Ngày nào cũng có cá mập. Chủ yếu là mako và cá mập xanh, nhưng cũng có những con mập đốm trắng chỉ sống ngoài khơi đại dương, và một lần còn có cả một con mập hổ đâm thẳng lên từ chỗ tối tăm nhất của ác mộng. Sáng sớm và chiều tối là thời gian ưa thích nhất của chúng. Chúng không bao giờ thực sự muốn quấy rầy ta. Có lần một con cá mập bơi lên lấy đuôi đập vào vỏ xuồng. Tôi nghĩ không phải là tình cờ. Các con khác cũng làm thế, kể cả rùa và dorado. Chắc hẳn đấy là một cách dò xét xem thực chất cái xuồng là gì. Chỉ một cú rìu giáng xuống mõm là đủ cho một con mập đó vội vàng biến mất xuống đáy biển. Cái phiền chính của các mập là chúng làm cho việc xuống nước trở thành liều lĩnh và nguy hiểm, như thể đột nhập vào một nơi có biển đề: “Cẩn thận chó dữ”. Ngoại giả việc ấy, tôi rất mến cá mập. Chúng giống những người bạn cũ khó tính chẳng bao giờ thú nhận là có mến tôi nhưng lúc nào cũng lẳng lặng đến thăm. Cá mập xanh nhỏ người hơn, thường không dài quá thước hai hoặc thước rưỡi, và là giống cá mập hấp dẫn nhất, thon thả và nhanh nhẹn, miệng nhỏ và có những khe mang kín đáo. Lưng chúng có màu xanh nước biển rất đẹp và bụng trắng như tuyết, những màu sắc sẽ chuyển thành xám hoặc đen ở các tầng nước sâu khác nhau, nhưng lại rất rực rỡ và hoành tráng khi lên gần mặt nước. Loài mập Mako to hơn với những cái miệng đầy nhóc răng nhọn rất đáng sợ, nhưng cũng có mầu rất đẹp, một thứ xanh chàm lấp lánh dưới ánh mặt trời. Loài cá mập đốm trắng thường ngắn hơn loài Mako - có những con Mako dài tới bốn thước - nhưng chúng chắc mình hơn và có những cái vây lưng khổng lồ gương lên trên mặt nước như những lá cờ xung trận di chuyển rất nhanh và bao giờ cũng là một cảnh tượng khiếp đảm. Ngoài ra, chúng có một mầu nâu rất xỉn, và những đốm trắng trên vây chúng chẳng có gì hấp dẫn.
Tôi bắt được một số cà mập nhỏ, chủ yếu là mập xanh, nhưng cũng có cả Mako. Lần nào cũng là vào buổi chiều tối lúc mặt trời vừa lặn, trong ánh sáng đang lụi tàn, và tôi bắt chúng chỉ bằng tay trần khi chúng vào gần sát chiếc xuồng.
Con đầu tiên cũng là con to nhất, một con mập mako dài hơn một thước hai. Nó đã lẩn quẩn ở mũi xuồng nhiều lần. Khi nó vừa quay trở lại lần nữa, tôi đột ngột thò tay xuống nước và túm được cái chỗ gần đuôi, nơi thon nhỏ nhất của cá. Vì da nó thô nháp nên rất dễ túm chặt, và khong nghĩ ngợi gì nhiều, tôi cứ thế kéo nó lên. Nó quẫy, làm tay tôi bị lắc thật dữ dội. Vừa sợ vừa thích thú, tôi nhìn con cá nhảy vọt lên không trung như nổ tung lên từ mặt nước bắn tung tóe. Trong giây látm tôi không biết sẽ phải làm gì tiếp theo. Nó nhỏ hơn tôi, nhưng tôi đâu có phải là khổng lồ gì. Thả nó ra chăng? Tôi xoay người vung mạnh nó lên ném về phía đuôi xuồng rồi ngã vật xuống tấm bạt. Con cá rơi thẳng xuống lãnh thổ của Richard Parker. Nó rơi ầm xuống và bắt đầu quẫy mạnh đến nỗi tô sợ nó sẽ phá hỏng mất chiếc xuồng. Richard Parker giật nảy mình. Nó tấn công ngay lập tức.
Một trận hùng chiến bắt đầu. Với những quan tâm của một nhà động vật học, tôi có thể tường thuật như sau: một con hổ lúc đầu sẽ không tấn công một con cá mập vừa lên khỏi mặt nước bằng hàm mà là bằng móng vuốt hai chân trước. Richard Parker bắt đầu tát con cá. Tôi rùng mình theo mỗi cú tát. Thật kinh khủng. Chỉ một tát đó cũng đủ làm nát xương một con người, đập tan bất kỳ món đồ đạc nào, và biến một căn nhà thành một đống đổ nát. Con mako quằn quaịi, lăn lộn và quẫy đuôi loạn xạ, rướn mõm một cách tuyệt vọng, rõ ràng là đau đớn.
Có thể vì Richard Parker không quen thuộc với cá mập, cả đời chưa từng gặp một con cá ăn thịt nào - dù lý do gì đi nữa, thì việc xẩy ra tiếp theo đó cũng là một trong số ít trường hợp đã khiến tôi phải nhớ rằng Richard Parker không phải là toàn bích, rằng mặc dù có những bản năng sắc bén, nó vẫn mắc sai lầm như thường. Tự nhiên, nó đút bàn chân trái của mình vào miệng con mako. Con cá mập khóa hàm. Richard Parker lập tức nhảy dựng lên trên hai chân sau. Con cá mập bị kéo giật lên trên, nhưng nó không chịu thua. Richard Parker ngã ngửa xuống sàn, ngoác miệng gầm lên một tiếng xé phổi. Tôi cảm thấy một luồng không khí nóng nổ bùng về phía mình. Không khí rung lên trông thấy, giống như lúc nó bốc lên trên mặt đường trong những ngày nóng bỏng. Tôi có thể. Tôi có thể tưởng tượng rõ ràng một nơi nào đó cách xa hàng trăm dặm, có một viên gác tàu thủy nhìn lên, giật mình, và sau này báo cáo một hiện tượng lạ, rằng ông ta nghe thấy có tiếng mèo kêu trên biển đến từ phía đông. Tiếng gầm ấy còn rung hết cả màng nhĩ tôi trong nhiều ngày sau. Nhưng cá mập lại điếc, theo như người ta vẫn tưởng. Cho nên trong lúc tôi, kẻ không bao giờ dám nghĩ đến việc cấu chân một con hổ chứ đừng nói đến việc cố nuốt chửng nó, đang run lẩy bẩy và sợ mất mật vì phải hứng một tiếng gầm như núi lửa phụt thẳng vào mặt mình như thế, thì con cá mập chỉ cảm nhận được một rung động rất nhẹ mà thôi.
Richard Parker quay ra cào cấu đầu con cá bằng cái chân trước còn lại và dùng cả miệng cắn xé bụng và lưng. Con cá mập vẫn ngoạm chặt lấy chân con hổ, cách duy nhất vừa để tự vệ, vừa để tấn công, đồng thời quẫy đuôi rất mãnh liệt. Hổ và cá mập quằn quại lăn lộn với nhau. Phải cố hết sức tôi mới làm chủ được cơ thể mình, về được đến bè và thả dây. Chiếc xuồng trôi ra xa. Tôi thấy những nhấp nhoàng màu da cam và xanh sẫm, những bong cùng da, khi chiếc xuồng lắc mạnh bên này bên kia, tiếng gầm thét của Richard Parker thật khủng khiếp.
Cuối cùng, chiếc xuồng yên tĩnh trở lại. Nhiều phút sau đó, Richard Parker ngồi dậy và liếm bàn chân trái của nó liên hồi.
Những ngày tiếp theo, nó để rất nhiều thời gian chăm sóc bốn bàn chân của mình. Da con cá mập có những gai nhỏ thô và sắc như giấy nháp. Rõ ràng nó đã bị đứt da khi cố cào xé con cá mập. Bàn chân trái bị thương, song không đến nỗi thành tật; không bị mất ngón nào, móng vuốt còn đủ cả. Còn con mako, trừ phần chóp đuôi và quanh miệng vẫn còn nguyên lành một cách khó hiểu, còn lại là một đám bầy nhầy đã bị ăn mất một nửa. Những mảng thịt xám đỏ và hàng đống ruột gan tung tóe khắp xung quanh.
Tôi cũng khều được một ít những gì còn lại của con cá mập, nhưng rồi thất vọng nhận ra rằng dây sống của cá mập không có nước tủy. Nhưng ít nhất thì thịt nó cũng ngong và khác hẳn thịt cá khác, sụn giòn tan của nó là một giải lao đầy hứng thú khỏi những đồ ăn mềm nhũn mà tôi vẫn thường phải nuốt.
Sau vụ đó, tôi chỉ nhắm bắt những con cá mập nhỏ hơn thế, gần như là cá con, và tôi tự tay giết chúng. Tôi tìm ra rằng đam dao vào mắt chúng là cách giết nhanh chóng và nhẹ nhành hơn nhiều so với dùng rìu bổ vào đỉnh đầu.
Xem tiếp chương 80
Chương 80
Trong tất cả những con dorado, tôi đặc biệt nhớ một con, một con khác thường. Đó là vào sáng sớm một ngày nhiều mây, và chúng tôi đang ở giữa một trận bão cá bat. Richard Parker đang hăng hái bắt cá. Tôi thì đang nấp sau một cái mai rùa. Tôi có một cái lao móc cá với một mảnh lưới treo ở mũi lao, thò ra biển. Tôi đang hy vọng sẽ bắt được cá bằng cách đó. Nhưng vẫn chẳng thấy may mắn cho đến lúc bấy giờ. Một con cá bay vụt qua. Con dorado đang rượt theo nó vọt lên khỏi mặt nước. Một tính toán sai lầm của nó. Con cá bay tí nữa thì mắc vào mảnh lưới của tôi, nhưng vẫn thoát thân, còn con dorado thì đâm vào mạn xuồng như một viên đạn đại bác, ầm một tiếng, rung hết cả xuổng. Một tia máu phun lên tấm bạt. Tôi phản ứng rất lẹ. Tôi rạp người tránh đàn cá bay và với được con dorado trước cả một con cá mập. Tôi kéo nó lên xuồng. Nó đã chết, hoặc gần chết, và đang phát sáng sặc sỡ. Thật là một mẻ lưới ra trò! Hay thật! Tôi cảm thấy rất phấn khởi. Xin cảm ơn các vị thánh thần từ jesus cho đến Matsya! Con cá béo và nhiều thịt. Nó phải nặng tới hai mươi cân là ít. Đủ nuôi cà một đội quân. Mắt với xương sống nó đủ tưới cả một bãi sa mạc.
Nhưng than ôi, cái đầu vĩ đại của Richard Parker đã quay về phía tôi. Tôi cảm thấy thế từ khóe mắt của mình. Những con cá bay vẫn tiếp tục nhào qua, nhưng Richard Parker không còn thích chúng nữa. Nó đang chỉ chú ý đến con cá trong tay tôi mà thôi. Nó cách tôi khoảng hai mét rưỡi. Miệng nó hé mở một cái cánh cá bay thè lè ra ngoài. Lưng nó cong lên. Mông nó ngoáy. Đuôi nó vẫy mạnh bên này bên kia. Rõ ràng là nó đang phục xuống và chuẩn bị tấn công tôi. Không kịp chạy nữa rồi, không kịp cả thổi còi nữa rồi. Giờ tận số của tôi đã điểm.
Nhưng thế là đủ. Tôi đã khổ quá rồi. Tôi đói. Ngần ấy ngày không có gì ăn là đủ quá rồi.
Và thế là, trong một giây phút mất trí hoàn toàn do đói - bởi lẽ tôi muốn ăn hơn muốn sống - không một phương tiện tự vệ, trần trụi với tất cả ý nghĩa của từ đó, tôi nhìn thẳng vào mắt Richard Parker. Đột nhiên, sức mạnh tàn bạo của nó chỉ nói lên sự yếu ớt về tinh thần mà thôi. Không gì có thể sánh với sức mạnh tinh thần của tôi lúc bấy giờ. Tôi nhìn xoáy vào mắt nó, trợn trừng và thách thức, và chúng tôi đối địch nhau. Người coi thú nào cũng sẽ nói rằng một con hổ, mà bất cứ loài mèo nào cũng thế, sẽ không tấn công khi bị chiếu tướng bằng mắt và sẽ đợi cho đến khi đối thủ, dù là một con hươu, sơn dương hoặc bò rừng, không dám nhìn nó nữa. Nhưng biết thế là một chuyện còn áp dụng vào thực tế lại là một chuyện khác (và biết thế cũng vô ích thôi vì khi ta đang vận hết nội công để nhìn thẳng vào mắt một con sư tử chẳng hạn thì sẽ có con khác đến từ sau lưng!) Trong hai ba giây đồng hồ, một trận chiến tinh thần khủng khiếp đã diễn ra giữa một thằng bé và một con hổ. Chỉ cần một cú nhẩy ngắn là nó vồ được tôi. Nhưng tôi đã giữ được luồng mắt của mình.
Richard Parker liếm mũi, rên lên một tiếng và quay đi. Nó giận dữ quật một con cá bay. Tôi đã thắng. Tôi há hốc mồm vì kinh ngạc, bế con dorado lên rồi chuồn về bè. Một lúc sau, tôi ném cho Richard Parker một miếng thịt hậu hĩnh của con cá.
Từ ngày ấy, tôi cảm thấy vai trò ông chủ cùa mình không còn phải nghi ngờ gì nữa, và bắt đấu dần dần tăng thời gian ở trên xuồng của mình lên, đầu tiên là ở mũi xuồng, rồi khi tự tin hơn, ở cả trên mui bạt một cách thoài mái. Tôi vẫn sợ Richard Parker, nhưng chỉ khi nào cần phải sợ mà thôi. Sự có mặt của nó không làm tôi căng thẳng nữa. Người ta có thể quen với mọi thứ trên đời - tôi đã chẳng nói vậy rồi hay sao? Phải chăng kẻ sống sót nào cũng sẽ nói như vậy?
Lúc đầu, tôi nằm trên tấm bạt và gối đầu lên cái mép cuộn lại. Nó hơi cao hơn một chút - vì hai đầu xuồng cao hơn phần giữa xuồng - và tôi có thể để mắt dè chừng Richard Parker.
Về sau tôi nằm quay ngược lại, để đầu ngay phía trên của cái ghế giữa xuồng, lưng quay về phía Richard Parker và lãnh thổ của nó. Trong tư thế ấy, tôi ở xa mép xuồng hơn và tránh được gió với bọt sóng biển nhiều hơn.
Xem tiếp chương 81
Last edited by quykiemtu; 23-11-2008 at 10:15 AM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam
Tôi biết chuyện sống sót của tôi rất khó tin. Bây giờ nghĩ lại, chính tôi cũng nghĩ làm lạ.
Việc tôi khai thác được tình trạng say sóng mệt mỏi của Richard Parker không phải là cách giải thích duy nhất. Còn lý do khác khiến tôi sống sót: tôi là nguồn thức ăn và nước uống của. Richard Parker đã suốt đời sống trong vườn thú, và đã quen với cuộc sống không phải là làm gì mà vẫn có đồ ăn thức uống. Đúng là khi trời mưa và cả cái xuồng là một cái hứng nước mưa, nó biết nước đó ở đâu mà ra. Hay như khi chúng tôi gặp cá bay, lúc đó vai trò của tôi không rõ ràng. Nhưng những cái đó không làm thay đổi được thực tế của hoàn cảnh: khi nó nhìn ra khỏi mạn xuồng, nó không thấy một khu rừng nào có thể săn mồi, không một con song nào có thể uống tha hồ khi nó khát. Mà tôi thì mang cho nó đồ ăn và nước uống. Vai trò của tôi là tuyệt đối và đầy phép lạ. Nó làm cho tôi có quyền lực. Bằng chứng ư? Tôi vẫn còn đây để kể chuyện của mình.
Xem tiếp chương 82
Chương 82
Tôi trữ nước mưa và nước thu được từ các máy cất trong tủ trên xuồng, không cho Richard Parker thấy, trong những cái túi nhựa năm mươi lít. Tôi buộc kín chúng bằng dây. Những túi ấy sẽ chẳng quí báu hơn đối với tôi nếu nó chứa đầy vàng, ngọc bích, hồng ngọc hoặc kim cương. Lúc nào tôi cũng lo lắng đến chúng. Cơn ác mộng ghê gớm nhất của tôi là một sáng tỉnh dậy và nhìn thấy chúng bị dò hoặc bị vỡ. Để tránh thảm họa đó, tôi lấy chăn bọc chúng lại để khỏi bị chà sát vào vỏ xuồng kim loại, và tôi tránh dịch chuyển chúng để khỏi bị mòn. Nhưng tôi lo nhất là phần cổ chúng. Liệu dây buộc như thế có làm mòn nhựa đi không? Làm thế nào để gắn kín chúng mà không phải dùng dây?
Khi mọi việc thuận lợi, trời mưa to, các túi chứa đầy nước theo mong muốn, tôi đổ đầy cả các cốc tát nước, hai cái xô nhựa, hai cái bình chứa đa năng, ba cái bình đong và những cái hộp nước đã uống hết (tôi đã giữ chúng như những của báu). Sau đó, tôi còn đổ nước vào tất cả các túi nôn, gắn kín chúng bằng cách xoắn nút lại. Chưa xong, nếu trời vẫn tiếp tục mưa, tôi lấy ngay chính mình làm bình chứa. Tôi ngậm cái ống thu cảu cái hứng nước mưa và cứ thế uống.
Tôi luôn luôn cho thêm một ít nước biển vào phần nước uống cho Richard Parker, tỉ lệ cao hơn một chút trong những ngày mưa và ít hơn một chút khi trời khô hạn. Hồi đầu, có lần nó nhúng cả đầu xuống biển và tợp tợp mấy ngụm, nhưng rồi nó thôi ngay và không uống nước biển như vậy nữa.
Đã như thế rồi mà chúng tôi vẫn thiếu nước. Đó là nỗi lo lắng và chịu đựng thường xuyên trong suốt thời gian khổ nạn của chúng tôi.
Kiếm được bất kỳ món gì ăn được, Richard Parker cũng được chia sẻ phần nhiều hơn. Tôi không có lựa chọn nào khác. Nó biết ngay lập tức mỗi khi tôi bắt được con rùa, một con dorado, hay một con cá mập, và tôi phải nhanh chóng hậu hĩnh với nó. Có lẽ tôi đã lập kỷ lục thế giới về môn cưa yếm và mai rùa. Còn cá thì ngay khi chúng còn đang quẫy cũng đã bị chặt thành từng miếng. Nếu tôi đã thành bất chi kỳ vị và tạp thực như thế thì cũng chẳng phải là do đói đơn thuần, mà còn do vội. Nhiều khi tôi không có thời gian để xem mình đang sắp đưa cái gì vào miệng, vì nếu không làm thế ngay thì sẽ mất cho Richard Parker đang gầm gừ và giậm chân sốt ruột ngay bên bờ lãnh thổ của nó. Đến ngày đó, tôi chợt đau đớn và xót xa nhận ra rằng tôi đã ăn như một con vật, tôi đã băng hoại nhân tính, những miếng nhai nuốt ầm ĩ và trợn trạo của tôi đã chẳng khác gì của Richard Parker.
Trận bão từ từ tiến đến vào một buổi chiều. Mây giống như đang vội vã chen nhau chạy trốn gió. Biển nhận ra dấu hiệu hành động. Nó bắt đầu dâng lên hạ xuống khiến cho tim tôi thót lại. Tôi kéo tất cả các máy cất nước và cái lưới về xuồng. Chao ôi, giá như mọi người đều thấy quang cảnh đó! Chao ôi, giá như mọi người đều thấy quang cảnh đó! Cho đến tận giờ tôi vẫn còn nhìn thấy những con sóng cao như núi đó. Đúng là những trái núi! Dưới các con sóng ấy, chúng tôi như ở dưới dáy thung lũng tối om. Sườn thung lũng dốc đến mức cái xuồng cứ thế tuội xuống như một cái ván lướt sóng. Cái bè là khổ nhất, bị kéo tung lên khỏi mặt nước và lôi xềnh xệch theo đủ mọi hướng, bắn lên hất xuống đủ mọi kiểu. Tôi thả cả hai cái neo biển ra hết cỡ, dài, ngắn khác nhau để không bị vướng.
Khi trèo lên các con sóng cao ngất ngưởng ấy, chiếc xuồng bám vào hai cái neo biển như một người leo núi bám vào dây. Chúng tôi bị đánh dồn lên rất nhanh cho đến tận đỉnh sóng trắng như tuyết chói lòa và đầy bọt khi chiếc xuồng lại bắt đầu chúi xuống. Lúc đó, quang cảnh đột nhiên rõ rệt khắp xung quanh và trải dài hàng nhiều dặm. Nhưng rồi trái núi nước ấy sẽ dịch đi, và chúng tôi sẽ rơi xuống đến quặn ruột. Nhoáng một cái chúng tôi đã ở dưới đáy thung lũng tối om, không phải là cái thung lũng trước đây nhưng cũng hệt như thế, với hàng ngàn tấn nước lơ lửng trên đầu và chỉ có sự mong manh, nhẹ bỗng mới cứu chúng tôi khỏi bị đánh chìm mà thôi. Rồi mọi thứ lại chuyển động, các sợi dây neo lại căng thẳng hết cỡ, và con tàu lộn nhào lại bắt đầu chạy.
Những cái neo biển thả nổi làm nhiệm vụ của chúng rất tốt - hơi quá tốt là đằng khác. Mỗi con sóng dâng chúng tôi lên đến đỉnh đều muốn lật nhào nhúng tôi, nhưng hai cái neo, nổi ở bên kia đỉnh sóng, lại dâng lên mạnh mẽ và kéo chúng tôi qua, chỉ phải tội phần trước của xuồng luôn bị chúi xuống. Kết qủa là bọt sóng và nước biển bắn lên như bom nổ ở phía mũi xuồng. Tôi bị ướt sũng hết lần này đến lần khác.
Rồi thì một con sóng dâng lên hình như muốn nhất định phải nhấn chìm hẳn xuống nước. Tôi choáng người, lạnh cóng và sợ đến đờ đẫn. Tôi chỉ còn đủ sức bám chặt. Chiếc xuồng chỉ còn đủ sức dìm hẳn xuống nước. Tôi nghe thấy Richard Parker gầm lên hết cỡ. Tôi thấy cái chết đã ở sát cạnh. Lựa chọn duy nhất chỉ là chết bởi nước hay chết bởi con thú kia. Tôi chọn chết vì con thú.
Khi chúng tôi đang tuột theo lưng con sống, tôi nhảy lên tấm bạt và mở nó ra về phía dưới xuồng, nhốt Richard Parker hẳn vào trong. Nếu nó có phản đối thì tôi cũng chẳng biết. Nhanh hơn cả một cái máy khâu chạy trên tấm vải, tôi móc tấm bạt xuống cả hai bên sườn xuồng. Rồi chúng tôi lại bị sóng dâng lên. Chiếc xuồng nhào lên phái trước rất chắc chắn. Rất khó giữ thăng bằng. Chiếc xuồng bấy giờ đã được tấm bạt bao phủ hết, chỉ trừ chỗ của tôi. Tôi nép người vào giữa cái ghế bên với tấm bạt và kéo đoạn bat còn leại lên qua đầu. Rất chật. Giữa mặt ghế và mép xuồng chỉ có khoảng ba mươi phân, và cái ghế chỉ rộng chừng bốn mươi lăm phân. Nhưng tôi cũng không ngốc tới mức nhảy xuống sàn xuồng, mặc dù đang đối mặt với tử thần. Còn phải mắc thêm bốn cái móc giữ bạt nữa. Tôi luồn tay qua kẽ hở và kéo sợi dây chằng bạt. Móc được một cái đã khó, cái tiếp theo còn khó hơn. Tôi móc được hai cái. Còn hai cái nữa. Chiếc xuồng đang bị sóng đẩy ngược lên cao, trơn tru và không ngừng. Phải dốc đến ba mươi độ. Tôi thấy mình đang bị lôi tuột xuống phía dưới đuôi xuồng. Điên cuồng xoay tay hết chỗ này chỗ kia, tôi móc được dây chẳng bạt vào cái móc thứ ba. Không thể làm hơn được nữa. Việc đó đáng nhẽ chỉ có thể làm từ phía ngoài. Tôi kéo mạnh sợi dây, cũng là thuận chiều vì việc đó giữ cho tôi khỏi bị văng xuống đuôi xuồng. Chiếc xuồng nhanh chóng vượt qua triền sóng dốc phải đến bốn mươi lăm độ.
Chúng tôi chắc chắn phải dốc đến sáu mươi độ lúc lên đến đỉnh sóng và nhào sang phía bên kia. Một phần nước rất nhỏ của con sóng ập xuống chúng tôi. Tôi cảm thấy như bị một con cá khổng lồ quật ngã. Chiếc xuồng đột ngột chúi về phía trước và mọi thứ đảo lộn hết: tôi thành ra ở phần thấp của xuồng và nước đang tràn ngập vào đó, cùng với một con hổ ướt sũng đang trôi về phía mình. Tôi không cảm thấy con hổ - tôi không có khái niệm rõ ràng Richard Parker đang ở chỗ nào; dưới tấm bạt lúc ấy tối như hũ nút - nhưng trước khi rơi xuống thung lũng tiếp theo thì tôi đã gần như chết đuối.
Đến tận đêm hôm đó, chúng tôi cứ lên lên xuống xuống như vậy cho đến lúc sợ hãi trở thành nhàm chán và bị thay thế bởi tâm trạng đờ đẫn và hoàn toàn phó mặc. Tôi bám lấy sợi dây chằng bạt bằng một tay, tay kia bám vào mép ghế, người nằm bẹp gí trên mặt ghế. Trong tư thế ấy, nước ào vào rồi lại rút ra liên tục - tấm bạt đập tôi nhừ tử, tôi ướt sũng và lạnh cóng, người bầm tím và chảy máu vì bị các mẩu xương và mai rùa cứa phải. Tiếng gào rú của trận bão và gầm thét của Richard Parker không lúc nào ngớt.
Thế rồi đến một lúc trong đêm đó, trí não tôi nhận ra rằng trận bão đã chấm dứt. Chúng tôi dập dềnh trên mặt biển một cách bình thường. Tôi nhìn trời qua một vết bạt rách. Đầy sao và không mây. Tôi chui ra khỏi tấm bạt và nằm lên trên.
Đến rạng ngày hôm sau thì tôi biết mình đã mất cái bè. Mọi thứ còn lại chỉ là hai cái chèo và một cái áo phao chẳng ở giữa. Tôi cảm thấy như mình là một người chủ gia đình đang đứng nhìn cây xà gồ duy nhất còn sót lại của ngôi nhà đã bị thiêu cháy của mình. Tôi nhìn sục sạo khắp chân trời. Chẳng thấy gì hết. Cái thị trấn trên biển nhỏ bé của tôi đã biến mất. Lạ lùng thay, hai cái neo biển vẫn còn đó - chúng vẫn được chẳng vào chiếc xuồng một cách thủy chung - nhưng chúng chẳng an ủi được tôi. Mất cái bè có thể không nguy hiểm đến phần xác của tôi, nhưng nó làm tử thương phần tinh thần của tôi.
Chiếc xuồng tơi tả thật đáng buồn. Tấm bạt rách nhiều chỗ, và rõ ràng là cũng do Richard Parker đã cào vào nó. Rất nhiều thực phẩm của chúng tôi đã bị mất, chẳng phải bị đánh trôi thì cũng là bị nước ngập ngay trên xuồng. Người tôi đau khắp nơi và bị một vết cắt tương đối sâu ở bẹn, vết cắt đã sưng tấy và trắng bệch. Tôi đã tưởng mình không dám kiểm tra các thứ trong tủ. Tạ ơn Chúa, không có túi chứa nước nào bị vỡ. Cái lưới và những cái máy cất nước mà tôi đã không xịt hết hơi cho bẹp hẳn đã chèn vào các khoảng trống và đệm cho các túi nước kia không bị va đập mạnh.
Tôi kiệt sức và chán nản. Tôi tháo cái bạt ở phần đuôi xuồng. Richard Parker đã im ắng đến mức tôi sợ nó đã chết đuối. Nhưng không phải. Khi tôi cuốn tấm bạt lên đến giữa xuồng và nắng rọi vào nó, nó động đậy, gầm gừ. Nó trèo ra và ngồi lên cái ghế đuôi xuồng. Tôi lấy kim, dây khâu và loay hoay vá các chỗ rách trên tấm bạt.
Sau đó tôi buộc một cái xô vào một sợi dây và tát nước ra khỏi xuồng. Richard Parker nhìn tôi một cách thờ ơ. Có vẻ nó thấy việc gì của tôi cũng nhàm chán. Trời hôm đó thật nóng và tôi làm mọi việc thật chậm chạp. Một cú múc nước làm tôi tìm tháy một thứ đã bị mất. Tôi cầm nó trong tay. Đó là thứ còn lại duy nhất ngăn cách tôi với cái chết: một thứ có màu da cam cuối cùng trên xuồng.
Tôi nằm trên tấm bạt, quấn chăn, ngủ, mơ, dậy, mộng mị, và nói chung là chẳng có việc gì khác. Một làn gió nhẹ đều đặn thổi. Thỉnh thoảng những tia nước từ đỉnh sóng bạc lại bắn lên làm ướt xuồng. Richard Parker đã biến dạng dưới tấm bạt. Nó không ưa bị ướt, cũng như chuyển động dập dềnh của chiếc xuồng. Trời xanh, không khí ấm áp, và biển chuyển mình đều đặn bình thường. Tôi tỉnh dậy vì một tiếng nổ. Tôi mở mắt và thấy nước trên trời. Nó đổ ập xuống tôi. Tôi lại ngẩng lên nhìn. Trời xanh không mây. Lại một tiếng nổ nữa, về phía trái, không mạnh mẽ như tiếng trước. Richard Parker gầm gào dữ tợn. Nước lại ào vào tôi. Nó có mùi khó chịu.
Tôi nhìn qua mép xuồng. Cái đầu tiên tôi thấy là một vật đen sì to lớn đang nổi trên mặt nước. Mất vài giây tôi hiểu ra nó là cái gì. Một vết nhăn hình vòng cung xung quanh mép nó làm cho tôi vỡ nhẽ. Đó là một con mắt. Nó là một con cá voi. Mắt nó to bằng cả đầu tôi, đang nhìn thẳng vào tôi.
Richard Parker từ dưới tấm bạt đi ra. Nó rít lên. Tôi cảm nhận được một sự biến động rất kín đáo trong tia nhìn của con cá voi và biết rằng nó đang nhìn sang Richard Parker. Nó nhìn như thể trong độ ba mươi giây rồi nhẹ nhàng lặn xuống. Tôi đã lo cá voi có thể dùng đuôi quật xuòng, nhưng nó lặn một mạch và biến dạng xuống đáy biển xanh sẫm. Cái đuôi nó là một cái vợt tròn khổng lồ dẫn dần mờ đi.
Tôi nghĩ cá voi đang tìm bạn. Chắc nó thấy tôi không cùng cỡ với nó, và ngoài ra, có vẻ tôi đã có bạn rồi.
Chúng tôi đã thấy một số cá voi nhưng không con nào gần như con đầu tiên đó. Tôi thường nghe tiếng chép miệng và phịt nước trước khi nhìn thấy chúng. Thường chúng nổi lên cách một quãng ngắn, có khi ba bốn con một lúc, như một quần đảo núi lửa. Những con vật khổng lồ này luôn luôn nâng đỡ tinh thần tôi. Tôi tin rằng chúng hiểu tình cảm của tôi lắm, hễ nhìn thấy tôi là một con sẽ thốt lên, “Chao ôi! Kia chính là cậu bé đắm tàu với con mèo nhỏ mà Bamphoo đã kể cho tớ nghe. Tội nghiệp chưa kìa. Mong sao cho cậu ấy có đủ tôm riu. Tớ phải bảo cho Mumphoo, Tomphoo và Stimphoo biết mới được. Không biết có con tàu nào quanh đây không để tớ đi báo động cho cậu ấy. Mẹ cậu ấy sung sướng phải biết nếu gặp lại được con. Tạm biết nhé, cậu bé của tớ. Tớ sẽ cố giúp cậu. Tên tớ là Pimphoo”. Và thế là, qua đường thông tin tự nhiên, tất cả các voi ở Thái Bình Dương đều biết đến tôi, và nhẽ ra tôi đã được cứu rồi nếu Pimphoo không đến kêu cứu với một tàu Nhật Bản và bị họ bắn chết, rồi Lamphoo cũng chịu chung số phận ấy với một con tàu Na Uy. Nghề săn cá là một tội ác tày đình.
Cá heo cũng là những khách thăm tương đối thường xuyên. Một đàn đã ở quanh chúng tôi xuốt cả một ngày một đêm. Chúng rất vui vẻ. Chúng lặn, chúng nhảy, chúng rượt đuổi nhau ngay dưới xuồng có vẻ như chẳng có việc gì khác ngoài việc nô giỡn. Tôi đã cố thử bắt một con. Nhưng chẳng có con nào đến gần đủ tầm cái lao. Ngay có đủ tầm đi nữa thì chúng cũng quá nhanh và quá lớn. Tôi bỏ ý định đó và chỉ ngắm nhìn chúng mà thôi.
Tôi thấy cả thẩy sáu con chim. Con nào tôi cũng nghĩ là một thiên thần báo hiệu có đất liện ở gần. Nhưng chúng là những loài chim đi biển có thể lượn qua Thái Bình Dương với chỉ một sải cánh mà thôi. Tôi nhìn chúng, sợ hãi, ghen tị và tủi thân.
Đã hai lần tôi được nhìn thấy một con hải điểu chính cống [1]. Con nào cũng đang bay rất cao vào không hề lưu ý gì đến chúng tôi. Tôi nhìn chúng, miệng há hốc. Chúng thật sự là cái gì đó siêu nhiên và không thể hiểu được.
Một lần khác, ngay gần xuồng, có hai con chim hải âu pêtren [2] bay lướt qua, chân đập đập trên mặt nước. Chúng cũng không hề để ý đến chúng tôi, và cũng làm cho tôi kinh ngạc không kém.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng thu hút được sự chú ý của một con hải âu đuôi ngắn khác, , gọi là loài shearwater, vì khi bay chúng bay đập đầu cánh xuống mặt nước, nhưng cũng thuộc cùng một họ với chim hải âu pêtren. Con này lượn tròn trên đầu chúng tôi, rồi cuối cùng hạ cánh xuống. Nó thò chân, khép cánh và đậu xuống nước, nhẹ nhàng như cái nút chai. Nó nhìn tôi tò mò. Tôi vội vàng mắc mồi bằng một miếng thịt cá bay và quăng dây ra chỗ nó. Không kịp lắp hòn chì nên tôi loay hoay mãi mới cho mồi đến gần được con chim. Nhử nó đến lần thứ ba thì con chim dùng cánh bơi như chèo thuyền đến chỗ cái mồi đang chìm và phấn khích. Tôi để yên thêm vài giây rồi mới giật. Con chim kêu choe chóe và khác ngay miếng mồi ra. Trước khi tôi kịp thử lại lần nữa, nó dang cánh và cất mình lên không trung. Chỉ hai ba cái đập cánh, nó đã rộng đường bay đi mất.
Tôi may mắn hơn với một con chim khoang mặt đen. Nó thình lình hiện ra, lượn về phía chúng tôi, sải cánh dài hàng thước. Nó đậu xuống trên mạn xuồng ngay trong tầm tay của tôi. Cặp mắt tròn xoe của nó hút lấy tôi, vừa ngạc nhiên vừa nghiêm nghị. Đó là một con chim to lớn có tấm thân trắng muốt như tuyết và đôi cánh đen tuyền ở đầu và cạnh. Cái đầu gồ ghề to tướng của nó có một cặp mỏ rất nhọn mầu vàng da cam và cặp mắt đỏ giữa khoang mặt đen khiến nó trông hệt như một tên chộm vừa thức trắng một đêm dài. Chỉ có cặp chán rộng có màng mầu nâu có vể như chưa được thiết kế kỹ lắm. Con chim không biết sợ là gì. Nó đứng ra rỉa lông hàng nhiều phút liền. Lớp lông bên trong của nó thật mềm mại. Khi đã xong, nó ngẩng lên và mọi thứ lại đâu vào đấy, nó lộ nguyên hình là một con tàu không gian có hình khí động học trơn tru tuyệt đẹp. Tôi biếu nó một miếng thịt dorado. Nó nhặt miếng thịt ngay trong tay tôi, mỏ nó đâm vào lòng bàn tay thật dứt khoát.
Tôi bẻ gãy cổ nó bằng cách ấn đầu nó ngửa ra sau, một tay hất mạnh cặp mỏ, tay kia giữ chặt cổ. Lông nó chắc đến nỗi khi tôi vặt lông, da nó bị kéo theo ra soàn soạt. Không phải à vặt lông nữa, mà là xé xác. Nó nhẹ, đúng là để bay lượn, một khối lớn vậy mà không nặng chút nào. Tôi lấy dao lột da nó. Lớn xác nhưng có thật ít thịt, chỉ có một chút ở ngực. Thịt nó nhai sần sật hơn thịt dorado, nhưng vị thì cũng không khác nhiều. Trong bụng nó, ngoài miếng dorado tôi vừa biếu nó, còn thấy có ba con cá nhỏ. Tôi rửa chúng cho hết nhớt rồi chén cả ba. Tôi ăn cả tim, gan, và phổi của con chim. Tôi nuốt cặp mắt và lưỡi nó với một ngụm nước. Tôi đập vỡ sọ nó và nhể những miếng óc nhỏ xíu ra ăn. Tôi ăn cả màng da chân, những gì còn lại của nó chỉ là da, xương và lông. Tôi thả hết xuống cho Richard Parker. Con hổ đã không nhìn thấy con chim lúc nó bay đến. Một bàn chân màu da cam thò ra.
Nhiều ngày sau, lông con chim đã vẫn còn bay lên từ chỗ nằm của Richard Parker và bị gió thổi xuống biển.
Chẳng có con chim nào báo hiệu đất liền.
[1] Nguyên văn: albatross, một loài chim biển khổng lồ, sải cánh dài tới gần bốn thước, chân có mạng, thuộc họ Diomedeidae, có thể lượn trên không rất lâu (ND)
[2] Nguyên văn: petrel, một loài chim biển hay bay là là trên mặt nước, nên được đặt theo tên thánh Peter, là người tương truyền đã đi bộ trên mặt nước như chúa Jesus (ND).
Xem tiếp chương 85
Chương 85
Một lần có chớp. Trời đen kịt, ngày giống như đêm. Mưa rất nặng hạt. Tôi nghe thấy sấm rất xa. Tôi tưởng sẽ chỉ như thế. Nhưng rồi gió nổi lên, thổi mưa bay hết chiều này sang chiều khác. Ngay sau đó, một tia lửa trắng xóa từ trời phóng xuống, chọc thủng mặt nước. Chỗ đó cách chiếc xuồng khá xa, nhưng mọi thứ đều nhìn rõ mồn một. Mặt nước bị chọc thủng bởi cái gì đó như mớ rễ cây trắng xóa; và nhoáng một cái, một cái cây nhà trời vĩ đại mọc ngay lên trên đại dương. Tôi đã không khi nào tưởng tượng được chuyện đó - sét đánh xuống biển. Tiếng sấm nổ thật khủng khiếp. Luồng sáng của chớp thật vô cùng sinh động.
Tôi quay sang Richard Parker và nói, “Nhìn kìa, Richard Parker, một tia chớp đấy”. Tôi thấy rõ nó đang ra sao. Nó nằm bẹp dưới sàn xuồng, tứ chi dang rộng và run lẩy bẩy.
Tia chớp đến với tôi lại hoàn toàn khác. Nó là một cái gì đó kéo tôi ra khỏi các nếp sinh tử tầm thường và ném tôi vào một tâm trạng hưng phấn kỳ diệu.
Thình lình, một tia sét nữa lại đánh xuống, gần hơn. Chắc là chỉ dành cho chúng tôi. Chúng tôi vừa rơi từ trên đỉnh một ngọn sóng xuống và đang chìm trên lưng con sóng thì ngọn xét đánh thẳng xuống đầu sóng. Một vụ nổ của khí nóng và nước nóng. Trong hai hoặc ba giây gì đó, tấm kính khổng lồ của một chiếc cửa sổ vũ trụ vỡ vụn ra trên không trung trắng lóa đến mù mắt, vô vật thể nhưng mạnh mẽ đến nỗi choáng ngợp. Mười ngàn cái kèn trom-pét và hai chục ngàn bộ trống cũng không thể gây nên được một âm thanh lớn lao đến thế của ngọn sét. Nó thực sự điếc tai. Biển trắng lòa và không còn mầu sắc gì nữa. Mọi thứ chỉ là thuần trắng chói lòa hoặc thuần đen tối mịt. Luồng sáng ấy chiếu sáng thì ít mà xuyên thủng thì nhiều. Thế rồi cũng đột ngột như thế, tia sét biến mất. Nó biến mất ngay khi những tia nước nóng bỏng kia còn đang tiếp tục rơi xuống chúng tôi. Ngọn sóng bị trừng phạt kia lại đen ngòm trở lại và tiếp tục lồng lộn như không có chuyện gì đã xảy ra.
Tôi ngây người, đúng là bị sét đánh, theo gần với nghĩa đen của từ đó. Nhưng tôi không thấy sợ.
“Chúng con xin ca ngợi đức Alla, Chúa tể của mọi thế giới, đấng trị vì từ bi và đầy thương khó của ngày phán xử cuối cùng!” Tôi lẩm nhẩm. Rồi quay sang Richard Parker, tôi quát lên, “Không được run lẩy bẩy như vậy nữa! Đó là phép lạ. Là sự bùng nổ thiêng liêng. Là... Là...” Tôi không biết nó là gì nữa. Nó quá lớn lao và kỳ diệu. Tôi đã cạn lời và hết hơi. Tôi nằm vật xuống tấm bạt, chân tay dang rộng. Mưa lạnh thấu xương. Nhưng tôi mỉm cười. Tôi nhớ lại lần chàm trán với thiên điện đó như một trong những dịp hạnh phúc hiếm hoi và đích thực mà tôi đã có trong suốt cuộc hành trình khổ nạn ấy.
Trong những giây phút diệu kỳ, người ta dễ tránh được những ý nghĩ nhỏ nhen, và chỉ ân hưởng những tư tưởng bao trùm cả vũ trụ, nó thâu tóm cả sấm sét và những tiếng tích tắc, dầy và mỏng, gần và xa.
Xem tiếp chương 86
Last edited by quykiemtu; 23-11-2008 at 10:16 AM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam
“Richard Parker, một con tầu!”
Tôi đã có niềm khoái cảm được hét lên như vậy một lần. Tôi đã choáng ngợp trong hạnh phúc. Mọi đớn đau, bực dọc tan biến hết và tôi thực sự bốc lửa vì vui mừng.
“Chúng ta thắng rồi! Chúng ta sống rồi! Mày có hiểu không Richard Parker? Chúng ta sống rồi! Ha, ha, ha,ha!”
Tôi cố gắng kiềm chế sự phấn khích của mình. Nhỡ con tàu đi ngang quá xa và không nhìn thấy chúng tôi thì sao? Có nên phóng một quả pháo sáng thăng thiên không? Vô lý!
“Nó đang đi thẳng về phía chúng ta kìa, Richard Parker! Chao ôi, con xin tạ ơn ngài, vị chúa tể Ganesha! Phước thiện thay là sự hiện diện của ngài, dù ở hình thức nào cũng vậy, con xin tạ ơn đấng Alla - Brahman!” [1]
Nó không thể không thấy chúng tôi. Có hạnh phúc nào lớn hơn niềm vui được cứu sống? Câu trả lời là, hãy cứ tin tôi đi, không có cái gì như thế cả. Tôi đứng phắt dậy. Đã lâu lắm rồi tôi mới đứng hẳn dậy như thế.
“Mày có tin được không hả Richard Parker? Có người, có đồ ăn, một cái giường. Chúng ta lại có cuộc sống rồi. Chao ôi, có gì vui hơn thế nữa?”
Con tầu đến gần hơn. Trông nó như một tầu chở dầu. Hình dáng mũi tàu đã thấy rõ. Thần cứu mạng đang đến trong một chiếc áo choàng màu đen có viền trắng.
“Nhưng nhỡ ra...?”
Tôi không dám nói tiếp. Nhưng liệu có thể có khẳ năng là cha, mẹ và Ravi vẫn còn sống hay không? Tàu Tsimtsum có nhiều xuồng cứu nạn. Biết đâu họ đã đến Canada mấy tuần trước rồi và đang nóng lòng chờ tin tức của tôi. Biết đâu tôi là người duy nhất trên chiếc tầu đắm đó còn đang mất tích.
“Lạy Chúa, tầu đầu to thật!”
Cả một trái núi đang bò đến chỗ chúng tôi.
“Biết đâu họ đã đang ở Winnipeg. Ta tự hỏi ngôi nhà của chúng ta còn trông ra sao. Này Richard Parker, mày có nghĩ là nhà cửa ở Canada có sân bên trong như truyền thống vùng Tamil của ta không? Có thể không? Có thể vì nếu vậy thì mùa đông tuyết sẽ chất đống ngòai sân. Đáng tiếc thật. Không có bình yên nào giống như một cái sân trong nhà vào một ngày nắng đẹp. Không biết ở Manitoba người ta trông được các loại hương liệu gì?”
Con tầu đã đến rất gần. Họ phải dừng hoặc lái tránh chúng tôi ngay mới phải.
“Phải đấy, không biết có hương liệu gì nhỉ...? Lạy Chúa tôi!”
Tôi kinh hoàng nhận ra rằng con tầu dầu không những đang đi về phía chúng tôi - mà nó đang thực sự đâm sầm vào chúng tôi. Mũi tàu là cả một bức tường kim loại cứ to lên trông thấy tưng giây một. Một đợt sóng bao quanh nó đang ào về phía chúng tôi không gì ngăn cản nổi. Richard Parker cũng cảm thấy điều gì sắp xảy ra. Nó quay lại sủa nhặng lên, nhưng không như chó sủa, mà là hổ sủa: rất mạnh mẽ, đáng sợ, và hòan toàn đúng với hoàn cảnh lúc đó.
“Richard Parker, nó sẽ đâm chìm chúng ta mất. Làm gì bây giờ? Mau lên, mau lên, pháo sáng đâu rồi? Không! Phải chèo thôi! Mái chèo ở sẵn đây rồi phải không? Chèo đi! Dô ta! Dô ta! Dô ta! Dô ta!...?
Sóng từ mũi con tầu đánh dạt chúng tôi lên cao. Richard Parker chúi người, lông dựng ngược. Cái xuồng trôi tuột khỏi con sóng ấy và trượt khỏi con tầu chỉ khoảng sáu mươi phân.
Con tầu lừ lừ đi qua, như một vách núi đen sì ngất ngư hàng dặm lên trời, hàng dặm tường pháo đài mà không có một trạm gác nào để họ có thể nhìn thấy chúng tôi đang ngắc ngoải dưới hào sâu ngay cạnh. Tôi đốt một quả pháo sáng thăng thiên, nhưng lại nhắm trượt hướng. Đáng lẽ phải bay ngang qua boong tàu và nổ sáng lòa mắt thuyền trưởng, nhưng nó lại đâm bổ ngay vào sườn tàu và rơi tõm xuống Thái Bình Dương rồi xịt ngóm. Tôi lấy hết sức bình sinh rồi thổi còi, gào thét, nhưng chẳng có tác dụng gì.
Con tàu cứ thế quạt nước lướt qua chúng tôi, máy nổ rầm rầm và chân vịt xoay như súng liên thanh nổ dưới nước, bỏ mặc chúng tôi bập bõm, dệp dềnh trong đám bọt sóng nó để lại đằng sau. Sau bao nhiêu tuần chỉ nghe âm thanh thiên nhiên, những tiếng động cơ đó thật lạ lùng và đáng sợ đến nỗi tôi cứ đứng chết lặng tại chỗ.
Chưa đầy hai mươi mốt phút sau, con tàu ba trăm ngàn tấn chỉ còn là một cái chấm ở chân trời. Khi tôi quay đi chỗ khác, Richard Parker vẫn còn nhìn theo hướng đó. Vài giây sau, nó cũng quay đi và mắt chúng tôi gặp nhau. Trong mắt tôi lúc ấy đầy rẫy mong mỏi, đau đớn, khổ não và cô đơn. Nó chỉ có thể biết rằng một điều gì đó rất buồn và lớn lao đã vừa xảy ra, một điều gì đó mà nó không thể hiểu được. Nó không thể thấy rằngt chúng tôi đã vừa lỡ mất cơ hội được cứu sống. Nó chỉ thấy rằng con thú đầu đàn ở dây, cái con hổ lạ lùng và khó đoán biết này, đã vừa rất phấn khích. Nó đi ngủ. Cà một sự kiện như vậy, nó chỉ bình phẩm bằng một tiếng meo tỉnh bơ.
“Ta yêu mày biết bao!” Những lời ấy buột khỏi miệng tôi, tinh khiết, chân thành, vô biên. Cảm giác ấy tràn ngập lồng ngực tôi. “Thực là thế. Ta yêu mày biết bao, Richard Parker. Nếu không có mày lúc này, không biết ta sẽ làm gì đây. Chắc ta sẽ không sống nổi đâu. Đúng thế. Ta sẽ chết vì tuyệt vọng mất. Đừng bỏ cuộc. Richard Parker, đừng bỏ cuộc. Ta sẽ đưa mày về đất liên, ta thề như vậy đấy!”
[1] Độc giả để ý Pi tôn vinh vị thần của đạo Hindu và Hồi giáo, Ali là thánh Jesus của đạo Hồi, Brahman là Thượng Đế của đạo Hindu (ND).
Xem tiếp chương 87
Chương 87
Một trong những phương cách trốn chạy thực tại ưa thích của tôi là tự làm cho mình rơi vào tình trạng yếm khí nhẹ. Tôi dùng một mảnh vải cắt ra từ cái chăn đã rách tã. Tôi gọi nó là miếng giẻ mơ mộng. Tôi nhúng nó xuống biển cho ướt hết nhưng không quá sũng đến mức rỏ ròng ròng. Tôi nằm thật thoải mái lên mui bạt và đắp miếng giẻ ấy lên mặt, sao cho thật khít vào mắt, mũi mồm. Và tôi sẽ rơi vào một trạng thái đê mê. Điều này thực ra không khó đối với một người đã thường xuyên ở trạng thái lờ đờ mệt mỏi. Nhưng miếng giẻ mơ mộng rõ ràng đã cho trạng thái đê mê của tôi một phẩm chất đặc biệt. Có thể vì cách nó bạn chế lượng không khí tôi thở. Tôi sẽ chìm vào những giấc mơ khác thường, những me đắm, ảo ảnh, ý nghĩ, cảm xúc và ký ức khác thường. Và thời gian sẽ qua rất nhanh. Khi một cử động hoặc một cái ngáp vì ngạt hơi làm tôi tỉnh giấc và miếng giẻ ấy tuột đi, tôi tỉnh táo và mừng rỡ thấy thời gian đã qua thật nhanh. Thật như vậy, vì miếng giẻ đã khô gần hết. Nhưng hay hơn nữa là cảm giác mọi thứ đã khác đi, rằng cái giây phút hiện nay khác với các giây phút trước đó.
Xem tiếp chương 88
Last edited by quykiemtu; 23-11-2008 at 10:27 AM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam