Lời giới thiệu
JUAN RAMÓN JIMÉNEZ thi sĩ Tây Ban Nha, sinh ở Moguer ( 1881 –1958 ), đoạt giải thưởng Nobel Văn chương năm 1956.
CON LỪA VÀ TÔI: chuyện của một con lừa tên là La Rô ( Platero ) và chủ nhân là thi sĩ, mà người ta quen sánh với cuốn HOÀNG TỬ BÉ của Antoine de Saint-Exupéry, vì hình thức văn chương và nội dung thơ mộng của nó.
Đây là một chuỗi chuyện ngắn nối tiếp nhau, đầy cảnh sắc và tình tiết của một ngôi làng Tây Ban Nha rất gần gũi với một ngôi làng Việt Nam: con chim én, giếng nước, rặng bìm bịp…..Người với vật gắn bó với nhau như đôi bạn, quen mặt từng gã Bô-hê-miên, thằng mọi, đứa bé nghèo khó hay tật nguyền, nhớ từng gốc cây bạc hà, cùng mơ những giấc mơ hẩm hiu giống nhau, đem lòng yêu những vẻ đẹp phù du nhất….cho đến ngay cuối cùng bỗng hóa thành thê lương. Truyện kết thúc ở cảnh thi sĩ ra đồng đứng bên ngôi mộ của lừa.
ĐỂ TƯỞNG NHỚ AGUEDILLA , NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐIÊN ĐÁNG THƯƠNG Ở ĐƯỜNG MẶT TRỜI ĐÃ GỬI CHO TÔI MẤY QUẢ DÂU VÀ HOA CẨM CHƯỚNG.
Chương 1
LA RÔ
La Rô là một con lừa nhỏ, hiền, có lông tơ, thân hình óng mượt, làm cho ta tưởng thân nó bằng bông gòn, không xương. Riêng đôi mắt, hai miếng gương hạt huyền, như hai con ốc bằng thủy tinh đen.
Nếu tôi thả lõng cho nó, nó thả bộ tới đồng cỏ và đưa chiếc mõm hâm hấp lướt nhẹ trên những đóa hoa nhỏ màu hồng, vàng hay xanh biếc…..
Nếu tôi gọi khẽ: “ La Rô ”, nó tiến lại phía tôi bằng bước chân lóc cóc nhỏ nhẹ reo vui như tiếng cười, như một thứ nhạc ngựa lý tưởng nào không hiểu….
Tôi cho nó cái gì, nó ăn cái đó. Nó thèm ăn quýt, nho xạ, trái sung màu tím nhạt có giọt mật thủy tinh nhỏ xíu.
Nó đằm thắm dịu dàng như đứa bé, như bé gái….; nhưng nó rắn rỏi và khô khan, ở bên trong như hòn đá. Khi nào ngày chủ nhật, tôi với nó đi qua mấy con hẻm cuối cùng trong làng, bọn người thôn dã, chậm chạp, đỏng đảnh, dừng bước lại nhìn nó:
Thân hình bằng thép, không bằng…
Bằng thép, thật đấy. Bằng thép pha với chất bạc của cung trăng.
Chương 2
BƯỚM TRẮNG
Đêm xuống, phơn phớt tím và chưa chi đã mờ sương. Những làn sáng mơ hồ màu hoa cà và xanh lục lần lữa ở phía bên kia tháp chuông nhà thờ. Con đường leo dốc, dày đặc bóng tối, tiếng lục lạc cùng với nùi cỏ, và tiếng hát, lẫn nỗi mỏi mê ham muốn.
Thình lình một người đàn ông vận toàn đen, đội chiếc mũ lưỡi trai và cầm một chiếc dùi nhọn, khuôn mặt khó coi hiện ra, thấp thoáng đỏ hồng theo đốm thuốc. Từ trong một túp lều lẹp xẹp lẩn vào giữa nhiều bao than lớn bước ra, hướng về phía chúng tôi.
- Có gì khai báo không?
- Ông cứ tự tiện…..Có bướm trắng….
Gã lăm le chọc mũi dùi sắt vào chiếc thồ, tôi thì vô phương ngăn cản.
Tôi mở thồ ra: gã thấy không có gì. Và thức ăn lý tưởng được để cho đi thong thả, khỏi bị ô nhiễm, khỏi phải trả tiền thuế nhập cảnh….
Chương 3
TRÒ CHƠI LÚC SẨM TỐI
Khi La Rô với tôi, cả hai cùng lẩy bẩy, về chiều, sắp sửa bước vào ánh sáng nhá nhem sắc tím của ngõ hẻm nghèo hèn dẫn tới khúc sông cạn nước, chúng tôi bắt gặp bôn nhỏ khốn khó đang chơi trò nhát nhau, đóng vai bọn ăn xin.
Đứa thì đội cái bao tải, đứa thì vờ làm thằng mù, đứa thì giả què…..
Kế đó tuổi nhỏ bỗng cao hứng, chúng không phải trần trụi đâu nhé, có mang giầy nhé, và mẹ chúng nó - bằng cách nào thì chỉ có mẹ chúng biết thôi – đã có cách kiếm miếng ăn cho chúng, chúng tự xưng làm hoàng tử:
- Bố ta có cái đồng hồ quả quýt bằng bạc.
- Còn bố tao có con ngựa.
- Bố tớ có khẩu súng trường.
Một thứ đồng hồ quả quýt báo thức từ rạng đông; một thứ súng trường không giết nổi cơn đói; một con ngựa sẽ đưa tới con đường cùng khổ…..
Bây giờ tới trò chơi nắm tay múa vòng tròn. Giữa cảnh thảm thương vô ngần ấy, giọng yếu ớt của một đứa con gái nhỏ, từ một nơi khác vọng lại, không cùng ngôn ngữ với chúng nó.
Giọng cất lên giống như một vòi nước nhỏ nhắn trong bóng tối. Bé gái là cháu chắt của Chim Xanh, cất tiếng ca như một nàng công chúa:
Em là goá phụ tre - ẻ….
Của ba – á tư - ớc O Rê….
….Hát thế nào nghe thế ấy! Hát lên đi, hãy mơ với mộng, hỡi đám trẻ nghèo! Thấm thoát rồi đây thời tráng niên sẽ đến, mùa xuân với lớp mặt nạ đông hàn sẽ khiến chúng bay hãi hùng ngập lòng như gặp phải kẻ ăn xin…..
Đi thôi, La Rô…..
Chương 4
NHẬT THỰC
Chúng tôi đút tay vào túi, tự nhiên thế thôi, và cảm thấy bóng mát lất phất trên vầng trán như chiếc cánh mỏng, tựa hồ như đang bước vào rặng thông dày. Đàn gà con trước con sau, đã rúc đầu vào chỗ ẩn, trên những các giá chuồng gà. Chung quanh, thôn ổ màu xanh lục đã nhuốm màu tang, tưởng chừng như bị phủ lên bằng bức màn tím ở chính diện giáo đường. Xa xa, ta nom thấy biển trắng ngần, với dăm ba vì sao không đủ sức sáng. Các sân thượng sao mà chóng thay đổi màu trắng!
Và chúng tôi, từ sân thượng trên cao này, chúng tôi buông lời đùa cợt nhau, những lời đùa ý vị ít nhiều. Cả hai nhỏ thó và tối tăm trong cái vắng lặng phần nào của buổi nhật thực.
Muốn nhìn mặt trời, chúng tôi sử dụng mọi thứ: ống dòm sân khấu, kình viễn vọng, cái chai, miếng kính mờ; còn mặt trời kia, chúng tôi quan sát nó từ khắp chỗ; từ vọng lâu, từ cầu thang ở bãi nuôi thú, từ cửa sổ vựa lúa, từ cổng sắt của sân gạch, qua mấy ô cửa kính màu thắm màu xanh….
Mặt trời lẩn khuất, mới trước đây đã biến mỗi món đồ vật thành hai ba lần, trăm lần to lớn hơn, và đẹp hơn dưới ánh sáng ánh vàng thiên biến vạn hóa của nó.
Nay, không phải qua môi giới dài dặc của hoàng hôn, mặt trời làm cho vạn vật đâm ra lẻ bóng và hèn mọn. Tưởng chừng, mặt trời đã đánh đổi từng mẩu vàng, tiếp đó từng mẩu bạc, để lấy đồng thau.
Ngôi làng trông giống như đồng xu nhỏ rỉ sét và mất giá. Buồn bã nhỏ nhoi thay, những con đường, những công trường, ngọn tháp, những lối đi lên đồi….
Đằng kia, trong bãi nuôi, La Rô thoáng thấp, dường như con lừa bớt vẻ sống thật, nó khác ra, như cái bóng làm bằng giấy! Một con lừa nào khác ấy…..
Chương 5
ỚN LẠNH
Con trăng dõi theo chúng tôi, lồ lộ, tròn vành vạnh, sáng vằng vặc. Trong các đống cỏ mỏi mê, ta thấy mông lung những con dê đen giữa đám bụi ngấy có gai….Trên bước chân chúng tôi, một kẻ nào đó đang trốn núp, kín đáo…..
Vượt lên bờ rào, một cây hạnh nhân đồ sộ điểm tuyết hoa và tuyết trăng và đầu ngọn ửng lên một vầng mây trắng, rợp cả con đường lỗ chỗ những ánh sao tháng ba….Mùi cam nồng đượm…..Khí ẩm với tịch liêu……Hẻm núi Phù Thủy…..
La Rô! Hừ hừ……Lạnh ơi!
La Rô sợ chăng? Tôi sợ chăng?
La Rô sánh nước kiệu, bước vào ngọn suối, dẫm lên trăng, làm trăng vỡ vụn thành nghìn mảnh. Tưởng chừng đám hoa hồng trong ánh thủy tinh bén theo vó, để cầm chân nó lại…..
Và La Rô lóc cóc leo trèo, mông thót vào như có ai sắp vớ kịp, nó đã bắt đầu cảm thấy cái hâm hấp dịu dàng tưởng không bao giờ lan tới đây nổi, từ ngôi làng giờ đây đã xáp lại gần……
Chương 7
CHUÔNG CHIỀU
Nhìn xem, La Rô, bao nhiêu hoa hồng lả tả khắp cùng: hồng xanh, hồng trắng, hồng vô sắc…Dễ thường cả bầu trời tan thành hồng hoa.
Hãy nhìn xem hoa phủ trên trán ta, lăn lóc trên vai, trong bàn tay…..Bấy nhiêu hoa, tôi làm gì đây với bấy nhiêu hoa?
E là nhà ngươi mới biết loài thảo hoa êm dịu này xuất xứ từ đâu, ta thì không rõ, loài thảo hoa êm dịu làm động lòng cảnh sắc mỗi ngày, và nhuộm cảnh sắc bằng một màu phơn phớt hồng, trắng hay loáng thoáng xanh – ơi muôn hoa lả tả - như bức tranh của Fra Angelico, người họa sĩ vẽ Trời?
Có thể bảo, từ mái hiên thiên đàng, có ai quẳng hồng xuống trần gian. Hoa hồng như một loại tuyết nhạt màu lấm tấm trên gác chuông, cây cối. Nhìn xem, cảnh vật vốn cứng sựng đâm ra mảnh mai dưới lớp hoa trang điểm.
Ôi! Muôn hoa lả tả……
Này, La Rô, trong khi chuông chiều ngân nga, há con người chẳng nghĩ rằng đời sống nói chung, đời sống của chúng mình, làm mỏi mòn sức lực từng ngày đó sao. Há con người chẳng nghĩ rằng có một sức lực từ bên trong, một sức lực kiêu hùng hơn, miên trường hơn, tinh tấn hơn. Làm dâng dậy, như bao nhiêu ngọn suối trời, bấy nhiêu sự vật lên tận những vì sao, giờ đây đang thắp sáng giữa muôn đoá hoa hồng?…
…..Muôn hồng….Đôi mắt ngươi cũng thế, La Rô ạ, đôi mắt ngươi mà ngươi không nhìn thấy, mà ngươi an nhiên hướng nhìn trời, cũng là hai đóa hoa hồng xinh.
Chương 8
CÁI GAI
Chúng tôi đang bước vào Đồng Ngựa thì La Rô bỗng khập khiễng. Tôi nhảy xuống đất….
- Kìa! Gì thế?….
La Rô khẽ nhắc chân lên, chân không còn mạnh mẽ và không còn trọng lượng, để lộ chiếc vó mang vết thương, chiếc vó chỉ chạm lướt vào cát bỏng trên đường.
Tôi, có lẽ còn ân cần hơn lão Đạt Bông, vị thú y của nó, co chân nó lại, ngắm nghía khe vó bị thương. Một chiếc gai dài của loại cây cam tốt cắm vào đó, như một mũi cong màu ngọc bích.
Đau theo nỗi đau của La Rô, tôi nhổ cây gai; rồi tôi dắt con vật khổ sở tới suối Sen, để cho mạch nước xuôi chảy, lè chiếc lưỡi dài và trong veo liếm vết thương nhỏ.
Rồi chúng tôi lại ra đi về phía đại dương trắng, thầy trước, trò sau, trò hãy còn khập khiễng và làm khổ cho lưng tôi bằng những cái húc đầu âu yếm…..
Chương 9
CHIM ÉN
Này La Rô, nó trước mặt người kìa, đen mượt, liến thoắng trong tổ xám. Giống như tổ chim làm cảnh cho bức họa Thánh mẫu ở Montemayor, luôn được sùng kính.
Nó có vẻ sợ sệt thế, khổ thân! Ta tin chắc rằng bọn én nhỏ nhắn, phen này đã tính sai, hệt như lũ gà - tuần vừa rồi – đã tính sai, khi mặt trời mới hai giờ chiều mà đã lẩn khuất, và chúng nó đã chui vào chuồng. Năm nay, mùa xuân bày vẽ thức giấc sớm hơn, nhưng rồi phải rét run, đem tấm thân trần trụi nõn nường của mình chui lại vào chỗ nằm bằng mây mùa tháng ba. Buồn làm sao khi thấy những đoá trinh bạch của vườn cam héo hon khi hãy còn đương nụ.
Này La Rô, bầy én trở lại kia kìa, thế mà mình gắng lắm mới nghe ra. Mấy năm trước, ngay hôm đầu tiên xuất hiện, chúng nó đã chào hỏi lách chách cái này cái kia, vừa trò chuyện liên hồi, vừa uốn éo đổi giọng!….
Chúng kể lể với khóm hoa những điều mắt thấy ở Phi châu, hai chuyến vượt biển cày xuống nước bằng đôi cánh thay cho buồm, hoặc đậu xuống dây lèo ở tàu thủy. Chúng nói cho hoa nghe về những hoàng hôn khác nữa, những rạng đông, những đêm sao khác nữa…..
Bầy én chẳng biết làm gì. Chúng bay âm thầm, lạc lối như đàn kiến gặp phải đứa bé chà đạp vết đi. Chúng không dại gì bay qua bay lại Đường Mới, mà họp thành đàn đông đảo thẳng tắp, rồi cuối cùng khẽ vẽ vời bay làm thế nào cho đẹp. Chùng không dại gì chui đầu vào tổ trong giếng, hay vắt vẻo trên dây điện, cạnh những hòn cách điện màu trắng, trong khung cảnh cổ điển của bầy chim đưa tin….
Én chết rét mất, La Rô ạ!
Chương 10
CHUỒNG NGỰA
Đúng ngọ. Khi tôi tìm tới La Rô, ánh nắng trong của đỉnh trời chiếu vào nốt ruồi to tướng vàng rực trên tấm lưng bạc mềm. Dưới bụng nó, trên nền đất tối, thấp thoáng sắc lục làm tung toé màu ngọc bích khắp nơi, chiếc mái cổ kính rải rác từng đồng tiền sáng loáng màu lửa.
Con chó Di An đang nằm lọt giữa chân La Rô, lúc thúc đến bên tôi và chổng chân lên ngực tôi, lăm le thè cái lưỡi hồng lên mặt tôi. Đứng vắt vẻo trên máng cỏ, con dê tọc mạch nhìn, ngặc ngoẹo cái đầu xinh xắn một cách đặc biệt đàn bà.
Trong khi ấy, La Rô, trước khi tôi đặt chân vào, đã chào đón tôi bằng một tiếng hí vang lừng. Giờ đây, vừa õng ẹo vừa mừng rỡ, đang tìm cách bứt sợi dây thừng.
Qua ô cửa đang chiếu hắt cả một kho hào quang từ đỉnh trời, trong chốc lát tôi thả hồn rời khỏi con vật, mang theo tia ánh nắng lên tận trời. Kế đó, nhún người lên một tảng đá, tôi ngắm nhìn làng mạc.
Phong cảnh, màu lục thảo bồng bềnh trên một hỏa lò nở hoa ngái ngủ, và giữa ô vuông bầu trời trong sáng hằn lên giữa bức tường nham nhở này - một tiếng chuông ngân nga, lờ lững hiền hoà.
Chương 11
THẰNG BÉ THƠ NGÂY
Cứ mỗi lần chúng tôi trở về qua con đường Thánh Joseph, thằng bé thơ ngây ngồi trước cửa nhà, trên chiếc ghế nhỏ, nhìn người ta qua lại.
Đây là một thằng bé khổ sở, suốt đời không thể nói năng, mà cũng không được trời ban cho một hình hài đẹp đẽ. Một thằng bé vui tính, nhưng buồn bã cho con mắt nào nhìn vào; nó là tất cả đối với mẹ nó nhưng không là gì hết đối với mọi người.
Một hôm – hôm ấy một ngọn gió đen oan nghiệt thổi qua con đường trắng, tôi không còn trông thấy thằng bé trước cửa nữa. Một con chim cất tiếng hót nơi thềm vắng, và tôi nhớ Curros một người cha tốt nhưng là một thi sĩ xoàng, khi mất đứa con, ở Galice, cất lời hỏi bướm:
- Ơi con bướm nhỏ cánh vàng….
Nay xuân trở về, tôi tưởng nhớ thằng bé ngây thơ giã từ đường Thánh Joseph bỏ lên trời. Ngồi ở trời cao, trên chiếc ghế nhỏ, giữa muôn đoá hồng lý tưởng, nó sẽ ngắm nhìn bằng đôi mắt mở to, từng đoàn chư thần vàng ánh….
Chương 12
CẢNH ĐỎ THẮM
Chóp đỉnh. Giờ của phương đoài, một phương đoài thắm đỏ, mang vết thương do chính những mảnh vụn thủy tinh của nó đang phủ màu đỏ máu.
Bên dưới màu sắc vỡ oà ra ấy, sắc lục của rặng thông càng thắm hơn và phơn phớt hồng; trong khi đó, cỏ và hoa nhỏ, rực rỡ trong sáng, ướp vào giây lát thanh quang một hương ròng ẩm nước, thấm đậm, sáng ánh.
Đứng trước hoàng hôn, tôi xuất thần. La Rô, với đôi mắt tẩm màu đỏ ối của vầng dương, đủng đỉnh bước lại gần chiếc ao màu đỏ chót, màu hồng tím; chiếc mõm say sưa vục xuống các mặt gương soi đang tựa hồ tan chảy thành nước khi tiếp chạm; và trong cái họng lớn của La Rô, tựa hồ một dòng thác ăm ắp nước vừa đỏ máu vừa sẩm tối cuốn lọt vào.
Địa điểm này thân thuộc, nhưng cái giờ khắc này đây đã biến đổi địa điểm trở thành lạ hoắc, vỡ lở, đồ sộ.Tưởng chừng ta trông đợi, cứ từng giây phút một, khám phá ra một toà phá lâu nào đó…..
Chiều kéo dài bất tận, và giờ khắc cũng bị ảnh hưởng của bầu khí quyển vĩnh cửu, thành ra cũng dằng dặc, thái hoà, không đáy…..
- Đi, La Rô…..
Chương 13
CON VẸT
Chúng tôi đang đùa giỡn với La Rô và con chim vẹt trong vườn nhà bạn tôi, vị y sĩ người Pháp. Thì một thiếu phụ, hớt hơ hớt hải, tóc rối bời, đi xuống dốc đến gần chúng tôi.
Cách chỉ mấy bước, ngó tôi bằng cặp mắt lo lắng, khẩn khoản:
- Thưa ông, bác sĩ ở đây phải không ạ?
Sau lưng thị, đã ló ra dăm thằng bé bẩn thỉu, hào hển, đang dáo dác nhìn quanh đỉnh dốc; cuối cùng, một nhóm người tiến lại, dìu theo một người đàn ông bạc nhợt mê man.
Đó là một anh thợ săn trộm, đi săn nai trong cấm địa của Công nương. Cây súng của y, một khẩu súng cũ rích buồn cười, cột vào dây súng nhỏ, đã phát nổ, và đạn lọt vào nằm trong cánh tay của người thợ săn.
Bạn tôi, ái ngại tiến tới kẻ bị thương, tháo bỏ mấy lớp vải giẻ đã buộc sẵn, lau vết máu, nắn các đốt xương và bắp thịt. Chốc chốc bạn tôi bảo tôi:
- Không sao…..
Chiều xuống. Từ vùng Huelva, bay tới những mùi ối đọng sình lầy, hắc ín, cá….Phía bên trên phương đoài màu hồng, đám cây cam vươn tròn đám lá rậm màu nhung biếc. Nơi cây tử đinh hương, màu hoa cà chen lục, con vẹt, vừa lục vừa đỏ, bước tới bước lui, đưa cặp mắt tròn nhỏ rình rập chúng tôi.
Nước mắt người thợ săn hoạn nạn đẫm ánh dương, thỉnh thoảng y vụt thét lên một tiếng. Và con vẹt thì:
- Không sao….
Bạn tôi áp bông gòn và băng vải cho kẻ bị thương . Và nạn nhân:
- Aáiiii!
Con vẹt giữa mấy cây tử đinh hương, thì lại:
- Không sao….Không sao….
Chương 14
TRỞ VỀ
Cả hai đứa chúng tôi đi rừng về: La Rô chở đầy cây kinh giới thơm tho, tôi thì ôm đầy hoa lan bạc đẹp đẽ.
Buổi chiều tháng tư ngả bóng, và mọi vật, trước đó vào hoàng hôn, đã nhuốm ánh vàng thủy tinh, bây giờ ngả sang màu thủy tinh bạc, tượng trưng rõ ràng và sáng rạng cho hoa huệ thủy tinh.
Rồi thì trời rộng bao la trông giống như lam ngọc trong vắt chuyển thành bích ngọc. Tôi trở về buốn bã…
Một khi về đến bên dốc, tháp chuông trong làng được viền gạch ô vuông rực rỡ, trong giờ khắc thanh tân vừa chớm nở này, mang một dạng thù đồ sộ. Đứng gần trông giống như tháp Giralda xa xăm nào, và nỗi lòng sầu nhớ những thành phố của tôi, thật nhức nhối trong tiết xuân, được vẩn vơ xoa dịu phần nào ở nơi đây.
Trở về….Nhưng về đâu? Về từ nơi đâu? Tại sao trở về?
Lúc này, hương lan bạc của tôi thêm phần nồng đượm, trong cảnh trong mát ấm dịu của màn đêm xuống dần. Hương thấm đậm hơn mà đồng thời cũng mơ hồ hơn, hương toả lan từ hoa mà ta chẳng trông thấy hoa. Hoa thơm làm ngây ngất thân xác và thần hồn trong bóng quạnh hiu. Tôi thì thào:
- Lòng ta ơi! Hãy đọc cho ra những điều gì trong bóng tối.
Và bỗng dưng tôi nghĩ tới La Rô, mà tôi quên phứt, dù nó bước đi với tôi, như thể nó là thân xác của tôi vậy.
Chương 15
MÙA XUÂN
Ơi bao hào quang rực rỡ với hương thơm!
Ơi ruộng đồng cười tươi!
Ơi những triều khúc ngân vang!
Dân ca.
Trong giấc ngủ chập chờn sớm mai, tiếng tru tréo quỷ khóc thần sầu của bầy trẻ làm tôi ngao ngán. Cuối cùng hết ngủ nổi, tôi nhảy xuống giường, chán ngán. Lúc này, nhìn làng mạc qua cửa sổ mở, tôi nhận ra rằng cái huyên náo kia là do chim chóc mà ra.
Xuống tới vườn, tôi cảm ơn Thượng Đế đã ban cho một ngày xanh. Ôi khúc hợp tấu xinh tươi phóng túng của bao chiếc mỏ chim, khúc hợp tấu miên man bất tuyệt.
Én õng ẹo líu lo dưới giếng; sáo véo von trên quả cam rơi rụng và sơn ca màu lửa trò chuyện từ từng cây sồi xanh. Trên đọt cây dầu gió, chim xi-ni cười khanh khách ngắt quãng; trong cây thông lớn, bầy sẻ thi nhau thảo luận.
Vẻ diễm tuyệt của ban mai! Mặt trời đổ xuống đất niềm hoan lạc kim ngân; đàn bướm muôn màu đùa giỡn tít tận đằng xa, giữa khóm hoa, trong nhà, ngoài nhà, trên suối.
Khắp nơi làng mạc mở lòng trong tiếng vỡ oà, ra rả, trong một cảnh sôi sục sự sống trong lành tinh khôi.
Tưởng như ta đang lọt vào bên trong ổ ánh sáng lớn, giữa một đoá hồng nồng nàn, mênh mông và ấm cúng.
Chương 16
BỂ CHỨA NƯỚC
Nhìn chiếc bể mà xem La Rô: bể đầy nước mưa từ những cơn mưa gần đây hơn cả. Bể không dội tiếng lại và ở phía đáy đằng xa kia – ta không trông thấy, như khi nào bể cạn nước – cái vọng lâu tắm ánh mặt trời như món nữ trang đặc sắc, hiện sau lớp kính vàng, xanh ở cửa sổ.
Ngươi chưa xuống dưới đó đâu: La Rô ạ. Ta thì rồi: ta có xuống dưới đó khi người ta tháo nước ra, đã lâu lắm. Nhìn xem; bể có đường hầm dài va rút lại bằng một cái eo. Lúc ta chui vào, cây nén cầm nơi tay tắt ngấm và một con tắc kè rơi nhầm tay ta. Hai luồng ớn lạnh giao nhau trong lồng ngực như hai mũi kiếm hay như hai đốt xương đan chéo dưới chiếc đầu lâu…
Cả ngôi làng đều đào bể chứa nước với đường hầm, La Rô à. Bể lớn hơn hết là bể ở sân Hào, công trường Cổ Thành. Bể đẹp nhất là bể của ta, như ngươi thấy đó, với bờ thành được chạm trổ từ đầu đến cuối bằng một loại cẩm thạch trắng ngần.
Đường hầm Nhà Thờ chạy tới tận vườn nho Thạch Trụ, và tại đây, xuyên vào làng, gần tới sông. Còn con đường hầm xuất phát từ bệnh viện, thì không có ai dại dột lần theo nó cho tới cùng, vì nó bất tận.
Ta nhớ lại, nhiều đêm mưa dằng dặc thuở nhỏ, tiếng âm trầm nức nở của nước lăn từ sân thượng xuống bể nước không cho mình chợp mắt. Sáng lại, cả bọn chạy như điên đi coi nước tới đâu. Khi nào nước lên tới miệng bờ, như hôm nay, thôi thì kinh ngạc, la hét trầm trồ!
…Đi, La Rô. Bây giờ ta sẽ tặng cho ngươi một thùng nước trong mát này nhé. Cùng chiếc thùng mà ngày nào Villegas, tội cho hắn, đã uống ừng ực một hơn, toàn thân xác thì đã cháy theo Cognac và rượu trắng
Chương 17
CON CHÓ GHẺ
Thỉnh thoảng, hắn lần mò tới tận cái chòi ở trong vườn, hình hài trơ xương, hơi thở hổn hển. Con vật khốn nạn cứ chạy trốn hoài, quen bị xuỵt và đuổi đá. Ngay bọn chó kia cũng nhe nanh với hắn. Cứ thế, trong nắng ngọ, hắn rầu rầu chầm chạp xuống đồi trở lại.
Chiều hôm đó, hắn chạy theo con chó Di An. Khi tôi bước ra, tên gác, trong cơn ác ý, xuống súng nhắm vào hắn. Tôi không kịp can ngăn thảm kịch. Con vật khốn nạn, bị thương ở bụng, lộn mèo một lát, quay quắt, kêu lên một tiếng gọn sắc, trước khi gục đầu vào gốc cây keo.
La Rô, đầu thẳng đơ, nhìn con chó chằm chặp. Con Di An, hết hồn đến thu mình bên con này, rồi bên con kia. Tên gác, dễ thường ăn năn, dài dòng phân bua không hiểu với ai, rồi gượng làm ra vẻ bất bình để dỗ ngủ ăn năn.
Mặt trời như kéo màu tang; tấm màn rộng lớn cũng giống như lớp màn mỏng đang phủ âm u lên con mắt lành của con chó bị thảm sát.
No gió biển, rặng bạc hà dồn thêm nước mắt dưới con dông đang đe dọa, trong cảnh vắng lặng trầm sâu nặng nề, mà giờ ngủ trưa đang giăng trải ra trên làng mạc vàng ửng một màu, cạnh bên con chó không hồn.
Chương 18
NƯỚC TÙ
Chờ ta với, La Rô….Hay là ngươi nán lại một lát gặp đám cỏ non này, có thích thế không. Dù sao, ngươi cũng hãy để ta nhìn vũng nước tù đẹp đẽ này, lâu lắm ta không thấy lại…
Ngươi nhìn xem, nắng xuyên qua nước dày, soi rõ nét đẹp thâm trầm màu thúy sâm với kim hoàng như thế nào; từ trên bờ, đám lan bạc, tươi như vòm trời, say sưa ngắm nước….
Đây là những bậc cấp nhung đi xuống mãi thành vô số mê lộ; những động phù thủy, với đủ nét đủ vẻ lý tưởng, mà một chuyện thần thoại cầu được ước thấy có thể cung ứng cho trí tưởng tượng dạt dào của một họa sĩ nội tâm; những khu vườn hoan lạc như thể được tạo dựng do nỗi niềm bâng khuâng muôn kiếp của một hoàng hậu có đôi mắt xanh to; nhưng dinh điện hoang tàn, giống như dinh điện mà tôi bắt gặp một chiều nào trên đại dương, giữa lúc mặt trời chiều, nghiêng ánh nắng làm đau triều nước xuống….
Và nghìn thứ khác nữa; tất cả những gì mà cơn mơ khó tính nhất có thể dành giật, từ một khung cảnh được dựng lại của một giờ khắc vật vã của mùa xuân, trong một khu vườn lãng quên mộng mị nào đó, trong khi cố níu giữ vẻ đẹp phù du bằng chéo áo mênh mông của nó…..
Bấy nhiêu thứ đều là nhỏ tí, tuy nhiên lại lớn rộng vô chừng vì ảo giác do khoảng cách; chìa khoá mở vào cảm xúc vạn hộc, kho tàng của vị đạo sĩ ban sơ nhất về thuật khát sống…
Vũng nước tù này, La Rô ơi, chính là trái tim ta ngày xưa đó. Ta đã cảm thấy như thế, cảm thấy trái tim mình bị ướp độc mê tơi trong cô đơn, bởi bao thứ kỳ diệu mà vô tri. Nhưng khi nào tình người gây thương tổn cho tim, cuốn phăng con đập của tim, thì máu bầm phun ra, và máu vẫn thanh tân, vẫn trong, vẫn trôi chảy như ngọn suối. Bình nguyên, vào giờ khắc tháng tư này đây là giờ khắc trong sáng hơn, óng ả hơn và ấm áp hơn mọi giờ khắc khác.
Tuy nhiên, có một bàn tay nhợt nhạt đưa tim trở về vũng nước tù dĩ vãng, trở về ngấn nước thúy sâm, và để tim mặc tình ở lại tại đó, cho tim hân hoan, mê sảng, đáp lại những lời kêu gọi trong sáng, nhằm lôi kéo tim ra khỏi muộn phiền, như thể những lời của Hylas gọi kêu Alcide trong khúc tình si của Chénier, mà ta cố đọc cho ngươi bằng giọng không nghe ra được và uổng công.
Chương 19
TÌNH THÁNG TƯ
Đám trẻ đi theo La Rô đến suối Dương, và bây giờ chúng đưa La Rô đi nước kiệu, lưng chất đầy hoa vàng, giữa những trò tiêu khiển không có ý nghĩa gì và giữa những tràng cười thác loạn.
Đền nơi kia, trận mưa rào chụp lên đầu cả bọn – cái áng mây phù du kia vốn phủ lên đồng xanh bằng những sợi vàng sợi bạc, mà chiếc móng trời làm cho run rẩy như chiếc đàn thất huyền đang rỏ lệ - và trên lớp lông sũng nước của thân lừa nhỏ, nước từ mấy chiếc hoa nhỏ đang rỉ xuống, từng giọt một.
Tình tươi mươi, vui thú, đa cảm! Dưới mớ hành trang mượt mà đẫm nước, tiếng hí của La Rô cũng chỉ là tình tứ! Chốc chốc, nó ngoái đầu bứt mấy cánh hoa vừa tầm miệng khổng lồ của nó.
Trong phút giây, đám hoa nhỏ, vàng và trắng tuyết, lủng lẳng giữa bọt nước trắng pha màu lục nhạt, trước khi chui xuống chiếc bụng căng phồng to tướng. La Rô ơi, có ai ăn được hoa như ngươi….mà khỏi ốm đau!
Chiều tháng tư trêu ngươi…! Đôi mắt sáng và sắc của La Rô, in trọn cái giờ khắc nửa nắng nửa mưa này. Ta thấy rơi rụng, từng mảng một, vào hoàng hôn, xuống làng San Juan, một đám mây hồng khác.
Chương 20
CHIM THÚY YẾN BAY
Một hôm, con yến lục, tôi không hiểu vì sao và bằng cách nào, bay ra khỏi lồng. Con yến già năm, là tài sản eo xèo của một người đàn bà quá cố. Tôi đã không phóng thích nó, vì sợ nó chết đói hay chết lạnh, hoặc mèo vồ nó mất.
Suốt sáng, nó bay chuyền cành giữa đám lựu trong vườn, cạnh cây thông ở cổng, xuyên qua rặng tử đinh hương. Và cũng suốt sáng, bầy trẻ vẫn ngồi trong vườn, mê man theo cánh bay chờn vờn của con chim nhỏ màu vàng nhạt. La Rô nhàn nhã, thẩn thơ gần đám hồng, ghẹo bướm.
Chiều lại, yến sà xuống mái nhà, đậu một lúc lâu, lẩy bẩy trong không khí hâm hẩm của mặt trời sắp lặn. Thình lình, không hiểu vì sao và bằng cách nào, nó xuất hiện trở lại, vô cùng nhí nhảnh, trong lồng chim.
Quang cảnh náo loạn trong vườn! Trẻ con mừng rú, vỗ tay, đứa nào đứa nấy phừng phừng rạng rỡ như rạng đông. Con chó Di An, mừng quýnh, đi theo bọc hậu đám trẻ, sủa theo tiếng lạc reo của nó.
Và La Rô, bị ảnh hưởng lây, bắp thịt loáng bạc cuồn cuộn, gục gặc đầu cổ liên hồi như chú dê non, rồi xoay mình, trong một vũ điệu nhịp ba nặng nề, đoạn trụ trên hai vó trước,nó cất vó đá sau, trong gió hiền hoà…