Vua Hàm Nghi rời Kinh thành Huế được ba ngày thì có hai người học trò tên là Nguyễn Văn Mai và Hoàng Thông tìm ra Quãng Trị đi theo vua. Đến Quãng Trị mới rõ Tôn Thất Thuyết đã phò vua lên Tân Sở rồi. Lại nghe ngày mai quân Pháp lại cho tàu thủy ra ngược sông Vĩnh Định đóng đồn chặn đường hoạt động của quân Cần vương. Hai anh học trò thất vọng phải lui về. Khi đi ngang qua Trạm Diên Sanh trời đã đứng bóng hai anh học trò gặp một ông lão, tay cầm gậy tre, mình mặc áo đà, đầu đội nón sơn, vai mang một cái ruột tượng cùng vài ba người phụ nữ vừa đi vừa nói chuyện. Hai người nhìn kỹ thì được biết ông lão là phò mã Thân Văn Di, chồng bà công chúa Lại Đức - một nhà thơ nổi tiếng xứ Thần Kinh. Hoàng Thông chạy ra vái chào và hỏi:
- "Thưa bác, bác đi đâu mà trưa nắng dữ vậy? mời bác vào quán nghỉ chân một chút!"
Ông lão cáo từ mấy người đồng hành rồi vào quán. Vừa ngồi xuống ghế ông đã hỏi:
- "Hai anh cũng đi mô mà nắng non rứa?"
- "Nghe vua ra Quãng Trị chúng cháu đi theo, không ngờ ông tướng đã đưa vua lên Thượng du rồi! buồn quá!"
Ông liền bảo:
- "Hai anh buồn cũng phải. Nhưng không sao. Hai anh còn trẻ tuổi, chưa mang ơn nước ở nhà lại có mẹ già. Người ta lập thân duy trung với hiếu, không được hết đạo làm tôi thì hay hết đạo làm con. Nhà ta mấy đời mang ơn nước, không phải như các anh. Nay vua đi ra mà không một ai đi theo thì lấy gì bảo ban thiên hạ. Ta là gia trưởng, tuổi đã 56 rồi, không còn ư ớc vọng gì nữa. Sở dĩ trì hội đến nay là vì có hai con dại, lo gởi cho nhà ngoại nuôi nấng, sau khôn lớn đi làm ruộng mà ăn. Ta không còn mong chi nữa nên ta đi!"
Hai anh học trò cảm động rơi nước mắt. Một anh nói giọng lo lắng:
- "Vua đã lên Thượng du rồi, sợ bác tuổi già đi không kịp!"
Ông khoát tay nói dứt khoát:
- "Thân già há còn bôn tẩu được sao. Sự thể ngày nay há có thể hiệu triệu người trung nghĩa mà mưu khôi phục sao? Mất cả 13 tỉnh, há có thể lấy lại được một thành, một tỉnh mà phụng sự xã tắc sao"? Ta cứ từ từ đi, để cho khỏi phải phụ lương tâm ta, tìm một cái chết có ý nghĩa là đủ. Hai anh cứ lui về chớ có nghĩ sai lầm".
Nói xong ông từ biệt ra đi. Hai anh học trò chạy theo đưa ông lên đường và hỏi "Trong ruột tượng đựng gì?" Ông nói "Vài ba cái áo cũ", "Trong ống tre đựng gì" Ông nói: "Muối rang".
Một trong hia người học trò ấy sau này trở thành nhà văn. Viết lại chuyện xưa ông đã kết luận: "Những bậc trung thần nghĩa sĩ thuở xưa ta thường nghe nói mà chưa thấy người. Nay mới thấy một.
Gia Long lên ngôi phải lo đối phó nhiều việc nên chưa nghĩ đến việc xây lăng. Mãi đến tháng 2-1814 bà vợ cả của ông mất, ông mới sai đại thần Tống Phúc Khuông và Thương thư bộ binh Phạm Như Đăng đưa thầy địa lý Lê Huy Thanh (con trai Lê Qúy Đôn - một học giả nổi tiếng) đi tìm cát địa. Cơm đùm gạo bới đi khắp cả vung Thừa Thiên mới tìm được phúc địa. Lê Duy Thanh thấy long mạch chạy từ núi Thiên Thọ nhưng thế đất mấp mô lên xuống đến năm cuộn, ông phân vân không biết nên chọn chỗ nào.
Sau bảy lần tính toán, Thanh quyết lấy nổng gò bên kia hồ. Tin tìm được phúc địa bay về Kinh, Gia Long mừng rỡ chọn ngày lên tại chỗ xem xét lại.
Quan quân được lệnh dọn sạch cây cối ở quanh vùng. Gia Long cưỡi voi đến.
Xem xét thực địa và nghe Lê Duy Thanh thuyết minh, Gia Long không bằng lòng chỗ đất đã chọn, ông thúc voi lên đồi Chánh Trung ngắm nghía rồi mắng rằng:
- "Thầy lựa nơi kia, còn nơi này thầy để thầy chôn ông thân thầy phải không?".
Duy Thanh quỳ lạy xin tha tội. Gia Long quyết định xây lăng tại đồi Chánh Trung và lăng được khởi công ngày 22 tháng 3 năm Gia Long thứ 13(1844). Duy Thanh bị đuổi về Bắc kỳ. Một người có công lại hóa ra là người mắc tội.
Cuộc đời của một ông tướng lừng danh bắt đầu từ một bài văn nhỏ
Nguyễn Văn Chương (1800-1874) xuất thân trong một gia đình làm ruộng và thợ mộc ở làng Chí Long huyện Phong Điền (cũ). Tuy cha mẹ nghèo nhưng ông cũng được theo học liên tiếp với ba thầy mà thầy nào trong một thời gian cũng "hết chữ". Chương có óc thông minh và trí nhớ khác thường. Khi các thầy đã hết chữ, ông tự học một mình, ngày đêm miên man đọc sách, nhất là sách Luận Ngữ, Tả Truyện. Ông đọc cả sách dạy võ, ham luyện võ thuật, nghiên cứu binh thơ đồ trận cùng những sách có thể ứng dụng được cho đời. Thấy ông có một sự hiểu biết uyên bác, một lối suy luận sâu sắc chưa ai từng có (ở Phong Điền), cho nên người đương thời cứ nghĩ rằng ông gặp được dị nhân truyền dạy cho những điều kiện tuyệt ấy chứ người đời dễ gì có thể dạy cho ông được như thế.
Ông không thích lối học văn cử nghiệp. Nhân khi vua Minh Mạng có chiếu chỉ chiêu mộ những người có học thức vào làm nha lại tại các phủ, huyện, ông xin vào giữ một chân thơ lại nhỏ ở huyện Phong Điền. Lúc ấy ở huyện có xảy ra một vụ án khá bí ẩn khiến các quan lại không ai có thể khám phá ra được. Nghe nói Nguyễn Văn Chương có óc thông minh tuyệt vời, trí xảo thần diệu, họ bèn gọi ông đến giao cho ông xét vụ án. Quả nhiên ông đã tìm ra thủ phạm. Văn Chương đã dùng một lối văn sắc bén, khúc chiết minh bạch để viết bản án. Đám quan lại đã trải qua nhiều trường ốc cũng phải tấm tắc khen ngợi. Bản án đó được đưa lên Tỉnh rồi Tỉnh chuyển qua Bộ. Bộ xem qua thấy giá trị cái bản án này tương đương với một văn bằng đại học cho nên tác giả bản án được bổ làm thơ lại ngay tại bộ Hộ Ở Kinh thành. Ở Bộ Ông học chưa đầy ba tháng ông lại đã tinh thông cả toán tinh, toán diền.
Vua Minh Mạng vốn là người học rộng, biết trọng nhân tài nghe tin các quan đồn đại tài đức của Chương, nhà vua liền goiï vào bệ kiến. Mới trông thấy Chương thân hình tráng kiện, mặt mũi khôi ngô, Minh Mạng mừng rỡ khen rằng:
- "Người này coi bộ phẩm cách hơn người khen cho ai đã có mắt xét được hiền tài, tiến cử cho ta một người xứng đáng".
Vua truyền đem giấy bút bảo Văn Chương làm một tờ sớ ngay trước mặt vua. Văn Chương hí hoáy viết một lúc là xong ngay, rồi dâng trình ngự lâm. Minh Mạng là người rất nghiêm khắc thế mà khi xem xong tờ sớ cũng phải buộc miệng khen rằng:
- "Chữ tốt, văn hay, dù bậc đại khoa cũng không hơn được".
Từ đó Văn Chương được bạt thọ hàm Điển bộ lãnh chức biên tu (Chánh thất phẩm cùng một trật với giáo tho, kinh lịch) tại Nội các tức Văn phòng của vua ở Nội điện, không bao lâu sau ông được thăng lên đến Hồng Lô Tự Khanh (Chánh tứ phẩm cùng một trật với phủ thừa án sát) và vẫn làm việc ở Nội các. Đến năm ông 35 tuổi ông được chuyển từ văn qua võ, ông phục vụ ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức... và trở thành một người anh hùng chống thực dân Pháp tuy không may mắn nhưng đáng cho lịch sử vô cùng tín ngưỡng. Vì tài trí và công lao của Nguyễn Văn Chương nên đến năm 1850, vua Tự Đức đã chuẩn phê cải tên cho ông là Nguyễn Tri Phương. Đổi tên dựa theo câu "Dõng thả tri phương" có nghĩa là dõng mãnh và còn lắm mưu lược.
Một công trình nhỏ của một người tài có giá trị hơn một mảnh bằng lớn của một kẻ bất tài.
Trước giờ tấn binh ra Bắc tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, Nguyễn Huệ cho thiết lập đàn tại núi Bân ở Kinh đô Phú Xuân làm lễ đăng quan và tế trời đất.
Đứng trước ba quân đội ngũ chỉnh tề, gươm đao sáng lóa, Nguyễn Huệ bước lên đất Nam Giao nói lớn:
- Hỡi ba quân tướng sĩ! Lần này ta đem quân ra Bắc Hà hỏi tội giặc Thanh đem lại yên vui cho trăm họ. Nếu điềm trời cho đại binh ta thắng trận, trời sẽ báo cho 200 đồng tiền này sấp cả. Nhược bằng tiền có đồng ngửa, ấy là nghiệp lớn của quân ta còn nhiều trắc trở. Vậy ba quân hãy cùng ta coi cho tường điềm thắng bại đó.
Nói rồi Nguyễn Huệ sửa lại lễ phục, bước xuống bãi cỏ rộng. Quân hộ vệ khiêng tới một hương án khói trầm nghi ngút và mâm tiền đồng nặng trĩu. Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái rồi bưng mâm tiền, cung kính dâng cao lên đầu, hất tung trên bãi cỏ xanh.
Tướng lĩnh, quân sĩ đứng ở hàng đầu chăm chú nhìn những đồng tiền lớn bằng miệng chén rơi tung tóe. Rồi họ cùng kinh ngạc reo lên:
- Sấp! Sấp! Sấp cả! Đại thắng rồi...Đại thắng...
- Quang Trung vạn tuế!...
Nhiều người muốn tới gần, lật hẳn lên coi cho tường tận, nhưng e phạm vào quân lệnh bất nghiêm, nên đành đứng im.
Nguyễn Huệ tươi cười, hướng xuống quân sĩ nói lớn:
- Hỡi ba quân! Các người: 200 đồng tiền đều sấp. Thế là trời đã phù hộ, báo điềm thắng trận cho ta. Vậy quân sĩ hãy nức lòng cùng ta đánh giặc. Chắc chắn giặc Thanh sẽ bị quét sạch trong nay mai. Hãy nổi trống, truyền lệnh xuất quân...
Quân sĩ reo hò dậy đất, cơ nào đội ấy, rùng rùng tiến binh. Ai cũng vững một niền tin chiến thắng.
"Điềm trời" ấy, thực ra chỉ là một mẹo nhỏ của Quang Trung Nguyễn Huệ. Thuở ấy mọi người còn nặng tin ở trời, phật, thần thánh... Người Huệ dựa vào đó bí mật cho đúc 200 đồng tiền một mặt (toàn mặt sấp) xin âm dương trong buổi lễ đăng quang nhằm cỗ vũ ba quân xong lên giết giặc.
Tự Đức được xem là một ông vua thông minh, có tâm hồn thi sĩ. Ông đặt tên cho cái lăng của mình là Khiêm Lăng, ý ông muốn tỏ cho người đời thấy rằng ông rất khiêm tốn. Nhưng thật sự Ông rất kiêu, tự cao, tự đại. Có lần ngồi trước mặt các ông Hoàng giáp Thám hoa, nhà vua đã biểu lộ rằng:
- Trẩm bất ưng thí, nhược ứng thí, tất trúng Trạng nguyên! (Trẫm không đi thi, nhưng nếu đi thi tất Trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên).
Tuy tự nhận thế nhưng ông cũng biết chắc không có một người nào giỏi hơn mình công nhận rằng Tự Đức đáng đỗ Trạng nguyên. Như thế thì ông có thi thố tài năng đến mấy cũng không thể làm cho quần thần khuất phục. Tự Đức bèn nảy ra một "sáng kiến" cùng các ông đại khoa như Giao, Hàm, Đạt... làm một bài luận rồi rọc phách gởi qua Trung Quốc, nhờ vua Thanh lập một ban giám khảo chấm giúp.
Ít lâu sau, vua Tàu gởi trả lại bài đã chấm. Tự Đức giở ra xem với ý nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu. Nhưng không ngờ đầu cũng không phải Tự Đức, thứ hai không, thứ ba, thứ tư, cũng không nốt. Chỉ còn một bài nữa là bài thứ năm sau cùng là của Tự Đức. Ông đã đậu bét. Trên đầu bài của ông có một lời phê:
- "Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách không phải là một người thường, nhưng một người không có tài mấy!"
Ý nghĩ của những người có quyền cao chức trọng thường có một khoảng cách khá xa với thực tế như thế.