu võ, tôi chỉ e là chưa chắc lệnh tôn đã quan sát kĩ bằng người đứng ngoài đâu.
Miêu Nhược Lan "vâng" một tiếng, cúi đầu im lặng.
Bỗng có một giọng khàn đục lên tiếng:
-Hai vị kể có chỗ khác nhau bởi vì có một trong hai vị cố ý nói dối!
Mọi người thấy câu nói đó bất ngờ vang lên, bèn cùng ngoái lại nhìn. Thì ra người nói câu ấy chính là người đầy tớ có vết sẹo bị đao chém trên mặt.
Bảo Thụ và Miêu Nhược Lan đều là khách đến sơn trang này nên tuy người ấy nói năng bất nhã nhưng cả hai đều nín nhịn. Tào Vân Kỳ là người thô lỗ hơn cả, vội hỏi ngay:
-Ai đã nói dối?
-Tiểu nhân là kẻ hèn mọn thấp hèn, đâu dám nói ra!
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu tôi nói không đúng thì ngươi cải chính cho rõ -Nàng nói với một thái độ bình thản và nhẹ nhàng.
Người hầu ấy đáp:
-Câu chuyện mà đại sư và cô nương vừa kể, thì kẻ tiểu nhân này cũng được chứng kiến. Nếu các vị không chê rát tai, thì tiểu nhân xin nói.
Bảo Thụ gắt gỏng:
-Ngươi cũng chứng kiến cấu chuyện đó ư? Ngươi là ai?
-Tiẻu nhân nhận ra đại sư, còn đại sư thì không nhận ra tiểu nhân đấy! -Người hầu ấy đáp.
Bảo Thụ xám mặt lại, quát:
-Nhà ngươi là ai?
Người ấy im lặng không đáp, rồi nói với Miêu Nhược Lan:
-Thưa cô nương! Tiểu nhân chỉ sợ câu chuyện tiểu nhân định kể khó mà kể hết được...
-Vì sao vậy? -Miêu Nhược Lan kêu hỏi lại.
-Tiểu nhân sợ rằng, mới nói ra được nửa chừng thì đã mất mạng rồi.
Miêu Nhược Lan nói với Bảo Thụ:
-Thưa đại sư, giờ phút này, trên đỉnh núi, đại sư hãy quyết định mọi việc cho.
Ðại sư là bậc tiền bối trong võ lâm, có đức cao và uy tín lớn. Chỉ cần một lời của đại sư, thì sẽ không ai dám động đến tính mạng của bác ta cả...
Bảo Thụ cười nhạt:
-Miêu cô nương! Cô nương khích tôi đấy ư?
Người hầu kia đáp ngay:
-Tiểu nhân sống hay chết, thực cũng chẳng đáng bận tâm, nhưng chỉ e là chưa kịp nói hết những điều mình biết...
Miêu Nhược Lan hơi trầm ngâm, rồi chỉ vào vế sau của câu đối khắc trên ván gỗ nói:
-Phiền ngươi hạ nó xuống...
Người hầu kia tuy không rõ dụng ý của Miêu Nhược Lan, song cũng cứ hạ vế đối trên ván khắc ấy xuống trước mặt Miêu Nhược Lan.
Miêu Nhược Lan nói:
-Ngươi cứ nhìn cho rõ đi, ở đây khắc tên cha tôi, ngươi cứ ôm tấm ván này rồi cha tha hồ mà nói. Nếu có ai dám động đến một sợi tóc của ngươi, tức là người ấy cố ý gây chuyện với cha tôi.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau nghĩ rằng đã có Kim Diện Phật làm bùa hộ mệnh đây rồi, còn ai dám hại hắn nữa?
Người hầu ấy tỏ vẻ vui mừng, hơi mỉm cười. Cái cười làm căng vết sẹo trên mặt nên trông càng kì dị. Người ấy bèn ôm chặt lấy tấm ván. Bảo Thụ trở về ghế ngồi,cố nhớ lại câu chuyện cách đây hai mươi bảy năm, song cũng không nhớ ra người này là ai.
Miêu Nhược Lan nói:
-Ngươi cứ ngồi xuống mà nói.
Người ấy đáp:
-Tiểu nhân xin dứng nói cũng được ạ. Xin hỏi cô nương: thằng bé con Hồ Nhất Ðao đại gia, sau này ra sao?
Miêu Nhược Lan khẽ thở dài:
-Cha tôi thấy cả hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao bá bá đã chết thì lòng buồn vô hạn,lặng nhìn thi thể hai người hồi lâu, quỳ lạy tám lạy và nói: "Hồ huynh! Ðại tẩu! Cả hai vị hãy yên tâm, tôi nhất định sẽ nuôi nấng cháu trưởng thành". Rồi đứng dậy quay người lại định bế đứa trẻ, chẳng ngờ không thấy nó đâu nữa. Cha tôi thất kinh, rối rít hỏi mọi người. Nhưng vì ai cũng mải theo dõi cái chết của đôi vợ chồng Hồ Nhất Ðao, nên không để ý đến đứa trẻ. Cha tôi vội bảo mọi người mau mau tìm kiếm, còn tự mình cố chịu đựng vết đau ở lưng, đích thân dò hỏi quanh khu nhà trọ. Bỗng nghe tiếng trẻ con khóc rất to phía sau nhà. Cha tôi cả mừng, chạy tới hướng đó, nhưng không ngờ thắt lưng do bị Hồ Nhất Ðao bá bá đá bị thương khá nặng, cử động mạnh một cái là ngã lăn xuống đất không sao dậy nổi.
Khi có người đỡ cha tôi dậy, rồi đi ra phía sau nhà chỉ trông thấy một đám máu tươi, một cái mũ trẻ con, còn đứa trẻ đã đi đằng nào mất rồi.
Phía sau quán trọ là một con sông nước chảy xiết. Mọi người thấy vết máu ra mãi đến tận bờ sông, chắc là thằng bé bị giết, xác bị ném xuống sông và nước sông đã cuốn đi rồi. Cha tôi vừa kinh hoàng vừa tức giận, triệu mọi người đến để tra xét kĩ, nhưng không tìm ra hung thủ.
Sự việc ấy làm cha tôi ngày nào cũng canh cánh trong lòng, ông thề sẽ tìm cho ra kẻ giết đứa trẻ. Cái năm mà tôi chứng kiến cha tôi mài kiếm, nói là cần phải giết một người, chính là kẻ hung thủ đó. Tôi nói với cha tôi, chưa biết chừng đứa trẻ ấy được người ta cứu vớt và vẫn còn sống cũng nên. Cha tôi nói, cầu cho được như vậy, tuy thế trong lòng vẫn không thật tin. Ôi! Ðứa trẻ đáng thương đó, tôi mong sao cho nó vẫn còn sống. Có một lần, cha tôi bảo tôi rằng: "Con ạ! Cha thương yêu con còn hơn tính mạng mình. Nhưng nếu ông trời kia cho cha được đem con đi đánh đổi lấy đứa con của Hồ Nhất Ðao, thì cha đành để con chết và đứa con của ông ta được sống".
Người hầu đó bỗng đỏ hoe mắt, nói giọng như khóc:
-Cô nương ạ! Hồ Nhất Ðao đại gia và phu nhân ở suối vàng có khôn thiêng hẳn sẽ rất cảm kích trước ân nghĩa của lệnh tôn và cô nương đấy.
Vu quản gia vốn tưởng người ấy là đầy tớ do Miêu Nhược Lan đem theo, nhưng nhìn nét mặt, nghe cách nói năng xưng hô, thì càng nhận ra là không phải. Vừa định hỏi, thì người ấy cất tiếng kể chuyện, mọi người ngồi yên lắng nghe, nên Vu quản gia bèn im lặng:
-Hai mươi bảy năm trước, tôi làm chân đun bếp trong nhà bếp của quán trọ thị trấn Thương Châu. Mùa đông năm đó, gia đình tôi gặp tai hoạ lớn. Vốn là ba năm trước, cha tôi nợ người chủ tài họ Triệu ở vùng ấy ba lạng vàng, tiền lãi ngày một chồng chất, mỗi năm tăng gấp đôi, sau ba năm số nợ là bốn mươi lạng. Triệu tài chủ bèn bắt cha tôi lôi đi, ép kí văn tự bán mẹ tôi cho hắn làm vợ bé.
Tất nhiên cha tôi không chịu, bị bọn thuộc hạ của Triệu tài chủ đấnh đập chết đi sống lại. Cha tôi lần về được nhà nói chuyện với mẹ tôi, món nợ đó bốn mươi lạng bạc nếu khất thêm một năm nữa, sẽ thành tám mươi lạng. Thế thì cả đời cũng không sao trả nổi. Cha mẹ tôi còn định chết cho rồi, song không nỡ bỏ tôi lại. Cả nhà cùng ôm nhau khóc. Hàng ngày tôi trông coi lò bếp ở nhà trọ, tối về canh chừng cha mẹ, vừa hãi hùng, vừa lo sợ, sợ cha mẹ tôi tự tử thật, sẽ bỏ lại tôi trơ trọi một mình trên đời này.
Một bữa tối có rất nhiều người bị thương đến trọ, việc bếp núc bận rộn, ông chủ quán không cho tôi về nhà đêm ấy. Hôm sau thì Hồ Nhất Ðao đại gia đến, và phu nhân sinh hạ được một cháu trai nên cần đun nước nấu nướng bận rộn hơn. Thế là ông chủ quán càng giữ tôi ở lại. Vì nhớ đến cha mẹ, tôi lóng ngóng đánh vỡ luôn mấy cái bát, bị ăn vài cái tát của ông chủ. Tôi đứng nép bên lò đứng khóc một mình.
Hồ đại gia đi ngang qua bếp, thấy tiếng khóc bèn vào hỏi tôi xem có chuyện gì.
Tôi thấy ông ấy mặt mũi hung ác nên sợ không dám nói. ¤ng càng hỏi thêm, tôi càng khóc tợn. Sau đấy, ông ta ôn tồn gạn hỏi mãi, tôi mới kể cho ông ấy nghe chuyện gia đình mình.
Hồ đại gia rất tức giận, nói: "Cái tên họ Triệu thật là quá quắc lắm. Ta muốn cho nó một đao lắm, song vì ta còn đang bận việc nên không có thì giờ thanh toán hắn. Ta cho cháu một trăm lạng bạc đưa về cho cha để trả nợ. Số bạc thừa giữ lấy liệu mà sống. Chớ bao giờ đi vay của các chủ nợ nữa nghe chưa."
Tôi những tưởng ông ấy nói đùa để dỗ tôi, ai đè ông ấy đưa cho tôi năm đĩnh bạc "Ðại nguyên bảo" thật. Tôi đâu có dám lấy. Hồ đại gia nói: "Hôm nay, ta sinh đứa con trai, ta yêu quý nó lắm, ta nghĩ rằng, cha mẹ cháu cũng thương cháu như vậy.
Hãy mau về đi. Ta sẽ nói với chủ quán là ta cho cháu về nhà, ông ta không dám làm gì cháu đâu". Tôi vẫn đứng ngây người hồi lâu để nhìn ông ấy, tim đập thình thịch không ngớt, lúng túng không biết nên làm gì. Hồ đại gia lấy một túi vải gói gọn năm đĩnh bạc ấy rồi lại quăng lên lưng tôi, đá nhẹ vào mông tôi một cái, cười nói: "Chú bé ngốc ạ! sao không liệu mà xéo ngay đi hả?".
Tôi đi về trong tâm trạng ngây ngất và kể lại mọi chuyện với cha mẹ. Cả nhà tôi sướng phát điên, khó mà tin rằng trên đời lại có người tốt bụng đến thế, vẫn cứ ngỡ là chuyện nằm mơ, nhưng rõ ràng nă đĩnh bạc "Ðại nguyên bảo" vẫn đang sáng trắng trên mặt bàn. Tôi và mẹ tôi dìu cha tôi đến bên quán trọ khấu đầu tạ ơn Hồ đại gia. Ông ấy cứ xua tay nói rằng ông ấy rất không thích người khác cám ơn mình, rồi đẩy cả nhà chúng tôi ra.
Chúng tôi vừa định đi, bỗng nghe tiếng vó ngựa, và có mấy chục người kéo đến quán trọ. Ðó là những kẻ địch của Hồ đại gia. Tôi thấy không yên tâm, bèn kể cho cha mẹ tôi về trước, còn mình ở lại xem câu chuyện ra sao. Tôi nghĩ Hồ đại gia đã cứu được cả nhà tôi rồi, chỉ cần ông ấy dùng tôi vào việc gì dù là nhảy xuống nước,nhảy vào lửa tôi cũng không đắn đo.
Kim Diện Phật đại hiệp ngồi đối ẩm với Hồ đại gia. Hồ đại gia thấy không yên tâm về đứa con, chuyện này thì Bảo Thụ đại sư nói đúng cả rồi. Có điều đại sư không biết, người thầy lang bán thuốc xoa bóp ở phòng bên nghe lỏm chuyện của vợ chồng Hồ đại gia bị đứa bé phụ bếp của nhà trọ nhìn thấy.
Người hầu này kể đến đây, thì Bảo Thụ bỗng đứng đậy chỉ tay quát:
-Mi là ai hả? Ai xui ngươi đến nói nhăng nói cuội ở đây?
Người này vẫn thản nhiên, nói nhẹ nhàng:
-Tiểu nhân là Bình A Tứ. Tiểu nhân nhận ra ông Diêm Cơ là thầy lang bán thuốc xoa bóp năm xưa ấy, còn thầy lang Diêm Cơ tất nhiên là không nhận ra thằng phụ bếp A Tứ đầu chóc lở năm xưa đâu nhỉ!
Bảo Thụ nghe người ấy nhấc đến hai chữ "Diêm Cơ"thì mặt biến sắc, thoáng nhớ lại quán trọ năm xưa quả thật có thằng bé phụ việc đầu chốc, có điều bây giờ Bảo Thụ không hề để ý gì đến mặt mũi dáng vẻ của chú cả, nên bây giờ lại càng không nhớ gì hết. Bảo Thụ trợn mắt nhìn vào tấm ván gỗ khắc vế đói Bình A Tứ đang ôm vào lòng, miệng "xì" một tiếng.
Bình A Tứ nói tiếp:
-Lúc nửa đêm, nghe thấy tiếng khóc của Hồ đại gia, quả tình là tôi không yên tâm. Tôi bèn đến gần căn phòng, thì thấy trên cửa sổ ở phòng bên in bóng một người đang ngồi im lặng mai phục ở đó. Tôi lại gần nhìn qua khe cửa sổ, thấy thầy Diêm Cơ đang áp tai sát vách gỗ nghe lỏm câu chuyện của vợ chồng Hồ đại gia.
Tôi đang định vào báo cho Hồ đại gia biết, thì bỗng Hồ đại gia lại đi sang phòng của thầy lang Diêm Cơ và nói chuyện rất lâu. Nội dung trò chuyện ấy, không rõ vì sao Bảo Thụ đại sư không hề kể cho các vị biết một chút nào?
Hồ đại gia nói rất nhiều, tất nhiên có nhiều chỗ tôi không hiểu nhưng tôi biết rằng Hồ đại gia sai thầy lang Diêm Cơ hôm sau đi giải thích với Kim Diện Phật mấy điều gì đó. Những điều ấy rất hệ trọng, vốn không nên để cho người lạ biết;nhưng vì Hồ phu nhân mới sinh con không đi được nên đành nhờ người khác. Hồ đại gia tính tình nóng nẩy, nếu tự mình đi nói chuyện với đối thủ, tất sẽ sinh ra tranh cãi với các vị Phạm bang chủ, Ðiền tướng công. Một khi đã không thể nói cho rõ ràng được, lại có khả năng xảy ra đụng độ thì có đi cũng bằng không! Bởi thế đành nhờ Diêm Cơ đi hộ.
Còn như Bảo Thụ đại sư vừa nói là "Hồ đại gia sai ông ta đi đưa thư, xong việc sẽ hậu tạ" thì không đúng. Chỉ là đưa một phong thư nhẹ tênh, có gì phải hậu tạ?
Việc gì mà hai vợ chồng Hồ đại gia phải bàn bạc lâu thế? Có lẽ Bảo Thụ đại sư đã quên những lời của Hồ đại gia nói lúc đó chăng, chứ tôi không quên một điều nào.
Mọi người nghe đến đây, mới biết trước khi xuất gia Bảo Thụ có tên tục là Diêm Cơ. Nhìn vẻ mặt của Bảo Thụ và Bình A Tứ lúc này, đoán hẳn Bảo Thụ có dinh líu đáng kể đến cái chết của Hồ Nhất Ðao; những lời kể Bảo Thụ lúc trước cũng có nhiều chỗ sai lệch, không thấu đáo. Ai ai cũng thấy hiếu kì, ngóng đợi Bình A Tứ giải toả thắc mắc. Nhưng cũng lại sợ nếu Bình A Tứ nói toạc ra một bí mật hệ trọng nào đó, làm Bảo Thụ vì thẹn quá mà đâm tức giận hạ độc thủ, thì trên đỉnh núi tuyết này chẳng có ai đọ nổi mà ngăn chặn ông ta cả. Dẫu sau này, Kim Diện Phật có tìm Bảo Thụ để tính sổ đi nữa, nhưng Bình A Tứ đã chết, thì e rằng cái bí mật ấy cũng vĩnh viễn bị chôn vùi thôi.
Mọi người lo thay cho Bình A Tứ nhưng người này vẫn thản nhiên không chút sợ hãi. Trái lại hình như cậy là sẽ được che chở nên lại nói luôn:
-Khi Hồ đại gia nói chuyện với Diêm Cơ, tôi đứng ngoài cửa sổ phòng ông ta.
Tôi không hề có ý nghe lỏm xem Hồ đại gia nói gì, có điều là tôi vốn biết Diêm Cơ vẫn theo đuôi người chủ nợ đã từng hà hiếp cha tôi, rõ ràng là ông ta không tử tế gì, tôi chỉ lo Hồ đại gia sẽ mắc lừa Diêm Cơ.
Bây giờ tôi còn nhỏ tuổi nông cạn, tôi không thật hiểu rõ nhưng lời Hồ đại gia nói, nhưng tôi vẫn ghi nhớ từng chữ, và sau này lớn khôn lên, tôi đã dần hiểu biết.
Ðêm ấy, Hồ đại gia dặn Diêm Cơ đi nói hộ ba điều. Ðiều thứ nhất là nguyên nhân nảy sinh thù oán từ các đời trước của bốn họ Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền. Ðiều thứ hai là nguyên nhân cái chết của phụ thân Kim Diện Phật và phụ thân Ðiền tướng quân. Ðiều thứ ba là chuyện về thanh quân đao của Sấm Vương.
Mọi người đều quay đầu lại thanh quân đao đặt trên bàn, lòng càng háo hức.
Bình A Tứ nói tiếp:
-Tại sao bốn nhà Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền, đời trước lại thù oán nhau? Ðiều này Miêu cô nương đã kể rồi. Có điều là bên trong còn một bí mật quan trọng, không những người ngoài không biết mà đến nay, ngay cả Miêu đại hiệp cũng chưa biết.
Bí mật này có mần mống từ năm thứ hai Vĩnh Xương Ðại Thuận của Sấm Vương. Ðó là năm ất Dậu, cũng chính là năm thứ hai đời Thuận Trị nhà Ðại Thanh.
Bấy giờ, các vị tổ tông của bốn họ Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền đã nói rõ ràng, nếu nhà Thanh không diệt vong, thì hãy đợi đến một trăm năm sau, tức năm ất Sửu,mới được tiết lộ bí mật lớn đó ra. Năm ất Sửu, tức là năm Càn Long thứ mười, cách đây đã hơn ba mươi năm. Vậy là, cách đây hai mươi bảy năm, lúc Hồ đại gia nói chuyện với Diêm Cơ, thì đã quá cái hạn một trăm năm đó rồi, không cần giữ mãi điều bí mật đó nữa.
Ðiều bí mật đó quả là hệ trọng; năm mà Sấm Vương bại trận ở núi Cửu Cung,Sấm Vương không hề chết!
Ðiều này vừa nói ra, mọi người đều giật mình và đều đứng cả dậy, không ai bảo ai, cùng hỏi "Cái gì?". Riêng Bảo Thụ, vẫn ngồi ngay ngắn, rõ ràng là ông ta đã sớm biết rồi nên không bị chấn động vì tin này.
Bình A Tứ nói tiếp:
-Ðúng thế! Sấm Vương đã không chết! Có điều là Sấm Vương bị quân Thanh bao vây khốn vòng trong vòng ngoài, khó bề thoát thân. Ba vệ sĩ họ Miêu, Phạm,Ðiền xông xuống núi đi cầu viện binh, mãi không thấy viện binh tới, mà quân địch ngày càng thêm khép chặt vòng vây. Thấy các tướng sĩ thuộc hạ kẻ chết người bị thương khó lòng chống đỡ nổi, Sấm Vương thối chí nản lòng, bèn giơ thanh quân đao lên, định tự vẫn song người vệ sĩ họ Hồ có biệt hiệu là Phi Thiên Hồ Ly ngăn lại. Trong lúc nguy cấp, người vệ sĩ họ Hồ ấy bèn nảy ra một kể. Ông chọn trong những xác của tướng sĩ hi sinh một thi thể na ná vóc người Sấm Vương, thay hoàng bào và áo chống tên của Sấm Vương vào, đại đeo thêm ấn vàng vào cổ nữa. Ông ta lại lấy đao băm nát mặt của tử thi để cho người khác khó nhận ra rồi tự mình cõng lên, đi đến doanh trại của quân Thanh xin đầu hàng. Ông ta khai là đã giết chết Sấm Vương xin đến ghi công lĩnh thưởng. Ðó là một chiến công lớn biết chừng nào, nên tướng bên địch trình báo lên cấp trên, ắt sẽ được thăng quan phong tước, chứ không hề đắn đo nghi ngờ gì. Mà dẫu có chút hoài nghi thì cũng ra sức che đậy lờ đi để còn lĩnh thưởng thăng quan chứ.
"Sấm Vương" đã chết, thì ngay đêm đó quân Thanh ngừng vây hãm núi Cửu Cung. Còn Sấm Vương thật thì cải trang làm một người bình thường xuống núi,thoát hiểm một cách dễ dãng. Ôi! Sấm Vương thoát khỏi hiểm nguy nhưng vị Phi Thiên Hồ Ly kia thì đại họa sắp giáng xuống đầu.
Phi Thiên Hồ Ly đã dùng đến kế sách ấy, ông thực ra là quá ư đau khổ. Các anh hùng hảo hán trên giang hồ cũng vì hai chữ "Hiệp nghĩa" mà chịu kiếm đâm đao chém để giúp bạn, không phải là điều khó làm. Nhưng vệ sĩ họ Hồ vì Sấm Vương thoát nạn, không những phải miễn cưỡng đầu hàng quân địch mà còn mang tiếng "bán chúa cầu vinh".
Phi Thiên Hồ Ly vốn có uy danh vang dội trong thiên hạ, giới võ lâm mỗi khi nhắc tới tên ông, ai cũng giơ ngón tay cái mà tấm tắc: "Hảo hán!". Thế mà giờ đây lại tự bôi nhọ tên tuổi của mình suốt đời, thật khổ gấp hàng vạn lần việc dám khẳng khái hi sinh vì đại nghĩa.
Sau khi ông đầu hàng Ngô Tam Quế, thì làm quan dưới quyền hắn ta. Ông là người trí dũng song toàn, thông minh tài cán nên rất được Ngô Tam Quế tin dùng.
Ông nghĩ, thiên hạ nhà Ðại Thuận của Sấm Vương đã bị đổ vỡ bởi tay Ngô Tam Quế, nếu không báo được thù này thì không xứng là kẻ trượng phu. Ông lại nghĩ,nếu đâm chết Ngô Tam Quế thì chẳng nhọc nhằn gì, nhưng Phi Thiên Hồ Ly vốn túc trí đa mưu đâu có chịu xong việc dễ dàng như vậy?
Trong vài năm trời, ông giữ kín tung tích, dùng nhiều mưu kế khôn khéo. Sắp đặt nhiều kế hoạch để vừa làm cho Hoàng đế Mãn Thanh nghi ngờ Ngô Tam Quế,mặt khác lại làm cho Ngô Tam Quế cảm thấy không thể không dấy binh làm phản.
Ông lại ngầm báo cho triều đình nhà Thanh mọi hành vi chiêu tập binh mã,ngông nghênh kiêu ngạo của Ngô Tam Quế. Ngược lại, ông lại báo cho Ngô Tam Quế biết những thủ đoạn xét nét đề phòng của nhà Thanh đối với Ngô Tam Quế mà ông đã dò la được.
Cứ như vậy, trong mấy năm qua, Ngô Tam Quế tất ở vào thế phải làm phản.
Nếu vậy, thiên hạ sẽ đại loạn, nhà Ðại Thanh sẽ tổn hao lực lượng, lúc đó sẽ là thời cơ tốt để cho Sấm Vương phục quốc. Dẫu cuộc nổi loạn của Ngô Tam Quế nhanh chóng bị dập tắt, Sấm Vương phục quốc chẳng thành công, thì Ngô Tam Quế cũng không thể không mắc họa bị giết cả họ. Nếu vậy thì có giá trị hơn nhiều so với việc đâm chết một mình hắn.
Dịp ba vị anh em kết nghĩa họ Miêu, Phạm, Ðiền đến Côn Minh hành thích Ngô Tam Quế, thì mọi kế sách của Phi Thiên Hồ Ly đang dần có hiệu quả. Bởi vậy,trong lúc nguy cấp, ông đã xông ra ngăn chặn kẻo ba người sẽ làm hỏng đại sự.
Rằm tháng ba năm ấy, ông cùng uống rượu với ba anh em Miêu, Phạm, Ðiền ở Ðiền Trì, và sắp sửa nói ra tất cả mọi chuyện từ chuyện Sấm Vương chưa chết, đến chuyện Ngô Tam Quế sắp làm phản, thì không ngờ ba vị e ngại rằng võ công của huynh trưởng cao cường, không nên trò chuyện dài dòng, thừa lúc huiynh trưởng sơ ý mà giết luôn. Trước khi chết, Phi Thiên Hồ Ly khóc và nói: "Ta tiếc cho đại sự chưa thành" chính là nói về những kế hoạch đấy. Ông còn nói: "Nguyên soái... ở khe núi Thạch Môn" thực chất là Sấm Vương đang xuất gia tại chùa Phổ Từ, núi
Giáp Sơn sống đến tháng hai năm Giáp Thìn đời Khang Hi, thọ bảy mươi tuổi. Khi Sấm Vương khởi sự, xưng là "Phụng Thiên Xướng Nghĩa đại nguyên soái". Lúc xuất gia, pháp danh vốn là Phụng Thiên Vương, để giữ cho kín đáo, mới thêm một dấu "chấm" bên cạnh chữ "Vương" thành ra chữ "Ngọc". Lúc trước, mọi người chỉ nghe Miêu Nhược Lan kể chuyện, chỉ hình dung Phi Thiên Hồ Ly là người gian hiểm vô cùng, đau ngờ bên trong còn có những bí mật ghê gớm, có điều vì quá lạ lùng nên trong một lúc họ chưa thể tin ngay được.
Bình A Tứ thấy mọi người còn nghi ngờ, thấy Miêu Nhược Lan cũng tỏ ra ngạc nhiên bèn nói tiếp:
-Miêu cô nương! Lúc trước, cô nương kể đến đoạn hôm rằm tháng ba, con trai của Phi Thiên Hồ Ly tìm đến nhà ba vị thúc thúc kia là anh em kết nghĩa kia, rồi cùng họ bí mật nói chuyện ở nhà trong. Chuyện trò xong, ba vị ấy ra và tự vẫn trước mặt mọi người. Cô nương thử nghĩ xem trong cuộc nói chuyện bí mật đó, bốn người đã nói những gì?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Hẳn người con trai ấy đã nói với ba vị thúc thúc kia những điều tâm sự của Phi Thiên Hồ Ly.
-Ðúng vậy! -Bình A Tứ nói -Nếu chẳng phải ba người ấy hối hận vì đã giết nhầm người huynh trưởng kết nghĩa của mình, thì sao phải tự vẫn trước đám đông?
Có điều thời kì ấy, Sấm Vương đang còn sống, nên điều bí mật ấy tuyệt đối không được tiết lộ ra. Cũng tiếc thay cho ba vị anh em kết nghĩa ấy! Họ vốn đều có lòng trung nghĩa, song tính cách quá lỗ mãng. Giết huynh trưởng đã là sai rồi, lại tự vẫn quá sớm trước đám đông, chẳng hề dặn dò con cháu là không được tìm đến con cháu họ Hồ để báo thù. Chắc lúc ấy họ quá ư xót xa và hối hận, không nghĩ ngợi hậu quả sau này, nên hai lần liên tiếp mắc sai lầm. Từ đây, bốn nhà Hồ, Miêu,Phạm, Ðiền đời này sang đời khác càng oán thù nhau sâu nặng hơn.
Những lời giải thích trong phòng kín của người con trai họ Hồ với ba vị thúc thúc kia, cái bí mật ấy phải đợi sau một trăm năm tức năm ất Sửu mới được công bố.
Ðến lúc đó, dù Sấm Vương có thọ lắm đi nữa, ắt cũng qua đời rồi. Nếu bị tiết lộ sớm hơn, chắc triều đình nhà Thanh sẽ săn lùng gắt gao, càng nguy hiểm đến tính mạng của Sấm Vương. Các đời sau họ Hồ đều biết rõ bí mật đó, nhưng ba nhà Miêu, Phạmn, Ðiền thì đều không hay biết. Khi điều bí mật được truyền đến đời Hồ đại gia, thì đã quá thời hạn trăm năm cho nên ông mới nhờ thầy lang Diêm Cơ đi nói rõ với Kim Diện Phật.
Về việc thứ hai, nói về nguyên nhân cái chết của phụ thân Kim Diện Phật và phụ thân Ðiền tướng công. Mưòi năm trước khi hai vị Miêu, Hồ kịch chiến, thì hai vị tiền bối Miêu, Ðiền đi khỏi vùng Trung Nguyên và từ đấy biệt tăm. Hai vị đều võ nghệ cao cường, tên tuổi lừng lẫy chốn giang hồ, mà lại chết một cách không rõ ràng như vậy, thì kẻ giết hại hai vị hẳn là một tay rất ghê gớm. Hồ đại gia lâu nay vẫn ở ngoài quan ải; họ Hồ và hai họ Miêu, Ðiền vẫn có oán thù lâu đời nên ai cũng cho rằng chắc là Hồ đại gia đã hạ thủ. Kim Diện Phật và Ðiền tướng công chia nhau đi dò la mười năm trời hơn, mà không tìm ra manh mối gì, cũng chẳng gặp mặt Hồ đại gia lần nào. Không còn cách nào khác, Kim Diện Phật bèn tuyên bố rằng mình là "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" để khích cho Hồ đại gia vào Trung Nguyên. Hồ đại gia cũng hiểu dụng ýđó, nhưng chẳng buồn để ý. Ông phải đi tìm hai vị tiền bối họ Miêu, Ðiền ở khắp nơi, nghĩ rằng chỉ tìm ra tung tích của họ thì mới có thể gặp mặt Kim Diện Phật để rửa sạch nỗi oan cho mình. Ông trời kia chẳng phụ người có tấm lòng! Hồ đại gia tìm hiểu suốt mấy năm trời, cuối cùng đã biết được tin tức của hai vị ấy. Lúc đó, Hồ phu nhân có thai. Phu nhân là người Giang Nam, sắp đến kỳ sinh nở, bỗng nhớ quê nhà da diết. Hồ đại gia chiều ý phu nhân, bèn đưa phu nhân trở về miền nam. Ði đến Ðường Quan, ông đụng độ với hai vị Phạm, Ðiền, rồi sau đấy là Kim Diện Phật. Hồ đại gia bảo Diêm Cơ đi nói chuyện với Kim Diện Phật đã, đợi khi ông đưa phu nhân về Giang Nam xong, sẽ đích thân dẫn Kim Diện Phật đi đưa hài cốt của cha về. Còn về nguyên nhân cái chết, Kim Diện Phật khi đến nơi xem xét sẽ hiểu. Có điều cái chết của hai vị tiền bối họ Miêu, Ðiền ấy cũng không được không được vẻ vang cho lắm nên Hồ đại gía không tiện kể ngay trước mặt họ, mà chỉ muốn đưa hai vị Miêu, Ðiền đi để tự xem xét thôi.
Việc thứ ba là chuyện liên quan đến thanh quân đao của Sấm Vương. Thanh quân đao ấy ẩn giấu một điều vô cùng quý giá mà vàng bạc châu báu quý hiếm đến đâu cũng chẳng thấm tháp gì.
Mọi người đều rất kinh ngạc, nghĩ rằng ở thanh đao này chẳng chứa nổi lấy một chút bạc nhỏ nào, nói gì đến chuyện "châu báu quý hiếm cũng chẳng thấm tháp gì"?
Bình A Tứ nói tiếp:
-Tối hôm đó, Hồ đại gia đã nói nguồn cơn của chuyện này cho thầy lang Diêm Cơ. Nghe xong, hẳn các vị cũng sẽ không lấy làm lạ nữa.
Sau khi Sấm Vương phá Bắc Kinh, thì các hoàng thân, quốc thích, các đại thần đại tướng của nhà Minh đều đầu hàng cả. Không ai trong bọn họ không có tài sản giầu có. Các bộ hạ của Sấm Vương bắt bọn họ phải bỏ vàng bạc châu báu để chuộc mạng. Chỉ trong vài ngày, tiền của châu báu chất cao như núi, không sao đếm xuể.
Về sau, Sấm Vương phải rút lui khỏi Bắc Kinh, Sấm Vương sai các tướng lĩnh thân tín áp tải những đống của cải đó đem giấu ở một nơi yên ổn để sau này khi đem binh quay lại đánh trả, sẽ chi dùng vào việc quân lương. Sấm Vương có bản đồ cất giấu kho báu, cách xem bản đồ để tìm kho báu thì đặt trong thanh quân đao.
Khi bại trận phải trốn khỏi Cửu Cung, Sấm Vương giao cả bản đồ và thanh quân đao cho Phi Thiên Hồ Ly giữ. Về sau, Phi Thiên Hồ Ly bị giết hại, thanh quân đao và bản đồ rơi vào tay ba vị anh em kết nghĩa kia, chẳng bao lâu, lại bị con trai của Phi Thiên Hồ Ly cướp lại. Sau khi tranh giành qua lại suốt một trăm năm, thanh quân đao ấy đã rơi vào tay họ Ðiền của phái Thiên Long Môn nắm giữ, còn tấm bản đồ kho báu do họ Miêu truyền đời nắm giữ. Có điều là cả hai họ Miêu, Ðiền đều không biết điều bí mật ghê gớm ấy, vì thế mà không đi tìm để khai quật. Ðiều bí mật ấy chỉ có họ Hồ truyền lại cho con cháu biết, nhưng nhà họ Hồ lại không có bản đồ và thanh quân đao nên cũng chịu không có cách gì đi tìm được. Hồ đại gia đã nói chuyện này với Kim Diện Phật, đề nghị ông ấy đi tìm kho báu để trợ giúp người nghèo trong thiên hạ, thậm chí có thể dùng số của cải ấy vào việc lớn, đánh đuổi người Mãn đi, đòi lại giang sơn cho người Hán chúng ta.
Cả ba việc mà Hồ đại gia nói đến, đều vô cùng hệ trọng. Song sau khi Kim Diện Phật biết chuyện rồi, tại sao còn cứ đòi đấu võ để quyết đấu một phen sống mãi,thì cho đến lúc chết, Hồ đại gia cũng không hiểu được. Chỉ e rằng Kim Diện Phật mang hiệu suông là "đại hiệp", không phân biệt được phải trái đúng sai. Hoặc giả ba việc ấy thật quá ư không hợp tình hợp lý sẽ kinh động đến thiên hạ nên Kim Diện Phật không hề tin một việc nào hết cũng chưa biết chừng.
Nói đến đây, Bình A Tứ bất giác thở dài.
Ðào Bách Tuế từ đầu đến giờ chỉ lắng nghe và im lặng, lúc này bỗng lên tiếng:
-Tôi biết rõ tại sao Kim Diện Phật vẫn muốn tìm đến Hồ Nhất Ðao để tỉ thí.
Tạm chưa nói rõ lý do, chỉ hỏi ngươi trước đã: ngươi lên đỉnh núi này làm gì?
Ðiều này mọi người cùng đều muốn biết, Bình A Tứ nghiêm nét mặt:
-Tôi đến để báo thù cho Hồ đại gia.
-Báo thù ư? Tìm ai để báo thù? -Ðào Bách Tuế hỏi.
Bình A Tứ cười nhạt:
-Tôi tìm kẻ đã hại Hồ đại gia.
Miêu Nhược Lan sắc mặt nhợt nhạt, hạ thấp giọng:
-Ông đi tìm cha tôi ư?
-Người sát hại Hồ đại gia không phải là Kim Diện Phật, mà là lão thầy lang bán thuốc xoa bóp Diêm Cơ năm xưa, giờ đã xuất gia làm hoà thượng, chính là người có tên Bảo Thụ đó!
Mọi người vô cùng ngạc nhiên, nghĩ bụng: "Tại sao Hồ Nhất Ðao lại bị Bảo Thụ sát hại nhỉ?"
Bảo Thụ đứng thẳng lên, cười ha hả:
-Ðược lắm! Ngươi có tài thì hãy xông vào giết ta đi! Mau ra tay nào!
Bình A Tứ nói:
-Tôi đã ra tay rồi đó. Kể từ hôm nay, tôi chỉ cho ông sống không quá bảy ngày đêm nữa thôi!
Ai nấy thất kinh, đều nghĩ không biết Bình A Tứ đã ngầm hạ độc thủ ra sao?
Riêng Bảo Thụ thì âm thầm hoảng sợ, nhưng vẫn còn nói cứng:
-Ngươi có tài cán khỉ gì mà đòi giết ta?
Bình A Tứ nói gay gắt:
-Không chỉ riêng ông, mà tất cả lớn bé gìa trẻ trên núi này không có ai sống quá bảy ngày đêm nữa đâu.
Mọi người càng hoảng, người thì ngạc nhiên đứng dậy, kẻ thì trợn mắt nhổm lên.
Từ sau khi lên đỉnh núi tuyết này, ai cũng thấp thỏm không yên tâm. Tuy lời Bình A Tứ có vẻ vô lý quá đáng, song nghe vào lúc này không ai không thấy giật mình lo sợ.
Bảo Thụ dằn giọng:
-Chắc là ngươi bỏ thuốc độc vào thức ăn và nước trà?
Bình A Tứ lạnh lùng:
-Nếu đầu độc ông, hóa ra là để ông chết quá nhanh chóng ư? Ðâu có ngon lành thế? Tôi muốn ông phải đói mà chết từ từ cơ!
Tào Vân Kỳ, Ðào Bách Tuế, Trịnh Tam Nương cùng kêu lên:
-Chết đói à?
Bình A Tứ thản nhiên:
-Ðúng thế! Trên núi này vốn chỉ có lương thực cho mười ngày nhưng bây giờ thì chẳng còn chút nào nữa rồi. Tôi đã đổ tất cả xuống chân núi rồi.
Trong lúc mọi người la hoảng thì Bảo Thụ bỗng giơ tay giở ngón "Cẩm nã thủ" ra tóm chặt lấy cánh tay trái của Bình A Tứ. Bình A Tứ vốn đã không còn tay phải,nên không hề kháng cự, chỉ hơi mỉm miệng cười nhạt. Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương giơ năm đấm đứng áp trước mặt Bình A Tứ, chỉ cần Bình A Tứ khẽ động đậy là giáng đòn luôn.
Vu quản gia vội chạy vào nhà trong một lát rồi quay ra đại sảnh, mặt trắng bệch,giọng run run:
-Lương thực của sơn trang và thịt bò, thịt dê, gà, vịt, rau cỏ nữa đúng là... đều bị tên này... đổ xuống chân núi hết trơn cả rồi.
Một tiếng "uỳnh" vang lên, Tào Vân Kỳ đấm vào ngực Bình A Tứ. Trái đấm quá mạnh, Bình A Tứ hộc lên một tiếng, miệng trào máu tươi. Tuy thế, vẻ mặt vẫn hơi cười nhạt, không hề có chút sợ hãi.
Bảo Thụ hỏi:
-Thế không có ai trông coi lương thực và nhà bếp à?
Vu quản gia đáp:
-Có ba người làm việc vặt ở đó thì đều bị tên này trói lại cả rồi. Ôi! Lúc hai thằng tiểu đồng quỷ quái gây chuyện ầm ĩ ở trên này, mọi người kéo cả lên xem.
Ai ngờ đó chính là kế "diệu hổ li sơn" của Tuyết Sơn Phi Hồ. Miêu cô nương!
Chúng tôi cứ ngỡ tên này là người hầu của cô nương đem theo.
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Không phải. Tôi thì lại tưởng hắn cũng là quản gia ở sơn trang này.
Bảo Thụ nói:
-Không còn sót tí gì ăn được à?
Vu quản gia buồn bã lắc đầu.
Tào Vân Kỳ lại giơ nắm đấm toan giáng một quyền nữa vào Bình A Tứ thì Miêu Nhược Lan nói:
-Hãy khoan! Tào đại gia đã quên lời tôi nói rồi ư?
Tào Vân Kỳ không hiểu, nắm đấm vẫn đang giơ trên không trung. Miêu Nhược Lan giải thích:
-Người này đang ôm trong tay danh hiệu của cha tôi, tôi đã nói rồi, là không cho phép ai đụng đến người ta mà.
Tào Vân Kỳ nói:
-Tất cả chúng ta đều chết đói bởi tay hắn, vậy mà tiểu thư lại...
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Sống hay chết là một chuyện, nhưng lời đã nói ra thì phải giữ chứ. Người này đã đổ hết lương thực, thức ăn đi cố nhiên là mọi người sẽ chết đói, cả anh ta cũng vậy. Một người dám liều mình chỉ để làm một việc này thì hẳn phải có nguyên nhân rất quan trọng. Bảo Thụ đại sư, Tào đại gia! Sông chết có số cả, cuống vội cũng chẳng làm gì. Hãy cứ để ngưòi này nói xem, có phải chúng ta rốt cuộc sẽ phải chết thật hay không?
Miêu Nhược Lan nói ôn tồn nhẹ nhàng, song không hiểu sao lại có sức mạnh lớn lao làm Bảo Thụ phải buông cánh tay Bình A Tứ ra, còn Tào Vân Kỳ cũng hậm hực trở về chỗ ngồi. Miêu Nhược Lan nói:
-Bình gia! Hãy nói cho tôi biết vì sao ông muốn mọi người chết đói cả lũ? Ông muốn báo thù cho Hồ Nhất Ðao bá bá phải không?
Bình A Tứ đáp:
-Cô nương gọi tôi là "Bình gia", tôi không dám nhận đâu. Cả đời, tôi chỉ có phận sự gọi người khác là "gia gia" thôi, tôi không có cái phúc được ngưòi ta gọi mình như vậy. Miêu cô nương, năm xưa Hồ đại gia đã cho tôi bạc, cứu cả ba mạng gia đình tôi, tôi vô cùng cảm kích. Nhưng tôi cũng rất cảm kích vì một chuyện khác nữa, cô nương biết là chuyện gì không? Mọi người bấy giờ đều gọi tôi là "A Tứ chốc đầu", rất khinh miệt tôi. Nhưng Hồ đại gia thì lại gọi tôi là "chú em nhỏ" và nhất định bắt tôi gọi là "đại ca". Cả đời Bình A Tứ này bị thiên hạ quát tháo sai bảo, nhưng riêng Hồ đại gia thì lại nói với tôi rằng, trên đời, không phân biệt cao thấp sang hèn bởi trong mắt ông trời, thì ai cũng như ai mà thôi. Nghe những lời ấy, tôi thấy mình như một người bị mù suốt mười mấy năm, bỗng lại được nhìn thấy ánh sáng. Tôi chỉ được gặp Hồ đại gia có một ngày trời thôi, song lòng tôi đã coi ông là người thân nhất và kính yêu ông như cha mẹ mình.
Hồ đại gia đấu võ với Kim Diện Phật liền mấy ngày mà không phân thắng bại,đương nhiên tôi thấy lo lắng cho ông. Ðến ngày cuối cùng, Hồ đại gia bị thương bởi lưỡi đao tẩm thuốc độc mà chết, phu nhân cũng tự vẫn theo chồng, các sự việc ấy đúng như lời Miêu cô nương nói. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng ấy và không quên một chi tiết nào. Thầy lang họ Diêm ạ! Cái hôm đó, tay trái ông xách hòm thuốc, lưng đeo túi vải dựng hơn một chục đĩnh bạc, đúng không nào? Hôm đó ông mặc áo lông cừu cũ, ngoài chần vải xanh, đầu đội mũ lông màu vàng ố bị thủng mấy chỗ, đúng không nào?
Bảo Thụ tím mặt, tay phải cầm chuỗi hạt khẽ rung rung, hai mắt trợn trừng,không nói năng gì.
Bình A Tứ lại nói tiếp:
-Tối hôm trước đó, Hồ đại gia cùng nằm chung giường trò chyện với Kim Diện Phật, ông dứng ngoài cửa sổ nghe lỏm, rồi bị Kim Diện Phật đứng trong cửa sổ thoi cho một quyền sưng vù mắt mũi lên, máu chảy đầy mặt. Ông ta kể sau khi bị đánh thì đi ngủ luôn, nhưng tôi nhìn thấy trước khi đi ngủ, ông ta còn làm một việc nữa cơ. Hai vị Hồ đại gia và Kim Diện Phật đi nằm, họ đàng hoàng trong sáng để binh khí ở gian đại sảnh. Thầy lang họ Diêm lấy một lọ thuốc cao trong hòm thuốc ra,rón rén đến bôi lên đao kiếm của họ. Bấy giờ tôi chỉ là đứa trẻ lên mười, nên không ngờ ông ta đàng thi hành quỷ kế. Cho đến hôm sau, khi Hồ đại gia bị thương và trúng độc, tôi mới nhớ đến việc thầy lang họ Diêm đã bôi thuốc độc lên binh khí của họ. Ông ta chỉ hi vọng cả hai vị Miêu, Hồ cùng đi đời nhà ma.
Ôi! Thầy lang Diêm ơi là thầy lang Diêm! Lòng dạ ông thật độc địa! Ông muốn Kim Diện Phật chết là để trả thù việc mình bị thoi một quả. Nhưng Hồ đại gia vốn không oán thù gì với ông ta, sao ông ta cũng bôi thuốc độc lên kiếm Kim Diện Phật để làm gì?
Thời ấy, tôi không hiểu được. Sau này đã có tuổi, tôi mới đoán được thâm ý của lão thầy lang. Hừ! Hoá ra ông ta rắp tâm chiếm đoạt chiếc hộp sắt của Hồ đại gia!
Ông ta kể mình không biết trong hộp sắt ấy có cái gì, đó là nói bậy! Ông ấy biết rõ!
Khi Hồ đại gia trao cho phu nhân chiếc hộp sắt, dốc các thứ trong hộp sắt ra bàn,thì mặt bàn lấp lánh chói ngời, đều là châu ngọc quý giá cả. Hồ đại gia nói: "Nàng ạ! Nàng rất có bản lĩnh thật, nhưng lúc nào cần dùng thì lại phải tự tay mà giành lấy vàng bạc của bọn thổ hào ác bá. Có điều e rằng nếu phải hành động nhiều lần,khó tránh khỏi có lúc sơ xuất, cho nên ta... ta...". Phu nhân nói: "Ðại ca cứ yên tâm.
Nếu đại ca có gì chẳng lành, muội sẽ một lòng một dạ nuôi dạy con. Muôi sẽ bán dần số châu báu này đi cũng đủ để hai mẹ con sống cả đời rồi. Muội sẽ không đọ đao kiếm với ai nữa và cũng không thi thố các ngón sở trường nữa. Ðược chứ?".
Hồ đại gia cười lớn khen hay, cầm một cuốn sách lên nói: "Cuốn sách "Quyền kinh đao phổ" này là do chính tay cao tổ của ta viết đó". Phun nhân đỡ lấy và nói:
"Hay lắm! Bản lĩnh đúc kết cả đời của Phi Thiên Hồ Ly đều viết ở đây! Ðại ca giấu nó kỹ thế, ngay cả muội mà cũng chưa xem bao giờ!". Hồ đại gia cười: "Di huấn của tổ tông là chỉ truyền lại cho con trai, không truyền cho con gái; truyền cho cháu chứ không truyền cho vợ. Ðấy mới thật là đao pháp họ Hồ". Phu nhân cũng cười: "Ðợi khi con biết chữ rồi, sẽ cho nó đọc. Muội hứa là quyết không học lỏm là được rồi chứ gì?". Hồ đại gia lại thở dài và cất các thứ vào trong hộp, rồi đậy chiếc hộp ở dưới gối của phu nhân.
Về sau khi thấy phu nhân đã chết, tôi liền vội chạy vào phòng của bà, không ngờ thầy lang Diêm đã vào đó trước rồi. Tim tôi đập thình thịch, vội nấp sau cánh cửa, thấy ông ta tay trái ôm đứa trẻ, tay phải rút lấy chiếc hộp dưới cái gối của phu nhân, bắt chước cách mở của Hồ đại gia hôm trước và mở hộp ra bằng cách vuốt ba lần ở bốn góc rồi ấn phía đáy hộp. Ông ta lôi châu báu trong hộp ra mân mê, mồm rỏ rãi rớt xuống đất. Ông ta đặt thằng bé xuống đất, cầm quyển "Quyền kinh đao phổ" giở ra xem. Ðứa trẻ không có ngưòi ắm, khóc ré lên. Thầy lang Diêm sợ
người ta biết, bèn tiện tay kéo luôn cái chăn bông trên giường lò trùm kín luôn đứa bé.
Tôi hoảng lên, nghĩ rằng nếu cứ trùm chăn lâu nữa, đứa bé ắt chết ngạt. Nhớ lại những điều tử tế của Hồ đại gia đã cư xử với tôi, tôi không thể không cứu lấy đứa bé. Có điều tôi còn nhỏ tuổi, lại không biết võ nghệ gì, thì không thể đọ được với thầy lang Diêm Cơ. Thấy bên cửa sổ có một gióng cửa khá to, tôi khẽ cầm lên, rón rén bước tới sau lưng ông ta và giáng mạnh vào đầu. Nhát đập ấy, tôi đã dùng hết sức bình sinh, ông ta không chút đề phòng nên ngã giúi không kịp kêu một tiếng nào, các đồ châu báu vung vãi khắp mặt đất. Tôi vội mở ngay cái chăn bông, bế đứa bé lên, nghĩ mọi người quanh đây đều là kẻ địch của Hồ đại gia cả, bèn bế đứa bé về nhà cho cha mẹ tôi nuôi. Tôi cũng biết cuốn sách "Quyền kinh đao phổ" là cực kỳ quan trọng, không thể để lọt vào tay người khác, thế là tôi giật luôn nó khỏi tay ông ấy. Chẳng ngờ, lúc ông ta ngất đi thì hai tay nắm cuốn sách quá chặt, tôi cuống lên và giật thật mạnh, thế là đứt luôn hai tờ đầu nằm lại trong tay ông ta.
Thấy có nhiều tiếng ồn ào bên ngoài cửa, tôi hiểu là Miêu đại hiệp đang tìm đứa bé. Tôi bất chấp mọi sự, ôm lấy đứa bé lùi ra cửa sau để trốn về nhà.
Từ đó đến nay, tôi không gặp lại thầy lang Diêm lần nào, không ngờ ông ta đã làm hoà thượng rồi. Phải chăng ông ta tự biết mình nhiều tội lỗi nên mới xuất gia để sám hối? Ông ta đã lấy trộm được hai tờ đầu của cuốn sách quý kia, đã luyện được võ nghệ cao, nổi danh trên giang hồ, nghĩ rằng trên đời này không ai biết được lai lịch của mình nữa, nhưng không ngờ kẻ năm xưa đã dùng gióng cửa đập vào đầu ông ta lại vẫn còn sống!
Này thầy lang Diêm! Ông hãy quay đầu lại để cho mọi người nhìn rõ vết sẹo phía sau đầu nào. Ðó là vết sẹo mà thằng bé phụ bếp năm xưa dùng gióng cửa nện vào đầu ông đấy!
Bảo Thụ từ từ đứng lên. Mọi người nín thở nhìn, nghĩ là ông ta tất sẽ ra tay để lấy mạng Bình A Tứ. Nhưng, ông ta chỉ niệm "A di đà Phật", giơ tay lên xoa phía sau đầu và lại ngồi xuống:
-Hai mươi bảy năm qua, tôi vẫn không biết kẻ nào đó đã đập nhát ấy vào đầu tôi, nên vẫn ấm ức. Bây giờ thì đã quá rõ cả rồi.
Mọi người hoàn toàn không ngờ ông ta thẳng thắn thừa nhận sự việc ấy, nên đều rất ngạc nhiên.
Miêu Nhược Lan nói:
-Thế còn đứa trẻ kia, về sau ra sao?
-Sau khi tôi bế nó chuồn ra cửa sau -Bình A Tứ kể thêm -mới chạy được vài bước thì thấy sau lưng có người gọi: "Này, thằng chốc đầu! Hãy bế đứa bé lại đây".
Tôi không để ý, chạy càng nhanh. Người ấy chửi luôn mấy câu, đuổi theo và tóm được tay tôi, định cướp đứa bé ấy về. Tôi cuống lên, cắn luôn vào tay ông ta một nhát thật mạnh, mu bàn tay hắn toé máu..."
Bỗng Tào Vân Kỳ nói chen vào:
-Ðó chính là sư phụ của ta.
Ðiền Thanh Văn đưa mắt ra hiệu, Tào Vân Kỳ hối hận quá, song đã trót lỡ lời mất rồi.
Tào Vân Kỳ thấy mọi người nhìn mình, thì lòng thấp thỏm không yên.
Bình A Tứ nói:
-Ðúng thế! Ðó chính là tướng công Ðiền Quy Nông. Trên mu bàn tay của tướng công luôn có một vết sẹo do bị cắn. Tôi đoán ông ấy cũng không nói cho các vị biết là bị ai cắn, lại càng không nói rõ tại sao lại bị cắn.
Ðiền Thanh Văn, Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương cả bốn người đưa mắt nhìn nhau và cũng nhớ lại vết răng cắn trên tay Ðiền Quy Nông khá sâu. Ðúng là ông ta chưa từng nói rõ nguyên nhân bao giờ cả.
Bình A Tứ nói tiếp:
-Tôi nghiến răng liều chết mà cắn, nên dẫu có võ công cao nhưng Ðiền tướng công hẵn cũng thấy đau lắm. Ông bèn rút kiếm ra chém vào mặt tôi một nhát và một nhát nữa làm đứt lìa cánh tay tôi. Trong cơn thịnh nộ, ông đạp tôi một cú ngã văng xuống sông. Tuy thế, tôi vẫn ôm chặt đứa bé bằng cánh tay còn lại.
Miêu Nhược Lan khẽ reo lên:
-Ôi!...
-Tôi đã rơi xuống sông trong lúc người rất đau đớn, rồi không biết gì nữa. Khi mơ màng tỉnh dậy, thấy mình nằm trên một chiếc thuyền. Tôi đã được người ta cứu lên. Tôi gọi to: "Em bé ơi! Em bé ơi!". Bác gái trên thuyền nói: "A di đà Phật! Thế là tỉnh rồi! Cháu bé đang ở đây rồi". Tôi ngẩng đầu lên, thấy bà ta đang cho đứa bé bú.
Sau đấy tôi mới biết, tôi được vớt lên sau sáu ngày đêm mới tỉnh lại được. Bây giờ tôi đã ở xa quê mình quá rồi, lại thêm nỗi sợ các kẻ địch của Hồ đại gia sẽ giết hại đứa bé, tôi không dám trở về nữa. Theo lời của Miêu cô nương kể, thì Miêu đại hiệp đã cho là đứa bé ấy chết rồi.
Miêu Nhược Lan mừng rỡ:
-Ðúng thế! Hoá ra đứa bé đáng thương ấy vẫn còn sống! Có phải vậy không?
Nếu cha tôi biết, chắc người sẽ vui lắm. Nó hiện ở đâu? Ông đưa chúng tôi đi tìm được không?
Nàng sực nhớ ra "đứa bé đáng thương" mà mình vẫn gọi, thực ra là một chàng trai hai mươi bảy, còn hơn mình những mười một tuổi! Nàng chợt đỏ mặt.
Bình A Tứ nói: "Cô nương không thể gặp được anh đâu. Mọi người ở đây sẽ chẳng có ai sống nổi để mà xuống núi nữa đâu!".
-Cha tôi nhất định sẽ lên núi này để giải thoát. Tôi chẳng lo lắng gì hết.
-Phụ thân của cô nương "Ði khắp thiên hạ không địch thủ" -Bình A Tứ nói -nhưng vẫn chỉ vô địch trong đám người phàm trần thôi. Dù có võ công có cao cường đến đâu, cũng phải bó tay trước đỉnh núi cao ngàn trượng mây này!
Miêu Nhược Lan hỏi:
-Vậy có phải đứa trẻ năm xưa xui ông đến đây hãm hại chúng tôi không?
Bình A Tứ lắc đầu:
-Không! Không phải! Người ấy cũng anh hùng hào kiệt giống như cha cô vậy.
Nếu người ấy biết được tôi đến đây làm cái trò xấu xa này, thế nào cũng can ngăn tôi.
Tào Vân Kỳ tức giận:
-Gớm nhỉ! Hoá ra ngươi cũng đã biết đó là những trò xấu xa cơ à?
Miêu Nhược Lan hỏi:
-Ðứa bé hồi ấy là người như thế nào? Tên là gì? Võ công có giỏi không? Hiện đang làm gì. Anh ta cũng là một người tốt chứ?
Từ nhỏ, nàng đã chứng kiến hàng năm cha nàng cúng tế vợ chồng Hồ Nhất Ðao bá bá và luôn ôm mối hận là không thể nuôi nấng đứa bé, bởi thế nàng rất quan tâm đến chuyện này.
Bình A Tứ nói:
-Nếu không phải vì tôi đã cho nổ hết thừng chão và trục cuốn thì hôm nay Miêu cô nương đã có thể gặp anh ta được đấy.
Tào Vân Kỳ và sáu bảy người nữa cùng giận dữ:
-Ngươi đã phá hủy thừng chão ư?
-Ðúng vậy -Bình A Tứ đáp.
-Sao hôm nay tôi lại có thể gặp được anh ta -Miêu Nhược Lan hỏi.
Bình A Tứ đáp:
-Tướng công có hẹn với chủ nhân sơn trang này, là giờ ngọ sẽ lên. Sắp đến giờ ngọ rồi, lúc này chắc tướng công đã đến chân núi rồi cũng nên.
Mọi người cùng kêu lên:
-Ðó chính là Tuyết Sơn Phi Hồ ư?
-Ðúng thế! -Bình A Tứ đáp -đó chính là người con trai của Hồ Nhất Ðao đại gia,tên gọi Hồ Phỉ, biệt hiệu là Tuyết Sơn Phi Hồ!
(hết hồi 5)
Tài sản của hoanghai402

  #10  
Old 07-03-2008, 07:12 PM
hoanghai402's Avatar
hoanghai402 hoanghai402 is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: THĂNG LONG THÀNH
Bài gởi: 83
Thời gian online: 1 tuần 4 ngày 5 giờ
Xu: 0
Thanks: 350
Thanked 9 Times in 6 Posts
Hồi 6

Miêu Cô Nương Ðối Diện Hồ Lang


Nghe chuyện một hồi lâu, mọi người càng thấy khâm phục nhân cách của Hồ Nhất Ðao. Ðược biết Tuyết Sơn Phi Hồ là con trai ông ta, trong lòng ai nấy đều dấy lên một tình cảm khác thường. Tuy gặp anh ta chưa chắc đã có lợi gì song bất giác mọi người đều khao khát được gặp một lần, lại nghĩ chủ nhân nơi đây mời khắp lượt các cao thủ để chuẩn bị nghênh chiến thì e rằng bản lĩnh anh chàng đó hẳn cũng không thua kém gì phụ thân anh ta.
Miêu Nhược Lan bỗng hoảng hốt nói:
-Ôi trời! Các cao thủ được chủ nhân nơi này mời đến cùng cha tôi đều chưa lên núi! Nếu bắt gặp Tuyết Sơn Phi Hồ ở dưới núi, ắt sẽ động thủ. Cha tôi không biết Hồ gia là con trai của Hồ Nhất Ðao bá bá, nếu ông giết mất Hồ gia thì biết làm thế nào?
Bình A Tứ cười nhạt:
-Miêu đại hiệp tuy có tiếng khắp thiên hạ không ai địch nổi, nhưng nếu bảo một nhát kiếm giết được Hồ tướng công thì cũng chưa chắc! Khi cười, vết sẹo dài kéo trên cơ thịt lên càng khiến khuôn mặt người này xấu xí, ghê sợ.
Bình A Tứ lại nói:
-Hôm nay Hồ tướng công lên núi, một là do vận rủi của chủ nhân nơi này, hai là muốn tìm Miêu đại hiệp tỉ thí báo thù. Chỉ vì tôi tận mắt thấy mối giao tình thân thiết giữa hai vị Hồ, Miêu năm xưa, biết kẻ mưu hại Hồ đại gia thực ra là người khác. Tôi có khuyên Hồ tướng công đừng làm khó dễ cho Miêu đại hiệp, nhưng tướng công nói chỉ muốn hỏi trực tiếp Miêu đại hiệp cho rõ ràng mà thôi. Sau ở dưới núi, tôi gặp thầy lang Diêm Cơ này. Tuy xa cách đã hơn hai chục năm song tôi vẫn nhận được ông ta. Khi tôi theo lên núi, đốt thừng leo núi, đổ hết lương thực để cho mọi người cùng chết đói nơi này, cũng kể là báo đáp được ơn nghĩa của Hồ đại gia đối với tôi.
Mấy lời đó khiến mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ năm xưa Bảo Thụ tham của hại người, nay phải chết là đáng lắm. Có điều những người khác chẳng liên quan gì tới chuyện đó mà cũng phải bỏ mạng nơi này thì thật oan uổng quá.
Nhìn nét mặt của mọi người, Bảo Thụ biết họ rất oán trách mình, lão bèn đứng lên cầm lấy bảo đao và hộp sắt, nói to:
-Việc hôm nay, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, cùng tìm cách xuống núi thôi.
Còn tên độc ác này...
Nói chưa dứt, bỗng nghe tiếng vỗ cánh, một con bồ câu trắng bay vào đại sảnh,đậu trên bàn. Miêu Nhược Lan mừng rỡ nói:
-A! Con chim đáng yêu quá!
Cô bước tới đưa tay nhẹ nhàng nâng con chim lên, vuốt ve lưng chim. Chợt thấy chân chim buộc một sợi dây, sợi dây từ chân chim thòng ra tận ngoài cửa. Miêu Nhược Lan bèn kéo vào. Sợi dây rất dài, kéo một thôi một hồi mà vẫn chưa thấy đầu dây. Cô nảy ý tò mò, luôn tay kéo dây, nhưng sợi dây này dường như dài vô tận. Ðiền Thanh Văn bước tới kéo giúp. Hai người thu về mấy chục trượng, bỗng thấy dây hơi nằng nặng, xem ra đầu dây phía kia có buộc vật gì đó.
Vu quản gia mừng quá, kêu to:
-Chúng ta được cứu rồi!
Mọi người đồng thanh hỏi:
-Sao cơ?
Vu quản gia đáp:
-Con bồ câu này do bản trang nuôi, dùng để báo tin giữa trên núi và dưới núi.
Nhất định là anh em bản trang ở dưới núi phát hiện dây leo núi đã bị chặt đứt nên thả chim cho bay lên, đầu dây buộc một vật gì đó để cứu chúng ta xuống núi đây.
Nghe câu đó, Bình A Tứ biến sắc mặt, gầm lên một tiếng rồi nhào tới toan giật đứt sợi dây.
Ân Cát đứng gần nhào người ra chận ngay trước mặt, hai tay gạt ngã Bình A Tứ.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Cô nương, cẩn thận không thì đứt dây đấy!
Miêu Nhược Lan gật đầu. Sợi dây tuy mảnh, nhưng rất bền chắc, hai người càng kéo càng thấy nặng tay mà sợi dây không hề đứt. Kéo một lát nữa, Miêu Nhược Lan đã cảm thấy mỏi, Ðào Tử An nói:
-Miêu cô nương nghỉ đi, để tôi kéo cho.
Nói rồi, Tử An bước tới đón lấy sợi dây.
Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ, Lưu Nguyên Hạc và mấy người nữa đã chạy ra ngoài cửa từ nãy để xem sợi dây kia buộc vật gì cứu họ.
Ðào Tử An và Ðiền Thanh Văn kéo một lúc nữa thì chợt nghe ngoài cửa có tiếng reo mừng ầm ĩ. Tay họ lập tức nhẹ bỗng, xem chừng vật buộc kia đã được kéo lên. Mọi người còn trong sảnh kéo hết ra ngoài. Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ đứng ở mép vực, tay họ luân phiên lên xuống bận rộn khác thường, thì ra vẫn còn đang kéo dây. Sợi dây mảnh nối với một sợi dây to hơn, khi sợi dây to hơn thu hết thì kéo theo một dây chão cực lớn.
Mọi người reo hò rồi cùng xúm tay buộc sợi chão vào hai cây thông lớn bên bờ vực.
Lưu Nguyên Hạc nói:
-Chúng ta xuống thôi! Ðể tôi xuống trước!
Nói rồi hai tay nắm lấy chão, toan thả mình xuống núi. Ðào Bách Tuế vội quát:
-Hãy khoan! Sao lại là ngươi xuống trước? Ai biết ngươi xuống tới dưới ấy sẽ làm cái trò quỷ quái gì?
Lưu Nguyên Hạc vặn lại:
-Nếu đúng như người lời ngươi nói thì sau nào?
Ðào Bách Tuế sững người ra, thầm nghĩ người nào trên đỉnh núi này cũng không công tâm, chẳng ai tin ai, bất kể ai xuống trước thì người xuống sau đều không yên lòng. Lão bị hỏi độp một câu như vậy thật cũng khó trả lời.
Tào Vân Kỳ nói:
-Ðể mấy cô nương xuống trước, còn nam tử chúng ta phải rút thăm để phân định trước sau.
Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
-Thế này nhé! Thiên Long Môn, ẩm Mã Xuyên trại cùng Bình Thông tiêu cục chúng tôi, mỗi phái luôn phiên xuống núi một người. Mọi người cùng giám sát thì chẳng còn sợ ai gian trá được nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Thế cũng được! Bảo Thụ đại sư, xin ngài trả lại chiếc hộp sắt đi.
Nói rồi bước sấn tới, chìa tay về phía Bảo Thụ.
Lúc đầu, mọi người chỉ lo đến sống chết an nguy, bây giờ đại nạn đã qua mới lại nghĩ đến cái của báu đó. Vốn dĩ mọi người chỉ biết chiếc hộp sắt là báu vật khác thường của giới võ lâm, nhưng rút cục khác thường ở điểm nào, quý báu đến mức nào họ đều không biết. Ðến khi biết đấy là thanh quân đao của Sấm Vương để lại thì đã thấy vật này không phải tầm thường, lại nghe Bình A Tứ nói thanh quân đao ấy có liên quan đến kho báu lớn của Sấm Vương, mọi người mới càng nóng lòng,đỏ mắt. Các cụ già kháo nhau rằng sau khi Sấm Vương tiến vào kinh thành, các đại
tướng dưới quyền là bọn Lưu Tông Mẫn vơ vét các nhà đại thần tôn thất triều Minh, của báu lấy được chất cao như núi; chẳng bao lâu bị đánh bại, từ đấy số của báu này cùng kho tàng nhiều năm của hoàng thất trong cung nhà Minh đều biệt vô tung tích. Nếu nhờ thanh đao và chiếc hộp sắt mà đào được kho báu thì trên đời này còn có của cải nào sánh ngang được nữa?
Bảo Thụ cười nhạt:
-Thiên Long Môn các ngươi có tài đức gì mà đòi độc chiếm bảo đao? Thanh đao này của Thiên Long Môn đã nắm giữ hơn một trăm năm rồi, bây giờ cũng nên đổi chủ đi thôi!
Nguyễn Sĩ Trung ngạc nhiên, tia mắt dữ dằn. Ân Cát, Tào Vân Kì không hẹn mà cùng sấn tới một bước, đứng bên cạnh Nguyễn Sĩ Trung. Bảo Thụ ngứa mắt nói:
-Chư huynh đệ muốn giở võ phải không? Nhớ năm nào Thiên Long Môn nhờ đao mà được của báu, nay lại vì đao mà mất của báu, như vậy cũng công bằng lắm mà!
Bọn Nguyễn Sĩ Trung cả giận, chỉ muốn nhào tới băm chém lão sư già này thành mấy khúc rồi đoạt lấy bảo đao, song vì sợ võ công cao siêu của lão nên không dám động thủ. Trước ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm của lão, họ đành phải lui lại mấy bước.
Trong một lúc trên đỉnh núi tuyết yên lặng như tờ, chợt Cầm Nhi, cô hầu gái của Miêu Nhược Lan chỉ xuống núi, kêu lên:
-Tiểu thư trông kìa, hình như có người đang lên!
Mọi người hốt hoảng, nghĩ thầm: "Sao chúng ta chưa xuống núi mà lại có người lên thế nhỉ?". Họ ùa cả tới bên mép vực nhìn xuống dưới, chỉ thấy trên sợi dây chão có bóng áo trắng đang leo lên nhanh vun vút. Ðịnh thần nhìn kỹ thì ra là một người đàn ông mặc áo trắng.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Miêu cô nương, phải lệnh tôn không?
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Không phải, cha tôi không bao giờ mặc áo trắng cả.
Trong lúc hai tiểu thư nói chuyện, người mặc áo trắng đã leo tới gần thêm. Vu quản gia gọi to:
-Này, tôn giá là ai đấy?
Chợt nghe lưng chừng núi chợt vang một tràng cười, tiếng cười sang sảng làm chấn động cả hang núi. Trong chốc lát, khắp sườn núi đâu đâu cũng âm vang tiếng cả cười.
Thấy Bảo Thụ tay bưng hộp sắt đứng bên bờ vực, Nguyễn Sĩ Trung khẽ kéo tay Tào Vân Kỳ, chỉ vào lưng Bảo Thụ rồi vai phải nhún lên làm động tác hích. Tào Vân Kỳ hiểu ý, biết sư thúc ra lệnh cho mình hích lão ngã xuống núi, thầm nghĩ tên trọc già này bản lĩnh cao cường đến mấy thì từ đỉnh núi cao vạn trượng ngã xuống,làm sao giữ nổi mạng sống? Hộp sắt với bảo đao có rơi xuống cũng không hỏng,lần sau xuống núi tìm là được. Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ gật đầu với nhau rồi cùng đồng thời giơ chân xông thẳng tới sau lưng Bảo Thụ. Lúc này, Bảo Thụ chỉ
cách mép vực chừng hai gang tay, đang chăm chú nhìn phía dưới núi, không hề biết có người đang đột ngột ám hại ở phía sau.
Ðến khi nghe tiếng chân thì Nguyễn, Tào hai người đã xông tới ngay sau lưng.
Bảo Thụ đang kinh ngạc trước thần thái, thân pháp leo núi của người đàn ông áo trắng thì chợt cảm thấy bị đánh từ đằng sau. Hoảng hốt, trong lúc nguy cấp, lão bèn trổ ngay công phu "Thiết bản kiều", ngả người về bên trái. Công phu "Thiết bản kiều" này vốn là tuyệt chiêu cứu mạng tránh ám khí của kẻ địch. Thường lúc ấy ám khí đến quá nhanh, không kịp vọt lên hoặc tránh sang bên cạnh, đành chỉ gồng người rồi bất thần ngả người ra phía sau để ám khí trượt qua mặt, còn hai chân vẫn bám chắc mặt đất. Công phu càng cao thì lưng càng sát đất, cốt nhất là lên xuống
nhanh, người phải thẳng, như thế gọi là "chân như thép đúc, người thẳng như ván,vươn nghiêng như cầu". Chiêu "Thiết bản kiều" này của Bảo Thụ lại khác với chiêu người ta thường dùng, lão không ngửa người về đằng sau mà lại nghiêng sang trái, hai chân như đóng đinh trên bờ vực, người vượt ra khỏng trống, có đến non nửa người nhô ra khỏi đỉnh núi tuyết phủ.
Nguyễn và Tào chạm được vào lưng Bảo Thụ, đang mừng vì tập kích đúng lúc,chợt thấy vai mình hích tới mà trước mắt không hề có chỗ chịu lực. Nguyễn Sĩ Trung võ công tinh diệu, vội vàng lộn một vòng lăn sang bên cạnh, còn Tào Vân Kỳ không kịp thu chân, cứ xông thẳng về phía trước nên rơi luôn người xuống dưới núi.
Mọi người hoảng hốt kêu lên. Bảo Thụ vươn lưng đứng thẳng lại, miệng nói:
-A di đà Phật! Tội nghiệp, tội nghiệp!
Lưng lão đã toát mồ hôi lạnh. Ðiền Thanh Văn sợ hãi, sắp ngất xỉu xuống đất.
Ðào Tử An đứng bên cạnh vội đưa tay đỡ.
Nhìn theo thân hình cao lớn của Tào Vân Kỳ lao thẳng xuống dưới, không ai là không kêu thất thanh, chỉ chốc lát thân hình gã sẽ nát vụn. Bỗng thấy người áo trắng quặp chặt sợi chão bằng hai chân, tay trái ấn vào vách đá, sợi chão cùng với thân hình anh ta như đánh đu, bay nhanh về phía Tào Vân Kỳ.
Lúc này, thời cơ và sức vận ra đều đúng độ. Người áo trắng vươn tay phải túm ngay được lưng áo Tào Vân Kỳ. Ngờ đâu, gã quá nặng, thế rơi rất nhanh, chỉ nghe soạt một tiếng, áo rách toạt, gã lại lao xuống. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc,người áo trắng vươn mình giơ tay, nắm ngay được chân bên phải của Tào Vân Kỳ.
Nhưng hai người vẫn rơi nhanh, thân hình họ càng thấy nhỏ dần, sau mấy chục trượng thì càng rơi nhanh hơn. Người áo trắng dù có võ công cao đến mấy thì sức của hai chân cũng không quặc nổi sợi chão, xem ra chỉ có buông Tào Vân Kỳ thì mới giữ được mạng sống. Trong lúc mọi người đầu ù mắt hoa, bỗng người áo trắng vung tay phải, quăng Tào Vân Kỳ về phía sợi chão.
Tào Vân Kỳ tuy hồn vía lên mây nhưng hai tay chạm vào sợi chão thì lập tức túm chặt ngay lấy. Những ai sắp chết thì dù có vớ được cọng cỏ rác cũng sẽ nắm giữ thật chắc, đến chết cũng không chịu buông, đó là do bản năng cầu sống. Lúc này,Tào Vân Kỳ cũng vậy. Võ công của gã vốn không đủ để nắm chắc lấy sợi chão,tránh cho hai người khỏi phải rơi nhanh, nhưng không biết sức lực ở đâu mà phút chốc tăng lên đến mấy lần. Sợi chão lạng đi, mang theo hai người bay sang phía trái. Người áo trắng vận sức ở lưng, lộn người lại là tay trái đã nắm được chão. Anh
ta nói vài câu gì đó bên tai Tào Vân Kỳ rồi vỗ vỗ vào lưng gã. Hồn vía còn đang trên mây nhưng Tào Vân Kỳ vừa nghe mấy câu đó chẳng khác nào tiếp được thánh chỉ, vội vàng hai tay luôn phiên nắm chão leo lên.
Ðứng bên bờ vực, mọi người tận mắt thấy cảnh nguy hiểm táng đởm kinh hồn đó, miệng ai nấy há hốc. Tào Vân Kỳ leo được đến bờ vực, Ân Cát và Chu Vân Dương lao ngay tới túm chặt hai tay gã kéo lên, rồi cùng hỏi:
-Người áo trắng là ai vây?
Tào Vân Kỳ thở hổn hển đáp:
-Vị anh hùng đó bảo tôi lên báo rằng... Tuyết Sơn Phi Hồ đã tới!
Khí thế của người áo trắng khiến mọi người đều hoảng, đều sững người ra một lúc. Chợt có ai đó kêu lên "ối chao" rồi chạy vội vào trong trang trại.
Chẳng còn kịp nghĩ ngợi, mọi người cùng chạy qua cổng. Ðào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc, Nguyễn Sĩ Trung cả ba cùng lúc tới cổng, người nọ chen đẩy người kia tranh nhau vào trước. Tào Vân Kỳ nhanh chân đến đỡ Ðiền Thanh Văn, trong lúc vội vàng túi bụi đó, gã cùng Ðào Tử An còn kịp choảng nhau mấy quả. Sau một hồi náo loạn, người ngoài cổng đã chạy vào hết, chẳng còn một ai. Vu quản gia và Cầm Nhi đỡ Miêu Nhược Lan ào sau cùng, thì vừa vặn cổng đóng.
Thấy Hùng Nguyên Hiến đóng cổng. Ân Cát lập tức mang gióng cổng ra tra ngay vào.
Ðào Bách Tuế còn sợ chưa đủ chắc, lấy thêm cột chống chèn thật chặt.
Lúc này, Ðiền Thanh Văn đã tỉnh, nói:
-Cái tên Tuyết Sơn Phi Hồ đó vốn không quen biết gì ta, việc gì phải sợ hắn?
Nguyễn Sĩ Trung lừ mắt:
-Vốn không quen biết à? Hừm, cha cô tử thù với cha hắn, hắn chịu tha cho cô chắc?
Lưu Nguyên Hạc cũng nói:
-Chúng ta làm Bình A Tứ bị thương, tên Tuyết Sơn Phi Hồ ấy chịu bỏ qua sao?
Ðào Tử An bỗng chỉ tay ra phía đầu tường, nói:
-Chúng ta chặn chắc cổng, hắn lại không thể vào bằng lối kia à?
Nguyễn Sĩ Trung đáp:
-Ðúng thế! Ðào thế huynh, hãy lên trên cao canh chừng!
Ðào Tử An cười nhạt:
-Nguyễn sư thúc võ công cao, xin mời hãy lên trên đó!
Lời vừa dứt, bỗng nghe rắc rắc mấy tiếng cực lớn, cột chống và gióng cổng đều gãy tan, rồi ầm một tiếng nữa, hai cánh cổng lớn đã bị đẩy tung. Mọi người sợ hãi kêu to, ùa chạy cả vào sân trong, chỉ một loáng trên đại sảnh đã chẳng còn một ai.
Khi thoạt nghe Bình A Tứ kể những chuyện trước kia của Hồ Nhất Ðao, mọi người đều muốn gặp người con còn sống sót của ông, nhưng khi chính Tuyết Sơn Phi Hồ thực sự lên núi, tận mắt thấy thân thủ của chàng siêu việt đến thế, ai nấy đều bất giác thấy ớn, lại thấy trong bọn có người bỏ chạy, hù nhau sợ hãi, anh sợ tôi càng sợ, bao nhiêu hào khí hùng phong thường ngày đều tan biến lên trời xanh tất cả.
Vu quản gia toan tìm Bảo Thụ ra chống chọi lại, nhưng nhìn quanh chẳng thấy Bảo Thụ đâu, không biết lão núp vào xó nào, thầm nghĩ "Chủ nhân giao mọi việc trên trang trại cho ta, thôi thì dù phải liều chết cũng bảo toàn cho được thể diện của chủ nhân". Quản gia bèn khẽ bảo Miêu Nhược Lan:
-Cô nương mau vào buồng phu nhân, cùng phu nhân tránh vào mật thất dưới hầm, đừng để cho ai thấy. Bọn người trên này chẳng ai có tâm địa tốt cả, để tôi ra gặp Tuyết Sơn Phi Hồ.
Miêu Nhược Lan liếc nhìn Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn, nói:
-Tôi đưa hai vị này cùng xuống hầm nhé!
Vu quản gia vội vàng lắc đầu, nói nhỏ:
-Chớ, hai người đàn bà ấy chắc gì đã là người tốt. Cô nương và phu nhân đều là bậc thiên kim, xin đừng để ý đến người khác.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu anh chàng họ Hồ đó muốn giết người đốt trại, ông ngăn cản được sao?
Vu quản gia đưa tay chạm vào cán thanh đao giắt ở lưng, buồn bã đáp:
-Hôm nay là ngày Vu mỗ lấy cái chết để báo ơn chủ. Chỉ cần phu nhân và cô nương bình an vô sự là Vu mỗ không hổ thẹn với chủ nhân rồi.
Miêu Nhược Lan nghĩ ngợi giây lát, nói:
-Tôi và ông cùng ra gặp anh chàng họ Hồ.
Vu quản gia cuống lên, cáu:
-Miêu cô nương, cô nương không nghe lão hoà thượng đó nói rằng lệnh tôn
Miêu đại hiệp và hắn có mối thù giết cha đó sao! Nếu cô nương không chịu tránh,rơi vào tay hắn thì... thì...
Miêu Nhược Lan cắt ngang:
-Từ khi tôi nghe cha tôi kể chuyện cũ của Hồ bá bá, tôi luôn mong cho con ông còn sống trên đời và cũng mong thế nào cũng có ngày gặp mặt. Việc gặp hôm nay tuy nguy hiểm nhưng nếu từ đây không còn được gặp mặt nhau, tôi sẽ ôm hận suốt đời.
Mấy lời này tuy ôn hoà hiền dịu song ý tứ thì rất kiên định. Vu quản gia biết không thể trái lời, thầm nghĩ:
-Cô gái này, sức chẳng đủ trói gà mà sao dũng cảm kiên quyết đến thế . Thật không hổ thẹn là con gái Miêu đại hiệp Kim Diện Phật! Những là "Trấn Quan Ðông", "Uy Chấn Thiên Nam", danh hiệu kiêu đấy, nhưng so với Miêu cô nương nếu bọn họ không xấu hổ mà chết thì cũng là bọn mặt dày mày dạn quá lắm!
Vu quản gia vốn cũng sợ hãi nhưng thấy Miêu Nhược Lan thần sắc điềm tĩnh thì nỗi sợ giảm đi liền. Ông ta buộc chặt lại dây lưng, đặt hai chén có nắp bằng sứ hoa xanh lên khay trà, rót nước trà vào rồi đi ra ngoài sảnh.
Miêu Nhược Lan theo sau.
Vu quản gia bước ra khỏi sảnh thấy người áo trắng nghoảnh mặt ra phía ngoài,hai tay chống nạnh, ngửa mặt nhìn trời, bèn nói to:
-Hồ đại gia xa xôi đến đây, chúng tôi không nghênh đón từ trước, xin thứ lỗi.
Nói xong, dâng trà tới. Người áo trắng nghe tiếng Vu quản gia liền quay đầu lại,nhìn ngay thấy Miêu Nhược Lan.
Cô tiểu thư xinh xắn thanh nhã này có vẻ yếu ớt mà yêu kiều, mắt trong như sao xa, ngượng ngùng e thẹn đứng đó khiến chàng bất giác ngẩn người.
Miêu Nhược Lan hấy người đó râu quai nón đâm tua tủa, tóc rậm nhưng không tết bím, để lật ngang dựng ngược như cỏ rối thì cũng kinh ngạc. Từ nhỏ cô đã có tình cảm thương xót tiếc nuối cho con trai Hồ Nhất Ðao; mỗi khi nghĩ đến đều thương y bị người ta bắt nạt ngược đãi đủ điều. Nay mới được gặp mặt, cô không ngờ y lại là một trang nam tử mạnh mẽ dữ dằn như vậy, trong lòng không khỏi vừa kinh hoàng, vừa thất vọng. Song cô lại nghĩ thầm: "Hồ Nhất Ðao bá bá dung mạo oai nghiêm, con trai bá bá sinh ra cũng phải như vậy, có gì là lạ? Chỉ vì lâu nay mình nghĩ nhầm về y mà thôi".
Nghĩ vậy, cô liền bước tới cúi chào, miệng khẽ nói:
-Tướng công vạn phúc!
Hồ Phỉ với biệt hiệu Tuyết Sơn Phi Hồ lần này đến lên núi cầm chắc sẽ quyết đấu một trận sống mái với các cao thủ tụ tập trên đỉnh núi, nào ngờ người trên trang trại ra gặp lại là một cô tiểu thư xinh đẹp, chàng bất giác ngạc nhiên thầm nghĩ "Cứ để xem họ giở quỷ kế gì!". Ðoạn cũng vái chào lại, nói:
-Tại hạ Hồ Phỉ xin chào! Dám hỏi quý tính cao danh của cô nương?
Vu quản gia đưa mắt ra hiệu cho Miêu Nhược Lan, ngầm bảo cô bịa ra cái tên giả, chớ có để lộ mình là con gái Miêu Nhân Phượng. Nào ngờ Miêu Nhược Lan dường như không hiểu ý, nói luôn:
-Hồ thế huynh, chúng ta thuộc hai họ có mối giao tình nhiều đời nay, tiếc là chưa từng gặp mặt nhau bao giờ đấy thôi. Tôi họ Miêu.
Hồ Phỉ thấy ớn lạnh trong lòng nhưng không hề để lộ ra nét mặt, hỏi tiếp:
-Cô nương là thế nào với Miêu đại hiệp Kim Diện Phật?
Ðứng bên cạnh Miêu Nhược Lan, Vu quản gia cuống lên, vội giật vạt áo cô,song cô vẫn không để ý, đáp:
-Kim Diện Phật là gia phụ của tôi.
Hồ Phỉ giật mình, nghĩ thầm "thì ra là cô ta", miệng nói:
-Cớ sao lệnh tôn không ra tương kiến?
Vu quản gia sờ tay vào cán đao, sợ Hồ Phỉ xuất thủ mưu hại. Khi liếc mắt nhìn Miêu Nhược Lan, ông thấy thần sắc cô vẫn như thường, bất giác than thầm: "Cô gái này nhỏ tuổi không hiểu biết gì thật! Ðứng trước mặt là kẻ có mối thù cha bị giết, thế mà cô ta vẫn chẳng biết trời cao đất dày chi hết, nói toạc chân tướng của mình!
Lại nghe cô đáp:
-Cha tôi chưa lên núi. Nếu ông biết Hồ thế huynh là con trai kẻ thù thì dù có việc cần kíp lớn như trời cũng gác lại để tới đây gặp mặt.
Hồ Phỉ lấy làm lạ, hỏi:
-Cô nương biết thân thế của tại hạ mà lệnh tôn lại không biết là cớ làm sao?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Cũng chỉ vừa nghe lệnh hữu họ Bình nói mới biết đó thôi!
Hồ Phỉ nói:
-A, thì ra Bình Tứ thúc thúc đến đây rồi. Ông ấy đâu?
Vu quản gia sững người, liếc nhìn quanh đại sảnh nhưng không thấy bóng dáng Bình A Tứ đâu. Vết máu tươi loang trên đất vẫn chưa khô, ông thầm nghĩ: "Từ lúc chim bồ câu tha dây lên, ai nấy chỉ nghĩ đến việc xuống núi để thoát chết nên quên bẵng con người ấy. Hắn là ân nhân cứu mạng của Hồ Phỉ, nếu hắn có chuyện gì bất trắc, hẳn tai vạ càng lớn hơn mất thôi!"
Thấy Vu quản gia nhìn vết máu tươi trên mặt đất rồi tái mặt đi, Hồ Phỉ quát to:
-Máu của Bình thúc thúc ta có phải không?
-Phải ạ! -Vu quản gia không dám nói dối, đành lên tiếng đáp.
Hồ Phỉ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ Bình A Tứ nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn,tình cảm sâu nặng như cha đẻ, lẽ nào nghe thấy thế chẳng thất kinh? Bèn nhảy vọt đến trước mặt, giơ tay nắm chặt lấy cánh tay phải Vu quản gia, nghiêm giọng quát:
-Thúc thúc ta ở đâu? Ra... sao rồi?
Vu quản gia cảm thấy đau đớn khác thường, chẳng khác gì hai gọng kìm càng kẹp càng chặt, đành nghiến răng gắng sức chịu đau, mồ hôi trán rỉ ra to bằng hạt đậu, nhưng không nói được lời nào.
Miêu Nhược Lan từ tốn nói:
-Hồ thế huynh bất tất phải nổi nóng, Bình thúc vẫn bình yên ở trong kia!
Nói xong, cô chỉ tay vào căn buồng mé tây, Hồ Phỉ buông cánh tay Vu quản gia rồ i nhún người"bình" một nhát, đá tung cửa phòng đó ra. Thấy Bình A Tứ nằm trên giường thở nặng nhọc, Hồ Phỉ mừng quá gọi:
-Thúc thúc không việc gì chứ?
Từ nãy ở trong buồng, Bình A Tứ đã nghe tiếng Hồ Phỉ, bèn đáp nhỏ:
-Không việc gì đâu, cháu yên tâm!
Hồ Phỉ nhào tới trước mặt, thấy Bình A Tứ mặt vàng như nghệ, hơi thở yếu ớt thì nỗi mừng vừa nãy chuyển ngay thành nỗi lo. Chàng hỏi:
-Làm sao mà thúc thúc bị thương? Vết thương có nặng lắm không?
Bình A Tứ đáp:
-Việc này nói ra dài lắm. Nếu không có Miêu cô nương cứu cho thì đời ta không còn gặp cháu nữa!
Thì ra mọi người thấy chim bồ câu trắng kéo dây lên thì ùa cả ra ngoài sảnh như ong vỡ tổ. Miêu Nhược Lan thừa cơ, cùng Cầm Nhi vực Bình A Tứ vào căn phòng mé Tây. Sau đó, Bảo Thụ toan hại tính mạng Bình A Tứ song tìm không thấy và tình thế khẩn cấp chẳng kịp tìm kĩ, nhờ đó Bình A Tứ mới được bảo toàn.
Hồ Phỉ gật đầu, lấy từ trong túi ra một viên thuốc màu đỏ, bỏ vào miệng Bình A Tứ, nói:
-Thúc thúc hãy uỗng viên thuốc trị thương này.
Thấy Bình A Tứ đã nuốt viên thuốc, Hồ Phỉ mới yên tâm trở ra ngoài sảnh vái dài Miêu Nhược Lan một cái, nói:
-Ða tạ cô nương đã cứu mạng thúc thúc tôi.
Miêu Nhược Lan vội vái đáp lễ, nói:
-Bình thúc thúc là người nhiệt thành, tiểu muội lấy làm khâm phục. Chút công nhỏ đó có gì đáng nhắc tới đâu?
Hồ Phỉ nói:
-Sống chết là việc lớn, sao lại có thể là công nhỏ được? Tại hạ cảm kích vô cùng.
Miêu Nhược Lan thấy dáng vẻ chàng thô kệch, song nói năng rất nho nhã bèn nói:
-Hồ thế huynh từ xa đến đâu mà trang trại lại không có gì khoản đãi. Cầm Nhi,mang rượu ra đây!
Hồ Phỉ nói:
-Chủ nhân nơi này có hẹn sẽ gặp vào chiều nay, sao đến lúc này vẫn còn chưa ra mắt?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Chủ nhân vì có việc gấp phải xuống núi, có thể giữa đường gặp chuyện gì đó không kịp trở về nên lỡ hẹn với thế huynh, tiểu muội xin tạ lỗi trước.
Thấy nàng ứng đối phải phép, Hồ Phỉ càng lấy làm lạ, thầm nghĩ: "Họ Miêu,Phạm, Ðiền xưa nay vẫn cho là lắm nhân tài, làm sao bọn nam tử đều núp phía sau để cho cô thiếu nữ chân yếu tay mềm như thế này ra chống đỡ? Cô gái lại tỏ ra không hề sợ ta, lẽ nào cô ta võ nghệ cao cường mà cố ý giấu kỹ không để lộ ra?".
Nghĩ tới đây, thấy Cầm Nhi tay đỡ cái khay gỗ, trên khay là một hồ rượu lớn và một cốc uống rượu. Cầm Nhi tay trái đỡ khay, tay phải rót rượu ra cốc, tươi cười nói:
-Hồ tướng công, gà vịt thịt cá cùng rau quả trên núi đều bị Bình thúc thúc của ngài đổ đi hết rồi. Xin lỗi nhé, đành mời ngài chén rượu suông này vậy!
Hồ Phỉ thấy cái khay vừa vặn ở giữa chàng và Miêu Nhược Lan, lập tức giơ tay trái khẽ đẩy mép khay, cái khay xô thẳng vào vai Miêu Nhược Lan. Cú đổ này tuy tựa hồ xuất thủ rất nhẹ mà thực là mượn sức đánh người. Người bị đánh nếu không biết mà chống đỡ thì chẳng khác nào bị binh khí sát thương. Miêu Nhược Lan không biết võ nghệ nên chỉ theo lẽ tự nhiên nhún nhường một chút chứ không biết xuất chiêu hoá giải sức mạnh đó, xem ra lần này nàng không tránh khỏi bị thương.
Vu quản gia thất kinh. Tự biết võ công của mình thua kém Hồ Phỉ rất xa, dù có bất chấp tính mạng xông tới cứu viện cũng chẳng được việc gì, đành kêu to:
-Ôi chao!
Chỉ thấy hai ngón tay trái của Hồ Phỉ đã nhanh nhẹn phi thường níu lại cái khay.
Ðộng tác này phối hợp cực chuẩn, mép khay chỉ vừa đủ chạm nhẹ vào áo ngoài của Miêu Nhược Lan thì dừng ngay. Nàng không hề biết rằng chỉ trong nháy mắt nàng đã đi một vòng từ sống tới chết và từ chết trở về cõi sống.
Hồ Phỉ nói:
-Lệnh tôn đi khắp thiên hạ không ai địch nổi, làm sao lại không truyền võ công cho cô nương? Vốn từng nghe trong kiếm môn của Miêu gia, con trai con gái đều được truyền như nhau cơ mà?
Miêu Nhược Lan đáp:
-Cha tôi quyết ý hoá giải mối oán thù nhằng nhịt hơn một trăm năm nay cho nên kiếm pháp của nhà họ Miêu đến cha tôi thì dứt, không còn truyền cho con cháu nữa.
Hồ Phỉ rất ngạc nhiên, tay cầm chén rượu cứ để ngang lưng chừng, lát sau mới đưa lên môi uống rồi nói to:
-Miêu Nhân Phượng, Miêu đại hiệp! Hay lắm, quả là xứng đáng với hai chữ "đại hiệp"!
Miêu Nhược Lan ói:
-Tôi từng nghe cha tôi kể chuyện của lệnh tôn ngày trước. Lúc ấy lệnh đường mời cha tôi uống rượu, người xung quanh đều nói đề phòng trong rượu có thuốc độc. Cha tôi nói: "Hồ Nhất Ðao là anh hùng trong thiên hạ, quang minh lỗi lạc, há chịu giở thủ đoạn đê tiện đó sao?". Hôm nay tiểu muội mời thế huynh uống rượu.
Hồ thế huynh cũng điềm nhiên uống cạn, lẽ nào không sợ người khác ám hại hay sao?
Hồ Phỉ cười, lấy từ trong miệng ra một viên thuốc màu vàng, nói:
-Tiên phụ trúng gian kế của kẻ khác mà chết, nếu tôi không đề phòng chẳng phải ngu ngốc hay sao? Viên thuốc này giải độc rất tốt, chất độc nào cũng không xâm hại được. Có điều vừa nãy nghe cô nương nói, hoá ra lòng dạ tôi mới thực hẹp hòi!
Nói xong, chàng tự rót thêm chén rượu nữa và uống cạn. Miêu Nhược Lan nói:
-Trên núi không có gì để nhắm, thực là xem thường khách. Tiểu muội lượng hẹp, lại không thể bồi tiếp bậc quân tử. Người xưa tìm hứng uống rượu bằng thơ phú, nay tiểu muội có một cây đàn, xin gẩy một khúc mua vui, nhưng chỉ e làm rát tai mắt thôi.
Hồ Phỉ mừng rỡ nói:
-Xin được nghe khúc đàn!
Cầm Nhi không đợi chủ sai bảo đã vào phòng trong ôm ra một cây đàn cổ, đặt lên bàn, lại thay một lò hương mới.
Miêu Nhược Lan buông lơi cổ tay, "tình tang, tình tang" dạo lên mấy tiếng rồi đàn tiếp, sau đó vừa gảy đàn vừa khe khẽ hát:
Ngày sau đại hạn
Miệng khát lưỡi khan
Hôm nay vui vẻ
Ðều cùng hỉ hoan
Trải qua non cao
Cỏ Chi lật ngang
Tiên ông Vương Kiều
Cho thuốc một hoàn
Hát đến đây, tiếng dàn còn vang mà lời lời hát đã dứt.
Hồ Phỉ trải qua bao khổ nạn thời niên thiếu, chỉ biết chuyên tâm luyện võ, hơn hai tuổi mới học chữ nhưng cũng nghe hiểu bài ca cô gái hát hát là khúc Thiện tai hành, một bài hát chủ khách đáp tặng nhau trong yến hội thủa xưa. Nhưng từ đời Hán, Nguỵ trở về sau ít người dạo hát, không ngờ hôm nay lên núi báo thù lại gặp được một việc giàu phong vị cổ xưa đến thế. Trong tám câu nàng hát, bốn câu trước khuyên mời khách tận hứng uống rượu, bốn câu sau chúc tụng khách trường thọ. Vừa nãy, Hồ Phỉ ngậm viên thuốc giải độc trong miệng thì vừa hay trong câu hát cũng có nhắc đến thuốc tiên Linh Chi, như thế là hàm hai nghĩa vậy. Chàng bèn vỗ nhẹ và ngâm theo:
Tiếc tay áo ngắn
Cánh tay lạnh ran
Thẹn không vật lạ
Báo đáp Triệu Tuyên. .
Lời ngâm này có nghĩa chủ nhán ân cần tiếp đón khiến khách tự thẹn không có vật gì xứng báo đáp.
Miêu Nhược Lan nghe chàng đáp lại cũng bằng lời ca trong khúc Thiện tai hành thì rất vui, thầm nghĩ: "Người này văn võ song toàn, nếu cha mình biết Hồ bá bá có người con nối dõi như thế ắt là sung sướng lắm!".
Liền đó nàng hát nối:
Trăng tà, Bắc Ðẩu
Treo ngang lan can
Bạn thân đến cửa
Ðói chẳng kịp ăn
Mấy câu này ý nói tuy trời đã tối, nhưng có khách đến thăm, chủ nhà mừng quá chẳng kịp ăn cơm.
Hồ Phỉ cũng tiếp lời :
Ngày vui vốn ít
Buồn khổ nhiều mà
Lấy gì khuây khỏa
Rượu, đàn, hát ca
Hoài nam tám vị
Vui đạo quên hà
Cưỡi xe sáu rồng
Chơi chốn mây xa
Bốn câu cuối cùng ngỏ ý chúc chủ nhà thành tiên trường thọ, tương ứng với lời chúc lúc đầu của chủ nhà.
Hồ Phỉ ngâm xong nâng chén rượu uống cạn rồi vòng tay đứng chờ.
Miêu Nhược Lan cũng phẩy dây ngừng đàn, đứng lên. Hai người ngoảnh mặt vào nhau mà thi lễ.
Hồ Phỉ đặt chén lên bàn nói:
-Chủ nhân trang trại hôm nay chưa về kịp, vậy ngày mai tôi xin đến thăm.
Nói xong, chàng rảo bước tới căn phòng phía Tây, cõng Bình A Tứ lên lưng, khẽ cúi chào Miêu Nhược Lan rồi ra khỏi đại sảnh. Miêu Nhược Lan ra cổng tiễn thì chỉ thấy lưng chàng thấp thoáng bên bờ vực rồi chàng theo dây tuộc xuống dưới chân núi. Nàng lặng lẽ ngây người nhìn tuyết trắng phủ khắp núi. Cần Nhi lên tiếng nhắc:
-Tiểu thư nghĩ gì thế? Mau vào nhà đi, lạnh đấy!
Miêu Nhược Lan đáp:
-Ta không thấy lạnh.
Thực ra lòng cô đang nghĩ gì cô cũng không biết. Cầm Nhi giục đến lần thứ hai,cô mới chậm rãi trở vào trong phòng. Vào tới đại sảnh, cô thấy mọi người ngồi đầy cả sảnh. Thì ra vừa nãy họ trốn mất tăm mất tích, trong chốc lát không biết lại từ đâu kéo ra. Ai nấy nhao nhao hỏi:
-Hắn đi rồi à?
-Hắn nói những gì?
-Hắn bảo khi nào quay lại?
-Hắn lên núi để báp thù phải không?
-Hắn muốn tìm ai?
Miêu Nhược Lan thầm coi khinh lũ người nhát gan này. Khi nguy cấp ai nấy đều bỏ chạy, để mặc một người con gái yếu đuối như cô đối phó với kẻ địch mạnh, bèn chỉ nhạt nhẽo đáp:
-Vị ấy chẳng nói chi hết!
Bảo Thụ bảo:
-Tôi không tin. Cô đón tiếp hắn một lúc lâu như vậy, thế nào hắn cũng phải nói gì chứ?
Miêu Nhược Lan vốn không ưa những kẻ gây chuyện, nhưng lúc này lòng cô vui sướng, tim cô lâng lâng, cô chỉ muốn trễu cợt người khác. Thấy ai nấy đều tỏ ra háo hức, cô bèn nói:
-Hồ thế huynh bảo lần này lên núi là cốt báo thù cho cha, nhưng tiếc rằng kẻ thù đã lánh mặt. Bây giờ vị ấy chờ ở dưới núi, đợi kẻ thù xuống núi, xuống một người,giết một người, xuống hai người, giết hai người.
Mọi người sợ hãi đều nghĩ: "Trên núi không có lương thực, dưới núi lại có thái tuế hung dữ đợi sẵn, thế thòi biết làm sao đây?".
Miêu Nhược Lan nói:
-Hồ thế huynh có nói số người trên núi ai cũng có thù, chỉ có thù ít hoặc thù nhiều mà thôi. Vị ấy ân oán phân minh, thù nhiều trả nhiều, thù ít trả ít, không bao giờ trả thù nhầm người tốt. Vị ấy có nhờ tôi hỏi chư vị vì sao lại cùng đến nơi giá rét này ngoài quan ải này, phải chăng là muốn hợp sức hại vị ấy?
Trừ Bảo Thụ ra, mọi người đều nhất loạt đáp:
-Trước đây chúng tôi chưa bao giờ nghe danh Tuyết Sơn Phi Hồ thì làm gì có thù oán với y? Càng làm gì có chuyện chung sức hại y?
Miêu Nhược Lan nói với Ðào Bách Tuế:
-Ðào bá bá, cháu có một việc không hiểu rõ, xin được thỉnh giáo.
Ðào Bách Tuế đáp:
-Cô nương cứ nói.
Miêu Nhược Lan nói:
-Vừa nãy, Bình Tứ thúc thúc kể Hồ Nhất Ðao bá bá có nhờ đại sư Bảo Thụ chuyển lại cho cha cháu về ba việc lớn, nhưng cha cháu kể lại đầu đuôi sự việc thì không hề nhắc tới chi tiết này. Bá bá từng nói biết rõ nguyên do, vậy bá bá có thể cho cháu nghe được không?
Ðào Bách Tuế đáp:
-Cô nương dù không hỏi, tôi cũng đang định kể đây!
Rồi chỉ vào bọn Nguyễn Sĩ Trung, Ân Cát, Tào Vân Kỳ, lão lớn tiếng nói:
-Mấy vị anh hùng của Thiên Long Môn này vu cáo cho con tôi giết chết thân gia Ðiền Quy Nông! Hừm, hừm!
Vốn dĩ thường nói lớn, lúc này lão đang tức giận nên tiếng nói vang như lệnh vỡ :
-Tôi sẽ kể câu chuyện đó từ đầu, xin các vị công tâm nhận xét phải trái, đúng sai hộ cho!
Ân Cát nói:
-Hay lắm, hay lắm! Chúng tôi đang muốn thỉnh giáo Ðào trại chủ đây!
(hết hồi 6)
Tài sản của hoanghai402

Ðề tài đã khoá
Ðiều Chỉnh


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™