Trong khi tôi đứng đó ngẫm nghĩ về cái chiến thắng quá toàn vẹn của loài người thì vầng trăng tròn, vàng và đầy đặn đã nhô lên từ vùng ánh sáng phía đông bắc. Bên dưới không còn bóng người qua lại, một con cú bay qua lặng lẽ*, tôi quyết định xuống đồi tìm chỗ ngủ.
"Nhìn xung quanh để định lại phương hướng, mắt tôi chạm vào tòa sư tử nền đồng nổi bật dưới ánh trăng ở phía xa xạ Tôi thấy cây bạch thụ bên cạnh, những bụi trường thanh hiện hình như những bóng đen, và thảm cỏ quen thuộc. Nhìn lại thảm cỏ lần nữa, sự bình thản của tôi biến mất. "Không," tôi tự nói với mình, "đó không thể nào là thảm cỏ cũ."
"Nhưng đó chính là thảm cỏ cũ, vì khuôn mặt trắng bệch của con sư tử đá vẫn nhìn thẳng về phía nó. Qúy vị chắc không thể nào tưởng tượng nổi những ý nghĩ chạy qua đầu tôi lúc ấy. Chiếc máy thời gian đã biến mất!
"Tức thì, đột ngột như vừa bị một vết chém vào mặt, tôi nghĩ đến việc mình bị mất lối trở về, bị kẹt lại vĩnh viễn ở cái thế giới lạ hoắc này. Ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác khủng khiếp. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại, như không thể nào thở nổi. Trong chớp mắt sự sợ hãi khiến tôi chạy như bay xuống đồi. Qúa vội, tôi vấp chân té sướt cả mặt. Nhưng tôi không hề lau những giọt máu rỉ xuống má, xuống cằm, mà lại nhảy dựng lên, chạy tiếp. Vừa chạy tôi vừa lẩm bẩm với chính mình: "Họ đã đẩy nó vào một bụi cây ở đâu đó thôi." Nghĩ là nghĩ vậy, tôi vẫn chạy như điên. Bởi cùng lúc, với một sự chắc chắn thường đi theo cảm giác sợ hãi, tôi biết là tôi đã tự dối mình, tôi biết chiếc máy đã bị dời đến một nơi nào đó ngoài tầm tay với của tôi. Hơi thở của tôi bắt đầu mệt nhọc và đau đớn. Từ đỉnh đồi đến thảm cỏ có lẽ đến hai dặm, tôi cũng chẳng còn trẻ gì, vậy mà chỉ chạy khoảng mười phút đồng hồ đã đến nơi. Vừa chạy tôi vừa mắng chửi mình, tự trách sự tự tin ngu xuẩn đã khiến tôi để lại chiếc máy giữa thảm cỏ trống. Tôi hét thành tiếng lớn, nhưng không có ai trả lời. Vạn vật im lìm trên mặt đất phủ đầy ánh trăng.
"Tới thảm cỏ, nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của tôi trở thành sự thật. Không có một dấu vết gì của chiếc máy. Tôi đứng ngây người, mệt và lạnh trên vùng cỏ bao quanh bởi những bụi cây. Tôi chạy quanh thảm cỏ, rồi đứng phắt lại, vò tai bứt tóc. Ở trên cao, chiếc đầu sư tử trên bệ đồng, trắng toát, lung linh bệnh hoạn dưới ánh trăng hình như mỉm cười thích thú trước hoàn cảnh khốn đốn của tôi.
"Tôi muốn tự trấn an rằng có lẽ những người tương lai nhỏ bé kia đã đưa chiếc máy đến một nơi an toàn dùm tôi, nhưng sự yếu đuối và ngu ngốc của họ khiến tôi phải bỏ ý nghĩ ấy đi. Và đó chính là lý do khiến tôi sợ hãi: bởi như vậy tức là có một thế lực nào khác đã lấy mất chiếc máy thời gian, và tôi không hề biết gì về thế lực ấy. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi tạm yên tâm: trừ trường hợp một thời đại nào đó có phát minh y hệt, chiếc máy chắc chắn chưa bị đẩy vào một khoảng thời gian khác. Lý do là cách gắn những chiếc cần số - mà lát nữa tôi sẽ trình bày với quý vị - khiến chuyện ấy không xảy ra được. Như vậy chiếc máy chỉ bị dời chỗ và dấu kín trong không gian thôi. Nhưng nó bị dấu ở đâu lại là một vấn đề khác.
"Hình như lúc ấy tôi nổi cơn điên. Tôi chạy một cách hung dữ từ bụi cây này đến bụi cây nọ chung quanh tòa sư tử, gây sự sợ hãi cho một con vật màu trắng mà tôi cho là một loài hươu nhỏ. Tôi cũng nhớ rõ lắm; khuya đêm đó, tôi liên tục đấm vào những lùm cây, để mặc cho tay mình chảy máu vì những cành gẫy đâm vào. Rồi, vừa khóc vừa la sảng trong nỗi đớn đau cùng cực, tôi trở lại tòa nhà bằng đá. Căn phòng lớn tối đen, lặng yên, và hoang vắng. Tôi trượt chân trên mặt sàn lồi lõm, ngã nhào vào một chiếc bàn, tưởng muốn gẫy ống quyển. Tôi đốt một que diêm soi đường qua những tấm màn cửa phủ đầy bụi đã tả trước đây.
"Trước mắt tôi là một căn phòng lớn khác, xếp đầy gối và có thật nhiều người tương lai đang ngủ. Chắc chắn họ phải thấy cách xuất hiện lần thứ hai của tôi thật là lạ lùng: phóng ra từ bóng tối, miệng kêu la, tay cầm một que diêm đang cháy. Vì họ đã quên diêm quẹt từ lâu rồi. "Chiếc máy thời gian của tôi đâu?" Tôi vừa gào vừa lay hết người này đến người khác. Hẳn nhiên, họ cho rằng tôi quái đản lắm. Vài người cười rộ, nhưng hầu hết chỉ nhìn tôi thảng thốt. Khi họ đứng lên bao quanh tôi, tôi nghĩ lại thấy mình đã làm một việc hoàn toàn vô ích. Mục đích của tôi là gây sự sợ hãi trong lòng họ; nhưng dựa theo thái độ ban ngày của họ mà xét, tôi cho rằng họ đã quên mọi nỗi sợ hãi từ lâu rồi.
"Tôi vất toẹt que diêm xuống, đẩy một người tình cờ đứng cản đường sang bên, loạng choạng trở lại căn phòng ăn vĩ đại, và bước ra ngoài ánh trăng. Tôi nghe những tiếng kêu hoảng hốt, những tiếng chân vội vàng của họ vọng theo. Tôi không nhớ hết những gì tôi làm trong suốt khoảng thời gian mặt trăng lặng lẽ đi xuyên qua bầu trời. Có lẽ sự mất mát quá bất ngờ đã làm tôi cuồng dại. Tôi tuyệt vọng vì đã bị cắt đứt khỏi thời đại của mình - một con thú lạc trong một thế giới lạ lùng. Tôi biết là tôi đã chạy qua chạy lại, kêu khóc, thống trách thượng đế và số mệnh. Tôi nhớ là trong khi đêm dần đi qua, tôi mệt mỏi lục tìm hết chỗ này đến chỗ khác, xem xét từng đống gạch đá dưới ánh trăng soi, sờ nhằm những sinh vật lạ trong bóng tối; cuối cùng, tôi nằm vật trên mặt đất gần tòa sư tử khóc nức lên trong niềm thống khổ tận cùng, rồi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy đã là một ngày mới, mở mắt ra tôi thấy hai con két nhảy nhót xung quanh trong tầm tay với của tôi.*
"Tôi ngồi lên trong không khí tươi mát của buổi bình minh, cố nhớ lại tại sao mình ở chỗ này, và tại sao mình lại có cảm giác tuyệt vọng tận cùng đến thế. Rồi đầu óc tôi trở thành sáng sủa. Với sự bình thường và hợp lý của ánh sáng ban ngày, tôi bắt đầu có đủ bình tĩnh để trực diện với hoàn cảnh. Tôi thấy rõ sự dại dột của mình đêm hôm trước. "Giả sử trường hợp tệ hại nhất." Tôi tự nhủ. "Giả sử chiếc máy đã mất hẳn, ngay cả bị phá huỷ. Cách hay nhất là mình phải bình tĩnh và kiên nhẫn, làm quen với lề lối của xã hội này, nhớ lại cách chế tạo, tìm cách kiếm vật liệu; như vậy biết đâu mình có thể làm ra một chiếc máy khác." Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của tôi; khó khăn, nhưng vẫn hơn là tuyệt vọng. Vả lại, đây là một thế giới đẹp có nhiều điều lạ lùng đáng khám phá.
"Và có lẽ chiếc máy chỉ bị mang đi đâu đó mà thôi. Dù sao, tôi vẫn phải bình tĩnh và kiên nhẫn để tìm chỗ người ta dấu nó, rồi lấy lại bằng sức mạnh hoặc sự khôn ngoan. Nghĩ thế rồi tôi nhổm chân đứng dậy nhìn quanh, tìm chỗ tắm rửa. Tôi đang mệt, khó chịu, và không lấy gì làm sạch sẽ. Sự tươi mát của buổi bình minh khiến tôi muốn hưởng một sự tươi mát tương tự. Đêm hôm trước, tôi đã đi đến tận cùng của cảm tính. Nghĩ lại, tôi không hiểu tại sao mình có thể có những thái độ và hành động thiếu suy nghĩ đến thế. Tôi xem xét xung quanh thảm cỏ, tốn phí một số thời giờ vô ích hỏi han vài người đi ngang. Không ai hiểu ý nghĩa những cử chỉ làm dấu của tôi; có người đứng nghệch ra, có người tưởng tôi đùa bèn cười đáp lại. Phải cố gắng lắm tôi mới dằn nổi ý muốn tát vào mặt họ vài cái đích đáng. Tôi biết đó là một ý muốn tệ hại, nhưng con quỷ sinh ra từ sự sợ hãi và giận dữ vẫn hoành hành trong tâm trí hoang mang của tôi. Thảm cỏ giúp tôi bình tĩnh lại, vì tôi nhìn thấy trên đó một vệt lõm, khoảng giữa cái bệ của tòa sư tử và nơi hằn những dấu chân do chính tôi tạo ra khi vật lộn với chiếc máy bị lật ngược lúc mới tới thế giới này. Có những dấu khác chứng tỏ chiếc máy bị di chuyển, cùng với vài vết chân lê lết lạ lùng. Những điều này khiến tôi chú ý đến cái bệ của tòa sư tử. Như tôi đã nói, nó bằng đồng thau, nhưng không phải là một khối phẳng, mà được trang trí tỉ mỉ thành hình những khung ở mọi phía. Tôi chạy đến, đập tay vào những khung này và khám phá là cái bệ không đặc, mà rỗng ở bên trong. Xem xét những đường viền một cách kỹ lưỡng, tôi thấy chúng không dính liền vào nhau ở mọi chỗ mà có một số khe ở giữa. Vậy thì đây phải là những cánh cửa. Vì bên ngoài không có nắm đấm, chỗ cầm tay, hoặc lỗ khóa, tất cả có lẽ đều ở phía trong. Mọi việc trở thành rõ ràng. Không cần phải suy nghĩ sâu xa gì, tôi biết ngay chiếc máy thời gian đang ở bên trong cái bệ. Nhưng ai kéo nó vào đó lại là chuyện khác.
"Tôi thấy hai người mặc áo màu cam đi giữa những bụi trường thanh, tới phía dưới những cây táo phủ đầy hoa, rồi hướng về phía tôi. Tôi quay người, cười với họ và ra dấu cho họ đến gần. Khi họ đến nơi, tôi chỉ tay về phía cái bệ đồng, cố cho họ hiểu ý muốn của tôi là mở nó ra. Nhưng chỉ một cử chỉ đầu tiên của tôi đã đủ khiến họ có phản ứng hết sức lạ lùng. Tôi không biết phải làm sao để diễn tả thái độ của họ. Giả sử quý vị làm một cử chỉ vô cùng thiếu lịch sự với một phụ nữ hết sức gia giáo, có lẽ người ấy cũng chỉ phản ứng đến mức như thế. Hai người ấy bỏ đi, như thể vừa bị làm nhục đến mức không thể chịu đựng nổi. Kế tiếp tôi thử một anh chàng mặc đồ trắng, với kết quả (hay hậu quả) y hệt. Có một cái gì đó trong phản ứng của hắn khiến tôi đâm ra hổ thẹn với chính mình. Nhưng, như quý vị biết, tôi cần lấy lại chiếc máy thời gian, nên tôi lại thử ra dấu với hắn một lần nữa. Khi hắn quay lưng đi như hai người lúc nãy, tôi không còn dằn nổi nóng giận. Chạy vài bước tôi đã bắt kịp hắn. Tôi chụp tay vào cổ áo kéo hắn xềnh xệch về phía toà sư tử. Nhưng rồi tôi thấy trên mặt hắn nét kinh hoàng và ghê tởm. Tôi sững sờ buông tay, để mặc hắn chạy đi.
"Vẫn chưa chịu thua, tôi đấm tay thùm thụp vào thành bệ. Bên trong hình như có tiếng động, nói rõ hơn, hình như có tiếng cười vọng ra; nhưng tôi cho là tôi đã nghe lầm. Tôi xuống sông lấy một cục đá lớn, đập mãi vào thành bệ cho đến khi một vòng tròn khắc nổi trên đó bị lõm xuống và những teng đồng vụn lả tả rơi ra. Những người tương lai yếu đuối ở xa hàng dặm chắc còn nghe thấy tiếng đập tuyệt vọng của tôi. Tôi thấy một đám đông đứng trên sườn đồi nhìn tôi bằng những cặp mắt bất lực. Cuối cùng, vì nóng và vì mệt, tôi đành ngồi xuống nhìn cái bệ chăm chăm. Nhưng tâm lý quá tây phương của tôi khiến tôi không thể nhìn lâu. Tôi có thể miệt mài suy nghĩ về một vấn đề nhiều năm trời, nhưng ngồi đợi mà không làm gì cả trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
"Một lát sau tôi đứng dậy, đi một cách vô định giữa những bụi cây về phía sườn đồi. "Phải kiên nhẫn," tôi nói với chính mình. "Nếu mày muốn tìm lại cái máy thì mày có đập móp cái thành đồng đó cũng vô dụng mà thôi. Và nếu người ta muốn trả chiếc máy lại cho mày, thì nó sẽ trở lại với mày khi mày yêu cầu đúng lúc. Đừng cố gắng làm việc vô vọng, vì như vậy mà chỉ hóa điên thôi. Hãy đối diện với thế giới này, học đường lối của nó; cẩn thận, đừng kết luận vội vàng, rồi cuối cùng mày sẽ khám phá ra mọi mấu chốt cần thiết." Đột nhiên tôi nghĩ đến sự ngộ nghĩnh của hoàn cảnh lúc đó: bao nhiêu năm trời nghiên cứu và làm việc nhọc mệt chỉ cốt để đi đến tương lai, rồi khi đã ở tương lai lại phải lo lắng tìm cách trở về hiện tại. Tôi đã tự quàng vào mình cái bẫy phức tạp nhất và khó thoát nhất mà loài người từng chế tạo. Mặc dù nạn nhân chính là tôi, tôi cũng không khỏi thấy buồn cười. Thế là tôi cười lên ha hả.
"Khi trở về tòa nhà cũ, hình như những người tương lai đều tránh né tôi. Có thể tôi tưởng tượng, cũng có thể đây là hậu quả của việc tôi đập vào cái bệ đồng lúc nãy. Dù sao, tôi khá chắc chắn cảm tưởng của mình là đúng. Thận trọng, tôi cũng làm bộ như không để ý đến họ. Một hai ngày sau thì mọi việc trở lại bình thường. Về ngôn ngữ, tôi đạt mọi bước tiến có thể đạt được; ngoài ra tôi cũng làm việc dò xét chỗ này chỗ kia một ít. Nếu tôi không lầm thì tiếng nói của những người tương lai này rất đơn giản, gần như chỉ gồm những danh từ cụ thể và động từ. Có rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có, những từ ngữ cần thiết cho sự diễn tả hoàn cảnh hoặc tình cảm. Hầu hết những câu nói của họ chỉ gồm hai chữ. Nhưng chính vì sự đơn giản đó mà tôi gặp khó khăn trong việc tìm hiểu họ cũng như làm cho họ hiểu mình.
"Tôi đã quyết định tạm quên chiếc máy thời gian, tòa sư tử và cái bệ đồng có cửa đóng kín, cho đến khi sự hiểu biết của tôi giúp tôi đạt mục đích mong muốn một cách tự nhiên. Nhưng, chắc quý vị hiểu, như có trực giác xui khiến, tôi chỉ lẩn quẩn trong một chu vi vài dặm tính từ chỗ đến đầu tiên với chiếc máy thời gian.
"Dựa theo những gì tôi thấy, có lẽ toàn thể địa cầu đều có nét đẹp phong phú như dòng Thames. Leo lên bất cứ ngọn đồi nào, nhìn ra xa tôi đều thấy những lâu đài dinh thự nguy nga, kiến trúc nhiều kiểu khác nhau và được xây cất bằng những vật liệu khác nhau, những đám trường thanh mát mẻ, những cây đầy hoa, những cỏ êm mượt. Đây đó những dòng nước chảy óng ánh như bạc, mặt đất nổi lên thành những ngọn đồi xanh, chạy xa dần, mờ lẫn vào chân trời êm lặng.
"Óc tò mò khiến tôi chú ý đến sự hiện diện của một số giếng tròn, có lẽ khá sâu. Một cái nằm ở trên đường dẫn lên đồi mà tôi đã thấy trong chuyến đi bộ đầu tiên. Như tất cả những cái khác, miệng giếng này được bọc bằng một lớp đồng thau đúc lạ lùng, và được che khỏi nắng mưa bằng một cái nắp nhỏ hình vòng cung. Ngồi cạnh giếng nhìn xuống, tôi chỉ thấy một màu đen, không có ánh nước, không có gì phản chiếu lại, ngay cả khi đốt diêm soi xuống. Nhưng tôi lại nghe một thứ tiếng động ầm ầm ầm như tiếng kêu của một loại máy lớn. Dựa theo chiều của ánh lửa que diêm, tôi khám phá rằng không khí được liên tục hút xuống giếng một cách đều đặn. Tôi vất thử một mẩu giấy nhỏ xuống giếng, thay vì chỉ rơi chậm, mẩu giấy tức thì bị hút nhanh mất dạng.
"Một thời gian sau, tôi tìm ra sự liên quan giữa những chiếc giếng và vài cái cột cao rải rác trên sườn đồi. Trên những cột này thỉnh thoảng lại hiện một gợn không khí như chúng ta thường thấy trên các bãi biển vào những ngày mặt trời chiếu nóng. Gom tất cả mọi dữ kiện, tôi kết luận đây là một hệ thống thông hơi dưới lòng đất vô cùng phức tạp. Nhưng mục đích của nó là gì thì quả là khó đoán. Lúc đầu tôi tưởng đó là hệ thống vệ sinh của những con người tương lai mà tôi đã gặp. Một kết luận khá hiển nhiên, nhưng là một kết luận hoàn toàn sai.
"Phải thú nhận là tôi gần như chẳng học được gì về cống rãnh, phương pháp chuyển vận, hoặc những tiện nghi tương tự khi còn ở thế giới đó. Trong những sách vở dự đoán tương lai, tôi đã đọc rất nhiều chi tiết về kiến trúc nhà cửa, về cách xếp đặt xã hội, vân vân. Nhưng ghi nhận những chi tiết đó bằng óc tưởng tượng thì dễ, mà bằng cách thực sự đối diện lại vô cùng khó khăn. Qúy vị thử nghĩ những câu chuyện do một người da đen ở Trung Phi ghé vội sang Luân Đôn rồi trở lại kể cho bộ lạc của anh ta! Anh ta biết gì về các hãng xe lửa, các phong trào xã hội, về điện thoại, điện tín, về bưu điện, về các hãng gửi đồ? Đó là chúng ta đã vui lòng giải thích mọi việc cho anh ta nghe! Và giả sử anh ta hiểu hết thì cũng chắc gì giải thích nổi cho những người bạn chưa du lịch cùng hiểu hoặc tối thiểu tin là anh ta không nói dối? Còn nữa, hãy nghĩ về cái khoảng cách nhỏ bé giữa anh da đen và người da trắng ở thời đại chúng ta, và cái khoảng cách vô cùng lớn giữa tôi và những người ở thời đại vàng son của tương lai! Tôi cảm nhận được hầu hết những gì tôi không được thấy, và điều đó khiến tôi phần nào thoải mái; nhưng trừ cái cảm tưởng tổng quát của một xã hội siêu tổ chức, tôi e rằng tôi không thể diễn tả cho quý vị hiểu sự khác biệt giữa thời đại chúng ta và thời đại tương lai.
"Chuyện tang tế chẳng hạn, tôi không hề thấy một địa điểm hỏa táng, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của những nấm mộ. Nhưng tôi lại nghĩ, rất có thể các nghĩa địa và nơi hỏa táng đều nằm ngoài khu vực mà tôi biết tới. Đây là một câu hỏi tôi tự đặt với chính mình, và sự tò mò của tôi tạm thời được giải tỏa bằng cách giải thích vừa kể. Điều khiến tôi ngạc nhiên, rồi chú ý, để rồi ngạc nhiên thêm nữa là trong xã hội ở tương lai không hề có người già và người bệnh.
"Tôi phải nhìn nhận thuyết của tôi về một nền "văn minh tự động" và diễn trình thoái hóa của nhân loại chẳng đứng vững được bao lâu. Nhưng tôi không tìm ra cách giải thích nào khác. Tôi xin được trình bày vài khúc mắc. Những tòa lâu đài mà tôi đã vào chỉ là những chung cư vĩ đại để người ta ăn, ở, và ngủ. Tôi không thấy máy móc, không thấy bất cứ một phương tiện nào. Vậy mà những người tương lai này lại có những y phục đẹp mắt cần thỉnh thoảng thay đổi; những đôi sandals của họ, dù sơ sài nhưng vẫn có phần bằng kim loại phải được chế tạo. Đó là chưa kể họ tỏ ra chẳng có một khả năng sáng tạo nào hết. Không có hàng quán, cửa tiệm, nơi thu đồ nhập cảng ở bất cứ đâu. Chỉ có những con người tản bộ trên bờ, tắm gội dưới sông, làm tình như đùa giỡn, ăn trái cây, và ngủ. Tôi chẳng thấy lý do nào để một xã hội như vậy có thể tồn tại.
"Còn chiếc máy thời gian. Tôi không biết ai đã đem nó dấu bên trong cái bệ rỗng của tòa sư tử. Để làm gì? Tôi không thể nghĩ ra. Những chiếc giếng không có nước, những cột thông hơi. Rõ ràng phải có một bí mật nào đó mà tôi chưa biết. Tôi có cảm tưởng - tôi phải trình bày như thế nào nhỉ? Giả sử quý vị gặp một bản văn tự, trên đó có những dòng tiếng Anh giản dị xen giữa là những chữ, những câu mà quý vị chưa từng thấy bao giờ. Vâng, trong ngày thứ ba của cuộc viếng thăm của tôi, đó là cảm tưởng của tôi về cái thế giới của năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một.
"Cũng ngày đó tôi làm quen với một người bạn, có thể tạm gọi như thế. Tôi có mặt trong khi một số người tương lai đang tắm ở một chỗ nước không sâu. Một người trong bọn họ vọp bẻ bị nước cuốn đi. Dòng nước chảy khá nhanh, nhưng không lấy gì là xiết, ngay cả đối với người có khả năng bơi lội thuộc hạng trung bình. Qúy vị có thể hình dung được phần nào mức thụ của động của những con người tương lai khi tôi kể cho quý vị nghe rằng mặc dù kẻ sắp chết đuối la lên cầu cứu, chẳng hề có ai tỏ một thái độ hoặc hành động nào cả. Thấy vậy, tôi vội cởi quần áo ngoài, đi lần ra, kéo người bị nạn vào bờ. Đó là một cô gái. Chỉ xoa nắn một chùt, cô gái trở lại bình thường, và tôi có niềm vui được nhìn thấy cô hồi phục trước khi bỏ đi nơi khác. Vì quá coi thường chủng tộc của cô, tôi không cho rằng cô biết ngỏ lời cám ơn. Nhưng, riêng chuyện này, tôi đã sai lầm.
"Vừa cứu buổi sáng thì buổi chiều tôi gặp lại "nàng" nhỏ bé của tôi - tôi tạm gọi như thế - khi tôi trở về từ một chuyến thăm dò địa hình. Nàng chào tôi bằng những tiếng reo sung sướng và trao cho tôi một vòng hoa. Vòng hoa này rõ ràng đã được kết cho tôi và chỉ cho tôi mà thôi. Hành động của nàng khiến tôi vô cùng xúc động. Có thể tâm thần của tôi đã ở trạng thái tuyệt vọng chăng? Không biết, nhưng tôi cố hết sức tỏ cho nàng biết rằng tôi rất thích món quà tặng của nàng. Một lát sau, chúng tôi đã ngồi cạnh nhau trên một tảng đá, bắt đầu cuộc trò chuyện, không bằng lời lẽ mà gần như chỉ bằng những nụ cười. Sự thân thiện của cô gái gây cho tôi những cảm tưởng y hệt như khi đối diện với một đứa trẻ dễ thương. Chúng tôi trao nhau những đóa hoa. Nàng hôn bàn tay tôi, và tôi hôn bàn tay nàng. Tôi cố diễn tả bằng lời nói, và biết được tên nàng là Weenạ Tôi không hiểu Weena có ý nghĩa gì, nhưng thấy là một cái tên thật thích hợp. Đó là điểm khởi đầu của một tình bạn lạ lùng kéo dài một tuần lễ và rồi chấm dứt, như tôi sẽ kể cho quý vị nghe.
"Nàng y hệt như một đứa bé, luôn luôn muốn ở cạnh tôi, luôn luôn muốn theo tôi từng bước. Trong chuyến đi tiếp đó, tôi cố bước thật nhanh để nàng không theo kịp, nàng quá mệt chỉ biết kêu tôi từ phía sau. Nhưng còn quá nhiều vấn đề phải giải quyết. Tôi tự nhủ, đâu phải mình đến tương lai để có một người tình nhỏ bé. Tuy thế, sự đau khổ của nàng khi bị tôi bỏ rơi thật ghê gớm, những cử chỉ của nàng lúc ấy như điên dại. Vả lại, tôi ngẫm nghĩ, sự tha thiết của nàng dù có gây phiền toái cũng đồng thời là một nguồn an ủi rất lớn cho tôi. Thoạt đầu tôi cho rằng lý do khiến nàng muốn ở cạnh tôi chỉ là một loại tình cảm trẻ con. Khi tôi hiểu rõ sự đau khổ của nàng lúc phải rời xa tôi, cũng như sự quan trọng của nàng đối với tôi thì mọi việc đã quá trễ rồi. Vì, chỉ cần những hành động hết sức yếu đuối và vô vọng mà nàng dành cho tôi đã đủ khiến tôi mỗi lần đến gần tòa sư tử trắng có cảm tưởng gần như mình đang trở về một mái nhà thân yêu. Và vì thế, mỗi lần đi khỏi ngọn đồi tôi đều dõi mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé quen thuộc trong bộ nhất y hai màu trắng và vàng của nàng.
"Chính nhờ nàng mà tôi biết là sự sợ hãi chưa biến mất trên mặt địa cầu. Ban ngày nàng rất bạo dạn, và nàng tin tưởng tôi một cách tuyệt đối. Có lần trong một phút giây không suy nghĩ tôi nhăm mặt cố ý dọa nàng, nàng chỉ cười phá lên đáp lại. Nhưng nàng sợ đêm tối, sợ những bóng mờ, sợ những vật màu đen. Bóng đêm với nàng là cả một mối đe dọa. Tâm lý đặc biệt này khiến tôi phải suy nghĩ và chú ý. Sau đó tôi khám phá rắng mỗi đêm những con người nhỏ bé của tương lai đều ngủ tụ lại với nhau thành nhóm trong những dinh thự lớn. Chỉ cần bước vào thình lình, tay cầm lửa là đủ gây cho họ một cảnh náo loạn đầy sợ hãi. Tôi không hề thấy một người nào ngủ ngoài trời, hoặc ngủ một mình trong nhà khi đêm xuống. Nhưng tôi ngốc quá nên vẫn không hiểu ra bài học của sự sợ hãi ở thế giới tương lai, và mặc dầu Weena tỏ ra rất khổ sở, tôi vẫn nhất định không ngủ chung với những đám đông này.
"Nàng hết sức lo ngại, nhưng mối tình cảm kỳ lạ mà nàng dành cho tôi đã chiến thắng, và trong năm đêm chúng tôi quen nhau, kể cả đêm cuối cùng, nàng ngủ dựa đầu lên tay tôi. Nhưng, mải kể về nàng tôi đã lạc đề mất rồi. Trở lại câu chuyện, hình như ngay cái đêm trước ngày tôi cứu Weena thì phải. Trong giấc ngủ mệt mỏi, tôi nằm mơ thấy mình chết đuối, mặt bị phủ đầy những cánh hoa biển. Giật mình tỉnh dậy, tôi có cảm giác mơ hồ như thấy một con vật màu xam xám vừa chạy khỏi phòng. Tôi cố ngủ lại, nhưng thấy người khó chịu, trăn trở không yên. Lúc ấy trời gần sáng, khoảng thời gian mà vạn vật đều thiếu màu sắc và mơ màng như không có thật dưới mắt con người. Tôi đứng dậy, đi qua căn phòng lớn, ra phía trước tòa lâu đài để nhìn cảnh mặt trời mọc.
"Những tia cuối cùng của mặt trăng đang lặn trộn với ánh sáng yếu ớt của mặt trời sắp lên tạo thành một sắc ma quái. Những bụi cây đen như mực, mặt đất xám ngắt, bầu trời không màu ảm đạm. Trên sườn đồi hình như tôi thấy mạ Đảo mắt qua lại vài lần; quả thật là những bóng trắng. Có đến hai lần, tôi cho rằng mình thấy một con vật trắng, hình dạng như khỉ chạy khá nhanh lên đồi. Một lần, tôi thấy một đám những con vật tương tự đang khiêng một bóng màu đen cạnh những di tích đổ nát. Chúng di chuyển vội vàng, không biết về đâu, nhưng dường như mất dạng gần những bụi cây. Qúy vị phải hiểu lúc ấy trời còn tranh tối tranh sáng. Tôi vẫn còn có cái cảm giác thiếu chắc chắn của một người ngái ngủ. Tôi không tin ở mắt tôi.
"Khi bầu trời phía đông bắt đầu rực rỡ hơn, và ánh sáng của ban ngày đã trao lại màu sắc cho thế giới, tôi quan sát kỹ lại một lần nữa. Nhưng không còn dấu vết gì của những bóng trắng lúc nãy. Phải chăng chúng chỉ là ảo ảnh? "Chắc là ma," tôi tự nhủ "không hiểu họ chết từ bao giờ." Tôi nhớ lại một ý tưởng ngộ nghĩnh của Grant Allen và cười một mình. Ông ta lập luận: nếu mọi thế hệ khi chết đi đều để lại những con ma, thì cuối cùng thế giới sẽ đầy ngập những bóng mạ Theo ý tưởng đó, thì hơn tám trăm ngàn năm nữa (tính từ thời chúng ta) số bóng ma trên thế giới này sẽ nhiều đến mức không ai đếm xuể, vậy nếu thấy bốn con ma một lúc cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng ý tưởng ngộ nghĩnh đó dĩ nhiên không thể làm tôi thỏa mãn. Tôi nghĩ mãi về những bóng trắng suốt buổi sáng, mãi đến khi cứu Weena mới quên chúng đi. Tôi đoán chúng có liên quan đến con vật bị tôi làm cho sợ hãi trong cái đêm tôi điên cuồng tìm chiếc máy thời gian. Weena là một hình ảnh đáng giữ hơn trong tâm tưởng, nhưng số mệnh đã định là những bóng trắng đó sẽ trở thành ám ảnh lớn trong đầu óc tôi sau này.
"Hình như tôi đã cho quý vị biết là khí hậu của thời tương lai vàng son đó nóng bức hơn thời chúng ta rất nhiều. Tôi không hiểu hiện tượng này. Có thể là mặt trời nóng hơn, có thể là trái đất tiến đến gần mặt trời hơn. Theo lẽ thường thì phải đoán là mặt trời sẽ càng ngày càng giảm nhiệt độ. Nhưng người ta, vì không biết tới những thuyết tương tự như của Darwin, quên rằng cuối cùng tất cả mọi hành tinh sẽ lần lượt rơi trở về ngôi sao mẹ của chúng. mỗi lần như vậy, mặt trời sẽ tăng thêm năng lượng. Rất có thể đây đã là số phận của một hành tinh nào đó ở trong khoảng giữa mặt trời và trái đất. Nhưng bất kể vì lý do gì, sự thật vẫn là mặt trời tương lai nóng hơn mặt trời hiện tại của chúng ta.
"Một buổi sáng rất nóng - buổi sáng thứ tư, tôi nghĩ thế. Trong khi đang tìm nơi trốn sức nóng và ánh sáng của mặt trời cạnh đống tàn tích khổng lồ gần tòa lâu đài nơi tôi ăn ngủ, tôi gặp một chuyện lạ lùng. Trong khi đi lần theo những đống vụn gạch đá tôi khám phá một phòng triển lãm hẹp với tất cả mọi cửa sổ, bên hông cũng như ở hai đầu, bị che bởi những tảng đá có lẽ rơi từ trên cao xuống vào một thời xa xưa nào đó. So với ánh nắng chói chan ngoài trời, căn phòng ấy hiện dưới mắt tôi như một chỗ hết sức tối tăm. Tôi luồn theo những chỗ hở dò từng bước đi vào. Sự đổi thay từ ánh sáng vào bóng tối khiến mắt tôi như thấy vô vàn ngôi sao bay nhảy. Đột nhiên, tôi sửng sốt đứng lại. Vì có ánh sáng từ bên ngoài phản chiếu, tôi thấy rõ một đôi mắt đang theo dõi tôi trong bóng tối.
"Lòng tôi rợn lên nỗi sợ hãi của một người bình thường khi đối diện loài thú dữ. Tôi nắm chặt tay nhìn vào đôi mắt ấy mà không dám xoay người. Tôi nghĩ đến ý tưởng trước đây của mình về tình trạng an toàn tuyệt đối mà tôi cho rằng con người tương lai đã đạt tới, và rồi liên tưởng đến sự sợ hãi kỳ lạ của họ đối với bóng đêm. Chế ngự được phần nào sự sợ hãi của mình, tôi vừa bước tới một bước vừa lên tiếng. Tôi phải thú nhận là giọng tôi lúc ấy rất khan và không mấy bình tĩnh. Đưa tay ra phía trước tôi chạm vào một vật mềm. Tức thì đôi mắt sáng kia chuyển sang hướng khác, và một vật màu trắng chạy xẹt ngang tôi. Tôi há hốc miệng, quay đầu nhìn theo thấy một thân hình như khỉ, đầu cúi thấp một cách lạ kỳ, chạy xuyên qua vùng ánh sáng sau lưng tôi. Nó vấp vào một khối cẩm thạch, loạng choạng, nhưng rồi chỉ trong nháy mắt đã lẩn vào khoảng tối dưới một đống gạch đá.
"Những gì tôi ghi nhận dĩ nhiên không được hoàn hảo; nhưng tôi biết đó là một con vật màu trắng xỉn, hai mắt lớn lạ kỳ màu đỏ pha sắc xám, ngoài ra, trên đầu nó có lông dài màu vàng hoe, và phía sau lưng cũng thế. Nhưng, như tôi đã kể, nó chạy nhanh quá nên tôi không thể nào nhìn rỗ. Tôi cũng không chắc là nó chạy bằng cả hai tay hai chân, hay là chỉ để khuỷu tay quá gần mặt đất. Một chút phân vân, tôi theo nó đến đống gạch đá thứ nhì. Có một lúc tôi mất dấu nó; nhưng, lần mò làm sao tôi lại đến cạnh một cái giếng bị che phân nửa bởi một cái cột sập đổ lên. Loại giếng mà tôi đã kể cho quý vị nghe. Một ý nghĩ đột ngột đến với tôi. Có thể nào con vật đó đã biến xuống giếng không? Tôi đốt một que diêm, nhìn xuống. Tôi thấy một bóng dáng nhỏ, màu trắng, với đôi mắt to và sáng vừa chăm chú nhìn tôi vừa tuột xuống thoăn thoắt. Tôi rùng mình. Bóng dáng ấy quá giống một con nhện hình người đang rút vào lòng đất. Đó là lần đầu tiên tôi thấy những thanh kim loại nằm ngang tạo thành một cái thang xuôi theo thành giếng. Ngọn lửa của que diêm cháy vào tay tôi và tắt ngúm khi tôi buông nó ra. Khi tôi đốt que diêm khác, con quái vật nhỏ bé đã biến mất dạng.
"Tôi không nhớ tôi đã chăm chăm nhìn xuống lòng giếng đó bao lâu, và phải mất bao lâu tôi mới thuyết phục được chính mình rằng con vật tôi thấy chính là một con người. Nhưng sự thật dần trở thành sáng tỏ: nhân loại không còn là một, mà đã tách thành hai loài khác nhau. Những con cháu đẹp đẽ của tôi ở thế giới bên trên không phải là hậu duệ duy nhất của thế hệ chúng ta: mà con vật trắng bệch, kinh tởm của bóng đêm đã chạy trước mắt tôi cũng là truyền nhân của bao nhiêu niên kỷ loài người.
"Tôi nghĩ tới những cây cột lung linh ánh không khí và giả thuyết của tôi về một hệ thống thông hơi ngầm dưới đất. Tôi bắt đầu nghi ngờ công dụng đích thực của những cây cột này. Tôi tự hỏi, loài người giống khỉ kia đóng vai trò gì trong giả thuyết của tôi về một hệ thống xã hội tuyệt đối quân bằng. Loài ấy liên quan thế nào với những người sống trên mặt đất? Những gì được ẩn dấu dưới đáy giếng kiả Tôi ngồi bên cạnh giếng tự nhủ rằng chẳng có gì để sợ hãi, rằng tôi phải xuống đáy giếng để tìm ra cách giải quyết tình trạng khó khăn của tôi. Nó vậy chứ tôi không sợ sao được. Trong khi tôi đang phân vân, hai người trên mặt đất chạy ngang, một nam một nữ. Họ đang đuổi nhau trong một trò chơi tình ái. Người nam vừa chạy vừa ném những bông hoa về phía người nữ đằng trước anh ta.
"Họ tỏ ra sợ sệt khi thấy tôi tì tay lên cây cột ngang miệng giếng, chăm chăm nhìn xuống dưới. Hiển nhiên việc xem xét những chiếc giếng bị coi là không thể chấp nhận được đối với thế giới này, vì khi tôi chỉ vào cái giếng và cố đặt một câu hỏi bằng ngôn ngữ của họ, cả hai vẫn giữ nét sợ sệt như cũ, và làm như muốn bỏ đi nơi khác. Nhưng họ thích que diêm đang cháy mà tôi cầm trên taỵ Thấy vậy, tôi đốt vài que diêm nữa để giữ chân họ và tìm cách hỏi họ một lần nữa về cái giếng, nhưng vẫn vô ích. Tôi đành để họ đi, định bụng sẽ về hỏi Weena xem nàng có thể cho tôi biết thêm chút nào không. Dù sao, tôi đang trải qua một cuộc cách mạng suy tư với những ước đoán và cảm tưởng khác hẳn lúc đầu. Tôi đã tìm ra mấu chốt của sự liên quan giữa những chiếc giếng và những cột thông hơi với cái bí mật của những bóng mạ Đó là chưa nói đến những cánh cửa bằng đồng và số phận của chiếc máy thời gian! Đồng thời, tôi cũng bắt đầu mường tượng ra lời giải của bài toán kinh tế tương lai đã từng khiến tôi phải điên đầu.
"Đây là quan điểm mới của tôi. Hiển nhiên, loài người thứ hai sống dưới lòng đất. Có ba bằng cớ khiến tôi kết luận sự xuất hiện hiếm hoi của họ trên mặt đất là hậu quả bình thường của những sinh vật quen sống trong bóng tối - loài cá trắng ở những hốc đá vùng Kentucky chẳng hạn. Đôi mắt lớn, với khả năng phản chiếu ánh sáng, là đặc điểm của những loài sinh hoạt trong đêm - như loài cú hoặc mèo. Cuối cùng, sự hoảng hốt dưới ánh mặt trời, sự vội vàng và vụng về khi trốn vào chỗ tối, và cách cúi đầu kỳ lạ khi ở ngoài ánh sáng - tất cả đều là biển hiện của một sinh vật có hai đồng tử mắt cực kỳ nhạy cảm.
"Như vậy, dưới chân tôi, lòng đất có vô số địa đạo, và những địa đạo này là chỗ sống của một loài người mới. Sự hiện diện của những cột thông hơi và những chiếc giếng dọc theo sườn đồi - và mọi nơi khác, trừ khu vực thung lũng của dòng sông - chứng minh điều đó. Vậy có giả thuyết nào hiển nhiên bằng giả thuyết cho rằng những phương tiện của thế giới trên mặt đất là công trình được thực hiện bởi cái thế giới nhân tạo dưới lòng đất kiả Quan điểm này quá hợp lý, đến nỗi tôi phải chấp nhận tức thì, và dựa theo đó mà suy ra diễn trình tách đôi của nhân loại. Chắc quý vị có thể đoán trước giả thuyết của tôi đại khái như thế nào. Riêng phần tôi, chẳng bao lâu sau tôi lại khám phá mình vẫn còn quá rời xa sự thật.
"Trước hết, dựa theo những vấn đề của thời đại chúng ta, tôi thấy rõ như ban ngày rằng sự khác biệt tăng dần giữa hai giai cấp tư bản và nhân công là nguyên nhân gây ra tất cả. Tôi nhìn nhận sự khác biệt này trong thời chúng ta còn rất nhỏ, vì vậy quý vị có thể cho rằng giả thuyết của tôi quá cường điệu và không thể nào đúng được. Nhưng ngay trong hiện tại đã có những hoàn cảnh thiên về chiều hướng mà tôi nói tới. Con người trong thời đại chúng ta đã có khuynh hướng xử dụng lòng đất cho những phương tiện văn minh không đòi hỏi bề ngoài đẹp đẽ. Đường xe lửa ngầm trong thành phố Luân Đôn chẳng hạn, lối đi ngầm. Cũng phải kể những nơi làm việc và nhà hàng dưới lòng đất, với số lượng càng ngày càng tăng thêm. Hiển nhiên, tôi nghĩ, khuynh hướng này sẽ phát triển mãi cho đến khi kỹ nghệ mất hẳn chỗ đứng của nó dưới ánh mặt trời. Ý tôi muốn nói rằng các ngành kỹ nghệ sẽ đầu tư sâu hơn và sâu hơn vào những nhà máy dưới lòng đất, giờ làm việc ở đó càng lúc càng tăng, cho đến cuối cùng... ! Mà ngay bây giờ, chẳng phải là một công nhân tiểu biểu ở phía đông thành phố đang sống trong những điều kiện nhân tạo khiến anh ta coi như đã bị tách rời hẳn cuộc đời trên mặt đất rồi đó sao?
"Hơn nữa, khuynh hướng đặc biệt của giai cấp giàu có - kết quả của nền giáo dục càng ngày càng hoàn hảo mà họ được hưởng và khoảng cách càng ngày càng tăng giữa họ và những người nghèo khó thô kệch - hiện đã dẫn đến tình trạng một phần lớn diện tích đất được giữ cho riêng họ mà thôi. Ở khu vực Luân Đôn, chẳng hạn, có lẽ phân nửa những vùng đất tốt đã ở vào tình trạng ấy. Vì thời gian đòi hỏi quá dài và phí tổn quá lớn cho giáo dục cao cấp, lại thêm phương tiện thuận lợi cũng như khuynh hướng có sẵn khiến người giàu càng ngày càng củng cố vững vàng thêm vị trí của mình, khoảng cách giữa hai giai cấp sẽ càng ngày càng lớn. Trong diễn trình đó, sự trao đổi giữa các giai cấp - thể hiện bình thường bằng các cuộc hôn nhân tạm thời ngăn cản sự phân chia nhân loại theo tiêu chuẩn xã hội - sẽ càng ngày càng ít xảy ra. Cuối cùng, trên mặt đất sẽ là những người CÓ, theo đuổi lạc thú và thẩm mỹ, dưới lòng đất sẽ là những người KHÔNG CÓ, những nhân công dần trở thành quen thuộc với hoàn cảnh lao động. Một khi ở đó, họ phải trả tiền mướn chỗ ở, và một phần không nhỏ cho nhu cầu thông hơi. Nếu chống đối họ sẽ bị bỏ đói cho chết ngộp. Những kẻ bẩm sinh yếu đuối hoặc bướng bỉnh sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, mức quân bình trở thành vĩnh viễn, những kẻ sống còn trở nên phù hợp với đời sống dưới mặt đất, và cũng hạnh phúc trong lối nhìn riêng của họ y hệt như những người sống trên mặt đất. Với tôi, vẻ đẹp hoàn hảo và nét trắng bệch vì thiếu nắng của hai loại người tương lai chỉ là kết quả đương nhiên.
"Cái chiến thắng vĩ đại của loài người mà tôi mơ tưởng đã đổi khác trong tâm trí tôi. Đó không phải là chiến thắng của giáo dục luân lý và hợp tác toàn vẹn như tôi tưởng tượng. Thay vì vậy, tôi thấy một giai cấp quý tộc, trang bị bằng một khoa học hoàn hảo để đưa hệ thống kỹ nghệ hiện tại của chúng ta đến một đoạn kết tất yếu. Cái chiến thắng của họ không phải chỉ là một chiến thắng trên thiên nhiên, mà là một chiến thắng trên những người đồng loại. Điều này, cần nhắc với quý vị, là giả thuyết của tôi lúc ấy. Lập luận của tôi trái ngược với những sách viết về một thế giới lý tưởng. Giả thuyết của tôi có thể hoàn toàn sai, nhưng ngay bây giờ tôi vẫn cho nó là giả thuyết hợp lý nhất. Nhưng, ngay cả với giả thuyết này, ở thế giới tôi đến, nền văn minh quân bình đó hẳn đã vượt quá cao điểm và đi vào giai đoạn suy đốn từ lâu. Sự an toàn quá hoàn hảo của những người trên mặt đất đã khiến họ dần thoái hóa, hình dạng nhỏ đi, sức mạnh và trí thông minh giảm xuống. Điều ấy tôi đã thấy rõ ràng. Những gì đã xảy ra cho thế giới dưới đất thì tôi chưa biết, nhưng dựa theo những gì tôi thấy về giống Morlock - đó là tên của họ - tôi đoán những thay đổi của loài người dưới đất có lẽ còn ghê gớm hơn giống Eloi, giống người đẹp mà tôi đã biết.
"Vẫn còn những điều khó hiểu. Tại sao người Morlock lại lấy cái máy thời gian của tôi? (Tôi đoán chắc họ đã làm việc ấy) Lại nữa, nếu những người Eloi là chủ, tại sao họ không thể giúp tôi lấy lại cái máy? Tại sao họ quá sợ bóng tối như vậy? Như đã nói từ trước, tôi hỏi Weena về thế giới dưới đất, và tôi đã thất vọng. Thoạt đầu, nàng không hiểu tôi nói gì, khi đã hiểu, nàng nhất định không trả lời tôi. Nàng run rẩy, làm như đó là một đề tài mà nàng không thể nào nghe nổi. Rồi khi tôi ép nàng trả lời, có lẽ hơi quá đáng, nàng bật khóc nức nở. Đó là những giọt nước mắt duy nhất, ngoài nước mắt của chính tôi, mà tôi thấy trong thời tương lai vàng son. Những giọt nước mắt ấy khiến tôi tức khắc quên hẳn giống Morlock, cố tìm mọi cách làm biến mất cái di sản buồn bã của loài người trên đôi mắt nàng. Chỉ một lát sau nàng đã vỗ tay cười thích thú nhìn tôi nghiêm trang đốt một que diêm.
"Qúy vị có thể cho là lạ, nhưng phải hai ngày sau tôi mới tiếp tục nổi nhưng việc muốn làm. Hình ảnh của con người dưới đất khiến tôi kinh tởm: trắng như những loài sâu và thảo mộc được giữ trong viện sinh vật, và khi đụng vào thì lạnh đến rợn da taỵ Lý do khiến tôi kinh tởm người Morlock có lẽ một phần do cảm tình tự nhiên của tôi với người Eloi. Tôi bắt đầu cảm thông nỗi ghê sợ của họ.
"Đêm sau đó tôi ngủ không yên. Có lẽ vì sức khỏe của tôi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh. Lòng tôi đầy hoang mang và nghi ngờ; đôi khi có cảm giác vô cùng sợ hãi mà không hiểu lý dọ Tôi nhớ một lần im lặng lẩn vào căn phóng lớn nơi những người tương lai nhỏ bé đang ngủ dưới ánh trăng - Weena ngủ chung với họ đêm đó - và cảm thấy an toàn hơn vì sự hiện diện của họ. Lúc ấy tôi đã nghĩ chỉ vài ngày nữa khi mặt trăng đi vào tuần lễ cuối cùng của nó, khi đêm sẽ tối đen, thì những con vật từ thế giới phía dưới, loài trắng bệch thay chỗ những con chuột cống cũ, sẽ xuất hiện nhiều hơn. Và trong suốt hai ngày đó tôi liên tục có mặc cảm là mình đã trốn tránh một trách nhiệm đương nhiên. Tôi biết là muốn lấy lại chiếc máy thời gian tôi phải can đảm tìm ra những bí mật của thế giới dưới lòng đất. Nhưng tôi lại không dám đối diện với những bí mật đó. Nếu có thêm một người đồng hành thì đã khác hẳn. Đằng này tôi chỉ có đúng một mình. Chỉ nghĩ đền việc leo xuống bóng tối của cái giếng đủ làm tôi ghê rợn. Không biết quý vị có hiểu không, nhưng tôi luôn cảm thấy như có một cái gì đe dọa ở phía sau lưng.
"Có lẽ cảm giác khó chịu và thiếu an toàn đó đã thúc đẩy tôi dò xét nhiều địa điểm hơn nữa. Đi về phía tây nam, vùng đất cao hiện nay là Combe Wood, nhìn về phía vùng Banstead của thế kỷ 19, tôi thấy một lâu đài xanh đậm, khác hẳn những công trình kiến trúc khác. Nó lớn hơn tất cả những toà lâu đài đã bỏ hoang mà tôi biết, và có một vẻ Á Đông: màu của mặt tiền pha giữa xanh đậm và xanh lá cây, như màu đồ sứ Trung Hoa. Sự khác biệt bề ngoài khiến tôi nghĩ bên trong chắc cũng khác. Tôi muốn đến nơi xem xét. Nhưng khi tôi nhìn thấy toà lâu đài thì trời đã gần tối; tôi lại vừa trải qua một ngày nhọc mệt. Tôi bèn quyết định hoãn cuộc thám hiểm lại ngày hôm sau, trở về với sự chào mừng và những cái vuốt ve của cô bé Weenạ Sáng hôm sau nghĩ lại, tôi cho rằng sự tò mò của tôi đối với tòa lâu đài xanh chỉ là một cách tự lừa dối để tránh né thêm một ngày nữa cái việc mà tôi sợ phải làm. Nghĩ thế rồi, tôi liền ra đi từ sớm, trực chỉ một cái giếng gần những đống đá và nhôm đổ nát.
"Weena chạy theo, nhảy nhót bên cạnh tôi. Nhưng khi đến miệng giếng, thấy tôi tì vào thành nhìn xuống dưới, nàng tỏ ra thảng thốt lạ kỳ. "Chào em nhé, Weena, " tôi nói. Tôi hôn nàng, đặt nàng xuống đất để bắt đầu leo qua thành giếng, với tay chụp vào bậc thang. Tất cả đều xảy ra thật nhanh, vì tôi sợ sự can đảm sẽ rời bỏ tôi đi. Weena nhìn tôi sửng sốt rồi kêu lên một tiếng vô cùng tội nghiệp. Nàng chạy đến, cốt kéo tôi lại bằng đôi tay nhỏ bé. Nghĩ lại, có lẽ chính phản ứng của nàng đã đẩy tôi vào hoàn cảnh phải tiếp tục. Tôi đẩy nàng ra, hình như bằng một thái độ hơi tàn nhẫn, và chỉ trong giây lát đã vào phía trong thành giếng. Nhìn lên thấy khuôn mặt Weena đầy nét đau khổ, tôi cười để trấn an nàng. Rồi tôi nhìn xuống, định vị trí những thanh ngang không chắc chắn mà tôi đang bám vào.
"Tôi leo xuống có đến hơn 60 thước tây. Những thanh kim loại cắm vào thành giếng rõ ràng được chế tạo cho những cơ thể nhỏ và nhẹ hơn tôi. Leo chẳng được mấy chốc tôi đã thấy bắp thịt cứng lại và vô cùng mệt mỏi. Mà chẳng phải chỉ mệt thôi! Một thanh kim loại đột ngột cong lại dưới sức nặng của tôi, làm tôi suýt nữa rớt xuống vùng tối đen phía dưới. Trong một thoáng giây, cả người tôi chỉ được giữ lại bằng một bàn taỵ Không dám ngừng lại nữa, dù tay và lưng hết sức đau, tôi tiếp tục leo xuống bằng tốc độ nhanh nhất có thể đạt được. Nhìn lên, tôi thấy miệng giếng, một hình tròn màu xanh giữa có một ngôi sao hiện rõ, mặt của Weena chỉ còn là một bóng màu đen. Tiếng ầm ầm của máy móc phía dưới càng rõ hơn và khó chịu hơn. Tất cả mọi vật, trừ chiếc đĩa trên cao, đều đen kịt, và khi nhìn lên lần nữa, tôi không còn thấy Weena.
"Tôi thấy khó chịu một cách ghê gớm. Tôi có thoáng nghĩ đến việc đi lên trở lại và để mặc thế giới dưới lòng đất, nhưng ngay trong khi nghĩ như vậy tôi vẫn tiếp tục leo xuống. Cuối cùng, tôi mừng rỡ nhận ra mình chạm phải một cái lỗ đục vào tường chỉ cách bên phải khoảng một tấc tây. Tôi phóng người vào đó. Thì ra đây là miệng của một đường hầm nhỏ nằm ngang. Tôi nằm xuống nghỉ vì đã quá kiệt sức. Tay tôi đau, bắp thịt lưng tôi co rút, và tôi vẫn chưa hết run rẩy vì nỗi sợ tuột tay tan xác ám ảnh từ lúc nãy. Bóng tối như mực khiến mắt tôi khó chịu. Những tiếng kêu lớn nhỏ của máy móc bơm không khí xuống lòng giếng như bao phủ lấy tôi.
"Không biết nằm đó được bao lâu thì tôi bừng tinh vì bị một bàn tay mềm chạm vào mặt. Ngồi nhổm dậy trong bóng tối, tôi chụp hộp quẹt và đốt vội một que diêm. Tôi thấy ba bóng trắng lưng còng đang chạy trốn ánh sáng, hình dáng của họ y hệt như con vật nửa khỉ nửa người tôi gặp cạnh những đống gạch đá đổ nát trước đây. Sống trong bóng tối triền miên, mắt họ cực lớn và vô cùng nhạy cảm, như mắt các loại cá sống dưới lòng biển sâu, và hẳn nhiên cũng phản chiếu ánh sáng tương tự. Tôi chắc chắn họ nhìn thấy tôi thật rõ ràng trong bóng tối, và dường như chẳng hề sợ tôi gì hết. Nhưng, ngay khi tôi vừa đốt diêm lên, họ tức thì bỏ chạy vào trong những lỗ ngách, rồi từ trong vùng tối an toàn đó soi mói nhìn tôi bằng một kiểu cách cực kỳ quái đản.
"Tôi cố nói chuyện với họ, nhưng chắc vì ngôn ngữ của họ khác với những người trên mặt đất mọi nỗ lực của tôi đều vô ích. Lúc ấy tôi có nghĩ đến việc rút lui trước khi bắt đầu cuộc thám hiểm, nhưng rồi tôi tự nhủ "đằng nào mình cũng đã xuống tới đây rồi". Lần theo đường hầm, tôi nghe tiếng máy móc mỗi lúc một lớn. Rồi tay tôi chạm vào khoảng không, thì ra tôi đã đến một vùng trống. Đốt một que diêm khác, tôi thấy mình đứng trước một cái động mái vòm cung rộng mông mênh tiếp nối bằng bóng tối thăm thẳm. Hiển nhiên, tôi chỉ thấy những gì trong phạm vi được ánh sáng của que diêm trên tay soi tới mà thôi.
"Tôi chỉ có thể nhớ một cách mơ hồ. Những hình thù khổng lồ của những máy móc lớn nổi bật, soi thành những bóng đen ghê rợn, trong đó những người Morlock trắng như ma lẩn trốn sức chói của ánh sáng. Bầu không khí vô cùng ngột ngạt có vương mùi máu. Ở đâu đó trong hướng nhìn thẳng của tôi là một cái bàn kim loại màu trắng, hình như đang bày một bữa ăn. Thì ra người Morlock là giống ăn thịt! Nhớ lại, lúc ấy tôi đã tự hỏi con vật nào chưa diệt chủng đủ lớn để cho họ miếng thịt đỏ mà tôi thấy. Tất cả đều mờ ảo: cái mùi nặng nề, những hình thù khổng lồ, những bóng dáng xấu xí ẩn núp chỉ chờ bóng tối là ra vồ lấy tôi. Chiếc diêm cháy hết, làm bỏng ngón tay tôi, rơi xuống, rồi chỉ còn là một đốm đỏ lụi tàn trong bóng tối.
"Lúc ấy tôi mới thấy mình quả đã quá thiếu chuẩn bị cho cuộc thám hiểm này. Khi bắt đầu chế chiếc máy thời gian, tôi đã giả sử lầm lẫn rằng con người ở tương lai chắc chắn vượt xa chúng ta về tất cả mọi loại phương tiện. Tôi đến không mang theo vũ khí, thuốc men, không mang bất cứ thứ gì để hút - nhiều khi tôi thèm thuốc không thể tưởng tượng - ngay cả que diêm cũng không mang đủ. Phải chi tôi mang theo một máy chụp hình Kodak! Tôi đã có thể ghi lại hình ảnh của thế giới dưới lòng đất trong nháy mắt để xem lại sau này. Nhưng, thực tế là tôi đứng đó chỉ với những vũ khí và khả năng mà tạo hóa đã cho tôi - tay, chân, răng; bấy nhiêu, cộng với bốn que diêm còn lại.
"Tôi không dám tiến lên giữa những máy móc không rõ nơi trong bóng tối, và chỉ ngay trước khi ánh lửa lúc nãy tắt đi, tôi mới biết tôi còn rất ít diêm. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện tiết kiệm. Tôi đã phí hơn nửa hộp diêm để gây ngạc nhiên cho những người trên mặt đất, vì họ coi lửa là một vật lạ. Hậu quả là, như tôi đã nói, tôi chỉ còn lại bốn que diêm. Trong khi đang đứng trong bóng tối, tay tôi bị một bàn tay chạm vào, mặt tôi bị những ngón tay gầy guộc sờ trúng, và tôi ngửi thấy một mùi hôi hám kỳ lạ. Tôi nghe tiếng thở của đám người nhỏ bé ghê rợn ở xung quanh. Hộp diêm trong tay tôi bị kéo nhẹ, và có những bàn tay khác đang níu vào áo phía sau lưng tôi. Bị những sinh vật mà tôi không nhìn thấy lục xét thật là một cảm giác hết sức khó chịu. Đột nhiên tôi nhận ra thật rõ ràng rằng tôi chẳng biết gì về lối suy nghĩ cũng như hành động của họ. Tôi hét lên thật lớn. Họ lùi lại, và rồi tôi lại nghe họ tiến về phía tôi như cũ. Họ nắm vào tôi một cách hùng hổ hơn, thầm thì những tiếng quái đản với nhau. Tôi lắc mạnh người, tiếp tục hét những tiếng không mạch lạc. Không còn e dè như lần trước, họ vừa nắm vào tôi vừa phát ra những tiếng cười kỳ lạ. Tôi phải thú nhận là tôi sợ hãi tột độ. Tôi quyết định đốt một que diêm nữa và mượn ánh sáng của nó để tẩu thoát. Que diêm được đốt lên, tôi châm nó vào một mẩu giấy lấy ra từ trong túi, và lùi vào con đường hầm nhỏ. Nhưng vừa vào tới nơi thì ngọn lửa tắt ngúm. Trong bóng tối tôi nghe thấy tiếng những người Morlock đuổi theo, như tiếng đập của gió vào những lá cây, như tiếng mưa rơi trên mặt đất.
"Trong nháy mắt tôi bị mấy bàn tay chụp lấy. Rõ ràng họ muốn kéo tôi lại. Tôi đốt một que diêm nữa và đưa qua đưa lại trước những khuôn mặt hoảng hốt của họ. Qúy vị khó lòng tưởng tượng những nét phản chất người của họ đáng kinh tởm đến mức nào - những khuôn mặt nhợt nhạt không có cằm, những đôi mắt lớn không mí màu đỏ xám - trong ánh nhìn sửng sốt của họ khi bị ánh lửa làm cho mù chột. Nhưng bảo đảm với quý vị là tôi không đứng đó để nhìn họ. Tôi lùi lại, và khi que diêm thứ hai tắt, tôi đốt que thứ bạ Nó gần tắt khi tôi ra tới miệng hầm, vì tiếng kêu của cái bơm lớn phía dưới làm tôi choáng váng. Rồi tôi vươn tay ngang ra, tìm chỗ cầm của chiếc thang. Ngay lúc ấy, chân tôi bị nắm lại, và cả người tôi bị kéo một cách hung bạo từ phía sau. Tôi đốt que diêm cuối... Nó tắt tức thì. Nhưng tôi đã nắm được vào chiếc thang. Đạp chân thật mạnh, tôi vuột khỏi những bàn tay của đám người Morlock và leo nhanh lên thành giếng, trong khi họ Ở lại nhướng mắt lên nhìn theo tôi. Chỉ có một tên cố đuổi theo một đoạn, hắn chụp được chiếc giày bốt của tôi làm bằng cớ chiến thắng.
"Tôi có cảm tưởng như đường leo lên dài vô tận. Còn khoảng tám hoặc mười thước sau cùng, tôi buồn nôn không chịu nổi, phải ghì tay trên thang một cách hết sức khó khăn. Thước cuối cùng là cả một cuộc chiến đấu dữ dội. Đầu óc tôi mấy lần trống rỗng, và tôi có cảm giác như mình đang rớt xuống. Cuối cùng, không hiểu bằng cách nào, tôi leo lên tới miệng giếng, bước loạng choạng từ đống gạch vụn đổ nát ra ngoài ánh nắng mặt trời chói chan. Ngã sấp xuống, tôi thấy ngay cả mặt đất cũng thơm tho và sạch sẽ. Tôi thấy Weena hôn tay và tai tôi, tôi nghe tiếng nói của những người Eloi khác. Rồi, trong một khoảng thời gian, tôi hoàn toàn không biết gì nữa.
"Hoàn cảnh của tôi có phần thêm tuyệt vọng. Trước đó, ngoại trừ nỗi lo lắng hàng đêm về tình trạng của chiếc máy thời gian, tôi đã hy vọng là cuối cùng mình sẽ thoát hiểm. Hy vọng ấy lung lay sau khám phá mới của tôi. Tôi đã tưởng nguyên nhân sự rắc rối của tôi là do tính nghịch phá như trẻ con của đám người Eloi nhỏ bé và một lực bí mật nào đó mà tôi chỉ cần nghiên cứu là vượt qua được. Nhưng bây giờ đã có thêm yếu tố mới: người Morlock mà bản chất có một nét nào đó tàn nhẫn và phi nhân. Chỉ với bản năng tự nhiên tôi đã ghê tởm họ. Trước đó, tôi có cảm giá của một người bị rơi vào một cái hố, chỉ cần tìm cách leo lên. Giờ tôi có cảm giác của một con thú mắc bẫy, sắp rơi vào nanh vuốt kẻ thù.
"Qúy vị có thể ngạc nhiên khi biết kẻ thù ấy không gì khác hơn là bóng tối của mùa trăng khuyết. Weena đã khiến tôi phải chú ý đến những ĐÊM ĐEN từ đầu. Những lúc ấy tôi chẳng hiểu nàng muốn diễn tả điều gì, nhưng giờ thì ý nghĩa của hai chữ "Đêm Đen" không còn khó đoán nữa. Mỗi đêm mặt trăng mỗi khuyết, mỗi đêm bóng tối càng tăng; và tôi bắt đầu hiểu loáng thoáng nỗi sợ bóng đêm của loài người trên mặt đất. Dù vẫn còn mơ hồ, không hiểu người Morlock sẽ làm những điều xấu xa gì trong mùa trăng khuyết, tôi đã khá chắc chắn là giả thuyết thứ hai của mình hoàn toàn không đúng. Hẳn đã có một lúc nào đó những người trên mặt đất là lớp quý tộc được ưu đãi, và người Morlock là đầy tớ máy móc của họ: nhưng thời ấy đã qua từ lâu. Hai loài người sinh ra từ đà tiến hóa của nhân loại đã lùi về, hoặc đạt tới một tương lai hoàn toàn mới. Người Eloi, như những ông vua Carlovingian, đã thoái hóa đến độ chỉ còn là những hình ảnh vô dụng đẹp đẽ. Họ vẫn mặc nhiên là chủ nhân của trái đất chỉ vì người Morlock sống dưới lòng đất quá nhiều thế hệ, đã không còn khả năng chịu đựng ánh sáng ban ngày. Tôi cho rằng việc người Morlock may quần áo cũng như cung cấp các nhu cầu khác cho người Eloi chỉ là tàn dư của thói quen phục vụ. Họ làm vậy như một con ngựa dùng móng bới đất, hoặc con người hiện tại thích giết thú rừng khi săn bắn: những phản ứng tâm lý còn sót lại sau khi nhu cầu cũ đã ra đi. Nhưng hẳn nhiên thứ tự cũ đã phần nào đảo lộn. Đã đến lúc luật quả báo được thi hành. Thuở xa xưa, bao nhiêu ngàn hế hệ trước, con người đã đẩy anh em của họ ra khỏi vùng của tiện nghi và ánh sáng. Bây giờ người anh em đó trở về - hoàn toàn khác! Người Eloi đã bắt đầu học lại một bài học cũ. Họ bắt đầu làm quen trở lại với sự sợ hãi. Và đột nhiên trong đầu tôi hiện ra hình ảnh của miếng thịt tôi thấy ở thế giới dưới lòng đất. Thật lạ kỳ: hình ảnh ấy xuất hiện không phải như một kết quả của suy nghĩ, mà như một câu hỏi từ phía ngoài đi vào tâm trí tôi. Tôi cố nhớ lại, nhưng lúc ấy chỉ có cảm tưởng mơ hồ của một cái gì quen thuộc mà không rõ ràng đích xác được hơn.
"Nhưng không cần biết những con người nhỏ bé bất lực như thế nào trước nỗi sợ hãi của họ, tôi là một trường hợp khác. Tôi đến từ thời đại của chúng ta, thời đại trưởng thành của nhân loại, khi mà sự sợ hãi không đủ làm người ta tê liệt và sự bí mật đã mất ý nghĩa kinh hoàng. Tối thiểu tôi sẽ tự bảo vệ lấy mình. Không chần chờ nữa, tôi quyết định tìm vũ khí và một chỗ ngủ an toàn. Với một nơi ẩn náu làm căn bản, tôi có thể đương đầu thế giới này với sự yên tâm mà tôi đã mất sau khi biết những nguy hiểm có thể xảy ra nếu tôi thụ động hết đêm nọ đến đêm kia chờ đến lúc bị tấn công. Tôi cảm thấy mìnhkhông thể nào ngủ nổi nữa cho đến khi có nơi trú ẩn. Nghĩ đến việc mình đã bị những người Morlock khám xét, tôi run lên vì ghê sợ.
"Tôi đi dọc theo thung lũng dòng Thames suốt buổi trưa nhưng không tìm ra chỗ nào đủ kín đáo. Tất cả những dinh thự và cây cối đều quá dễ dàng đối với những kẻ leo trèo thiện nghệ; và dựa theo cách cấu tạo của những chiếc giếng, tôi đoán leo trèo là sở trường của người Morlock. Rồi tôi nhớ lại tòa lâu đài sứ màu xanh với những bức tường bóng và những tháp cao. Chiều hôm ấy, để Weena ngồi trên vai như một đứa bé, tôi đi lên những ngọn đồi về phía tây nam. Tôi cứ tưởng chỉ phải đi bảy hoặc tám dặm, không ngờ đến gần mười tám. Thì ra tôi đã thấy tòa lâu đài này vào một buổi chiều ẩm ướt nên đoán sai khoảng cách. Không những vậy, một chiếc giày của tôi lại tuột đế nên bị đinh cắm vào - đây là đôi giày cũ rất êm chân tôi thường đi trong nhà - khiến chân tôi đau phải đi khập khiễng. Vì vậy khi mặt trời đã lặn hẳn tôi vẫn chưa tới nơi. Xa xa tòa lâu đài đứng như một bóng đen tương phản với màu vàng vọt của bầu trời sắp tối.
"Lúc đầu, Weena rất mừng khi được đặt ngồi trên vai tôi, nhưng một lát sau nàng đòi tôi bỏ xuống đất. Nàng chạy theo bên cạnh, thỉnh thoảng lại ngắt hoa bằng tay này hoặc tay kia bỏ vào túi áo tôi. Những chiếc túi áo luôn luôn khiến Weena thắc mắc, nhưng sau cùng nàng kết luận rằng chúng là một loại bình hoa kỳ cục, và nàng xử dụng chúng cho mục đích đó. À nói vậy tôi mới nhớ! Khi thay áo ngoài, tôi tìm thấy... "
Người vượt thời gian ngừng nói, đưa tay vào túi áo, và kéo ra hai đóa hoa lan đặt lên bàn. Chúng giống như hoa lan nhưng rất lớn. Rồi hắn tiếp tục câu chuyện.
"Khi sự im lặng của buổi chiều tà đã đổ xuống mà chúng tôi vẫn đi lên ngọn đồi về phía Wimbledon. Weena có vẻ mệt và tỏ ý muốn trở về tòa dinh thự bằng đá xám. Nhưng tôi chỉ cho nàng thấy những tháp cao của tòa lâu đài xanh bằng sứ và kiếm cách giải thích cho nàng hiểu rằng tôi và nàng đang đi tìm nơi ẩn náu khỏi nỗi Sợ Hãi của nàng. Qúy vị biết sự im lặng ghê gớm ngay lúc trời sắp tối chứ? Ngay cả những cơn gió nhẹ thổi xuyên qua các tàng cây cũng ngưng đọng lại. Đối với tôi, bao giờ cũng có một biểu hiện của sự đợi chờ trong cái vắng lặng đó của buổi hoàng hôn. Bầu trời trong vắt, xa xăm và trống rỗng ngoại trừ vài lằn ngang ở tận nơi xuống của vầng thái dương. Vâng, đêm ấy cảm giác đợi chờ biến thành nỗi sợ hãi trong tôi. Giữa cái yên tĩnh tối tăm đó mọi giác quan của tôi đều trở thành sắc bén. Tôi tưởng như cảm được cả sự trống rỗng của vùng đất dưới chân; đến nỗi, gần như nhìn xuyên thủng nó để thấy những người Morlock rảo quanh các nơi chốn như tổ kiến của họ, đợi chờ trong bóng tối. Trong cơn cảm xúc, tôi tưởng tượng việc tôi xâm nhập vào lãnh thổ của họ đã bị coi là một sự tuyên chiến. Tại sao họ lại lấy chiếc máy thời gian của tôi?
"Chúng tôi tiếp tục đi trong yên lặng. Bóng xám của hoàng hôn đậm dần thành đêm tối. Màu xanh trong ở xa xăm biến dạng, các ngôi sao tiếp nối nhau hiện ra trên bầu trời. Mặt đất mờ và cây cối xám. Sự sợ hãi và mệt mỏi của Weena tăng lên. Tôi ôm nàng trong vòng tay, thủ thỉ trấn an và vuốt ve nàng. Rồi khi bóng đêm tăng thêm, nàng quàng hai tay quanh cổ tôi, nhắm mắt, áp mặt vào vai tôi. Chúng tôi đi xuống một thung lũng. Vì trời tối, suýt nữa tôi dẫm chân xuống một dòng sông nhỏ. Bước ra khỏi dòng sông, tôi đi về phía ngược lại, qua một số những dinh thự im lìm như say ngủ, và một cái tượng - hình người Faun có đuôi dê của thần thoại La Mã hoặc tương tự như vậy - đã mất đầu. Tôi cũng thấy những cây xương rồng. Chưa có dấu hiệu gì của người Morlock, nhưng đêm hãy còn sớm, lát nữa mới là những giờ tối đen trước khi có ánh trăng lên.
"Tới đỉnh ngọn đồi kế tiếp, tôi thấy một khu rừng rậm trải thành một vùng tối đen trước mặt. Tôi phân vân vì bên phải cũng như bên trái đều không thấy bìa rừng đâu cả. Đã mệt, lại đau chân, tôi cẩn thận đặt Weena xuống và ngồi nghỉ trên thảm cỏ. Tôi không còn thấy tòa lâu đài sứ màu xanh ở đâu nữa và bắt đầu nghi là mình bị lạc. Nhìn vào khu rừng rậm, tôi thầm hỏi bên trong ấy ẩn dấu những gì. Không thể nào nhìn thấy những ngôi sao trên trời dưới những tàng cây rậm rạp; dù không có sự đe dọa nào - tôi không muốn nghĩ thêm về sự đe dọa - thì vẫn có những rễ cây dễ vấp ngã và những thân cây rất khó tránh đụng vào.
"Qúa mệt mỏi sau một ngày nhiều diễn biến, tôi không muốn đối diện với những bất ngờ trong khu rừng ấy, thế là tôi quyết định nghỉ lại ở trên đồi.
"Tôi rất mừng khi thấy Weena đã ngủ saỵ Tôi cẩn thận cuốn chiếc áo choàng của tôi lên người nàng và ngồi chờ ánh trăng lên. Sườn đồi yên tĩnh và hoang vắng, nhưng trong bóng đen của khu rừng thỉnh thoảng vẫn có những âm thanh của sự sống. Trên bầu trời quang đãng những vì sao chiếu lấp lánh, cho tôi một cảm giác gần gũi thân yêu. Những chùm sao quen thuộc không còn nữa. Sự chuyển động, dù chậm chạp đến nỗi không thể nhận ra trong hàng trăm đời sống, đã từ lâu đưa chúng vào những vị trí khác. Nhưng tôi vẫn thấy giải ngân hà như một dòng của những bụi sao như cũ. Phía nam (tôi đoán thế), có một ngôi sao sáng đỏ rực rỡ, hoàn toàn lạ đối với tôi. Nó rực rỡ hơn cả ngôi sao xanh Sirius của chúng tạ Và giữa muôn ngàn điểm sáng này là một hành tinh phản chiếu ánh sáng êm dịu, như khuôn mặt của một người bạn cũ lâu ngày.
"Nhìn những ngôi sao ấy, đột nhiên tôi thấy những khó khăn của riêng tôi cũng như sự quan trọng của đời sống trên trái đất đều trở thành nhỏ bé. Tôi nghĩ đến khoảng cách không thể đo lường của những ngôi sao, những chuyển động chậm chạp như tất yếu của chúng từ một quá khứ không biết đến một tương lai không biết. Tôi nghĩ đến cái vòng tuần hoàn dài dằng dặc biểu hiện bởi sự đổi trục của trái đất. Sự chuyển đổi âm thầm đó chỉ xảy ra bốn mươi lần trong suốt khoảng thời gian tôi đã vượt quạ* Và sau số lần chuyển đổi ít ỏi này, tất cả mọi sinh hoạt, mọi truyền thống, những hệ thống phức tạp, những quốc gia, ngôn ngữ, văn chương, cảm hứng, ngay cả ký ức về loài người như tôi biết, đã bị đẩy vào quá khứ. Chỉ còn những sinh vật yếu đuối quên mất nguồn gốc cao đẳng của họ, và những sinh vật trắng bệch khiến tôi rùng rợn. Rồi tôi nghĩ đến nỗi Sợ Hãi Vô Cùng giữa hai loài người, và lần đầu tiên, với một cái rùng mình bất ngờ, tôi chợt hiểu nguồn gốc của miếng thịt tôi đã nhìn thấy. Nhưng sự thật này khủng khiếp quá! Nhìn Weena đang ngủ bên cạnh, khuôn mặt trắng trẻo của nàng sáng như một vì sao dưới những ngôi sao, tôi liền xua đuổi ý nghĩ ấy đi.
"Suốt đêm dài đó tôi cố không nghĩ đến người Morlock và giết thời giờ bằng cách nhìn lên tìm dấu tích của những chòm sao cũ. Bầu trời rất trong, chỉ thỉnh thoảng có vài cụm mây loáng thoáng. Dĩ nhiên tôi có ngủ gật vài lần, nhưng cuối cùng từ phía đông xuất hiện một vùng mờ nhạt, như ánh phản chiếu của một ngọn lửa không màu; rồi mặt trăng xuất hiện, nhọn khuyết và trắng xóa. Theo ngay sau và lấn át nó là ánh bình minh, bắt đầu một cách yết ớt rồi trở thành tươi hồng và ấm áp. Không có người Morlock nào tìm đến chúng tôi. Đúng hơn, cả đêm tôi không thấy bóng dáng một người Morlock ở bất cứ nơi nào trên đồi. Trong sự tự tin của một ngày mới, tôi gần như cảm thấy nỗi sợ hãi hôm trước của mình là vô căn cứ. Tôi đứng dậy. Bàn chân trong chiếc giày tuột đế sưng tấy ở mắt cá và thật đau dưới gót. Tôi ngồi xuống trở lại, tháo cả hai chiếc giày ra và vất chúng đi.
"Tôi đánh thức Weenạ Chúng tôi vào khu rừng bây giờ xanh tươi chào đón thay vì tối đen đầy cấm đoán. Chúng tôi dùng bữa sáng bằng một số trái cây tìm được và, sau đó chẳng bao lâu, gặp một số người Eloi đang cười đùa nhảy nhót dưới ánh mặt trời như không hề biết trên đời còn có bóng đêm. Tôi lại nghĩ đến miếng thịt mà tôi thấy. Tôi đã khá chắc chắn về nguồn gốc của nó, và tận đáy tim tôi tội nghiệp cho cái dòng suối nhỏ bé yếu ớt sau cùng của dòng sông nhân loại vĩ đại. Rõ ràng, ở một quá khứ xa xưa nào đó trong diễn trình thoái hoá của loài người, giống Morlock đã cạn nguồn thực phẩn. Ngay trước đó có thể họ phải sống bằng thịt chuột bọ hoặc các loài dơ bẩn tương tự. Ngay trong thời đại chúng ta, loài người đã không còn chọn lọc các món ăn như xưa - ít chọn lọc hơn hẳn loài khỉ. Cái thành kiến khiến họ sợ thịt người không phải là một phần của bản năng sâu xạ Vì vậy những đứa con vô nhân đạo này của loài người đã... ! Tôi cố nhìn sự việc trên căn bản khoa học. Dù sao, phải nhìn nhận là họ có ít nhân tính hơn và về thời gian cũng xa xôi hơn những tổ tiên ăn thịt người của chúng ta ba bốn ngàn năm trước. Vả lại, cái khả năng suy nghĩ khiến việc làm ghê tởm đó ám ảnh con người đã biến mất từ lâu. Tại sao tôi phải hành hạ tâm tư mình? Những người Eloi chỉ là gia súc để những người Morlock sống như kiến nuôi cho lớn và làm thịt - nhiều khi còn gây giống theo ý muốn. Và Weena vẫn đang nhảy múa bên cạnh tôi!
"Tôi cố dằn để khỏi bị sự hãi hùng chiếm ngự bằng cách nghĩ rằng đây là một hình phạt đích đáng cho sự ích kỷ của loài người. Con người đã bằng lòng sống thoải mái và vui vẻ trên sức lao động của những anh em, đã sử dụng hai chữ "nhu cầu" như kim chỉ nam và lý do biện hộ, và cuối cùng thời gian đã bắt họ trả nợ cho hai chữ "nhu cầu" đó. Tôi cố tìm cách suy nghĩ mỉa mai kiểu Carlyle về cái tính quý phái đã thoái hóa này. Nhưng tôi không làm được việc ấy. Dù trí tuệ đã suy đồi đến bao nhiêu, giống Eloi vẫn còn quá nhiều hình dáng của con người, tôi không thể nào không thương cảm, không thể nào không thấy mình muốn chia sẻ với sự suy thoái cũng như nỗi sợ hãi của họ.
"Lúc ấy tôi chỉ có khái niệm rất mơ hồ về các việc phải làm. Trước hết tôi phải tìm một nơi ẩn náu an toàn, và phải tìm vũ khí bằng kim loại hoặc bằng đá làm vật phòng thân. Đó là việc cần thiết nhất. Kế đến, tôi hy vọng tạo ra lửa, để có một ngọn đuốc trong tay; vì tôi biết lửa là vũ khí chống lại người Morlock hữu hiệu nhất. Tiếp nữa, tôi muốn tìm cách phá cánh cửa đồng dưới tòa sư tử trắng. Tôi nghĩ đên một cái búa tạ. Tôi cho rằng nếu tôi có thể lọt qua cánh cửa với một ngọn lửa, tôi sẽ tìm thấy chiếc máy thời gian và trốn thoát; vì tôi không tin những người Morlock có đủ sức mạnh để mang nó đi xạ Về Weena, tôi quyết định đưa nàng về thời đại của chúng ta.
"Vừa suy nghĩ về những kế hoạch như vậy, tôi vừa tìm đường đến tòa lâu đài mà tôi đã chọn làm nơi trú ẩn.
"Hoàn cảnh của tôi có phần thêm tuyệt vọng. Trước đó, ngoại trừ nỗi lo lắng hàng đêm về tình trạng của chiếc máy thời gian, tôi đã hy vọng là cuối cùng mình sẽ thoát hiểm. Hy vọng ấy lung lay sau khám phá mới của tôi. Tôi đã tưởng nguyên nhân sự rắc rối của tôi là do tính nghịch phá như trẻ con của đám người Eloi nhỏ bé và một lực bí mật nào đó mà tôi chỉ cần nghiên cứu là vượt qua được. Nhưng bây giờ đã có thêm yếu tố mới: người Morlock mà bản chất có một nét nào đó tàn nhẫn và phi nhân. Chỉ với bản năng tự nhiên tôi đã ghê tởm họ. Trước đó, tôi có cảm giá của một người bị rơi vào một cái hố, chỉ cần tìm cách leo lên. Giờ tôi có cảm giác của một con thú mắc bẫy, sắp rơi vào nanh vuốt kẻ thù.
"Qúy vị có thể ngạc nhiên khi biết kẻ thù ấy không gì khác hơn là bóng tối của mùa trăng khuyết. Weena đã khiến tôi phải chú ý đến những ĐÊM ĐEN từ đầu. Những lúc ấy tôi chẳng hiểu nàng muốn diễn tả điều gì, nhưng giờ thì ý nghĩa của hai chữ "Đêm Đen" không còn khó đoán nữa. Mỗi đêm mặt trăng mỗi khuyết, mỗi đêm bóng tối càng tăng; và tôi bắt đầu hiểu loáng thoáng nỗi sợ bóng đêm của loài người trên mặt đất. Dù vẫn còn mơ hồ, không hiểu người Morlock sẽ làm những điều xấu xa gì trong mùa trăng khuyết, tôi đã khá chắc chắn là giả thuyết thứ hai của mình hoàn toàn không đúng. Hẳn đã có một lúc nào đó những người trên mặt đất là lớp quý tộc được ưu đãi, và người Morlock là đầy tớ máy móc của họ: nhưng thời ấy đã qua từ lâu. Hai loài người sinh ra từ đà tiến hóa của nhân loại đã lùi về, hoặc đạt tới một tương lai hoàn toàn mới. Người Eloi, như những ông vua Carlovingian, đã thoái hóa đến độ chỉ còn là những hình ảnh vô dụng đẹp đẽ. Họ vẫn mặc nhiên là chủ nhân của trái đất chỉ vì người Morlock sống dưới lòng đất quá nhiều thế hệ, đã không còn khả năng chịu đựng ánh sáng ban ngày. Tôi cho rằng việc người Morlock may quần áo cũng như cung cấp các nhu cầu khác cho người Eloi chỉ là tàn dư của thói quen phục vụ. Họ làm vậy như một con ngựa dùng móng bới đất, hoặc con người hiện tại thích giết thú rừng khi săn bắn: những phản ứng tâm lý còn sót lại sau khi nhu cầu cũ đã ra đi. Nhưng hẳn nhiên thứ tự cũ đã phần nào đảo lộn. Đã đến lúc luật quả báo được thi hành. Thuở xa xưa, bao nhiêu ngàn hế hệ trước, con người đã đẩy anh em của họ ra khỏi vùng của tiện nghi và ánh sáng. Bây giờ người anh em đó trở về - hoàn toàn khác! Người Eloi đã bắt đầu học lại một bài học cũ. Họ bắt đầu làm quen trở lại với sự sợ hãi. Và đột nhiên trong đầu tôi hiện ra hình ảnh của miếng thịt tôi thấy ở thế giới dưới lòng đất. Thật lạ kỳ: hình ảnh ấy xuất hiện không phải như một kết quả của suy nghĩ, mà như một câu hỏi từ phía ngoài đi vào tâm trí tôi. Tôi cố nhớ lại, nhưng lúc ấy chỉ có cảm tưởng mơ hồ của một cái gì quen thuộc mà không rõ ràng đích xác được hơn.
"Nhưng không cần biết những con người nhỏ bé bất lực như thế nào trước nỗi sợ hãi của họ, tôi là một trường hợp khác. Tôi đến từ thời đại của chúng ta, thời đại trưởng thành của nhân loại, khi mà sự sợ hãi không đủ làm người ta tê liệt và sự bí mật đã mất ý nghĩa kinh hoàng. Tối thiểu tôi sẽ tự bảo vệ lấy mình. Không chần chờ nữa, tôi quyết định tìm vũ khí và một chỗ ngủ an toàn. Với một nơi ẩn náu làm căn bản, tôi có thể đương đầu thế giới này với sự yên tâm mà tôi đã mất sau khi biết những nguy hiểm có thể xảy ra nếu tôi thụ động hết đêm nọ đến đêm kia chờ đến lúc bị tấn công. Tôi cảm thấy mìnhkhông thể nào ngủ nổi nữa cho đến khi có nơi trú ẩn. Nghĩ đến việc mình đã bị những người Morlock khám xét, tôi run lên vì ghê sợ.
"Tôi đi dọc theo thung lũng dòng Thames suốt buổi trưa nhưng không tìm ra chỗ nào đủ kín đáo. Tất cả những dinh thự và cây cối đều quá dễ dàng đối với những kẻ leo trèo thiện nghệ; và dựa theo cách cấu tạo của những chiếc giếng, tôi đoán leo trèo là sở trường của người Morlock. Rồi tôi nhớ lại tòa lâu đài sứ màu xanh với những bức tường bóng và những tháp cao. Chiều hôm ấy, để Weena ngồi trên vai như một đứa bé, tôi đi lên những ngọn đồi về phía tây nam. Tôi cứ tưởng chỉ phải đi bảy hoặc tám dặm, không ngờ đến gần mười tám. Thì ra tôi đã thấy tòa lâu đài này vào một buổi chiều ẩm ướt nên đoán sai khoảng cách. Không những vậy, một chiếc giày của tôi lại tuột đế nên bị đinh cắm vào - đây là đôi giày cũ rất êm chân tôi thường đi trong nhà - khiến chân tôi đau phải đi khập khiễng. Vì vậy khi mặt trời đã lặn hẳn tôi vẫn chưa tới nơi. Xa xa tòa lâu đài đứng như một bóng đen tương phản với màu vàng vọt của bầu trời sắp tối.
"Lúc đầu, Weena rất mừng khi được đặt ngồi trên vai tôi, nhưng một lát sau nàng đòi tôi bỏ xuống đất. Nàng chạy theo bên cạnh, thỉnh thoảng lại ngắt hoa bằng tay này hoặc tay kia bỏ vào túi áo tôi. Những chiếc túi áo luôn luôn khiến Weena thắc mắc, nhưng sau cùng nàng kết luận rằng chúng là một loại bình hoa kỳ cục, và nàng xử dụng chúng cho mục đích đó. À nói vậy tôi mới nhớ! Khi thay áo ngoài, tôi tìm thấy... "
Người vượt thời gian ngừng nói, đưa tay vào túi áo, và kéo ra hai đóa hoa lan đặt lên bàn. Chúng giống như hoa lan nhưng rất lớn. Rồi hắn tiếp tục câu chuyện.
"Khi sự im lặng của buổi chiều tà đã đổ xuống mà chúng tôi vẫn đi lên ngọn đồi về phía Wimbledon. Weena có vẻ mệt và tỏ ý muốn trở về tòa dinh thự bằng đá xám. Nhưng tôi chỉ cho nàng thấy những tháp cao của tòa lâu đài xanh bằng sứ và kiếm cách giải thích cho nàng hiểu rằng tôi và nàng đang đi tìm nơi ẩn náu khỏi nỗi Sợ Hãi của nàng. Qúy vị biết sự im lặng ghê gớm ngay lúc trời sắp tối chứ? Ngay cả những cơn gió nhẹ thổi xuyên qua các tàng cây cũng ngưng đọng lại. Đối với tôi, bao giờ cũng có một biểu hiện của sự đợi chờ trong cái vắng lặng đó của buổi hoàng hôn. Bầu trời trong vắt, xa xăm và trống rỗng ngoại trừ vài lằn ngang ở tận nơi xuống của vầng thái dương. Vâng, đêm ấy cảm giác đợi chờ biến thành nỗi sợ hãi trong tôi. Giữa cái yên tĩnh tối tăm đó mọi giác quan của tôi đều trở thành sắc bén. Tôi tưởng như cảm được cả sự trống rỗng của vùng đất dưới chân; đến nỗi, gần như nhìn xuyên thủng nó để thấy những người Morlock rảo quanh các nơi chốn như tổ kiến của họ, đợi chờ trong bóng tối. Trong cơn cảm xúc, tôi tưởng tượng việc tôi xâm nhập vào lãnh thổ của họ đã bị coi là một sự tuyên chiến. Tại sao họ lại lấy chiếc máy thời gian của tôi?
"Chúng tôi tiếp tục đi trong yên lặng. Bóng xám của hoàng hôn đậm dần thành đêm tối. Màu xanh trong ở xa xăm biến dạng, các ngôi sao tiếp nối nhau hiện ra trên bầu trời. Mặt đất mờ và cây cối xám. Sự sợ hãi và mệt mỏi của Weena tăng lên. Tôi ôm nàng trong vòng tay, thủ thỉ trấn an và vuốt ve nàng. Rồi khi bóng đêm tăng thêm, nàng quàng hai tay quanh cổ tôi, nhắm mắt, áp mặt vào vai tôi. Chúng tôi đi xuống một thung lũng. Vì trời tối, suýt nữa tôi dẫm chân xuống một dòng sông nhỏ. Bước ra khỏi dòng sông, tôi đi về phía ngược lại, qua một số những dinh thự im lìm như say ngủ, và một cái tượng - hình người Faun có đuôi dê của thần thoại La Mã hoặc tương tự như vậy - đã mất đầu. Tôi cũng thấy những cây xương rồng. Chưa có dấu hiệu gì của người Morlock, nhưng đêm hãy còn sớm, lát nữa mới là những giờ tối đen trước khi có ánh trăng lên.
"Tới đỉnh ngọn đồi kế tiếp, tôi thấy một khu rừng rậm trải thành một vùng tối đen trước mặt. Tôi phân vân vì bên phải cũng như bên trái đều không thấy bìa rừng đâu cả. Đã mệt, lại đau chân, tôi cẩn thận đặt Weena xuống và ngồi nghỉ trên thảm cỏ. Tôi không còn thấy tòa lâu đài sứ màu xanh ở đâu nữa và bắt đầu nghi là mình bị lạc. Nhìn vào khu rừng rậm, tôi thầm hỏi bên trong ấy ẩn dấu những gì. Không thể nào nhìn thấy những ngôi sao trên trời dưới những tàng cây rậm rạp; dù không có sự đe dọa nào - tôi không muốn nghĩ thêm về sự đe dọa - thì vẫn có những rễ cây dễ vấp ngã và những thân cây rất khó tránh đụng vào.
"Qúa mệt mỏi sau một ngày nhiều diễn biến, tôi không muốn đối diện với những bất ngờ trong khu rừng ấy, thế là tôi quyết định nghỉ lại ở trên đồi.
"Tôi rất mừng khi thấy Weena đã ngủ saỵ Tôi cẩn thận cuốn chiếc áo choàng của tôi lên người nàng và ngồi chờ ánh trăng lên. Sườn đồi yên tĩnh và hoang vắng, nhưng trong bóng đen của khu rừng thỉnh thoảng vẫn có những âm thanh của sự sống. Trên bầu trời quang đãng những vì sao chiếu lấp lánh, cho tôi một cảm giác gần gũi thân yêu. Những chùm sao quen thuộc không còn nữa. Sự chuyển động, dù chậm chạp đến nỗi không thể nhận ra trong hàng trăm đời sống, đã từ lâu đưa chúng vào những vị trí khác. Nhưng tôi vẫn thấy giải ngân hà như một dòng của những bụi sao như cũ. Phía nam (tôi đoán thế), có một ngôi sao sáng đỏ rực rỡ, hoàn toàn lạ đối với tôi. Nó rực rỡ hơn cả ngôi sao xanh Sirius của chúng tạ Và giữa muôn ngàn điểm sáng này là một hành tinh phản chiếu ánh sáng êm dịu, như khuôn mặt của một người bạn cũ lâu ngày.
"Nhìn những ngôi sao ấy, đột nhiên tôi thấy những khó khăn của riêng tôi cũng như sự quan trọng của đời sống trên trái đất đều trở thành nhỏ bé. Tôi nghĩ đến khoảng cách không thể đo lường của những ngôi sao, những chuyển động chậm chạp như tất yếu của chúng từ một quá khứ không biết đến một tương lai không biết. Tôi nghĩ đến cái vòng tuần hoàn dài dằng dặc biểu hiện bởi sự đổi trục của trái đất. Sự chuyển đổi âm thầm đó chỉ xảy ra bốn mươi lần trong suốt khoảng thời gian tôi đã vượt quạ* Và sau số lần chuyển đổi ít ỏi này, tất cả mọi sinh hoạt, mọi truyền thống, những hệ thống phức tạp, những quốc gia, ngôn ngữ, văn chương, cảm hứng, ngay cả ký ức về loài người như tôi biết, đã bị đẩy vào quá khứ. Chỉ còn những sinh vật yếu đuối quên mất nguồn gốc cao đẳng của họ, và những sinh vật trắng bệch khiến tôi rùng rợn. Rồi tôi nghĩ đến nỗi Sợ Hãi Vô Cùng giữa hai loài người, và lần đầu tiên, với một cái rùng mình bất ngờ, tôi chợt hiểu nguồn gốc của miếng thịt tôi đã nhìn thấy. Nhưng sự thật này khủng khiếp quá! Nhìn Weena đang ngủ bên cạnh, khuôn mặt trắng trẻo của nàng sáng như một vì sao dưới những ngôi sao, tôi liền xua đuổi ý nghĩ ấy đi.
"Suốt đêm dài đó tôi cố không nghĩ đến người Morlock và giết thời giờ bằng cách nhìn lên tìm dấu tích của những chòm sao cũ. Bầu trời rất trong, chỉ thỉnh thoảng có vài cụm mây loáng thoáng. Dĩ nhiên tôi có ngủ gật vài lần, nhưng cuối cùng từ phía đông xuất hiện một vùng mờ nhạt, như ánh phản chiếu của một ngọn lửa không màu; rồi mặt trăng xuất hiện, nhọn khuyết và trắng xóa. Theo ngay sau và lấn át nó là ánh bình minh, bắt đầu một cách yết ớt rồi trở thành tươi hồng và ấm áp. Không có người Morlock nào tìm đến chúng tôi. Đúng hơn, cả đêm tôi không thấy bóng dáng một người Morlock ở bất cứ nơi nào trên đồi. Trong sự tự tin của một ngày mới, tôi gần như cảm thấy nỗi sợ hãi hôm trước của mình là vô căn cứ. Tôi đứng dậy. Bàn chân trong chiếc giày tuột đế sưng tấy ở mắt cá và thật đau dưới gót. Tôi ngồi xuống trở lại, tháo cả hai chiếc giày ra và vất chúng đi.
"Tôi đánh thức Weenạ Chúng tôi vào khu rừng bây giờ xanh tươi chào đón thay vì tối đen đầy cấm đoán. Chúng tôi dùng bữa sáng bằng một số trái cây tìm được và, sau đó chẳng bao lâu, gặp một số người Eloi đang cười đùa nhảy nhót dưới ánh mặt trời như không hề biết trên đời còn có bóng đêm. Tôi lại nghĩ đến miếng thịt mà tôi thấy. Tôi đã khá chắc chắn về nguồn gốc của nó, và tận đáy tim tôi tội nghiệp cho cái dòng suối nhỏ bé yếu ớt sau cùng của dòng sông nhân loại vĩ đại. Rõ ràng, ở một quá khứ xa xưa nào đó trong diễn trình thoái hoá của loài người, giống Morlock đã cạn nguồn thực phẩn. Ngay trước đó có thể họ phải sống bằng thịt chuột bọ hoặc các loài dơ bẩn tương tự. Ngay trong thời đại chúng ta, loài người đã không còn chọn lọc các món ăn như xưa - ít chọn lọc hơn hẳn loài khỉ. Cái thành kiến khiến họ sợ thịt người không phải là một phần của bản năng sâu xạ Vì vậy những đứa con vô nhân đạo này của loài người đã... ! Tôi cố nhìn sự việc trên căn bản khoa học. Dù sao, phải nhìn nhận là họ có ít nhân tính hơn và về thời gian cũng xa xôi hơn những tổ tiên ăn thịt người của chúng ta ba bốn ngàn năm trước. Vả lại, cái khả năng suy nghĩ khiến việc làm ghê tởm đó ám ảnh con người đã biến mất từ lâu. Tại sao tôi phải hành hạ tâm tư mình? Những người Eloi chỉ là gia súc để những người Morlock sống như kiến nuôi cho lớn và làm thịt - nhiều khi còn gây giống theo ý muốn. Và Weena vẫn đang nhảy múa bên cạnh tôi!
"Tôi cố dằn để khỏi bị sự hãi hùng chiếm ngự bằng cách nghĩ rằng đây là một hình phạt đích đáng cho sự ích kỷ của loài người. Con người đã bằng lòng sống thoải mái và vui vẻ trên sức lao động của những anh em, đã sử dụng hai chữ "nhu cầu" như kim chỉ nam và lý do biện hộ, và cuối cùng thời gian đã bắt họ trả nợ cho hai chữ "nhu cầu" đó. Tôi cố tìm cách suy nghĩ mỉa mai kiểu Carlyle về cái tính quý phái đã thoái hóa này. Nhưng tôi không làm được việc ấy. Dù trí tuệ đã suy đồi đến bao nhiêu, giống Eloi vẫn còn quá nhiều hình dáng của con người, tôi không thể nào không thương cảm, không thể nào không thấy mình muốn chia sẻ với sự suy thoái cũng như nỗi sợ hãi của họ.
"Lúc ấy tôi chỉ có khái niệm rất mơ hồ về các việc phải làm. Trước hết tôi phải tìm một nơi ẩn náu an toàn, và phải tìm vũ khí bằng kim loại hoặc bằng đá làm vật phòng thân. Đó là việc cần thiết nhất. Kế đến, tôi hy vọng tạo ra lửa, để có một ngọn đuốc trong tay; vì tôi biết lửa là vũ khí chống lại người Morlock hữu hiệu nhất. Tiếp nữa, tôi muốn tìm cách phá cánh cửa đồng dưới tòa sư tử trắng. Tôi nghĩ đên một cái búa tạ. Tôi cho rằng nếu tôi có thể lọt qua cánh cửa với một ngọn lửa, tôi sẽ tìm thấy chiếc máy thời gian và trốn thoát; vì tôi không tin những người Morlock có đủ sức mạnh để mang nó đi xạ Về Weena, tôi quyết định đưa nàng về thời đại của chúng ta.
"Vừa suy nghĩ về những kế hoạch như vậy, tôi vừa tìm đường đến tòa lâu đài mà tôi đã chọn làm nơi trú ẩn.
"Khi đến tòa lâu đài bằng sứ xanh vào giữa trưa, tôi khám phá rằng nó đã hoàn toàn hoang phế. Những cửa sổ chỉ còn miểng kiếng vỡ bám lại, lớp tường màu xanh bên ngoài đã lở nhiều nơi, để lộ ra những mảng lớn kim loại han rỉ. Tòa lâu đài ở một chỗ đất cao đầy cỏ. Nhìn về phía đông bắc trước khi bước vào, tôi ngạc nhiên nhận ra một cửa sông lớn - có thể là cả một khúc sông - đã hoàn toàn khô cạn ở chỗ hiện nay là Wandsworth và Batterseạ Thấy vậy, tôi tự nhiên thắc mắc, không hiểu những gì đã hoặc đang xảy ra cho các sinh vật ngoài biển. Nhưng tôi chỉ nghĩ đến đó rồi thôi.
"Xem xét kỹ, tôi thấy tòa lâu đài quả nhiên được làm bằng sứ. Mặt tiền có khắc một số chữ lạ. Tôi nghĩ - một cách khá ngây ngô - rằng Weena có thể giúp tôi hiểu ý nghĩa của những chữ viết đó, rồi chợt nhớ là nàng không hề có một khái niệm gì về văn tự. Chẳng hiểu sao nhiều lúc tôi có cảm tưởng nàng có đầu óc tương tự như con người chúng ta, có lẽ vì nàng có những tình cảm quá giống con người.
"Đằng sau cánh cửa đã bể và mở sẵn không phải là một căn phòng vĩ đại quen thuộc mà là một khu triển lãm được chiếu sáng bằng nhiều khung cửa sổ. Nhìn thoáng qua, khu triển lãm này gợi cho tôi hình ảnh của một viện bảo tàng. Nền gạch cũng như vô số các đồ vật đều phủ đầy bụi bặm. Ở giữa phòng rõ ràng là phần dưới của một bộ xương lớn, đứng trong tư thế quái đản và nghiêm trang. Dựa theo cái chân xéo, tôi nhận ra đó là một giống vật tiền sử đã tuyệt chủng thuộc họ Megatherium. Cái sọ và những xương ở phần trên thân nó nằm ngay bên cạnh dưới lớp bụi dày; và ở một chỗ từng có nước mưa rơi xuống theo một chỗ dột trên mái là những mẩu xương đã bị xoi mòn. Xa hơn là một bộ xương khổng lồ của loài Brontosaurus. Giả thuyết bảo tàng viện của tôi đã được xác nhận. Gần tường có những khối nằm nghiêng như những chiếc kệ. Gạt lớp bụi dày sang một bên, tôi thấy những hộp kính quen thuộc của thời đại chúng ta; và dựa theo tình trạng khá hoàn hảo của những vật bên trong, tôi đoán chúng được giữ kín không bị không khí lọt vào.
"Hiển nhiên tôi đang đứng trước tàn tích của một thời đại sau này của nam Kensington! Nơi tôi đang quan sát có lẽ là khu cổ học. Dù bị ngăn cản, và bị giảm chín mươi chín phần trăm sức mạnh vì sự tuyệt chủng của các loài vi sinh vật và vi thực vật, sự tàn phá của thời gian vẫn tiến hành một cách vô cùng chậm chạp nhưng tuyệt đối chắc chắn. Tuy thế, dựa trên những gì còn lại vẫn có thể đoán đây đã là một công trình thu thập vô cùng vĩ đại. Đâu đó tôi thấy dấu vết của loài người mới dưới dạng những thạch tích bể từng mảnh hoặc ghép với nhau. Vài hộp kính đã bị di chuyển ra khỏi vị trí ban đầu - tôi đoán thủ phạm là người Morlock. Khung cảnh thật yên lặng. Ngay cả tiếng chân của chúng tôi cũng bị hút mất bởi lớp bụi dầy. Weena, nãy giờ chơi đùa bằng cách để một con nhím biển lăn theo mặt nghiên của một hộp kính, đi đến gần trong khi tôi vẫn còn đảo mắt chăm chú nhìn quanh. Nàng lặng lẽ nắm tay và đứng cạnh bên tôi.
"Dựa theo kích thước của nơi tôi và Weena đang đứng thì tòa lâu đài bằng sứ xanh không chỉ là một nơi triển lãm cổ học. Nó có thể là một tập hợp của nhiều khu triển lãm lịch sử. Nó cũng có thể là một thư viện! Với tôi, tối thiểu trong hoàn cảnh hiện tại, những cái "có thể" đó đáng chú ý hơn là kho tàng cổ địa chất học đã bị tàn phá nằm trước mắt. Xem xét thêm, tôi tìm thấy một phòng triển lãm ngắn nằm thẳng góc với phòng đầu tiên. Phòng này dường như là khu khoáng chất. Nhìn thấy một khối sulfur, tôi nghĩ ngay đến thuốc súng. Nhưng tôi không thấy hỏa thạch; đúng nhất, chẳng có bất cứ thứ gì thuộc họ nitratẹ* Hẳn nhiên chúng đã biến mất từ lâu trên địa cầu. Riêng khối sulfur vẫn làm tôi suy nghĩ. Những thứ khác trong phòng triển lãm đó, mặc dù được gìn giữ cẩn thận hơn tất cả những gì tôi thấy, lại chẳng có gì đáng chú ý. Tôi vốn không phải là một chuyên viên khoáng chất.
"Tôi vào một hành lang hoang tàn chạy song song với căn phòng thứ nhất. Hình như đây là khu sinh vật. Vài mảnh nhăn nheo và đen đúa còn lại của những con vật nhồi. Những xác ướp khô trong những bình rượu một thời chứa cồn. Đất bụi còn sót lại của những cành lá đã tiêu tan. Tất cả chỉ có thế! Tôi thấy tiêng tiếc, vì nếu dò biết được diễn trình điều chỉnh của công cuộc chinh phục thiên nhiên hẳn là một điều thích thú. Tiếp đó chúng tôi tới một phòng triển lãm có thể diễn tả một cách nôm na là hết sức vĩ đại nhưng khá thiếu ánh sáng, mặt sàn hơi đi xuống tính từ chỗ bước vào. Trên trần có những vật hình cầu treo đều nhau, nhiều cái đã nứt hoặc bể nhưng cũng đủ là dấu hiệu cho thấy lúc đầu phòng này đã được giữ sáng bằng phương pháp nhân tạo. Nó tương đối hợp với tôi hơn các phòng trước, vì bên phải cũng như bên trái là những máy móc khổng lồ, hầu hết đều rỉ sét, nhiều cái đã đổ sụp, nhưng vài cái vẫn còn khá đầy đủ bộ phận. Tôi có tật mê máy móc, như quý vị đã biết, nên lẩn quẩn ở đó một lúc khá lâu. Một lý do khiến tôi mất thời giờ là hầu hết những máy móc đó đều rất lạ lùng, tôi chỉ có thể đoán một cách rất mơ hồ về mục đích của chúng. Tôi nghĩ nếu tôi tìm ra bí mật của chúng, có thể bí mật ấy sẽ giúp tôi đối phó hữu hiệu với người Morlock.
"Bất ngờ, Weena bám sát vào người tôi. Bất ngờ đến nỗi làm tôi giật mình. Nhưng nếu không vì vậy tôi đã không hề để ý rằng sàn của phòng triển lãm này nằm nghiêng.** Chỗ tôi vào ở trên mặt đất khá xa, và được soi sáng nhờ những cửa sổ đẹp hiếm hoi. Khi đi vào, mặt đất bên ngoài cao dần lên cản những cửa sổ này, cuối cùng tới chỗ sâu chỉ còn một lằn ánh sáng ở trên cao. Tôi đi chầm chậm, suy nghĩ về những cái máy, quá chìm đắm trong thế giới của đầu óc nên hoàn toàn không biết là ánh sáng càng lúc càng ít đi, cho tới khi sự sợ hãi tăng dần của Weena khiến tôi chú ý. Tôi đưa mắt ra xa, thấy căn phòng triển lãm chạy dài đến một vùng bóng tối. Lưỡng lự một lát, tôi nhìn quanh và nhận ra rằng lớp bụi phủ trên sàn có phần mỏng hơn và thiếu đều đặn hơn, và ở phía xa, gần khu bóng tối, hình như bị gián đoạn bởi một số vết chân nhỏ và hẹp.
"Cảm giác về sự hiện diện của người Morlock tức thì sống dậy trong tôi. Tôi thấy mình đã tổn phí thời giờ xem xét những chiếc máy kia một cách vô ích. Tôi nhận ra lúc ấy đã về chiều, và tôi vẫn chưa có vũ khí, chưa có nơi ẩn náu, chưa có phương tiện để làm ra lửa. Rồi từ trong vùng bóng tối sâu thẳm của căn phòng, tôi nghe những tiếng xì xào lạ kỳ, y hệt như những tiếng tôi đã nghe ở dưới chiếc giếng kia.
"Tôi nắm tay Weena và rồi, nảy ra một ý bất ngờ, tôi bỏ nàng đứng đó chạy đến một chiếc máy có một cái cần giống như cần của các ổ điện đèn đường. Leo lên dàn giữ máy, tôi nắm cái cần bằng hai tay, kéo ngang bằng hết cả sức nặng của mình. Weena bắt đầu kêu lên những tiếng sợ hãi vì phải đứng một mình ở giữa lối đi. Tôi đã ước lượng sức chịu của cái cần khá chính xác, quả nhiên nó gãy sau khoảng một phút bị kéo mạnh. Thế là tôi trở về bên cạnh Weena với một vũ khí chắc chắn dư sức đập bể bất cứ chiếc sọ Morlock nào tôi gặp. Qúy vị có thể cho là tôi tàn ác, ai lại muốn giết con cháu mình! Nhưng chẳng hiểu sao tôi không thể cảm thấy một dấu vết gì của con người ở chúng. Nếu không vì phải coi chừng Weena và vì sợ sự thèm khát giết chóc có thể gây tai hại cho chiếc máy thời gian, tôi đã chạy thẳng xuống vùng bóng tối của căn phòng, giết sạch bọn thú đã gây ra những tiếng động lọt đến tai tôi.
"Một tay nắm thanh kim loại, một tay giữ Weena, tôi rời phòng triển lãm đó để đến một phòng khác rộng lớn hơn, thoáng nhìn giống như một giáo đường quân đội treo đầy những mảnh cờ rách vụn. Rồi tôi nhận ra những mảnh màu nâu rách nát từ tường nhô ra chính là dấu tích của những quyển sách. Chúng mục nát từ lâu, và mọi dấu vết của văn tự đều không còn nữa; nhưng những mẩu giấy cứng cong queo, và những miếng gài bằng kim loại rạn nứt đã nói lên tất cả. Nếu là một con người văn chương, có lẽ tôi đã suy ngẫm về sự vô ích của mọi tham vọng. Nhưng điều khiến tâm tư tôi giao động mạnh nhất là sự uổng phí công lao của loài người, hiển hiện qua những mẩu giấy mục nát buồn thảm kia. Phải thú nhận lúc ấy tôi nghĩ nhiều nhất đến mười bảy bài nghiên cứu quang học của tôi đã xuất hiện trong các tập Philosophical Transactions.
"Đi lên một cầu thang rộng, chúng tôi đến một căn phòng có lẽ một thời là khu triển lãm hóa học. Tôi không có hy vọng tìm được thứ gì ở đây. Ngoại trừ một góc trần bị sụp xuống, căn phòng còn khá toàn vẹn. Nóng nảy xem xét từng tủ kính chưa bị bể, cuối cùng, trong một tủ kính được bịt thật kín để ngăn không khí, tôi tìm thấy một hộp diêm. Tôi vội vàng thử ngay và khám phá là nó ở trong tình trạng hoàn hảo. Tôi quay về phía Weena, nói bằng ngôn ngữ của nàng: "Nhảy múa đi Weenạ" Với hộp diêm này, tôi đã có trong tay vũ khí hữu hiệu nhất để chống lại người Morlock. Thế là giữa cái bảo tàng viện già nua hoang phế đó, trên lớp thảm bụi dày, trong sự vui mừng vô hạn của Weena, tôi trân trọng nhảy theo một điệu vũ hỗn hợp, vừa sung sướng huýt gió bài "the Land of the Leal." Có lúc tôi theo một điệu cancan đơn giản, có lúc là điệu dậm chân, có lúc là điệu múa váy (tôi dùng hai đuôi dài của chiếc áo ngoài), có lúc là những bước do tôi tự chế ra, vì như quý vị đã biết, tôi vốn có nhiều sáng kiến.
"Nghĩ lại, một hộp diêm hoàn toàn không bị thời gian xoi phá quả là chuyện kỳ lạ bậc nhất trên đời, và là một điều cực kỳ may mắn cho tôi. Vậy mà, tôi còn tìm ra một chất lạ kỳ hơn nữa: băng phiến. Khối băng phiến này ở trong một cái bình mà - tôi đoán có lẽ nhờ một sự tình cờ ghê gớm - hoàn toàn không bị không khí len vào. Tôi cứ tưởng nó là chất nến, nên đập bể cái bình không nương taỵ Nhưng mùi băng phiến không thể lầm được. Thử nghĩ, trong khi mọi vật chung quanh đều mục nát, chất dễ bay hơi này lại tồn tại có lẽ đến cả hàng ngàn thế kỷ! Nó khiến tôi nhớ lại bức in từ một thạch tích đã hóa đá từ cả triệu năm về trước mà có lần tôi được thấy. Tôi định vất khối băng phiến đi, nhưng sực nhớ băng phiến là chất dẫn hỏa cháy với ngọn lửa thật sáng, tức là có thể dùng như một cây nến thượng hạng; tôi bèn bỏ nó vào túi áo. Tôi không tìm thấy thuốc nổ, cũng không thấy bất cứ thứ gì khác có thể phá cánh cửa đồng dưới tòa sư tử. Ngắn gọn, thanh sắt là chiến lợi phẩm hữu dụng nhất của tôi. Tuy vậy, tôi rời phòng triển lãm đó lòng ngập tràn vui sướng.
"Tôi không thể kể cho quý vị tất cả những chuyện xảy ra trong buổi chiều hôm ấy, bởi hồi tưởng lại những chi tiết của mọi cuộc thám hiểm theo đúng thứ tự không phải là chuyện dễ. Tôi nhớ có một căn phòng với những giá kim loại rỉ sét. Tôi đã phân vân giữa thanh sắt trong tay, một cái búa, và một thanh kiếm. Tôi không thể mang theo tất cả, và thanh sắt vẫn cho tôi nhiều hy vọng nhất trong việc phá cánh cửa đồng kia. Tôi cũng thấy một số súng trường và súng lục. Hầu hết chỉ còn là những khối thép rỉ, nhưng nhiều khẩu súng được chế bằng một thứ kim loại thì coi vẫn còn khá tốt. Rất tiếc những thứ từng là băng đạn hoặc thuốc súng đều đã mục nát trở thành cát bụi. Một góc phòng bị vỡ và có nhiều vết nám, tôi đoán là hậu quả của một vụ nổ tình cờ. Tới một chỗ khác thì đầy đầy những tượng - Polynésia, Mễ Tây Cơ, Hy Lạp, Phoenician, có lẽ tất cả mọi nước trên thế giới. Ở đó, không dằn nổi ý muốn thúc đẩy, tôi viết tên tôi lên mũi một pho tượng quái vật Nam Mỹ mà tôi đặc biệt chú ý.
"Sự tò mò của tôi giảm dần khi bóng chiều trải xuống. Tôi đã qua hết phòng triển lãm này đến phòng triển lãm khác. Phòng nào cũng đầy bụi bặm, cũng im lìm, đa số hoàn toàn hư phế. Những vật triển lãm có chỗ chỉ còn là những đống kim loại rỉ sét hoặc những vụn than non, có chỗ đỡ hơn một chút. Ở một chỗ tôi đột nhiên thấy mình đang đứng gần mô hình của một mỏ thiếc, và rồi do một sự tuyệt đối tình cờ tôi tìm được, trong một cái hộp ngăn không khí, hai khối mìn! Tôi kêu lớn lên "Eureka!" và sung sướng đập vỡ cái hộp ra. Rồi một sự nghi ngờ khiến tôi lưỡng lự. Tôi chọn một phòng triển lãm nhỏ bên cạnh để thực hiện cuộc thí nghiệm của mình. Chưa bao giờ tôi thất vọng đến như vậy, tốn năm, mười, mười lăm phút để chờ đợi một tiếng nổ không bao giờ xảy ra. Dĩ nhiên hai khối mìn đó chỉ là đồ giả, bởi có ai chưng mìn thật trong hộp ở một phòng triển lãm bao giờ. Nghĩ lại, nếu đó là mìn thật, rất có thể là tôi đã vội vàng chạy đi phá nát tất cả: tòa sư tử, cánh cửa đồng, và (như sự kiện sau này chứng minh) ngay cả hy vọng tìm ra chiếc máy thời gian.
"Hình như ngay sau đó chúng tôi đến một cái sân trống nhỏ trong tòa lâu đài. Sân này mọc đầy cỏ và có ba cây sai trái. Chúng tôi nghỉ ngơi và ăn trái cây. Khi mặt trời sắp lặn, tôi nghĩ lại hoàn cảnh của tôi và Weenạ Đêm sắp xuống, và tôi vẫn chưa tìm ra một nơi ẩn náu để không còn ai xâm phạm được. Nhưng điều đó chẳng còn khiến tôi lo ngại mấy. Trong tay tôi có một vũ khí mà tôi cho rằng hữu hiệu nhất để chống lại người Morlock. Tôi có những que diêm! Ngoài ra, tôi còn có một miếng băng phiến trong túi áo để đốt lên một ngọn lửa sáng nếu cần. Tôi nghĩ cách hay nhất là ở ngay ngoài trời đêm đó, với một ngọn lửa phòng thân. Sáng hôm sau phải tìm cách lấy lại chiếc máy thời gian. Để đạt mục đích, tôi vẫn chẳng có gì hơn là một thanh sắt. Nhưng bấy giờ, nhờ hiểu biết nhiều hơn, sự suy nghĩ của tôi đã thay đổi. Cho đến lúc ấy tôi còn cố dằn lòng chưa tìm cách nạy cho cánh cửa bật ra chỉ vì không rõ phía bên kia có bí mật gì. Tôi không tin là cánh cửa ấy chắc lắm, và tôi hy vọng thanh sắt của tôi đủ cứng để làm nó mở ra.