:00 (43)::00 (43)::00 (43)::00 (43):
Mở đầu mình xin mang đến các bạn một thi phẩm của thi sĩ Thôi Hộ
Đề Đô thành Nam trang
Đề Đô thành Nam trang (hay còn gọi Đề tích sở kiến xứ) là một trong rất ít những bài Đường thi nói về chủ đề tình yêu của tác giả Thôi Hộ. Tuy sáng tác ít nhưng Thôi Hộ được "lưu danh thiên cổ" cũng nhờ vào bài thất ngôn tứ tuyệt gắn với "thiên tình sử" nhiều giai thoại này.
Khi sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng mượn hai câu trong bài thơ này để miêu tả tâm trạng Kim Trọng khi trở lại vườn Thúy thì Kiều đã bước vào con đường lưu lạc.
Nguyên tác
題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑冬風.
Phiên âm
Đề Đô Thành Nam Trang
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Dịch nghĩa
Đề (thơ) ở trại phía Nam Đô Thành
Ngày này năm ngoái tại cửa đây
Hoa đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng
Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nao
(Chỉ thấy) hoa đào vẫn như cũ cười với gió đông.
Đô Thành: Tức Trường An (kinh đô nhà Đường)
Dịch thơ
Tản Đà dịch thơ:
Năm xưa cửa ấy ngày này,
Hoa đào đua nở cho ai thêm hồng.
Nay đào đã quyến gió đông,
Mà sao người đẹp bềnh bồng nơi nao.
Trần Trọng Kim dịch thơ:
Hôm nay, năm ngoái, cửa cài
Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi
Mặt người chẳng biết đâu rồi
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.
Anh-Nguyên dịch thơ:
Ngày này cửa ấy năm qua,
Má ai ửng đỏ bên hoa anh đào.
Mà nay người đẹp nơi nao,
Hoa đào như cũ cười chào gió đông...
Đông Hoài dịch thơ:
Ngày này, cửa ấy, năm xưa
Mặt người in bóng đào hoa sáng ngời
Hôm nay đâu thấy mặt người
Hoa đào năm cũ vẫn cười gió đông.
bài này tặng út mụi mụi
giai thoại về bài thơ
Thôi Hộ tự Ân công, người quận Bác lăng, nay là Định huyện, tỉnh Trực lệ, Trung Hoa, sống vào khoảng niên đại Đường Đức tông. Thôi Hộ vốn lận đận khoa cử lại là người tuấn nhã, phong lưu nhưng sống khép kín, ít giao du.
Một lần nhân tiết Thanh minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía nam thành Lạc Dương. Nhân thấy một khuôn viên trồng đào rất đẹp, tươi thắm những hoa, chàng đến gõ cổng xin nước uống. Lát sau lại thấy một thiếu nữ diễm lệ e ấp nấp trong vườn đào. Uống nước xong, chàng ra đi.
Năm sau, cũng trong tiết Thanh minh, người con trai trở lại chốn cũ, nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi không thấy ai. Chàng viết bài thơ trên dán trên cổng. Lâu sau nữa, khi trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra rồi thấy một ông lão ra hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không và cho biết con gái của cụ sau khi đọc xong bài thơ bỏ cả ăn uống, đã chết, xác vẫn còn ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người con gái, tuy đã tắt thở nhưng vẫn còn ấm và mặt mày vẫn hồng nhuận. Chàng quỳ xuống than van kể lể. Người con gái sống lại và họ trở thành vợ chồng. Bài thơ ghi lại mối tơ duyên bất hủ nhuốm màu sắc một huyền thoại.
Đến năm 796, niên hiệu Trinh Nguyên Thôi Hộ đậu tiến sĩ, làm tiết độ sứ Lĩnh Nam.
Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri, khuynh quốc dữ khuynh thành,
Giai nhân nan tái đắc.
vô danh thị
có sách cho rằng bài này của lý diên niên , nhưng mình ko đồng ý
Bài ca về người đẹp
Nơi phương Bắc có mỹ nhân,
Đứng riêng, nhan sắc tuyệt trần như tiên.
Thoáng nhìn thành đã ngã xiên,
Nhìn thêm lần nữa đảo điên nước nhà.
Không màng thành ngã nước nghiêng,
Chỉ e khó gặp người tiên hai lần.
(Người dịch Linh Nhi)
bài này tặng rổ rổ , huyết kê huynh
Chút cảm nhận riêng , thà rằng khuynh thành đổ nước , chỉ biết rằng nguời đẹp khó gặp ....nồng cháy , say mê .......
Đề trước thư,
Lệ lạc chẩm tương phù,
Thân trầm bị lưu khứ.
Tương tống Lao Lao (1) chử,
Trường Giang bất ưng mãn,
Thị nùng (2) lệ thành hử.
thơ dân gian nam triều
Dịch Nghĩa:
Dưới Chân Núi Hoa Sơn (3)
Khóc đến rạng ngày,
Nước mắt rơi khiến nổi cả gối,
Thân chìm đắm, chăn trôi đi mất.
Tiễn nhau bên bến Lao Lao,
Trường Giang chẳng nên đầy,
Là nước mắt em tràn ngập.
Dịch Thơ:
Khóc suốt năm canh,
Chăn gối lênh đênh trên dòng nước mắt,
Thân em chìm ngập dưới lòng sâu.
Tiễn nhau bên bến Lao Lao,
Lệ em lặng lẽ chảy vào Trường Giang.
Dòng sông nước mắt mênh mang.
Chú thích:
(1) Lao Lao chử: Bến Lao Lao: Địa danh.
Gần Kiến Nghiệp, kinh đô nước Ngô thời Tam Quốc có núi Lao Lao. Trên núi, người ta dựng đình Lao Lao, là nơi tiễn biệt. Bến Lao Lao ở gần đó.
(Thơ Lý Bạch:
Thiên hạ thương tâm xứ
Lao Lao tống khách đình
- Nơi đau lòng dưới gầm trời này là đình Lao Lao, nơi tiễn khách)
(2) Nùng: Đại từ ngôi thứ nhất.
(3)"Hoa Sơn kỳ": chùm thơ "Hoa sơn kỳ" gồm 25 bài, thuộc "Ngô thanh ca khúc" trong "Nhạc phủ thi tập".
Về xuất xứ của chùm thơ này, sách "Cổ kim nhạc lục" có ghi một câu chuyện như sau:
Thời Tống Thiếu đế Lưu Nghĩa Phù, ở Nam Từ có một chàng thư sinh từ Hoa Sơn đi Vân Dương.
Trong quán trọ, chàng gặp một người con gái tuổi chừng 18. Chàng đem lòng yêu quí cô gái nhưng không có cách gì cầu thân được, vì vậy mà thành tâm bệnh. Người mẹ hỏi chàng duyên cớ, chàng liền kể hết với mẹ. Người mẹ vì chàng mà đến Hoa Sơn tìm gặp người con gái, kể hết sự tình. Cô gái nghe chuyện rất cảm động, bèn đôi tất của mình trao cho bà mẹ và dặn rằng cứ dấu đôi tất xuống dưới chiếu của chàng thì bệnh chàng sẽ đỡ hơn. Người mẹ làm theo lời nàng. Chẳng bao lâu, bệnh tình của chàng quả nhiên thuyên giảm. Một hôm chàng bỗng giở chiếu lên, trông thấy đôi tất liền ôm lấy rồi nuốt luôn đôi tất ấy mà chết. Lúc lâm chung, chàng xin mẹ hãy cho xe tang chàng đi qua Hoa Sơn. Người mẹ làm theo ý chàng. Lúc xe tang đi qua cửa nhà nàng, bò kéo xe không chịu đi, đánh đập cách mấy chúng cũng không nhúc nhíc. Người con gái trang điểm bước ra, ca rằng:
Dưới chân núi Hoa Sơn,
Chàng đã vì em mà chết.
Em một mình biết sống vì ai,
Chàng có thương em hãy mở nắp quan tài.
Đáp lời nàng, nắp quan tài bật mở. Nàng vào trong áo quan, nắp quan tài liền đóng lại. Người nhà không cách gì cậy được nắp quan tài. Họ đành hợp táng hai người, gọi là "Thần nữ trủng" (mộ nữ thần).
Núi Hoa Sơn thuộc tỉnh Giang Tô
tự Ma Cật, người huyện Kỳ, nay thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung quốc. Cha làm quan đến chức Tư Mã, mẹ rất sùng bái đạo Phật, nên có ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng của Vương Duy sau nàỵ Ông được xếp ngang hàng với ba đại thi hào đời Ðường là Lý Bạch, Ðỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Ông thật đa tài : giỏi thi ca, tinh thư pháp, thông âm nhạc và sành hội họa. Ðời sau tôn ông là “Khai sơn tổ sư” của lối vẽ “Thủy mặc Nam Phương”.
Năm 21 tuổi, Vương Duy thi đỗ tiến sĩ, được phong quan đến chức Thượng Thư Hữu Thừa. Vợ mất lúc ông ba mươi tuổi, nhưng ông không tục huyền, sống yên tĩnh với chức quan văn nhàn hạ, “suốt ngày gãy đàn thổi sáo, làm phú vịnh thơ “. Và ” mỗi lần bãi triều thì về đốt hương ngồi một mình, tụng niệm kinh Phật”.
Ông ăn chay trường, thường kết bạn, đàm luận với các nhà sư, và cung cấp thức ăn cho hơn mười vị tăng . Tư tưởng ấy có ảnh hương sâu sắc đến ngôn từ và cảm xúc trong thơ. Ông có địa vị khá cao trong Thiền phái Nam Tông, và người đương thời rất tôn trọng, gọi ông là “Thi Phật”. Những khía cạnh nghệ thuật mà ông tinh thông, như thi ca , hội hoạ, âm nhạc đều được phối hợp chặt chẽ, cân đối trong các tác phẩm của ông. Thơ ông có trên nghìn bài, nhưng sau loạn An Lộc Sơn, chỉ còn sót một phần mười, và sau này em trai ông góp nhặt được bốn trăm bài. Văn hào Tô Ðông Pha đời Tống đã ca tụng các tác phẩm của ông : “Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ thấy có hội hoạ, ngắm những bức họa của Ma Cật lại thấy trong đó có thơ” ( vi Ma Cật chi thi, thi trung hữu hoạ, quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu thi).
Trong các bài thơ ông, đặc biệt trong thời vãn niên, thơ sơn thủy điền viên chiếm đa số, mang chất nghệ thuật cao tạo nên một phong cách độc đáo, và trở thành nét chủ yếu trong “chân diện mục” của ông “Phật thơ”. Ông thường mô tả cuộc sống nơi nông thôn yên tĩnh, trong sáng, con người nhàn nhã,với lời thơ nhuần thấm một cách hài hòa tâm thanh tịnh “vô sinh, bất tử” của đạo Phật và phong thái vô vi, nhàn tản của Lão Trang.
:1 (2)::1 (2)::1 (2)::1 (2):
Tương tư
相思
紅豆生南國,
春來發幾枝。
願君多采擷,
此物最相思。
Tương tư
Hồng đậu sinh nam quốc,
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.
Tương tư (Người dịch: Hải Đà)
Nước nam sinh đậu đỏ
Xuân về nở cành xinh
Chàng ơi hái nhiều nhé
Nhớ nhau tha thiết tình
tặng lính tỷ tỷ , và người đuợc tỷ tương tư:0 (27)::0 (27):
Đả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Đề thì kinh thiếp mộng,
Bất đắc đáo Liêu Tê.
vì sao phải chuyển thành liêu tê , chữ tây = tê , vì trong thơ chữ hán có một số trường hợp phải chuyển âm cho hiệp vần [ khi đọc theo âm hán việt ]
--Dịch Nghĩa--
Đánh đuổi con chim oanh vàng đi
Đửng cho nó kêu trên cành
Khi nó kêu làm kinh động giấc mộng của thiếp
không mơ đến được Liêu Tây.
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Đuổi giùm hộ thiếp con oanh,
Đừng cho nó hót trên cành trêu ai.
Làm tan mộng thiếp đang say,
Thiếp không được đến Liêu Tây với chang
--Bản dịch của Ngô Tất Tố--
Nhờ ai đuổi hộ con oanh,
Chớ cho nó quái trên cành véo von.
Làm cho em ngủ không ngon,
Hồn mơ chẳng tới cửa đồn Liêu Tây !
--Bản dịch của Đỗ Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản--
Đuổi giùm em cái hoàng oanh,
Véo von hát mãi trên cành chi đây.
Giật mình tỉnh giấc mộng say,
Hồn không đến được Liêu Tây cùng chàng
--Bản dịch của Vô Tình
Oán Xuân
1
Nhờ ai giùm đuổi đàn oanh đó
Chúng hót trên cành mãi suốt đêm
Phá hỏng giấc mơ - nàng sắp đến
Liêu Tây đồn trú để tìm thăm.!
2
Nhờ ai giùm đuổi oanh đây?
Đừng cho chúng hót trên cây nhà nàng
Phá tan giấc mộng dỡ dang
Làm sao thiếp đến thăm chàng Liêu Tây?
Complaint Of Spring
1
Please, don\'t let the Orioles come here
Their songs - I do not want to hear
It will make break my beautiful dream
Therefore, I cannot come to Lioxi to see him
1
Please, drive the Orioles away from the trees
Their songs make me wake up - in a hurry
My beautiful dream also breaks, really
Therefore - I cannot see him at Lioxi