Quỷ ám - Nguyên tác: The Exorcist; Tác giả: William Peter Blatty
Ánh nắng chói chang vắt từ trán ông già ra những gịot mồ hôi lớn, thế mà ông vẫn khum đôi tay ấp lấy cốc trà nóng ngọt ngào như muốn sưởi ấm chúng. Ông không sao rút người ra khỏi những dự cảm đó. Nó cứ quấn quýt lấy lưng ông như những chiếc la lạnh buốt.
Cuộc khai quật đã xong. Gò phế tích đã được sàng lọc kỹ từng lớp đất. Những cổ vật nằm trong lòng gò đất đã được kiểm tra, gắn thẻ ghi chú và chuyên chở đi: những hạt chuổi và các món trang sức có dây đeo; đá chạm trổ, các mẫu tượng dương vật, các khối vữa bằng đá xây điểm xuyết vết đất sét hòang thổ, các hũ vại đánh bóng. Chẳng có gì đặc biệt lắm. Một hộp đồ trang điểm bằng ngà của người Assyrie. Và người. Di cốt một người đàn ông. Những di vật mong manh của một nỗi thống khổ vũ trụ có lần khiến ông phải tự hỏi có phải vật chất là sự khắc khỏai vươn lên của quỷ Lucifer để tìm về với thượng đế của hắn không. Vậy mà giờ đây ông đã biết rõ hơn. Hương thơm của cây cam thảo và tân hà liễu giục ông nhìn về phía các con đồi, chập chùng cây anh túc; về phía các cánh đồng lau sậy; về phía nhánh đường rải đá lởm chởm phóng mình vào miền kinh hãi. Phía tây bắc là Mosul; phía đông là Erbil; phía nam là thành Bagdad và Kirkuk cùng lò lửa cháy bừng bừng của vua Nabuchodonosor. Ông thay đổi vị trí, đôi chân dưới gầm bàn kê trước một túp lều cô quạnh bên đường, và nhìn đăm đăm những sợi cỏ dính trên đôi ủng và hai ống quần ca-ki. Ông nhấm nháp trà. Cuộc khai quật đã hòan tất. Có cái gì đang manh nha? Ông gạt ý nghĩ đó đi như phủi bụi một cổ vật tìm thấy bằng đất sét mới, nhưng ông không tài nào hài tên được ý tưởng đó.
Có người thở khò khè từ bên trong túp lều: chủ nhân tàn tạ của túp lều lê bước ra phía ông ta, đã tung lớp bụi dính bên trong đôi giày kiểu Nga mà ông ta mang như đôi dép, hai đế giày rền rĩ dưới sức ép của đôi gót chân ông. Bóng ông ta phủ rợp lên bàn.
“Kaman chay, Chawaga?”
Người vận ca-ki lắc đầu, nhìn xuống đôi giày không dây, bê bết những mảnh vụn vỡ của kiếp sống đọa đày. Cái chất liệu của vũ trụ ấy, ông suy nghĩ: vật chất, rốt ráo lại hóa ra là tinh thần. Tinh thần, và đôi giày ấy, đối với ông chỉ là những khía cạnh của một chất liệu căn bản hơn, một chất liệu có tính cách nguyên thủy và khác hẳn.
Bóng đen kia xê dịch. Người Kurde đó cứ đứng đấy như một món nợ cũ. Ông già vận ka-ki ngước nhìn vào đôi mắt trắng dã kèm nhèm cứ như có một lớp màng mỏng của quả trứng được dán lên mống mắt: Chứng xanh mắt. Tăng nhãn áp. Đã có dạo ông không thương nổi con người này.
Ông rút ví, lần tìm một đồng xu con giữa đám “khách trọ” tả tơi, nhúm nhó của nó: vài đồng dinar, một bằng lái xe của Irak, một tấm lịch bướm đã quá hạn mười hai năm. Mặt lưng tấm lịch mang dòng chữ: NHỮNG GÌ CHÚNG TA BAN PHÁT CHO NGƯỜI NGHÈO SẼ LÀ NHỮNG GÌ CHÚNG TA MANG THEO KHI CHÚNG TA CHẾT. Tấm lịch bướm này được Hội truyền giáo Dòng Tên ấn hành. Ông trả tiền tách trà, để lại món tiền “trà nước” mười lăm “fil” trên mặt chiếc bàn tiều tụy mang màu sắc buồn thảm ấy.
Ông bước đến chiếc “dip” của mình. Tiếng chìa khóa khẽ khua lách cách trong ổ khởi động nghe dòn dã trong cõi yên lặng. Trong thóang chốc, ông chờ đợi, cảm nhận sự tĩnh mịch. Quần tụ trên đỉnh một gò đá ngất ngưởng, những nóc nhà của Erbil lượn lờ mãi tít xa, chơi vơi giữa các từng mây, giống như một lời chúc phúc đầy vết bùn đất và gạch vụn. Đám lá cây bấu chặt hơn nữa vào mảng da thịt trên lưng ông.
Một cái gì đó đang chờ đợi.
“Allah ma’ak, chawaga”
Những chiếc răng sâu thối. Người Kurde cười nhe răng, vẫy tay giả biệt. Người vận ca-ki cố gượng xoay sở tìm chút nồng nhiệt trong hố thẳm của chính bản ngã mình và kịp đưa được bàn tay lên vẫy trả, với vành môi ráng khuôn được một nụ cười gọi là. Cái cười tàn phai lúc ông quay đi. Ông mở máy xe, đánh một vòng chữ U kỳ quặc, thật gắt, rồi hướng mũi xe về Mosul. Người Kurde vẫn đứng nhìn, bồi hồi vì một cảm giác mất mát đến se lòng khi chiếc xe “dip” tăng tốc độ. Cái gì vừa biến đi mất đó? Một cái gì đó giống như sự an tòan, ông hồi tưởng, một cảm giác được che chở và tràn đầy an lạc. Bây giờ điều đó đã phôi pha vào cõi xa cùng với chiếc dip lao nhanh như gió cuốn. Ông ta cảm thấy cô đơn lạ kỳ.
Công tác liệt kê thật công phu đã hòan tất vào lúc sáu giờ mười phút. Viên chức quản thủ các cổ vật, một người Ả Rập có đôi má chảy xệ, đang thận trọng đặt bút ghi một khỏan mục chót vào tập sổ cái trên bàn giấy. Ông dừng lại trong thóang chốc, ngước lên nhìn bạn, vừa chấm ngòi bút vào bình mực. Người vận ca-ki dường như đắm chìm trong cõi suy tưởng. Ông ta đứng bên một chiếc bàn, hai tay thủ túi, nhìn đăm đăm xuống một lời thì thầm của quá khứ có buộc thẻ, khô khốc. Viên quản thủ quan sát ông với vẻ hiếu kỳ, bất động, rồi trở lại công việc vào sổ, tuồng chữ thảo rất sắc nét, cứng cáp. Cuối cùng ông ta thở dài, đặt bút xuống lúc ông để ý đến thời gian. Tàu hỏa đi Bagdad khởi hành lúc tám giờ. Ông thấm trang giấy cho khô mực, rồi mời trà.
Người vận ka-ki lắc đầu, tia mắt ông vẫn dán vào một vật trên bàn. Người Ả Rập nhìn ông, lo lắng vu vơ. Có cái gì bảng lảng trong không khí vậy kìa? Quả có một cái gì đó trong không khí thật. Ông đứng lên, tiến lại gần hơn; thế rổi bất ưng, ông thấy rợn tóc gáy khi bạn ông rốt cục động đậy, với tay xuống lấy một đạo bùa, rồi đong đưa nó trong tay một cách trầm mặc. Đó là tượng đầu quỷ Pazuzu bằng đá màu lục, hiện thân của gió Tây Nam. Nó tề trị trên bệnh tật và cơn chứng. Chiếc đầu quỷ bị khuyên lỗ. Người chủ của đạo bùa này xưa đã đeo nó làm vật hộ thân.
“Dĩ độc trị độc’, viên quản thủ thở nhẹ, vừa uể ỏai quạt mát bằng một tờ tạp chí khoa học Pháp, một dấu ngón tay cái dính dầu ô liu vấy bẩn bìa tờ tạp chí.
Bạn ông không cử động; ông ta không bình phẩm gì.
“ Có cái gì không ổn vậy?”
Không trả lời.
“Này Cha?”
Người vận ca ki dường như vẫn không nghe thấy gì, hòan tòan bị cuốn hút vào đạo bùa, vật cuối cùng trong những món khai quật được của ông. Một lúc sau, ông bỏ đạo bùa xuống, ngước ánh nhìn tra hỏi lên người Á Rập. Có phải ông ta vừa nói gì đấy không?
“Không có gì”
Hai người thầm thì từ biệt nhau.
Đến ngưỡng cửa, viên quản thủ cầm lấy tay ông già, chặt hơn thường lệ. “Tự thâm tâm, thưa Cha, tôi muốn cha đừng đi.”
Bạn ông nhỏ nhẻ trả lời bằng những nhận xét về trà, về thời gian, về một việc gì đó cần phải làm xong.
“Không, không, không, ý tôi muốn nói là đi về nhà cơ”.
Người vận ca ki chiếu tia nhìn của ông lên một vệt đậu nấu dính nơi khóe miệng người Á Rập, tuy nhiên, đôi mắt ông thật xa xôi. “Nhà “, ông lập lại. Cái từ đó mang âm thanh của một sự kết thúc, một chung cuộc.
“Hoa Kỳ”, người Á Rập nói thêm, lập tức thắc mắc là tại sao ông ta lại nói như thế. Người vận ca ki nhìn xuyên thấu vào cõi tối của nỗi ưu tư nơi bạn mình. Chưa bao giờ ông cảm thấy khó thương yêu con người này.
“Giã biệt”, ông thầm thì, rồi quay nhanh ra, bước vào trũng ủ ê càng lúc càng đậm dần của phố xá, bước vào cuộc hành trình về quê nhà mà đường xa vạn lý chẳng hiểu sao có vẻ là vô định.
“Hẹn gặp lại năm sau nhé!” Người quản thủ từ ngạch cửa gọi với theo ông. Nhưng người vận ca ki không hề ngóai lại. Người Ả Rập nhìn hình dạng khẳng kheo của bạn mình lúc ông ta băng chéo qua một con phố hẹp súyt đụng phải một cỗ xe ngựa bốn bánh phóng nhanh tới. Xe ngựa chở một bà già Ả Rập lực lưỡng, mặt bà khuất sau lớp mạng đen thêu ren, phủ hờ hững trên người bà như một tấm vải liệm. Ông đóan chừng bà ta đang vội đến một cuộc hẹn nào đó. Chẳng mốy chốc, ông mất hút bóng người bạn vội vả của mình.
Người vận ca ki cứ bước như bị thôi thúc. Rứt người ra khỏi thành phố, ông đột phá ra khỏi vùng ngọai ô, vượt con sông Tygre. Gần đến khu phế tích, ông lơi bước. Cứ mỗi bước chân đi, niềm dự cảm khởi phát kia lại càng thành hình vững chắc hơn, kinh khiếp hơn. Nhưng mà ông cần phải biết. Lẽ ra ông phải chuẩn bị. Ông cần phải chuẩn bị.
Một tấm ván bắt cầu qua con suối Khors đục lầy kêu ken két dưới sức nặng thân ông. Thế là ông đã đến nơi, ông đứng trên gò đất đã một thời là kinh thành Ninive vàng son chói lọi mười lăm cửa ô, hang hổ đáng sợ của các bộ tộc Assyrie. Giờ đây kinh thành đó đang nằm thuỗn ra dưới lớp bụi tiền định đỏ như máu của nó. Vậy là ông đã đến đây, không khí vẫn còn đặc quánh hơi hướng Kẻ Kia, kẻ đã thao túng những giấc mơ của ông.
Một anh gác người Kurde đang đi rảo quanh một góc ngoặt, tháo súng trường khỏi vai, bắt đầu đuổi theo ông, sau đó anh ta đứng phắt lại, cười toe tóet, với một cái vẫy tay ra dấu nhận biết ông, rồi tiếp tục tuần hành.
Người vận ca ki lượn lờ tha thẩn khắp khu phế tích. Đền Nabu. Đền Ishtar. Ông đắn đo, sàng sẩy những rung cảm. Tại cung điện Ashurbanipal, ông dừng chân, đọan nhìn chếch sang một tượng đá vôi thô kệch vẫn còn ở nguyên vị trí, đôi cánh tơi tả, đôi chân chơm chởm móng vuốt, dương vật ngắn ngủn nhô ra như hình củ hành và một cái mồm căng thẳng thành một cái cười hoang dại. Quỷ Pazuzu đây.
Bất giác ông lả cả người.
Ông biết.
Điều đó đã đến.
Ông nhìn đăm đăm lớp bụi đất. Những bóng đen sống động, tíu tít. Ông nghe tiếng sủa văng vẳng của lũ chó hoang chạy rong quanh rìa thành cổ. Quỹ đạo mặt trời bắt đầu rơi xuống dứơi riềm quả đất. Ông buông tay áo xuống, cài cúc lại lúc một ngọn heo may bắt rùng mình nỗi lên. Bắt nguồn từ hướng Tây Nam.
Ông rảo bước về. Mosul và chuyến tàu hỏa đang đợi, tim ông niêm kín trong một niềm xác tín giá băng rằng chẳng bao lâu nữa, ông sẽ đối diện với một kẻ thù xưa.
Phần 1: BẮT ĐẦU
1.
Giống như một lóe sáng định mạng của bao nhiêu mặt trời nổ tung chỉ in dấu lờ mờ trên mắt người mù, sự bắt đầu của nỗi kinh hòang ấy trôi qua hầu như không ai thấy. Thật vậy, trong tiếng thét chát chúa của những điều kế tiếp, sự bắt đầu đã bị quên lãng và có lẽ không liên quan gì với nỗi kinh hòang ấy cả. Thật khó mà xét đóan được.
Đó là một ngôi nhà thuê. Ảm đạm. Chắc nịch. Một ngôi nhà gạch kiểu thuộc địa phủ đầy dây trường xuân trong khu Georgetown ở thủ đô Washington D.C. Bên kia đường là đường viền khuôn viên Viện Đại học Georgetown, phía sau nhà là bờ đất dốc đứng phóng thẳng xuống con phố Ma-phi-a nhộn nhịp, tít xa là dòng sông Potomac đục lờ. Sáng sớm ngày mùng 1 tháng Tư, căn nhà ấy thật yên tĩnh. Chris MacNeil chống tay lên giường, ôn lại vai tuồng cho buổi quay phim ngày hôm sau. Regan, con gái nàng, ngủ yên nơi phòng cuối hành lang. Ở tầng dưới, trong một căn phòng bên ngòai bếp, vợ chồng người quản gia tuổi trung niên, Willie và Karl, còn ngủ kỹ. Vào khỏang 12 giờ 25 phút sáng, Chris rời mắt khỏi kịch bản, mặt cau lại vì hoang mang. Nàng nghe có những tiếng gõ mạnh. Những tiếng gõ kỳ dị. Nghẹt ngòi. Sâu lắng. Từng cụm nhịp nhàng. Một thứ mật mã xa lạ do một kẻ chết đánh đi.
Kỳ lạ.
Trong một lúc nàng cứ lắng nghe. Sau đó nàng gạt nó ra khỏi tâm trí; nhưng tiếng gõ cứ nhịp đều đều khiến nàng không sao tập trung được. Nàng vụt mạnh kịch bản xuống giường.
Nó quấy quả ta quá chừng!
Nàng trỗi dậy đi xem có chuyện gì.
Nàng bước ra lối hành lang, nhìn quanh quất. Tiếng gõ dường như vẳng ra từ phòng ngủ của Regan.
Con bé làm giống gì vậy kìa?
Nàng khẽ bước đến cuối hành lang và tiếng gõ đột nhiên lớn hơn, nhặt hơn, rồi khi nàng đẩy cửa bước vào phòng, chúng bỗng ngưng bặt.
Chuyện quái gì đây không biết?
Đứa con gái xinh xắn mười một tuổi của nàng say sưa ngủ, tay ôm siết một con gấu lớn nhồi bông có đôi mắt tròn xoe. Con gấu đã nhạt màu sau bao năm bị quấn, bọc, bao năm bị nựng nịu, hôn hít bằng những cái hôn ướt át kêu chùn chụt.
Chris khẽ đến bên giường, cúi xuống thầm thì, “Rags? Con thức đấy à?”
Nhịp thở đều. Nặng. Sâu lắng.
Chris đảo mắt nhìn quanh phòng. Ánh sáng lờ mờ từ hành lang tỏa xuống xanh xao và vỡ vụn trên những bức vẽ sơn dầu của Regan, trên những bức điêu khắc của Regan, trên những con thú nhồi bông khác.
Ô kê, Rags. Lại ba cái trò chọc phá mẹ đây hẳn. Nói đi. Trò nghịch ngợm “Cá Tháng Tư” đây chứ gì.
Tuy nhiên, Chris biết điều này không giống với con gái nàng chút nào. Con bé tính tình rất rụt rè, nhút nhát. Vậy thì ai chơi cái trò này? Một thần trí hôn thụy ra lệnh tạo những tiếng gõ trong hệ thống ống sưởi hay ống nước chăng? Có dạo, trên vùng núi xứ Bhutan, nàng đã đăm đăm nhìn hàng giờ một nhà sư Phật giáo ngồi xếp bằng tham thiền dưới đất. Cuối cùng, nàng nghĩ là đã thấy vị sư bay lên bềnh bồng giữa khỏang không. Có lẽ vậy. Thuật lại câu chuyện này cho bất cứ ai, bao giờ nàng cũng nói thêm “có lẽ vậy”. Và có lẽ thần trí nàng - kẻ tường thuật về các ảo giác không biết mệt mỏi ấy – đã tô điểm cho những tiếng gõ này cũng nên.
*** họ, ta nghe thấy rõ ràng chứ bộ!
Chợt nàng ném nhanh một cái liếc mắt lên trần nhà. Đó kìa! Có tiếng cào nạo khe khẽ mà!
Lũ chuột trên rầm thượng rồi! Trời ạ, chuột rồi!
Nàng thở dài. Đúng chuột rồi. Những chiếc đuôi to sầm. Thịch thịch. Nàng cảm thấy nhẹ nhỏm kỳ lạ. Sau đó nàng nhận ra cái lạnh. Căn phòng đó. Nó lạnh như nước đá.
Nàng khẽ bước đến cửa sổ. Kiểm sóat cửa. Vẫn đóng chặt mà. Nàng rờ vào lò sưởi. Nóng.
Ủa, thật vậy sao?
Bối rối, nàng đến bên giường, áp tay nàng vào má Regan. Bờ má mịn màng như ý nghĩ và rơm rớm mồ hôi.
Chắc là mình ốm rồi!
Nàng ngắm con gái, nhìn chiếc mũi hếch và khuôn mặt đầy tàn nhang, rồi trong một xung động nồng nàn, thóang nhanh , nàng cuối xuống hôn lên má con. “Mẹ rất yêu con” nàng thì thầm, xong trở lại phòng riêng, trở lại chiếc giường và tập kịch bản của nàng.
Trong một lúc, nàng nghiên cứu kịch bản. Đó là một phim hài rập khuôn theo phim Ông Smith lên Washington. Một cốt truyện phụ được bổ sung mô tả các cuộc nỗi lọan trong trường đại học. Chris thủ vai chánh. Nàng thủ vai một giáo sư tâm lý học về phe với nhóm nỗi lọan. Nàng ghét cay đắng vai trò đó. Rõ ngớ ngẩn! Thật là một cảnh cực kỳ ngớ ngẩn! Tâm trí nàng, dù không học thức mấy, chưa bao giờ cầm nhầm khẩu hiệu thay cho chân lý, và giống như một con chim xanh, nàng mổ không thương tiếc vào mớ ngôn từ đại cà sa để tìm cho ra một sự kiện kín dấu, rạng ngời. Cho nên theo nàng, lý do cuộc nỗi lọan này thật là “cả quỷnh”. Chẳng có nghĩa lý gì cả. Sao thế này nhỉ? Nàng tự hỏi. Khỏang cách giữa các thế hệ chăng? Rặt là đồ rơm rác! Ta mới có ba muơi hai tuổi thôi! Ngớ ngẩn chỉ đơn giản là nó ngớ ngẩn! Thế thôi…
Bình tĩnh nào. Chỉ còn một tuần nữa thôi.
Họ đã quay xong phần nội cảnh tại Hollywood. Chỉ còn vài ngọai cảnh quay tại khuôn viên của Đại học đường Georgetown, bắt đầu vào ngày mai. Lúc này đang mùa nghỉ lễ Phục Sinh, các sinh viên nghỉ cả.
Nàng đâm buồn ngủ quá. Mí mắt cứ nhíu lại. Nàng lật sang một trang bị rách bươm một cách kỳ cục. Kinh ngạc, nàng mỉm cười. Ông đạo diễn người Anh của nàng đây rồi. Ông ta có thói quen cứ khi nào quá căng thẳng, lại đưa đôi tay run lẩy bẩy xé tọat một rẻo nhỏ khỏi bất cứ rìa trang giấy nào gần ông nhất, rồi bỏ vào mồm nhai, từng phần một, cho đến khi nó viên thành một cục tròn trong miệng ông.
Chàng Bruke thân mến.
Nàng ngáp dài, rồi âu yếm nhìn xuống rìa kịch bản. Các trang giấy trông như bị gậm nhấm. Nàng nhớ lại lũ chuột. Nàng bụng bảo dạ sáng ra phải nhớ nhắc Karl đặt bẫy chuột.
Những ngón tay lơi lỏng. Tập kịch bản rời ra. Nàng thả nó rơi xuống sàn. Ngớ ngẩn. Thật ngớ ngẩn quá! Một bàn tay lần mò tìm nút tắt đèn. Đó rồi. Nàng thở dài. Trong một lúc, nàng nằm bất động, chập chờn ngủ. Thế rồi nàng đưa một chân lười lĩnh đá tung chăn tung chăn đắp ra. Nóng như quỷ.
Một làn sương dịu khẽ khàng quyện lấy các khung kính cửa sổ.
Chris ngủ. Nàng mơ đến cái chết trong một cách thế đặc biệt muốn chóng mặt, cái chết như thể sự chết vẫn chưa hề được biết đến giữa lúc một cái gì đó vẫn rung lên như chuông, nàng há hốc mồm, tan chảy, trôi tuột vào sự trống không, trong khi tư tưởng cứ mãi trăn trở. Ta sắp chết, ta sẽ chết, ta sẽ không hiện hữu, mãi mãi, đời đời. Ôi, bố ơi, đừng để họ làm thế, đừng! Đừng để con biến thành hư vô mãi mãi và cứ tan chảy, cứ lơi lỏng ra, cứ rung rung như chuông…
Điện thọai!
Nàng nhổm dậy mà nhịp tim đổ hồi, tay cầm máy điện thọai mà bụng hẩng không còn chút trọng lượng, một cõi trung tâm không chút trọng lượng và máy điện thọai thì cứ réo vang.
Nàng trả lời. Viên phụ tá đạo diễn.
“Hóa trang sẳn sàng đúng sáu giờ, cưng”.
“Được.”
“Chị thấy người ra sao?”
“Nếu tôi vào phòng tắm và nó không thiêu cháy thì chắc là tôi tiếp tục được.”
Anh ta cười khẽ “Gặp lại chị sau.”
“ Được rồi. Cám ơn anh.”
Nàng gác máy. Trong hàng mấy khỏang khắc, nàng chỉ ngồi bất động suy nghĩ về giấc mơ kia. Một giấc mơ chăng? Tư tưởng giữa lúc nữa thức nữa ngủ thì nghe ra có lý hơn. Cái sự minh bạch, rõ ràng khủng khiếp ấy! Trạng thái không hiện hữu. Không thể đảo ngược được. Nàng không sao tưởng tượng được điều ấy. Chúa ơi, không thể như thế được.
Nàng cân nhắc, đắn đo. Rốt cuộc, nàng cúi đầu. Nhưng mà nó như thế.
Nàng vào phòng tắm, mặc chiếc áo dài, và lặng lẽ xuống bếp, xuống với cuộc sống trong tiếng dăm bông xèo xèo trên chảo mở.
“Ồ, xin chào bà MacNeil”
Willie, trong bộ đồ xám, uể ỏai, đang vắt cam, dưới mắt trễ tràng hai túi thịt xanh tái. Phát âm lơ lớ giọng Thụy Sĩ, giống như Karl. Chị lau tay vào một chiếc khăn giấy rồi đi ra bếp lò.
“Để tôi lấy cho, Willie” Chris rất nhạy cảm, đã trông thấy vẻ mặt mệt mỏi của Willie, lúc chị ta lầu bầu, quay trở lại bồn rửa chén. Người nữ diễn viên rót cà phê, xong di chuyển ra góc ăn sáng. Nàng ngồi xuống, mỉm cười hồn hậu lúc nhìn khay ăn. Một bông hồng đỏ thắm. Regan rồi. Đứa con gái thiên thần đó. Có lắm buổi sáng, lúc Chris đang làm việc, Regan thường rón rén tụt xuống giường, xuống bếp đặt một bông hoa rồi lại mắt nhắm mắt mở lần lối trở lại giường ngủ tiếp. Chris lắc đầu, thương xót. Nàng nhớ lại đã súyt đặt tên con gái là Goneril. Phải rồi, đúng quá đi chứ! Ngữ này thì chỉ là thứ phá gia chi tử thôi! Chris cười khẽ vì hồi ức đó. Nàng nhấm nháp cà phê. Lúc nàng ngắm lại bông hoa hồng, nàng chợt thóang buồn, đôi mắt to, xanh, sầu muộn trên khuôn mặt giống như của đứa trẻ lạc lòai. Nàng nhớ lại một bông hoa khác. Một đứa con trai, Jamis. Thằng bé đã chết lâu rồi, lúc mới lên ba, khi Chris còn rất trẻ và vẫn là một cô gái vô danh trong nhóm ca vũ ở Broadway. Nàng đã thề là sẽ không bao giờ còn xả thân tận tụy như nàng đã từng làm đối với Jamis cũng như đối với bố thằng bé, Howard MacNeil nữa. Nàng thôi nhìn bông hồng, và lúc giấc mơ từ cái chết của nàng từ tách cà phê bốc khói lên như làn sương mộng, nàng vội đốt một điếu thuốc. Willie mang nước trái cây ép đến và Chris nhớ lại lũ chuột. “Karl đâu?” nàng hỏi chị giúp việc.
“Tôi đây, thưa bà.”
Phóng ra khỏi cửa phòng chứa thực phẩm thoăn thoắt như một con mèo. Đầy vẻ quyền uy, cung kính lễ phép. Năng động. Khép nép. Một mảnh khăn giấy Kleenex ép chặt vào cằm, chỗ anh ta vừa vô ý làm chảy máu khi cạo mặt. “Dạ, bà gọi”. Bắp thịt săn rắn, cuồn cuộn, tiếng anh thở sát bên bàn. Đôi mắt long lanh. Mũi diều hâu. Đầu hói.
“ Này Karl, trên rầm thượng nhà ta có chuột đấy. Nên kiếm mua vài cái bẫy đi.”
“ Có chuột ạ ?”
“ Tôi mới nói đó”.
“ Nhưng rầm thượng sạch tươm ạ.”
“ À, tốt, vậy là nhà ta có lũ chuột sạch tươm chứ sao?”
“ Không có chuột đâu ạ”
“ Karl này, tôi đã nghe thấy tiếng chúng đêm qua.” Chris kiên nhẫn nói, cố tự chủ.
“ Chắc là ống nước.” Karl thăm dò, “chắc là mấy tấm ván.”
“ Chắc là chuột! Anh có chịu đi mua hộ mấy cái bẫy khốn kíp và thôi lý sự cùn nữa được không?”
“ Vâng, thưa bà,” anh ta tất tả đi ngay. “Tôi đi đây.”
“ Không phải bây giờ, Karl. Các tiệm họ đóng cửa hết rồi!”
“ Họ đóng cả rồi!” Willie quở.
“ Để tôi đi xem.”
Rồi anh ta đi.
Chris và Willte nhìn nhau, lắc đầu, rồi quay lại vói món dăm bông. Chris nhấm nháp cà phê. Lạ lùng. Con người thật lạ lùng. Cũng giống như Willie, chăm chỉ, rất trung thành, kín đáo. Vậy mà ở anh ta vẫn có một cái gì đó, khiến nàng mơ hồ khó chịu. Cái gì vậy? Vẻ tự phụ tế nhị? Vẻ thách thức? Không, một cái gì khác cơ. Một cái gì đó khó mà xác định được. Cặp vợ chồng này đã ở với nàng gần sáu năm rồi, thế mà Karl vẫn là một chiếc mặt nạ - một chiếc mặt nạ biết nói, biết thở, một thứ chữ tượng hình không phiên dịch được – chuyên chạy việc vặt cho nàng với đôi chân đi cà khêu. Tuy thế, đàng sau chiếc mặt nạ, một cái gì đó chuyển động, nàng nghe được cả bộ máy của anh ta kêu tí tách giống như một lương tâm. Nàng dụi tắt điếu thuốc, nghe tiếng cửa trước mở két một tiếng, rồi đóng lại.
“ Cửa tiệm đóng cả”
Chris nhấm nháp miếng dăm bông, xong quay về phòng riêng, mặc áo nịt len và váy vào. Nàng soi gương và trang trọng ngắm máy tóc đỏ của nàng, mái tóc trông bù xù muôn thuở, ngắm đám tàn nhan bộc phát trên gương mặt bé choắt của nàng, sau đó đảo mắt và cười ngờ nghệch. Nàng le lưỡi chế giễu mình trong gương. Rồi lơi lả người. Chúa ơi! Rõ chán mớ đời! Nàng nhặt lấy hộp tóc giả, lề mề xuống cầu thang và bước ra đường phố rợp bóng cây, tươi roi rói.
Nàng đứng bên ngòai nhà chốc lát, nín thở trước ánh ban mai. Nàng nhìn qua phải. Cạnh ngôi nhà một dãy bậc cấp bằng đá cũ kỹ đổ thật dốc xuống tận phố M. xa tít dưới kia. Xa hơn một chút là cánh cổng phía trên dẫn vào nhà chứa xe điện, vốn trước kia được dùng làm nơi chứa xe điện: nhà kiểu Địa trung Hải, lợp ngói, có những tháp nhỏ, cổ lỗ sĩ, gạch xưa. Nàng nhìn ngôi nhà với nỗi hòai mong… Từ đâu đó, có tiếng chuông đổ hồi. Nàng nhìn về hướng âm thanh. Tháp chuông đồng hồ Viện Đại học Georgetown. Tiếng chuông quạnh quẽ, ngân vang trên sông, run rẫy, lay lắt qua con tim mòn mỏi của nàng. Nàng bước đến nơi làm việc, đến với những trò đùa chữ nghĩa quái quỷ, đến với những món giả mạo rẻ tiền nhồi rơm đáng tức cười.
Nàng bước vào cổng chính trường Đại học, và nỗi chán chường trong nàng nguôi đi; càng nguôi ngoai hơn lúc nàng nhìn dãy phòng trang điểm đặt trên những cỗ xe rờ móc đậu dọc theo đường xe đến sát cạnh vách tường phía Nam của chu vi trường. Đến 8 giờ sáng, lúc bắt đầu quay những thước phim đầu tiên trong ngày, nàng đã gần như tươi tỉnh hẳn: nàng bắt đầu tranh cãi về kịch bản.
“ Nè, Burke? Ngó sơ qua cái của chết bầm này một chút được chứ ?”
“ Chà, cô có cả một kịch bản trong tay! Rõ ràng nhé, lý thú thật !”
Đạo diễn Burke Dennings, căng thẳng và tinh quái, mắt trái giật giật mà long lanh vẻ ranh mãnh, lấy mấy ngó tay run rẫy rọc, như thể bác sĩ giải phẫu, một rẻo nhỏ từ một trang kịch bản. “Tôi tin là mình gặm thứ này được,” ông cười khằng khặc.
Họ đang đứng trên sân trước mặt Tòa Viện trưởng và bị gút lại giữa phòng các tài tử, các chuyên viên ánh sáng, kỹ thuật viên, các vai phụ, các tay chạy hiệu. Rải rác đây đó vài khán giả trên sân cỏ, phần lớn là ban giáo sư Dòng Tên. Một số trẻ con. Chuyên viên quay phim, buồn chán, nhặt tờ Daily Variety lên xem ngay lúc Dennings đút rẻo giấy vào mồm và cưới khúc khích; hơi thở ông sặc mùi chầu rượi “gin” thứ nhất đầu ngày.
“ Đúng, tôi vui kinh khủng khi thấy cô được trao một kịch bản.”
Một con người mảnh khảnh, tinh quái, ở tuổi ngũ tuần, ông nói tiếng Anh với một phát âm chất phát, khỏe khoắn, đầy duyên dáng, lối phát âm thật nhanh và chính xác, đến nỗi ngay cả những từ tục tĩu, sống sượng cũng bay bổng đến mức lịch lãm. Còn cứ khi rượu vào, ông dường như lúc nào cũng chỉ những chực phát lên cười hô hố, om sòm, dường như cứ phải phấn đấu không ngừng để giữ cho được bình tĩnh.
“ Nào, cô bé, bây giờ nói đi. Có chuyện gì vậy? Có gì không ổn nào ?”
Cái cảnh họ đang bàn đến đòi hỏi vị khoa trưởng phân khoa huyền thọai học trong kịch bản ngỏ lời trước đám sinh viên đang tụ tập, nhằm cố dẹp tan một cuộc biểu tình ngồi lì đang có nguy cơ diễn ra. Trong kịch bản, lúc đó Chris sẽ chạy lên bậc cấp dẫn lên sân, giằng chiếc loa phóng thanh trên tay vị khoa trưởng, rồi chõ về phía Tòa Viện trưởng mà hô lớn, “Giật sập Tòa nhà ấy xuống đi.”
“ Chỗ này chả ra ý nghĩa gì cả,” Chris bảo.
“ Ồ, nó rõ như ban ngày rồi còn gì,” Dennings phịa.
“ Việc quái gì họ phải phá sập cái tòa nhà ấy xuống chứ, hở Burke? Để làm gì chứ?”
“ Cô định kết án tôi sao?”
“ Không, tôi chỉ hỏi “để làm gì?” thôi.”
“ Bởi vì tòa nhà đó nó ở đó , chứ sao cưng?”
“ Trong kịch bản ấy à?”
“ Không, ở trên sân ấy chứ?”
“ Hừ, nó chả có nghĩa lý gì cả, Burke ạ. Đơn giản là cô ta đừng làm thế mới phải.”
“ Cô ta làm chứ.”
“ Không, cô ta không làm đâu.”
“ Ta có cần mời tác giả kịch bản đến không? Tôi chắc anh ta đang ở Paris.”
“ Trốn ở đó à?”
“ Đ… gái!”
Ông ném cái tiếng đó ra gọn bân không chê vào đâu được, đôi mắt tinh như cáo, long lanh trên bản mặt như bột nhồi bánh, lúc cái tiếng ấy vút dòn dã đến tận các tháp nhọn kiểu gô tích, Chris lịm trên vai ông: “ Ôi, Burke, anh là đồ quỷ sứ đâu không ấy!”
“ Phải.” Ông ta nói cứ y như lúc César khiêm tốn xác nhận những báo cáo rằng ông ta ba lần từ chối ngai vàng. “ Nào, bây giờ ta tiếp tục kịch bản được chứ?”
Chris không nghe thấy. Nàng ném một cái nhìn len lén, bối rối về phía một tu sĩ Dòng Tên đứng cạnh đó, xem thử ông ta có nghe được cái tiếng tục tĩu kia không. Một khuôn mặt quàu quạu, ngăm đen như khuôn mặt một võ sĩ quyền anh. Tuổi trạc tứ tuần. Có một vẻ gì buồn thảm nơi ánh mắt, một vẻ gì đau đớn. Tuy nhiên, ánh mắt ấy lại ấm áp và đầy khích lệ lúc chúng dán lấy ánh mắt nàng. Ông ấy đã nghe thấy rồi. Ông đang mỉm cười. Ông nhìn đồng hồ đeo tay rồi dời bước.
“ Tôi bảo là ta có tiếp tục kịch bản ấy hay không đây?”
Nàng quay lại, ấp a ấp úng. “ Ồ, có chứ, Burke. Ta tiếp tục chứ.”
“ Tạ ơn Trời.”
“ Khoan, đợi đó đã.”
“ Trời đất!”
Nàng than phiền về lời thọai ở cuối lớp cảnh. Nàng có cảm tưởng là cao điểm đã đạt tới được ở lời thọai của vai nàng nay đâm ra lại chỏi với cảnh nàng chạy qua cửa sổ tòa nhà kia ngay sau đó.
“ Điều đó chẳng thêm thắt được gì cả.” Chris bảo “ Ngớ ngẩn quá.”
“ Phải, đúng vậy, đúng vậy đó, cưng ạ.” Burke chân thành biểu đồng tình. “ Tuy nhiên chuyên viên cắt cúp đòi hỏi chúng ta phải diễn như vậy.” Ông nói tiếp, “ nên ta làm. Cô thấy chưa?”
“Không, chả thấy gì cả.”
“ Không, dĩ nhiên là không rồi. Nó ngu ngốc quá. Cô thấy đó, vì lớp cảnh tiếp theo sau,” ông ta cười hì hì “ bắt đầu bằng động tác của Jed đi về hướng chúng ta qua một cái cửa, do đó chàng cắt cúp nhà ta cảm thấy chắc ăn nếu đề nghị cảnh trước đó kết thúc bằng động tác cô bỏ đi cũng qua một cái cửa.”
“Thế thì ngu ngốc quá!”
“ Thì hẳn vậy rồi! Thât đáng lộn mửa! Thật điên rồ như cái đồ l… què ấy. À này, sao bây giờ ta lại không cứ quay cảnh đó rồi giao nó cho tôi, tôi sẽ găm đọan đó ra khỏi lần cắt cúp cuối cùng. Nhai món đó chắc là phải ý vị lắm.”
Chris cười lớn và tán thành. Burke liếc sang chàng chuyên viên cắt cúp, một anh chàng nổi tiếng “ta đây là nhất” với tính tình bất thường, khóai tranh cãi mất thời giờ. Anh ta đang bận bịu bên chuyên viên quay phim. Nhà đạo diễn thở phào nhẹ nhỏm.
Chờ đợi trên sân cỏ ngay dưới chân bậc cấp lúc đèn đóm nóng rực. , Chris nhìn Denings khi ông đang văng tục tưới hột sen lên đầu một anh chàng chạy hiệu không may, rồi sau đó mặt mày ông hí hửng trông thấy. Có vẻ như ông ta lấy làm khóai vì cái nết kỳ quặt trái tính của mình. Vậy mà ở một thời điểm nào đó lúc đang nốc rượu, Chris quá rỏ, ông thường bất ngờ nổi giận đùng đùng, và nếu như tình cờ lúc đó lại là ba, bốn giờ sáng, ông ta liền gọi điện thọai cho các nhân vật tai to mặt lớn rồi nhục mạ họ thậm tệ chỉ vì những lời khiêu khích con con chẳng đáng chi. Chris nhớ lại vụ một giám đốc phim trường. Ông này chỉ có mỗi một tội là trong một lần quay phim, ông có nhẹ nhàng bình luận rằng đôi tay áo sơmi của Dennings trông hơi sờn, thế là Dennings liền đánh thức ông ta dậy lúc 3 giờ sáng để gọi ông ta là “thằng cù lần mặt l..” con của một “lão dở điên dở khùng”! Thế rồi ngày hôm sau, ông cứ vờ như bị chứng mất trí nhớ và mặt mày cứ tươi hơn hớn vì khóai trá khi những kẻ bị ông nhục mạ thuật lại chi tiết những điều ông đã làm. Dù vậy, nếu cái gì ông thấy khóai, ông vẫn cứ nhớ được như thường. Mỉm cười, Chris nhớ lại cái đêm mà ông đập nát cả dãy văn phòng của phim trường trong cơn giận hỏang vô tâm và được nung đốt bằng men rượu gin, và thế nào sau đó, khi đối diện với bảng hóa đơn liệt kê chi tiết từng món cùng các tấm ảnh Polaroid ghi lại tòan vẹn sự thiệt hại, ông ranh mãnh gạt các món đó qua một bên với nhận xét “tòan là đồ bịa đặt, sự thiệt hại còn tồi tệ hơn thế xa lắc tí tè!” Chris không tin Dennings uống rượu vì nghiện hay vì một vấn đề tuyệt vọng nào, mà đúng hơn ông ta uống vì thiên hạ tin rằng ông ta như vậy: ông sống cho đúng với huyền thọai của chính mình.
À mà, nàng suy nghĩ, ta đóan đây cũng là một thứ bất tử đây.
Nàng ngóai lại nhìn người tu sĩ Dòng Tên lúc nãy vừa mỉm cười. Ông đang bách bộ ở đàng xa, đầu cúi thấp, chán chường, như một áng mây đen cô độc đang tìm kiếm một cơn mưa.
Nàng không bao giờ ưa nổi mấy tu sĩ. Họ quá tự tin. Quá an nhiên. Vậy mà người tu sĩ này…
“ Sẳn sàng chưa, Chris ?” Dennings hỏi.
“ Vâng, sẳn sàng”
“ Tốt, tuyệt đối yên lặng!” Viên phụ tá đạo diễn lên tiếng.
“ Chuẩn bị quay.” Burke phát lệnh.
“ Tốc độ.”
“ Bắt đầu!”
Chris chạy lên bậc cấp giữa tiếng hoan hô của các vai phụ, còn Dennings ngắm nàng tự hỏi không biết nàng đang nghĩ gì. Nàng đã bỏ qua cuộc tranh luận quá sức mau. Ông ném một tia nhìn ý nhị về phía chuyên viên đối thọai, anh này riu ríu bước đến bên ông trình lên một kịch bản mở sẳn, giống như một đứa trẻ giúp lễ dâng sách kinh lên cho vị thầy cả trong buổi lễ trọng.
Họ làm việc trong ánh nắng gián đọan. Lúc bốn giờ, mây vần vũ kéo đến nhuộm đen cả bầu trời, phụ tá đạo diễn cho đòan phim giải tán.
Chris đi bộ về nhà. Nàng mệt mỏi. Tại góc đường Ba Mươi Sáu và đường O, nàng dừng lại cho chữ ký một anh bán hàng tạp hóa người Ý sồn sồn lúc anh ta đứng ở cửa hiệu chào đón nàng. Nàng viết tên nàng và dòng chữ “Gửi Đến Bạn Những Lời Chúc Nồng Hậu Và Tốt Đẹp Nhất” lên một túi giấy màu nâu. Lúc đứng chờ qua đường, nàng liếc chéo sang con phố về phía một giáo đường Công giáo. Giáo đường Thánh gì gì đó. Giáo đường này do các linh mục Dòng Tên cai quản. Nàng nghe nói John F. Kennedy đã làm lễ hôn phối với Jackie tại đó. Tổng thống thường đến xem lễ ở đó. Nàng cố tưởng tượng ra cảnh họ: Tổng thống John F. Kennedy giữa các nến đèn tạ và các bà già nhăn nheo, kính tín. John F. Kenney cuối đầu cầu nguyện: Tôi tin… một tình hình hòa dịu với người Nga: tôi tin, tôi tin…Appolo IV giữa tiếng lần tràng hạt lọat sọat: tôi tin… sự sống lại và sự sống đời đời.
Đúng rồi. Đúng nó rồi. Đúng là cái điều đã nắm bắt chiếm đọat lấy ta đây!
Nàng cứ nhìn lúc một xe tải chở bia rầm rập chạy qua với tiếng lanh canh của những lời hứa hẹn nồng nàn, ướt át.
Nàng qua đường. Lúc nàng thả dốc xuống phố O và đi qua thành đường của ngôi trường tiểu học, một linh mục từ phía sau sấn sổ vượt qua nàng, hai tay ông ta thủ trong túi áo gió bằng ni lông. Còn trẻ. Rất căng thẳng. Râu ria tua tủa. Dấn lên phía trước mặt, ông ta rẽ phải, ngoặc vào một ngõ mở vào sân sau của ngôi nhà thờ.
Chris dừng lại bên ngỏ đó, nhìn vị linh mục, tò mò. Hình như ông ta đang đi đến một túp nhà nhỏ sơn trắng. Một cánh cửa lùa cũ kỹ “kịch” mở và lại thêm một linh mục khác ra. Ông này có vẻ ủ dột, bứt rứt lắm. Ông gật đầu cộc lốc về phía người trẻ tuổi, và đôi mắt cứ cúi gầm, ông di chuyển lẹ làng đến cánh cửa dẫn vào bên trong giáo đường. Lại một lần nữa, cánh cửa túp nhà nhỏ từ bên trong mở ra. Lại một linh mục nữa. Hình như – À, đúng rồi, chính là người tu sĩ đã cười lúc Burke văng tục đây mà! Duy có điều lúc này, trông ông thật nghiêm túc khi khẽ chào người mới đến. Tay ông quàng vai người trẻ tuổi trong một cung cách dịu dàng và ít nhiều giống như của một người cha. Ông đưa người trẻ vào bên trong và cánh cửa lại đóng lại với một tiếng “kít” khe khẽ .
Chris nhìn đăm đăm xuống giày nàng. Nàng bối rối. Họ làm gì vậy kìa? Nàng thắc mắc không hiểu có phải các tu sĩ Dòng Tên ấy đến xưng tội hay không.
Có tiếng sấm rền rĩ. Nàng ngước nhìn trời. Mưa chăng? Mấy tia chớp cắt ngang dọc khung trời ở phía xa.
Nàng kéo cổ áo chòang rồi thong thả đi tiếp. Nàng những mong trời sẽ mưa như trút nước.
Một phút sau, nàng đã về đến nhà rồi. Nàng lao ngay vào phòng tắm. Xong, nàng xuống bếp.
“ Chào Chris, mọi chuyện ra sao?”
Một kiều nữ tóc vàng tuổi đôi mưoi đang ngồi ở bàn, Sharon Spencer. Tươi mát. Quê ở Oregon. Suốt ba năm gần đây, cô là gia sư của bé Regan và là thư ký riêng cho Chris.
“ Ồ, thì cũng ba cái thứ rác rưởi thường lệ.” Chris thơ thẩn đến bên bàn, bắt đầu lựa chồng thư tín. “ Có gì hấp dẫn không?”
“ Chị có muốn đi dự dạ tiệc ở Tòa Bạch Ốc tuần tới không ?”
“ Ồ, tôi cũng chả biết nữa. Cô thấy muốn làm gì đây?”
“ Ăn kẹo cho đến bịnh luôn!”
Chris cười. “ À này, Rags đâu rồi ?”
“ Trong phòng giải trí dưới nhà .”
“ Làm gì?”
“ Điêu khắc. Đang nặn một con chim, em nghĩ vậy. Để tặng chị.”
“ Ừ, tôi cũng cần một con thật,” Chris thì thầm. Nàng đến bên bếp lò, rót một tách cà phê nóng. “ Cô có đùa với tôi về vụ dạ tiệc không đấy ?” Nàng hỏi.
“ Không đâu, dĩ nhiên là không,” Sharon đáp. “ Họ mời vào tối thứ Năm.”
“ Tiệc to chứ ?”
“ Không, em đóan chỉ có năm, sáu người gì đó thôi.”
“ Không phải giỡn chơi thật rồi!”
Nàng hài lòng, nhưng chẳng có gì ngạc nhiên. Thiên hạ khóai kết thân với nàng: cánh tài xế tắc xi, các thi sĩ, quý vị giáo sư, các ông hòang. Họ khóai nàng vì khỏan nào mới được chứ? Cuộc sống chăng? Chris ngồi xuống bàn. “ Chuyện học hành ra sao ?”
Sharon đốt một điếu thuốc, nhăn mặt. “Lại đâm ra kém tóan trở lại.”
“ Ủa, quái nhỉ, thế thì lạ thật.”
“Em biết, là môn tủ của con bé mà.” Sharon nói.
“ Ôi chào, cái thứ “tân tóan học” này. Tôi cũng chẳng tính tóan nỗi ba cái mớ tiền lẻ trả xe búyt nếu như…”
“ Kìa, Mẹ !”
Cô bé đang nhảy chân sáo qua cửa, đôi tay thon thả dang rộng. Tóc thả đuôi ngựa. Khuôn mặt sáng láng, dịu dàng, đầy vết tàn nhang.
“ Chào cô, cô con gái hư!” Chris ôm chầm lấy con gái, siết chặt, rồi hôn chùn chụt liên hồi lên má con. Nàng không cưỡng nỗi cơn lũ yêu thương dào dạt. Rồi nàng đẩy Regan ra, quan sát thật kỹ khuôn mặt con. “ Hôm nay con làm gì nào? Có gì lý thú không ?”
“ Ôi chào, công việc ấy mà.”
“ Mà công việc gì chứ ?”
“ Ừ, để con xem nào.” Cô bé kê đầu gối mình lên đầu gối mẹ, lắc lư tới lui. “ À, phải rồi, con mắc học.”
“ À há !”
“ Rồi con vẽ.”
“ Vẽ gì ?”
“ Chà, thì vẽ hoa, mẹ biết không? Hoa cúc ấy. Tuyền màu hồng. Với lại – à, đúng rồi vẽ ngựa này” Con bé chợt phấn khích, mắt mở to. “ Cái ông có một con ngựa, mẹ biết không, ở dưới mé sông ấy? Chúng con đang đi tản bộ, mẹ thấy không, thì con ngựa này trờ tới, nó đẹp quá. Chà, mẹ ơi, lẽ ra mẹ nên gặp nó, rồi ông ấy còn cho con cỡi ngựa nữa. Thật đó! Ý con muốn nói là con đã ngồi trên ngựa thật sự suốt một phút đấy!”
Chris nheo mắt với Sharon với vẻ thích thú kín đáo. “ Chàng chứ gì?” Nàng nhướng một bên mày, ra dáng hỏi thế. Khi di chuyển đến Washington để quay bộ phim, người thư ký tóc vàng, kẻ mà giờ đây thực tế đã là người nhà, đã từng chung sống trong ngôi nhà này tại một phòng ngủ trên lầu. Cho đến ngày cô gặp chàng “kỵ mã” ở một tàu ngựa lân cận. Thế là Chris quyết định rằng Sharon cần có một chỗ ở riêng tư và nàng đã di chuyển cô ta đến một phòng khách sang trọng và nhất quyết dành phần đài thọ mọi phí tổn đó.
“Chính chàng.” Sharon mỉm cuời để trả lời Chris.
“Nó là một chú ngựa xám.” Regan nói thêm. “ Mẹ à, ta không thể mua một con ngựa được sao? Con định nói là ta có thể mua một con chứ mẹ ?”
“ Ta sẽ tính, bé con của mẹ.”
“ Khi nào thì con có ngựa riêng được ?”
“ Để rồi ta xem. Con chim con đang nặn đâu rồi ?”
Regan có vẻ lúng túng một lúc, rồi quay lại phía Sharon cười toe tóet, miệng đầy những chiếc kẹp ngàm răng, và đầy vẻ trách móc e lệ. “ Cô mách ấy nhé.” Rồi cô bé cười khúc khích với mẹ. “ Con muốn dành cho mẹ một ngạc nhiên mà.”
“ Thế con muốn…”
“ Với một cái mũi dài ngộ nghĩnh, như mẹ muốn!”
“ Ôi, Rags, thế thì tuyệt quá. Mẹ nhìn qua nó một chút được không?”
“ Không được, con còn phải sơn đã chứ. Bao giờ mới ăn cơm đây mẹ?”
‘ Đói hả?”
“ Đói muốn chết.”
“ Hừ, mới chưa đầy năm giờ. Thế ăn trưa lúc nào?” Chris hỏi Sharon.
“ Đâu khỏang mười hai giờ gì đó.” Sharon đáp.
“ Bao giờ Willie và Karl mới về ?”
Nàng đã cho họ được nghĩ ngơi buổi chiều.
“ Chắc phải bây giờ,” Sharon đáp.
“ Mẹ à, hay ta đi ra tiệm Hot Shoppe đi mẹ ?” Regan năn nỉ. “ Được không mẹ?”
Chris nhấc bàn tay con gái lên, cười âu yếm rồi hôn tay con. “ Chạy ngay lên lầu mặc quần áo, rồi ta đi.”
“ Ôi, mẹ đáng yêu quá!”
Regan chạy bay biến.
“ Cưng ạ, nhớ mặc áo dài mới ấy nhé!” Chris dặn với theo con gái.
“ Chị có muốn nghe một tin sốt dẻo không ?” Sharon đăm chiêu hỏi.
“ Một đề nghị à?’
Chris với lấy xấp thư tín, bắt đầu lãng đãng lựa lọc giữa những nội dung ca tụng viết rất tháo.
“ Chị có nhận lời không ?” Sharon hỏi.
“ Với đầu óc tôi đang rối tinh như thế này ấy à? Với bao nhiêu thứ phải thuộc lòng ấy à?”
“ Đúng vậy.”
“ Xin miễn.”
“ Cứ nghĩ kỹ đi.”
“ Tôi đang nghĩ đây.” Chris nhặt lấy một kịch bản với bức thư cặp ngòai bìa trước. Jarris đây. Người đại diện của nàng. “ Tôi nghĩ là tôi đã dặn họ là không có kịch bản kịch biết gì lúc này nữa hết.”
“ Chị nên đọc qua kịch bản ấy đi.” Sharon nói.
“ Lại thế nữa sao?”
“ Vâng em vừa đọc sáng nay xong.”
“ Tạm được chứ ?”
“ Tuyệt vời.”
“ Và tôi phải đóng vai một nữ tù bỗng khám phá ra mình mắc bệnh đồng tính luyến ái, đúng không?”
“ Không, chị chẳng phải đóng vai gì cả.”
“ Cô đang nói cái quái gì thế, hở Sharon? Cô cười gì vậy?”
“ Họ muốn chị làm đạo diễn cơ”. Sharon rụt rè bật ra câu đáp cùng với dòng khói thuốc lá.
“ Cái gì?”
“ Cứ đọc bức thư đi!”
“ Lạy Chúa. Shar, cô cứ đùa dai hòai!”
Chris vồ lấy lá thư bằng đôi mắt ham hố, ngốn từng cụm từ trong từng ngọam lớn một “…kịch bản mới …ba lớp cảnh…phim trường muốn ngài Stephen Moore…nhận vai với điều kiện.”
“ Tôi đạo diễn lớp cảnh có ông ấy diễn xuất.”
Chris tung hê đôi tay, bật lên một tiếng kêu sung sướng. Thế rồi nàng đưa cả hai tay ấp lá thư ấy lên ngực. “Ôi, Steve, anh thật là một thiên thần, anh đã nhớ tới.” Anh đã từng làm phim ở Phi Châu. Say nhừ tử. Ngồi trên những cái ghế của lều trại. Nhìn ngày tàn phai trong sự vắng lặng bàng hòang. “ Hừ, tuồng tích gì chỉ rặt thứ bá láp! Steve ạ, đối với diễn viên, đó chỉ là thứ rác rưởi!” “ Ồ, tôi lại thích cơ đấy!” “Rặt thứ rác rưởi!Anh không biết trong cái nghề này người ta nhăm nhe vào cái gì à? Đạo diễn” “ Ồ, phải “ “Thế thì anh phải làm một cái gì đó, một cái gì đó là của anh, ý tôi muốn nói là một cái gì sẽ sống mãi!” “ Ừ, vậy thì cô làm đi” “ Tôi đã cố, nhưng họ có chịu mua cho đâu.” “ Sao lại không?” “ Thôi mà, anh cũng biết là tại sao rồi đó: họ không nghĩ là tôi làm nổi?” Những hồi ức ấm áp. Nụ cười thật hồn hậu. Ôi, Steve thân yêu.
“ Mẹ ơi, con không thấy cái áo dài đâu hết!” Regan ở trên lầu gọi vọng xuống.
“ Trong tủ quần áo ấy!” Chris trả lời con.
“ Con xem rồi!”
“ Mẹ lên ngay đây, chờ chút xíu”. Chris gọi với lên. Nàng xem xét kịch bản giây lát. Rồi từ từ ỉu xìu, “ Ra cái kịch bản này cũng là thứ rác rưởi thôi.”
“ Này chị! Em nghĩ là kịch bản ấy được lắm.”
“ Mẹ?”
“ Mẹ lên đây.”
Chris uể ỏai đứng lên. “ Có hẹn hò hở, Shar?”
“ Vâng.”
Chris chỉ mở thư từ.” Vậy thì cô cứ đi đi. Đến sáng ta giải quyết mớ giấy má này cũng được.”
Sharon đứng lên.
“ Khoan đợi chút đã,” Chris đính chính, nàng chợt nhớ đến điều gì đó. “ Có bức thư cần phải gửi đi tối nay.”
“ Vâng”. Người thư ký với tay lấy tập giấy.
“ Mẹee…” Tiếng than vãn đầy nóng nảy.
“ Đợi tôi lên với con bé chút xíu”, Chris bảo Sharon. Nàng bắt đầu rời nhà bếp, nhưng dừng lại lúc Sharon nhìn đồng hồ tay.
“ Chà, đã đến giờ em ngồi thiền rồi. Chris ạ.” Cô thư ký nói.
Chris nhìn kỹ cô gái với vẻ bực bội câ nín. Suốt sáu tháng qua. Nàng đã quan sát cô thư ký của mình bỗng trở nên một kẻ mưu tìm sự thanh tịnh. Câu chuyện bắt đầu ở Los Angeles với thuật tự thôi miên, kế đó là phó mình cho những lời kinh tiếng kệ của nhà Phật. Trong vài tuần lễ cuối cùng lúc Sharon còn cư ngụ ở căn phòng trên lầu, ngôi nhà nồng nàn mùi hương khói cùng những tiếng tụng đều đều, vô hồn “ Nam mô A di đà Phật” ( “chị xem, chỉ cần tụng đều câu đó thôi, chị sẽ đạt được mọi điều sở cầu…”) vang vọng vào những thời điểm trái khóay nhất, thường là vào những lúc Chris đang nghiền ngẫm vai tuồng của nàng. “ Chị cứ vặn tivi lên”, có lần Sharon đã độ lượng bảo với bà chủ như vậy vào lúc cô tụng kinh. “ Không hề gì đâu. Em có thể tụng niệm giữa đủ lọai tiếng động. Điều đó không quấy rầy em chút nào hết.” Vậy ra đó là sự quán tưởng siêu thóat.
“ Ra cô thực tâm cho rằng cái món ấy sẽ giúp ích được cho cô sao?” Chris ơ thờ hỏi.
“ Thiền định mang lại cho em sự thơ thới trong tâm hồn”, Sharon đáp.
“ Phải”, Chris nói khô khốc. Nàng quay chỗ khác và chúc cô gái ngủ ngon. Nàng không nói gì về vụ lá thư kia, và lúc rời bếp, nàng thầm thì “Nam mô A di…”
“ Cứ tụng đều như thế muời lăm, hai mươi phút”, Sharon bảo, “ có lẽ sẽ có tác dụng tốt đối với chị.”
Chris dừng bước, đắn đo tìm một câu đáp dè dặt nhưng rồi lại thôi. Nàng lên thang gác, đến phòng ngủ của Regan, lại ngay tủ quần áo. Regan đang đứng ngay gĩưa phòng, nhìn trân trân lên trần nhà.
“ Có chuyện gì vậy?” Chris hỏi con, vừa tìm chiếc áo dài. Đó là một chiếc áo bằng cô-tông màu lam nhạt. Nàng mới mua nó tuần trước và nhớ là đã máng nó trong tủ.
“ Những tiếng động kỳ lạ” Regan đáp.
“ Mẹ biết rồi. Nhà ta có lắm bạn.”
Regan nhìn mẹ, “Hở?”
“ Lũ sóc, con ạ, lũ sóc trên rầm thượng.” Con gái nàng dễ buồn nôn và rất hãi chuột. Cả lũ chuột nhắt cũng làm nó chết khiếp.
Cuộc săn tìm chiếc áo tỏ ra vô hiệu quả.
“ Mẹ thấy chưa, cái áo đâu có trong đó.”
‘ Ừ, phải. Chắc Willie nhặt nó đi luôn với mớ đồ giặt rồi.”
“Nó biến mất rồi.”
“ Ừ thôi, con mặc chiếc áo màu xanh biển đi. Cũng đẹp chán.”
Hai mẹ con ra hiệu Hot Shoppe. Chris dùng một món rau trộn, còn Regan ăn súp, bốn ổ bành mì, thịt gà rán, một ly sữa sóc sô-cô-la, một miếng rưỡi bánh đậu và kem cà phê. Không biết con bé chứa các thứ đó vào chỗ nào. Chis âu yếm tự hỏi, trong hai cổ tay nó chăng? Con bé thanh mảnh như một niềm hy vọng phù du.
Chris đốt một điếu thuốc lúc uống cà phê và nhìn qua cửa sổ bên phải nàng. Con sông tối đen và lặng lờ, chờ đợi.
“ Một bữa ăn thật là tuyệt, mẹ ạ.”
Chris quay sang con gái, và như thường lệ, nàng nín thở mà từng trải lại cái cảm giác đau đớn khi nhìn thấy hình ảnh của Howad trên khuôn mặt Regan. Do ảnh hưởng của góc sáng tạo nên. Nàng thả rơi tia nhìn xuống khai ăn của Regan.
“ Định thôi món bánh hả?” Chris hỏi con.
Regan nhìn xuống, “ Con đã ăn kẹo rồi”.
Chris dụi điếu thuốc lá và cười khúc khích. “ Ta đi thôi.”
Hai mẹ con về nhà trước bảy giờ. Willie và Karl cũng đã về trước đó. Regan phóng nhanh xuống phòng giải trí dưới hầm nhà, hăng hái hòan tất bức tượng tặng mẹ. Chris vào bếp lấy kịch bản. Nàng thấy Willie đang đun cà phê, bình cà phê mở ngỏ, thô kệch. Chị ta có vẻ bực dọc, ủ rũ.
“ Ủa, Willie, thế nào? Đi chơi vui vẻ chứ?”
“ Đừng hỏi.” Chị ta bỏ thêm một quả trứng và một nhúm muối vào cái chất đang sôi bùng bục trong bình kia. Hai vợ chồng đi xem phim, Willie giải thích. Chị ta muốn xem phim có ban nhạc Beatles, còn Karl thì nhất định đòi xem một phim nghệ thuật nói về Mozart. “ Thật kinh khủng”. Chị ta cố nén giận lúc vặn thấp ngọn lửa. “ Cái lão ngốc nghếch ấy.”
“ Rất tiếc về chuyện đó”, Chris kẹp tập kịch bản dưới cánh tay. “ À, Willie, chị có thấy chiếc áo dài tôi vừa sắm cho Rags tuần trước không? Cái áo cô-tông màu lam ấy?”
“ Có, tôi thấy nó trong tủ quần áo của em ấy. Sáng nay.”
“ Thế trước đó chị cất nó ở đâu?”
“ Nó ở đó.”
“ Chắc chị đã không nhầm lẫn thu nó đi luôn với mớ đồ giặt đấy chứ?’
“ Nó ở đó mà.”
“ Trong mớ đồ giặt ấy à?”
“ Trong tủ”.
“ Không, không có trong tủ. Tôi xem rồi.”
Định mở miệng nói Willie lại mím chặt môi, cau có nhìn ấm cà phê. Karl vừa bước vào trước đó.
“ Chào bà chủ”. Anh đi lại phía bồn rửa chén, lấy một ly nước lạnh.
“ Anh đã đặt mấy bẫy chuột đó chưa?”. Chris hỏi.
“ Đâu có chuột.”
“ Anh đã đặt bẫy chưa?”
“ Dĩ nhiên tôi đã đặt rồi, nhưng rầm thượng sạch boong.”
“ Nào, nói tôi nghe, Kal, xem phim ra sao?”
“ Lý thú lắm ạ.” Tấm lưng của anh ta, cũng như khuôn mặt, là một sự trống rỗng quả quyết.
Chris bắt đầu rời bếp, vừa hát khe khẽ một ca khúc đã nổi tiếng nhờ ban Beatles. Nhưng rồi nàng quay lại.
“ Anh có gặp khó khăn gì khi tìm mua bẫy chuột không, Karl.”
“ Không, chẳng chút khó khăn gì.”
“ Vào lúc sáu giờ sáng?”
“ Chợ bán suốt đêm mà.”
Chúa ơi!
Chris thưởng thức một cái tắm xa hoa và rõ lâu. Khi đến tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, nàng tìm thấy chiếc áo bị lạc mất của Regan. Nó nằm nhúm nhó một đống trên sàn tủ.
Chris nhặt chiếc áo lên. Có chuyện gì ở đây vậy kìa? Lấy nhãn hiệu vẫn còn đính trên áo. Trong một lúc, Chris hồi tưởng lại . Rồi nàng nhớ ra cái hôm mua chiếc áo dài đó, nàng còn sắm thêm hai, ba món gì đó nữa cho riêng nàng. Chắc là ta cất chúng một lượt với nhau cũng nên.
Chris mang chiếc áo vào phòng ngủ Regan, mắc vào một mắc áo rồi treo lên giá. Nàng nhìn tủ quần áo của Regan. Đẹp. Những quần áo đẹp. Đúng rồi, Rags, con hãy nhìn đây, chứ đừng nhìn tới chỗ bố con, ông ấy có bao giờ viết thư đâu.
Lúc từ tủ quần áo quay ra, nàng vấp ngón cái vào chân chiếc tủ ngăn kéo. Chúa ơi, đau quá! Lúc nhấc bàn chân lên và xoa bóp ngón chân đau, nàng nhận thấy chiếc tủ đó đã lệch khỏi chỗ cũ khỏang một thước. Bảo sao mà mình chẳng bị vấp. Chắc là Willie đẩy ra để hút bụi đây mà.
Nàng đi xuống văn phòng với tập kịch bản của người đại diện gửi tới.
Không giống như phòng khách vĩ đại với những cửa sổ lớn và phong quang, văn phòng tạo cảm giác chen chúc của những lời thì thầm, của những điều bí mật giữa các ông chú, ông bác giàu có. Một lò sưởi bằng gạch nhô lên cao, phòng ốp tòan gỗ sồi, những thanh gỗ ngang dọc cho ta cảm tưởng đã có thời nó là một chiếc cầu rút. Vài món trong phòng gợi lên vẻ hiện đại được thêm thắt vào là quầy rượu, vài chiếc ghế màu sáng, một tấm thảm da beo của riêng Chris được trải trên sàn gỗ thông cạnh lò sưởi, nơi lúc này nàng đang nằm sỏai người, đầu và vai chống lên phía trước một chiếc trường kỷ êm ái.
Nàng lại nhìn bức thư của người đại diện. Kịch bản gồm ba phân đọan, mang tên: Đức Tin, Sự Hy Vọng, Lòng Bác Ái, mỗi phân đọan có thành phần diễn viên riêng và đạo diễn riêng. Phân đọan của nàng là Sự Hy Vọng. Nàng thích cái ý tưởng ấy. Và nàng thích cả tựa phim nữa. Có lẽ hơi nhàm chán, nàng nghĩ, nhưng tao nhã.
Tiếng chuông cửa ngân vang. Burke Dennings rồi. Là một người cô độc, ông ta thường ghé đây. Chris cười buồn, lắc đầu lúc nghe ông ta lẩm bẩm văng tục với Karl, người mà ông ta có vẻ ghét bỏ và không ngừng trêu chọc.
“ Ôi, chào cô, cho cái gì uống đi”. Ông cau có đòi hỏi, vừa bước vào phòng và ra thẳng quầy rựợu, mắt ngỏanh đi chỗ khác, hai tay thủ trong chiếc áo mưa nhăn nhúm. Ông ngồi trên một ghế đẩu cạnh quầy rượu, bực tức mắt láo liên, thóang vẻ chán ngán.
“ Lại đi hoang đàng nữa đây phải không?’ Chris hỏi.
“ Cô muốn nói cái quỷ gì vậy?”, ông khịt mũi. “ Thì cái bản mặt anh lại trông ngộ nghĩnh cứ y như kỳ đó”, nàng đã thấy khuôn mặt đó một lần hồi họ đi đóng phim ở Lausanne. Đêm đầu tiên ở đó, tại một khách sạn đạo mạo nhìn ra hồ Genève, Chris cứ thao thức không sao ngủ được. Lúc 5 giờ sáng, nàng phóng xuống giường, quả quyết mặc quần áo đi xuống kiếm cà phê uống hay tìm ai cho có bạn. Lúc đứng đợi thang máy ngòai hành lang, nàng nhìn ra cửa sổ, trông thấy ông đạo diễn đang thả bộ dọc bờ hồ, dáng điệu cứng nhắc, hai tay thủ kỹ trong túi áo khóac chống với cái lạnh mùa đông buốt cóng. Lúc xuống đến hành lang khách sạn thì ông đang đi vào. “ Chả thấy bóng một “em út” nào cả!” Ông dấm dẳn nói, đi ngang qua nàng, mặt cúi gầm. Thế rồi ông vào thang máy đi lên ngủ tiếp. Về sau, lúc nàng cười cợt nói đến chuyện đó, vị đạo diễn nổi cơn thịnh nộ buộc tội nàng là đã phao truyền “những ảo giác lố bịch”, mà thiên hạ “cả tin chỉ vì cô là một ngôi sao”. Ông còn miệt thị nàng là “đồ điên rồ như trôn ** ấy”, nhưng sau đó lại dịu giọng giải thích, nhằm vuốt ve lòng tự ái của nàng, rằng “có lẽ” nàng đã trông lầm ai ra Dennings đấy thôi. “ Xét cho cùng”, ông ta còn phân bua ngay lúc đó, “ thì ông cố ông sơ gì của tôi không hẹn mà lại từng ở Thụy Sĩ cơ đấy”.
Chris ra sau quầy rượu, nhắc cho ông nhớ biến cố đó. “Ôi thôi, đừng có dở hơi lắm nữa!” Dennings quát: “Sự thật là tôi phí suốt cả buổi tối trà chết tiệt, một buổi uống trà với các quý giáo sư đại học!”
Chris nghiêng người trên quầy. “ Anh vừa uống trà xong à?”
“ Đúng, cứ việc mà cười nữa đi!”
Nàng nói khô khốc: “Vậy ra anh đã say nhừ tử vì trà với mấy ông tu sĩ Dòng Tên cơ đấy.”
“ Không phải, các tu sĩ Dòng Tên không bao giờ say sưa cả.”
“ Họ không uống rượu chăng?”
“ Cái đầu của cô đã hóa điên rồi sao?” Ông la lối. “Bọn họ uống như hủ chìm ấy. Tôi chưa hề thấy ai lại có tửu lượng cao đến như vậy!”
“ Nào, nào, giữ mồm giữ miệng hộ chút đi, Burke! Còn Regan nữa đấy.”
“ Ừ, Regan”, Dennings thì thào. “Rượu tôi đâu?”
‘ Anh làm ơn cho tôi biết anh làm cái giống gì ở các buổi uống trà trí thức ấy được chứ?”
“ Chỉ là chuyện xã giao chó chết, một chuyện rồi chính cô cũng phải làm.”
Chris trao cho ông ta một ly gin có đá.
“ Chúa ôi, cứ nghĩ đến cái chúng ta bôi bác bẩn thỉu cả sân trường đại học của họ”, nhà đạo diễn lẩm bẩm, vẻ kính tin, ly rượu trên môi. “ Ừ đúng, cứ việc cười nữa đi. Cô thì chỉ được có nước đó, cười cợt và phô phang cái mông đít ra.”
“ Tôi chỉ mỉm cười thôi.”
“ Hừ, thì cũng phải có người làm trò phô trương cho đến chi chứ.”
“ Đã bao lần anh văng cái tiếng “đ…” của anh ra rồi hả, Burke?”
“ Ôi, cưng, đừng có tàn nhẫn thế chứ”, ông khẽ trách nàng: “Bây giờ nói coi, cô làm sao vậy?”
Nàng trả lời bằng một cái nhún vai chán chường.
“ Cô nản hả? Nào nói tôi nghe.”
“ Tôi chả biết.”
“ Nói cho chú cô nghe đi.”
“ *** họ, chắc tôi phải làm một ly”, nàng nói, với tay lấy một chiếc ly.
“ Đúng, rượu giúp ích cho bao tử. Nào, nói đi, chuyện gì vậy?”
Nàng thong thả rót vốt ka. “Có bao giờ anh nghĩ đến cái chết chưa?”
“ Cái gì?”
“ Chết”, nàng ngắt lời. “ Có bao giờ nghĩ đến điều đó chưa? Buke? Nó có ý nghĩa gì? Tôi muốn nói là nó thực sự có ý nghĩa ra sao?”
Hơi bực mình, ông đáp. “ Tôi chẳng biết. Không, tôi không biết đâu. Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện đó cả. Tôi chỉ thực hiện nó thôi. Hà cớ quái gì cô lại đưa chuyện đó ra?”
Nàng nhún vai, “tôi không biết.”
“ Phải… phải…” nàng nói chữa. “ À, sáng nay…không hiểu sao tôi lại nghĩ đến điều đó…như một giấc mơ…rồi thức giấc. Tôi cũng muốn nói là, tôi cũng không biết nữa, tự nhiên tư tưởng ấy bủa lấy tôi…cái chết có ý nghĩa thế nào. Tôi muốn nói đến cái chung cuộc - sự chung cuộc - cứ như tôi chưa hề nghe nói đến điều ấy bao giờ…”Nàng lắc đầu: “Ôi Chúa, cái điều ấy quả cứ ám ảnh tôi! Tôi có cảm giác như mình rơi khỏi một hành tinh chết bầm nào đó với vận tốc hàng triệu dậm một giờ.”
“ Tòan chuyệt rác rưởi đâu không. Sự chết là một niềm an ủi” Dennngs khịt khịt mũi.
“ Với tôi thì không, Charlie ạ.”
“ Ồ, người ta sống qua con cái của họ.”
“ Thôi dẹp đi. Con tôi không phải là tôi.”
“ Đúng, tạ ơn Trời. Một mình là quá đủ rồi.”
“ Tôi muốn nói là anh hãy nghĩ đến điều ấy, Burke ạ! Không hiện hữu mãi mãi. Thật là…”
“ Trời đất ơi! Tuần tới đây cô cứ việc chưng cái mông của cô ra ở buổi uống trà trường đại học, có lẽ mấy ông tu sĩ đó có thể an ủi được cô đấy.”
Ông giằn cái y đánh “rầm” lên bàn. “Làm ly nữa đi.”
“ Anh biết không, tôi không biết là họ uống rượu đấy.”
‘ Ừ, thì cô ngốc.”
Mắt ông đờ đẫn hẳn. Phải chăng ông ta đã đi đến chỗ không còn quay lại được nữa? Chris thắc mắc. Nàng có cảm tưởng là nàng đã làm ông chạm nọc. Có đúng thế không?
“ Họ có đi xưng tội không?” nàng hỏi ông.
“ Rượu đâu?”
“ Làm chút cà phê nhé?”
“ Đừng có ngu ngốc. Tôi muốn uống rượu nữa.”
“ Uống cà phê đi.”
“ Bảo nghe, nào. Một ly cuối cùng rồi lên đường.”
“ Uống lọai Lincoln Highway hé?’
“ Thứ đó dở tệ, tôi thù ghét những thứ uống tồi tệ. Nào, mẹ kiếp, rót đi!”, ông đẩy chiếc ly qua quầy rượu và nàng rót thêm gin vào đó.
“ Tôi nghĩ có lẽ tôi nên mời vài kẻ trong đám họ đến đây.”
“ Mời ai?”
“ Ồ, bất cứ ai.” Nàng nhún vai. “ Mấy ông tai to mặt lớn, anh biết rồi đấy, mấy ông linh mục chứ còn ai.”
“ Rồi họ sẽ chẳng chịu bỏ đi đâu, họ là một lũ cướp đọat khốn kiếp mà.” Ông nói nhừa nhựa, vừa nốc rượu ừng ực.
Chà, anh ta sắp nổi khùng lên rồi! Chris nghĩ thế và liền thay đổi đề tài, nàng giải thích về vụ kịch bản và dịp may sắp được đạo diễn phim.
“ Ừ, tốt”, Dennings lẩm bẩm.
“ Tôi sợ quá.”
“ Ồ, chỉ nói tầm xàm. Em bé ơi, cái trò trong nghề đạo diễn là làm sao tạo cho cái công việc chó chết đó một vẻ như là khó khăn lắm vậy. Hồi mới làm đạo diễn lần đầu, tôi có biết mô tê gì đâu, thế mà bây giờ tôi đã như thế này rồi, cô xem. Chỉ là trò con nít”
“ Burke, xin thú thật với anh, lúc này họ đã mời tôi làm đạo diễn rồi đó, thế mà thật sự tôi cũng chưa dám chắc là mình có đạo diễn được bà ngọai tôi băng qua đường không nữa đây. Tôi muốn nói đến mặt kỹ thuật ấy.”
“ Ối chào, cứ vất hết các thứ đó cho người biên tập, cho người quay phim và thư ký phim trường, cưng ạ. Cứ chọn những người giỏi và họ sẽ đưa cô đến thành công. Điều quan trọng là biết sử dụng đào kép, và thế là cô trở nên tuyệt vời, đúng là tuyệt vời trong công việc đó. Chẳng những cô có thể bảo họ cách di chuyển và đọc lời đối thọai, mà cô còn dư khả năng biểu diễn cho họ xem nữa. Hãy nhớ lại tài tử Paul Newman và phim Rachel, phim Rachel đấy nhé, và chớ có hỏang lên như thế.”
Nàng vẫn còn vẻ hòai nghi. “ Chà, về cái món kỹ thụật này”, nàng lo âu. Dù say hay tỉnh, Dennings vẫn là nhà đạo diễn ưu tú nhất trong nghề. Nàng cần được ông khuyên bào.
“ Chẳng hạn?” Ông hỏi nàng.
Trong ngót một tiếng đồng hồ, nàng dọ dẩm đi vào các điểm rắc rối, các gút mắc đến tận cùng chi tiết. Các dữ kiện thì dễ dàng tìm thấy trong các sách giáo khoa rồi, nhưng nàng lại không có đủ kiên nhẫn để đọc sách. Thay vào đó nàng đọc chính con người. Bản tính ưa tra hỏi, nàng khai thác con người, vắt họ kiện cạn để tìm hiểu. Nhưng sách vở thì không thể nào vắt ép được. Sách vở cứ trơn tuột như lươn. Sách cứ bảo “Tuy nhiên” với lại “rõ ràng là” trong khi chúng chẳng rõ ràng tí nào, thế mà mớ văn chương quanh co uẩn khúc lại chẳng bao giờ bị ai thách thức hết. Chúng không bao giờ bị chặn lại vì những lời thuyết phục khôn khéo. “ Hượm đã, tôi lú lẫn rồi đây. Làm ơn nhắc lại cho tôi nghe điều ấy được không?” Sách cũng không bao giờ bị ghìm chặc lại, hay bị bắt buộc phải vặn vẹo hay bị mổ xẻ ra manh mún. Sách cũng giống như thể Karl.
“ Cưng ạ, cô chỉ cần tìm cho ra một chuyên viên cắt cúp thông minh là xong hết”, nhà đạo diễn cười khằnc khặc, kết thúc câu chuyện. “Tôi muốn nói một người thực sự hiểu biết hết các cánh cửa của mình ấy.”
Ông ta trở nên duyên dáng và sôi nổi, và dường như đã vượt qua điểm nguy hiểm đang đe dọa ông.
“ Xin lỗi bà chủ. Bà cần điều gì ạ?’
Karl đứng cung kính ở cửa văn phòng.
“ Kìa, xin chào Thordike”, Dennings cười khúc khích. “Hay là Heinrich? Tôi không làm sao nhớ rõ tên đó.”
“ Tên tôi là Karl.”
“ Thì đã hẳn là thế. Mẹ kiếp, tôi quên mất. Kể cho tôi nghe đi Karl, có phải cái sở mà anh nói với tôi là anh làm cho bọn Gestapo ấy có tên là sở giao tế công cộng, hay là giao tế cộng đồng phải không. Tôi tin là có sự khác biệt.”
Karl vẫn lễ phép nói. “ Tôi chẳng làm cho sở nào hết. Tôi là người Thụy Sĩ.”
“ Ừ phải, dĩ nhiên là thế.” Nhà đạo diễn cười ồ ồ. “ Và anh chưa bao giờ đi chơi ném trái lăn với Goebbels đấy chứ, tôi thiển nghĩ?”
Karl, trơ trơ như đá, quay sang Chris.
“ Anh chưa hề bay chung với Rudolf Hess đấy chứ?”
“ Bà chủ cần điều gì ạ?”
“ Ồ, tôi cũng chẳng biết nữa, Burke ạ, anh muốn uống cà phê không?”
“ Tôi đếch uống!”
Nhà đạo diễn vùng đứng dậy, hùng hổ sải bước ra khỏi phòng và ra khỏi ngôi nhà.
Chris lắc đầu, quay lại Karl. “ Nhớ ngắt điện thọai.” Nàng ơ thờ ra lệnh.
“ Vâng, thưa bà, còn gì nữa không ạ?”
“ À, có lẽ lấy cho tôi một ít Sanka nữa. Rags đâu rồi?”
“ Ở dưới phòng giải trí. Tôi gọi cô ấy nhé?”
“ Ừ, đến giờ đi ngủ rồi. Mà thôi, chờ tí đã , Karl. Đừng bận tâm. Tôi muốn đi ngó con chim đó một chút. Cứ đi lấy hộ tôi Sanka đi.”
“ Vâng, thưa bà.”
“ Và lần thứ không biết mấy mươi, tôi xin anh thứ lỗi cho Burke.”
“ Tôi không hề để tâm.”
“ Tôi biết. Chính điều đó đã làm anh ta bực.”
Chris đến lối hành lang dẫn vào ngôi nhà, mở cánh cửa vào cầu thang dẫn xuống tầng hầm, rồi bắt đầu xuống thang.
“ Kìa, chào cô gái, cô làm gì dưới đó thế? Xong con chim chưa?”
“ Rồi mẹ ạ. Mẹ đến xem đi. Xuống đây mẹ, xong đâu đấy rồi.”
Căn phòng giải trí được lát ván và trang hòang rực rỡ. Giá vẽ. Tranh sơn dầu. Máy hát. Dãy bàn chơi trò chơi và một bàn để nặn tượng. Mấy dải cờ hoa đỏ trắng còn sót lại từ bữa tiệc của đứa con trai vị thành niên của người thuê nhà trước đây.
“ Chà, tuyệt thật.” Chris reo lên lúc con gái trao cho nàng bức tượng. Nó vẫn chưa khô hẳn và có vẻ như một “ con chim băn khoăn” được quét sơn màu cam, trừ cái mỏ được tô mỗi bên thành từng sọc xanh lục và trắng. Một túm lông vũ được dán vào đầu chim.
“ Mẹ thích nó không?” Regan hỏi.
“ Ồ, cưng của mẹ, mẹ thích, thích lắm. Đặt tên cho nó chưa?”
“ À há!”
“ Tên gì cho hay bây giờ?”
“ Con chả biết”, Regan nhún vai.
“ Để mẹ xem, để mẹ xem nào”, Chris nhịp mấy đầu ngón tay lên răng. “Mẹ không biết nữa. Con nghĩ sao? Con nghĩ sao về cái tên “Con Chim Ngớ Ngẩn” hở? Đơn giản chỉ là Con Chim Ngớ Ngẩn.”
Regan cười rúc rích, tay đưa lên miệng che mấy chiếc kẹp ngàm răng. Gật đầu.
“ Chim Ngớ ngẩn thắng lớn! Mẹ sẽ để nó lại đây phơi cho khô đã, rồi mẹ sẽ đưa chú ta về phòng mẹ.”
Chris đang đặt con chim xuống thì nàng trông thấy BÀN CƠ. Sát một bên, trên bàn…Nàng quên là mình có một bàn cơ. Gần như cũng tò mò về chính bản thân mình như nàng hiếu kỳ muốn tìm hiểu về những người khác, nàng đã mua bàn cơ đó, thọat tiên coi nó như một phương tiện khả dĩ bộc lộ những manh mối về tiềm thức nàng.Nó chẳng được tích sự gì. Nàng có sử dụng bàn cơ đó một đôi lần với Sharon và một lần với Dennings, kẻ có biệt tài lèo lái con “cơ” bằng nhựa dẻo (có phải anh là kẻ đã đẩy con “cơ” đi không, hở ông mảnh?) bằng cách nào đó mà tất cả mọi “cơ giáng” đều là những lời tục tĩu, rồi sau đó lại trút trách nhiệm về điều đó cho “mấy hồn ma!”.
“ Con cầu cơ đấy à?”
“ Vâng.”
“ Con biết cách chơi sao?”
“ Ồ, hẳn biết chứ mẹ. Đây này, con chỉ mẹ xem.”
Cô bé đến ngồi bên bàn cơ.
“ Mẹ cho là con cần phải có hai người, cưng ạ.”
“ Không cần đâu mẹ. Con vẫn cầu một mình suốt ấy thôi.”
Chris kéo một chiếc ghế. “ Nào, hai mẹ con ta chơi đi, được chứ?”.
Một chút lưỡng lự. “Vâng, được thôi”. Cô bé đặt mấy đầu ngón tay lên con cơ màu trắng và lúc Chris đưa tay ra đặt vào vị trí của mình, chợt con cơ di chuyển thật nhanh đến vị trí trên bàn cơ có ghi chữ “KHÔNG”.
Chris mỉm cười, nhìn con, bẻn lẻn. “Mẹ à, con muốn chơi một mình hơn”. “Có phải con muốn nói thế không? Ccn không muốn mẹ tham gia chứ gì”
“ Ồ không, con muốn chứ. Chính Đại Úy Howdy nói không đó.”
“ Đai úy nào?”
“ Đại úy Howdy.”
“ Cưng à. Đại úy Howdy này là ai vậy?”
“ Ồ, mẹ biết đó. Con hỏi, còn ông ấy thì trả lời.”
“ Ra thế?”
“ Ông ấy tử tế lắm”
Chris cố không cau mày lúc nàmg cố cảm nhận một nỗi ưu tư mơ hồ chợt đến. Con bé yêu bố nó thắm thiết, vậy mà chưa bao giờ có phản ứng nhãn tiền nào về việc bố mẹ nó ly dị. Và Chris không ưa nổi điều đó. Có lẽ con bé có khóc trong phòng riêng mà nàng không biết. Nhưng Chris sợ là con bé bị dồn nén và một ngày nào đó, những tình cảm của nó sẽ bộc phát dưới một dạng tai hại nào đó. Nó chọn một bạn chơi trong cái tưởng tượng. Nghe ra không lành mạnh chút nào. Sao lại “Howdy?” Gọi thay cho tên Howard, bố nó chăng? Khá gần cận.
“ Làm thế nào mà con không tìm ra được một cái tên đặt cho chim, thế rồi đùng một cái con làm mẹ chóang cả người vì một cái tên như là “đại úy Howdy?” Sao con gọi ông ta là “Đại úy Howdy?”
“ Bởi vì tên ông ta là thế chứ sao nữa?” Regan cười rúc rích.
“ Con nói ai?”
“ Thì ông ấy.”
“ Hẳn rồi.”
“ Thì hẳn.”
“ Ông ta còn nói gì với con nữa?”
“ Chuyện này chuyện nọ.”
“ Chuyện gì?”
Regan nhún vai. “Thì nòi chuyện thôi.”
“ Chẳng hạn?”
“ Để con làm cho mẹ xem. Con sẽ hỏi ông ta vài câu.”
“ Hỏi đi.”
Mấy đầu ngón tay đặt trên con cơ. Regan nhìn chăm chú xuống bàn cơ với đôi mắt căng thẳng vì tập trung. “Đại úy Howdy, ông có cho là mẹ tôi đẹp không?”
Một giây…năm…mười…hai mươi.
“ Đại úy Howdy?”
Thêm nhiều giây nữa. Chris kinh ngạc. Nàng những mong con gái nàng sẽ đẩy con cơ đến ô chữ “Có”. Trời ơi, chuyện gì thế này? Một sự hằn thù vô ý thức chăng? Chà, thế thì điên rồ quá.
“ Này đại úy Howdy, như thế là không được lịch sự lắm đấy nhé.” Regan khiển trách.
“ Cưng ạ, chắc ông ta ngủ rồi.”
“ Mẹ nghĩ thế?”
“ Mẹ nghĩ là con nên đi ngủ.”
“ Đã đến giờ rồi sao?”
“ Nào bé con! Lên đi ngủ!” Chris đứng dậy.
“ Ông ta thật điên khùng”, Regan lẩm bẩm, rồi theo mẹ lên cầu thang.
Chris ủ con vào giường rồi ngồi một bên. “Cưng à, chủ nhật được nghỉ, con muốn làm gì không?”
“ Gì mẹ?”
Lần đầu tiên khi hai mẹ con đến Washington, Chris đã nổ lực tìm bạn cho Regan chơi đùa. Nàng có tìm được một đứa, một bé gái tên July mười hai tuổi. Nhưng gia đình July đã đi nghĩ lễ Phục sinh, và Chris đâm ưu tư vì bây giờ Regan phải thui thủi một mình.
“ Chà, mẹ không biết nữa,” Chris trả lời. “ Thì một điều gì đó. Con có muốn đi ngọan cảnh không? Hoa anh đào, có lẽ phải đấy! Đúng rồi, năm nay hoa nở sớm. Con có muốn đi xem hoa không?”
“ Có chứ, mẹ.”
“ Rồi tối mai đi xem phim. Sao?”
“ Ôi, con yêu mẹ quá!”
Regan ôm lấy mẹ, Chris cũng ôm trả con với sự nồng nhiệt hơn thường lệ, thì thào. “ Ôi, Rags cưng của mẹ, mẹ yêu con.”
“ Mẹ cứ việc đưa ông Dennings về nhà, nếu mẹ thích.”
Chris dội ngửa lại để đánh giá tình hình. “ Ông Dennings à?”
“ Ý con muốn nói là điều đó được thôi.”
Chris cười. “Không, điều ấy chẳng có được gì hết. Cưng nè, sao mẹ lại muốn đưa ông Dennings về nhà chứ nhỉ?”
“ Thì mẹ thích ông ấy.”
“ Đã hẳn là mẹ thích ông ấy rồi, còn con?”
Cô bé không trả lời.
“ Bé con à, có chuyện gì vậy?”.Chris dụ con.
“ Mẹ sắp lấy ông ấy phải không?”. Đó không phải là một câu hỏi, mà là một sự khẳng định ảm đạm.
Chris phá lên cười. “ Ôi, bé con của mẹ, dĩ nhiên là không có việc đó rồi. Con đang nói năng gì lạ vậy? Ông Dennings à? Do đâu con lại nghĩ như thế?”
“ Thì mẹ thích ông ta.”
“ Mẹ thích món pizzas nhưng mẹ có lấy nó đâu nào! Cưng à, ông ấy là bạn, chỉ là một người bạn già trái tính trái nết!”
“ Mẹ không thích ông ấy như bố chứ?”
“ Mẹ yêu bố con, cưng ạ. mẹ mãi mãi yêu bố con. Ông Dennings đến đây thường, vì ông ấy cô độc, thế thôi, ông là một người bạn.”
“ Chà, con nghe nói là…”
“ Con nghe cái gì? Nghe ai?”
Những áng nghi ngờ quay cuồng trong mắt con bé, nó lưỡng lự rồi nhún vai, bỏ qua. “ Con không biết nữa. Con chỉ nghĩ vậy thôi.”
“ Rặt chuyện ngu ngốc. Hãy quên nó đi.”
“ Vâng.”
“ Bây giờ đi ngủ đi.”
“ Con đọc sách nhé? Con chưa buồn ngủ.”
“ Được. Đọc cuốn sách mới của con ấy, cho đến khi nào thấy mệt.”
“ Cám ơn, mẹ.”
“ Chúc con ngủ ngon.”
Đứng ở ngưỡng cửa, Chris gửi một nụ hôn gíó rồi đóng cửa lại. Nàng bước xuống thang gác. Nàng thắc mắc không biết Regan có liên hệ Dennings với vụ đưa đơn ly dị của nàng không. Regan chỉ mới biết rằng Chris đã nộp đơn đó. Nhưng Howard đã muốn như vậy. Hai người đã sống ly thân từ lâu. Tự ái anh ta bị xói mòn vì cảnh làm chồng một ngôi sao. Anh đã tìm được người khác. Regan không biết điều đó. Ôi, dẹp quách mấy cài màn phân tâm học tái tử này đi mà chịu khó dành thêm chút thời gian sống với con bé!
Trở lại văn phòng, Chris đọc lại kịch bản. Giữa chừng, nàng thấy Regan chạy lại phía nàng.
“ Kìa cưng, có chuyện gì vậy?”
“ Có những tiếng động thật là kỳ, mẹ ạ.”
“ Trong phòng con à?”
“ Nghe cứ như tiếng gõ. Con không sao ngủ được.”
Mấy cái bẫy chuột đâu cả rồi?
“ Cưng ạ, cứ ngủ trong phòng mẹ, còn mẹ sẽ đi xem chuyện gì.”
Chris dẫn con về phòng ngủ, rồi ủ nó vào giường.
“ Con xem ti vi một chút để dỗ giấc ngủ nghe mẹ?”
“ Chứ sách con đâu?”
“ Con tìm không thấy. Con xem ti vi mẹ nhé?”
“ Được rồi, con xem đi.” Chris mở một kênh nơi chiếc máy truyền hình nhỏ trong phòng ngủ. “Đủ lớn không?”
“ Được rồi, mẹ.”
“ Cố ngủ đi nhé.”
Chris tắt đèn rồi đi xuôi xuống hành lang. Nàng trèo lên dãy cầu thang hẹp lót thảm dẫn lên rầm thượng. Nàng mở cửa, lần tìm núm bật đèn. Tìm thấy núm đèn, nàng bật sáng, khom người xuống, bước vào.
Nàng nhìn quanh. Hàng đống thùng các tông đựng các mảng cắt báo và thư từ nằm trên sàn gỗ thông. Không có gì khác ngòai mấy chiếc bẫy chuột. Sáu cái tất cả đã gắn mồi sẳn. Căn phòng không một vết bẩn. Chí đến không khí cũng có mùi sạch sẽ và mát mẻ. Rầm thượng không được sưởi ấm. Không có ống dẫn. Không có lò sưởi. Không có những lỗ nhỏ trên mái.
“ Không có gì đâu ạ.”
Chris nổi da gà. Nàng há hốc mồm, quay ngoắc lại, tay chận lên phía tim đang đập dữ dội. “ Chúa ôi, Karl, anh đừng làm thế chứ!”
Anh ta đang đứng trên bậc cầu thang.
“ Xin lỗi bà, nhưng bà thấy chưa? Phòng sạch boong.”
“ Ừ, sạch sẽ lắm. Cám ơn nhiều.”
“ Có lẽ mèo thì tốt hơn.”
“ Cái gì?”
“ Để bắt chuột.”
Không đợi câu trả lời, anh ta gật đầu, xong bỏ đi.
Chris đăm đăm nhìn cánh cửa một lúc. Một là Karl không có một chút óc khôi hài nào, hai là anh ta có nhưng nó quá ranh ma đến nỗi nàng không khám phá ra nổi. Nàng không quyết đóan được điều nào đúng.
Nàng lại suy nghĩ về những tiếng gõ, rồi nhìn lên mái nhà gẫy góc. Con phố rợp bóng các lọai cây, hầu hết cây cối đó đều u nần, chằng chịt những dây leo tầm gửi, mớ cành của một cây đọan bề thế, sum suê xòe tán che trọn cả một phần ba mặt tiền ngôi nhà. Có phải là lũ sóc thật không? Chắc thế rồi. Hay cành cây. Đúng, có thể là mớ cành cây. Đêm đến thường có gió nhiều.
“ Có lẽ mèo thì tốt hơn.”
Chris nhìn cánh cửa một lần nữa. Bất giác nàng mỉm cười, lộ vẻ tinh quái nghịch ngợm. Nàng xuống thang gác, đến phòng ngủ của Regan, nhặt một vật gì đó lên, mang nó trở lại rầm thựong, rồi sau một phút, lại trở về phòng ngủ của nàng. Regan đang say ngủ. Nàng trả con lại phòng riêng của nó, ủ con vào giường, rồi quay lại phòng nàng, tắt ti vi và đi ngủ.
Căn nhà yên ắng cho đến sáng.
Lúc ăn sáng, Chris bảo Karl một cách thật tự nhiên rằng nàng nghĩ mình có thấy tiếng bẫy sập trong đêm.
“ Anh có muốn lên xem thử không?” Chris gợi ý, vừa nhấm nháp tách cà phê và ra vẻ như chuyên chú vào một tờ báo sáng. Chẳng nói chẳng rằng, Karl đi lên gác xem xét.
Chris đi ngang qua anh ta nơi hành lang lầu hai lúc anh ta quay lại, nhìn một cách ơ thờ con chuột lớn nhồi bông anh ta đang cầm. Anh tìm thấy con thú giả này bị kẹt chặt mỏm vào ngàm bẫy.
Lúc bước về phía phòng ngủ của mình, Chris nhướng một bên chân mày lên nháy con chuột.
“ Có ai đó kỳ lạ thật”, Karl lẩm bẩm lúc anh ta tạt ngang qua nàng. Anh ta trả con thú nhồi bông về phòng ngủ của Regan.
“ Đã hẳn là có lắm chuyện đang xảy ra,” Chris thầm thì, lắc đầu lúc nàng bước vào phòng ngủ. Nàng trút chiếc áo dài ra và chuẩn bị đi làm. Ừ, có lẽ mèo lại tốt hơn, anh bạn già ạ. Tốt hơn nhiều. Cứ khi nào nàng cười, cả khuôn mặt nàng đều có vẻ nhăn nhó.
-----------------------------------
Việc quay phim diễn ra trơn tru ngày hôm đó. Gần trưa, Sharon đến trường quay. Trong những giờ giải lao giữa các lớp cảnh, cô và Chris giải quyết các công việc hàng ngày: viết một thư cho người đại diện của nàng (nàng sẽ cứu xét việc kịch bản), nhận lời dự tiệc tại Tòa Bạch Ốc, đánh điện cho Howard nhắc anh ta goi điện thọai cho Regan vào hôm sinh nhật của con bé, gọi điện thọai cho giám đốc kinh doanh của nàng hỏi xem nàng có đủ khả năng để nghỉ hẳn công việc trong một năm hay không, bàn việc tổ chức một bữa tiệc tối vào ngày hai mươi ba tháng tư.
Chập tối, Chris dẫn Regan đi xem phim và sáng hôm sau, hai mẹ con lái xe đi thăm các danh lam thắng cảnh trên chiếc Juguard XKE của Chris. Đài kỹ niệm Lincoln. Điện Capitol. Đầm Hoa Anh Đào. Đi ăn nhẹ. Sau đó qua sông đến nghĩa trang Arlington và Đài Chiến sĩ Vô Danh. Regan đâm ra trầm tư và sau đó, lúc đứng trước mộ tổng thống F. John Kennedy, cô bé có vẻ trở nên xa vắng và thóang buồn. Cô nhìn đăm đăm ngọn lửa bất diệt một lúc, xong lẳng lặng cầm tay mẹ. “ Mẹ à, tại sao người ta phải chết ?”
Câu hỏi đó đã đâm thấu vào cõi hồn Chris. Ôi Rags, cả con nữa sao? Ồ không! Nhưng nàng có thể nói gì với con đây? Nói dối chăng? Không thể được. Nàng nhìn khuôn mặt đang ngước lên của con, mắt đẩm lệ. Có phải con bé đã cảm thông được ý tưởng riêng tư của nàng? Trước đây nó thường cảm nhận được như thế…rất thường. “Cưng ạ, vì con người ta đâm ra mệt mỏi”, nàng dịu dàng trả lời con.
“ Tại sao Chúa lại để cho họ như vậy?”
Chris nhìn đăm đăm một lúc. Nàng bàng hòang. Bối rối. Là một người vô thần, nàng chưa hề dạy con về tôn giáo. Nàng cho điều đó là không trung thực.
“ Ai đã nói với con về Chúa vậy?”. Nàng hỏi.
“ Sharon”.
“ Ồ ”. Lẽ ra nàng đã phải nói với con.
“ Mẹ à, tại sao Chúa lại để cho chúng ta mệt mỏi?”
Nhìn xuống đôi mắt nhạy cảm và niềm đau ấy, Chris đành thua cuộc, nàng không thể nói với con nàng điều nàng tin. “Ừ thì, sau một thời gian, Chúa thấy nhớ chúng ta, Rags ạ, và người muốn ta quay về”. Regan thu mình vào cõi yên lặng. Cô bé lặng yên suốt trên đường về, và vẻ ủ dột đó còn đeo đuổi cô bé suốt hôm đó, sang đến ngày thứ hai.
Hôm thứ ba là sinh nhật Rags, trạng thái u sầu có vẻ nguôi ngoai. Chris dẫn con heo khi đi quay phim. Khi ngày làm việc chấm dứt, cả đòan quay phim hát vang bài Chúc mừng sinh nhật rồi khuân ra một ổ bánh. Bao giờ cũng là một con người nhân từ, tốt bụng khi tỉnh táo, Dennings cho lệnh lên đèn trở lai và quay phim cô bé lúc nó cắt bánh. Ông gọi đó là màn “quay thử” và sau đó hứa sẽ biến cô bé thành một ngôi sao màn bạc. Cô bé có vẻ rất vui.
Nhưng sau bữa ăn tối và sau lúc mở quà, trạng thái hoan hỉ dường như đã phôi pha. Không một lời nào từ chỗ Howard. Chris đã gọi điện thọai đến La Mã cho anh ta, nhưng viên thư ký khách sạn nơi anh trọ cho biết anh ta không còn ở đó mấy hôm rồi, và không cách gì liên lạc với anh ta được. Anh ta đang ở đâu đó trên một du thuyền.
Chris cắt nghĩa lý do cho con cô.
Regan gật đầu, cam chịu, và lắc đầu từ chối lúc mẹ cô đề nghị ra hiệu Hot Shoppe ăn kem sữa sóc. Không nói năng, cô bé bỏ xuống phòng giải trí dưới tầng hầm rồi ở đó cho đến giờ ngủ.
Sáng hôm sau, lúc ở mắt dậy, Chris thấy Regan nằm trên giường với nàng, nửa thức nửa ngủ.
“ Ủa, có việc… Con làm gì ở đây vậy?” Chris cười khúc khích.
“ Giường con lắc quá !”
“ Điên khùng!” Chris hôn con rồi kéo chăn đắp lại cho con.” Ngủ đi. Vẫn còn sớm.”
Điều thọat trông như một buổi sáng hóa ra lại là khởi điểm của một đêm dài vô tận.
---------------------
Ông đứng bên mé sân ga xe điện ngầm quạnh quẽ, lắng nghe tiếng rầm rập của một đòan tàu nó sẽ xoa dịu niềm đau vẫn hằn canh cánh bên lòng ông. Giống như tiếng mạch đập của ông. Chỉ nghe thấy được trong sự tĩnh lặng.Ông đổi túi hành lý sang tay kia và nhìn đăm đăm xuống đường hầm. Những chấm sáng. Chúng trải dài suốt vào vùng tăm tối y như những kẻ hướng đạo đưa đường vào cõi vô vọng.
Có tiếng ho. Ông nhìn sang trái. Gã bụi đời râu tua tủa như cuống rạ, vẫn nằm co dưới đất trong vũng nước tiểu của gã, chợt ngồi lên. Gã ngước đôi mắt vàng ệch nhìn vị linh mục có gương mặt nhằn nhện, buồn thảm.
Vị linh mục quay đi. Thế nào gã cũng đến. Gã cũng rên rỉ. Thưa Cha, xin Cha giúp đở cho một thằng bé giúp lễ ngày xưa. Cha ơi ! Cái bàn tay nhầy nhụa các thứ ói mửa ép lên bờ vai, sờ sọang tìm chiếc huy chương. Cái hơi thở của hàng ngàn buổi xưng tội nồng nặc mùi rượu vang và tỏi cùng những tội lỗi ôi mốc của kiếp người cứ thế tuôn ra hết, làm ngạt thở…ngạt thở…
Vị linh mục nghe thấy gã bụi đời đứng dậy.
Đừng có đến đây !
Nghe tiếng bước chân.
Chúa ơi ! Hãy để ta yên nào !
“ Chào Cha.”
Ông nhăn nhó. Người chùng hẳn xuống. Ông không thể quay lại. Ông không thể nào chịu nỗi cái cảnh lại phải tìm kiếm Đấng Kitô trong đôi mắt hốc hác và hôi thối này, tìm kiếm Đấng Kitô đầy những mũi dãi và *** đái dính máu này, thứ Đấng Kitô không thể chịu nổi này. Bằng cử chỉ thẩn thờ, ông sờ sọang tay áo như thể tìm kiếm một dải khăn trắng vô hình. Ông lơ mơ hòai tưởng một Đấng Kitô khác.
“ Này Chaaaaa !”
Có tiếng râm ran của một con tàu vào ga. Rồi những tiếng vấp ngã. Ông nhìn gã bụi đời. Gã đang lảo đảo, ngất xỉu. Với một động tác nhảy bổ bất chợt, vị linh mục đã chờ sát bên gã, chụp được gã, lôi gã đến chiếc ghế dài kê vào tường.
“ Con là người công giáo”, gã bụi đời trệu trạo “Con là người công giáo.”
Vị linh mục khẽ đặt gã xuống, duỗi người gã ra, ông trông thấy con tàu ông đang chờ. Ông vội rút ví, lấy một đồng đô la ra đặt vào túi áo vét của gã bụi đời. Sau đó, ông quả quyết thế nào gã cũng đánh mất tiền. Ông moi đồng đô la ra, nhét nó vào túi quần sũng nước đái của gã, rồi ông nhặt lấy túi hành lý, bước lên tàu.
Ông ngồi xuống một góc, giả vờ ngủ. Đến cuối tuyến đường, ông thả bộ đến Trường Đại học Fordham. Ông đã định dùng đồng đô la kia để đi tắc xi.
Lúc đến khu cư xá vãng lai dành cho khách, ông ký tên vào sổ đăng ký. Damien Karras, ông viết tên. Rồi xem kỹ lại. Có một cái gì đó sai quấy. Với vẻ chán ngán, ông chợt nhớ và ghi thêm S.J.
Ông lấy một phòng trong khu Cư xá Weigel và sau một giờ, ông đã ngủ được.
Ngày hôm sau, ông tham dự một cuộc hội thảo của Hội tâm thần học Hoa Kỳ. Với tư cách là diễn giả chính, ông phâ phát một bả tham luận mang tựa đề “ Các khía cạnh tâm lý trong sự phát triển tâm linh”. Đến cuối ngày, ông thưi73ng thức vài cốc rươu và ăn chút đỉnh với một số các nhà tâm thần học khác. Họ đài thọ ăn uống. Ông cáo từ sớm sủa. Ông còn phải ghé thăm mẹ ông.
Ông cuốc bộ đến tòa chung cư sập xệ xây bằng đá nâu ở Đại lộ Hai Mươi Mốt, khu Đông Manhattan. Dừng trên bậc cấp dẫn lên cửa nhà, ông nhìn lũ trẻ trên sân trước. Đầu bù tóc rối, áo quần lếch tha lếch thếch. Không có chỗ chạy chơi. Ông nhớ lại những lần bị đuổi nhà, những sự nhục nhã, nhớ lại có lần về nhà với cô bồ học lớp bảy và bắt gặp mẹ ông đang moi thùng rác ở góc nhà, mong kiếm chác được món gì. Ông leo bậc cấp và mở cánh cửa cứ như nó là một vết thương mới kéo da non. Có mùi nấu nướng. Ông nhớ lại những lần viếng thăm bà Choirelli, trong căn hộ tí hon có nuôi mười tám con mèo của bà. Ông bấu chặt tay vịn và leo lên, bàng hòang vì một nỗi buồn chán cùng cực, bất chợt, mà ông biết là đã xuất phát từ mặc cảm tội lôi. Lẽ ra ông đừng bỏ mẹ lại một mình.
Bà hoan hỉ chào đón ông. Bà kêu lên. Rồi hôn ông. Bà tất bật đi pha cà phê. Đen đậm. Đôi chân bà xương xẩu, loắt choắt. Ông ngồi trong bếp và nghe bà kể lể. Mấy bức tường nhem nhuốc và sàn nhà bẩn thỉu cứ rịn rỉ vào tận xương cốt ông. Căn hộ này đúng là một cái hang. Bà sống nhờ Quỹ An sinh xã hội. Mỗi tháng, một ông anh của bà gửi cho dăm ba đô la.
Bà ngồi nơi bàn kể lể. Ông này, bà nọ. Phát âm vẫn rặc giọng dân di trú. Ông tránh đôi mắt kia, đôi mắt đúng là hai cái giếng sầu muộn, đôi mắt đã tiêu pha ngày tháng bằng cách nhìn đau đáu ra ngòai khung cửa sổ.
Lẽ ra ông đừng bao giờ bỏ bê bà.
Sau đó ông viết hộ bà mấy bức thư. Bà chẳng biết đọc biết viết chút tiếng Anh nào. Rồi ông bỏ thời giờ chữa cho bà cái núm bắt sóng của chiếc ra đi ô cà khổ bằng nhựa. Thế giới của bà đó. Tin tức. Ông thị trưởng Lindsay.
Ông vào phòng tắm. Một tờ báo vàng ệch trải trên gạch lót. Những vết rỉ sét trong bồn tắm và bồn rửa mặt. Trên sàn, một chiếc nịt ngực cũ xì. Đó, những hạt giống của thiên hướng ông đó. Chính từ những cái đó mà ông đã chạy trốn vào tình yêu. Giờ đây, tình yêu đó đã lạnh tanh. Về đêm, ông nghe được tình yêu đó rít qua những ngõ ngách của tâm hồn ông như một cơn gió rền rỉ, lạc lòai.
Lúc mười mội giờ kém mười lăm, ông hôn từ biệt mẹ, hứa sẽ trở lại khi có thể được. Ông ra đi khi chiếc máy thu thanh đang phát mục tin tức.
Khi đã trở về phòng ở Cư xá Weigel rồi, ông dành chút tâm trí để viết một bức thư cho linh mục giáo trưởng địa phận Maryland, xin được thuyên chuyển về địa phận New York để được gần mẹ.
Ông xin một chân dạy học và xin được từ nhiệm các chức vụ khác. Khi thỉnh cầu về mục sau, ông nại ra lý do là “không thích hợp” với các chức vụ đó. Linh mục giáo trưởng địa phận Maryland đã đề cập việc đó với ông trong chuyến thanh tra thường niên của ông ta tại Đại học đường Georgetown, một giáo vụ rất giống với quân vụ của vị tướng tổng thanh tra quân lực, nghĩa là tiếp kiến riêng những ai có những vấn đề cần than phiền, hay khiếu nại. Về điểm liên quan đến mẹ của Damien Karras, vị giáo trưởng gật đầu và tỏ ý thông cảm. Nhưng còn vấn đề “không thích hợp” do cha Karras nêu ra thì giáo trưởng cho đó rõ ràng là “mâu thuẩn”. Nhưng Karras không lùi bước.
“ Vấn đề đó không chỉ thuần túy thuộc địa hạt tâm thần học đâu, Tom ạ. Cha biết đấy. Một số vấn đề của các linh mục lại đụng chạm thiết thân đến chính thiên hướng, đến chính ơn Thiên triệu, đến chính ý nghĩa của cuộc sống họ. Qủy thật, không phải lúc nào cũng là vấn đề có dính líu đến chuyện tình dục đâu, mà chính là vấn đề đức tin của họ và đơn giản là tôi không kham nổi vấn đề đó, Tom ạ. Điều đó quá sức tôi. Tôi cần rút lui. Tôi cũng có những vấn đề của chính mình. Tôi muốn nói là những mối hòai nghi.”
“ Có người nào biết suy nghĩ mà lại không đâu, Damien?”
Là một người đa đoan bận rộn, vị giáo trưởng đã không thúc ép ông phải nêu ra những lý do khiến ông hòai nghi. Karras rất biết ơn vị giáo trưởng về điều đó. Ông biết những câu đáp của ông thế nào nghe ra cũng đầy vẻ điên rồ: nhu cầu phải lấy răng cắn xé thức ăn rồi sau đó lại bài tiết ra. Chín ngày Thứ Sáu Đầu Tiên của mẹ tôi. Mấy chiếc vớ thối hoắc. Những hài nhi quái thai. Một mục trong báo đăng vụ một em bé giúp lễ đang đứng đợi xe búyt thì bị một nhóm người lạ mặt tấn công, tưới dầu hỏa lên người em, đốt cháy. Không. Nghe ra ủy mị tình cảm quá. Mơ hồ quá. Hiện sinh quá. Bắt rễ sâu hơn luận lý đó chính là sự câm lặng của Chúa. Giữa một cõi đời có cái ác. Và đa phần cái ác phát sinh từ sự hòai nghi, từ sự hoang mang lương thiện giữa vòng những người thiện tâm. Một Thiên Chúa có lý trí há sẽ khước từ không chịu chấm dứt điều đó sau? Ngài sẽ không khải thị chính mình ra hay sao? Không lên tiếng sao?
“ Lạy Chúa, xin hãy ban cho chúng tôi một dấu hiệu…”
Việc gọi Lazarus từ kẻ chết sống lại đã mịt mờ trong cõi quá khứ diệu vợi. Không một ai đang sống đây còn nghe được tiếng ông ta cười.
Tại sao lại không có một dấu hiệu?
Bao phen, vị linh mục thường khắc khỏai mong đợi sống với Đấng Kitô, để thấy, để rờ, để thăm dò con mắt Ngài! Hãy cho con biết! Xin hãy đến trong lúc con mơ!
Nỗi hòai mong đó đã thiêu đốt ông.
Lúc này, ông ngồi nơi bàn làm việc, bút đặt trên giấy. Có lẽ vị giáo trưởng im lặng không phải vì cớ ông ta không có thời gian, có lẽ ông ta đã hiểu rằng đức tin, rốt ráo lại, là một vấn đề của tình yêu thương.
Vị giáo trưởng đã hứa cứu xét lời thỉnh nguyện, nhưng cho đến phút này, vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Karras viết xong là thư và đi ngủ.
Ông uể ỏai thức dậy lúc năm giờ sáng, đi xuống thánh đường trong Cư xá Weigel, nhận một Bánh Thánh rồi trở về phòng riêng, làm lễ.
“ Et clamor mcus ad te veniat” ông thầm thì cầu nguyện trong nỗi thống khổ. “ Nguyện tiếng kêu cầu tôi thấu đến bên Ngài..”
Ông nâng Bánh Thánh lên trong sự tận hiến với một hồi ức đau xót về sự sướng thỏa mà đã có lần cử chỉ này đây từng mang lại cho ông, ông lại cảm thấy một lần nữa, như ông vẫn cảm thấy mỗi buổi sáng, nỗi thảng thốt về một cái nhìn bất ngờ đến từ xa và không ai thấy của một tình yêu đã từ lâu không còn nữa.
Ông bẻ bánh thánh trên cốc rượu lễ.
“ Ta để lại sự bình an cho các con. Ta ban cho các con sự bình an…”
Ông đưa Bánh Thánh vào miệng rồi nuốt lấy cái vị thất vọng mỏng như giấy ấy.
Lễ tất, ông lau sạch cốc rượu thánh rồi cẩn trọng cất nó vào túi hành lý. Ông hối hả ra ga đáp chuyến tàu 7 giờ 10 phút trở về Washington, mang cả niềm đau đớn trong chiếc va li màu đen.
QUỶ ÁM Nguyên tác: The Exorcist ( 2 – 3 )
Tác giả: WILLIAM PETER BLATTY
Mình nhớ hôm trườc đã post tiếp rồi, nhưng sao hôm nay thấy mất.
Thôi thì post lại…
2.
Sáng sóm ngày 11 tháng Tư, Chris gọi điện thoại cho bác sĩ riêng của nàng ở Los Angeles để nhờ ông giới thiệu đến một bác sĩ tâm thần ở địa phương, hầu chạy chữa cho Regan.
“ Ủa, có việc gì vậy?”
Chris giải thích. Mọi sự bắt đầu vào hôm sau ngày sinh nhật của Regan – sau vụ Howard quên gọi điện thoại chúc mừng con – nàng nhận thấy có sự biến đổi đột ngột và mãnh liệt trong hành vi và tính nết của con gái. Mất ngủ. Hay cãi cọ. Dễ bẳn gắt. Hay đá vào đồ đạc. Ném vất mọi thứ. La hét. Không chịu ăn. Ngoài ra sức lực của con bé có vẻ mạnh mẽ dị thường. Nó cử động không ngừng, sờ soạng, vặn vẹo, khỏ gỏ, chạy nhảy lung tung. Học hành sa sút hẳn. Chơi với những bạn bè tưởng tượng. Giở những mánh khóe gây chú ý thật quái dị.
“ Chẳng hạn như thế nào?” người thầy thuốc hỏi.
Nàng bắt đầu từ vụ những tiếng gõ. Từ cái đêm nàng lên thanh sát căn rầm thượng, nàng còn nghe những tiếng gõ ấy thêm hai lần nữa. Trong cả hai lần đó, nàng nhận xét, Regan đều có mặt trong phòng, và những tiếng gõ đó im bặt lúc Chris bước vào. Hai nữa, nàng thuật cho bác sĩ nghe, Regan thường “làm mất” đồ đạc ở trong phòng; một chiếc áo, chiếc bàn chải đánh răng, sách vở, giày dép. Con bé cứ than phiền về “một người nào đó cứ di chuyển” đồ đạc, bàn ghế trong phòng nó. Điểm cuối cùng, vào buổi sáng sau buổi tiệc tối tại Tòa Bạch Ốc, Chris gặp Karl trong phòng ngủ của Regan đang đẩy chiếc tủ ngăn kéo trở lại chỗ cũ từ một vị trì mãi giữa phòng. Lúc Chris hỏi anh ta đang làm gì, anh ta nhắc lại câu nói lần trước “Có kẻ nào kỳ lạ thật” và không chịu nói rõ thêm, nhưng liền sau đó, Chris bắt gặp Regan trong bếp than phiền rằng một người nào đó đã di chuyển tất cả đồ đạc trong phòng nó từ lúc ban đêm khi nó ngủ.
Chính biến cố này, Chris giải thích, rốt cuộc đã khẳng định những mối nghi ngờ của nàng. Rõ rệt chính con gái nàng đã làm tất cả mọi điều đó.
“ Chị muốn nói đến chứng mộng du à? Con bé làm điều đó lúc nó đang ngủ à?”
“ Không phải vậy đâu, Marc, nó làm điều đó ngay lúc nó thức. Để bắt người ta chú ý đến nó.”
Chris đề cập đến việc chiếc giường bị lắc, việc đó còn xảy ra hai lần nữa, và lần nào cũng kéo theo màn Regan đòi ngủ lại với mẹ.
“ Có thể đó là một hiện tượng vật lý được lắm chứ”, người bác sĩ nội trú đánh bạo.
“ Không đâu, Marc, tôi không hề nói là chiếc giường lắc. Tôi chỉ nói rằng con bé bảo là nó lắc thôi.”
“ Chị có biết là nó không lắc không?”
“ Không.”
“ Chà, có lẽ lắm là chứng động kinh rồi”, ông thầm thì.
“ Ai cơ ạ?”
“ Có sốt không?’
“ Không. Này theo ý anh”, nàng hỏi. “ Tôi có nên đưa nó đến một bác sĩ tâm thần hay ai khác không?”
“ Chris ạ, chị có nhắc đến việc học hành của cháu. Về môn toán, cháu nó học ra sao?”
“ Sao anh hỏi thế?”
“ Nó học môn toán ra sao?” người thầy thuốc khăng khăng.
“ Thật tồi tệ. Tôi muốn nói là bỗng dưng tồi tệ.”
Người thầy thuốc lầu bầu điều gì đó.
“ Tại sao anh lại hỏi thế?” nàng lập lại.
“ Đó là một phần của hội chứng.”
“ Của cái gì cơ?”
“ Không có gì nghiêm trọng đâu. Tôi không muốn đoán bệnh trên điện thoại. Có bút chì đó không?”
Ông muốn cho nàng tên một bác sĩ nội trú ở Washington.
“ Marc à, anh không thể đích hân đến chẩn đóan cho cháu được sau?”
Trước đây, Janie, con trai nàng, mắc chứng truyền nhiễm kéo dài. Bác sĩ của Chris lúc đó đã kê toa một lọai trụ sinh mới, có phạm vi công hiệu rộng. Tại dược phòng địa phương, lúc cấp thuốc theo toa bác sĩ, người dược sĩ đã cảnh cáo. “Tôi không muốn làm bà kinh động, thưa bà, nhưng thứ tân dược này…Cha, nó còn rất mới mẽ trên thị trường. Ở Georgia, người ta đã khám phá ra nó là nguyên nhân gây ra chứng thiếu máu do suy tủy xương trong…” Janie. Jane. Nó đã chết. Kể từ đó, Chris không còn tin tưởng các bác sĩ nữa. Trừ mỗi mình Marc. Mà cũng phải mất đến hàng mấy năm. “Marc à, anh không đến đựợc sao?”. Chris van vỉ.
“Vâng, tôi không thể đến được, nhưng chị đừng lo.Người này rất giỏi. Một tay cự phách. Bây giờ chị lấy bút chì đi.”
Lưỡng lự một lúc, nàng đáp: “Thôi được.”
Nàng ghi lại tên vị bác sĩ.
“ Bảo ông ta khám cho cô bé rồi dặn ông ấy gọi dây nói cho tôi”, người thầy thuốc khuyên. “Còn bây giờ quên cái vụ bác sĩ tâm thần ấy đi.”
“ Anh chắc đấy chứ?”
Vị bác sĩ tuôn ra một tràng nhận xét phũ phàng về thói dễ dàng chấp nhận các căn bệnh thần kinh của quảng đại quần chúng, trong khi họ lại không công nhận điều ngược lại, đó chính là những bệnh tật của thân thể thường lại là nguyên nhân gây bệnh tâm trí.
Để minh giải điều ấy, bác sĩ đề nghị. “ Bây giờ chị sẽ nói sao, giá dụ như chị là bác sĩ của tôi, nghe tôi khai là tôi bị đau đầu, hay mơ thấy ác mộng, nôn mữa và thị giác bị mờ, rồi những là tôi hay cảm thấy bị bấn lọan và chán việc đến chết được? Chị có bảo rằng tôi bị lọan thần kinh hay không?”
“ Hỏi tôi thì chẳng đựoc cái tích sự gì đâu, Marc, tôi biết là anh điên rồi.”
“ Những triệu chứng tôi vừa kể với chị giống hệt như những triệu chứng khi bị khối u trong não, Chris ạ. Trước tiên, hãy khám xét chính thân thể cái đã. Rồi sau đó hẳn tính.”
Chris gọi điện thọai cho người bác sĩ nội trú, xin một cái hẹn chiều hôm ấy. Lúc này, nàng hòan tòan rảnh rỗi. Việc quay phim đã xong, ít ra cũng là về phần nàng. Burke Dennings vẫn tiếp tục làm việc, ông tà tà chỉ đạo công việc của “đơn vị hai”, thường là một ê kíp ít tốn kém hơn, có nhiệm vụ quay những cảnh không mấy quan trọng, hầu hết là những màn quay từ trực thăng các ngọai cảnh quanh thành phố, cùng những màn nhào lộn nguy hiểm, những cảnh không có mặt diễn viên chính nào. Nhưng nhà đạo diễn muốn mỗi thước phim quay đều phải tòan bích.
------------------------
Vị bác sĩ đó ở Arlington, tên là Samuen Klein. Trong khi Regan ngồi chù ụ trong phòng khám, bác sĩ Klein mời mẹ cô bé ngồi trong văn phòng và nghe kể sơ lược tiểu sử bệnh chứng. Bà kể cho ông nghe chuyện trục trặc. Ông lắng nghe, gật đầu, ghi chú không ngừng. Lúc nghe nàng nói đến vụ lắc giường, ông có vẻ cau mày. Nhưng Chris vẫn tiếp tục.
“ Marc có vẻ cho rằng việc Regan học tóan sa sút là một điều có ý nghĩa. Tại sao lại thế?’
“ Bà muốn nói đến việc học hành?”
“ Vâng, việc học hành, nhưng đặc biệt là môn tóan. Điều đó có ý nghĩa gì?”
“ Được, cứ đợi cho tôi khám xong cô bé đã, thưa bà Mac Neil”.
Sau đó, ông cáo lỗi rồi khám tổng quát cho Regan kể cả thử nước tiểu và xét nghiệm máu. Thử nước tiểu để trắc nghiệm các chức năng của thận và gan, thử máu để xem xét một số việc, bệnh đái đường, chức năng tuyến giáp trạng, đếm hồng cầu để dò xem có bị thiếu máu không, đếm bạch cầu để tìm xem có bị những chứng bệnh máu ngọai lai không.
Sau khi khám xong, ông ngồi nói chuyện một lúc với Regan, quan sát cử chỉ của cô bé, rồi trở lại với Chris, bắt đầu kê toa.
“ Hình như cô bé bị rối lọan chức năng tăng vận động.”
“ Cái gì ạ?”
“ Một sự rối lọan thần kinh. Ít ra thì đó cũng là điều chúng tôi nghĩ. Chúng tôi không biết chính xác được tác động của nó, nhưng có điều ta thường gặp nó nơi đám thiếu niên mới lớn. Cô bé cho thấy có tất cả mọi triệu chứng: sự tăng vận động, tâm tình nóng nảy, thành tích trong môn tóan.”
“ Vâng, môn tóan. Tại sao lại môn tóan?”
“ Nó ảnh hưởng đến sự tập trung.” Ông xé toa thuốc khỏi tập giấy nhỏ màu xanh dương, trao cho Chris. “Toa này để bà mua Ritalin.”
“ Cái gì?”
“ Methylphenidate.”
“ Ồ.”
“ Mười miligam, ngày hai lần. Tôi đề nghị uống một lần vào lúc tám giờ sáng, lần thứ hai vào lúc hai giờ chiều.”
Nàng nhìn toa thuốc.
“ Cái gì thế này? Một lọai an thần hả?”
“ Một lọai thuốc kích thích.”
“ Thuốc kích thích? Con bé bây giờ đã bay cao hơn diều rồi.”
“ Tình trạng của cô bé không hòan tòan giống như hiện tượng bên ngòai.” Klein giải thích. “ Đó là một hình thức đền bù quá độ. Một phản ứng thái quá với chứng trầm cảm.”
“ Trầm cảm?”
Klein gật đầu
“ Trầm cảm…” Chris thì thầm. Nàng tư lự.
“ Chà, bà có đề cập đến bố của cô bé”, Klein nói.
Chris ngước lên. “ Bác sĩ có cho rằng tôi nên đưa cháu đến khám một bác sĩ tâm thần không?”
“ Ồ không. Tôi còn chờ xem phản ứng đối với Ritalin ra sao đã. Tôi nghĩ đó là đáp số. Hãy đợi hai ba tuần nữa.”
“ Vậy bác sĩ cho đây chỉ là trạng thái thần kinh.”
“ Tôi nghĩ là như thế.”
“ Và những lời nói dối mà con bé vẫn nói? Thuốc này sẽ chấm dứt việc đó chứ?”
Câu trả lời của bác sĩ khiến nàng chưng hửng. Ông hỏi nàng có biết Regan từng chửi thề hay nói tục tĩu không.
“ Không bao giờ.”
“ Vâng, bà thấy đó, điều đó hòan tòan giống như những điều đại lọai như thể sự nói dối của cô bé. Theo như chỗ bà kể với tôi thì điều đó ngược hẳn với cá tính của cô bé, nhưng trong những trạng thái rối loạn thần kinh nào đó, vẫn có thể.”
“ Xin chờ một chút”.Chris ngắt lời, đầy bối rối. “Do đâu bác sĩ lại cho rằng con bé nói năng thô tục? Tôi muốn nói là có phải bác sĩ quả đã nói như thế, hay là tôi nghe lầm?”
Trong một thóang, ông nhìn nàng, hơi tò mò, cân nhắc, rồi đánh bạo: “Vâng, quả tôi có nói rằng cô bé đã nói tục tĩu. Há bà không nhận thức đựoc điều đó hay sao?”
“ Tôi vẫn chưa ý thức được điều ấy! Bác sĩ đang nói gì vậy?’
“ Vâng, cô bé đã văng tục ra hàng tràng lúc tôi khám cho cháu, thưa bà MacNeil.”
“ Bác sĩ cứ đùa! Chẳng hạn nó nói sao?”
Ông có vẻ tránh né. “ Tôi phải nói là vốn ngữ vựng của cô bé khá phong phú.”
“ Chẳng hạn là cái gì? Tôi muốn bác sĩ cho một ví dụ.”
Ông ta nhún vai.
“ Có phải bác sĩ muốn nói là “cứt”? hay “đ…” không?”
Ông nhẹ nhõm trở lại. “Vâng, cô bé đã sử dụng những từ đó”, ông đáp.
“ Nó còn nói gì nữa không?”
“ Chính xác thì cô ta bảo tôi là hãy dẹp mấy ngón tay chết tiệt ra khỏi l…cô ấy.”
Chris há hốc mồm vì chấn động. “Nó sử dụng những từ đó sao?”
“ Vâng, điều đó chẳng có gì bất thường cả, thưa bà MacNeil, và thực tâm tôi không phiền lòng chút nào về điều đó cả. Đó là một phần của hội chứng.”
Nàng lắc đầu, nhìn xuống giầy. “Thật là khó lòng tin được.”
“ Kìa, tôi không tin rằng cô bé hiểu được những lời cô ta nói nữa là khác,” ông trấn an.
“ Vâng, tôi đóan thế”, Chris thì thầm.” Có lẽ nó không hiểu.”
“ Cứ cho dùng thử Ritalin”, ông khuyên nàng. “Rồi chúng ta sẽ xem diễn biến ra sao. Hai tuần nữa, tôi sẽ tái khám cho cháu.”
Ông tham khảo một tập lịch trên bàn. “Ta xem nào, cứ ấn định là thứ tư ngày hai mươi bảy đi nhé! Có tiện không ạ?” ông hỏi, vừa ngước lên.
“ Vâng, hẳn là được.” Nàng thì thầm, đứng lên khỏi ghế. Nàng nhét toa thuốc vào túi áo khóac. “Ngày hai mươi bảy thì tiện lắm.”
“ Tôi là một khán giả rất ái mộ bà”, Klein mỉm cười nói, lúc nàng mở cánh cửa dẫn ra hành lang.
Nàng dừng lại ở ngữong cửa, ưu tư, một ngón tay miết lên môi. Nàng thóang nhìn bác sĩ.
“ Bác sĩ không cho rằng phải cần đến một bác sĩ tâm thần đấy chứ?”
“ Tôi không rõ. Nhưng lời giải thích tốt nhất bao giờ cũng là lời giải thích đơn giản nhất. Ta cứ chờ. Cứ chờ xem.” Ông mỉm cười khích lệ. “Tạm thời, hãy cố đừng lo lắng.”
“ Sao ạ?”
Nàng giả từ ông.
---------------------------
Trên xe về nhà, Regan hỏi mẹ bác sĩ nói những gì.
“ Bảo rằng con bị kích động thần kinh.”
Chris nhất định không nói gì về chuyện ngôn ngữ của con. Burke rồi. Con bé bắt chước ngôn ngữ của Burke rồi.
Nhưng sau đó, nàng có thuật cho Sharon nghe chuyện ấy, và hỏi người thư ký xem có bao giờ nghe Regan nói thứ ngôn ngữ tục tĩu ấy chưa.
“ Không!” Sharon đáp. “Ý em muốn nói là ngay cả thời gian gần đây cũng không. Nhưng chị biết đó, hình như cô giáo dạy nghệ thuật của cháu có đưa ra một nhận xét.” Đó là một cô giáo đặc biệt đến kèm tại nhà.
“ Cô định nói là mới đây ấy à?’ Chris hỏi.
“ Vâng, mới tuần trước đây thôi. Nhưng chị cũng biết cô ta rồi đó. Em đóan chắc Regan cũng chỉ nói những từ đại lọai như là “mẹ kiếp” hay “đồ rác rưởi” gì đó thôi.”
“ À này, cô có nói chuyện nhiều về vấn đề tôn giáo với nó không, Shar?”
Sharon đỏ mặt.
“Có chút đỉnh thôi. Chuyện đó làm sao mà tránh được. Chị thấy đó, cháu nó hỏi em vô số câu hỏi – và rồi…” Cô gái phát một động tác nhún vai bất lực. “ Thật là khó. Em muốn nói là làm sao em có thể trả lời mà không bảo cho nó nghe cái điều mà chính em nghĩ là một sự dối trá vĩ đại?’
“ Cứ cho nó một bài tập có nhiều đáp số để chọn.”
-----------------------------
Vào những ngày trước hôm tổ chức bữa tiệc tối, Chris hết sức quan tâm lo cho Regan dùng đủ liều lượng Ritalin. Tuy nhiên, vào buổi tối thết tiệc, nàng không thấy có chút cải thiện đáng kể nào. Thực vậy, đã manh nha xuất hiện những dấu hiệu suy thóai tiệm tiến, tật hay quên gia tăng, thói bừa bộn và một lần cô bé than phiền là buồn nôn. Về những mánh khóe tạo chú ý, dù những trò quen thuộc không còn diễn ra, nhưng có vẻ đã xuất hiện một ngôn ngữ mới, cô bé than phiền về một “mùi” hôi thối, khó chịu trong phòng ngủ của nó. Trước sự khẳng định nằng nặc của Regan, một ngày kia Chris đã hít hà đánh hơi, nhưng nàng không ngửi thấy gì cả.
“ Mẹ không ngửi thấy sao?”
“ Con định nói là con ngửi thấy mùi đó ngay lúc này ấy à?” Chris hỏi con.
“ Vâng, chắc chắn như vậy.”
“ Cái mùi đó ra sao?”
Cô bé nhăn mũi. “ Giống như một cái gì cháy khét.”
“ Ra thế?” Chris khịt mũi.
“ Mẹ không ngửi thấy sao?”
“ Ồ có thấy, cưng ạ”, nàng nói dối. “ chỉ chút đỉnh thôi. Ta hãy mở cửa sổ ra một lát, cho không khí lùa vào.”
Sự thật thì nàng không ngửi thấy gì cả, nhưng nàng đã quyết định đánh một nước cờ “hõan binh chi kế”, chí ít cũng cho đến ngày hẹn với bác sĩ. Nàng cũng còn phải ưu tư về những mối quan tâm khác. Một là những sắp xếp cho buổi dạ tiệc. Hai là công việc liên quan đến kịch bản. Dù nàng rất tha thiết với cái viễn ảnh được đạo diễn phim, nhưng sự cẩn trọng tự nhiên đã không cho phép nàng quyết định ngay được. Lâm thời, người đại diện của nàng cứ gọi điện cho nàng hàng ngày. Nàng đã cho anh ta biết là nàng đã trao kịch bản ấy cho Dennings, để xin ý kiến, hy vọng ông ta đang đọc và không đốt nó đi.
Điều quan trọng thứ ba, và cũng là điều quan trọng nhất, chính là sự bất thành trong hai toan tính về tài chính của nàng: việc mua những trái phiếu có thể hóan chuyển ra đô la bằng cách sử dụng số tiền lãi được trả trước. Việc đầu tư vào một dự án khoan dầu tại Nam Lybie. Cả hai dự tính đều nằm trong kế họach bảo đảm cho số lợi tức khỏi phải bị đánh thuế nặng nề. Nhưng một điều còn tồi tệ hơn nữa đã bộc phát: các giếng dầu bị khô kiệt và lãi suất tăng phi mã đã thúc đẩy việc bán tống bán tháo các trái phiếu.
Đây chính là những vấn đề mà viên giám đốc kinh doanh của nàng đã bay đến thủ đô để thảo luận. Ông ta đến hôm thứ năm. Chris yêu cầu ông thuyết trình và giải thích qua đến thứ sáu. Cuối cùng, nàng đã quyết định một cung cách hành động mà viên giám đốc cho là khôn ngoan. Ông gật đầu tán thành. Nhưng ông cau mày lúc nàng nêu ý kiến muốn mua một chiếc Ferrari.
“ Cô muốn nói một chíêc xe mới ư?”
“ Tại sao không? Ông biết đấy, có lần tôi đã lái một chiếc xe hiệu đó trong một cuốn phim. Có lẽ nếu ta viết thư cho hãng chế tạo nhắc họ về vụ đó, có thể họ sẽ cho chúng ta một cái giá phải chăng. Ông có nghĩ thế không?”
Ông ta không hề. Và ông ta còn cảnh cáo rằng sắm một chiếc xe mới là chuyện tiêu hoang, không biết tiên liệu.
“ Ben à, năm ngóai tôi kiếm đưoc tám trăm thiên, vậy mà ông bảo là tôi không thể tậu một chiếc xe bảnh! Ông không cho đó là nực cười sao? Vậy chớ tiền đi đâu cả rồi?”
Ông nhắc cho nàng nhớ rằng hầu hết tiền bạc của nàng đều được ký thác. Xong, ông liệt kê nhiều món phải tiêu vào tổng lợi tức của nàng, thuế lợi tức liên bang, thuế lợi tức liên bang dự tóan, thuế tiểu bang, thuế sở hữu bất động sản, hoa hồng mười phần trăm cho đại diện của nàng, năm phần trăm cho ông ta, năm phần trăm cho nhà quảng cáo, một phẩy một phần tư phần trăm trích tặng vào Quỹ phúc lợi Điện ảnh, một khỏang tiêu cho tủ quần áo hợp thời trang, lương trả Willie, Karl và Sharon, cùng người coi sóc ngôi nhà tại Los Angeles, phí tổn di chuyển các lọai, và cuối cùng là những tiêu pha hàng tháng của nàng.
“ Cô sẽ đóng thêm một phim khác năm nay chứ?” Ông hỏi nàng.
Nàng nhún vai. “ Tôi không biết. Có cần phải đóng không?”
“ Có, tôi nghĩ là cô nên đóng.”
Nàng úp mặt vào đôi tay và nhìn ông ảm đạm. “Ta mua một chiếc Honda được chứ?”
Ông ta không đáp.
Tối hôm đó, Chris cố dẹp qua mọi nổi lo âu, cố bắt mình bận rộn với những chuẩn bị cho bữa tiệc tối hôm sau.
“ Ta hãy chuẩn bị một bữa tiệc tự phục vụ, ăn đứng với món cà ri, thay vì ngồi bàn”, nàng bảo Willie và Karl. “Ta kê một bàn ở cuối phòng khách, ổn chứ?’
“ Được lắm, thưa bà”, Karl nhanh nhảu trả lời.
“ Còn chị nghĩ sao, Willie ? Một món hoa quả tươi để ăn tráng miệng?”
“ Vâng, tuyệt!” Karl đáp.
Khách nàng mời là một hỗn hợp lý thú. Ngòai Burke (Mẹ kiếp! Xin ông tỉnh táo mà đến dùm cho). Và người đạo diễn đơn vị hai còn khá trẻ, nàng mong sẽ được đón một thượng nghị sĩ (và vợ), một phi hành gia thuộc chương trình Appolo (và vợ), hai tu sĩ Dòng Tên thuộc trường Đại học Georgetown, mấy người láng giềng, cùng Mary Jo Perrin và Ellen Cleary.
May Jo Perrin là một nữ tiên tri người Washington tóc hoa râm, người mũm mĩm mà Chris đã gặp tại bữa tiệc tối ở Tòa Bạch Ốc và nàng rất ưa thích. Nàng cứ ngỡ bà ta phải khe khắt và hãm tài lắm, nhưng “Chị không như thế chút nào cả !”. Nàng đã có thể nói với bà ta như vậy.
Ellen Cleary là một phụ nữ trung niên, thư ký tại Bộ Ngọai giao Mỹ, đã từng phục vụ tại tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Mascova lúc Chris du lịch sang Nga. Bà đã không quản khó nhọc và đã hết sức nỗ lực can thiệp cho Chris thóat khỏi bao nhiêu chuyện khó khăn rắc rối nàng gặp phải trong chuyến du hành mà phần lớn gây ra do tính ăn nói phang ngang bổ củi, hụych tẹt của người diễn viên tóc đỏ này. Bao năm qua, nàng vẫn hằng nhớ đến bà với tình cảm quý mến, và ngay khi đến thủ đô Washington, nàng đã tìm đến thăm bà.
“ Ê, Shar,” nàng hỏi. “ Các tu sĩ nào sẽ đến vậy?”
“ Em cũng chưa biết rõ. Em đã đặt giấy mời nhị vị Viện trưởng và Khoa trưởng trường Đại học, nhưng em nghĩ Viện trưởng sẽ cử người đại diện. Bí thư của ông đã gọi điện thọai cho em sáng nay cho biết có lẽ ông ta có việc phải rời thành phố.”
“ Ông ta sẽ cử ai đại diện?” Chris hỏi với vẻ chú tâm dè dặt.
“ Để em xem”, Sharon lật qua tập ghi chú. “ À, đây rồi, Chris. Phụ tá của ông – Cha Joseph Dyer”.
“ Cũng ở trường Đại học à?”
“ Chà, em cũng không chắc lắm.”
“ Thôi, được rồi.”
Nàng có dáng thất vọng.
“ Nhớ ngó chừng Burke vào tối mai.” Nàng căn dặn.
“ Vâng.”
“ Rags đâu?”
“ Dưới nhà.”
“ Này, có lẽ cô nên chuyển máy chữ xuống đó đi, cô nghĩ sao? Tôi nói thế là muốn cô vừa đánh máy vừa có thể trông chừng được con bé. Được chứ? Tôi không muốn cháu nó ở một mình thường quá.”
“ Ý kiến hay đấy.”
“ Thôi, tạm biệt. Về nhà đi. Tham thiền. Chơi với lũ ngựa.”
Việc dự trù và chuẩn bị xong đâu đấy. Chris lại bắt gặp mình trở về với những ý nghĩ lo lắng vì Regan. Nàng gắng gượng xem truyền hình, nhưng không sao tập trung được. Nàng cảm thấy bồn chồn. Có một vẻ gì kỳ bí ngự trị trong ngôi nhà. Giống như sự tĩnh lặng đang khu trú. Cát bụi trĩu nặng.
Lúc nữa đêm, cả nhà đều say ngủ.
3.
Nàng đón khách trong lễ phục màu vỏ chanh với tay áo hình chuông, dài và quần tây. Giày rộng thoải mái. Chúng phản ảnh niềm hy vọng của nàng về buổi tối hôm ấy.
Khách đến đầu tiên là Mary Jo Perrin, bà tới với cậu con trai Robert, còn ở lứa tuổi thiếu niên. Người khách cuối cùng là Cha Dyer, khuôn mặt hồng hào. Ông còn trẻ, nhỏ thó, đôi mắt dị kỳ khuất sau mục kính gọng thép. Đứng tại cửa, ông xin lỗi vì đã đến trễ. “Không sao tìm được chiếc ca-vát cho thích hợp”, ông giải thích với Chris, giọng hững hờ. Trong một lúc, nàng cứ nhìn ông trân trối, thế rồi nàng phá lên cười. Nỗi ưu uất đè nặng lấy nàng suốt ngày hôm đó đã bắt đầu nguôi ngoai.
Thức uống đã tỏ ra có công hiệu. Vào lúc mười giờ kém mười lăm phút mọi người tản ra từng nhóm nhỏ quanh phòng khách, vừa ăn vừa trò chuyện.
Chris múc đầy khay từ chiếc bàn chứa thức ăn bốc hơi nghi ngút, rồi nhìn kỹ khắp phòng tìm cho được Mary Jo Perrin. Kia rồi. Bà ngồi trên một trường kỷ với Wagner linh mục Dòng Tên, Khoa trưởng Đại học. Chris đã có tiếp chuyện vắn tắt với Cha trước đó. Đầu ông hói, đầy vết tàn nhang, cử chỉ dịu dàng, khô khan. Chris lướt tới bên trường kỷ, gập người xuống sàn nhà trước bàn cà phê vừa lúc người nữ tiên tri cười khúc khích vì khoái trá.
“ Nào, tiếp tục đi, Mary Jo”, vị khoa trưởng nói, vừa mỉm cười lúc ông đưa cả một nĩa găm đầy thịt cà ri lên miệng.
“ Phải, tiếp tục đi chứ, Mary Jo”, Chris hưởng ứng.
“ Ồ, xin chào, ca ri tuyệt thật!” Vị khoa trưởng nói.
“ Không nóng quá chứ ạ?”
“ Tuyệt không, rất vừa ăn. Mary Josephine đang kể cho tôi nghe câu chuyện một tu sĩ Dòng Tên vốn là một kẻ đồng cốt.”
“ Và Cha thì lại không chịu tin tôi đó!” Người nữ tiên tri cười rúc rích.
“ Này, phải phân biệt cho rõ đây nghe”, vị khoa trưởng cải chính. “Tôi chỉ nói rằng chuyện ấy hơi khó tin thôi.”
“ Có phải chị định nói là ngồi đồng đấy không?” Chris hỏi.
“ Chứ còn gì nữa, hẳn là vậy rồi”, Mary Jo đáp. “ Ông ta lại còn bay bổng lên không nữa ấy chứ.”
“ Ồ, chuyện ấy thì sáng nào tôi cũng làm.” Vị tu sĩ Dòng Tên lặng lẽ nói.
“ Vậy ra ông ta còn tổ chức ngồi đồng nữa sao?” Chris hỏi bà Perrin.
“ Đúng thế”, bà trả lời. “Ông ta rất ư nổi tiếng vào thế kỷ thứ mười chín. Thực tế, có lẽ ông ta là một kẻ đồng cốt duy nhất ở thời đại mình mà chưa hề bị kết án là tà ngụy.”
“Tôi đã nói rồi, ông ta không phải là tu sĩ Dòng Tên.” Vị khoa tưởng bình luận.
“ Trời đất, nhưng ông ta đúng là thế mà!” Bà cười. “Lúc được hai mươi hai tuổi, ông gia nhập Dòng Tên và hứa là sẽ không làm đồng cốt nữa, nhưng rồi người ta tống cổ ông ta ra khỏi nước Pháp” – bà cười dữ hơn nữa – “ ngay sau một buổi ngồi đồng của ông ta tổ chức tại điện Tuilerie. Quí vị có biết ông ta đã làm gì không? Ngay giữa buổi lên đồng, ông ta tâu với hòang hậu rằng bà ta sắp được đôi tay của một hồn ma trẻ con chạm tới, hồn ma này sắp sửa hiện ra nhãn tiền, và khi người ta bất chợt bật tất cả đèn đuốc lên,” bà cười hô hố. “ Người ta bắt gặp ông đang ngồi với đôi chân trần trên cánh tay hòang hậu! Đấy, các vị có tưởng tượng được không?”
Vị linh mục Dòng Tên vừa mỉm cười vừa đặt khai ăn xuống.
“ Này, Mary Jo, bà đừng có mong được giảm nhẹ mức xá tội nữa đấy nhé.”
“ Ối chào, gia đình nào thì cũng phải có một con chiên ghẻ chứ Cha!”
“ Chúng ta đang cố giành “quota” với các giáo hòang Medici đây.”
“ Thưa Cha, tôi cũng đã có lần từng trải.” Chris bắt đầu.
Nhưng vị khoa trưởng ngắt lời. “ Có phải bà định xem việc này như một vấn đề xưng tội không?”
Chris mỉm cười, đáp. “ Không, tôi không phải là người công giáo.”
“ Ôi chào, thì mấy ông Dòng Tên cũng có phải đâu”, bà Perrin cười khúc khích.
“ Đúng là luận điệu phỉ báng của đám Dominicain,” vị khoa trưởng trả đũa. Rồi quay lại Chris, ông nói,” Xin lỗi. Lúc nãy bà đang nói là…?”
“ Vâng, chả là tôi nghĩ mình đã trông thấy có ai đó đã có lần bay bổng người lên. Ở Bhutan ấy.”
Nàng thuật lại câu chuyện.
“Cha có nghĩ là điều ấy có thể có không?” nàng kết thúc. “Tôi hỏi hết sức nghiêm chỉnh đấy.”
“ Nào ai biết.” Ông nhún vai. “ Nào ai biết sức hút là gì? Hay là vật chất, khi sự việc xảy ra như thế đó.”
“Cha có muốn tôi góp ý không?” Bà Perrin xen vào.
Vị khoa trưởng đáp. “Không Mary Jo à, tôi đã phát nguyện sống đời nghèo khổ rồi.”
“ Tôi cũng thế”, Chris thì thầm.
“ Cái gì vậy?” vị linh mục hỏi, cúi người ra phía trước.
“ Ồ, có gì đâu. Ý là tôi có điều muốn hỏi Cha. Cha có biết ngôi nhà nhỏ ở phía sau tòa giáo đường kia không?”
“ Thánh đường Ba Ngôi?”
“ Vâng, đúng rồi.Có chuyện gì xảy ra ở đó vậy?’
“ Ối chao, đó là nơi bọn họ cử hành lễ Đen ấy mà.” Bà Perrin bảo.
“ Cái gì đen cơ?”
“ Lễ Đen.”
“ Là cái gì?”
“ Bà ấy đùa đấy’, vị khoa trưởng bảo.
“ Vâng, tôi biết,” Chris bảo. “ Nhưng tôi thật lú lẫn. À mà, Lẽ Đen là thế nào?”
“ Về căn bản, đó là một sự mô phỏng, một sự nhái lại Thánh lễ Mi-sa của công giáo”, vị khoa trưởng giải thích. “ Lễ nghi đó liên quan đến phép phù thủy. Nó tôn thờ quỷ dữ.”
“ Thật vậy sao? Ý Cha muốn nói là quả thật đã có một việc như vậy sao?”
“ Tôi cũng không dám nói chắc. Mặc dù có dạo tôi được nghe nói đến một bảng thống kê cho biết có thể có vào khỏang năm mươi ngàn Thánh lễ Đen được cử hành hàng năm tại thủ đô Paris.”
“ Cha muốn nói là hiện nay?” Chris kinh ngạc.
“Tôi chỉ nghe nói thôi.”
“ Phải rồi, dĩ nhiên là do nguồn tin của sở mật vụ Dòng Tên.” Bà Perrin quở.
“ Không hề. Tôi nghe đồn thôi”, vị khoa trưởng đáp.
“ Cha biết không, ở Los Angeles,” Chris đề cập, “ người ta nghe thấy không biết bao nhiêu chuyện về tật sùng bái phù thủy đang diễn ra. Tôi không ngớt thắc mắc, không hiểu chuyện ấy có xác thực không nữa.”
“Như tôi đã thưa, tôi không được biết,” vị khoa trưởng đáp. “Nhưng tôi có thể mách cho bà một người có thể thông hiểu vấn đề - Joe Dyer. Joe đâu rồi?”
Vị khoa trưởng nhìn quanh.
“ Ồ, kia rồi.” Ông nói, gật đầu về hướng vị linh mục kia, ông ta đang đứng ở bàn thức ăn quay lưng lại phía họ. Ông đang lấy một phần ăn đầy tú hụ nữa vào khay.
“ Ê, Joe?”
Vị linh mục trẻ quay lại, mặt lãnh đạm. “ Ngài gọi ạ? Thưa vị khoa trưởng vĩ đại?’
Vị khoa trưởng đưa mấy ngón tay ra hiệu gọi ông ta đến.
“ Được rồi, xin đợi cho một giây thôi”, Dyer trả lời, xong lại tiếp tục tấn công món cà ri và rau trộn.
“ Đó là một con quỷ duy nhất trong hàng ngủ linh mục”, vị khoa trưởng nói với vẻ âu yếm. Ông nhắp ly rượu. “ Tuần rồi đã xảy ra hai vụ phạm thánh tại Thánh đường Ba Ngôi. Jo cho biết có đôi điều trong một vụ khiến ông ta nhớ đến vài chi tiết họ thường làm trong Lễ Đen, cho nên tôi hy vọng rằng ông ấy sẽ biết đôi nét về vấn đề này.”
“ Chuyện gì xảy ra ở Thánh đường đó vậy?” Mary Jo Perrin hỏi.
“ Chà, điều đó thật quá sức ghê tởm.” vị linh mục đáp.
“ Cứ nói, ta đã ăn xong buổi cả rồi.”
“ Thôi cho tôi xin, nó quá quắt lắm.” Ông ngần ngừ.
“ Thì cứ nói đi!”
“ Vậy ra bà không đọc được ý nghĩ của tôi sao, hở Mary Jo?” Ông hỏi bà.
“ Ồ được chứ”, bà ta đáp. “ Có điều tôi nghĩ mình không xứng đáng được thâm nhập vào vị thánh của các Vị Thánh ấy!” Bà cười khúc khích.
“ Vâng, điều ấy thật hết sức tởm lợm,” vị khoa trưởng bắt đầu.
Ông thuật lại mấy vụ phạm thánh đó. Trong vụ thứ nhất, ông bõ già coi nhà thờ đó đã khám phá ra một bãi phân người lù lù trên khăn phủ bàn thờ, ngay trước tủ đựng bánh thánh.
“ Chà, thưc là đáng kinh tởm.” Bà Perrin nhăn mặt.
“ Hừ, vụ thứ hai còn tồi tệ hơn nũa,” vị khoa trưởng nhận xét, rồi bằng động tác gián tiếp và một hai uyển ngữ, không giải thích thế nào người ta đã tìm thấy một chiếc dương vật to tướng nặn bằng đất sét được gắn chặt vào tượng Chúa Giê-su trên bàn thờ bên cánh trái.”
“ Đủ lợm giọng rồi chứ?”. Ông kết thúc.
Chris nhận thấy Mary Jo có vẻ băn khoăn thực sự lúc bà ta nói: “ Ôi, bây giờ thế là đủ rồi. Tôi rất tiếc là đã nêu câu hỏi. Xin hãy chuyển sang đề tài khác hộ.”
“ Không, tôi đang say mê đây.” Chris nói.
“ Vâng, đã hẳn. Còn tôi là người rất đáng say mê.”
Đó là Cha Dyer. Ông quanh quẩn bên nàng với chiếc khay ăn. “ Xin nghe đây, cho tôi một phút thôi, tôi sẽ trở lại ngay. Tôi còn dở dang câu chuyện với vị phi hành gia ở đằng kia.”
“ Chẳng hạn như chuyện gì?” Vị khoa trưởng hỏi.
Cha Dyer nhướng đôi mắt trong vẻ phỏng đoán lạnh lùng. “ Cha có tin được chuyện”, ông hỏi, “một nhà truyền giáo đầu tiên trên mặt trăng không?”
Họ phá ra cười.
“ Cha quả là có kích thước vừa vặn đấy”. bà Perrin bảo. “Họ có thể xếp Cha ngồi gọn nơi đầu mũi phi thuyền.”
“ Không, có phải cho tôi đâu”, ông trịnh trọng đính chính lời bà, rồi quay sang vị khoa trưởng, ông giải thích. “Tôi cố thu xếp chỗ ấy cho Emory đấy.”
“ Đó là vị giám mục phụ trách kỷ luật trong trường đại học,” Dyer giải thích riêng cho hai người phụ nữ rõ.” Trên đó sẽ không có người nào và đó chính là điều ông ta thích, các bà thấy đó, ông ta là loại người thích tĩnh.”
“ Thế thì ông ta sẽ cải đạo cho ai đây?” bà Perrin hỏi.
“ Bà muốn nói gì vậy?” Ông thực sự bất bình với bà ta. “ Thì ông ta cải giáo cho các phi hành gia chứ còn ai. Chính thế. Tôi muốn nói đó chính là sở thích của ông ấy, các vị biết đó, chỉ một hoặc hai người thôi. Miễn đám đông. Chỉ một cặp thôi.”
Với một tia nhìn bất động, Dyer liếc về phía nhà phi hành.
“ Xin lỗi nhé,” ông ta nói, rồi bỏ đi.
“ Tôi thích ông ta”, bà Perrin bảo.
“ Tôi cũng vậy”, Chris tán thành. Rồi nàng quay sang vị khoa trưởng. “ Cha chưa kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà nhỏ kia,” nàng nhắc ông. “ Bí mật trọng đại chăng? Vị linh mục mà tôi thấy ở đó hoài là ai vậy? Cha biết, cái ông hơi đen đúa ấy? Cha có biết người ấy không?”
“ Cha Karras”, vị khoa trưởng thấp giọng, với nét hối tiếc.
“ Ông ta làm gì?”
“ Ông ta là một cố vấn”. Ông đặt ly rượu xuống, tay cứ xoay xoay cái chân ly. “ Đêm qua, ông ấy vừa bị một cú sốc khá phủ phàng. Tội nghiệp ông ta.”
“ Ủa, chuyện gì vậy?” Chris hỏi với một vẻ quan tâm bất ngờ.
“ Mẹ ông ta qua đời.”
Chris cảm thấy chan chứa một nỗi đau đớn thương cảm mà nàng không sao giải thích nổi. “ Thật đáng thương tâm” nàng nói.
“ Ông ta có vẻ bị một đòn khá nặng”, vị tu sĩ Dòng Tên trở lại câu chuyện. “ Bà cụ sống một mình, và tôi đoán chắc bà phải chết đến hai ngày rồi người ta mới khám phá ra.”
“ Thật kinh khủng”, bà Perrin thì thầm.
“ Ai tìm ra bà ?” Chris hỏi một cách nghiêm túc.
“ Người chủ nhiệm tòa chung cư bà ở. Tôi nghĩ dám đến tận bây giờ người ta cũng chưa tìm thấy bà nếu như…hừ, nếu như mấy người hàng xóm sát nách không than phiền vì bà cứ mở ra-đi-ô suốt ngày đêm.”
“ Thật buồn thảm.” Chris thì thầm.
“ Xin bà chủ thứ lỗi.”
Nàng ngước lên nhìn Karl. Anh ta bưng một khay đầy những ly và các thứ rượu mạnh.
“ Được rồi, anh cứ để xuống đó đi, Karl, thế được rồi.”
Chris thích thân chinh hầu rượu cho các khách khứa của mình. Nàng cảm thấy cử chỉ đó làm tăng vẻ thân mật mà nếu không có thì lại thành ra thiếu.
“ Nào, ta xem, để tôi phục vụ hai vị trước tiên”, nàng bảo vị khoa trưởng và bà Perrin, rồi rót rượu mời họ. Sau đó, nàng di chuyển quanh phòng, hỏi mọi người dùng gì rồi đi lấy rượu đến cho từng vị khách, và đến lúc nàng mời xong được mấy tuần rượu rồi thì các nhóm khách khứa lại tản ra, tụ thành những nhóm mới, ngọai trừ có Dyer và người phi hành gia thì lại có vẻ còn gắn bó hơn trước. “ Không, thực ra tôi không phải là một linh mục,” Chris nghe thấy Dyer long trọng nói thế, tay ông quàng lên đôi vai cứ rung bần bật lên vì cười của nhà phi hành. “ Thực tế tôi là một thầy ra-bi Do Thái giáo cực kỳ cấp tiến.” Ít lâu sau đó, nàng lại nghe lỏm được Dyer chất vấn nhà phi hành: “ Không gian là gì?” và lúc nhà phi hành nhún vai bảo rằng thực sự ông không biết, Cha Dyer cau mày nhìn ông chăm chú và bảo “Ông cần phải biết.”
Lúc Chris đang đứng cạnh Ellen Cleary, ôn lại chuổi ngày ở Mascova, chợt nàng nghe một giọng the thé quen thuộc vang lên giận dữ từ phía nhà bếp.
Ôi lạy Chúa! Lại Burke rồi!
Ông đang văng tục với ai đó.
Chris cáo lỗi và đi ngay xuống bếp, gặp Dennings đang xỉ vả Karl dữ dội, còn Sharon thì cố can gián ông một cách vô ích.
“ Burke”, Chris kêu lên. “ Thôi đi.”
Nhà đạo diễn cứ tiếp tục giận sùi bọt mép, còn Karl lặng thinh đứng khoanh tay tựa nơi bồn rửa chén với vẻ phớt tỉnh, mắt dán chặt lấy Dennings không chút chao đảo.
“ Karl” Chris quát. “ Anh có đi ra ngay không? Đi ra! Anh không thấy ông ta như thế nào đó sao?”
Nhưng người đàn ông Thụy Sĩ đó không hề nhúc nhích mãi đến khi Chris phải đẩy anh ta ra cửa.
“ Đồ con heo quốc xã!” Dennings hét tướng sau lưng anh ta. Rồi ông ta ân cần quay lại Chris, xoa hai tay vào nhau. “ Ăn tráng miệng gì đây?” ông hỏi nhỏ nhẽ.
“ Tráng miệng à!” Chris đấm thùm thụp ức bàn tay lên chân mày mình.
“ Chà, tôi đói rồi đây,” ông ta rên rỉ.
Chris quay sang Sharon. “Cho anh ta ăn đi! Tôi còn phải đi lôi bé Regan lên giường ngủ. Còn Burke, tôi xin anh,” nàng năn nỉ nhà đạo diễn. “ Anh hãy vui lòng cư xử coi cho được một chút! Có các linh mục ngòai đó!” Nàng chỉ.
Đôi mắt ông căng lại trong môt vẻ chú ý bất ngờ và hình như rất thật. “ Ủa, cô cũng để ý đến điều đó sao?” Ông hỏi không một chút ma mãnh.
Chris rời bếp đi xuống ngó Regan ở phòng giải trí dưới hầm, cô bé suốt ngày ở dưới đó. Nàng bắt gặp con đang chơi cầu cơ. Trông nó có vẻ sưng sỉa, lãng đãng, xa cách. Chà, ít ra thì nó cũng không hung hăng háo chiến. Chris suy nghĩ rồi hy vọng sẽ khuây khỏa được con, nàng đưa nó đến phòng khách, và bắt đầu giới thiệu nó với tân khách.
“ Ồ, cháu bé thật đáng yêu !”Vợ ông thượng nghị sĩ nói.
Regan cư xử hòa nhã một cách khác thường, chỉ trừ lúc đến bên cạnh bà Perrin, nó không hề nói mà cũng không chịu bắt tay bà. Nhưng bà tiên tri lấy đó làm một chuyện đùa vui.
“ Nó biết tôi là đồ giả,” bà nheo mắt với Chris. Nhưng sau đó, với một vẻ dò xét đầy hiếu kỳ, bà đưa tay ra nắm lấy bàn tay Regan và bóp khẽ, như thể bắt mạch. Regan giật phắt tay ra ngay, gườm gườm nhìn bà một cách hung hiểm.
“ Ôi, trời ạ! Con bé chắc phải mệt mỏi lắm.” Bà Perrin thản nhiên nói, tuy nhiên bà cứ tiếp tục nhìn Regan chăm chăm với vẻ dò xét, với nổi băn khoăn không giải thích được.
“ Con bé hơi khó ở,” Chris thầm thì biện bạch. Nàng nhìn xuống Regan. “ Có phải không con của mẹ?”
Regan không trả lời. Nó cứ nhìn xuống sàn nhà.
Chỉ còn thiếu ông thượng nghị sĩ và Robert, con trai của bà Perrin, là Regan chưa được giới thiệu, nhưng Chris nghĩ tốt hơn hết là cho qua luôn. Nàng dắt Regan lên phòng ngủ và ủ con vào giường.
“ Con nghĩ là con sẽ ngủ được chứ?” Chris hỏi.
“ Con không biết nữa.” Nó trả lời lơ mơ. Nó xoay người nhìn chăm chăm lên vách với vẻ xa vắng.
“ Con có muốn mẹ đọc sách cho con nghe một lát không?”
Cô bé lắc đầu.
“ Thôi được. Cố ngủ đi nhé!”
Nàng cuối xuống hôn con, rồi bước ra cửa, tắt đèn.
“ Ngủ ngoan, bé con.”
Chris vừa dợm bước ra khỏi cửa thì Regan kêu nàng thật khẽ:
“ Mẹ à, con có làm sao không?”
Bị ám ảnh quá sức. Giọng nói của con bé thật tuyệt vọng. Thật không cân xứng với tình trạng của nó. Trong thóang chốc, người mẹ cảm thấy run rẩy và bối rối. Nhưng nhanh chóng, nàng trấn tĩnh lại được.
“ Nào, như mẹ đã nói với con, đó chỉ là vấn đề thần kinh thôi con ạ. Con chỉ cần uống mấy viên thuốc kia trong hai tuần lễ là lại khỏe như sáo ấy thôi, mẹ nghĩ thế. Bây giờ thì hãy cố ngủ đi, được chứ?”
Không một tiếng trả lời. Chris chờ đợi.
“ Được chứ?” nàng nhắc lại.
“ Được ạ”. Regan thì thào.
Chris chợt nhận ra cánh tay nàng nổi gai ốc. Nàng chà xát cánh tay. Quái lạ! Sao phòng này bỗng dưng lạnh quá. Gió ở đâu lùa vào được nhỉ? Nàng bước lại cửa sổ, rà dọc theo các thành cửa. Không thấy gì.
Nàng quay sang Regan. “ Con đủ ấm chưa, em bé?”
Không một lời đáp.
Chris đến bên giường. “ Regan, con ngủ rồi à?” Nàng thì thầm.
Hai mắt con bé nhắm nghiền. Hơi thở sâu lắng.
Chris rón rén rời phòng.
Từ hành lang, nàng đã nghe thấy tiếng hát, và lúc bước xuống thang gác, nàng hoan hỉ thấy vị linh mục trẻ Dyer đang chơi dương cầm cạnh cánh cửa sổ lớn, trong phòng khách, và đang hướng dẫn một nhóm vây quanh ông hát một bản vui nhộn. Lúc nàng bước vào phòng khách, họ vừa hát xong bản “ Cho đến khi chúng ta trùng phùng.”
Chris đang tiến đến tham gia vào nhóm đó thì bị thượng nghị sĩ và vợ của ông ta chặn ngay lại, hai người đã cầm áo khóac trên tay. Trông họ có vẻ bực bội.
“ Ông bà định về sớm thế sao?” Chris hỏi.
“ Tôi rất lấy làm tiếc, chúng tôi vừa trải qua một buổi tối thật tuyệt diệu,” vị thượng nghị sĩ thổ lộ. “ Nhưng không may Martha đây lại bị nhức đầu.”
“ Ồ, thật rất tiếc, nhưng bỗng dưng tôi thấy khó ở quá,” vợ ông nghị sĩ than thở. “ Chris tha lỗi cho chúng tôi nhé? Thật bữa tiệc hết sức là tuyệt vời.”
“ Tôi rất lấy làm tiếc là ông bà phải ra về,” Chris nói.
Nàng tiễn họ ra cửa và kịp nghe Cha Dyer ở phía sau đang hỏi “Có ai khác thuộc lời bài “Tôi dám cuộc rằng lúc này em đang hối tiếc đây, bông hồng Tokyo à ” ?”
Nàng chào, chúc họ ngủ ngon. Lúc nàng quay lại phòng khách, Sharon từ trong văn phòng khẽ bước ra.
“ Burke đâu rồi?” Chris hỏi cô gái.
“ Trong đó”, Sharon trả lời với một cái gật đầu về phía văn phòng. “ Ông ta đang ngủ cho giả rượu. Này, vừa rồi ông thượng nghị sĩ nói gì với chị vậy? Có nói gì không?”
“ Cô muốn nói gì vậy?” Chris hỏi. “ Họ chỉ ra về thôi.”
“ Chà, em cũng đóan là thế.”
“ Sharon, cô định nói gì vậy?”
“ Ồ, Burke ấy mà,” Sharon thở dài. Bằng giọng nói dè dặt, cô gái thuật lại cuộc gặp gỡ giữa vị nghị sĩ và nhà đạo diễn. Dennings đã đưa ra một nhận xét với ông nghị sĩ, lúc đi ngang qua ông này, Sharon kể, rằng hình như có “ một sợi lông mu lạ hoắc đang bơi trong ly gin của tôi nè”. Sau đó, ông quay sang vị thượng nghị sĩ và nói tiếp bằng một giọng điệu thống trách mơ hồ, “tôi chưa bao giờ thấy cái đó trong đời, còn ông?”
Chris cười khúc khích lúc Sharon thuật tiếp thế nào cái phản ứng bối rối của vị thượng nghị sĩ đã châm ngòi cho một cơn phẩn uất rất hào hiệp của Dennings, trong đó ông ta bày tỏ “ lòng biết ơn vô hạn” đối với sự tồn tại của các chính trị gia, mà nếu không có họ “người ta không có cách nào phân biệt được các chính khách là ai nữa, ông thấy đó.”
Lúc ông thượng nghị sĩ cáu kỉnh bỏ đi, vị đạo diễn quay sang Sharon hãnh diện khoe. “ Đó, cô thấy chưa? Tôi có chửi rủa, thề thốt gì đâu. Cô có cho là tôi đã cư xử khá ư là từ tốn đấy không?”
Chris không sao nín cười được. “ Ôi thôi, cứ để cho ông ấy ngủ. Nhưng cô cứ ở lại văn phòng, nhỡ ông ta có thức dậy. Không phiền chứ?”
“ Không hề,” Sharon bước vào văn phòng.
Trong phòng khách, Mary Jo Perrin ngồi một mình, trầm tư trên một chiếc ghế ở góc nhà. Trông bà có dáng cau có, bứt rứt. Chris định đến với bà, nhưng đổi ý lúc có một người hàng xóm lảng về góc đó.
Thế là nàng bước về phía dương cầm. Dyer rời phím đàn ngước lên đón nàng. “ Vâng, thưa bà chủ trẻ, chúng tôi làm gì được cho bà hôm nay đây? Chúng tôi đang dự định tổ chức một tuần cầu kinh làm việc phúc trong chín ngày thật đặc biệt đây.”
Chris cười rinh rích với mấy người khác. “ Tôi mới được nghe một tuy –dô riêng về những điều diễn tiến trong Lễ Đen”, nàng nói. “ Cha Wagner cho biết Cha là một chuyện gia về vấn đề ấy.”
Cả nhóm vây quanh dương cầm đều lặng yên, lắng nghe.
“ Ồ, không có đâu,” Dyer nói, vừa chạm khẽ mấy phím đàn. “ Tại sao bà lại đề cập đến Lễ Đen?” Ông trầm mặc hỏi nàng.
“ Ồ, thì mấy người chúng tôi mới nói về …chà…về những chuyện người ta khám phá ở Thánh đường Ba Ngôi, và…”
“ Này, bà định nói đến những vụ phạm thánh ấy chứ gì?” Dyer ngắt lời.
“ Kìa, phải có ai đó giải thích cho chúng tôi về chuyện gì xảy ra chứ,” nhà phi hành gia đòi hỏi.
“ Tôi nữa”, Ellen Cleary nói. “Tôi cũng mù tịt chuyện đó.”
“ Vâng, người ta đã khám phá ra vài vụ phạm thánh tại ngôi giáo đường cuối phố”, Dyer giải thích.
“ Chẳng hạn ra sao?” người phi hành gia hỏi.
“ Quên điều đó đi”, Cha Dyer khuyên ông ta. “ Ta chỉ nên biết đó là những điều rất tục tĩu, đồng ý chứ?”
“ Cha Wagner có cho biết rằng Cha đã kể với ông ấy là vụ này giống như những diễn tiến ở một cuộc Lễ Đen”, Chris nhắc nhở, “ và tôi rất thắc mắc là những gì đã diễn ra trong những vụ đó.”
“ Chà, thực sự tôi cũng chẳng biết được mấy nỗi”, ông ta phản kháng. “ Thực tế, hầu hết những gì tôi biết là do lời kể của một ông Jeb khác.”
“ Jeb là thế nào?”
“ Tên tắt của tu sĩ Hội Giê-su. Dòng Tên. Cha Karras đó là một nhà chuyên môn về những vấn đề này.”
Chris chợt cảnh giác. “ Có phải là vị linh mục đen đúa ở thánh đường Ba Ngôi đó không?”
“ Bà biết ông ấy ?” Cha Dyer hỏi.
“ Không, tôi chỉ mới nghe nói đến ông ta thôi.”
“ Vâng, tôi nghĩ ông ấy đã có lần viết sách nghiên cứu về đề tài ấy. Bà cũng biết đấy, thuần túy trên khía cạnh tâm thần học thôi.”
“ Cha muốn nói sao?” Chis hỏi.
“ Sao là sao? Bà hỏi sao là sao cơ chứ?”
“ Có phải Cha định bảo tôi rằng ông ấy là một nhà tâm thần học không?”
“ Ồ, dĩ nhiên rồi. Ủa, mà tôi xin lỗi. Tôi cứ ngỡ là bà đã biết rồi.”
“ Này, phải có ai đó nói cho tôi nghe chuyện gì mới được chứ?” Nhà phi hành gia nôn nóng thúc giục. “ Cái gì diễn ra ở Lễ Đen ?”
“ Cứ cho đó là những việc đồi trụy, xuyên tạc đi,” Dyer nhún vai. “ Những trò tục tĩu. Lăng mạ, báng bổ thần thánh. Đó là sự nhại lại Thánh lễ Mi-sa một cách độc ác. Tại cuộc lễ đó, thay vì thờ phụng Thiên Chúa, họ sùng bái quỷ Satan và đôi khi còn đem con người ra làm vật hy sinh để hiến tế nữa.”
Ellen Cleary lắc đầu, bỏ đi chỗ khác. “ Câu chuyện này thật kinh khủng quá sức tôi!” bà mỉm cười yếu ớt.
Chris không để ý đến bà ta. Vị khoa trưởng dự vào nhóm một các kín đáo. “ Nhưng làm sao Cha biết được điều ấy?” Nàng hỏi vị linh mục trẻ. “ Thậm chí nếu Lễ Đen là chuyện có thật đi nữa, ai dám nói là có những gì diễn ra trong nghi lễ đó?”
“ Vâng, tôi cho rằng người ta đã biết hầu hết những điều đó.” Dyer trả lời. “ Căn cứ trên những lời khai của những kẻ tham dự bị bắt giữ.”
“ Ôi chào,” vị khoa trưởng chen vào. “ Mấy lời cung khai đó thật vô giá trị, Joe ạ, họ bị tra tấn mà.”
“ Không đâu, chỉ những kẻ nào ngoan cố xấc xược mới bị thôi”, Dyer lễ phép nói. Một tràng cười hơi bối rối vang lên. Vị khoa trưởng nhìn đồng hồ tay.
‘ Thôi, chắc tôi phải xin kiếu đây,” ông bảo Chris. “ Tôi phải làm lễ sáu giờ tại nhà nguyện Dahlgren.” Sau đó, đôi mắt linh mục Dyer chuyển hướng về một điểm ở trong phòng, phía sau Chris, và ông đột ngột tỉnh hẳn rượu. “ Này, tôi nghĩ là chúng ta đang có một vị khách đây, thưa bà MacNeil.” Ông bắt đầu lưu ý nàng.
Chris quay lại, nàng há hốc mồm khi trông thấy Regan trong chiếc áo ngủ, đang đái xối xả xuống tấm thảm trải. Nhìn chòng chọc nhà du hành, cô bé phát lên một giọng nói vô hồn: “ Ông sắp chết ở trên đó.”
“ Ôi, Chúa ôi!” Chris đau đớn kêu lên, xông đến bên con gái. “ Ôi chúa ơi, bé con của mẹ, nào, nào, đi với mẹ nào!’
Nàng nắm hai tay Regan đưa nhanh con đi, vừa quay lại lúng túng xin lỗi nhà phi hành đang xám xanh mặt mày. “ Ôi, tôi xin lỗi. Con bé bị đau yếu, hẳn là nó đi trong khi đang ngủ đây, bệnh mộng du! Cháu nó không còn biết là nó đang làm gì nữa.”
“ Thôi, có lẽ ta nên về đi.” Nàng nghe Dyer bảo một người nào đó.
“ Không, không, xin cứ ở lại”, Chris phản đối, ngóai lại sau trong chốc lát. “ Xin vui lòng ở lại cho. Mọi sự ổn cả. Tôi sẽ quay lại ngay thôi.”
Chris dừng lại ở bếp, dặn Willie lo gội tấm thảm trước khi vết dơ vô phương tẩy xóa, rồi nàng dìu Regan lên thang gác, đến tận phòng ngủ của nó, tắm gội và thay áo khác cho nó. “ Cưng ạ, tại sao con lại nói năng như thế?” Chris hỏi con dồn dập, nhưng Regan hình như không hiểu gì và lẩm bẩm những điều không ăn nhập gì đến câu chuyện vừa rồi. Đôi mắt con bé trống rỗng u ám.
Chris ủ con vào giường và gần như lập tức, Regan có vẻ ngủ say. Chris chờ đợi một lúc, lắng nghe tiếng thở của con. Rồi nàng rời phòng.
Tại chân cầu thang, nàng gặp Sharon và người đạo diễn phụ trách đơn vị hai đang dìu Dennings ra khỏi căn phòng. Họ đã gọi tắc-xi và chuẩn bị đưa ông về phòng của ông ở công viên Sharaton.
“ Cứ bình tĩnh”, Chris khuyên họ lúc rời khỏi ngôi nhà, kẹp Dennings ở giữa.
Chỉ hơi tỉnh táo, nhà đạo diễn vọt miệng, “Ông đ… vào”, rồi trôi vào cõi mông muội và lọt thỏm vào chiếc tắc xi đang đợi sẳn.
Chris quay lại phòng khách. Những người còn lại bày tỏ sự thương cảm lúc nàng trình bày sơ lược về bệnh tình của bé Regan. Lúc nàng kể đến những tiếng gõ và những hiện tượng gây chú ý khác, bà Perrin nhìn nàng đăm đăm, chăm chú. Có lúc Chris nhìn bà, mong bà bình luận, nhưng bà không nói gì cả, nên Chris lại tiếp tục.
“ Cô bé có hay đi lại trong khi ngủ thường không?” Dyer hỏi.
“ Không, đêm nay là lần đầu tiên. Hay ít nhất cũng là lần đầu tiên mà tôi biết được, cho nên tôi đóan đây là chứng tăng vận động, cha có nghĩ thế không?”
“Chà, thực sự tôi cũng không được rõ,” vị linh mục đáp. “ Tôi nghe nói chứng mộng du thường xảy ra ở lứa tuổi dậy thì, ngọai trừ…” Nói đến đây ông nhún vai rồi bỏ lửng. “ Tôi cũng không biết nữa. Bà nên hỏi bác sĩ thì tốt hơn.”
Trong suốt phần còn lại của cuộc thảo luận, bà Perrin cứ ngồi lặng yên nhìn ngọn lửa nhảy múa trong phòng khách. Cũng ủ dột như thế. Chris nhận thấy, là nhà phi hành, người mà theo chương trình dự định, sẽ lên mặt trăng nội trong năm đó. Ông nhìn đăm đăm cốc rượu, thỉnh thỏang lầu bầu mấy tiếng ngụ ý rất quan tâm và chăm chú đến đề tài. Hầu như do sự mặc nhiên thông cảm, không ai đề cập gì đến điều Regan đã nói với ông ta.
“ Chà, đã đến giờ làm lễ của tôi rồi”, rốt cuộc, vị khoa trưởng lên tiếng, đứng lên để cáo từ.
Thế là mọi người cùng đứng lên cáo biệt. Họ ngỏ lời cám ơn về bữa tiệc và về buổi tối hôm ấy.
Ở cửa, Cha Dyer cầm tay Chris và sốt sắng thăm dò đôi mắt nàng. “ Bà nghĩ xem có vai nào trong các cuốn phim của bà thích hợp với một linh mục rất lùn, biết chơi đàn dương cầm không?’ Ông hỏi.
“ Ồ, nếu không có đi nữa” - Chris cười – “thì tôi cũng cho viết riêng một kịch bản dành cho Cha đóng, thưa Cha.”
“ Tôi đang nghĩ đến em trai tôi kia.” Ông trang trọng bảo nàng.
“ Cái ông này!” Nàng lại cười, rồi ngỏ với ông lời chúc ngủ ngon thật trìu mến và nồng hậu.
Người cáo biệt cuối cùng là Mary Jo Perrin và con trai bà. Chris lưu họ lại ở cửa, tán gẩu cho vui. Nàng có cảm tưởng là Mary đang suy nghĩ đến một điều gì đó, nhưng muốn dấu kín. Để cầm chân bà, Chris hỏi ý kiến bà về việc Regan tiếp tục chơi cầu cơ và sự ám ảnh không rời về Đại Úy Howdy. “ Theo chị thì việc ấy có tai hại gì không?” nàng hỏi.
Những tưởng bà ta sẽ điệu bộ gạt qua điều đó cho phải phép, Chris ngạc nhiên xiết bao khi thấy bà Perrin nhíu mày và nhìn xuống bậc cấp ở cửa. Có vẻ bà ta đang suy nghĩ, và vẫn trong dáng vẻ ấy, bà bước ra ngòai, đến với cậu con trai đang đợi ngòai cổng.
Rốt cuộc, lúc bà ngẩng lên, thì đôi mắt bà đã chìm trong bóng tối.
“ Nếu là tôi, tôi sẽ dẹp ngay cái bàn cơ khỏi chỗ con bé.” Bà lặng lẽ nói.
Bà trao chìa khóa công tắc xe cho con trai. “ Bobby, con mở máy đi”, bà bảo con. “ Trời lạnh quá.”
Cậu trai cầm chìa khóa, bảo với Chris rằng cậu rất yêu thích nàng trong mọi phim nàng đóng, rồi e lệ bước ra chiếc xe Mustang tả tơi, cũ mèm đậu dưới đường.
Đôi mắt bà Perrin vẫn ở trong bóng tối.
“ Tôi không biết chị nghĩ gì về tôi”, bà nói thong thả. “ Nhiều kẻ gán ghép tôi với thuật siêu linh, đồng bóng. Điều ấy sai. Đúng, tôi nghĩ tôi có một năng khiếu.” Bà nhỏ nhẹ nói tiếp. “ Nhưng đó không phải là một cái gì sâu kín, huyền bí cả. Thực vậy, đối với tôi điều ấy có vẻ tự nhiên, hết sức tự nhiên thôi. Là một người công giáo, tôi tin rằng tất cả chúng ta đều dính chân trong cả hai thế giới. Cái chân mà chúng ta ý thức được là thời gian. Nhưng thỉnh thỏang, một kẻ kỳ dị đồng bóng như tôi lại thấy được một tia lóe lên từ cái chân kia, và cái chân đó, tôi nghĩ… là cõi vĩnh cửu. Vâng, sự vĩnh cửu không có thời gian. Ở đó tương lai chính là hiện tại. Do đó, đôi khi, lúc mà tôi cảm thấy được cái chân kia, thì tôi tin rằng mình phải thấy được tương lai. Ai mà biết được. Có lẽ là không. Có lẽ tất cả điều đó chỉ là chuyện trùng hợp đó thôi.” Bà nhún vai. “ Nhưng tôi vẫn nghĩ là tôi thấy được. Và nếu sự thể là như thế, thì tôi vẫn cho rằng điều đó thật tự nhiên, chị thấy đó. Nhưng bây giờ, điều huyền bí…” bà dừng lại, chọn lọc ngôn từ. “ Điều huyền bí là một cái gì khác hẳn. Tôi không dính líu gì đến điều ấy. Tôi nghĩ, đùa giỡn với chuyện ấy có thể là nguy hiểm. Điều đó gồm cả việc chơi trò cầu cơ nữa.”
Cho đến lúc đó, Chris vẫn nghĩ bà ta là một phụ nũ cực kỳ thông minh. Thế mà một cái gì đó nơi cử chỉ của bà ta bây giờ lại băn khoăn đến điều. Nàng cảm thấy có một điềm gở rởn gai ốc mà nàng cố xua đi.
“ Thôi mà, Mary Josephine”. Chris mỉm cười. “ Chị không biết mấy cái bàn cơ ấy hoạt động ra sao ư? Nó chả là cái gì khác hơn là tiềm thức của con người, thế thôi.”
“ Vâng, có lẽ thế,” bà trả lời lặng lẽ. “ Có lẽ thế. Có thể tất cả chỉ là chuyện ám thị. Nhưng hết thảy những chuyện tôi được nghe về các buổi cầu cơ, hết thảy, dường như bao giờ cũng trực chỉ đến việc mở ra một cánh cửa vào một cõi nào đó. Không, không phải vào thế giới của hồn linh đâu, có lẽ thế, chị không tin điều đó đâu. Thế thì, có lẽ là một cánh cửa dẫn vào một cõi mà chị gọi là tiềm thức. Tôi không biết. Tôi chỉ biết là những điều ấy dường như có xảy ra. và bà chị thân mến ạ, trên khắp thế giới này, không thiếu chi những nhà thương điên đầy ắp những kẻ đùa giỡn với trò thần bí ấy đâu.”
“ Chị đùa chăng?”
Có một khoảng khắc yên lặng. Rồi giọng nói nhỏ nhẽ đó lại cất lên đều đều trong đêm tối. “ Chris ạ, có một gia đình ở Bavaria, vào năm 1921. Tôi không nhớ rõ tên, chỉ nhớ đó là một gia đình gồm mười một người. Chị có thể kiểm chứng điều đó trên báo chí. Chỉ một thời gian ngắn sau buổi cầu cơ, cả nhà đó đều hóa điên. Tất cả. Đủ mười một người. Họ hè nhau vào đốt nhà chơi, rồi khi đã đốt hết mọi đồ đạc gia dụng, họ bắt đầu ra tay trên đứa hài nhi mới ba tháng tuổi, con của người con gái thứ trong gia đình. Chính lúc đó hàng xóm đã can thiệp và chặn đứng họ lại.”
“ Toàn thể gia đình đó,” bà kết thúc, “đều được đưa vào nhà thương điên.”
“ Ôi trời.” Chris thở mạnh, liên tưởng đến chàng Đại úy Howdy. Lúc này, gã đã mang một màu sắc đe dọa. Bệnh tâm thần. Cái gì thế nhỉ? Một cái gì đó rồi. “ Chắc tôi cần phải mang cháu đến khám một bác sĩ tâm thần.”
“ Ôi lạy Trời,” bà Perrin nhô ra ngoài sáng, “ chị để ý đến lời tôi làm gì. Chỉ cần nghe theo bác sĩ của chị là đủ.” Giọng nói của bà cố chuyên chở một sự trấn an, khích lệ không mấy sức thuyết phục. “ Tôi rất sở trường về chuyện tương lai’ – Bà Perrin mỉm cười – “ Nhưng còn chuyện hiện tại thì tôi hoàn toàn bó tay.” bà sờ soạng trong ví. “ Ủa, cặp kính tôi đâu rồi kìa? Đó, chị thấy chưa? Tôi để lạc chúng đâu rồi. À, chúng ngay đây rồi.”
Bà tìm thấy cặp kính trong túi áo khoác. “ Ngôi nhà duyên dáng thật,” bà tấm tắc lúc đã mang kính vào và ngước nhìn lên chính diện ngôi nhà. “ Nó cho ta một cảm giác ấm cúng.”
“ Lạy Chúa, tôi nhẹ hẳn người đấy! Trong một giây khắc, tôi cứ ngỡ rằng chị sắp nói với tôi là ngôi nhà có ma đấy chứ!”
“ Bà Perrin cuối xuống nhìn nàng. “ Tại sao tôi lại phải nói với chị một điều như vậy chứ?”
Chris đang nghĩ đến một người bạn, một nữ diễn viên nổi danh ở Beverly Hills đã phải bán nhà vì cô ta cứ khăng khăng cho là nhà cô ta có một con yêu tinh trú ngụ. “ Tôi không biết nữa,” nàng cười uể oải. “ Chắc có lẽ vì chị là ai. Tôi nói đùa đấy thôi.”
“ Ngôi nhà thật lịch sự”. Bà Perrin trấn an nàng bằng một giọng điềm đạm. “ Chị biết không, trước kia, tôi có ở đây rồi, nhiều lần rồi.”
“ Thật sao?”
“ Thật, một vị đô đốc từng làm chủ nó, ông ta là bạn tôi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được thư của ông ấy. Tôi cũng không biết là thực ra tôi nhớ ông ta hay là nhớ ngôi nhà này nữa.” Bà mỉm cười. “ Nhưng có lẽ rồi chị còn mời tôi đến đây nữa mà.”
“ Ồ, Mary Jo, rất mong là chị sẽ trở lại đây. Thực tâm đó. Chị quả là một người đáng say mê.”
“ Ít ra tôi cũng là mẫu người dễ cau có, nóng nãy nhất mà chị được biết.”
“ Thôi đi. Nghe này, xin chị hãy gọi điện cho tôi. Chị vui lòng gọi điện cho tôi tuần tới nhé?”
“ Được thôi, tôi muốn được nghe tin tức con gái chị ra sao.”
“ Chị biết số rồi chứ?’
“ Vâng, có trong niên giám điện thoại ở nhà rồi.”
Có cái gì trật chìa vậy kìa? Nghe ra trong giọng nói của bà có nét gì đó hơi lạc điệu.
“ Thôi, chúc ngủ ngon,” bà Perrin chào, “ và một lần nữa, xin cảm ơn về một buổi tối tuyệt vời.” Trước khi Chris kịp đáp lời, bà đã bước nhanh xuống đường.
Chris nhìn bà mất một lúc, rồi nàng đóng cửa trước lại. Một nỗi rã rời chất ngất bủa chụp lấy nàng. Thật là một đêm khác thường! Nàng nghĩ.
Nàng bước vào phòng khách, đứng cạnh Willie lúc đó đang quỳ gối bên cạnh vệt nước tiểu. Chị ta đang dùng bàn chải đánh bóng lại lớp tuyết trên tấm thảm.
“ Tôi đã đổ dấm trắng lên.” Willie lẩm bẩm. “ Hai lần rồi.”
“ Ra không?”
“ Có lẽ bây giờ sẽ ra thôi,” Willie đáp. “ Tôi cũng chẳng biết nữa. Ta chờ xem.”
“ Không đâu, phải đợi đến lúc cái của thổ tả ấy nó khô đi rồi mới nói chắc được. Thôi, bây giờ hãy để yên đó đã, Willie, đi ngủ đi.”
“ Không, tôi phải làm cho xong cái đã.”
“ Thôi được, xin cảm ơn. Chúc ngủ ngon.”
“ Chúc bà ngủ ngon.”
Chris đăm đăm nhìn dãy cầu thang với những bậc thang chán chường.
“ Món cà ri tuyệt thật, Willie ạ. Ai cũng khoái.”
“ Vâng, xin cám ơn bà.”
--------------------
Chris nhìn chừng Regan, thấy con vẫn ngủ say. Thế rồi nàng nhớ đến bàn cơ. Nàng có nên giấu nó đi không? Vất nó đi! Chà Perrin quả rất cay cú khi bàn đến vụ đó. Tuy nhiên, Chris vẫn ý thức được rằng cái người bạn trong cõi tưởng tượng kia thật là bệnh hoạn và không lành mạnh chút nào. Ừ có lẽ ta nên vất quách nó đi.
Thế nhưng Chris vẫn còn do dự. Đứng bên giường nhìn Regan, nàng nhớ lại một vụ xảy ra lúc con gái nàng mới lên ba: vào cái đêm Howard quyết định là con bé đã lớn rồi, không thể cứ cho nó ôm bầu sữa mà ngủ nữa, mà con bé thì đã đâm quyến luyến bầu sữa không dứt ra được. Đêm đó, chồng nàng giằng bình sữa khỏi tay con bé, thế là Regan hét tướng lên đến bốn giờ sáng, rồi làm kinh suốt mấy ngày ròng rã. Bây giờ Chris cũng sợ một phản ứng tương tự. Cứ đợi đến khi ta tham khảo ý kiến một bác sĩ tâm thần đã. Hơn nữa, nàng nghĩ, chất Ritalin cũng chưa đủ thời gian tạo tác dụng.
Rốt rồi, nàng quyết định chờ xem.
Chris lui về phòng riêng, uể ỏai chui vào giường, và gần như lập tức, ngủ mê mệt. Rồi nàng bừng tỉnh trước tiếng thét hãi hùng, cuồng lọan ngay bên riềm ý thức nàng.
“ Mẹ ơi, đến đây, đến đây, con sợ quá !”
“ Ừ. mẹ đến đây, đến ngay đây, con !”
Chris chạy bay biến xuống hành lang, đến phòng ngủ của Regan. Có tiếng khóc thút thít. Tiếng kêu la. Những âm thanh giống như tiếng lò xo đệm giường.
“ Ôi, bé con của mẹ, có chuyện gì vậy?” Chris kêu lên lúc nàng vói tay bật đèn.
Ôi, lạy Chúa !
Regan nằm ngữa, căng cứng, mặt đẫm lệ, nhúm nhó vì hãi hùng, hai tay ghì chặt hai bên thành giường nhỏ.
“ Mẹ ơi, tại sao nó lại lắc?” Con bé kêu la. “ Bảo nó ngừng đi! Ôi, con sợ quá! Bảo nó ngừng đi! Mẹ ơi, làm ơn bảo nó ngừng đi mẹ!”
Chiếc nệm giường lắc lư dữ dội, tới lui.
QUỶ ÁM Nguyên tác: The Exorcist ( 4 – 5 )
Tác giả: William Peter Blatty
PHẦN II: TRÊN ĐẦU SÓNG NGỌN GIÓ
4.
Họ đưa bà tới nơi an nghĩ cuối cùng trong môt nghĩa trang mà các bia mộ phải kêu khóc vì không đủ chỗ thở.
Thánh lễ cũng trơ trọi như cuộc đời bà. Mấy người anh của bà từ Brooklyn tới. Ông chủ tiệm tạp hóa ở góc phố, kẻ vẫn bán chịu cho bà. Nhìn người ta ròng bà xuống cõi tối tăm của một thế giới không còn cửa sổ, Damien Karras khóc nức nở vì một nỗi buồn đau mà đã từ lâu ông đặt không đúng chỗ.
“ A, Dimmy, Dimmy…”
Một người cậu vòng tay quanh vai ông.
“ Đừng lo, bà cụ bây giờ đã ở thiên đàng rồi, Dimmy ạ, bà được hưởng ân phúc.”
Ôi Chúa, cầu cho điều ấy được nên! Chúa ơi! Tôi xin Ngài, cầu cho điều ấy được nên!
Họ đợi ngòai xe lúc ông còn lần lữa bên nấm mộ. Ông không chịu nỗi cái ý tưởng bỏ mẹ lại một mình.
Lúc ngồi xe đến ga Pensylvania, ông đã nghe mấy người cậu kể lể các bệnh tật của họ bằng một thứ Anh ngữ rặt giọng dân di cư, đứt khúc.
“ …chứng khí thũng…phải bỏ hút thuốc…năm ngóai, cậu súyt chết…cháu có biết không?”
Những cơn co giật vì giân dữ cứ chực bùng phát trên môi ông, nhưng ông trấn áp chúng xuống và cảm thấy xấu hổ. Ông nhìn ra cửa sổ, họ đang đi qua trạm Cứu tế Quốc nội, nơi mà những sáng chủ nhật giữa mùa đông tháng giá, mẹ ông thường đến lãnh sữa và những bị khoai tây, trong khi ông còn nằm trên giường; Sở Thú công viên trung tâm, nơi mà mùa hè bà thường bỏ ông lại đó chơi, còn bà thì đi xin ăn bên vòi phun trước quảng trường. Lúc ngang qua khách sạn, Karras bật khóc nức nở, rồi cố chận lại những hồi ức, ông lau lên sự ướt át của những niềm tiếc nuối nhói đau. Ông thắc mắc là tại sao tình yêu lại đợi cái khỏang khắc xa vời này, đợi cái khỏang khắc khi ông không cần phải sờ vào, khi những giới hạn của sự tiếp xúc và sự đầu hàng của con người đã thu nhỏ lại chỉ còn bằng cỡ của tấm thẻ in nội dung thánh lễ mà ông nhét trong ví: Để tưởng nhớ…
Ông biết. Nỗi đau thương này đã xưa cũ.
Ông đến Georgetown đúng giờ ăn tối, nhưng ông không buồn ăn. Ông bách bộ trong ngôi nhà nhỏ của mình. Các bạn hữu Dòng Tên đến thăm chia buồn. Họ lưu lại chốc lát, hứa giúp lời cầu nguyện.
Quá mười giờ đôi chút, Joe Dyer xuất hiện với một chai Scoth. Ông ta hãnh diện chưng ra: “ Chivas Regal đàng hòang đấy nhé!”
“ Cha lấy tiền đâu ra mà mua rượu vậy, thó ở hộp tiền bố thí chắc?”
“ Đừng có bậy bạ, làm thế là đi đứt lời phát nguyện nghèo khổ của tôi rồi còn gì.”
“ Thế thì ở đâu cha có rượu nào?”
Karras mỉm cười, lắc đầu lúc đi lấy mang lại một cái ly và một cái ca uống cà phê bằng thiếc. Ông rửa ly chén trong chiếc bồn rửa mặt nhỏ xíu ở phòng tắm và nói: “ Tôi tin cha.”
“ Tôi chưa hề thấy một đức tin nào lớn hơn thế.”
Karras cảm nhận một cú đau nhói quen thuộc. Ông cố xua nó đi và trở lại với Dyer lúc ấy đang ngồi trên chiếc giường con của ông, gỡ khăn chai rượu. Ông ngồi xuống cạnh bạn.
“ Cha muốn giải tội cho tôi bây giờ hay chốc nữa?”
“ Cứ rót đã”, Karras bảo, “ rồi chúng ta sẽ giải tội cho nhau.”
Dyer rót rõ nhiều vào ly, vào tách. “ Các vị viện trưởng đại học không nên uống rượu,” ông thì thầm. “ Làm thế sẽ tạo gương xấu. Tôi nghĩ là tôi đã cất hộ cho ông ấy khỏi cái chước cám dỗ kinh khủng đó.”
Karras nuốt rượu Scoth, nhưng không nuốt trôi nổi câu chuyện đó. Ông biết quá rõ cung cách của cha Viện trưởng. Một con người tế nhị và nhạy bén, ông luôn luôn ban cho bằng hình thức gián tiếp. Dyer đã đến, ông biết, với tư cách là một người bạn, nhưng cũng với tư cách sứ giả riêng của vị viện trưởng nữa. Cho nên Dyer xa xôi đề cập đến việc Karras cần phải được “nghĩ ngơi”, nhà tâm thần học Dòng Tên xem đó như một điềm lành cho tương lai và cảm thấy trong khoảnh khắc chứa chan nhẹ nhỏm.
Dyer rất tốt với ông, chọc cho ông cười, kể cho ông nghe về bữa tiệc tại nhà Chris MacNeil, cung cấp cho ông những giai thoại mới về Cha Giám thị phụ trách kỹ luật Dòng Tên. Ông ta uống rất ít, nhưng cứ liên tục rót đầy ly của Karras, và lúc ông cho là Karras đã đủ lịm vào giấc ngủ, ông đứng dậy khỏi giường, duỗi thẳng người Karras ra, còn ông ngồi xuống bàn giấy tiếp tục cà kê cho đến lúc mắt Karras ríu lại và lời lẽ cha chỉ còn là những tiếng lúng búng trong miệng.
Dyer đứng lên cởi giầy cho Karras. Ông tuột giày ra.
“ Bây giờ định ăn cắp giày của tôi đấy hả?” Karras lắp bắp, giọng nhừa nhựa.
“ Đâu có, tôi chỉ xem chỉ chân của cha để đoán hậu vận đấy chứ. Nào, bây giờ câm mồm lại và ngủ đi.”
“ Cha đúng là tên ăn trộm mèo Dòng Tên.”
Dyer cười khẽ rồi đắp lên người Karras chiếc áo khoác mà ông vừa lấy trong tủ quần áo. “ Nghe đây, người ta phải lo lắng về mấy cái hóa đơn thúc trả tiền ở cái trường đại học này. Còn tất cả các ông chỉ có mỗi việc lần chuỗi và cầu nguyện cho mấy tên hip–pi ở dưới phố Một đấy thôi.”
Karras không trả lời. Hơi thở ông đều và sâu. Dyer lặng lẽ ra cửa, tắt đèn.
“ Trộm cắp là một tội lỗi,” Karras lẩm bẩm trong cõi tối.
“ Lỗi tại tôi mọi đàng”, Dyer nói khẽ.
Ông chờ đợi giây lát, sau đó tin chắc là Karras đã ngủ say, ông rời ngôi nhà.
Nửa đêm, Karras thức giấc, mắt đẩm lệ. Ông vừa mơ thấy mẹ ông. Đứng bên cửa sổ cao bên trên Manhattan, ông trông thấy bà từ một ki-ốt xe điện ngầm ló mặt ra. Bà đứng trên lề đường với một chiếc túi đi chợ bằng giấy nâu, đang dáo dác tìm ông. Ông vẫy tay. Bà không trông thấy ông. Bà lang thang suốt con phố. Giữa dòng xe búyt, xe tải, đám đông xa lạ.. Bà đâm hỏang hốt. Karras phát điên lên, chạy ra đường vừa khóc vừa gọi tên mẹ vì không còn tìm thấy bà, vì ông hình dung ra bà đang lao đao, chới với giữa mê cung của những đường hầm ngầm dưới đất.
Ông đợi cho cơn nức nở lắng xuống, rồi mò mẫm tìm chai Scoth. Ông ngồi trên giường và uống trong bóng tối. Nước mắt ràn rụa. Chúng không chịu thôi. Điều này giống như ngày ông còn bé, cái nỗi đau thương này.
Ông nhớ lại một cú điện thọai của cậu ông.
“ Dimmy à, cái chứng chàm ngòai da ấy đã ảnh hưởng đến bộ óc của bà cụ. Bà không chịu để bác sĩ đến gần. Cứ la hét suốt. Nói chuyện cả với chiếc ra-đi-ô thổ tả ấy. Cậu nghĩ phải đưa bà đến Bellevue thôi, Dimmy ạ. Một bệnh viện thông thường người ta không chịu nổi đâu. Cậu đóan chỉ cần hai tháng là bà cụ lại khỏe như xưa, lúc đó chúng ta sẽ lãnh bà cụ ra. Ổn chứ? Nghe đây Jimmy, cậu cho cháu biết là các cậu đã thực hiện việc đó rồi. Họ chích cho bà một mũi rồi đưa bà đi bằng xe cứu thương sáng nay rồi. Các cậu không muốn làm phiền cháu, trừ phi có một cuộc họp giám định cần phải có mặt cháu để ký vài thứ giấy tờ. Bây giờ. Sao?...Bệnh viện tư à? Ai sẽ trả tiền đây, Dimmy. Cháu ư?”
Ông không còn nhớ là mình đã lăn ra ngủ.
Ông tỉnh dậy trong trạng thái tê lịm, với ký ức về sự mất mát nó đã hút cạn kiệt hết máu ở bao tử ông. Ông lọang chọang vào phòng tắm, tắm hoa sen, cạo mặt, mặc một chiếc áo dòng. Lúc đó là năm giờ ba mươi lăm phút. Ông mở khóa cửa vào Thánh đường Ba Ngôi, khóac áo lễ lên, rồi dâng lễ ở bàn thờ bên cánh trái.
“ Memento etiam…” Ông cầu nguyện với nỗi tuyệt vọng trống rỗng. Xin hãy nhớ kẻ đầy tớ ngài là Mary Karras…”
Trên cánh cửa tủ cất Bánh Thánh ông trông thấy khuôn mặt người nữ điều dưỡng ở phòng nhận bệnh viện Bllevue, nghe lại những tiếng thét từ căn phòng cách ly.
“ Ông là con trai bà cụ ạ?”
“ Vâng, tôi là Damien Karras.”
“ Chà, tôi không cách nào vào trong đó được. Bà ta đang lên cơn.”
Ông nhìn xuyên qua lỗ thông hơi vào căn phòng bít bùng với một bóng đèn trơ trọi treo trên trần, tường được lót bằng các vật liệu êm để chống gây thương tích, trần trụi, không bàn ghế, trừ một chiếc giường nhỏ mà bà đang mê sảng, điên lọan trên đó.
“…Chúng tôi cầu xin ngài hãy ban cho bà một nơi an nghỉ, đầy ánh sáng và sự bình yên…”
Lúc bà bắt gặp tia nhìn của ông, bà chợt lặng yên đưa đôi mắt bị ngáng trở về phía lỗ thông hơi.
“ Sao con lại làm điều này hở Dimmy? Sao vậy?”
Đôi mắt ấy còn nhu mì hơn mắt của chiên con.
“ Agnus Dei…” Ông lẩm nhẩm lúc cúi đầu và đấm ngực. Lúc ông nhắm mắt và cầm Bánh Thánh lên, ông trông thấy mẹ ông trong phòng định bệnh, tay bà chắp lại để vào lòng, nét mặt ngoan ngõan và bối rối lúc viên chức giám định giải thích cho bà nghe về báo cáo của bác sĩ tâm thần ở bệnh viện Bellevue.
“ Bà có hiểu điều đó không, Mary?”
Bà đã gật đầu, không hề mở miệng, họ đã tháo hàm răng giả của bà ra.
“ Sao, bà có ý kiến gì về điều đó không, Mary?”
Bà hãnh diện trả lời viên chức giám định.
“ Có con trai tôi đây phát biểu thay cho tôi.”
Một tiếng rên đau đớn thóat ra từ môi Karras lúc ông cúi đầu trên Bánh Thánh. Ông đấm ngực như thể ngực ông là thời gian, và lắp bắp, “ Domine, no sum dignus…Tôi chẳng xứng đáng…xin chỉ nói một lời thì linh hồn tôi sẽ được lành mạnh.”
Cưỡng lại mọi lý luận, cưỡng lại mọi kiến thức, ông cầu xin có một Đấng Nào Đó chịu lắng nghe lới cầu nguyện của ông.
Ông không nghĩ như vậy.
Sau Thánh lễ, ông trở về nhà, cố dỗ giấc ngủ. Không ăn thua gì.
Lúc gần trưa, một linh mục còn trẻ, ông chưa bao giờ gặp, bất thần đến. Ông ta gõ rồi nhìn vào cửa.
“ Cha bận ạ? Tôi gặp cha chốc lát được không?”
Trong ánh mắt đó là cả một gánh nặng bồn chồn, trong giọng nói kia là cả một lời thỉnh cầu níu kéo.
Trong thoáng chốc, Karras thấy ghét người khách này.
“ Mời vào”, Ông dịu dàng nói. Trong lòng bừng bừng giận dữ vì cái phần này của bản ngã ông nó đã làm cho ông lúng túng, bất an, cái phần mà ông không kiểm sóat nổi, cái phần nó nằm cuộn tròn trong ông như một sợi dây thừng, lúc nào cũng chực bùng ra không ai khiển, khi có tiếng ai đó kêu cầu giúp đỡ. Cái phần đó không chịu để ông yên. Ngay cả trong giấc ngủ. Bên những bến bờ của cõi mộng mơ ông, thường vẫn có một âm thanh nghe như một tiếng kêu ngắn, yếu mòn của ai đó đang gặp cơn bĩ cực. Cái âm thanh đó gần như không nghe thấy được từ xa. Luôn luôn là cái âm thanh đó. Hằng mấy phút sau khi thức giấc, ông thường cảm thấy bứt rứt về một nhiệm vụ nào đó chưa hòan tất.
Người tu sĩ trẻ cứ lóng ngóng, dao động, có vẻ rụt rè. Karras kiên nhẫn dẫn dắt ông ta. Mời thuốc lá, cà phê. Xong cố tạo ra một vẻ quan tâm lúc vị khách trẻ ảm đạm kia lần hồi bộc bạch một vấn đề quen thuộc: nỗi cô đơn khủng khiếp của đời tu sĩ.
Trong tất cả những nỗi u uẩn, xao xuyến mà cha Karras thường gặp trong cộng đồng này, đây là một vấn đề gần đây đã nổi cộm lên nhất. Bị cách ly hòan tòan với gia đình và phụ nữ, nhiều linh mục Dòng Tên đâm ra sợ cả việc bộc lộ tình cảm với các linh mục đồng liêu, sợ hình thành những tình bạn trìu mến và sâu đậm.
“ Chẳng hạn như tôi muốn khóac vai một người bạn khác, nhưng ngay lập tức, tôi lại sợ anh ta cho tôi là kẻ đồng tính luyến ái. Ý tôi muốn nói, cha có nghe tất cả những lý thuyết về biết bao nhiêu những chứng bệnh tiềm ẩn thường hút lấy giới tu hành. Cho nên đơn giản là tôi tránh làm việc ấy. Ngay cả việc đến phòng ai đó chỉ để nghe vài đĩa nhạc, tôi cũng không dám, kể cả trò chuyện hay hút thuốc với nhau. Không phải là tôi sợ gì anh ta , tôi chỉ ngại một nỗi là anh ta lại ngại tôi thôi.”
Karras cảm thấy gánh nặng lây dần từ người kia sang ông. Ông cứ để cho nó đến, cứ để cho người tu sĩ trẻ dốc tận can tràng. Karras biết thế nào ông ta cũng còn trở lại, trở lại nữa, ông ta cũng cảm thấy được khuây khỏa khỏi trũng cô đơn, thế nào ông ta cũng kết bạn với cha Karras và đến khi ông ta nhận ra được rằng ông đã làm điều đó không chút sợ sệt và nghi ngờ, có lẽ ông sẽ tiếp tục làm bạn với những linh mục khác nữa.
Nhà tâm thần học đâm ra mệt mỏi rã rời. Ông thấy mình lãng đãng trôi vào nỗi sầu muộn riêng tư. Ông liếc nhìn tấm lắc mà ai đó đã tặng ông dịp Nô-en năm ngóai, NGƯỜI ANH EM TÔI ĐAU KHỔ, TÔI CHIA XẺ NỖI ĐAU CỦA ANH, TÔI GẶP THIÊN CHÚA NƠI ANH, ông đọc. Một cuộc gặp gỡ bất thành, ông thống trách mình. Ông đã vẽ bàn đồ, vạch ra đường lối cho nỗi giày vò quặn thắt của anh em mình, vậy mà chưa bao giờ ông bước chân trên những nẻo đường đó, hoặc giả ông tin tưởng như vậy. Ông cho rằng niềm đau mà ông cảm thấy chính là niềm đau của riêng ông.
Rốt cuộc, vị khách nhìn đồng hồ tay. Đã đến giờ ăn trưa tại nhà ăn trường đại học. Ông khách đứng dậy, chuẩn bị cáo từ, sau đó dừng lại nhìn một cuốn tiểu thuyết thời thượng nằm trên bàn giấy của Karras.
“ Cha đã đọc nó chưa?”
Người khách lắc đầu. “ Thưa chưa. Có nên đọc không ạ?”
“ Tôi cũng không biết. Tôi vừa đọc xong và cũng không dám chắc là thật sự hiểu.” Karras nói dối.
Ông nhặt quyển sách lên trao cho khách.” Cha muốn, cứ cầm về đọc. Cha biết đấy, tôi rất muốn biết ý kiến của một người khác.”
“ Vâng, rất muốn”, vị tu sĩ trẻ vừa ngắm nghía chiếc bìa áo bọc ngòai sách đầy bụi, vừa nói. “ Tôi sẽ cố đọc xong và hòan lại cha trong hai ngày.’
Trông thần thái khách đã có vẻ tươi tỉnh hơn.
Lúc cánh cửa sắt “kịch” đóng lại sau lưng khách, Karras cảm thấy bình yên trong giây lát. Ông cầm quyển sách kinh lên bước ra sân, rồi cứ thong thả bách bộ trên sân và đọc kinh.
Vào xế trưa, ông lại tiếp một vị khách khác, vị linh mục chánh xứ Thánh đường Ba Ngôi, đã trọng tuổi. Vị linh mục này ngồi xuống ghế cạnh bàn giấy và ngỏ lời chia buồn về cái chết của mẹ Karras.
“ Hãy dâng hai Lễ cho bà cụ, Damien ạ, và một Thánh lễ cho chính cha.” Ông nói hơi khò khè với chút xíu hơi hướng phát âm của người Ái Nhĩ Lan nói tiếng Anh.
“ Rất đa tạ sự quan tâm của cha.”
“ Bà cụ niên kỷ bao nhiêu rồi?”
“ Bảy mươi.”
“ Thế là thọ lắm.”
Karras xoắn tia nhìn lên tấm thẻ thường đặt trên bàn thờ mà vị cha xứ đã mang theo mình. Đó là một trong ba tấm bìa cứng dùng trong Thánh lễ, được bọc plastic và có ghi một đọan kinh nguyện cho cha dâng lễ xướng. Nhà tâm thần học thắc mắc không hiểu vị khách của mình đang làm gì với tấm thẻ ấy.
“ Này, Damien, ta lại mới có thêm một vụ đó nữa ngày hôm nay đây. Cha biết rồi đó, xảy ra trong nhà thờ. Một vụ phạm thánh nữa.”
Một tượng Thánh nữ Đồng Trinh ở sau lưng nhà thờ đã bị sơn phết trông giống như một gái điếm, vị cha xứ thuật cho ông nghe. Sau đó, cha xứ trao tấm thẻ bàn thờ cho Karras. “ Còn cái này thì xảy ra vào buổi sáng sau khi cha đi New York. Thứ Bảy phải không? Đúng rồi, thứ Bảy. Này, cha hãy nhìn đây. Tôi vừa nói chuyện với một trung sĩ cảnh sát,và này… này, cha hãy nhìn thử tấm thẻ này xem. Damien.”
Lúc Karras xem xét tấm thẻ, vị cha xứ cắt nghĩa rằng có một kẻ nào đó đã đút một tờ giấy có chữ đánh mày vào giữa tấm thẻ nguyên bản và bìa bọc thẻ. Nội dung của bản thứ phẩm này, mặc dù có vài chỗ gạch bỏ và nhiều lỗi đánh máy, về căn bản được viết bằng một thứ tiếng la-tinh dễ hiểu và lưu lóat, mô tả bằng những chi tiết khêu gợi và sống động một cuộc tiếp xúc đồng tính luyến ái tưởng tượng giữa Thánh nữ Đòng Trinh Maria và Thánh nữ Marie Madeleine.
“ Thế đủ rồi, cha cũng không cần phải đọc hết.” Cha xứ nói, giật phắt lại tấm thẻ, như sợ nó gây ra tội lỗi. “ Đó là một thứ văn la-tinh trác tuyệt; tôi muốn nói là nó có một văn phong, một văn phong la-tinh của giáo hội. Chà, người trung sĩ cảnh sát cho biết ông ta có thảo luận với một nhà tâm lý học, và ông ta bảo rằng con người làm mọi việc này- hừ, rất có thể là một linh mục, cha biết đó, một linh mục vô cùng bệnh họan. Cha có nghĩ thế không ?”
Nhà tâm thần học cân nhắc giây lâu, rồi gật đầu. “ Vâng, vâng, có thể như thế lắm. Ông ta hành động như thế để phản kháng, có lẽ, đang lúc trong một trạng thái mộng du hòan tòan. Tôi cũng không biết nữa. Có thể lắm. Có lẽ là như vậy.’
“ Cha có nghĩ một kẻ nào đó không, Damien?”
“ Tôi không hiểu ý cha.”
“ Thế này đây, trước sau gì những kẻ nào đó cũng tìm đến cha, đúng không? Tôi muốn nói đến những kẻ bệnh họan đó, nếu quả thật có những kẻ như vậy trong khuôn viên trường đại học này. Cha có biết một kẻ nào giống như vậy không? Một kẻ mắc chứng bệnh lọai đó?”
“ Không, tôi không biết.”
“ Phải, tôi đã nghĩ là cha chẳng tiết lộ cho tôi biết đâu.”
“ Thưa cha, dù gì đi nữa, tôi cũng không biết gì cả. Chứng mộng du là một cách giải quyết một số tình huống xung đột có thể xảy ra, và hình thức giải quyết thường thấy thường là có tính cách tượng trưng. Do đó, thực sự là tôi không biết. Và nếu chính đó là một kẻ mắc chứng mộng du, thì có thể y đã hòan tòan quên hết những gì y làm, cho nên thậm chí chính bản thân y cũng không còn biết lối nào mà lần ra nữa.”
“ Còn nếu cha có trách nhiệm phải tiết lộ y ra thì sao?” Vị cha xứ láu lỉnh hỏi. Karras nhận thấy cha xứ cứ ngắt vào trái tai, một cử chỉ do thói quen mỗi khi ông cho rằng mình ranh ma lắm.
“ Quả thực tôi không biết,’ nhà tâm thần học nhắc lại.
“ Phải rồi, phải rồi, tôi đã nghĩ là có đời nào cha lại cho tôi biết đâu,” vị cha xứ đứng dậy bước ra phía cửa. “ Cha có biết là các cha giống như cái gì không? Giống hệt như các ông thầy tu ấy !” Ông ta phàn nàn.
Karras khẽ cười, còn vị cha xứ quay lại ném tấm thẻ bàn thờ lên bàn giấy. “ Tôi nghĩ là cha nên nghiên cứu cái này,” ông lầu bầu. “ Có thể cha sẽ khám phá ra một điều gì đó.”
Vị cha xứ đi ra cửa.
“ Họ đã kiểm tra vết dấu tay trên đó chưa ?” Karras hỏi.
Vị cha xứ dừng bước, khẽ quay lại. “ Hừ, tôi không tin tưởng gì chuyện đó. Vả lại, có phải là ta đang theo dõi một đối tượng hình sự nào đâu, đúng không? Đúng hơn, đó có lẽ chỉ là một giáo dân trong xứ đạo bị điên lọan đấy thôi. Cha nghĩ sao về điều ấy, hở Damien? Cha có nghĩ có thể đó là một người trong giáo xứ không? Cha biết không, tôi thì tôi nghĩ như vậy đó. Nhất định không phải là một linh mục nào cả, mà là một người trong giáo xứ thôi.” Ông ta kéo trái tai. “ Cha không nghĩ thế sao?”
“ Quả thật tôi không biết,” ông lập lại lần nữa.
“ Phải, tôi nghĩ cha có đời nào chịu nói đâu.”
Khỏang cuối ngày hôm ấy, cha Karras được bãi nhiệm chức cố vấn và được bổ nhiệm làm giảng viên môn tâm thần học tại trường Y khoa thuộc Viện Đại học Georgetown. Ông nhận được lệnh “nghỉ ngơi”.
5.
Regan nằm ngữa trên bàn khám của bác sĩ Klein, tay và chân khùynh ra ngòai. Nắm lấy bàn chân cô bé bằng cả hai tay, bác sĩ gập nó về phía mắt cá. Trong một thời gian, ông cứ giữ cho bàn chân căng thẳng, rồi thình lình buông nó ra. Bàn chân xuôi trở lại vị trì bình thường.
Ông lập lại động tác đó nhiều lần, nhưng kết quả không có gì khác. Ông có vẻ bực. Thế rồi Regan ngồi phắt lên nhổ tọet vào mặt ông. Ông dặn một người điều dưỡng ở lại phòng, còn ông quay lại văn phòng thảo luận với Chris.
Hôm đó nhằm ngày 26 tháng Tư. Bác sĩ không có mặt ở thành phố suốt hai ngày Chủ nhật và Thứ Hai, nên mãi sáng nay Chris mới tiếp xúc được với ông để thuật lại biến cố tại bữa tiệc và vụ giường lắc xảy ra sau đó.
“ Nó lắc thật không?”
“ Lắc thật.”
“ Bao lâu?”
“ Tôi không rõ. Có lẽ mười, mười lăm giây gì đó. Đó là theo chỗ tôi tận mắt chứng kiến. Thế rồi con bé cứng người lại và đái ra giường. Hay có lẽ là nó đã đái dầm trước đó không chừng. Tôi cũng không biết nữa. Thế rồi bất ưng, nó ngủ say như chết và mãi đến xế trưa hôm sau mới thức giấc.
Bác sĩ Klein trầm ngâm ghi chú.
“ Vậy thì đó là bệnh gì?” Chris hỏi bằng môt giọng bứt rứt.
Lúc Chris mới đến lần đầu tiên, ông đã trình bày sự nghi ngờ của ông rằng việc giường bị lắc gây ra do một cơn co giật, do sự co dãn liên tục của các bắp thịt. Ông đã bảo nàng rằng hình thức mãn tính của một tình trạng như thế là chứng bệnh rung giật, thường là dấu hiệu chỉ cho biết có một tổn thương trong não.
“ Vâng, cuộc thử nghiệm có kết quả âm tính,” ông bảo nàng, vừa mô tả diễn trình thí nghiệm, vừa giải thích rằng trong chứng rung giật, đông tác co duỗi liền tiếp nhau của bàn chân lẽ ra phải làm nảy sinh một lọat các động tác co bóp rung giật. Tuy nhiên lúc ngồi ở bàn giấy, trông ông vẫn có vẻ lo lắng. “ Con bé có bị ngã bao giờ không?”
“ Ngã xuống bằng đầu ấy à?” Chris hỏi.
“ Vâng!”
“ Không có, theo chỗ tôi biết thì không.”
“ Các chứng bệnh trẻ con?”
“ Bình thường thôi. Đại lọai là lên sởi, quai bị và trái rạ.”
“ Có tiền sử mắc chứng bệnh mộng du không?”
“ Mãi bây giờ mới có.”
“ Bà nói gì vậy? Con bé đi trong giấc ngủ tại bữa tiệc sao?”
“ Đúng vậy. Nó vẫn không biết nó đã làm gì đêm hôm ấy. Lại còn nhiều thứ khác nữa mà nó không nhớ.
“ Mới đây thôi à?”
Hôm Chủ nhật. Regan vẫn còn ngủ. Một cú điện thọai của Howard từ hải ngọai gọi đến.
“ Rags ra sao?”
“ Rất cảm ơn vì cú điện thọai gọi đến chúc sinh nhật nó.”
“ Tôi kẹt trên du thuyền. Thôi, bây giờ đừng nhiếc móc tôi nữa. Ngay lúc về đến khách sạn, tôi đã gọi cho con ngay.”
“ Ra thế.”
“ Con bé không bảo gì em à.”
“ Anh đã nói chuyện với nó?”
“ Đúng. Chính vì thế nên tôi nghĩ là tôi cần phải gọi điện cho em. Có quái quỷ gì xảy ra với con bé vậy?”
“ Anh muốn ám chỉ điều gì?”
“ Đơn giản là nó đã gọi cho tôi là “ thằng bú c…” rồi gác máy.”
Thuật lại vụ đó cho bác sĩ Klein nghe. Chris giải thích rằng rốt cuộc khi Regan tỉnh giấc, con bé không còn nhớ chút gì về cú điện thọai của bố hay về bất cứ điều gì xảy ra trong đêm nàng đãi tiệc kia.
“ Như vậy có lẽ cô bé đã không nói dối về chuyện đồ đạc di chuyển trong phòng,” Klein nêu giả thuyết.
“ Tôi không hiểu ý bác sĩ.”
“ Không nghi ngờ gì nữa, chính cô bé đã di chuyển đồ đạc, nhưng có lẽ trong lúc cô đang lâm vào một tình trạng mà cô không hề biết là mình đang làm gì nữa. Hiện tượng đó được biết dưới tên gọi là hành động vô thức. Cũng giống như trong trạng thái hôn mê. Bệnh nhân không biết hoặc không nhớ việc mình làm.”
“ Nhưng thưa bác sĩ, tôi vừa chợt nhớ đến một điều, bác sĩ biết chứ? Trong phòng con bé, có một cái tủ ngăn kéo lớn và rất nặng bằng gỗ tếch, trọng lượng cũng phải đến nửa tấn. Tôi muốn hỏi là làm cách nào con bé di chuyển cái tủ đó nổi?’
“ Trong bệnh lý học, sức mạnh phi thường là một điều khá bình thường.”
“ Ồ, thật sao? Tại sao vậy?”
Bác sĩ nhún vai. “ Nào ai biết.”
“ Còn bây giờ, ngòai những điều bà cho tôi biết,” ông nói tiếp,” bà có để ý thấy còn hành vi kỳ quặc nào nữa không?”
“ Vâng có, con bé đâm ra quá sức ủy mị, sướt mướt.”
“ Kỳ quặc kia,” ông nhắc lại.
“ Đối với con bé, thế là kỳ quặc rồi. À, chờ chút! Thôi đúng cái này rồi! Bác sĩ còn nhớ cái bàn cơ mà con bé hay chơi không? Đại úy Howdy ấy.”
“ Người bạn trong cõi tưởng tượng,” vị bác sĩ nội trú gật đầu.
“ Vâng, bây giờ con bé còn nghe được ông Đại úy ấy nữa.” Chris tiết lộ.
Vị bác sĩ nghiêng người tới trước, hai tay khoanh lại đặt trên bàn. Lúc Chris kể tiếp, mắt ông chăm chú và nheo lại để phóng ra những tia suy đóan.
“ Sáng hôm qua,” Chris kể, “ tôi đã nghe được con bé chuyện trò với Howdy trong phòng ngủ của nó. Tôi muốn nói là con bé cứ nói, sau đó có vẻ như chờ đợi, như thể nó đang chơi cầu cơ. Tuy nhiên, khi tôi hé nhìn vào trong phòng, tôi không hề thấy bàn cơ nào ở đó cả, chỉ có một mình Rags, và thưa bác sĩ, con bé đang gật đầu, cứ như thể nó đồng ý với điều ông đại úy kia đang nói vậy.”
“ Con bé có trông thấy ông ta không?”
“ Tôi không nghĩ thế. Con bé cứ nghiêng đầu một bên như cung cách của nó khi nghe đĩa hát.”
Bác sĩ gật đầu và trầm ngâm. “ Vâng, vâng, tôi hiểu. Có hiện tượng nào khác giống như thế không? Con bé có thấy vật này vật kia không? Có ngửi thấy mùi này mùi nọ không?”
“ Ngửi à?” Chris nhớ lại. “ Nó ngửi thấy hòai một mùi khó chịu nào đó trong phòng ngủ.”
“ Một cái gì cháy khét ?”
“ Ủa, đúng thế đó!” Chris kêu lên.” Làm sao bác sĩ biết?”
“ Đôi khi , đó là triệu chứng của một sự rối lọan trong họat động hóa điện của não. Trong trường hợp của con gái bà, nó nằm ở thùy thái dương, bà thấy chứ?” Ông đặt tay lên phía trước sọ. “ Ngay trên này đây, nơi phần trước của não bộ. Điều này họa hiếm lắm, nhưng chính nó gây ra những ảo giác kỳ quặc, và thường là ngay trước một cơn co giật. Tôi nghĩ, đó là lý do người ta quá hay nhầm nó là hội chứng tâm thần phân liệt, nhưng thực tế đó không phải là bệnh tâm thần phân liệt đâu. Nó xuất phát bởi một thương tổn trong thùy thái dương. Lâm thời, do cuộc thử nghiệm tìm chứng rung giật đã không đi đến được kết luận., thưa bà Mac Neil, tôi nghĩ ta nên làm một cái EEG cho cô bé.”
“ Là cái gì vậy?”
“ Electroencephalograph. Điện não đồ. Nó sẽ bộc lộ cho ta thấy mô hình những đợt sóng trong não bộ cô bé. Thông thường, đó là một chỉ dẫn khá tốt về sự bất bình thường của chức năng.”
“ Nhưng bác sĩ nghĩ đúng là nó sao? Thái dương thùy ấy?”
“ Cô bé quả bị hội chứng đó thật. Chẳng hạn như thói bừa bãi này, tính hay gây gỗ này, hành vi gây bối rối về phương diện xã hội này, lại còn hành động vô thức nữa. Và dĩ nhiên, những cơn chứng làm lắc giường nữa. Thường ra, sau đó còn là tật đái dầm hay nôn mửa, hoặc cả hai, sau đó là ngủ rất say.”
“ Bác sĩ muốn trắc nghiệm con bé ngay bây giờ chăng?” Chris hỏi.
“ Vâng, tôi nghĩ ta nên tiến hành ngay lập tức, nhưng cô bé sắp cần đến thuốc an thần đấy. Chứ nếu nó cử động hay vật vã thì sẽ không có kết quả. Do đó tôi xin phép cho cô bé dùng một liều, cứ gọi là hai mươi lăm miligam chất Librium.”
“ Lạy Chúa, bác sĩ cần làm gì xin cứ việc làm ngay đi.” Nàng bảo bác sĩ, run lẩy bẩy.
Nàng theo bác sĩ đến phòng khám. Lúc Regan trông thấy ông chuẩn bị một mũi tiêm dưới da, con bé hét lên rồi văng tục hàng tràng ầm ỹ.
“ Ôi cưng, mũi thuốc sẽ giúp ích con mà!” Chris van vỉ trong nỗi khốn quẫn. Nàng giữ yên Regan cho bác sĩ Klein chích xong mũi thuốc.
“ Tôi trở lại ngay,” bác sĩ nói, gật đầu, rồi trong lúc một người điều dưỡng đẩy máy đo điện não đồ vào, ông rời phòng đi thăm một bệnh nhân khác. Lát sau, ông trở lại, chất Librium vẫn chưa có tác dụng.
Klein có vẻ ngạc nhiên. “ Đó là một liều rất mạnh,” ông lưu ý Chris.
Ông chích thêm hai mươi lăm miligam nữa, xong rời phòng. Lúc trở lại, ông thấy Regan đã thuần tính và ngoan ngõan.
“ Bác sĩ làm gì vậy?” Chris hỏi Klein lúc ông gắn cái điện cực có nhúng muối lên da đầu Regan.
“ Chúng tôi gắn mỗi bên bốn điện cực,’ ông giải thích. “ Như thế sẽ giúp chúng tôi đọc được sóng não từ bên trái và bên phải não bộ, sau đó so sánh chúng.”
“ Sao lại so sánh chúng?”
“Thế này nhé, những đường lệch hướng có thể có ý nghĩa. Ví dụ, tôi có một bệnh nhân hay thấy ảo giác,” Klein nói. “ Anh ta thường thấy, thường nghe nhiều điều, những điều dĩ nhiên không hề có trong thực tế. Tôi nhận thấy có một sự khác biệt khi so sánh điện đồ bên trái với điện đồ bên phải của sóng não bệnh nhân và khám phá ra rằng thực sự ra, anh ta chỉ bị ảo giác có một bên đầu mà thôi.”
“ Quái thật.”
“ Mắt và tai trái họat động bình thường, chỉ có bên phải mới thấy ảo ảnh và nghe ảo thanh.”
“ Được rồi, bây giờ ta hãy xem.” Ông bật máy lên. Ông chỉ những đợt sóng trên màn ảnh hùynh quang. “ Đó là sóng của cả hai bên não,” ông giải thích. “ Việc giờ đây tôi đang làm là tìm các sóng có đỉnh nhọn.” Ông làm mẫu trong không khí bằng ngón tay trỏ, “ đăc biệt là những dợn sóng có biên độ rất cao xuất hiện từ bốn đến tám đợt mỗi giây. Đó là thùy thái dương.” Ông bảo nàng.
Ông nghiên cứu những mô hình sóng não rất kỹ lưỡng, nhưng không khám phá ra sự lọan nhịp nào. Không có những sóng đỉnh nhọn. Không có những vòm phẳng. Và lúc ông chuyển qua giai đọan so sánh, kết quả vẫn là không.
Klein nhíu mày. Ông không sao hiểu nổi. Ông lập lại diễn trình trên. Vẫn không có gì thay đổi.
Ông gọi một nữ điều dưỡng vào trông chừng Regan rồi trở lại văn phòng với mẹ cô bé.
“ Thế là sao?”
Vị bác sĩ ngồi trầm tư bên mép bàn. “Vâng, điện não đồ lẽ ra đã chứng minh là cô bé mắc chứng đó, nhưng sự kiện không có loạn nhịp đó không chứng tỏ cho tôi thấy một cách dứt khóat rằng cô bé không bị chứng đó đâu. Có thể lắm là chứng ít-tê-ri - chứng cuồng lọan – nhưng mô hình sóng trước và sau cơn co giật của cô bé thật qúa sức gây ấn tượng.
Chris cau mày. “ Thưa bác sĩ, bác sĩ cứ lập đi lập lại mãi từ “co giật”. Vậy thì chính xác, chứng bệnh này là bệnh gì vậy?”
“ Chà, nó không phải là một chứng bệnh,” ông khẽ nói.
“ Được rồi, nhưng bác sĩ gọi đó là gì? Tôi muốn nói về phương diện chuyên môn.”
“ Người ta gọi nó là chứng động kinh, thưa bà MacNeil.”
“ Ôi! Lạy Chúa!”
Chris sụm xuống ghế.
“ Bà cứ bình tĩnh,” Klein trấn an. “ Theo chỗ tôi thấy, cũng giống như đa số quần chúng, cái cảm nghĩ của bà về chứng động kinh đã bị thổi phồng quá đáng và phần lớn có thể là mang tính chất thần thọai đó thôi.”
“ Bệnh ấy có di truyền chăng?” Chris dò la, co rúm người lại.
“ Đó lại là một trong những chuyện thần thoại khác nữa.” Klein bình tĩnh bảo nàng. “ Ít ra thì đó cũng là ý nghĩ của đa số bác sĩ chúng tôi. Bà xem đây, trên thực tế, ai cũng có thể bị chứng co giật cả. Bà thấy đó hầu hết chúng ta đều được sinh ra với một ngưỡng cửa khá cao để kháng cự lại chứng co giật, có người thì với một ngưỡng cửa thấp, do đó, sự khác biệt giữa bà và một người động kinh là một vấn đề mức độ. Có thế thôi. Đơn giản chỉ là mức độ.”
“ Thế thì nó là gì chứ? Một ảo giác do khuynh hướng đồng bóng chăng?”
“ Một sự rối lọan thôi: một sự rối lọan có thể kiểm sóat được. Và có nhiều, rất nhiều loại rối lọan như thế, bà MacNeil ạ. Chẳng hạn như bây giờ bà đang ngồi đây và trong một giây đồng hồ, bà có vẻ như ngây dại đi, cứ cho là bà không nghe thầy đôi điều tôi nói. Vâng, đó cũng là một thứ động kinh đấy, thưa bà MacNeil, đúng vậy đó. Đó là một cơn động kinh thực sự.”
“ Vâng, vậy thì đó không phải là trường hợp Regan rồi.” Chris bác khước. “ Có điều tại sao tình trạng đó lại bất ưng xảy ra như thế?”
“ Chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn là cô bé mắc chứng gì, và tôi phải công nhận rằng có lẽ bà đã đúng ngay từ đầu, rất có thể đó là bệnh tâm thần cơ thể. Tuy nhiên, tôi nghi lắm. Để trả lời câu hỏi của bà, tôi xin nói là bất cứ thay đổi nào trong chức năng của não bộ đều có thể nảy sinh ra một sự co giật trong hội chứng động kinh được : sự lo lắng, mệt mỏi, cơn sốc tình cảm, một nốt nhạc đặc biệt trên một nhạc cụ. Tôi xin đan cử một ví dụ: có lần tôi có một bệnh nhân, ông ta chưa bao giờ lên cơn động kinh trừ có mỗi một lần trên xe búyt, lúc còn cách nhà ông một dãy phố. Rốt cuộc, chúng tôi đã dò ra nguyên nhân: nguồn sáng lấp lánh từ một nẹp hàng rào sơn trắng phản chiếu nơi cửa xe búyt đó. Nếu vào một thời điểm khác trong ngày hoặc giả chiếc xe búyt chạy với một vận tốc khác thì hẳn ông ta đã không bị co giật rồi, bà thấy đó. Ông ta bị một vết thương, một vết sẹo trong não gây ra do một chứng bệnh thời thơ ấu. Trong trường hợp con gái bà, vết sẹo đó nằm ở phía trước – phía trước và bên trái thùy thái dương - rồi khi nó bị một xung điện đặc biệt của một dãy sóng nào đó, theo một chu kỳ nào đó, chạm phải, nó liền phát huy một lọat các phản ứng dị thường, đột ngột từ thâm căn bên trong một ổ bệnh trong thùy đó. Bà thấy chứ?”
“ Vâng,” Chris thở dài, chán ngán. “ Nhưng xin thú thật với bác sĩ, tôi không hiểu làm cách nào mà tòan bộ nhân cách của con bé lại có thể bị biến đổi như thế được?”
“ Trong chứng thùy thái dương, điều đó hết sức bình thường, và có thể kéo dài nhiều ngày, hoặc thậm chí nhiều tuần. Hành vi phá họai và thậm chí tội ác nữa cũng không phải là hiếm thấy. Thực vậy, đó là một sự biến đổi lớn lao đến nỗi cách đây hai hay ba năm, những kẻ bị rối loạn thùy thái dương thường bị xem là bị quỷ ám.”
“ Bị gì ạ ?”
“ Bị xem là bị một con quỷ chiếm hữu tâm thần. Một tình trạng giống như một lối giải thích mang màu sắc mê tín của chứng nhị trùng bản ngã.”
Chris nhắm nghiền mắt lại, cúi đầu tựa trán trên nắm tay. “ Này, xin hãy cho tôi nghe một điều gì đó tốt lành đi,” nàng thì thầm.
“ Xin bà đừng hốt hỏang. Nếu quả thật đó là một vết thương, thì xét trên một phương diện, đó là điều may mắn. Lúc đó ta chỉ có mỗi việc là lấy vết sẹo đó ra.”
“ Ồ, cừ quá !”
“ Hoặc giả đó có thể chỉ là sức ép trên não bộ mà thôi. Tôi muốn cho chụp X-quang sọ não. Trong tòa nhà này có một chuyên viên X-quang, có lẽ tôi có thể nhờ anh ta xúc tiến chụp ngay được thôi. Bà nghĩ sao ?”
“ Chúa ơi, vâng, xin cứ xúc tiến đi! Ta làm ngay đi thôi.”
Klein gọi điện thọai dàn xếp việc đó. Họ cho biết sẽ đưa cô bé đi chụp ngay.
Ông gác điện thọai rồi khởi sự kê toa. “ Phòng 22 lầu 2. Sau đó có thể tôi sẽ gọi lại cho bà vào ngày mai hoặc thứ Năm. Tôi cần mời một bác sĩ thần kinh tham gia vào vụ này. Lâm thời, tôi cho cô bé ngưng dùng Ritalin. Ta cho cô bé dùng thử Librium một thời gian xem sao.”
Ông xé toa thuốc ra khỏi tập giấy và trao cho Chris. “Ta sẽ cố gắng ở sát bên cô bé, thưa bà MacNeil. Trong những trạng thái mộng du như thế này, nếu quả đúng là chứng đó, cô bé lúc nào cũng có thể gây tổn thương cho chính mình được. Phòng ngủ của bà có gần phòng cô bé không ?”
“ Vâng, gần.”
“ Thế thì tốt. Tầng trệt à ?”
“ Không, tầng hai.”
“ Có cửa sổ lớn trong phòng cô bé không ?”
“ Có một. Có chuyện gì vậy ?”
“ Vâng, ta sẽ cố đóng chặt cửa sổ đó lại, thậm chí còn phải gắn một ổ khóa nữa. Trong trạng thái hôn mê, rất có thể cô bé sẽ đi qua cửa sổ đó. Đã có lần tôi có một…”
“ Bệnh nhân,” Chris nói dứt câu với một thóang cười nhọc mệt, gượng gạo.
Bác sĩ cười toét miệng. “ Tôi chắc là tôi có vô khối bệnh nhân mà, đúng không ?”
“ Ha !!”
Tay chống cằm, người nghiêng ra phía trước, dáng trầm mặc, “ bác sĩ biết không tôi vừa chợt nghĩ đến một điều khác.”
“ Điều gì vậy ?’
“ Đại để như bác sĩ đã nói, sau lúc lên cơn, con bé lập tức ngủ say. Giống như vào đêm thứ Bảy. Có phải bác sĩ đã bảo thế không ?”
“ Vâng, quả thế.” Klein gật đầu. “ Đúng như vậy.”
“ Thế thì tại sao có những lần khác con bé than là giường bị lắc giữa lúc nó vẫn hòan tòan tỉnh táo ?”
“ Bà chưa kể cho tôi nghe điều đó.”
“ Vâng, đúng thế đó. Con bé trông vẫn khỏe mạnh. Nó đến phòng tôi xong rồi xin ngủ chung với tôi.”
“ Có đái dầm, nôn mửa gì không ?”
Chris lắc đầu. “ Nó vẫn khỏe mạnh.”
Klein cau mày, khẽ cắn môi một lúc. “ Nào bây giờ ta hãy quan sát các tia X-quang kia.” Rốt cuộc ông bảo nàng.
Cảm thấy kiệt quệ và tê cóng, Chris dìu Regan đến chỗ chuyên viên X-quang, ở sát bên con lúc người ta chụp quang tuyến cho con bé, xong dẫn con về. Kể từ mũi thuốc thứ hai, con bé đâm ra câm như thóc một cách thật quái lạ. Chris cố hết sức làm cho nó khuây khỏa và bận rộn.
“ Con có muốn đánh vài ván cờ cá ngựa hay chơi trò chơi gì không ?”
Regan lắc đầu, rồi nhìn mẹ đăm đăm bằng đôi mắt lãng đãng như co rút vào một cõi xa xăm vô hạn. “ Con buồn ngủ.” Regan nói bằng một giọng như thuộc về đôi mắt. Thế rồi quay lưng, cô bé lên cầu thang về phòng ngủ.
Chắc là nhờ thuốc Librium, Chris suy nghĩ lúc nàng nhìn con. Rốt cuộc, nàng thở dài và đi xuống bếp. Nàng rót chút cà phê rồi ngồi xuống bàn nơi góc ăn sáng với Sharon.
“ Mọi chuyện thế nào ?”
“ Ôi Chúa !”
Chris vụt toa thuốc lên bàn. “ Tốt hơn là gọi nhà thuốc bảo họ bổ cho toa này,” nàng bảo, xong thuật lại lời bác sĩ căn dặn nàng. “ Nếu tôi mắc bận hoặc phải đi đâu vắng, cô nhớ trông chừng con bé thật kỹ hộ tôi, Shar nhé ? Ông ta…” Bỗng điều đó lóe ra trong trí nàng, bất thần. “Chà, tôi nhớ rồi.”
Nàng đứng dậy khỏi bàn đi ngay lên phòng ngủ Regan, thấy con nằm dưới chăn và có vẻ đã ngủ.
Chris đến bên cửa sổ gài chặt then lại. Nàng nhìn xuống dưới. Cánh cửa sổ đó, từ bên hông nhà, trông thẳng xuống một dãy bậc cấp công cộng thật dốc, đổ xuống Phố M.ở mãi dưới xa.
Chà, ta phải cho gọi thợ khóa ngay.
Chris quay lại bếp, dặn ghi thêm công việc đó vào bản liệt kê, Sharon đang phác thảo ra thực đơn bữa tối cho Willie, và trả lời điện thọai cho người đại diện của nàng.
“ Kịch bản đó ra sao ?” Anh ta muốn biết.
“ Vâng , tuyệt lắm Ed, ta làm đi,” nàng bảo anh ta. “ Khi nào quay ?”
“ Phân đọan của chị sẽ quay vào tháng Bảy, cho nên chị phải lo chuẩn bị sẳn sàng ngay từ bây giờ.”
“ Anh muốn nói là bây giờ?”
“ Đúng là bây giờ. Đây không phải là chuyện diễn xuất, Chris ạ. Chị phải bận rộn nhiều với giai đoạn tiền sản xuất. Chị phải làm việc với chuyên viên thiết kế phông cảnh, chuyên viên vẽ kiểu phục trang, nghệ sĩ phụ trách hóa trang, nhà sản xuất. Rồi chị còn phải chọn một chuyên viên quay phim, một người cắt cúp và lo phác thảo các màn quay. Đó, Chris, chị biết hết các khỏan đó mà.”
“ *** họ !”
“ Chị kẹt gì à ?”
“ Đúng, tôi bị kẹt rồi. Tôi gặp chuyện rắc rối.”
“ Rắc rối gì vậy ?”
“ Regan khá đau yếu.”
“ Chà, tôi rất tiếc. Bệnh làm sao vậy ?”
“ Cũng chưa biết nữa. Tôi đang chờ kết quả vài cuộc thử nghiệm đây. Này Ed, tôi không thể rời con bé được đâu.”
“ Có ai bảo chị rời nó đâu ?”
“ Anh không hiểu rồi, Ed. Tôi cần ở nhà với nó. Nó cần tôi chăm sóc. Nghe đây, đơn giản là tôi không thể cắt nghĩa điều đó được Ed ạ, nó quá phức tạp. Vậy thì tại sao ta không hõan việc đó lại một thời gian nhỉ ?”
“ Ta không thể trì hõan được. Họ đang cố thuýêt phục Cung Âm Nhạc chịu cho công diễn phim vào dịp Giáng Sinh, Chris ạ, và tôi nghĩ rằng họ đang đốc thúc việc đó ngay từ bây giờ đây.”
“ Ôi, lạy Chúa, Ed, họ có thể chờ hai tuần được mà. Nào !”
“ Coi kia, chính chị đã nằng nặc quấy quả tôi là chị muốn đạo diễn phim, thế mà bây giờ bỗng dưng…”
“ Đúng. Ed ạ, tôi biết,” nàng ngắt lới. “ Tôi muốn điều đó, muốn kinh khủng, nhưng anh vẫn cứ phải bảo họ rằng tôi cần thư thả một chút đã.”
“ Nếu tôi bảo họ như thế thì cứ gọi là chúng ta “phèo”. Ý kiến tôi là thế đó. Với lại, dù sao thì họ cũng đâu cần chị, điều đó chị đã quá rõ. Chẳng qua họ làm điều này là vì Moore, và tôi cho rằng nếu bây giờ họ quay lại bảo ông ta rằng chị không chắc là chị muốn làm phim đó thì hẳn là ông ta coi như “ đi chỗ khác chơi”. Thôi đi Chris ơi, hãy nói năng nghe cho hợp lý chút coi. Chị thấy đó, chị làm gì tùy ý chị, tôi không lý tới. Chẳng có tiền bạc gì trong vụ này trừ phi phim đó ăn khách. Nhưng nếu chị muốn thì tôi xin bảo chị đây: tôi sẽ xin triển hoãn và cứ coi như là “trớt huớt” hết. Vậy thì, tôi phải nói năng với họ thế nào đây ?’
“ Chèn ơi,” Chris thở dài.
“ Không dễ gì, tôi biết.”
“ Đúng, không dễ gì đâu. Rồi, nghe đây…”
Nàn tư lự, rồi lắc đầu. “ Ed ạ, họ sẽ phải đợi thôi,” nàng mệt mỏi nói.
“ Chị quyết định đấy nhé !”
“ Phải, Ed ạ. Nhớ cho tôi biết kết quả.”
“ Được, tôi sẽ gọi lại. Cứ bình tâm.”
“ Anh cũng thế, Ed. Tạm biệt.”
Nàng gác máy trong nỗi chán chường và đốt một điếu thuốc. “ À này, tôi đã nói chuyện với Howard rồi, tôi kể cho cô nghe chưa nhỉ ?” nàng bảo Sharon.
“ Ủa , hồi nào vậy ? Chị có nói với anh ấy vụ của Rags không ?”
“ Tôi kể cho anh ta nghe rồi. Tôi đã bảo anh ta nên đến thăm con bé.”
“ Anh ấy đến chứ ?”
“ Tôi không biết nữa. Tôi không nghĩ vậy.” Chris trả lời.
“ Hẳn chị nghĩ rằng anh ấy sẽ cố gắng chứ ?”
“ Có, tôi biết.” Chris thở dài. “ Nhưng cô phải hiểu cho nỗi khó lòng của anh ta, Shar ạ. Chính là điều ấy đấy. Tôi biết cớ sự là chỗ ấy.”
“ Là điều gì cơ ?”
“ Ồ, tòan bộ câu chuyện về “Ông Chris MacNeil phu quân” ấy mà. Rags là một phần trong câu chuyện đó. Con bé nhập cuộc và anh ta bỏ cuộc. Bây giờ cũng là tôi và Rags sánh đôi trên bìa các tạp chí, tôi và Rags trên các ma-két sách báo, mẹ và con gái, cặp tiên nữ sinh đôi.” Nàng gạt tàn thuốc bằng một ngón tay bứt rứt. “ Quỷ thật, ai mà biết đâu ? Thế là rối tung rối mù cả lên. Nhưng cũng khó mà trách được anh ta, Shar ạ. Đơn giản là tôi không thể trách anh ta được.”
Nàng với tay lấy quyển sách cạnh khủyu tay Shark. “ Ra cô đang đọc cái gì đây ?’
“Chị định nói gì ? À, cuốn đó. Cuốn đó của chị mà. Em quên mất. Bà Perrin tạt vào đưa cho chị đó.”
“ Bà ta đến đây ?”
“ Vâng, sáng nay. Bà ấy bảo rất tiếc không gặp được chị và cho biết sắp rời khỏi thành phố, nhưng sẽ gọi điện thọai cho chị khi trở về.”
Chris gật đầu và liếc nhìn tựa sách: “ Khảo Về Tục Sùng Bái Quỷ Dữ Và Các Hiện TượngThần Bí Liên Đới.” Nàng mở sách thấy có một thư nhỏ mang thủ bút của Mary Jo Perrin :
“ Chris thân mến! Mình tình cờ ghé qua thư viện Đại học Georgetown và chọn quyển sách này cho chị. Sách có vài chương luận về Lễ Đen. Tuy nhiên chị nên đọc trọn cuốn. Thiết tưởng chị sẽ thấy những phần khác rất thú vị. Mong gặp lại chị. Mary Jo.”
“ Người phụ nữ dễ mến.” Chris bảo.
“ Vâng, đúng thế.” Sharon tán đồng.
Chris lại lướt qua pho sách. “ Có phát giác gì lạ về vụ Lễ Đen không ? Chắc là bỉ bàng đến nước nhỉ ?”
“ Không biết nữa,” Sharon đáp. “ Em đâu có đọc nó.”
“ Không có lợi cho việc tĩnh tâm hả ?”
Sharn vươn vai ngáp. “ Ôi chà, cái món đó làm em phát chán.”
Chris đẩy quyển sách qua bàn về phía Sharon. “ Đây, đọc đi rồi kể cho tôi nghe nội dung.”
“ Để rồi nằm ngủ thấy ác mộng ấy à ?”
“ Chứ cô nghĩ tôi trả lương cho cô để làm gì ?”
“ Nôn mửa.”
“ Chuyện đó thì tôi làm một mình được,” Chris lẩm bẩm lúc nàng nhặt tờ báo buổi chiều lên. “ Cô chỉ việc tọng những lời khuyên của vị giám đốc doanh vụ của cô xuống cổ họng là cô đủ mửa ra máu cả tuần rồi.” Bực bội, nàng bỏ tờ báo qua một bên. “ Mở dùm ra-đi-ô đi, nghe tin tức xem sao ?”
Sharon dùng bữa tối với Chris tại nhà, sau đó cáo lui vì có hẹn. Cô bỏ quên cuốn sách. Chris trông thấy sách trên bàn, toan tính đến chuyện đọc nó, nhưng cuối cùng cảm thấy quá ư mệt mỏi. Nàng bỏ nó lại trên bàn rồi đi lên gác.
Nàng tạt vào ngó Regan, cô bé có vẻ vẫn còn ngủ say dưới lớp chăn đắp, và cứ bề ngòai mà xét thì còn phải ngủ đến sáng. Nàng lại kiểm sóat cửa sổ lần nữa. Rời phòng con, Chris nhắc mình nhớ để cửa ra vào mở toang và nàng cũng mở tung cửa phòng ngủ của nàng ra như thế, trước khi lên giường. Nàng xem dở dang một phim trên ti vi, rồi ngủ. Sáng hôm sau, cuốn sách khảo về thuật thờ quỷ đã biến mất khỏi bàn.
Không ai nhận thấy điều đó.
Vị bác sĩ thần kinh được mời tới cố vấn ghìm chặt những tia X-quang lại lần nữa và tìm kỹ xem có những đường khía răng cưa - những đường sẽ trông như thể hộp sọ bị nện như một đồng xu dưới sức búa của một cái búa bé tí. Bác sĩ Klein khoanh tay đứng sau lưng ông. Hai vị bác sĩ dò tìm cả những vết thương lẫn những điểm tích tụ chất lỏng, dò tìm một sự chuyển dịch khả thể của tuyến tùng. Bây giờ, họ dọ dẫm tìm kiếm Sọ Luckenshadl, tức là những chỗ lõm xuống tố giác ra triệu chứng áp lực bên trong sọ mãn tính.
Họ không tìm ra điều đó. Hôm ấy nhằm Thứ Năm, ngày 28 tháng Tư. Vị bác sĩ thần kinh gỡ kính cẩn thận đút vào túi áo vét bên ngực trái. “ Tuyệt nhiên không có gì cả, Sam ạ. Tôi không thấy có gì cả.”
Klein cau mày nhìn xuống, lắc đầu. “ Không hiểu nổi.”
“ Anh muốn chạy một đợt nữa không ?”
“ Thôi, ta làm thử L.P đi.”
“ Ý kiến hay đấy.”
“ Còn bây giờ, tôi muốn anh gặp người mẹ.”
“ Hôm nay tiện không ?”
“ Vâng, tôi.” Có tiếng chuông điện thọai. “Xin lỗi.” Ông nhấc máy.
“ Vâng, tôi nghe.”
“ Bà MacNeil ở đầu dây. Bảo có chuyện gấp.”
“ Đường số 12.”
Ông bấm nút máy phụ. “Tôi bác sĩ Klein đây, thưa bà MacNeil. Có vấn đề gì vậy ?”
Giọng nàng lạc hẳn đi, gần đến mức loạn trí.” Ôi, Chúa ôi ! Thưa bác sĩ, cháu Regan ! bác sĩ đến ngay được không ?”
“ Chuyện gì vậy ?”
“ Tôi không biết, thưa bác sĩ, tôi không thể nào mô tả được. Vì cớ Chúa, xin hãy đến ngay bây giờ !”
“ Tôi đến ngay đây.”
Ông cúp máy và bấm gọi cô thư ký tiếp tân. “ Susan này, bảo Dresner tiếp bệnh nhân hộ tôi nhé.” Ông gác máy rồi bắt đầu cởi áo vét ra. “ Bà ấy gọi. Anh muốn cùng đi không ? Chỉ qua cầu là tới nơi.”
“ Tôi rảnh một tiếng.”
“ Thế thì ta đi.”
---------------------------
Họ đến nơi sau đó vài phút. Lúc ở cửa có Sharon đón họ, hai người đã nghe những tiếng rên rỉ và tiếng thét hãi hùng từ phòng Regan vọng ra. Cô gái có vẻ kinh hãi. “Tôi là Sharon Spencer, cô nói. “ Mời hai ông vào. Bà chủ ở trên gác.”
Cô gái đưa họ đến cửa phòng ngủ của Regan, khẽ mở cửa và gọi vào. “ Chị Chris, các bác sĩ đã đến.”
Chris lập tức ra ngay cửa, mặt nàng co rúm vì sợ hãi. “ Lạy Chúa tôi, xin mời vào.” Nàn run giọng. “ Xin mời ngó xem con bé đang làm gì.”
“Đây là bác sĩ…”
Klein bỏ lửng nửa lời giới thiệu lúc ông nhìn sững Regan. Rít lên một cách điên loạn, con bé hai tay cứ quật lấy quật để, còn thân thể thì có vẻ muốn bật nẩy lên trên không bên trên giường rồi quật xuống dữ dội lên nệm. Động tác đó diễn ra nhanh liên tục.
“ Mẹ ơi, bảo ông ấy ngừng lại đi !” Con bé rít lên. “ Chận ông ấy lại ! Ông ấy muốn giết con đấy ! Chận ông ấy lại ! Chậââ.. nnn.. ôông.. ấâyy.. lạaiii…Meẹe..”
“ Ôi, con tôi !” Chris khóc thút thít lúc nàng vung một nắm tay lên miệng và cắn lấy nó. “ Bác sĩ ơi, chuyện gì vậy ? Thế này là thế nào ?”
Bác sĩ lắc đầu, tia mắt ông gắn chặt lấy Regan lúc cái hiện tượng kỳ dị kia vẫn tiếp tục. Cứ mỗi lần như thế, con bé lại nhấc mình lên cao khỏang hơn ba tấc rồi rơi xuống trong một hơi thở xoắn mạnh, như thể những bàn tay vô hình đã nhấc bỗng nó lên rồi ném nó xuống.
Chris che mắt bằng bàn tay run run. “ Ôi, Chúa !” Giọng nàng khản đặc. “ Bác sĩ ơi, thế này là sao ?”
Những động tác lên xuống chợt ngưng và cô bé cứ vặn vẹo qua lại như làm sốt, còn đôi mắt thì trợn ngược lên chỉ còn thao láo hai tròng trắng.
“ Ôi, ông ấy đốt tôi…đốt tôi ?” Regan than vãn. “ Ôi, tôi cháy rồi ! Tôi cháy rồi !”
Đôi chân cô bé bắt đầu bắc chéo lại rồi lại buông, rồi lại bắc chéo, rõ nhanh.
Hai vị bác sĩ lại gần hơn đứng mỗi người một bên giường. vẫn vặn vẹo và giật nẩy, Regan ưỡn ngược đầu ra sau như một cánh cung, phơi hẳn cả cái yết hầu phình to, sưng tấy. Cô bé bắt đầu lẩm bẩm một tiếng gì đó không ai hiểu nổi, bằng một giọng kỳ lạ trong đóc họng.
“…no wonmai….no wonmai…”
Klein đưa tay xuống bắt mạch cô bé.
“ Nào, ta hãy xem cháu bị đau yếu ra sao, cưng ạ.” Ông dịu dàng nói.
Thình lình, mọi người đâm lảo đảo, điếng hồn, lọang chọang bật qua bên kia phòng trước sức mạnh của một cái vung tay tàn bạo ra phía sau của Regan, lúc cô bé ngồi phắt dậy, gương mặt nó nhúm nhó trong một cơn cuồng nộ hung hiểm.
“ Con heo này là của tao !” Cô bé rống tướng bằng giọng mạnh mẽ và thô lỗ. Cô kéo áo chòang ngủ, phơi bộ phận sinh dục ra. “ Đ…tao đi ! Đ…tao đi !” Cô hét tướng vào mặt bác sĩ, rồi bằng cả hai tay, cô thủ dâm một cách điên lọan.
Giây lát sau, Chris bỏ phòng chạy ra trong tiếng khóc nghẹn ngào, còn Regan đưa mấy ngón tay lên miệng mà liếm.
Lúc Klein lại bên giường, Regan dường như đang ôm ghì lấy chính mình, đôi bàn tay cô ve vuốt hai cánh tay.
“ Ờ, phải rồi, cục ngọc của tôi…” cô ngâm nga bằng một giọng thô nhám kỳ lạ. Mắt cô nhắm lại như trong cơn xuất thần ngây ngất. “Ôi, con bé của tôi…bông hoa của tôi…cục ngọc của tôi đây !”
Rồi tiếp tục, cô bé vặn vẹo, quằn quại qua lại, cứ lẩm bẩm hòai những câu vô nghĩa. Và thình lình, cô ngồi phắt dậy, hai mắt mở to ngơ ngác trong nỗi kinh hòang vô vọng.
Cô kêu meo meo như một con mèo.
Sủa như chó.
Rồi hí lên như ngựa.
Sau đó vặn vẹo eo ếch, cô bắt đầu uốn thân trên theo những động tác xoay vòng hối hả, dồn dập. Cô thở hổn hển. “ Ôi, chận ông ấy lại đi !” Cô khóc. “ Xin chận ông ấy lại giùm ! Đau quá ! Bảo ông ta ngừng lại đi ! Con không thở được !”
Klein đã nhìn thấy đủ. Ông chụp chiếc túi y khoa, đến bên cửa sổ chuẩn bị một mũi chích.
Vị bác sĩ thần kinh ở lại bên giường, trông thấy Regan ngã bật ra sau như bị ai xô mạnh. Mắt cô bé lại trợn ngược, đảo qua đảo lại, cô bé bắt đầu lẩm bẩm rõ nhanh bằng giọng ở đóc họng. Vị bác sĩ thần kinh cuối sát hơn cố tìm hiểu những gì cô bé nói. Sau đó, ông thấy Klein khẽ ra dấu gọi, bèn đi đến bên bác sĩ.
“ Tôi sắp chích Librium cho cô bé,” Klein dè dặt bảo ông, vừa giơ ống chích ra phía ánh sáng cửa sổ. “ Nhưng phải nhờ anh giữ chặt cô bé hộ.”
Vị bác sĩ thần kinh gật đầu. Ông có dáng đăm chiêu. Ông nghiêng đầu về một bên như lắng nghe những tiếng lẩm bẩm từ giường phát ra.
“ Cô bé nói gì vậy ?”
“ Tôi không biết nữa. Chỉ nói huyên thuyên. Những vần vô nghĩa.” Tuy nhiên giải thích đó của ông không làm ông thỏa mãn. “ Dù vậy, cái cách cô bé nói ra cứ y như thể nó có một ý nghĩa nào đó. Nó có ngữ điệu đàng hòang.”
Klein gật đầu về phía giường và hai người im lặng tiếp cận giường từ hai phía. Lúc họ đến nơi, cô bé đã cứng người ra như trong cơn sài uốn ván, và hai bác sĩ cứ ngó nhau đầy ngụ ý. Rồi lại nhìn Regan lúc cô bé nẩy cong người lên trên trong một tư thế khó tưởng tượng được, rồi oằn người ra phía sau giống như một cánh cung, cho đến lúc trán chạm đôi bàn chân. Cô bé kêu thét vì đau đớn.
Hai bác sĩ nhìn nhau với vẻ phỏng đóan đầy tra hỏi. Rồi Klein ra hiệu cho vị bác sĩ thần kinh. Nhưng vị này chưa kịp nắm lấy cô bé thì Regan đã lả đi vì xỉu rồi đái dầm dề ra giường.
Klein cúi xuống vạch mí mắt cô bé quan sát, bắt mạch. “Cô bé sẽ bất tỉnh giây lát,” ông nhủ thầm. “ Tôi cho là nó bị co giật. Anh có nghĩ thế không ?”
“ Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.”
“ Nào, bây giờ ta phải “bảo hiểm” cái đã.”
Ông chích mũi thuốc thật điệu nghệ.
“ Anh nghĩ sao ?” Klein hỏi vị bác sĩ thần kinh lúc dán một miếng băng được dính thanh trùng lên vết chích.
“ Thùy thái dương rồi. Chắc chắn. Cũng có thể là chứng tâm thần phân liệt, Sam ạ, nhưng sự đột khởi của cơn chứng quá ư là bất ngờ. Cô bé chưa hề có bệnh sử này chứ, đúng không ?”
“ Vâng, chưa hề.”
“ Suy nhược thần kinh ?”
Klein lắc đầu.
“ Thế thì có lẽ là chứng tâm căng ít-tơ-ri, (chứng kích động thần kinh)” vị bác sĩ thần kinh đưa ý kiến.
“ Tôi đã nghĩ đến điều đó.”
“ Hẳn vậy. Nhưng này, cô bé hẳn phải là một dị nhân thì mới uốn cong được thân mình theo ý muốn như kiểu cô ta làm hồi nảy, đúng không ?” Ông lắc đầu. “ Không, tôi nghĩ điều đó hòan tòan có tính cách bệnh lý, Sam à – cái sức mạnh của cô bé ấy, hội chứng paranoia (chứng hoang tưởng bộ phận) ảo giác. Tâm thần phân liệt, đồng ý nó bao gồm các triệu chứng đó. Nhưng thùy thái dương còn bao gồm cả cơn co giật. Dù vậy, có một điều làm tôi băn khoăn…” Ông đãi dài giọng với một nét cau mày bối rối.
“ Điều gì vậy ?”
“ Chà, tôi cũng không dám chắc, nhưng tôi nghĩ là tôi đã nghe thấy những dấu hiệu phân biệt và tách bạch… “hòn ngọc của tôi”… “ con tôi”… “ bông hoa của tôi”… “con heo”. Tôi có cảm tưởng là cô bé nói về chính mình. Anh cũng cảm thấy thế chứ, hay là tôi có thêm thắt điều gì khác vào đó chăng ?’
Klein mơn trớn bờ môi, vừa nghiền ngẫm câu hỏi đó. “ Vâng, thành thật mà nói, lúc đó tôi không hề nghĩ tới điều đó, nhưng bây giờ anh vừa nêu điều đó ra…” Ông lẩm bẩm với dáng trầm ngâm.” Có thể lắm. Vâng, vâng, có thể là như vậy.”
Rồi ông nhún vai xua đuổi ý niệm đó. “ Bây giờ, nhân lúc cô bé bất tỉnh, tôi sẽ làm một L.P (xét nghiệm dịch tủy) ngay. Sau đó, có lẽ ta sẽ biết được đôi điều.”
Vị bác sĩ thần kinh gật đầu.
Klein lục lọi trong chiếc túi y khoa tìm thấy một viên thuốc và đút nó vào túi. “ Anh ở lại được chứ ?”
Vị bác sĩ thần kinh xem đồng hồ. “ Nửa giờ thì có lẽ được.”
“ Ta ra thảo luận với bà mẹ đi.”
Họ rời phòng, bước ra lối hành lang.
Chris và Sharon đang đứng tựa trên thành cầu thang, đầu cuối thấp. Lúc hai bác sĩ đến gần, Chris lau mũi bằng chiếc khăn tay ướt sũng, vò nùi như quả banh. Mắt nàng mọng đỏ vì khóc.
“ Cô bé đang ngủ.” Klein bảo nàng.
“ Tạ ơn Trời.” Chris thở dài.
“ Cô bé đã được chích thuốc an thần với liều mạnh. Có lẽ sẽ ngủ đến mai.”
“ Hay lắm,” Chris nói yếu ớt. “ Thưa bác sĩ, tôi xin lỗi vì đã tỏ ra trẻ con quá.”
“ Bà cư xử rất hợp lẽ thôi,” ông trấn an nàng. “ Đây là một thử thách đáng sợ. Nhân tiện, xin giới thiệu với bà, Bác sĩ David.”
“ Chào,” Chris ngỏ lời với nụ cười u ám.
“ Bác sĩ David là một nhà thần kinh học.”
“ Hai vị thấy thế nào ?”
“ Vâng, chúng tôi vẫn cho rằng đây là chứng thùy thái dương,” Klein đáp, “ và…”
“ Chúa ơi, ông đang nói cái quái quỷ gì thế ?” Chris bùng nổ. “ Con bé hành động như một bệnh nhân tâm thần, như kẻ nhị trùng bản ngã ! Thế ông…”
Bất chợt nàng bình tĩnh lại, gục đầu vào bàn tay.
“ Có lẽ tôi bị căng thẳng quá sức,” nàng thở ra mệt mỏi. “ Tôi xin lỗi.” Nàng ngước tia nhìn hốc hác về phía Klein. “ Bác sĩ vừa nói…”
Chính bác sĩ David lại trả lời. “ Không có hơn một trăm trường hợp nhị trùng bản ngã được xem là có thật đâu, thưa bà MacNeil. Đó là một trường hợp rất hiếm hoi. Tôi hiểu là ta rất dễ bị lôi cuốn sang địa hạt tâm thần học, nhưng bất cứ một bác sĩ tâm thần nào có trách nhiệm cũng đều nghiên cứu cặn kẽ tất cả những khả năng về mặt thân thể trước đã. Đó là thủ tục an tòan nhất.”
“ Được rồi, thế tiếp theo đó là làm gì ?”Chris thở dài.
“ Ta chích dò cột sống thắt lưng,” David đáp.
“ Xét nghiệm tủy sống ?”
Ông gật đầu. “ Điều chúng ta không dò thấy trong xét nghiệm X-quang có thể xuất hiện ở đây. Ít nhất, điều đó cũng giúp chúng ta nghiên cứu, thăm dò đến tận cùng mọi khả năng khác đã. Tôi muốn thực hiện ngay điều đó tại đây, lúc cô bé còn ngủ. Dĩ nhiên tôi chỉ chích dò giới hạn tại một vị trí, nhưng chính sự chuyển động là điều tôi cố loại trừ.”
“ Làm sao mà nó lại có thể tưng người lên khỏi giường như thế được ?” Chris hỏi, mặt ngước lên trong nỗi xao xuyến.
“ Điều tôi nghĩ là ta đã có thảo luận trước rồi,” Klein đáp. “Các trạng thái bệnh lý có thể tạo ra sức mạnh bất thường và tăng tốc chức năng của cơ vận động.”
“ Nhưng người ta không biết lý do tại sao ?” Chris nói.
“ Hình như nó có liên quan gì đó đến động cơ thúc đẩy,” David bình luận. “Nhưng ta chỉ biết có chừng đó.”
“ Nào, bây giờ ý kiến bà ra sao về vụ xét nghệm tủy sống đây ?” Klein hỏi.”Chúng tôi có thể xúc tiến chứ ?”
Nàng thở ra, người chùng xuống, ngó đăm đăm ra cửa.
“ Xúc tiến đi,” nàng thì thào. “ Cứ làm bất cứ việc gì cần thiết. Miễn là giúp ích được cho con bé.”
“ Chúng tôi sẽ cố,” Klein nói. “ Xin phép sử dụng điện thọai của bà nhé ?”
“ Xin cứ tự nhiên. Trong văn phòng ấy !”
“ À, nhân tiện,” Klein nói lúc nàng quay lưng lại để hướng dẫn họ, “ cô bé cũng cần được thay chăn đệm giường.”
“ Tôi sẽ lo việc ấy,” Sharon bảo. Cô đi đến phòng ngủ của Regan.
“ Để tôi pha chút cà phê cho các ông nhé !” Chris hỏi lúc các bác sĩ theo nàng xuống cầu thang. “ Tôi đã cho hai vợ chồng người quản gia nghĩ buổi chiều, nên ta phải dùng đỡ cà phê tan ngay vậy.”
Hai bác sĩ từ chối.
“ Tôi thấy là bà chưa cho niêm cánh cửa sổ kia lại,” Klein lưu ý.
“ Vâng, chúng tôi đã cho gọi thợ rồi,” Chris bảo ông. “Mai họ sẽ mang các cánh cửa chớp có khóa đến.”
Bác sĩ gật đầu tán thành.
Họ bước vào văn phòng. Klein liền gọi cho văn phòng của ông và dặn một người phụ tá mang thiết bị và thuốc men đến tận nhà.
“ Và nhớ chuẩn bị phòng thí nghiệm cho một cuộc xét nghiệm tủy sống.” Klein chỉ thị. “ Tôi sẽ đích thân phụ trách ngay sau khi chích tủy sống ra.”
Gọi điện thọai xong, ông quay lại Chris và hỏi xem kể từ lần ông gặp Regan vừa rồi cho đến nay, có chuyện gì xảy ra.
“ Vâng, hôm thứ Ba,” Chris cân nhắc, “ thì không có chuyện gì xảy ra. Con bé lên ngay giường và ngủ thẳng giấc đến trễ tràng sáng hôm sau, rồi…”
“ Ồ, không, không phải, đợi chút,” nàng đính chính. “ Không, nó không ngủ. Đúng rồi, Willie có cho biết chị ta nghe tiếng nó trong bếp sớm kinh khủng. Tôi còn nhớ là mình rất mừng vì thấy con bé biết thèm ăn trở lại. Nhưng sau đó nó đi ngủ trở lại, tôi đóan vậy, và cứ ở riết trong phòng suốt ngày hôm ấy.”
“ Ngủ suốt à ?” Klein hỏi nàng.
“ Không, tôi nghĩ là nó đọc sách,” Chris đáp. “ Chà, tôi bắt đầu thấy nhẹ nhỏm hơn về điều đó. Tôi muốn nói là hình như chất Librium đúng là điều nó cần. Tôi nhận thấy con bé có phần xa cách và điều đó khiến tôi ưu phiền đôi chút, nhưng dù sao, đó vẫn là một sự cải thiện khá lớn lao. Rồi đêm qua nữa, cũng không có việc gì,” Chris kể tiếp. “ Thế rồi, sáng hôm nay nó lại bắt đầu.”
“ Trời ơi, thực sự là nó đã bắt đầu !” Nàng lắc đầu.
Chris thuật lại cho các bác sĩ nghe, lúc ấy nàng đang ngồi trong bếp thì chợt Regan vừa kêu thét vừa chạy xuống cầu thang tìm mẹ, nó co rúm người lại đằng sau ghế mẹ ngồi trong tư thế tự vệ, vừa bấu chặt lấy hai cánh tay của Chris, vừa giải thích bằng một giọng hãi hùng rằng Đại úy Howdy đang rượt đuổi nó, rằng ông ta đã cấu véo nó, xô đẩy nó, văng tục chửi thề với nó, dọa giết nó. “ Ông ta kia !” Rốt cuộc nó rít lên, chỉ ra cửa bếp. Rồi nó ngã xuống sàn, thân mình nó nẩy lên trong những cơn co thắt, vừa thở hào hển vừa khóc lóc, than rằng Howdy cứ đá nó hòai. Rồi thình lình, Chris kể, Regan đứng giữa nhà bếp, dang hai tay ra, bắt đầu xoay tít “ như con vụ”. Động tác đó cứ tiếp diễn hàng mấy phút cho đến lúc con bé ngã xuống sàn vì kiệt sức.
“ Rồi bất thần,” Chris kết thúc một cách đau đớn. “ Tôi trông thấy sự… oán ghét trong mắt nó, đúng là nỗi oán ghét, rồi nó bảo tôi…”
Nàng nghẹn lời.
“ Nó… gọi tôi là đồ…Ôi, Chúa !”
Nàng bật khóc nức nở, hai tay ôm lấy mặt, khóc rưng rức.
Klein lặng lẽ đến quầy rượu rót một ít nước lạnh từ vòi nước. Ông bước đến bên Chris.
“ Mẹ kiếp, thuốc lá đâu rồi ?” Chris thở dài run rẩy, vừa đưa ngón tay ra quệt nước mắt.
Klein trao cho nàng ly nước và một viên thuốc nhỏ màu lục. “ Uống viên thuốc này đi,” ông khuyên.
“ An thần hả ?”
“ Đúng.”
“ Tôi phải uống gấp đôi kia.”
“ Một viên là đủ rồi.”
“ Quen xài lớn rồi mà,” Chris thì thầm với một nụ cười héo hắt.
Nàng nuốt viên thuốc rồi trao chiếc ly không cho bác sĩ. “ Cám ơn,” nàng nói khẽ, mấy đầu ngón tay run rẩy đỡ lấy chân mày. Nàng khẽ lắc đầu.
“ Vâng, thế là bắt đầu,” nàng tiếp tục mạch chuyện một cách ủ dột. “ Hòan tòan là một cái gì khác hẳn. Cứ như thể nó là một kẻ nào khác vậy.”
“ Như là Đại úy Howdy chẳng hạn ?” David hỏi.
Chris nhìn ông, bối rối. Ông ta nhìn nàng thật chăm chú. “Bác sĩ định nói gì cơ ?” Nàng hỏi.
“ Tôi không biết,” ông nhún vai. “ Chỉ là một câu hỏi thôi.”
Nàng quay sang nhìn lò sưởi với tia mắt ám ảnh, lãng đãng tận đâu đâu. “ Tôi không biết nữa,” nàng nói ơ thờ. “ Đơn giản là một người khác nào đó.”
Một khỏang khắc yên lặng. Sau đó David đứng dậy cho biết ông phải đi đến một cuộc hẹn khác, và sau một vài câu khích lệ, ông cáo biệt.
Klein đưa ông ra cửa. “ Anh sẽ kiểm sóat chất đường chứ ?” David hỏi ông.
“ Không, tôi chỉ là một chàng ngốc trong làng Rosslyn thôi.”
David cười nhẹ. “ Chính tôi cũng hơi lúng túng về trường hợp này,” ông bảo. Ông trầm ngâm quay đi. “ Một ca kỳ lạ.”
Suốt một lúc, ông cứ xoa cằm ra dáng tư lự. Sau đó, ông ngước lên nhìn Klein. “ Nhớ cho tôi biết điều anh khám phá được nhé ?”
“ Anh về à ?’
“Vâng, tôi về nhà. Nhớ gọi nhé !” Ông vẫy tay tạm biệt, rồi cáo lui.
------------------------------
Một lúc sau, khi thiết bị đã được chở đến, Klein liền gây mê vùng cột sống của Regan bằng chất novocain, rồi trước sự chứng kiến của Chris và Sharon, ông trích dịch tủy sống ra, mắt vẫn quan sát áp kế. “ Áp suất bình thường,” ông thì thầm.
Lúc xong, ông ra phía cửa sổ để xem thử dịch tủy trong hay đục.
Dịch tủy trong.
Ông cẩn thận bỏ các ống nghiệm chứa dịch tủy vào túi y khoa.
Klein căn dặn người mẹ. “ Tôi không tin là cô bé sẽ tỉnh giấc đâu, nhưng đề phòng trường hợp nó lại tỉnh lúc nửa đêm và gây náo lọan, có lẽ bà phải cần đến một người điều dưỡng trực sẳn để chích thuốc an thần cho nó.”
“ Tôi làm được chứ ?” Chris lo lắng hỏi.
“ Tại sao không nhờ một người điều dưỡng ?”
Nàng không muốn đề cập đến thái độ nghi ngại rất sâu sắc của nàng đối với giới bác sĩ, y tá. “ Tôi muốn tự đảm đương lấy,” nàng nói dung dị. “Được chứ ạ ?”
“ Chà, việc chích thuốc rất dễ gặp bất trắc,” ông trả lời. “Chỉ cần có một bọt không khí thôi, cũng đủ nguy hiểm lắm rồi.”
“ Ồ, việc đó tôi làm được mà,” Sharon nói chen vào. “ Mẹ tôi điều hành một bệnh xá ở Oregon.”
“ Thế nữa ! Cô sẽ giúp được chứ, Sharon. Cô ở lại đêm nay được chứ ?” Chris hỏi cô gái.
“ Chà, còn quá đêm nay nữa đấy,” Klein ngắt lời. “ Có thể cô bé sẽ cần được tiếp chất dinh dưỡng vào tĩnh mạch, tùy theo tình trạng tiến triển ra sao.”
“ Bác sĩ dạy tôi cách truyền dịch, được không ?” Chris bồn chồn hỏi.
Ông gật đầu. “ Vâng, được thôi.”
Ông ra toa mua chất Thorazin lọai hòa tan và các ống chích lọai dùng xong rồi bỏ. Ông trao toa cho Chris. “ Bà cho kiếm các thứ này ngay.”
Chris trao toa cho Sharon. “ Nè, cưng, giúp giùm chị việc này nhé ? Chỉ cần gọi điện thọai là họ đưa đến ngay. Tôi muốn tháp tùng bác sĩ lúc ông làm các xét nghiệm này… Có gì phiền không ạ ?” Nàng hỏi bác sĩ.
Ông nhận thấy nét căng thẳng quanh đôi mắt nàng, vẻ băn khoăn và bơ vơ, tuyệt vọng. Ông gật đầu.
“ Tôi hiểu tâm trạng bà,” ông mỉm cười dịu dàng với nàng. “ Tâm trạng tôi cũng y như thế khi tôi bảo người thợ máy coi ngó dùm chiếc xe hơi của tôi vậy.”
Họ rời nhà đúng 6 giờ 18 phút tối.
---------------------------
Trong phòng thí nghiệm của ông tại trung tâm y khoa Rosslyn, Klein làm một số các xét nghiệm. Đầu tiên ông phân tích hàm lượng protein.
Bình thường.
Kế tiếp là đếm lượng huyết cầu.
“ Quá nhiều hồng cầu,” Klein giải thích, “có nghĩa là xuất huyết. Còn quá nhiều bạch cầu có nghĩa là bị nhiễm trùng.”
Ông đặc biệt tìm kiếm một sự nhiễm trùng thể nấm, cái thường là nguyên nhân gây ra chứng hành vi kỳ quặc mãn tính. Lại một lần nữa, vẫn không có kết quả.
Cuối cùng, Klein làm xét nghiệm hàm lượng đường trong dịch tủy.
“ Tại sao ?” Chris hỏi với vẻ miệt mài.
“ Như thế này đây, lượng đường trong tủy sống,” ông giải thích, “ phải đo được bằng hai phần ba lượng đường trong máu. Bất cứ một hàm lượng nào thấp hơn một cách đáng kể so với tỷ lệ trên đều có ý nghĩa là đối tượng đã mắc phải một chứng bệnh, trong đó vi trùng ăn mất đường trong dịnh tủy sống. Và nếu như vậy, nó có thể giải thích cho những triệu chứng của cô bé.”
Nhưng ông lại không tìm thấy gì.
Chris lắc đầu, khoanh tay. “ Chúng ta lại dậm chân tại chỗ,” nàng thầm thì vẻ ảm đạm.
Klein trầm ngâm mất một lúc. Cuối cùng ông quay lại nhìn Chris. “ Trong nhà bà có cất các lọai thuốc men gì không ?” Ông hỏi nàng.
“ Hở ?”
“ Amphetamines ? LSD ?”
“ Ồ, không. Không làm gì có mấy thứ đó.”
Ông gật đầu, nhìn đăm đăm mũi giày. Một lúc sau, ông ngước lên nói: “ Chà, tôi nghĩ đã đến lúc ta phải tham khảo ý kiến một nhà tâm thần học rồi, bà MacNeil.”
Nàng về đến nhà đúng 7 giờ 21 phút tối. Đứng ở cửa, nàng gọi. “ Sharon ?”
Sharon không có nhà.
Chris lên gác, đến phòng ngủ Regan. Cô bé vẫn ngủ say. Tuyệt không một nếp gợn trên chăn đắp. Chris để ý thấy cánh cửa sổ mở toang hóac. Có mùi nước tiểu. Chắc là Sharon mở cửa cho thóang khí, nàng nghĩ… Nàng đóng cửa lại. Cô ta đi đâu nhỉ ?
Chris quay xuống cầu thang vừa vặn lúc Willie bước vào.
“ Ủa, Willie. Hôm nay có gì vui không ?”
“ Đi mua sắm. Xem phim.”
“ Karl đâu ?”
Willie phát một cử chỉ thỏa thích. “ Anh ấy chịu cho tôi đi xem ban Beatles lần này. Một mình.”
“ Thành công nhé !”
Willie giơ hai ngón tay thành hình chữ V. Lúc đó là 7 giờ 30 phút.
Hồi 8 giớ 01phút, lúc Chris đang ngồi điện đàm với người đại diện của nàng trong văn phòng, thì Sharon bước vào cửa, xách đủ mọi lọai gói lỉnh kỉnh, rồi ngồi phịch xuống ghế, chờ đợi.
“ Nãy giờ cô đi đâu ?”
“ Ủa, ông ấy không bảo chị sao ?”
“ Gì, ông nào không bảo tôi cái gì?”
“ Thì Burke ấy. Ông ấy không có đây sao ? Ông ta đâu rồi ?”
“ Ông ta có ở đây à ?”
“ Chị muốn nói là ông ta không có ở đây lúc chị về đến nhà ư ?”
“ Nào, kể hết lại đầu đuôi cho tôi nghe.” Chris bảo.
“ Ôi, cái ông điên khùng ở đâu ấy,” Sharon vừa lắc đầu, vừa quở. “ Số là em không bảo được nhà thuốc giao các thứ tới nhà, nên chợt lúc Burke đến đây, em mới bảo, dạ, được rồi, cứ để ông ta ở lại trông chừng dùm Regan, còn mình đi lấy Thorazin về.” Cô gái nhún vai. “ Lẽ ra em phải biết cớ sự như thế này.”
“ Đúng, lẽ ra cô phải biết. Thế cô mua những gì thế ?”
“ Thì em cứ nghĩ là mình có thời gian, nên em đã đi mua một tấm “ra” trải giường bằng cao su cho giường bé Regan.” Cô gái chưng tấm “ ra” ra.
“ Cô ăn chưa ?”
“ Chưa, em sẽ đi làm một miếng xăng úych. Chị dùng một miếng chứ ?”
“ Hay lắm. Ta đi ăn đi.”
“ Mấy cái xét nghiệm kết quả ra sao ?” Sharon hỏi trong lúc hai người thong thả đi xuống bếp.
“ Không thấy gì cả. Âm tính hết. Tôi sắp phải đi mời cho nó một bác sĩ tâm thần.” Chris chán nản đáp.
---------------------------
Ăn xăng úych và uống cà phê xong, Sharon chỉ dẫn cho Chris cách chích thuốc.
“ Hai điều chính yếu,” cô gái giải thích, “ là phải bảo đảm không có bọt không khí nào, kế đến phải biết chắc là chị không chạm đến một tĩnh mạch nào. Xem đây, chị hút ra một chút, như thế này đây” – cô gái biểu diễn – “xem có máu trong ống chích không.”
Trong một lúc, Chris cứ thực tập cách chích trên trái bưởi và trông có vẻ thành thạo thấy rõ. Sau đó, lúc 9 giờ 28 phút, chuông điện thọai ngòai cửa reo vang. Wille ra mở cửa. Đó là Karl. Lúc đi ngang qua bếp, trên đường về phòng riêng, Karl gật đầu chúc mọi người ngủ ngon và cho biết anh ta quên đem chìa khóa theo. “ Tôi không sao tin nổi,” Chris bảo Sharon. “ Đây là lần đầu tiên, anh ta nhận một lỗi lầm.”
Họ xem ti vi cho qua buổi tối, trong phòng khách.
Hồi 11 giờ 46 phút, Chris trả lời điện thọai. Người đạo diễn trẻ của đơn vị hai gọi đến. Giọng anh ta đầy vẻ nghiêm trọng.
“ Chị hay tin đó chưa hở, Chris ?”
“ Chưa, tin gì vậy ?”
“ Chà, tin xấu lắm.”
“ Tin gì vậy ?” nàng hỏi.
“ Burke chết rồi.”
Ông ta say. Bị vấp chân. Ông ngã xuống bậc cấp thật dốc bên cạnh nhà Chris, rơi mãi xuống đến chân bậc cấp, nơi có khách bộ hành đi ngang qua trên Phố M đã trông thấy lúc ông lăn lông lốc vào cõi đêm tối vô tận. Cổ bị gãy. Cái cảnh dúm dó đẩm máu này là cảnh chót trong cuộc đời đạo diễn của ông.
Lúc ống điện thọai rời khỏi các ngón tay của Chris là lúc mà nàng đang khóc lặng lẽ, chân đứng không muốn vững. Sharon chạy lại, chụp lấy nàng, máng ống điện thọai vào máy, rồi dẫn nàng đến trường kỷ.
“ Burke chết rồi.” Chris thổn thức.
“ Ôi, lạy Chúa !” Sharon há hốc mồm.” Chuyện gì vậy ?”
Nhưng Chris chưa thể nói được. Nàng khóc.
Rồi sau đó, họ chuyện trò. Hàng mấy giờ liền. Hai người cứ trò chuyện. Chris uống rượu. Nàng tưởng nhớ đến Dennings. Khi khóc, khi cười. “ Ôi, lạy Chúa,” nàng thở dài suốt. “ Tội nghiệp Burke, tội nghiệp Burke quá…”
Lúc 5 giờ sáng, Chris đứng ủ dột sau quầy rượu, khủyu tay chống trên quầy, đầu cuối thấp, đôi mắt buồn thảm. Nàng chờ đợi Sharon mang một khay nước đá từ bếp quay lại.
Nàng nghe có tiếng cô gái đi tới.
“ Em vẫn không tin được điều ấy,” Sharon thở dài lúc cô bước vào văn phòng.
Chris ngước lên và tê cóng người lại.
Sát đàng sau Sharon, lướt nhanh như một con nhện, thân thể oằn ngược ra sau thành một cách cung, đầu gần chấm gót chân, chính là Regan, lưỡi cô bé lè ra thụt vào nhanh loang lóang trong khi cô bé cứ húyt lên siên siết như một con rắn.
“ Sharon ?” Chris nói trong cơn chết lặng, mắt vẫn nhìn đăm Regan.
Sharon dừng lại. Regan cũng dừng theo. Sharon quay lại và không trông thấy gì cả. Thế rồi cô thét lên lúc cảm biết lưỡi Regan đang trườn ra như rắn liếm lấy mắt cá chân cô.
Chris tái mét mặt mày. “ Gọi ngay ông bác sĩ đó, kéo ông ta ra khỏi giường ! Bảo ông ấy đến ngay bây giờ !”
Sharon di chuyển đến bất cứ đâu, Regan cũng theo bén gót.
7.
Thứ Sáu, ngày 29 tháng Tư. Trong lúc Chris chờ đợi nơi hành lang bên ngòai phòng ngủ, bác sĩ Klein và một bác sĩ thần kinh tâm thần nổi tiếng khám bệnh cho Regan.
Hai vị bác sĩ quan sát suốt nửa tiếng đồng hồ. Vứt ném. Quay lông lốc. Bứt tóc bứt tai. Thỉnh thỏang cô bé còn nhăn mặt, hai tay bịt chặt lấy tai như muốn xua đi những tiếng động thình lình điếc cả tai. Cô rống lên những tiếng tục tĩu. La hét và đau đớn. Rồi rốt cuộc cô lao sấp mặt xuống giường, đưa hai chân lên thủ dưới bụng. Cô rên rỉ những tiếng rời rạc, không đâu vào đâu.
Vị bác sĩ tâm thần ra dấu cho Klein rời khỏi giường.
“ Ta hãy chích thuốc an thần cho cô bé.” Ông thì thầm. “ Có lẽ tôi sẽ nóichuyện được với nó.”
Vị bác sĩ nội trú gật đầu và chuẩn bị chích một liều năm mươi mi li gam chất Thorazine. Tuy nhiên, khi hai bác sĩ lại gần giường, Regan giường như cảm thấy được sự có mặt của họ, liền quay đi, và lúc vị bác sĩ thần kinh tâm thần toan giữ lấy cô, cô bắt đầu rít lên từng cơn cuồng nộ hung hiểm. Cô cắn ông. Cô đánh ông. Cô chận không cho ông lại gần. Chỉ đến khi Karl được gọi đến giúp sức thì họ mới tạm giữ yên được cô đủ cho Klein chích xong mũi thuốc.
Liều thuốc đó tỏ ra không đủ. Lại thêm một liều năm mươi mi li gam nữa được chích tiếp. Mọi người chờ đợi.
Regan trở nên thuần lại. Rồi có vẻ mơ mộng. Sau đó, cô ngó chăm chăm các bác sĩ trong nỗi hoang mang bất ngờ. “ Mẹ cháu đâu ? Cháu muốn mẹ cháu.” Cô bé khóc.
Vị bác sĩ thần kinh tâm thần gật đầu, Klein liền rời phòng đi mời Chris đến.
“ Mẹ cháu sẽ đến ngay, cưng,” vị bác sĩ thần kinh tâm thần bảo Regan. Ông ngồi xuống giường xoa đầu cô bé. “ Nào, nào, cứ yên tâm đi cháu, tôi là bác sĩ mà.”
“ Cháu muốn mẹ cháu cơ !” Regan khóc.
“ Mẹ cháu đang đến. Cháu có đau không ?”
Cô bé gật đầu, nước mắt chảy ròng ròng.
“ Đau chỗ nào?”
“ Chỗ nào cũng đau hết !” Regan nức nở. “ Cháu thấy đau khắp cả người.”
“ Ôi, con tôi !”
“ Mẹ !”
Chris chạy lại giường ôm chầm lấy con. Hôn nó. An ủi dỗ dành nó. Rồi đến lượt Chris cũng bắt đầu khóc. “Ôi, Rags, con trở lại rồi ! Đây mới đúng thật là con !”
“ Mẹ à, ông ấy làm đau con !” Regan sụt sịt. “ Bảo ông ấy đừng làm đau con nữa đi mẹ ! Nghe mẹ ! Được chứ mẹ ?”
Chris lộ vẻ bối rối giây lát, rồi nàng liếc nhìn hai bác sĩ với vẻ hỏi han đầy thỉnh cầu trong đôi mắt.
“ Cô bé đã được chích thuốc an thần với liều lượng mạnh,” vị bác sĩ thần kinh khẽ bảo.
“ Bác sĩ muốn bảo là…?”
Ông ngắt lời nàng. “ Ta sẽ xem.” Xong ông quay sang Regan. “ Cháu có thể nói cho tôi biết cháu đau thế nào không?”
“ Cháu không biết nữa,” cô bé đáp. “Cháu không hiểu vì sao ông ta cư xử như thế với cháu.” Lệ rơi đầm đìa trên má cô bé. “ Trước đây, lúc nào ông cũng là người bạn tốt.”
“ Ông ta là ai ?”
“ Đại úyHowdy ! Thế rồi dường như có một ai khác nữa ở trong người cháu ! Bắt cháu làm đủ mọi thứ chuyện.”
“ Đại úy Howdy chăng ?”
“ Cháu không biết.”
“ Một người ?”
Cô bé gật đầu.
“ Ai vậy ?”
“ Cháu không biết !’
“ Thôi được rồi, bây giờ ta sẽ làm thử cái này, cháu Regan nhé. Một trò chơi.” Ông thò tay vào túi móc ra một món trang sức sặc sỡ được gắn vào một chuỗi dây chuyền bạc. “ Cháu có bao giờ xem phim thấy người ta được thôi miên chưa ?”
Cô bé gật đầu.
“Tốt, tôi là một nhà thôi miên đây. Đúng thế đấy, tôi cứ thôi miên người ta suốt thôi. Dĩ nhiên là nếu người ta bằng lòng cho phép tôi. Bây giờ, tôi nghĩ là nếu tôi thôi miên cháu, Regan ạ, cháu sẽ khỏe mạnh trở lại. Đúng vậy, cái người trong cháu sẽ đi ra ngay. Cháu muốn tôi thôi miên chứ ? Đó, có mẹ cháu ngay đây, bên cạnh cháu đó.”
Regan nhìn mẹ, dò hỏi.
“ Cứ làm điều ấy đi cưng,” Chris thúc giục con. “ Cứ thử xem.”
Regan quay sang vị bác sĩ tâm thần và gật đầu. “ Được ạ.” Cô bé khẽ nói. “ Nhưng một chút thôi.”
Vị bác sĩ tâm thần mỉm cười và chợt nhìn ra sau, nơi có tiếng đồ gốm bể nát sau lưng ông. Một chiếc lọ hoa mong manh từ mặt chiếc ngăn tủ kéo nơi bác sĩ Klein đang tựa tay rơi xuống sàn nhà. Ông nhìn xuống cánh tay mình rồi ngó tiếp xuống những mảnh vỡ vụn với vẻ bối rối. Rồi ông cúi xuống nhặt mấy mảnh vỡ lên.
“ Không sao đâu, bác sĩ, cứ để Willie thu dọn.” Chris bảo ông.
“ Sam, anh làm ơn đóng hộ tôi mấy cánh cửa chớp kia lại,” vị bác sĩ tâm thần nhờ bạn, “ và kéo màn cửa xuống.”
Lúc căn phòng đã tối lại, vị bác sĩ tâm thần nắm sợi dây chuyền trên mấy đầu ngón tay khởi sự lắc món trang sức qua lại với một động tác thỏai mái. Ông rọi đèn bấm lên món trang sức. Nó ngời sáng lắp lánh. Ông bắt đầu xướng câu chú thôi miên. “ Bây giờ Regan này, cháu hãy nhìn đây, nhìn chăm chú vào, thế rồi mí mắt cháu sẽ càng lúc càng nặng trĩu…”
Chỉ nội trong một thời gian rất ngắn, cô bé đã có vẻ hôn mê.
“ Cực kỳ dễ dẫn dụ,” vị bác sĩ tâm thần thì thào. Rồi ông bảo cô bé.
“ Cháu thấy dễ chịu chứ, Regan.”
“ Vâng,” giọng cô bé nhẹ và thì thầm.
“ Cháu mấy tuổi rồi, Regan ?”
“ Mười hai.”
“ Có người nào đó ở trong cháu không ?”
“ Thỉnh thỏang.”
“ Khi nào ?’
“ Khi này khi khác.”
“ Một người phải không ?”
“ Vâng.”
“ Ai thế ?”
“ Cháu không biết.”
“ Đại úy Howdy ?”
“ Cháu không biết.”
“ Một người đàn ông ?”
“ Cháu không biết.”
“ Nhưng y có ở đó.”
“ Vâng, thỉnh thỏang.”
“ Còn bây giờ ?”
“ Cháu không biết.”
“ Nếu tôi bảo y nói, cháu sẽ để cho y trả lời tôi chứ ?”
“ Không !”
“ Tại sao không ?”
“ Cháu sợ lắm.”
“ Sợ gì ?”
“ Cháu không biết.”
“ Regan này, nếu y nói chuyện với tôi, tôi nghĩ là y sẽ ra khỏi cháu. Cháu có muốn y ra khỏi cháu không ?”
“ Có.”
“ Vậy thì hãy để y nói. Cháu dể y nói chứ ?”
Một lúc ngập ngừng. Sau đó: “Vâng.”
“ Bây giờ tôi nói với người ẩn bên trong Regan đây,” vị bác sĩ tâm thần nói một cách đanh thép, “ nếu người có ở đó, chính người nữa cũng đã bị thôi miên và phải trả lời mọi câu hỏi của ta.” Ông dừng lại một lúc để cho lời ám thị của ông lắng sâu vào mạch của cô bé. Rồi nhắc lại. “ Nếu người ở đó, chính người nữa cũng đã bị thôi miên và phải trả lời mọi câu hỏi của ta. Bây giờ hãy ra mặt đi và trả lời: ngươi có ở đó không ?”
Yên lặng. Rồi một điều lạ lùng xảy ra: hơi thở của Regan chợt trở nên hôi thối. Đặc sánh như một luồng nước. Đứng cách đó khỏang bảy tấc, vị bác sĩ tâm thần ngửi thấy rõ mùi đó. Ông rọi đèn bấm vào mặt Regan.
Chris cố nén cho khỏi há hốc mồm. Những nét biểu hiện trên khuôn mặt Regan đã nhúm nhó lại thành một chiếc mặt nạ hung ác: mồm bạnh căng ra hai bên, cái lưỡi sưng tấy thè ra như lưỡi chó sói.
“ Ôi, Chúa ơi !” Chris thì thào.
“ Có phải ngươi là người ở trong Regan không ?” Bác sĩ tâm thần hỏi.
Cô bé gật đầu.
“ Ngươi là ai ?’
“ Nowonmai,” cô bé trả lời trong họng.
“ Tên ngươi đó chăng ?”
Cô bé gật đầu.
“ Ngươi là một người à ?”
Cô bé đáp. “ Đâu đó.”
“ Ngươi trả lời đó chăng ?”
“ Đâu đó.”
“ Nếu tiếng đó có nghĩa là “phải” thì hãy gật đầu.”
Cô bé gật đầu.
“ Ngươi đang nói bằng một ngọai ngữ chăng ?”
“ Đâu đó.”
“ Ngươi từ đâu đến ?”
“ Chó.”
Vị bác sĩ tâm thần suy nghĩ giây lát, rồi ông thử cách khác. “ Bây giờ khi ta đưa ra một câu hỏi, ngươi hãy trả lời bằng cử động đầu: một cái gật đầu là “phải”, một cái lắc đầu là “không”. Ngươi hiểu chứ ?”
Regan gật đầu.
“ Những câu trả lời của ngươi có ý nghĩa chứ ?” Ông hỏi cô bé. - Phải.
“ Ngươi có phải là một người Regan có quen biết không ?” - Không
“ Là người Regan có nghe nói đến không ?” – Không.
“ Có phải ngươi là người cô bé bịa đặt ra không ?” – Không.
“ Ngươi có thật ?” - Phải.
“ Một phần của Regan ?” – Không.
“ Ngươi đã từng là một phần của Regan chứ ?” – Không.
“ Ngươi thích cô bé không ?” – Không
“ Ngươi ghét cô bé à ?” - Phải.
“ Ghét vì một điều cô ấy đã làm ?” - Phải.
“ Ngươi có trách móc cô bé về chuyện bố mẹ cô bé ly dị không ?” – Không.
“ Điều đó có liên quan gì đến cha mẹ cô bé không ?” – Không.
“ Đến một người bạn nào đó ?” – Không.
“ Nhưng ngươi óan ghét cô ấy ?” - Phải.
“ Có phải ngươi đang trừng phạt Regan không ?” - Phải.
“ Ngươi muốn hãm hại cô bé ?” - Phải.
“ Muốn giết cô bé ?” - Phải.
“ Nếu cô ta chết, há ngươi không chết luôn sao ?” – Không.
Câu trả lời đó có vẻ làm ông bất an. Ông cau mày suy nghĩ. Mấy chiếc lò xo giường kêu kin kít lúc ông xoay trở thân mình. Trong sự tĩnh lặng ngột ngạt, tiếng thở của Regan hầng hậc như thụt từ một ống thổi thối tha, rữa nát. Ngay sát đây. Nhưng mà lại xa. Hung hiểm gở ác một cách xa xôi.
Vị bác sĩ tâm thần lại ngước lên nhìn khuôn mặt méo mó, độc ác kia. Đôi mắt ông ngời lên nét suy tư.
“ Có điều gì cô bé có thể làm khả dĩ bắt buộc ngươi phải ra khỏi cô bé không ?” – Có.
“ Ngưoi có thể nói đó là điều gì chứ ?” - Phải.
“ Ngươi nói cho ta nghe chứ ?” – Không.
“ Nhưng…”
Thình lình, vị bác sĩ tâm thần há hốc mồm vì cơn đau bất chợt làm ông kinh hãi đến mức không thể tin nổi mà nhận ra rằng Regan đang bóp bìu *** của ông bằng bàn tay trước đó đã kẹp lấy ông như một chiếc vuốt sắt. Mắt trợn trừng, ông vun vẩy để thóat thân. Ông không sao thóat ra được. “ Sam,Sam ơi! Cứu tôi với !” Ông rên ư ử.
Đau đớn cực cùng. Đúng là một trại điên.
Chris ngướcmắt, rồi nhảy vọt lên lần núm bật đèn.
Klein lao đến.
Regan đầu ngữa ra sau, cười khằng khặc như một ác qủy, rồi tru lên như sói.
Chris vỗ vào núm bật. Đèn sáng. Nàng chứng kiến một cuốn phim giần giật, sần sùi mô tả một cơn ác mộng ở tốc độ chậm: Regan và hai bác sĩ quằn quại trên giường trong một nùi hỗn độn những chân và tay quơ quào, trong một cuộc hỗn chiến của những khuôn mặt nhăn nhó, của những tiếng thở hào hển và những tiếng nguyền rủa, của tiếng tru tréo, tiếng sủa ăng ẳng và tiếng cười gớm ghiếc, với vai nữ Regan kên ủn ỉn như heo, Regan hí như ngựa; thế rồi cuốn phim chạy nhanh hơn và khung giường lắc lư dữ dội, nhồi từ bên này sang bên kia, còn Chris bất lực đứng ngó lúc con gái hai mắt trợn ngược, rít lên một tiếng thét hãi hùng mà nẩy người lên khỏi bệ cột sống một cách tàn bạo.
Regan ngã gục xuống và bất tỉnh. Sau đó thong thả và thận trọng, các bác sĩ gỡ người ra, đứng lên. Họ nhìn Regan chăm chăm. Một lúc sau, bác sĩ Klein, mặt vẫn phớt tỉnh, bắt mạch cho Regan. Ra vẻ hài lòng, ông chậm rãi kéo chăn đắp cho cô bé rồi gật đầu ra dấu cho mấy người kia. Họ rời phòng, đi xuống văn phòng.
Suốt một lúc, không ai nói năng gì. Chris tọa trên trường kỷ. Klein và vị bác sĩ tâm thần ngồi trên hai ghế đối diện nàng. Vị bác sĩ tâm thần rất tư lự, cứ véo môi lúc nhìn bàn cà phê, rồi ông thở dài và ngước lên nhìn Chris. Nàng xoay tia nhìn héo hắt về phía ông. “ Điều quái quỷ gì đang diễn ra ở đây ?’ Nàng hỏi bằng một giọng thì thào, hốc hác, nhuốm màu tang tóc.
“Bà có nhận ra thứ ngôn ngữ cô bé vừa nói lúc nãy không ?” Ông hỏi nàng.
Chris lắc đầu.
“ Bà có theo tôn giáo nào không?”
“ Không ?”
“ Con gái bà ?”
“ Cũng không.”
Bác sĩ tâm thần lúc đó mới hỏi nàng một lọat các câu hỏi lên quan đến tiểu sử tâm lý của Regan. Rốt cuộc. khi đã kết thúc, ông có dáng băn khoăn.
“ Sao ?” Chris hỏi ông, mấy ngón tay có các khớp trắng hếu cứ xoắn lại rồi lại buông chiếc khăn tay, vò nó thành một nùi tròn. “ Con bé mắc chứng gì vậy ?”
“ Chà, điều đó cũng khá mơ hồ,” vị bác sĩ tâm thần tránh né. “Thành thật mà nói về phần mình, sẽ hết sức là vô trách nhiệm nếu tôi lại đưa ra một lời chẩn đóan sau có một lần khám quá sức vắn tắt như vậy.”
“ Nhưng mà, chắc bác sĩ cũng phải có ý kiến nào đó chứ,” nàng khăng khăng.
Vị bác sĩ tâm thần thở dài, sờ lên mày. “ Vâng, tôi hiểu là bà hết sức ưu tư, nên tôi xin nêu ra một vài cảm nghĩ có tính cách gợi ý thôi.”
Chris nghiêng người ra trước, gật đầu, vẻ căng thẳng. Mấy ngón tay đặt trên lòng nàng bắt đầu sờ sọang chiếc khăn tay, lượn lờ trên các đường chỉ ở viền khăn cứ như chúng là một chuỗi hạt để cầu nguyện với những hạt bằng vải nhăn nhíu.
“ Để bắt đầu,” ông bảo nàng, “ tôi xin thưa rằng, rất khó có thể cho rằng cô bé giả vờ được.”
Klein gật đầu đồng ý.
“ Chúng tôi suy nghĩ như thế vì một số các lý do,” nhà tâm thần học tiếp tục. “Chẳng hạn như, những co giật đau đớn và dị thường, và điều gây ấn tượng sâu sắc nhất, theo tôi, chính là ở sự thay đổi trên nét mặt của cô bé lúc chúng ta nói chuyện với cái gọi là nhân vật mà cô bé cho là ở bên trong cô. Bà thấy đó, một tác dụng tâm thần như thế khó có thể xảy ra trừ phi cô bé đã tin ở nhân vật đó. Bà theo kịp chứ ?’
“ Tôi nghĩ là mình hiểu,” Chris trả lời, mắt nàng lác xệch trong nổi bối rối. “Duy có một điều tôi không hiểu, đó là nhân vật này đến từ đâu. Tôi muốn nói là người ta cứ nghe nói hòai về chứng bản ngã phân liệt, nhưng thực tế tôi lại chưa bao giờ được biết đến một lời giải thích nào.”
“ Vâng, mà cũng chưa có ai khác được biết đến cả, thưa bà MacNeil. Chúng ta sử dụng những ý niệm như là “ý thức” - “tâm trí” - “bản ngã”, nhưng thực sự chúng ta vẫn chưa biết được chúng là gì.” Ông lắc đầu. “ Thực sự là không. Hòan tòan không. Cho nên khi tôi bắt đầu nói về một điều giống như thể bản ngã phân liệt hay bản ngã đa trùng, thì tất cả những gì chúng ta có chỉ là dăm ba lý thuyết mang tính chất gây thêm nhiều thắc mắc hơn là đưa ra những giải đáp. FREUD quan niệm rằng một số các ý tưởng và tình cảm nào đó, bằng cách này hay cách khác, bị ý thức kềm chế, dồn nén lại, nhưng vẫn tồn tại sống động trong tiềm thức của một con người; thực vậy, chúng tồn tại thật mạnh mẽ và tiếp tục tìm cách thể hiện ra bằng các triệu chứng tâm thần khác nhau. Rồi khi cái bị dồn nén này, hay ta cứ gọi nó là chất liệu phân ly này - từ “phân ly” hàm ý một sự tách rời ra khỏi dòng ý thức – vâng, khi lọai chất liệu này đã đủ mạnh mẽ, hay khi bản ngã của người đó đã bị rối lọan và suy yếu, sẽ phát sinh hệ quả là chứng tâm thần phân liệt.” Ông lưu ý. “ Phải nói thêm là chứng ấy không đồng nghĩa với chứng nhị trùng bản ngã. Chứng tâm thần phân liệt mang ý nghĩa của một sự đổ vỡ tan tành của bản ngã. Nhưng trong trường hợp cái chất liệu phân ly ấy đã đủ mạnh để - bằng cách nào đó khắng khít dính chặt vào với nhau, bằng cách nào đó tổ chức đựơc, cấu thành được trong tiềm thức của cá nhân đó – thì lúc ấy, lắm khi, nó được biết là sẽ họat động độc lập như thể một bản ngã riêng biệt, nó sẽ tiếp thu các chức năng của cơ thể.
Ông hít một hơi thở dài, Chris lắng nghe chăm chú, và ông lại tiếp tục. “ Đó là một lý thuyết. Còn có nhiều lý thuyết khác, một vài lý thuyết trong số đó bao hàm ý niệm về sự trốn thóat vào cõi vô thức, trốn thóat khỏi các xung đột hay rắc rối tình cảm. Trở lại trường hợp cháu Regan, cô bé chưa hề có bệnh sử mắc chứng tâm thần phân liệt và trên điện não đồ cũng không hề xuất hiện dạng sóng điện não thường đi liền với chứng bệnh ấy. Cho nên tôi có khuynh hướng bác bỏ chứng tâm thần phân liệt. Nếu thế thì chúng ta chỉ còn lại lãnh vực tổng quát của chứng loạn thần kinh ít-tê-ri mà thôi.”
“ Tôi cũng bị chứng ấy tuần trước đây,” Chris thì thầm một cách thê thảm.
Vị bác sĩ tâm thần ưu tư đó khẽ mỉm cười. “ Chứng ít-tơ-ri ,” ông nói tiếp, “là một thể loại thần kinh trong đó các rối loạn tình cảm bị chuyển dạng thành các rối loạn thuộc thể. Chẳng hạn, trong chứng suy nhược thần kinh, người bệnh mất ý thức về các hành động của y, y nhìn thấy chính y hành động nhưng lại gán những hành động của y đó cho một người khác. Tuy nhiên, ý tưởng của y về cái bản ngã, về cái nhân cách thứ hai đó, thì mơ hồ; còn Regan thì lại có vẻ rành mạch, rõ ràng. Do đó, chúng ta đi đến một triệu chứng mà FREUD thường gọi là thể “chuyển dạng” của chứng lọan thần knh ít-tơ-ri. Nó phát sinh từ những mặc cảm phạm tội trong cõi vô thức và nhu cầu phải bị trừng phạt. Tính cách phân liệt hết sức nổi bật ở đây, có thể tính cả đến chứng bản ngã đa trùng cũng nên. Và hội chứng đó có lẽ còn bao gồm cả những co giật như trong bệnh động kinh, những ảo giác, sự kích thích cơ vận động khác thường.”
“ Chà, điều đó nghe ra rất giống trường hợp của Regan” Chris đánh bạo nhận xét trong nỗi âu sầu. “ Bác sĩ có nghĩ thế không ? Ý tôi muốn nói là ngọai trừ cái phần mặc cảm phạm tội. Cháu nó có thể mang mặc cảm phạm tội về chuyện gì mới được chứ ?”
“ Vâng, một câu trả lời đã thành khuôn sáo,” vị bác sĩ tâm thần đáp, “ có lẽ là vì vụ ly dị. Trẻ con thường cảm thấy chính chúng là kẻ bị lọai bỏ, bị bỏ rơi, và chịu hòan tòan trách nhiệm về sự ra đi của một bậc cha mẹ. Trong trường hợp con gái bà, có lý do để tin rằng đó có thể chính là nguyên do. Ở đây, tôi đang suy nghĩ về nỗi ưu tư và phiền muộn sâu sắc đối với ý niệm về cái chết của con người, chứng sợ hãi sự chết. Ở trẻ con, người ta thấy chứng đó có kèm theo sự hình thành của mặc cảm phạm tội có liên quan đến sự khủng hỏang trong gia đình, rất thường thấy là nỗi sợ hãi bị mất cha hoặc mẹ. Nó sản sinh ra cơn giận hỏang và tâm trạng tuyệt vọng sâu đậm. Thêm vào đó, tội lỗi trong chứng ít-tê-ri kiểu này không nhất thiết được ý thức biết đến. Thậm chí nó còn có thể là thứ tội lỗi mà ta gọi là “thả nổi”, một thứ tội lỗi chung chung không có liên quan đến điều cá biệt.” Ông kết luận.
Chris lắc đầu. “ Tôi thấy rối tung rối mù cả,” nàng thì thầm. “ Ý tôi muốn nói là cái bản ngã mới này bắt đầu từ chỗ nào chứ ?”
“ Vâng, một lần nữa, đây là một sự ức đóan,” ông đáp, “ chỉ là một sự ức đóan thôi - nhưng giả thiết rằng đó là chứng lọan thần kinh ít-tê-ri ở thể chuyển dạng bắt nguồn từ mặc cảm tội lỗi, thì cái bản ngã thứ hai kia đơn giản là tác nhân hành xử quyền trừng phạt. Nếu bản thân Regan phải làm điều đó, thì bà thấy, thế có nghĩa là cô bé công nhận tội lỗi của mình. Đằng này cô bé lại trốn thóat việc công nhận đó. Do đó mới phát sinh một bản ngã thứ hai.”
“ Và đó chính là hội chứng mà bác sĩ nghĩ là con bé mắc phải.”
“ Như đã nói, tôi không biết,” nhà tâm thần học đáp, vẫn tránh né. Có vẻ như ông đang chọn lựa các từ ngữ như ông đang chọn các hòn đá đầy rêu phong để lấy lối đi qua một khe suối. “ Thật là cực kỳ bất thường đối với một đứa bé ở tuổi Regan lại có thể tập họp và tổ chức được các thành phần của một bản ngã mới. Và có những điều khác nữa cũng khiến ta bối rối không ít. Ví dụ như việc cô ta chơi cầu cơ cũng biểu thị được tính cách cực kỳ dễ dẫn dụ. Lại nữa, rõ ràng là tôi chưa hề thôi miên cô bé thực sự.” Ông nhún vai. “Vâng, có lẽ cô bé đã cưỡng lại. Nhưng điều gây ấn tượng thực sư,” ông lưu ý, “chính là tính chất khôn sớm, khôn trước tuổi đã thể hiện ở bản ngã mới này. Đó không phải là một con bé mười hai tuổi chút nào. Nó phải già dặn hơn, già hơn rất nhiều. Thế rồi lại còn thứ ngôn ngữ mà cô bé nói nữa.” Ông nhìn chăm tấm thảm phía trước lò sưởi, tay kéo vành môi dưới trong dáng suy tư. “ Dĩ nhiên, có một trạng thái tương tự, nhưng chúng ta không biết được nhiều. Về điều ấy: một dạng mộng du trong đó người bệnh chợt biểu thị kiến thức hay những kỹ năng mà y chưa bao giờ biết đến – trong đó, chủ đích của bản ngã thứ hai là tiêu diệt bản ngã thứ nhất. Tuy nhiên…”
Từ ngữ đó đãi dài ra. Bất chợt, vị bác sĩ tâm thần ngước lên nhìn Chris. “ Chà, vấn đề thật phức tạp kinh khủng,” ông bảo nàng, “ và tôi đã đơn giản nó hết mức rồi đấy.”
“ Như vậy, căn nguyên của vấn đề là gì ?” Chris hỏi.
“ Lâm thời lúc này,” ông bảo nàng, “ chỉ là một sự trống không. Cô bé cần được khám kỹ lưỡng bởi một nhóm các chuyên gia, cần đến hai ba tuần lễ thực sự tập trung nghiên cứu trong khung cảnh một y viện , cứ cho là y viện Barringer ở Danton đi.”
Chris nhìn chỗ khác.
“ Điều đó có trở ngại gì cho bà không ?”
“ Không. Không có vấn đề gì đâu,” nàng thở dài. “ Chỉ đơn giản là tôi đành mất hy vọng thôi.”
“Tôi không hiểu ý bà.”
“ Đó chỉ là một bi kịch nội bộ thôi.”
Từ văn phòng của Chris, vị bác sĩ tâm thần điện thọai cho y viện Barringer. Họ đồng ý tiếp nhận Regan vào ngày hôm sau.
Hai bác sĩ cáo từ.
Chris nuốt lấy niềm đau với hồi ức về Dennings, với hồi ức về cái chết, dòi bọ, sự trống rỗng, sự cô liêu và tĩnh lặng không thể diễn tả nên lời, sự tối tăm dưới bản ngã, tấc đất trong nấm mồ với không còn gì động đậy, không, tuyệt chút không cử động. Trong khỏang khắc ngắn ngủi, nàng khóc. Thật là quá sức…quá sức…. Sau đó nàng dẹp ý nghĩ đó đi và bắt đầu chuẩn bị hành lý.
Nàng đang đứng trong phòng ngủ mãi chọn một bộ tóc giả để đội ở Dalton thì Karl xuất hiện. Anh ta thông báo có ai đó muốn gặp nàng.
“ Ai vậy ?”
“ Nhân viên điều tra.”
“ Ông ta muốn gặp tôi à ?”
Anh ta gật đầu. Xong, anh trao cho nàng một danh thiếp ghi chức vụ. Nàng thờ ơ nhìn qua tấm danh thiếp. WILLIAM F. KINDERMAN, tấm thiếp ghi: TRUNG ÚY ĐIỀU TRA, và nép dưới góc trái tấm phiếu như chẳng mấy liên quan là dòng chữ: Ban Điều Tra Án Mạng. Thiếp được in bằng co chữ nổi Tedor, hoa mỹ, cứ như được lựa chọn bởi một tay buôn bán đồ cổ không bằng.
Nàng ngước lên khỏi tấm thiếp với một mối nghi ngờ do linh tính. “ Ông ta có mang theo thứ gì đó giống như một kịch bản không ? Giống như một phong bì lớn hay cái gì đó ?”
Theo chỗ Chris đã khám phá ra, không một ai trên trần thế này lại không có một cuốn tiểu thuyết hay một kịch bản hoặc một ý niệm về một hay cả hai thứ đó cất kỹ trong một ngăn kéo hay một ngõ ngách tâm hồn nào đó. Nàng có vẻ hấp dẫn những người đó như thể các linh mục hấp dẫn bọn say rượu vậy.
Nhưng Karl lắc đầu. Chris đâm ra hiếu kỳ và đi xuống cầu thang.
Ông ta đang đứng nghiêng ngả nơi hành lang lối vào, vành mũ bèo nhèo, nhúm nhó gài chặt trong mấy ngón tay mập mạp, ngắn ngủn, vừa mới được cắt tỉa tinh tươm. Con người tròn trỉnh, giữa lứa tuổi ngũ tuần, đôi má xệ bóng nhẫy vì xà phòng. Nhưng quần thì lại nhàu nhò lên gấu và rộng thùng thình mỉa mai cho cái đức chăm sóc thân thể quá cần mẫn của ông chủ nó. Một chiếc áo khóac bằng vải túyt lùng thùng, lỗi thời, còn đôi mắt nâu ướt rượt xệ xuống hai bên khóe thì cứ nhìn đăm đăm vào những quãng ngày đã qua. Ông thở khò khè như người mắc bệnh suyễn lúc đứng đợi tại đó.
Chris đến gần. Người thám tử đưa tay ra với dáng điệu mỏi mệt và có phần giống cung cách một người cha, rồi nói lào thào bằng giọng khàn khàn của người mắc chứng khí thủng. “Tôi quá quen với vẻ mặt đó trong bất cứ cuộc điều tra cảnh sát nào, thưa cô MacNeil.”
“ Vậy là tôi bị điều tra chăng ?”
“ Trời đất, làm gì có thế, không có đâu,” ông nói, lấy tay gạt qua cái ý niệm đó như thể đập một con ruồi. Ông nhắm mắt, nghiêng đầu. Tay kia ông để hững hờ trên bụng. “Không, đây chỉ là vấn đề thủ tục thôi.” Ông trấn an nàng, “ thủ tục thôi mà. Kìa, cô bận sao ? Nếu thế thì mai vậy. Mai tôi trở lại vậy ?”
Ông quay lưng như thể chực bỏ đi, nhưng Chris đã nóng ruột bảo, “ có chuyện gì vậy ? Burke ? Burke Dennings chăng ?”
Cái vẻ thư thả bất cần và chán chường của viên thám tử không hiểu sao đã khiến nàng thêm căng thẳng.
“ Xấu hổ! Thật xấu hổ quá chừng!” Viên thám tử lẩm bẩm với đôi mắt nhìn xuống, đầu khẽ lắc.
“ Ông ta bị giết chăng ?” Chris hỏi với vẻ mặt chấn động. “ Ý tôi muốn nói có phải vì thế mà ông đến đây không? Ông ấy bị giết? Đúng thế ?”
“ Không, không, không, đây chỉ là thủ tục thôi,” ông lập lại, “thủ tục mà. Cô biết đó, một người quan trọng như vậy, chúng tôi đâu có thể bỏ qua được,” ông biện bác với cái vẻ chẳng đặng đừng. “ Ít nhất thì cũng phải nêu một hai câu hỏi. Có phải ông ấy đã ngã không ? Ông ấy có bị xô đẩy không ?” Lúc ông hỏi, đầu và tay ông cứ nghiêng từ bên này sang bên kia. Rồi ông nhún vai mà thì thầm, gọng khàn đặc. “ Ai biết đâu ?”
“ Ông ấy có bị cướp không ?”
“ Không, không bị cướp đâu, thưa cô MacNeil, không hề bị cướp, với lại thời buổi này đâu có ai cần đến một lý do như thế nữa. Tay ông cứ động đậy không ngừng, giống như một chiếc bao tay bèo nhèo dưới ngón tay của một người điều khiển con rối. “ Thời buổi bây giờ, thưa cô MacNeil, đối với một tên sát nhân, một lý do, một động cơ chỉ tạo thêm rắc rối thôi, đúng vậy, chỉ gây thêm trở ngại mà thôi.” Ông lắc đầu. “ Ba cái lọai ma túy đó, mấy thứ thuốc ma quỷ đó,” ông than thở. “ Cái thứ L.S.D đó.”
Ông nhìn Chris, mấy ngón tay ông cứ nhịp đều đều trên ngực. “Cứ tin tôi đi, tôi là một người cha, nên nhìn những trò đời điên đảo, tôi cứ đứt từng khúc ruột. Cô có con không ?”
“ Có một.”
“ Con trai chứ ?’
“ Một cháu gái…”
“ Chà…”
“ Này ta vào văn phòng đi.” Chris sốt ruột ngắt lời, quay lưng lại dẫn lối, nàng đã mất hết kiên nhẫn.
“ Cô MacNeil à, phiền cô một việc được chứ ?’
Nàng quay lại với vẻ mệt mỏi và lờ mờ ngỡ ông ta định xin chữ ký của nàng cho lũ con ông ta. Không bao giờ họ bảo là xin cho họ. Lúc nào cũng nói là xin cho con họ thôi. “ Được thôi, hẳn là được,” nàng đáp.
“ Cái bao tử của tôi,” ông phác một cử chỉ với vẻ mặt nhăn nhó. “Chắc cô có thứ nước Calso chứ, hy vọng ? Nếu phiền quá thì thôi khỏi. Tôi không muốn làm phiền.”
“ Ồ, có gì đâu mà phiền,” nàng thở dài. “ Kéo một cái ghế trong văn phòng mà ngồi đi ông,” nàng chỉ chỗ, rồi quay lưng đi xuống bếp. “Tôi nghĩ là có một chai trong tủ lạnh.”
“ Thôi, để tôi vào bếp luôn,” ông bảo nàng, đi theo sau. “ Tôi kỵ làm phiền ai lắm”
“ Không phiền đâu.”
“ Nhưng cô thật quá bận rộn, cứ để tôi xuống bếp. Cô có con cái gì không ?” Ông ta hỏi lúc hai người đang đi. “ Quên, à mà đúng rồi, có chứ, một cô con gái, cô đã nói với tôi rồi. Đúng thế rồi. Mỗi một cô con gái.”
“ Mỗi một đứa thôi.”
“ Và cháu bao lớn ?”
“ Vừa mới được mười hai.”
“ Vậy là cô chưa phải lo,” ông thì thào. “ Chưa, chưa đâu. Dù vậy, sau này thì phải coi chừng.” Ông lắc đầu. Chris nhận thấy dáng đi của ông ta là một dáng đi lạch bạch đã được cải biên. “ Lúc mà cô phải chứng kiến bao nhiêu những chuyện bệnh họan ngày một ngày hai,” ông nói tiếp. “ Thật không thể tin được. Khó mà tưởng tượng nổi. Điên khùng thật. Cô biết chứ, mới hai ngày trước đây – hay mấy tuần trước gì đó – tôi quên mất – tôi ngó bà xã tôi, tôi bảo: Mary à, cái thế giới này – tòan bộ cái thế giới này – đang bị khủng hỏang thần kinh ráo trọi. Tất cả. Tòan thế giới.” Ông phác một cử chỉ tòan cầu.
Họ vào bếp. Tại đó, Karl đang chà bóng phần trong lò nướng bánh. Anh ta không hề quay lưng mà cũng chẳng buồn biết đến sự có mặt của họ.
“ Như thế này thì quả thật là quấy rầy quá lắm.” Viên thám tử cứ cò cử giọng khản đặc, lúc Chris mở cửa tủ lạnh. Nhưng tia nhìn của ông vẫn dán lấy người Karl, lướt nhanh và đầy tra hỏi qua thớt lưng, qua đôi tay và cần cổ của người quản gia kia, y như một con chim đen, nhỏ lượn là là trên mặt hồ. “Tôi găp một ngôi sao điện ảnh nổi tiếng,” ông nói tiếp. “ Thế mà tôi lại đi xin nước Calso. Trời đất.”
Chris đã tìm thấy chai nước đó, lúc nàng lo tìm đồ mở nút chai. “ Uống đá không ?” nàng hỏi.
“ Thôi, uống không, uống không tốt rồi.”
Nàng mở chai nước.
“ Cô biết cuốn phim cô đóng tên là “Thiên thần”chứ ?” Ông ta nói. “ Tôi xem cuốn phim đó sáu bảy lần đấy.”
“ Nếu ông muốn truy tìm tên sát nhân,” nàng thì thầm lúc rót chất nước Calso sủi bọt ra ly, “ thì cứ việc bắt nhà sản xuất và chuyên viên cắt cúp cuốn phim đó đi.”
“ Ồ không, không đâu, cuốn phim đó tuyệt tác, thật đó, tôi mê lắm !”
“ Ông ngồi xuống đi.” Nàng gật đầu về phía bàn.
“ Ồ, cám ơn cô,” ông ta ngồi xuống. “ Không mà, cuốn phim ấy tuyệt thật đó mà,” ông khăng khăng. “ Rất cảm động. Chỉ có điều là,” ông đánh bạo, “ một điều tí ti thôi. Ồ, xin cảm ơn cô.”
Nàng đặt ly nước Calso xuống và ngồi xuống bên kia bàn, hai tay chắp ra phía trước mặt.
“ Chỉ có một khuyết điểm nhỏ,” ông lại bắt đầu ra chiều biện bạch. “ Nhỏ thôi. Và xin cứ tin tôi đi, tôi chỉ là người không chuyên môn, một thường nhân. Cô biết chứ? Tôi chỉ là khán giả. Vậy thì tôi biết gì? Tuy nhiên, tôi vẫn có cảm tưởng, cảm tưởng của một người thường, là bè nhạc đệm đã nhảy xổ vào một vài lớp cảnh. Nó làm rộn quá đáng.” Lúc này, ông ta đã hăng lên, sôi nổi. “ Nó cứ theo nhắc nhở tôi mãi rằng đây là một cuốn phim xi-nê. Bà biết chứ? Cũng giống hệt như bao nhiêu những góc độ thu hình tân kỳ gần đây vậy. Nó gây xao lãng quá sức. À này, thưa cô MacNeil, cái bản phối nhạc đó có phải tác giả đã “thuỗn tạm” của nhạc sĩ Mendelssohn không, có lẽ ?”
Chris khẽ nhịp mấy ngón tay lên bàn. Cái gã thám tử lạ lùng. Tại sao ông ta cứ nhìn Karl suốt ?
“ Tôi cũng không biết nữa,” nàng bảo. “Có điều tôi rất hân hạnh là ông thích cuốn phim ấy. Thôi, ông uống đi,” nàng nhắc ông ta, gật đầu về phía ly Calso. “ Thứ nước này có khuynh hướng làm mập đấy.”
“ Vâng, đã hẳn. Tôi quá sức ba hoa, mà cô thì lại bận rộn. Xin bỏ lỗi cho.” Ông nâng ly nước lên như thể chúc sức khỏe rồi uống cạn, ngón tay út của ông cong xa ra khỏi các ngón tay khác, ra dáng nết na. “Ái chà, ngon, ngon thật,” ông hít hà, mãn nguyện. Lúc ông đẩy chiếc ly qua một bên, mắt ông thóang bắt gặp bức tượng chim do Regan nặn. Lúc đó bức tượng là vật trang trí chính ở giữa bàn, chiếc mỏ chim trôi nổi như châm biếm suốt dọc chiều dài trên mấy lọ tiêu. “ Kỳ quặt,” ông mỉm cười. “ Hay.” Ông ngước lên. “ Nhà nghệ sĩ ?”
“ Con gái tôi đấy,” Chris bảo ông.
“ Ngộ lắm.”
“ Này, tôi không thích cứ…”
“ Vâng, vâng, tôi biết, tôi quấy rầy quá thể. Vâng, đây, chỉ một câu hỏi, hoặc hai câu, là chúng ta xong. Thật vậy, duy nhất chỉ một câu hỏi thôi rồi tôi xin kiếu ngay.” Ông nhìn đồng hồ tay như thể bồn chồn muốn cáo lui ngay để đến một cuộc hẹn nào đó. “ Xét vì ông Dennings xấu số,” ông nói một cách khó nhọc, hổn ha hổn hển, “ đã hòan tất việc làm phim của ông ta tại khu vực này, nên chúng tôi thắc mắc không biết rằng ông ta có thể đến thăm một ai đó vào cái đêm xảy ra tai nạn đó không? Dĩ nhiên ngòai cô ra, tôi muốn biết là ông ta có còn bạn bè nào nữa ở khu vục này hay không ?”
“ Ờ, đêm hôm đó ông ta đã ở đây,” Chris bảo ông.
“ Hả ?” Đôi mày viên thám tử nhướng lên như hai cái lưỡi liềm. “ Gần thời gian xảy ra tai nạn chăng ?’
“ Tai nạn xảy ra khi nào ?” Nàng hỏi ông.
“ Bảy giờ năm phút,” ông bảo.
“ Vâng tôi nghĩ thế.”
“ Chà, thế là xong rồi,” ông gật đầu, quay người trên ghế ra chiều chuẩn bị đứng lên. “ Ông ta say, ông ta cáo lui, rồi ông ta ngã xuống dãy bậc cấp. Phải, thế là xong. Rõ ràng quá. Dù vậy, thưa cô, để có tài liệu ghi vào hồ sơ, cô có thể cho tôi biết ông ta rời nhà này khỏang mấy giờ được không ?”
Ông ta quào vào sự thật như một gã độc thân ngắt véo vào rau cỏ ở ngòai chợ. Làm thế nào mà ông ta lên được chức trung úy nhỉ ? Chris thắc mắc. “ Tôi không biết,” nàng đáp. “ Tôi không có gặp ông ấy.”
“ Tôi không hiểu.”
“ Thế này, ông ta đến và đi lúc tôi vắng nhà. Lúc đó tôi đang bận ở văn phòng một bác sĩ ở Rosslyn.”
“ À, tôi hiểu.” Ông ta gật gù. “ Dĩ nhiên rồi. Nhưng thế thì làm sao cô lại biết ông ta có đến đây ?”
“ Ờ, thì Sharon nói.”
“ Sharon ?” ông ngắt ngang.
“ Sharon Spencer. Cô ta là thư ký riêng của tôi. Cô ta có ở đây lúc Burke ghé vào. Cô ta…”
“ Ông ta đến thăm cô ấy ?”
“ Không, thăm tôi.”
“ Vâng, hẳn thế rồi. Vâng, xin lỗi vì tôi đã ngắt lời.”
“ Con gái tôi bị ốm và Sharon bỏ ông ta ở đây để đi mua ít thuốc men theo toa bác sĩ. Tuy nhiên khi tôi về đến nhà thì Burke đã bỏ đi.”
“ Lúc đó là mấy giờ, xin cho biết ?”
“ Bảy giờ mười lăm hay khỏang đó, bảy giờ rưỡi.”
“ Cô rời nhà lúc mấy giờ trước đó ?”
“ Có lẽ vào khỏang sáu giờ mười lăm.”
“ Mấy giờ thì cô Spencer rời nhà ?”
“ Tôi không rõ.”
“ Và giữa khỏang thời gian cô Spencer ra đi và thời gian cô (Chris) về nhà, còn ai ở trong nhà này với ông Dennings, ngòai con gái của cô không ?”
“ Không còn ai.”
“ Không còn ai à ? Ông ta bỏ cháu bé lại một mình sao ?”
Nàng gật đầu.
“ Không có người giúp việc nào sao ?”
“ Không, Willie và Karl lúc đó…”
“ Họ là ai vậy ?”
Chris bỗng cảm thấy như đất sụt lỡ dưới chân nàng. Cuộc hội kiến lùng sục đánh hơi này, nàng nhận ra, thoắt đã trở nên màn thẩm vấn khắc nghiệt như sắt thép. “ Kìa, Karl đang đứng ngay đó.” Nàng hất đầu ra hiệu, tia mắt nàng đậu hững hờ trên lưng người giúp việc. Anh ta vẫn còn đánh bóng lò nướng bánh.
… “ Còn Willie là vợ anh ấy,” nàng nói tiếp. “ Hai vợ chồng là quản gia của tôi.” Anh ta vẫn tiếp tục đánh bóng… “Buổi chiều hôm đó họ được nghĩ việc và lúc tôi về đến nhà, họ vẫn chưa trở về. Willie…” Chris ngưng ngang.
“ Wille làm sao ?”
“ Ồ, không, chẳng làm sao cả.” Nàng nhún vai lúc nàng rứt tia nhìn ra khỏi thớ lưng rắn chắc của người gia nhân. Lò nướng đã sạch boong, nàng nhận thấy. Thế tại sao Karl cứ chà hòai vậy?
Nàng nhón lấy một điếu thuốc. Kindeman châm lửa cho nàng.
“ Như vậy là chỉ còn mỗi mình con gái cô biết được Dennings ra khỏi nhà lúc nào thôi.”
“ Thực sự đó là một tai nạn sao ?”
“ Ồ, dĩ nhiên. Đây chỉ là vấn đề thủ tục thôi, cô MacNeil ạ, thủ tục thôi mà. Ông Dennings không hề bị cướp và ông không có kẻ thù, theo chỗ tôi biết thì không có ai, nghĩa là, nội trong quận Columbia này.”
Chris ném một cái nhìn thoáng về phía Karl rồi đảo mắt ngay trở lại phía Kinderman. Không biết ông ta có để ý thấy không? Chắc là không? Ông ta đang bận sờ mó bức tượng chim.
“ Nó có một cái tên, loài chim này này, nhưng tôi không sao nghĩ ra được. Một cái tên gì đó. “ Ông nhận thấy Chris đang nhìn trừng trừng và có vẻ bối rối. “ Thứ lỗi cho tôi, cô đang bận quá. Vâng, một phút nữa thôi là chúng ta xong. Nào, con gái cô, cô bé hẳn là biết lúc ông Dennings rời khỏi nhà chứ ?”
“ Không, nó không biết đâu. Lúc đó nó đã được chích thuốc an thần với liều lượng mạnh.”
“ Ái chà, khốn khổ thân tôi, thật xấu hổ, xấu hổ quá.” Đôi mi mắt ủ rũ của ông rỉ ra vẻ quan tâm. “ Bệnh nặng à?”
“ Vâng, tôi e rằng thế.”
“ Xin phép hỏi là ...” ông thăm dó với một dáng điệu tinh tế.
“ Chúng tôi vẫn chưa được biết.”
“ Phải coi chừng gió lùa,” ông lưu ý một cách xác quyết.
Chris có vẻ lúng túng.
“ Một cơn gió lùa giữa mùa đông khi trong nhà đang hâm hấp nóng chính là một tấm thảm thần cho lũ vi trùng đó. Mẹ tôi thường bảo thế. Có lẽ đó là thần thoại dân gian. Có lẽ thế.” Ông nhún vai. “ Nhưng theo tôi, một thần thoại, nói đúng ra, cũng giống như một tờ thực đơn trong một nhà hàng Pháp sang trọng: một sự ngụy trang phức tạp, hào nhoáng che đậy cho một sự thật mà nếu thiếu sự ngụy trang đó, người ta sẽ không chịu nuốt trôi đâu, chẳng hạn như món đậu lima đó,” ông ta hăng say thuyết.
Chris thoải mái lại. Con chó lông xù này chạy rong túy lúy qua các cánh đồng bắp nay đã trở về đây.
“ Đích thị là phòng cô bé rồi, đúng là phòng cô bé,” ông trỏ lên trần nhà, “ với cánh cửa sổ lớn nhìn ra dãy bậc cấp đó?”
Chris gật đầu.
“ Nhớ đóng cửa sổ đó lại thì cô bé sẽ khỏe thôi.”
“ Vâng, thì cửa sổ đó lúc nào cũng đóng, cả các cánh cửa chớp của nó bao giờ cũng đóng thường xuyên.” Chris bảo lúc ông ta đút một bàn tay to bè vào túi áo vét.
“ Cô bé sẽ khỏe ngay thôi.” Ông lập lạl như dạy đời. “ Chỉ cần nhớ điều này, cẩn tắc vô áy...”
Chris lại nhịp mấy ngón tay lên bàn trở lại.
“ Cô bận quá. Thôi, chúng ta xong. Chỉ ghi chú một điều vào hồ sơ - thủ tục mà – là chúng ta xong hết.”
Từ trong túi áo vét, ông rút ra một tờ chương trình nhàu nát, quay rô-nê-ô quảng cáo buổi trình diễn kịch bản Cyrano Dennings Bergerac do trường trung học tổ chức, bây giờ ông lại mò mẫm trong các túi áo khoác, thuỗn được một mẫu bút chì số 2 màu vàng, đầy vết răng mà đầu bút có cái vẻ như đã được chuốt bằng lưỡi kéo. Ông trải thẳng tờ chương trình trên mặt bàn, miết cho hết những vết nhăn. “ Nào, bây giờ ta ghi một hai tên thôi.” Ông thở phì phò. “ Cái tên Spencer ấy viết với một chữ “c” phải không ?”
“ Phải, c.”
“ Một chữ c.” Ông lập lại, viết tên đó trên lề tờ chương trình. “ Còn hai người quản gia? John và Willie ?”
“ Karl và Willie Engstrom.”
“ Karl. Phải rồi. Đúng là Karl Engstrom.” Ông hí hoái ghi hai tên đó bằng nét chữ thảo đậm, đen. “ Bây giờ tới mục thời gian, tôi nhớ là...” Ông bảo nàng, giọng khản đặc, vừa lật qua bên kia tờ chương trình để tìm chỗ giấy trắng. “ Thời gian qua, tôi - Ồ không, hượm đã. Tôi quên mất. Ờ phải, hai người quản gia. Cô đã bảo là họ về đến nhà lúc mấy giờ nhỉ ?”
“ Tôi chưa nói điều đó. Này Karl, đêm qua anh về nhà lúc mấy giờ vậy ?” Chris gọi anh ta.
Người đàn ông Thụy Sĩ quay lại, gương mặt anh ta đầy bí hiểm. “ Đúng chín giờ ba mươi phút, thưa bà.”
“ Ừ đúng rồi, anh bỏ quên chìa khóa mà. Tôi nhớ là tôi đã nhìn đồng hồ trong bếp lúc anh nhấn chuông gọi cửa.”
“ Anh đi xem một phim hay đấy chứ ?” nhà thám tử ướm hỏi Karl. “ Tôi thì chẳng bao giờ đi xem phim theo nhận định của các mục điểm phim cả,” ông giải thích riêng với Chris. “Nghĩa là theo kiểu mà thiên hạ nghĩ, khán giả ấy.”
“ Tôi đi xem Paul Scofield đóng trong phim “Lear”, Karl tiết lộ với nhà thám tử.
“ À, tôi đã xem phim đó rồi, thật là tuyệt tác. Tuyệt tác. Tuyệt tác.”
“ Vâng, tại rạp Crest,” Karl nói tiếp. “ Xuất sáu giờ. Ngay sau đó, tôi lên xe buýt ngay trước rạp và..”
“ Xin cảm ơn, điều đó không cần thiết,” nhà thám tử phác một cử chỉ phản đối. “ Xin khỏi nói thêm.”
“ Tôi không thấy có gì phiền.”
“ Nếu anh cứ nhất định nói, thì…”
“ Tôi xuống xe tại góc phố giữa Đại lộ Wisconsin và phố M. Có lẽ lúc chín giờ hai mươi phút. Sau đó tôi đi bộ về nhà.”
“ Coi kìa, anh không cần gì phải khai với tôi cả,” nhà thám tử bảo anh ta, “ nhưng dù gì thì, cũng xin cám ơn anh, anh thật hết sức chu đáo. Anh thích phim đó chứ ?”
“ Phim rất hay.”
“ Đúng, tôi cũng nghĩ thế. Ngọai hạng thật. Chà, bây giờ thì…” ông ta quay lại Chris và tiếp tục hí hóay trên tờ chương trình. “ Tôi làm mất thì giờ của cô quá, nhưng công việc thì phải làm thôi.” Ông nhún vai. “ Vâng, chỉ một chút nữa là ta xong. Bi thảm…bi thảm thật…” Ông lắp bắp lúc ghi nhanh mấy đọan đứt khúc trên mấy rìa giấy. “ Thật là một tài năng. Một nhân vật hiểu biết con người, tôi tin như vậy, biết cách sử dụng họ. Với bao nhiêu là những yếu tố, những thành phần có thể khiến cho ông ta thành công hay, có lẽ, làm ông thất bại – như thể người quay phim, chuyên viên âm thanh, nhà sọan nhạc, bất cứ…xin sửa chữa giùm tôi nếu tôi nói sai, nhưng đối với tôi, hình như thời đại ngày nay một nhà đạo diễn có tầm cỡ cũng phải xếp súyt sóat ngang hàng với một Dale Carnegie. Tôi nói có sai không ?”
Nhà thám tử đảo tờ chương trình sang một vị trí khác. “ Chà, có lẽ các nhân vật lớn đều thế cả. Những người ở tầm cỡ ông ấy.” Lại một lần nữa, ông ta lại hí hóay viết. “ Nhưng điểm chủ yếu vẫn là đám thương nhân, những thằng ở con sen, những kẻ quan xuyến những tiểu tiết vụn vặt mà nếu họ quán xuyến không đúng cách chúng sẽ trở thành lớn chuyện. Cô có nghĩ thế không?”
Chris ngắm mấy đầu ngón tay và buồn bã lắc đầu. “ Khi Burke đã nổi nóng lên rồi thì ông ta chẳng phân biệt gì cả đâu.” Nàng thì thào với một nụ cười gượng gạo, héo hắt. “ Không đâu, thưa ông. Tuy nhiên, chỉ khi nào ông ta say thôi.”
“ Xong, chúng ta xong.” Kinderman viết một chữ “i” cuối cùng. “ Ồ, mà khoan đã,” ông chợt nhớ. “ Bà Engstrom. Họ đi và về chung với nhau à ?” Ông phát cử chỉ về phía Karl.
“ Không, chị ta đi xem một phim của ban Beatles,” Chris đáp ngay lúc Karl quay lại để trả lời. “ Vợ tôi về sau tôi vài phút.”
“ Tại sao tôi lại hỏi điều đó ? Chẳng có gì quan trọng.” Ông nhún vai lúc gấp tờ chương trình lại và đút vào túi áo vét cùng với mẫu bút chì. “ Vâng, thế đó. Chẳng là khi về đến sở, thế nào tôi cũng chợt nhớ ra một điều gì mà lẽ ra tôi phải hỏi. Với tôi, điều ấy luôn luôn xảy ra. Ồ, tôi có thể gọi điện thọai cho cô được mà.” Ông thở hầng hậc, đứng lên.
Chrsi đứng lên luôn với ông.
“ Chắc tôi sắp đi khỏi thành phố hai tuần lễ,” nàng bảo.
“Đợi được mà,”ông trấn an nàng. “ Đợi được mà.” Ông nhìn bức tượng chim với nụ cười âu yếm. “ Ngộ, ngộ thật,” ông nói. Ông nghiêng người nhấc bức tượng lên rồi lấy ngón cái cạo cạo dọc mỏ chim.
Chris cúi xuống nhặt một sợi chỉ trên sàn bếp.
“Cô có tìm được bác sĩ giỏi không ?” Nhà thám tử hỏi nàng. Bác sĩ để chữa cho con gái của cô ấy.”
Ông trả lại bức tượng lại chỗ cũ rồi chuẩn bị cáo từ. Vẻ mặt rầu rĩ, Chris theo sau ông, tay cứ quấn sợi chỉ quanh ngón tay cái.
“ Vâng, điều chắc chắn là tôi đã chán ngấy mấy ông bác sĩ rồi,” nàng thì thào. “ Dù sao, tôi cũng định đưa cháu vào một y viện nghe nói là rất nỗi tiếng về công việc như của ông đang làm đây, chỉ có điều là họ chỉ có điều tra xem xét các lọai vi-rút thôi.”
“ Ta cứ hy vọng là họ sẽ làm việc đó tốt hơn tôi bội phần. Nó ở ngòai thành phố phải không, cái y viện này?”
“ Vâng, ở ngọai ô.”
“ Một y viện tốt đấy chứ ?”
“ Còn phải xem.”
“ Nhớ tránh gió lùa cho cháu bé.”
Họ đã ra đến cửa trước. Nhà thám tử đặt tay trên núm cửa. “ Vâng. Phải nói là tôi rất thích thú, có điều trong những tình huống như thế này…” ông cúi đầu và lắc quầy quậy. “ Tôi rất tiếc, thật đó. Tôi thật rất lấy làm tiếc.”
Chis khoanh tay nhìn xuống thảm. Nàng khẽ lắc đầu.
Kingderman mở cửa bước ra ngòai. Lúc quay lại Chris, ông đang đội mũ lên.
“ Thôi, xin chúc con gái có nhiều may mắn.”
“ Cám ơn,” nàng cười mòn mỏi. “Xin chúc cả thế giới được may mắn.”
Ông gật đầu với một vẻ niềm nở dịu dàng xen lẫn buồn rầu, rồi lạch bạch bước đi. Chris cứ nhìn lúc ông ta đi nghiêng ngó đến bên một chiếc xe tuần cảnh đang đậu sẳn cạnh góc phố, trước mặt một vòi nước cứu hỏa. Ông khóac một tay lên giữ mũ lúc một cơn gió lạnh như cắt từ phương nam lồng lộng thổi đến. Vành mũ ông vỗ phần phật. Chris đóng cửa lại.
Lúc đã ngồi vào xe tuần cảnh cạnh tài xế, Kingderman quay lại ngắm ngôi nhà. Ông có cảm nghĩ là ông vừa trông thấy có sự chuyển động nơi cửa sổ phòng Regan, một hình dáng mềm mại, nhanh nhẹn lướt nhanh qua thành cửa sổ rồi mất dạng. Ông không dám chắc. Ông chỉ nhác thấy ở vòng ngòai lúc ông quay lại thôi. Nhưng ông nhận thấy các cánh cửa chớp đều mở toang. Quái thật. Suốt hồi lâu, ông cứ chờ đợi. Không thấy ai xuất hiện. Chau mày, bứt rứt nhà thám tử quay lại, mở ngăn đựng bao tay, lấy ra một phong bì nhỏ màu nâu và một con dao nhíp bỏ túi. Mở một lưỡi dao nhỏ nhất ra, ông chận ngón tay cái phía trong lòng phong bì, rồi như một bác sĩ phẩu thuật, ông nạo lớp sơn trên bức tượng do Regan tạc từ dưới móng ngón tay cái ra. Lúc đã nạo xong và niêm phong bì lại rồi, ông gật đầu về phía viên trung sĩ điều tra ngồi sau tay lái. Họ vù đi.
Lúc họ lái xuống phố Prospect, Kingderman bỏ chiếc phong bì vào túi. “ Cứ thong thả,” ông lưu ý người trung sĩ vừa nhìn cảnh xe cộ lưu thông đùn đống ở trước mặt. “ Đây là công việc chứ không phải đi chơi.” Ông dụi mắt bằng mấy ngón tay mệt mỏi. “Ôi, thật chán cho đời,” ông thở dài. “ Thật chán cho đời.”
-------------------------
Tối hôm ấy, trong khi bác sĩ Klein đang chích cho Regan năm mươi miligam Sparine để bảo đảm cho cô bé được an ổn trong chuyến hành trình đi Dayton, thì trung úy Kingderman đứng trầm ngâm trong văn phòng, hai bàn tay úp thẳng trên mặt bàn lúc ông nhìn chăm chú mớ dữ kiện còn manh mún, rời rạc chỉ làm rối trí ông. Luồng sáng hẹp của một ngọn đèn bàn cũ kỹ lóe trên một mớ hỗn độn các báo cáo phúc trình. Không cò một nguồn sáng nào khác. Ông tin rằng như thế dễ giúp ông thu hẹp được điểm tập trung.
Kinderman thở rất khó khăn nặng nhọc trong bóng tối lúc tia nhìn của ông cứ di chuyển khi chỗ này, lúc chỗ khác. Sau đó ông hít một hơi thở rõ sâu và nhắm mắt lại. Bán xôn trí tuệ đây. Mại dô! Ông tự nhủ mình, giống như cách ông hay làm cứ khi nào ông muốn sắp xếp lại đầu óc để đón nhận một quan điểm mới. Dứt khóat là Mọi Thứ Phải Đi Bằng Hết!
Lúc mở mắt ra, ông đọc kỹ bảng báo cáo của chuyên viên nghiên cứu bệnh lý về trường họp Dennings:
“…rách cột sống cộng với sọ và cổ bị gãy, thêm vào đó nhiều vết đập, vết rách và trầy da, bị căng da cổ, bầm tím vùng da cổ, bị lột cơ bám da, cơ ức chũm, cơ gối, cơ hình thang và nhiều cơ nhỏ khác ở cổ, gãy xương sống và đốt xương sống, bị lột các dây chằng phía trước và phía sau cột sống...”
Qua cửa sổ, ông nhìn vào vùng đen tối của thành phố. Ánh sáng từ điện Capitol có mái vòm sáng ngời. Quốc Hội đang làm việc khuya. Ông lại nhắm mắt, hồi tưởng đến cuộc đối thọai của ông với chuyên viên bệnh lý của Quận hồi mười một giờ năm mươi phút vào đêm Dennings chết.
“ Điều đó có thể xảy ra vì một cái ngã không ?”
“ Không, rất khó có thể như thế được. Nội các cơ ức chũm không thôi cũng đã đủ tránh được điều đó rồi. Rồi người ta lại còn có cả các khớp khác nhau ở vùng cột sống cổ cần phải bị khuất phục trước đã, cũng như các dây chằng nối kết các xương lại với nhau nữa.”
“ Thế nhưng nói trắng ra thì điều ấy có thể xảy ra không ?”
“ Dĩ nhiên lúc đó ông ta bị say rượu nên các cơ bắp này chắc chắn là có nới dãn phần nào. Có lẽ, nếu như lực phát sinh từ sự va chạm đầu tiên đủ mạnh và…”
“ Có lẽ ông ta phải rơi từ độ cao từ bảy đến mười thước trước khi chạm đất ?”
“ Đúng, chính thế, và nếu như ngay sau cú va chạm mà đầu ông ta lại kẹt phải một cái gì đó, nói một cách khác, nếu đã có sự can thiệp lập tức của động tác xoay đầu và thân mình xét như một đơn vị duy nhất thì có lẽ - tôi chỉ nói là có lẽ thôi – ta sẽ có được một kết quả gíống như thế.”
“ Có thể có một người nào khác đã làm điều đó không ?”
“ Có chứ, nhưng kẻ đó nhất thiết phải là một người có sức mạnh phi thường.”
Kingderman đã kiểm chứng lời khai của Karl Engtrom liên quan đến nơi chốn anh ta đang có mặt lúc xảy ra cái chết của Dennings. Về thời gian của xuất chiếu phim thì rất khớp, cũng như lịch trình của một chuyến xe búyt thuộc quận Columbia vào đêm hôm ấy. Hơn nữa, người tài xế chiếc xe búyt mà Karl khẳng định là anh ta đã bước lên bên rạp chiếu bóng lại hết phiên trực ngay tại góc Đại lộ Wiscosin và phố M. nơi theo lời khai của Karl, anh đã xuống xe vào chín giờ hai mươi phút. Việc thay đổi tài xế đã diễn ra, và người tài xế hết phiên trực đã ghi vào sổ thời gian anh ta đến tại điểm bàn giao: đúng chín giờ mười tám phút.
Thế nhưng trên bàn giấy của Kingderman là một hồ sơ buộc tội Engtrom đề ngày 27 tháng Tám năm 1963, tố cáo rằng trong suốt thời gian nhiều tháng trời, Engstrom đã đánh cắp một số lượng ma túy trong nhà một vị bác sĩ ở Beverly Hills nơi anh ta và Willie được mướn vào giúp việc lúc ấy.
“…. sinh ngày 20 tháng Tư năm 1921 tại Zurich, Thụy Sĩ. Cưới Willie nee Braun ngày 7 tháng Chín năm 1941. Con gái, Elvira, sinh tại thành phố New York ngày 11 tháng Giêng năm 1943, địa chỉ hiện tại không rõ. Bị cáo…”
Phần còn lại của hồ sơ nhà thám tử mới thấy điên đầu.
Vị bác sĩ, mà lời khai của ông là điều kiện tất yếu giúp cho việc khởi tố có kết quả, bất ngờ - và không một lời giải thích - lại bãi nại.
Tại sao ông ta lại làm như vậy ?
Chỉ sau đó hai tháng, cặp vợ chồng Engstrom lại được Chris MacNeil mướn giúp việc nhà, điều đó cho thấy rằng vị bác sĩ đó đã có lời giới thiệu thuận lợi, đã có nhận xét tốt về cặp vợ chồng này.
Thế sao ông ta lại làm thế ?
Engstrom chắc chắn là có đánh cắp thuốc thật, thế mà một cuộc giám định y khoa vào thời gian vụ án lại không thể đưa ra đựoc một dấu hiệu nhỏ nhất nào cho thấy là anh ta có nghiện ma túy, thậm chí là có dùng các chất ấy.
Tại sao lại không ?
Mắt vẫn nhắm, nhà thám tử khẽ đọc “bài vè” của Lewis Carrol “ Twa brillig and the slithy toves…” một trong những trò giải trí khác của ông.
Lúc đã đọc xong, ông mở mắt ra và dán tia nhìn lên điện Capitol có kiến trúc hình tròn, cố giữ cho đầu óc trống rỗng. Nhưng cũng như thường lệ, ông nhận thấy điều đó bất khả thực hiện. Thở dài sườn sượt, ông liếc xuống bản phúc trình của chuyên gia tâm lý học của sở cảnh sát về những vụ phạm thánh gần đây tại Thánh đường Ba Ngôi: “ …tượng… dương vật…phân người…Damien Karras…” mà ông đã gạch dưới bằng bút đỏ. Ông thở khò khè trong yên lặng rồi với lấy một tác phẩm biên khảo về thuật phù thủy, lật đến trang mà ông đã đánh dấu bằng một cái kẹp giấy:
“… Lễ Đen…một hình thức sùng bái quỷ dữ, lễ nghi thờ phượng, về đại thể gồm có (1) sự cổ vũ (bài “giảng thuyết” ) làm điều ác giữa vòng các tín hữu (2) giao hợp với ác quỷ và (3) hàng lọat các hành vi xúc phạm thần thánh khác nhau phần lớn đều mang tính chất tình dục vv..và vv…”
Kingdeman lật lướt qua một số trang, đến một đoạn có gạch dưới bàn về sự giết người trong lễ nghi thờ phượng của bọn phù thủy này. Ông đọc đọan đó chậm rãi, vừa nhấm đầu ngón tay trỏ, và khi đã đọc xong, ông nhìn trang sách cau mày và lắc đầu. Ông ngước tia nhìn trầm tư lên ngọn đèn. Ông tắt đèn. Ông rời văn phòng, lái xe đến nhà xác.
Chàng thanh niên phụ trách ngồi ở bàn giấy, đang nhấm nháp một miếng xăng-úych bằng bột hắc mạch có kẹp dăm bông và phó mát, tay phủi mấy vụn bánh mì khỏi một trang ô chữ thì Kingderman đến bên anh ta.
“ Dennings”, nhà thám tử thì thào, giọng khản đặc.
Người phụ trách gật đầu, điền xong năm chữ cái trên hàng ngang ô chữ, rồi đứng dậy cầm miếng xăng úych đi xuống hành lang. Kingderman theo sau anh ta, mũ trên tay, theo sau cái mùi hột gà (mù tạt) phảng phất, đến mấy dãy tủ ướp lạnh, đến một phòng không mộng mơ dùng để chứa những đôi mắt mù lòa.
Họ dừng lại ở hộc tủ số 32. Người phụ trách lạnh lùng kéo hộc tủ ra. Anh ta cắn bánh xăng úych, và một mếng ruột bánh lấm tấm sốt mayonnaise rơi khẽ khàng trên lớp vải liệm.
Trong một lúc, Kingderman cứ đăm đăm nhìn xuống, rồi chậm rãi và khẽ khàng, ông lật tấm vải liệm lên để phô bày ra cái mà ông đã thấy và vẫn không thể chấp nhận được.
Cái đầu của Burke Dennings bị vặn hẳn ra phía sau, mặt nhìn ra sau lưng!
8.
Lọt thỏm trong lòng chảo xanh tươi, ấm áp của khuôn viên trường Đại học, Damien Karras một mình chạy lúp xúp quanh một đường chạy hình thuẫn đầy đất mùn, chiếc quần soóc kaki và áo thun bằng vải cô-tông ướt đẫm thứ mồ hôi dính dáp lành mạnh. Phía trước mặt trên một ngọn đồi nhỏ, mái vòm trắng xóa của đài thiên văn nhịp rộn ràng theo sải chân của ông, sau lưng ông, trường y khoa khuất dạng sau lớp bụi và niềm ưu tư đang bị quấy động mịt mù.
Từ khi đựoc giải nhiệm khỏi chức vụ cũ, ông đến đây hằng ngày, chạy mấy dặm đường theo vòng chảo và săn đuổi giấc ngủ. Ông suýt bắt được nó, sắp lơi lỏng được khỏi móng vuốt của những nỗi muộn phiền đã xoắn chặt lấy tâm hồn ông như một vết xâm mình sâu đậm. Nỗi phiền muộn bấy giờ đã vương vấn ông nhẹ nhàng hơn.
Hai muơi vòng…
Dễ chịu hơn nhiều.
Nữa! Hai vòng nữa.
Càng dễ chịu hơn…
Các bắp thịt chân mạnh mẽ, căng máu và đau nhói, khẽ lay động với nét uyển chuyển thon thả của lòai sư tử, Karras đang chạy thình thịch qua một khúc quanh, thì ông chợt nhận thấy có ai đó đang ngồi trên chiếc ghế đá, phía ông để khăn lau và quần dài: một người đàn ông trung niên trong chiếc áo khóac lụng thụng, đội chiếc mũ ni bèo nhèo như nùi giẻ . Hình như người đó đang nhìn ông. Đúng không? Đúng quá rồi…đầu ông ta quay lại lúc Karras chạy ngang.
Vị linh mục tăng tốc, sải chân của ông nện xuống thình thịch làm vang động cả mặt đất ở vòng chạy cuối cùng, rồi ông giảm tốc độ xuống thành nhịp đi bộ, vừa thở hào hển vừa đi ngang qua ghế đá không buồn nhìn lại, hai tay ép khẽ xuống hai bên hông. Bộ ngực đầy ăm ắp những bắp thịt rắn chắc như đá tảng cùng triền vai của ông khẽ nhô lên làm căng cứng chiếc áo thun, làm biến dạng mấy chữ CÁC TRIẾT GIA in ngay trước ngực áo, các chữ cái trước đây đen tuyền nay đã phai hẳn màu, qua bao nhiêu lần giặt giũ.
Người đàn ông mặc áo khóac đứng dậy, bắt đầu tiến đến gần vị linh mục.
“Cha Karras ?” Trung úy Kingderman gọi, giọng khản đặc.
Vị linh mục quay lại, khẽ gật đầu, mắt nheo lại vì nắng lóa, đợi Kingderman bắt kịp mình rồi ra dấu cho ông ta đi theo lúc ông bắt đầu di chuyển trở lại. “ Ông không phiền chứ ? Tôi sắp cóng người đây,” vị linh mục hổn hển.
“ Có chứ, dĩ nhiên là phiền rồi,” nhà thám tử trả lời, vừa gật đầu với vẻ co rúm thiếu nhiệt thành vừa thọc hai tay vào túi. Màn đi bộ từ bãi đậu xe đến đây đã làm ông ta mệt đừ.
“ Ta, ta đã gặp nhau chưa nhỉ ?” vị linh mục Dòng Tên hỏi.
“ Chưa đâu, cha. Chưa, nhưng người ta bảo trông cha như một võ sĩ quyền Anh, một linh mục nào đó ở khu cư xá, tôi quên mất tên.” Ông đang mãi rút ví ra. “ Tôi rất dở ba cái vụ tên tuổi này.”
“ Còn tên ông ?”
“ Willie Kingderman, thưa cha.” Ông nhá chứng minh thư. “Ban Điều Tra Án Mạng.”
“ Thật sao ?”
Karras nhìn kỹ phù hiệu và thẻ chứng minh thư với vẻ chăm chú sốt sắng như một cậu bé. “ Chuyện này nghĩa là sao ?”
“ Này, chắc cha cũng biết đôi điều đấy chứ, thưa cha?” Kingderman đáp, vừa quan sát nét mặt phong trần của vị linh mục Dòng Tên. “ Đúng thật, cha giống y như một võ sĩ quyền Anh. Xin cha tha lỗi, cái vết sẹo đó - cha biết - cạnh mắt đó,” ông ta chỉ trỏ. “Gống Brando trong phim Waterfront quá, đúng là giống hệt Marlon Brando. Người ta cũng tạo cho nàng một vết sẹo.” Ông ta minh họa bằng cách kéo khóe mắt mình ra. “ Khiến cho mắt anh ta trông hơi hí một chút xíu thôi, khiến anh ta lúc nào trông cũng có vẻ mơ màng, lúc nào cũng buồn thảm. Đó, đúng là cha đó…” Ông ta nói, chỉ trỏ: “ Cha là Brando. Thiên hạ nói về cha như vậy, phải không cha ?”
“ Không, họ không hề.”
“ Có bao giờ cha đấu quyền Anh chưa ?”
“ Ồ, chút đỉnh.”
“ Cha người ở đây. Quận này ?”
“ New York.”
“ Golden Gloves, đúng không ?”
“ Ông xứng đáng lên đại úy lắm.” Karras mỉm cười. “ Nào, bây giờ tôi giúp gì được cho ông đây ?”
“ Làm ơn đi chậm hơn một chút. Bị bệnh khí thủng mà !” Nhà thám tử phác cử chỉ vào cổ họng mình.
“ Ồ, tôi xin lỗi.” Karras lơi bước.
“ Không hề gì. Cha có hút thuốc không ?”
“ Có.”
“ Không nên hút.”
“ Thôi, có chuyện gì thì kể cho tôi nghe đi.”
“ Đã hẳn. Tôi đang lạc đề rồi. À này, cha bận à ?’ Nhà thám tử hỏi dò. “ Tôi không quấy rầy đấy chứ ?”
“ Quấy rầy cái gì ?” Karras hỏi, vẻ sửng sốt.
“ Hừ, thì việc cầu nguyện thầm, chắc vậy ?”
“ Chắc phải phong ông lên đại úy,” Karras mỉm cuời bí hiểm.
“ Xin lỗi, tôi có sơ sót điều gì chăng ?”
Karras lắc đầu, nhưng nụ cười vẫn còn vương vấn. “ Tôi không tin là ông để sót điều gì hết.” Linh mục nhận xét, cái liếc xéo của ông về phía Kingderman đầy ranh mãnh và nhấp nháy một cách nhiệt tình.
Kingderman dừng lại, hết sức cố gắng trong vô vọng mong tạo đựoc một vẻ mặt ngơ ngác, nhưng nhìn đôi mắt đầy nếp nhăn của người tu sĩ, ông cúi đầu rầu rĩ. “ À phải. Dĩ nhiên…dĩ nhiên vậy rồi…một nhà tâm thần học mà. Tôi đâu có giỡn mặt được.” Ông ta nhún vai. “Cha thấy, điều đó đã thành thói quen đối với tôi, thưa cha. Bỏ lỗi cho tôi. Cái trò tình cảm ủy mị, đó là phương pháp Kingderman: thuần túy là tình cảm ướt át. Được rồi, tôi sẽ thôi quanh co và nói thẳng với cha là việc gì.”
“ Mấy vụ phạm thánh,” Karras nói, gật gù.
“ Vậy là cái trò vặt tình cảm ủy mị của tôi hóa ra công cốc,” nhà thám tử nói khẽ.
“ Rất tiếc.”
“ Không hề gì, thưa cha, thế cho đáng đời tôi. Vâng, những vụ xảy ra trong nhà thờ ấy.” Ông xác nhận. “Đúng thế! Có lẽ chỉ có một điều khác nữa ngòai lề, một điều nghiêm trọng.”
“ Giết người ?”
“ Phải, cha lại đá tôi một phát nữa, tôi khóai lắm.”
“ Chà, thì ban Điều Tra Án Mạng mà.” Vị tu sĩ Dòng Tên nhún vai.
“ Không sao, không sao, thưa tài tử Marlon Brando, không sao cả. Thiên hạ bảo là xét như một linh muc thì cha khá là ranh mãnh.”
“ Lỗi tại tôi mọi đàng,” Karras thầm thì. Dù lúc đó ông vẫn mỉm cười nhưng ông lấy làm hối hận vì có lẽ ông đã vô tình làm tổn thương tự ái của viên thám tử. Thực tâm ông không cố ý làm thế. Lúc này ông cảm thấy sung sướng có dịp bày tỏ một sự bối rối chân thành. “ Dù vậy, tôi không hiểu được ý ông.” Ông nói thêm, không quên cau mày một phát. “Hai điều đó có liên quan gì không ?”
“ Này thưa cha, ta có thể giữ kín điều này chỉ hai chúng ta biết được không ? Giữ mật ? Xem như một vấn đề xưng tội, có thể nói như vậy ?”
“ Dĩ nhiên là được.” Vị linh mục sốt sắng nhìn nhà thám tử. “ Chuyện gì vậy ?”
“ Cha biết nhà đạo diễn đã từng làm phim ở đây không, thưa cha ? Burke Dennings ấy ?”
“ Ồ, tôi có gặp ông ta rồi.”
“ Cha đã gặp ông ta rồi.” Nhà thám tử gật đầu. “ Cha cũng đã rành chuyện ông ta chết như thế nào rồi chứ ?”
“ Thì, báo chí…” Karras lại nhún vai.
“ Báo chí chỉ nói phần nào thôi.”
“ Thế nữa ?”
“ Chỉ phần nào thôi. Chỉ một phần không hơn. Này cha, cha biết gì về đề tài phù thủy ?’
“ Cái gì ?’
“ Nghe đây, cứ kiên nhẫn, tôi đang muốn phăng đến một điều nào đó. Bây giờ thì làm ơn nói về vụ phù thủy đi. Cha có rảnh không ?”
“ Chút đỉnh.”
“ Trên phương diện họat động của bọn phù thủy, chứ không phải về việc săn bắt họ đâu.”
“ Ồ, tôi đã có lần viết sách khảo cứu về đề tài ấy,” Karras cười, “ trên khía cạnh tâm thần học.”
“ Ồ, thật sao ? Tuyệt quá! Cừ quá đi thôi! Đúng là một phần thưởng cho tôi. Một điểm A cộng. Cha có thể giúp ích tôi rất nhiều, rất nhiều hơn chỗ tôi tưởng. Nào, cha, nói về thuật phù thủy…”
Ông với tay nắm chặt lấy cánh tay vị linh mục Dòng Tên lúc họ đi quanh một khúc rẽ và đến gần chiếc ghế đá. “ Như tôi đây, một kẻ tầm thường, và nói trắng ra, không được học hành nhiều cho mấy, xét về mặt giáo dục trường lớp, khoa bảng. Không thật. Nhưng tôi chịu đọc. Vâng, tôi biết người ta thường nói thế nào về những kẻ tự lập, người ta hay bảo rằng họ là những thí dụ điển hình đến khiếp về sự lao động không kỹ năng. Tôi không xấu hổ. Không hề. Tôi..” Chợt ông chận ngang trớn nói, nhìn xuống và lắc đầu. “Lại tình cảm ủy mị nữa rồi. Đúng là thói quen mà. Tôi không cách gì chữa được cái trò tình cảm ủy mị này được. Chà, xin bỏ lỗi cho, cha đang bận rộn quá.”
“ Vâng, tôi đang cầu nguyện.”
Câu nói nhỏ nhẹ của vị tu sĩ khô khốc và vô hồn. Kingderman dừng lại chốc lát mà ngó ông. “ Cha nói thật đấy chứ ?” “ Không ?”
Nhà thám tử lại nhìn ra trước và họ tiếp tục đi. “ Đây, tôi xin nói vào đề, những vụ phạm thánh. Chúng có nhắc cho cha nhớ tới điều gì liên quan đến thuật phù thủy không ?”
“ Có lẽ. Một vài nghi thức đã được sử dụng trong Lễ Đen.”
“ Một điểm A cộng nũa. Bây giờ tới Dennings. Cha đã đọc báo thấy ông ta chết ra sao rồi chứ ?”
“ Vì một cái ngã.”
“ Đây, tôi nói cha nghe, và xin giữ mật đấy nhé ?”
“ Dĩ nhiên.”
Nhà thám tử có vẻ đau khổ vì ông nhận ra là Karras không hề có ý muốn dừng ở ghế đá. “ Cha có phiền không ?” Ông hỏi, vẻ mong ngóng.
“ Gì cơ ?”
“ Ta dừng lại được không ? Có lẽ ngồi xuống ?”
“ Ồ, được chứ.” Họ bắt đầu vòng lại chiếc ghế đá.
“ Cha sẽ không bị cóng chứ ?”
“ Không đâu, bây giờ tôi khỏe rồi.”
“ Cha chắc chứ ?”
“ Tôi khỏe mà.”
“ Được rồi, được rồi, nếu ý cha đã quyết.”
“ Lúc nãy ông đang nói gì nhỉ ?”
“ Xin chờ cho một giây, một giây thôi mà.”
Kingderman đặt tấm thân mỏi nhừ của ông lên ghế đá với một tiếng thở dài mãn nguyện. “ Chà, khá hơn rồi, có khá hơn rồi.” Ông nói lúc vị linh mục Dòng Tên nhặt chiếc khăn lên lau khuôn mặt đẫm mồ hôi của mình. “Đang độ trung niên thật là một cuộc đời !”
“ Burke Dennings hả ?”
“ Burke Dennings, Burke Dennings, Burke Dennings…” nhà thám tử gật đầu, ngó xuống giày. Rồi ông ngẩng lên nhìn Karras, vị linh mục đang lau gáy. “ Thưa cha nhân lành, Burke Dennings đã được tìm thấy ở chân dãy bậc cấp dài dằng dặc ấy đúng bảy giờ năm phút, đầu vặn tréo ngoe ra đằng sau.”
Những tiếng la hét lóang thóang vẳng ra từ sân dã cầu, nơi đội bóng Đại học tập dượt. Karras ngừng lau, chịu đựng tia nhìn đăm đăm của viên trung úy. “ Điều đó đã không xảy ra trong khi ngã chứ ?” Rốt cuộc ông lên tiếng.
“ Cái chắc là có thể xảy ra trong lúc ngã lắm chứ.” Kinderman nhún vai. “Nhưng mà…”
“ Không có lẽ nào.” Karras suy nghĩ.
“ Vậy cha nghĩ sao về điều đó, trong nội dung của thuật phù thủy ?”
Vị linh mục chậm rãi ngồi xuống, lộ vẻ đăm chiêu. “ Chà,” cuối cùng ông nói, “ cứ giả thiết như là bọn quỷ dữ đã vặt gãy cổ các phù thủy theo cách đó. Chí ít thì thần thọai cũng đã kể lại như vậy.”
“ Một thần thọai ư ?”
“ Ồ, phần lớn là vậy.” Vị linh mục quay sang Kinderman. “ Mặc dù con người ta quả đã có kẻ chết y như cách đó thật, tôi nghĩ vậy, có thể lắm, đó là những hội viên của một ổ phù thủy đào thóat hoặc đã tiết lộ bí mật của tổ chức. Đó chỉ là một sự phỏng đóan thôi. Nhưng tôi biết rõ đó chính là dấu ấn của bọn sát nhân thờ quỷ dữ.”
Kinderman gật đầu. “ Chính xác. Chính xác lắm. Tôi nhớ lại một vụ giết người tương tự đã xảy ra ở London. Xảy ra vào thời đại bây giờ. Tôi muốn nói là mới dạo gần đây, mới bốn, năm năm trước đây thôi, thưa cha. Tôi nhớ là tôi đã đọc thấy việc đó trên báo chí.”
“ Vâng, tôi cũng có đọc, nhưng thiết tưởng chuyện đó hóa ra chỉ là trò đùa dai mà thôi. Tôi có lầm không ạ ?”
“ Không đâu, đúng như thế, cha ạ, hòan tòan đúng như cha nghĩ. Nhưng còn trong trường hợp này thì chí ít, người ta cũng thấy được đôi chỗ tương quan, có lẽ thế, giữa vụ đó và những việc xảy ra trong nhà thờ. Có lẽ một kẻ nào đó điên rồ, thưa cha, một kẻ nào đó đem lòng thù óan giáo hội. Một cuộc nỗi lọan từ tiềm thức, có lẽ thế.”
“ Một linh mục bệnh họan,” Karras thì thầm. “ Hẳn thế ?”
“ Này cha, cha là một nhà tâm thần học, cha hãy nói cho tôi nghe đi.”
“ Dĩ nhiên thôi, các hành vi xúc phạm thần thánh rõ ràng là có tính cách bệnh lý.” Karras trầm ngâm nói, vừa mặc vội chiếc áo len vào. “ Và nếu quả thật là Dennings đã bị giết chết thì, tôi đóan rằng kẻ sát nhân cũng là một kẻ bệnh họan mà thôi.”
“ Và có lẽ y có chút kiến thức về thuật phù thủy.”
“ Có thể.”
“ Có thể,” nhà thám tử lầu bầu. “ Vậy thì ai đó hội đủ tiêu chuẩn, chắc cũng chỉ sống nội trong vùng này thôi, và đã lẻn vào nhà thờ trong đêm hôm đó ?”
“ Một linh mục bệnh họan” Karras nói, rầu rĩ với tay lấy chiếc quần kaki đã bạc phếch ra vì nắng gió.
“ Xin cha hãy nghe đây, tôi nói điều này hẳn sẽ rất khó chịu đối với cha, tôi hiểu lắm. Nhưng đối với các linh mục đang sống trong khuôn viên trường Đại học này, cha là một bác sĩ tâm thần, một vị cố vấn về các vấn đề tâm linh, thưa cha, hẳn là cha…”
“ Không, tôi đã thay đổi nhiệm sở rồi.”
“ Ủa, thật sao ? Ngay giữa năm như thế này à ?”
“ Đó là lệnh Bề Trên.” Karras nhún vai lúc ông xỏ quần vào.
“ Dù vậy, cha hẳn biết vào thời điểm đó những ai là kẻ bệnh hoạn và những ai không chứ, đúng không? Tôi muốn nói là cái lọai bệnh đó. Cha đã biết rồi.”
“ Không, không nhất thiết đâu, thưa Trung úy. Tuyệt không. Sự thật là nếu quả tôi có biết đi nữa thì cũng chỉ là chuyện tình cờ. Ông thấy đó, tôi không phải là nhà phân tâm học. Tất cả công việc tôi làm là giúp ý kiến . Vả lại,” ông vừa bình luận vừa cài cúc quần, “ tôi thật sự không biết người nào khớp với điều mô tả trên cả.”
“ À phải, nguyên tắc đạo đức của người bác sĩ. Nếu cha có biết, chắc cha cũng chẳng nói.”
“ Đúng thế, có thể lắm là tôi không nói.”
“ Nhân tiện – Và tôi cũng xin đề cập đến để nghe chơi thôi – Cái nguyên tắc đạo đức này dạo gần đây đã được xem là bất hợp pháp rồi. Không dám quấy rầy cha vì những chuyện vụn vặt, nhưng xin thưa với cha rằng mới đây một bác sĩ tâm thần ở California ngập nắng, đúng thế đó, đã bị tống giam vì không chịu khai báo với cảnh sát những điều ông ta biết về một bệnh nhân.”
“ Một lời đe dọa chăng ?”
“ Đừng có nói chuyện điên. Tôi chỉ đề cập đến nghe chơi vậy thôi.”
“ Lúc nào tôi cũng có thể trình bày với quan tòa rằng đó là một bí mật của tòa giải tội được.” Vị linh mục Dòng Tên nói, vừa cười gượng gạo lúc ông đứng lên bỏ áo vào quần. “ Thẳng thắng mà nói là như vậy,” ông nói thêm.
Nhà thám tử ngước nhìn ông, có phần ảm đạm. “ Thưa cha, cha muốn ta bàn chuyện nghiêm chỉnh chứ ?” Ông ta hỏi. Rồi ông nhìn chỗ khác, vẻ buồn nản. “ Cha…Cha gì nhỉ ?” Ông hỏi như đánh đu với chữ nghĩa. “ Cha là một người Do Thái, mói gặp cha là tôi biết ngay.”
Vị linh mục cười khan.
“ Ừ, cười đi.” Kinderman bảo. “ Cứ cười đi.” Nhưng sau đó ông ta mỉm cười, có vẻ hài lòng với chính mình một cách ranh mãnh. Ông quay lại với ánh mắt rạng rỡ. “ Điều này làm tôi nhớ lại kỳ thi tuyển vào ngành cảnh sát, thưa cha, lúc tôi thi có một câu hỏi đại để như thế này: “ rabies là gì và các anh sẽ làm gì với chúng ?” Cha có biết một tên đầu bò hạ bút trả lời như thế nào không ? Anh chàng này tên là Emis thì phải ? “ Rabies” anh ta viết, “là các tu sĩ Do Thái giáo , và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ họ”, tôi nói thật đó !” Ông ta giơ một tay lên thề.
Karas cười. “ Nào, tôi đưa ông ra xe đây, xe ông đậu ngòai bãi phải không ?”
Nhà thám tử ngước nhìn vị linh mục, miễn cưỡng không muốn đi. “ Vậy là ta kết thúc sao ?”
Vị linh mục gác một chân lên ghế đá, nghiêng người tới trước, một tay tựa hẳn lên đầu gối. “ Thực lòng tôi không dấu diếm gì đâu.” Ông nói. “ Thật đó. Giá tôi biết một linh mục nào giống như kẻ ông đang tìm kiếm, chí ít tôi cũng có thể nói cho ông rằng có một người như thế..như thế…, mà không tiết lộ tên ông ta. Rồi kế đó, tôi sẽ phúc trình việc ấy lên Giám Tinh. Nhưng tôi không biết có ai thậm chí hơi giống như vậy.”
“ À, vâng,” nhà thám tử thở dài. “Trước hết, tôi chưa hề nghĩ đó là một linh mục. Thực sự là không.” Ông gật đầu về hướng bãi đậu xe. “ Vâng, xe tôi ngòai đó.”
Hai người cất bước.
“ Điều mà tôi thực tâm nghi ngờ,” nhà thám tử tiếp tục. “ Nếu tôi nói ra chắc cha sẽ bảo là tôi điên. Tôi không biết. Tôi không biết.” Ông ta lắc đầu quầy quậy. “Ôi chao, bao nhiêu kiểu hội kín thế này, những giáo phái kiểu này, nơi họ giết người một cách vô cớ. Nó khiến cho ta bắt đầu suy nghĩ đến những điều kỳ quặc. Để theo kịp thời đại, vào những thời buổi như thế này, ta còn phải điên một chút mới được.”
Karras gật đầu.
“ Cái gì trên áo thun của cha vậy ?” nhà thám tử hỏi vị linh mục, vừa hất đầu về phía ngực áo ông.
“ Cái gì đâu ?”
“ Trên ngực áo thun đó,” nhà thám tử nói rõ. “ Hàng chữ ấy, Các Triết Gia.”
“ À, có một năm tôi đã dạy vài khóa,” Karras nói, “ ở chủng viện Woodstock, bang Maryland. Tôi chơi trong đội dã cầu lớp dưới. Các cầu thủ được gọi là Các Triết Gia.”
“ À, còn đội lớp trên ?”
“ Các Nhà Thần Học.”
Kinderman mỉm cười và lắc đầu. “ Các Nhà Thần Học ba, Các Triết Gia hai,” ông ngẫm nghĩ.
“ Các Triết Gia ba, Các Nhà Thần Học hai.”
“ Dĩ nhiên.”
“ Dĩ nhiên.”
“ Những chuyện lạ lùng.” Nhà thám tử trầm ngâm. “ Lạ lùng thật. Này, thưa cha..” Ông bắt đầu một chiến thuật dè dặt. “ Này, bác sĩ ơi, …tôi có điên không, hay là có thể có một ổ phù thủy tại Quận này ngay lúc này đây ? Ngay hôm nay đây ?”
“ Ôi, nào.” Karras nói.
“ Thế là có thể có rồi.”
“ Tôi không hiểu ý ông.”
“ Bây giờ tôi sẽ đóng vai bác sĩ đây,” nhà thám tử tuyên bố với linh mục, ngón tay trỏ của ông ta vung vẩy trong không khí. “ Cha không nói là không, mà lại tỏ ra tinh ranh một lần nữa. Thế là cha thủ thế rồi, thưa cha nhân lành, đúng là cha thủ rồi. Cha sợ rằng cha sẽ trông ra vẻ cả thộn, dễ tin, có lẽ vậy, ra vẻ một ông cha mê tín trước mặt Kinderman nhà trí tuệ bậc thầy, nhà duy lý,” ông vỗ vỗ ngón tay lên trán. “ Bậc thiên tài bên cạnh cha đây. Thời đại của lý trí biết đi đây. Đúng không ? Tôi nói có đúng không ?”
Vị linh mục Dòng Tên nhìn chăm chăm nhà thám tử với vẻ ức đóan và sự nể vì càng lúc càng tăng. “ Chà, thật là hết sức sắc sảo, khôn ngoan,” ông nhận xét.
“ Được rồi,” Kinderman lầu bầu. “ Thế thì tôi xin hỏi cha một lần nữa, có thể có những hang ổ của bọn phù thủy ngay tại quận này không ?”
“ Chà, điều này thì quả thật tôi không biết,” Karras trầm ngâm đáp, hai tay ông khoanh trước ngực. “ Nhưng tại nhiều khu vực ở châu Âu, người ta vẫn cử hành Lễ Đen.”
“ Ngày nay à ?”
“ Ngày nay.”
“ Có phải cha muốn nói là cũng y như thuở xưa vậy, hở cha ? Này, tình cờ tôi có được đọc về mấy chuyện đó, nào là chuyện tình dục, chuyện tượng thánh, và cơ man những điều chẳng ai biết đâu mà lần. Tôi không làm cha ghê tởm, nhưng tiện thể xin hỏi cha là họ quả có làm tất cả những điều ấy không ? Thật không ?”
“ Tôi không biết.”
“ Vậy thì ý kiến của cha ra sao, thưa cha Phòng Thủ.”
Vị linh mục Dòng Tên bật cười. “ Thôi được rồi, tôi nghĩ là điều đó có thật đấy. Hay chí ít tôi cũng nghĩ là như vậy. Nhưng hầu hết các luận điểm của tôi đều căn cứ trên bệnh lý học. Chắc chắn như vậy, cái vụ Lễ Đen đó. Bất cứ kẻ nào làm những hành động đó đều là một con người hết sức rối loạn, và rối loạn hết sức đặc biệt. Thật vậy, thuật ngữ y học, có một cái tên gọi loại chứng rối loạn kiểu đó được mệnh danh là hội chứng quỷ xa-tăng – Satanism – hay là sự sùng bái xa-tăng, ý muốn nói những kẻ không thể nào đạt được khóai lạc nhục dục mà không kèm theo một hành động báng bổ thần thánh nào đó. Vâng, điều đó không phải là bất thường lắm đâu ngay cả trong thời đại ngày nay, và Lễ Đen được sử dụng đến chỉ như một cách biện minh đó thôi.”
“ Một lần nữa , xin thứ lỗi cho tôi, nhưng còn những hành vi dâm lọan người ta thực hiện trên tượng Chúa Giê-su và trinh nữ Marie thì sao ?”
“ Những hành động ấy ra sao cơ ?”
“ Mà chúng có thật không ?”
“ Vâng, tôi nghĩ là điều này có lẽ khiến ông quan tâm với tư cách là một viên chức cảnh sát.” Máu học giả của vị linh mục lại được kích thích sôi sục lên, cử chỉ của Karrsas trở nên hùng hồn một cách lặng lẽ. “ Tàng thư văn khố của Sở Cảnh sát Paris vẫn còn lưu trữ hồ sơ vụ hai tu sĩ thuộc một tu viện lân cận, để xem nào…” ông gãi đầu như cố gắng nhớ lại. “ À, phải rồi, tu viện ở Crépy, tôi tin như thế. Hay bất cứ tu viện nào,” ông nhún vai, “ ở vùng gần đó. Hai tu sĩ này bước vào một lữ quán, hung hăng đòi một chiếc giường ba người nằm. À, nhân vật thứ ba thì họ vác trên vai : một tượng Đức Mẹ lớn cở bằng người thật.”
“ Trời đất, kinh khủng quá,” nhà thám tử thở hào hển. “ Kinh khủng quá !”
“ Nhưng sự thực đúng như vậy, và đó là một chỉ dẫn khá rõ ràng những điều ông đọc đã được căn cứ trên thực tế.”
“ Chà, chuyện tình dục, có lẽ vậy rồi, có lẽ như vậy. Tôi có thể hiểu được. Đó lại là một chuyện hòan tòan khác. Không hề gì. Nhưng đàng này, xét đến những vụ giết người theo nghi lễ thì sao đây, thưa cha ? Có thật không ? Cha nói đi ! Cái vụ lấy máu trẻ sơ sinh ấy ?” Nhà thám tử đang ám chỉ đến một điều khác ông đã được đọc trong sách biên khảo về thuật phù thủy, chương mô tả thế nào trong cuộc Lễ Đen, thầy tế lễ không mặc áo dòng kia lắm lúc thường rạch cườm tay một trẻ sơ sinh làm cho máu nó chảy vào một chén thánh, sau đó chén máu được hiến tế và dùng trong nghi thức thông công. “ Điều đó giống hệt những chuyện người ta hay kể về người Do Thái,” nhà thám tử nói tiếp, “ thế nào họ bắt cóc những hài nhi Thiên Chúa giáo rồi uống máu chúng. Chà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng chính dân tộc cha đã kể các câu chuyện đó.”
“ Nếu họ đã làm điều đó, thì xin hãy tha thứ cho tôi.”
“ Cha đã được giải tội, cha đã được giải tội rồi mà.”
Một cái gì đen tối, một cái gì đó buồn thảm, lướt qua mắt vị linh mục, giống như cái bóng của một niềm đau được hồi tưởng lại trong chốc lát. Ông vội chú tia mắt mình vào lối đi ngay trước mặt.
“ Thực sự tôi không biết gì về chuyện giết người theo nghi lễ.” Karras nói. “ Tôi không biết thật. Nhưng có dạo, một bà mụ ở Thụy Sĩ đã thú nhận đã giết ba mươi hoặc bốn mươi trẻ sơ sinh để sử dụng tại Lễ Đen. Ồ, thì có lẽ bà ta đã bị tra khảo,” ông nói thêm. “ Ai mà biết được. Nhưng rõ ràng bà ta đã kể một câu chuyện hết sức thuyết phục, rất đáng tin cậy. Bà kể rằng bà thường dấu một chiếc kim dài, nhỏ, trong tay áo, để mỗi khi đở một hài nhi ra khỏi lòng mẹ, bà lại kéo cái kim ra, đâm suốt vào đỉnh đầu đứa bé, sau đó lại giấu cái kim vào chỗ cũ. Không hề có dấu vết.” Ông nói, mắt nhìn Kinderman. “ Đứa bé trông như đã chết trong bụng mẹ. Ông hẳn đã được nghe nói về thành kiến trước đây của giáo hội Công giáo Âu châu đối với các bà mụ rồi chứ ? Vâng, thành kiến đó bắt đầu từ sự kiện đó.”
“ Thật hãi hùng.”
“ Thế kỷ này đã không chặn đứng được thói điên lọan. Dù sao thì…”
“ Này, xin cha chờ cho một chút, chờ đã, xin cha thứ lỗi, mấy câu chuyện này, chúng được kể bởi những người đã bị tra tấn, đúng không ? Do đó, tự căn bản, chúng không có gì đáng tin cậy cho lắm. Họ ký trước những bản cung khai rồi sau đó, những kẻ hỏi cung điền vào chỗ trống theo ý muốn. Tôi muốn nói là, làm gì có những đạo luật như là luật habae corpus đâu, làm như có những trát tòa kiểu như là “ Hãy Để Cho Dân Tôi Đi” đâu có thể nói như vậy. Tôi nói có đúng không ? Tôi nói đúng đấy chứ ?”
“ Vâng, ông nói đúng, nhưng cũng xin thưa với ông rằng, nhiều bản cung khai đã mang tính chất tự nguyện.”
“ Vậy thì kẻ nào lại tự nguyện đối với những điều kinh khiếp như thế ?”
“ Chà, có thể là những kẻ rối lọan tâm thần.”
“ A ha, lại thêm một nguồn tin đáng tin cậy nữa đây.”
“ Vâng, đã hẳn là ông hòan tòan đúng, thưa Trung úy. Tôi chỉ đóng vai trò luật sư của quỷ đấy thôi. Nhưng có một điều, đôi khi chúng ta có khuynh hướng hay quên, đó là những kẻ đủ điên lọan để khai ra những điều như thế thì có thể cũng điên lọan để làm những điều đó, ta có thể quan niệm như thế lắm chứ. Ví dụ như những huyền thọai về ma sói. Vâng, đúng như vậy, những điều đó thực đáng nực cười, phi lý quá, có ai lại biến mình thành chó sói được đâu. Nhưng nếu có một kẻ tâm thần rối lọan cho đến nỗi chẳng những y nghĩ mình là một con ma sói, mà lại còn hành động giống như lòai lang sói thì sao đây ?”
“ Kinh khủng thật, thưa cha. Điều này nghĩa lý ra làm sao ? Lý thuyết chăng hay là sự thật ?”
“ Vâng, có một kẻ tên là William Stumpf, tôi xin nêu một ví dụ. Hay tên Peter gì đó. Tôi không nhớ rõ tên. Y là một người Đức sống vào hế kỷ thứ XVI, tự cho mình là một con ma sói. Y đã giết có lẽ phải đến hai mươi hoặc ba mươi em nhỏ.”
“ Cha muốn nói là y đã khai ra điều đó chứ ?”
“ Đúng vậy, nhưng tôi nghĩ là lời cung khai ấy có giá trị.”
“ Làm sao biết được như thế ?”
“ Thì khi người ta bắt y, y đang ăn óc hai người con dâu trẻ tuổi của y.”
Từ sân tập dã cầu, trong ánh nắng tháng Tư trong trẻo nhẹ nhàng, vọng lại âm thanh dòn dã của những tiếng chuyện trò, tiếng bóng dội lại từ chày quất.
Hai người đã ra đến bãi đậu xe, vị linh mục và nhà thám tử. Lúc này họ bước đi trong yên lặng.
Lúc họ đến bên xe tuần cảnh, Kinderman thẩn thờ với tay ra phía tay nắm cửa xe. Ông dừng lại một lúc, sau đó ngước lên nhìn Karras với ánh mắt ủ dột.
“ Vậy là tôi phải đi tìm ai đây, thưa cha ?” Ông hỏi vị linh mục.
“ Một người điên,” Damien Karras nhỏ nhẹ nói. “ Có lẽ một kẻ nghiện ma túy.”
Nhà thám tử nghĩ kỹ điều đó, rồi lẳng lặng gật đầu. Ông quay sang vị linh mục. “ Cha muốn đi một cuốc xe không ?” Ông hỏi, vừa mở cánh cửa xe tuần cảnh.
“ Ồ, cảm ơn, có một quảng đường ngắn thôi ấy mà.”
“ Hề gì, cứ thưởng thức,” Kinderman phác cử chỉ nóng nảy, vừa ra hiệu cho Karras leo lên xe. “ Cha sẽ có dịp kháo với bạn bè là cha vừa lả lướt trên xe cảnh sát chứ sao.”
Vị linh mục Dòng Tên cười tóet miệng rồi lách vào băng sau.
“ Tốt lắm, tốt lắm,” nhà thám tử lầm thầm, giọng khản đặc, rồi lúng túng len người ngồi cạnh vị linh mục, xong đóng cửa lại. “ Không có một chặng đường nào là ngắn cả.” Ông ta bình luận. “ Không hề.”
Với sự chỉ dẫn của Karras, họ cho xe chạy xuống khu cư xá hiện đại của Dòng Tên tọa lạc trên phố Prospect, nơi vị linh mục vừa dọn vào chỗ ở mới. Ông cảm thấy nếu ông cứ lưu lại túp nhà nhỏ kia, ông sẽ không thể nào tránh được những kẻ ông đã từng khuyên bảo còn tiếp tục đến tìm sự giúp đỡ chuyên môn của ông nữa.
“ Cha thích điện ảnh chứ, thưa cha Karras ?”
“ Rất thích.”
“ Cha đã xem phim Lear chưa ?”
“ Không đủ khả năng.”
“ Tôi xem rồi.Tôi có thẻ vào cửa.”
“ Thế thì tuyệt quá.”
“ Tôi có thẻ vào cửa để xem những phim hay nhất. Thế mà bà K. nhà tôi lại cứ mệt hòai, chả bao giờ thích đi xem.”
“ Thật đáng tiếc.”
“ Đáng tiếc thật ấy chứ, đúng thế đấy, tôi chúa ghét đi xem phim một mình. Cha biết đấy, tôi thích nói chuyện phim ảnh, thảo luận, phê bình.” Ông ta nhìn đăm đăm qua cửa sổ, tia mắt ngỏanh đi không ngó vị linh mục.
Karras lẳng lặng gật đầu, mắt nhìn xuống đôi bàn tay to lớn và thật mạnh mẽ của mình. Hai bàn tay chắp trên đùi. Một khỏanh khắc trôi qua. Sau đó Kinderman lưỡng lự quay lại với vẻ mong ngóng. “ Lúc nào có dịp mời cha đi xem phim với tôi, cha nhé ! Xem miễn phí…Tôi có thẻ vào cửa mà.” Ông vội nói thêm.
Vị linh mục nhìn ông, cười tóet miệng. “ Giống như cách Elwood P. Dowd hay nói trong phim Harvey, thưa Trung úy, khi nào ?”
“ Ồ, tôi sẽ gọi điện thọai cho cha mà, tôi sẽ gọi mà.” Nhà thám tử mặt mày rạng rỡ, xởi lởi.
Họ đã đến khu cư xá và đỗ xe lại. Karras đặt tay trên cửa xe, khẽ mở đánh “kịch” một tiếng. “ Xin ông cứ gọi cho tôi. Thật tôi rất lấy làm tiếc đã không giúp gì được cho ông mấy.”
“ Hề gì đâu, cha đã giúp ích rất nhiều.” Kinderman vẫy tay, vẻ ỉu xìu. Karras bước xuống xe. “ Nói thật mà nghe, nếu xét như một người Do Thái đang cố vượt qua cuộc thi, thì cha là một người rất dễ mến.”
Karras quay lại, đóng cửa, nghiêng người xuống cửa sổ xe với một nụ cười nhiệt thành phảng phất. “ Thiên hạ có bao giờ bảo ông là ông trông giống tài tử Paul Newman không ?”
“ Bảo hòai ấy chứ. Và cha cứ tin tôi đi, bên trong cái thân xác này, chàng Newman không ngừng phấn đấu để thóat ra ngòai, chứ ở trong đó chật chội quá,” ông bảo. “ Còn có cả Clark Gable nữa chứ.”
Karras tươi cười vẫy tay rồi bước đi.
“ Này cha, hượm đã!”
Karras quay lại, nhà thám tử đang chen người ra khỏi xe.
“ Này thưa cha, tôi quên khuấy đi mất,” ông ta thở hào hển, vừa tiến lại gần vị linh mục. “ Thật trí óc cứ mụ mẩm cả. Cha biết đấy chứ, cái tấm thẻ có viết những chữ nghĩa dơ *** ấy ? Cái tấm người ta tìm thấy trong nhà thờ ấy ?”
“ Ông muốn nói đến tấm thẻ trên bàn thờ phải không ?”
“ Bất cứ. Nó vẫn còn quanh quẩn ở đâu đây đấy chứ ?”
“ Vâng, tôi vẫn còn giữ nó trong phòng. Tôi đang thẩm định văn thể La tinh trên đó. Ông muốn xem chứ ?”
“ Vâng, có lẽ nó sẽ tiết lộ đôi điều. Có lẽ vậy.”
“ Đợi một giây, tôi đi lấy ngay.”
Trong lúc Kinderman đợi bên ngòai cạnh xe tuần cảnh, vị linh mục Dòng Tên đi đến phòng riêng của ông ở tầng trệt, nhìn ra phố Prospect, tìm thấy tấm thẻ kia. Ông vòng trở ra, trao thẻ cho Kinderman.
“ Có lẽ còn vài vết dấu tay,” Kinderman nói, giọng khò khè, lúc ông xem xét tấm thẻ. Thế rồi, “ không, hượm đã, cha đã cầm tới cầm lui tấm thẻ này rồi,” có vẻ như ông đã nhanh chóng nhận ra điều ấy. “ Suy luận khá đấy chứ , hở cha ?” Ông đang lúng túng, bận bịu với lớp nhựa plastic bọc ngòai tấm thẻ. “ Ồ, không được, hượm đã, được rồi, nó bong ra rồi, ra rồi.”
Rồi ông ngước nhìn Karras với nỗi thất vọng chớm nở. “ Mà cha cũng đã cầm vào cả bên trong luôn rồi, phải không Kirk Douglas ?”
Karras cười tóet miệng, vẻ trầm ngâm, gật đầu.
“ Không sao, có lẽ ta vẫn còn tìm được một điều gì khác không chừng. À mà, cha đã nghiên cứu nó chưa ?’
“ Rồi, tôi đã.”
“ Kết luận ra sao ?”
Karras nhún vai. “ Không có vẻ gì là công trình của một kẻ đùa dai cả. Thọat tiên, tôi nghĩ có lẽ là một sinh viên. Nhưng tôi nghi lắm. Bất cứ ai đã làm điều này phải là kẻ tâm thần bị rối lọan khá sâu sắc.”
“ Như cha đã nói rồi.”
“ Còn thứ tiếng La tinh đó…” Karras trầm tư. “ Chẳng những nó không chút khuyết điểm, thưa Trung úy, mà nó – chà – nó còn có một văn phong rõ rệt hết sức độc đáo. Có vẻ những kẻ viết ra nó đã quen suy nghĩ bằng tiếng La tinh vậy.”
“ Các linh mục có vậy không ?”
“ Thôi nào.”
“ Xin trả lời thẳng vào câu hỏi cho, thưa đức Cha Hoang Tưởng ?”
“ Được rồi, ở một thời điểm trong quá trình huấn luyện các linh mục, quả là họ có như vậy thật. Ít nhất là trong trường hợp các Cha Dòng Tên và một số các Dòng khác. Tại Chủng viện Woodstock, một số khóa triết học được giảng dạy bằng tiếng La tinh.”
“ Sao vậy ?”
“ Để cho tư tưởng được chính xác. Giống như trong luật học vậy.”
“ À, tôi hiểu.”
Karras chợt có vẻ hăng say, nghiêm túc hẳn. “ Này, trung úy, tôi có thể bảo cho ông biết là tôi thật sự nghĩ ai là thủ phạm của vụ này không ?”
Nhà thám tử nghiêng sát người lại. “ Không, ai vậy ?”
“ Bọn Dominicains đấy. Đi mà lùng sục họ đi.”
Karras mỉm cười vẫy, tay chào rồi bước đi.
“ Hồi nãy tôi nói dối đó,” nhà thám tử gọi với theo ông, sưng sỉa mặt mày. “ Cha giống hệt như Sal Mineo cơ !”
Kinderman nhìn lúc vị linh mục đưa tay vẫy chào một lần nữa và bước vào khu cư xá, rồi ông quay lại, leo lên xe tuần cảnh. Ông thở khò khè, ngồi bất động, nhìn xuống sàn xe. “ Ông ta cứ lúng ba lúng búng, lúng ba lúng búng,” ông thì thầm. “ Giống y như một âm thoa chìm dưới nước.” Thêm một lúc nữa, ông cứ đăm đăm trong dáng vẻ đó. Rồi ông quay lại bảo tài xế. “ Được rồi, ta về sở đi. Nhanh lên, bất chấp luật lệ.”
Chiếc xe lao vút đi.
---------------------------
Căn phòng mới của Karras đồ đạc rất đơn sơ, một giường chiếc, một ghế dựa, một bàn làm việc và kệ sách xây chìm vào tường. Trên bàn giấy là một bức ảnh cũ của mẹ ông, và như một lời thống trách câm lặng treo trên tường ở đầu giường là một chiếc thập tự giá bằng kim lọai.
Căn phòng chật hẹp đó đối với ông đã đủ là một thế giới. Ông không màng tới của cải riêng tư, có điều những thứ ông có đều sạch sẽ tinh khiết.
Ông tắm vòi sen, kỳ cọ qua quít, mặc vội chiếc quần kaki và chiếc áo thun, rồi thong thả đi dùng bữa tối ở nhà ăn của các linh mục. Ở nhà ăn ông nhận ra cha Dyer, với đôi má hồng đang ngồi một mình ở một chiếc bàn trong góc. Ông đến với ông ta.
“ Chào, Damien,” Dyer lên tiếng. Vị linh mục trẻ vận một chiếc áo thun thể thao dài tay.
Karras cúi đầu đứng bên một chiếc ghế, lầm thầm đọc kinh rõ nhanh. Sau đó, ông làm dấu thánh giá, ngồi xuống chào bạn
“ Thế nào chàng lang thang ?” Dyer hỏi lúc Karras trải chiếc khăn ăn lên lòng.
“ Ai lang thang ? Tôi đang làm việc đấy nhé.”
“ Mỗi tuần có một buổi diễn giảng thôi ấy à ?”
“ Quý hồ tinh bất quý hồ đa, đáng kể là vấn đề chất lượng.” Karras nói. “ Sao, bữa ăn có gì đây ?”
“ Cha không ngửi thấy à ?”
“ À, *** thật, lại một ngày của chó chăng ?” Có mùi xúc xích và dưa bắp cải.
“ Đáng kể là vấn đề số lượng chứ.” Dyer ung dung đáp.
Karras lắc đầu, đưa tay với lấy bình sữa bằng nhôm.
“ Tôi không uống thứ đó đâu.” Dyer lẩm bẩm, mặt không một nét cảm xúc, vừa phết bơ lên lát bánh mì làm tòan bằng bột mì. “ Có thấy sủi dầy bọt đấy không ? Tiêu thạch đấy ?”
“ Tôi lại cần chất ấy,” Karras bảo. Lúc ông lật ngửa chiếc ly ra để rót sữa vào, ông nghe có tiếng người đến gần bàn họ.
“ Chà, rốt cuộc tôi đã đọc xong cuốn sách ấy rồi,” người mới đến nói, mặt tươi hơn hớn.
Karras ngước lên nhìn và cảm thấy thất vọng ê chề, cảm thấy một sức nặng êm ái đè bẹp ngấu nghiến khi ông nhận ra vị linh mục dạo gần đây mới đến với ông để xin lời khuyên, vị linh mục không có khả năng kết bạn đó.
“ Ồ, thế cha có ý kiến ra sao ?” Karras hỏi. Ông đặt bình sữa xuống, cứ như thể nó là một tập cẩm nang trong một tuần kinh nguyện dang dở.
Vị linh mục trẻ chuyện trò, và nữa giờ sau đó, Dyer phá lên cười run cả bàn, làm nhộn cả phòng ăn. Karras xem đồng hồ. “ Có muốn khoắng một chiếc áo vét không ?” Ông hỏi người linh mục trẻ. “ Ta có thể băng qua đường ngắm cảnh hòang hôn.”
Chẳng mấy chốc, họ đã tựa người lên tay vịn ở đầu bậc cấp dẫn xuống dãy phố M. Ngày đã tàn. Nhưng tia sáng mượt mà của mặt trời lặn bùng cháy huy hòang trên các tầng mây ở chân trời phía tây rồi vỡ thành những đốm đỏ thẩm lăn tăn trên mặt nước sông đang dần tối. Có dạo Karras đã gặp Chúa trong cảnh tượng này. Xa xưa lắm rồi. Giống như một người bị tình phụ, ông vẫn y hẹn.
“ Thật là một cảnh tượng !” Vị linh mục trẻ thốt lên.
“ Phải, đúng như vậy,” Karras biểu đồng tình. “ Đêm nào tôi cũng cố gắng ra ngòai này.” Chuông đồng hồ Viện Đại học đang dõng dạc gõ giờ. Đúng 7 giờ tối.
Hồi 7 giờ 23 phút, Trung úy Kinderman đang suy nghĩ về bản phân tích quang phổ ký cho thấy chất sơn trên bức tượng chim của Regan khớp với chất sơn cạo được từ bức tượng Trinh nữ Marie bị xúc phạm.
Vào hồi 8 giờ 47 phút, trong một xóm nhà ổ chuột ở tiểu khu Đông Bắc thành phố, một chàng Karl Engstrom trầm mặc trở ra từ một ngôi nhà tập thể nhung nhúc chuột bọ; đi bộ ba dãy phố về hướng Nam đến một trạm xe búyt, đứng đợi một mình trong một phút đồng hồ, mặt đờ đẩn, sau đó quỵ người xuống, khóc nức nở bên một trụ đèn.
Cũng vào lúc đó, Trung úy Kinderman đang ở trong rạp chiếu bóng.
Last edited by leminhchau; 27-11-2008 at 05:21 PM.