Thứ sáu ngày 7 tháng 11, Concarneau vắng lặng. Chiếc đồng hồ dạ quang của thành phố phía trên bờ thành chỉ mười một giờ kém năm.
Đấy là lúc thủy triều lên cao và cơn bão từ tây - nam đến làm cho những con thuyền trên cảng chao đảo, va vào nhau. Gió ùa vào đường phố, đôi khi người ta thấy những mẩu giấy vụn xua đuổi nhau chạy trên mặt đường với tốc độ rất nhanh.
Bến cảng Aiguillon không có một mảng ánh sáng nào. Mọi nhà đều đóng cửa, dân chúng ngủ yên, chỉ còn ba cửa sổ của khách sạn Amiral ở góc kẹp giữa bãi chợ và bến cảng là còn sáng đèn. Cửa không có cánh, nhưng qua những tấm kính màu lục nhạt, người ta khó mà thấy được bên trong. Lúc ấy, những con người kia còn chậm lại ở quầy ca phê làm cho người nhân viên hải quan đang thu mình canh gác trong chòi canh cách đấy cũng phải phát ghen với họ.
Trước mặt ông, một con tàu buôn đến ẩn náu trong vũng lúc ban chiều còn bập bềnh trên nước. Không còn một ai trên boong. Những chiếc ròng rọc rít lên ken két và một lá buồm cuộn lai không kỹ còn phần phật trước gió. Tiếng vỗ oàm oạp liên tiếp của sóng dồi và tiếng chuông thánh thót của chiếc đồng hồ quả lắc điềm mười một giờ.
Cửa ra vào của khách sạn Amiral xịch mở. Một người đàn ông xuất hiện, tiếp tục nói gì đấy một thôi nữa qua cánh cửa hé mở với những người bên trong.Bão vồ lấy ông, thổi tung các vạt áo của chiếc măng tô và nhấc chiếc mũ quả dưa của ông lên, nhưng ông đã kịp thời giơ tay chụp lấy, vừa đi vừa giữ nó trên đầu.
Dù ở xa, người ta cũng trông thấy ông đang vui nhộn, chân nam đá chân chiêu, đi không vững mà miệng thì vẫn lâm râm ca hát. Người nhân viên hải quan đưa mắt dõi theo, mỉm cười, trong khi ấy người đàn ông vẫn cố tình châm cho được điếu xì gà đang hút dở. Đúng là một cuộc vận lộn bắt đầu đến buồn cười giữa người say rượu và chiếc áo măng tô ngoan cố mà trận gió muốn giật nó khỏi người ông, cùng với cái mũ đang lăn lóc trốn chạy dọc theo hè phố. Mười que diêm quẹt lên đều tắt ngấm.
Lúc này, người đàn ông có chiếc mũ quả dưa trông thấy một thềm cửa có hai bậc lên xuống bèn khom người nấp vào đấy. Một tia sáng lóe lên chỉ trong nháy mắt làm ông ta chệnh choạng bíu lấy núm cửa.
Người nhân viên hải quan có nhận thấy một tiếng vang rất lạ trong giông bão không? Ông không rõ lắm. Thoạt đầu ông cười khi nhìn thấy người đi chơi đêm mất thăng bằng, thụt lùi mấy bước nghiêng ngả trong tư thế hết sức lạ thường.
Người đàn ông nằm xoài ra đất sát mép vỉa hè, đầu chúi xuống bùn đất của rãnh thoát nước lề đường. Người nhân viên hải quan vỗ vỗ hai bàn tay vào cạnh sườn cho ấm, quan sát cánh buồm với tâm trạng bứt rứt khi tiếng lật phật của nó chọc tức ông.
Một phút, rồi hai phút trôi qua. Ông lại liếc mắt về phía người say rượu, không thấy người ấy động đậy. Mặt khác ông thấy một con chó không rõ từ đâu đến, hít hít người nằm trên đất. Trong quá trình điều tra, người nhân viên hải quan nói:
- Chỉ đến khi ấy, tôi mới có linh cảm là chuyện gì đã xảy ra?
------
Sự đi đi lại lai tiếp diễn sau sự việc xảy ra rất khó để xác định chính xác bối cảnh và nguyên nhân của sự việc. Người nhân viên hải quan bước đến tận nơi và ông hơi yên tâm khi thấy có con chó ở đấy, một con chó vàng, to béo và dễ gây gổ.
Có một chiếc đèn đường cháy bằng khí đốt cách đấy tám mét. Thoạt đầu, người nhân viên không thấy có gì là bất thường. Rồi ông để ý có một lỗ thủng trên chiếc áo khoác của người say rượu, và từ cái lỗ thủng ấy chảy ra một chất lỏng và quánh.
Thế là ông chạy đến khách sạn Amiral. Phòng uống cà phê hầu như vắng vẻ.
Một cô hầu phòng tì khuỷu tay lên chiếc két. Cạnh chiếc bàn bằng đá cẩm thạch, hai người đàn ông hút xong xì gà ngã người ra phía sau, hai chân duỗi thẳng. Ông luýnh quýnh báo tin:
- Nhanh lên… … Một vụ ám sát… Tôi không biết.
Người nhân viên hải quan quay lại. Con chó vàng theo gót ông vào phòng và nằm dưới chân cô gái hầu phòng.
Có sự do dự. Một sự hãi hùng lờ mờ phảng phất trong không trung.
Ông bạn của cô vừa đi ra…
Một lát sau, cả ba người ấy cúi xuống thân thể của người ngã xuống vẫn trong tình trạng cũ. Toà thị chính, nơi có đồn cảnh sát cách đấy hai bước chân.
Người nhân viên hải quan xăng xái nhào đến, hổn hển và bấm lấy núm chuông cửa của một thầy thuốc.
Rồi ông nhắc lại, không bỏ sót một chi tiết nào ông đã được chứng kiến:
- Ông ấy chệnh choạng, thụt lùi như một người say rượu và đã bước ít ra là ba bước theo cách ấy…
Năm người đàn ông … sáu … bảy … Rồi các cửa sổ mở ra, hầu như khắp nơi những tiếng thì thầm to nhỏ .
Người thầy thuốc quỳ trong bùn, tuyên bố:
- Một viên đạn sát gần giữa bụng, cần phải mổ khẩn cấp, yêu cầu gọi điện cho bệnh viện.
Mọi người đã nhận ra người bị thương là ông Mostaguen, nhà kinh doanh rượu vang của Concarneau, một con người to lớn, tốt bụng, có nhiều bạn bè. .
Hai lính cảnh sát mặc đồng phục, trong đó một người không tìm được chiếc mũ lưỡi trai của mình, không biết nên bắt đầu cuộc điều tra từ đâu.
Có người nào đấy lên tiếng. Đấy là ông Le Pommeret mà dáng vẻ và giọng nói rất dễ nhận ra ngay là một con người có danh vọng:
- Chúng tôi đã chơi với nhau một ván bài ở quầy cà phê Amiral với Servrlères và bác sĩ Michoux. Bác sĩ là người ra về trước tiên, rồi nửa giờ sau, Mostaguen - ông ấy sợ vợ - đã rời chúng tôi đúng lúc đồng hồ điểm mười một giờ.
Việc xảy ra vừa bi lại vừa hài. Tất cả nghe ông Le Pommeret nói. Người ta quên chú ý đến người bị thương. Và kìa, ông ấy đang mở mắt, đang gắng nhổm người dậy, nói thầm thì bằng một giọng lạ lùng, rất dịu dàng và rất yếu ớt đến nỗi cô hầu phòng phải thốt lên một tiếng cười lạ lẫm.
- Chuyện gì thế?
Nhưng một cơn co thắt làm cho cả người Mostaguen rung chuyển. Đôi môi của ông mấp máy; các cơ mặt co lại, trong khi ấy người thầy thuốc vội chuẩn bị ống tiêm để chích thuốc.
Con chó vàng đi lại giữa những đôi chân. Có người nào đấy ngạc nhiên hỏi:
- Ông biết con vật này à?
- Tôi chưa bao giờ trông thấy nó cả.
- Chắc là một con chó trên tàu.
Trong không khí của thảm kịch, con chó ấy có cái gì đấy đáng lo ngại. Có lẽ do màu sắc của nó, một màu vàng bẩn thỉu chăng? Nó đứng lêu nghêu trên bốn chân dài ngoằng, rất gầy và cái đầu to tướng của nó gợi lên cho thấy nó giống như một con chó ngao, lại có vẻ như con chó Đô mõm bẹt vùng Ulm.
Cách nhóm người năm mét, những người cảnh sát hỏi người nhân viên hải quan, người làm chứng duy nhất của sự kiện vừa rồi.
Người ta ngắm nhìn thềm nhà có hai bậc lên xuống. Đấy là thềm của một ngôi nhà lớn, bình dị, các cánh cửa đều đóng kín. Bên phải cửa ra vào, một tờ quảng cáo của công chứng thông báo bán đấu giá bất động sản vào ngày l8 tháng 11.
- Đặt giá: 80.000 phơrăng.
Một viên cảnh sát loay hoay mãi mà không bẻ được khoá, nhưng chính người chủ của nhà xe bên cạnh đã làm bật ra được bằng một chiếc tuốcnơvít.
Chiếc xe cứu thương đến, người ta nâng ông Mostaguen lên một chiếc cáng.
Những người thóc mách không còn cách nào khác là đứng nhìn ngôi nhà trống không.
Ngôi nhà không có người ở đã một năm nay. Trong hành lang, toát lên một mùi nồng nặc của bụi bặm và thuốc lá, một chiếc đèn bỏ túi bật sáng, trên nền lát đầy tàn thuốc lá và những vệt bùn, chứng tỏ đã có một người nào đứng rình khá lâu sau cửa.
Một người đàn ông khoác áo pácđờxuy ngoài bộ py-gia-ma, nói với vợ:
- Thôi chẳng còn gì nữa mà xem, chúng ta sẽ biết thêm vào ngày mai trên báo chí. Ông Servières ở kia…
Servières là một nhân vật thấp và béo tròn, khoác chiếc áo vải nhựa cùng có mặt với ông Le Pommeret ở khách sạn Amiral. Ông là biên tập viên ở toà báo Hải đăng Brest, nơi ông cùng với những người khác đăng mỗi chủ nhật một mục thời luận hài hước.
Ông ghi chép, đưa ra những chỉ dẫn, nếu không phải là những mệnh lệnh cho hai người cảnh sát.
Các cửa ra vào mở ra hành lang đều khoá bằng chìa khoá. Cửa ở tận cùng thông ra vườn thì mở toang. Căn vườn được vây quanh bằng một bức tường cao không quá một mét năm mươi. Từ phía kia của bức tường là đường hẻm đổ ra bến cảng Aiguil1on.
- Tên giết người đã đi qua chỗ ấy - Jean Servières nói.
------
Chính ngày hôm sau, Maigret mới tạm lập được bản tóm tắt về những sự biến. Từ một tháng nay ông được biệt phái đến Đội Cơ động của Rennes mà một số ban, phòng đã được tổ chức lại. Ông vừa nhận được một cú điện thoại khẩn cấp của thị trưởng Concarneau.
Thế là ông đến thành phố này cùng với Leroy, một viên thanh tra mà ông chưa cùng làm việc bao giờ.
Trận bão vẫn chưa dừng. Cơn lốc quay cuồng trên thành phố làm tan những đụn mây lớn, rơi xuống thành mưa lạnh buốt. Không một con tàu nào ra khỏi cảng, và người ta nói đến một tàu thuỷ chạy bằng hơi nước mắc cạn ngoài khơi của quần đảo Glénan.
Dĩ nhiên Maigret đến khách sạn Amiral là khách sạn tốt nhất của thành phố.
Đã năm giờ chiều, và đêm vừa đổ xuống khi ông vào quầy cà phê. Đấy là một gian phòng dài, khá buồn tẻ, sàn xám xịt đầy mạt cưa, có kê những chiếc bàn bằng đá cẩm thạch. Gian phòng còn tăng thêm vẻ não nùng bởi những tấm kính màu lục nhạt của cửa sổ. Nhiều chiếc bàn đã đầy người, nhưng mới liếc qua, người ta đã có thể nhận thấy chiếc bàn của khách quen, những vị khách nghiêm nghị mà người khác phải chú ý lắm mới nghe được cuộc chuyện trò của họ.
Có người nào đó đứng dậy, vả chăng, ở chiếc bàn này, một người đàn ông với khuôn mặt giống búp bê, mắt tròn, cặp môi tươi, mỉm cười:
- Cảnh sát trưởng Maigret phải không? Ông bạn quí của tôi, ngài thị trưởng đã báo cho tôi là ông đến. Tôi thường nghe nói đến ông. Cho phép tôi tự giới thiệu, Jean Servières. Chà, ông ở Paris, phải không? Tôi cũng vậy! Tôi là giám đốc lâu năm của Vache - Rousse ở Montmartre… Tôi có cộng tác với tờ Petit Parisien, với Excelsior, với La Dépêche. Tôi rất quen một sếp của ông, ông Bertrand phúc hậu, đã nghỉ hưu năm vừa rồi để đi trồng cải bắp ở Nièvre. Tôi cũng đã làm như ông ấy? Như vậy, có thể nói rằng tôi đã trở về với đời thường. Để cho vui, tôi đang cộng tác với tờ Hải đăng Brest.
Ông ta nhảy nhót, khoa tay múa chân:
- Ông lại đây nào, để tôi giới thiệu với ông cả bàn của chúng tôi, bộ tứ tột bậc, những chàng trai vui vầy của Concarneau. Đây là Le Pommeret tay lăng nhăng chim chuột chai sạn, kẻ thực lợi của đẳng cấp anh ta và là phó lãnh sự của Đan Mạch…
Người đàn ông đứng dậy và chìa bàn tay ra, cách ăn mặc chỉnh tề theo kiểu quí tộc nông thôn: quần cụt cưỡi ngựa kẻ ô vuông, ghệt bó sát, không có một hạt bùn, cà vạt rộng bản bằng vải pickê trắng. Ông có bộ râu mép đẹp màu ánh bạc, mái tóc láng bóng, một nước da sáng sủa và đôi má sần da cam.
- Rất hân hạnh, ông cảnh sát trưởng.
Rồi Jean Servières giới thiệu tiếp :
- Bác sĩ Michoux, con trai của cựu nghị sĩ. Kể ra ông đây chỉ là thầy thuốc trên giấy tờ, vì ông chẳng bao giờ hành nghề. Ông sẽ thấy rằng cuối cùng ông đây rồi phải bán đất cho ông. Ông đây là chủ sở hữu của lô đất đẹp nhất của Concarneau và có thể của cả Brefagne.
Một bàn tay lạnh. Một khuôn mặt lưỡn cày với cái mũi lệch. Tóc màu hung đã thưa dần mặc dù người bác sĩ chưa quá tuổi ba lăm.
- Ông uống gì nào?
Trong thời gian này, viên thanh tra Leroy đã đến trình diện ở toà thị chính và Sở mật thám.
Một bầu không khí xám xịt, tẻ nhạt trong quầy cà phê mà người ta không biết xác định ra sao. Qua cửa ra vào mở toang có thể thấy được ở phòng ăn, các cô hầu bàn mặc kiểu quần áo Brơfagne đang bày bàn ăn tới.
Mắt của Maigret nhìn xuống một con chó vàng nằm dưới chân két. Ông giương mắt thấy một chiếc váy liền áo màu đen, một tạp - dề trắng, một khuôn mặt không thiện cảm nhưng lại khá hấp dẫn, đến nỗi trong khi theo dõi câu chuyện, ông không ngừng quan sát cô.
Mỗi lẩn ông quay đầu về phía khác thì ánh mắt bồn chồn lo lắng của cô gái hầu phòng dán chặt vào ông
------
- Nếu Mostaguen đáng thương này là anh chàng tốt nhất trần đời, hay gần như thế mà lại sợ vợ xanh mắt suýt bỏ mạng thì tôi cho đấy là một trò khôi hài hết sức lố bịch.
Đấy là câu nói của Jean Servières. Le Pommeret thân mật gọi:
- Emma!
Thế là cô hầu phòng bước đến:
- Thế nào?… Ông dùng gì ạ?
Trên bàn, những chiếc cốc nửa lít đã cạn.
- Đến giờ khai vị! - Ông nhà báo lưu ý - Nói khác đi là giờ uống rượu Pernod… Emma, cho mấy ly Pernod, có phải không, ông cảnh sát trưởng?
Bác sĩ Michơux đang mải mê nhìn chiếc khuy ở cổ tay áo của mình. Servières nói tiếp bằng giọng sang sảng:
- Ai có thể dự kiến trước được là Mostaguen sẽ dừng lại trên thềm để châm điếu xì gà? Không ai cả, có phải không? Nhưng Le Pommeret và tôi đang ở phía kia của thành phố! Chúng tôi không đi qua trước ngôi nhà bỏ trống! Ở giờ đấy chỉ còn có ba chúng tôi là đi trên đường phố. Mostaguen không phải là loại người có kẻ thù, chính vì vậy mà được gọi là con người dễ tính, một anh chàng mà tất cả tham vọng là một ngày nào đấy được thưởng Bắc đẩu bội tinh…
- Phẫu thuật thành công chứ?
- Ông ấy sẽ qua khỏi thôi. Điều buồn cười nhất là bà vợ của ông ta đã diễn kịch ở bệnh viện vì bà ấy nghĩ rằng ông ta có dan díu đến chuyện trai gái! Ông có thấy điều ấy không? Ông già đáng thương ấy cũng chẳng dám vuốt ve cô thư ký đánh máy của mình nữa là, vì lại sợ rắc rối.
- Ly đúp nhé! - Le Pommeret nói với cô phục vụ đang rót rượu áp-xanh -
Mang nước đá lai đây, Emma.
Khách uống bước ra vì đã đến giờ ăn tối. Một cơn lốc ùa vào, cửa mở toang làm cho những chiếc khăn trải bàn của phòng ăn run rẩy.
- Ông sẽ đọc được bài báo mà tôi đã viết về việc ấy, trong đấy tôi nghĩ là tôi đã nghiên cứu tất cả những giả thiết. Chỉ có một giả thiết có thể chấp nhận được: đấy là người ta đang giáp mặt với một thằng điên. Ví như chúng tôi quen biết tất cả thành phố, chúng tôi hoàn toàn không thấy ai có thể gọi là mất trí cả… Mỗi buổi tối chúng tôi đều ở đây, đôi khi ông thị trưởng đến chơi bài với chúng tôi. Hay là Mostaguen… Chúng tôi còn đi tìm người thợ đồng hồ cách xa đây vài ba nhà để chơi bài Brit .
- Còn con chó?
Ông nhà báo phác một cử chỉ không biết.
- Không ai biết nó từ đâu ra. Đã có lúc người ta nghĩ nó là của con tàu buôn vừa đến hôm qua, tàu Saint - Merie, có vẻ như không phải. Đúng là một con chó trên tàu, nhưng đấy là loại chó tenơvơ, còn như có ai nói con vật xấu xí ấy là thuộc loại chó khác thì tôi đánh cuộc đấy.
Ông ta vừa nói vừa cầm cái bình nước lọc rót vào cốc của Maigret.
- Cô hầu phòng ở đây đã lâu chưa? - Viên cảnh sát trưởng hỏi nhỏ.
- Vài năm…
- Tối hôm qua, cô ấy không ra ngoài chứ?
- Cô ấy không rời khỏi đây, cô chờ tới khi chúng tôi về, để đi ngủ… Le Pommeret và tôi, chúng tôi gợi lại những kỷ niệm cũ của thời kỳ bay nhảy khi chúng tôi còn khá bảnh để được cung phụng những người đàn bà không có tiền.
Không đúng ư, Le Pommeret? Anh ta chăng nói gì cả. Khi đã biết rõ anh ta kỹ hơn ông sẽ hiểu rằng một khi đã có vấn đề với đàn bà thì anh ta có đủ khả năng để ngủ lại qua đêm. Ông có hiểu chúng tôi gọi ngôi nhà anh ấy ở đối diện với ngôi nhà bán cá là thế nào không? Là ngôi nhà ô trọc… Chà!…
- Chúc sức khỏe ông, ông cảnh sát trưởng.
Người mà chúng ta đang nói đến thốt lên những lời ấy mà chẳng có một chút ngượng ngùng nào.
Ngay lúc ấy Maigret nhận thấy bác sĩ Michoux vừa mới hé răng đã cúi xuống để nhìn cái ly trong suốt của mình. Trán anh nhăn lại. Mặt anh tự nhiên biến sắc, vẻ như đang có gì lo lắng. Bỗng nhiên anh thốt lên sau khi do dự một lát.
- Chờ một tí!
Anh đưa chiếc cốc lên sát mũi, nhúng một ngón tay vào trong rồi quệt vào đầu lưỡi. Servières bật lên một tràng cười lớn.
- Được! Thế là người ta đã làm cho khiếp sợ bởi câu chuyện Mostaguen…
- Sao thế? - Maigret hỏi.
- Tôi nghĩ tốt nhất là đừng uống. Emma, cô sang nói với ông dược sĩ nhà bên chạy mau đến đây… dù ông ấy đang ngồi vào bàn ăn cũng bỏ đấy cái đã.
Đột nhiên, mọi người cảm thấy ớn lạnh. Gian phòng có vẻ như trống rỗng hơn, ủ ê hơn. Le Pommeret bồn chồn vê chòm râu mép. Ngay nhà báo cũng cựa quậy trên chiếc ghế của mình.
- Ông nghĩ về cái gì thế?
Người bác sĩ rầu rĩ. Anh ta vẫn nhìn xoáy vào chiếc cốc, rồi anh đứng dậy nắm lấy chai rượu Pernod trong tủ tường ra soi trước ánh sáng, lắc qua lắc lại, còn Maigret thì phân biệt có hai, ba hạt nhỏ nổi trong chất lỏng.
Cô hầu phòng trở về cùng với ông dược sĩ.
- Này, Kervidon, cần phải phân tích nhanh giúp chúng tôi chất gì trong chai và cả những chiếc cốc này nữa.
- Hôm nay à?
- Ngay bây giờ!
- Tôi phải thử phản ứng gì? Ông nghĩ như thế nào?
Chưa bao giờ Maigret lại thấy ló ra bóng dáng sợ hãi và nét mặt xanh xao đến thế của Le Pommeret, chỉ trong chốc lát đã biến đổi hẳn. Toàn bộ sự nồng nhiệt đã biến mất khỏi ánh mắt của anh, và những vết sần da cam trên đôi má của anh dường như là giả tạo.
Cô gái hầu phòng tì khuỷu tay lên két và thấm ướt đầu bút chì giữa cặp môi để ghi những con số nối tiếp nhau trong cuốn sổ tay bọc vải sơn đen.
- Anh là thằng điên - Servières thốt lên. Điều ấy có vẻ như giả tạo. Người dược sĩ đã cầm cái chai trong một tay và tay kia cầm chiếc cốc.
- Strychnine - người bác sĩ thốt lên.
Rồi anh đẩy người kia ra ngoài, quay lại, đầu cúi thấp, nét mặt vàng võ.
Maigret bắt đầu hỏi:
- Điều gì làm cho anh phải suy nghĩ?
- Tôi không biết. Một sự tình cờ, tôi nhìn thấy một hạt bột trắng trong cốc của tôi, mùi của nó rất …
- Tự kỷ ám thị tập thể! - Ông nhà báo khẳng định - Để tôi kể điều ấy vào ngày mai trong bài báo của tôi và đấy là sự sa sút của tất cả các quán rượu ở
Finistère…
- Ông vẫn uống Pernod đấy chứ?
- Tất cả mọi buổi tối trước bữa ăn. Emma thường đem đến như thế khi cô nhận thấy chiếc cốc nửa lít của chúng tôi đã cạn. Chúng tôi có những thói quen nhỏ, buổi tối, đấy là rượu táo.
Maigret đến đứng trước tủ rượu mùi, ông nhìn thấy một chai rượu táo.
- Không phải chai ấy, cái lọ phình cơ.
Ông nhấc chiếc lọ đem ra trước ánh sáng, nhìn thấy mấy hạt bột trắng, nhưng ông không nói gì cả. Điều ấy không cần thiết. Những người khác đã hiểu.
Viên thanh tra Leroy bước vào nói bằng một giọng dửng dưng:
- Sở mật thám chẳng chú ý gì đến điều khả nghi. Không có những kẻ lảng vảng trong vùng. Người ta chẳng hiểu gì cả.
Anh ngạc nhiên về sự im lắng bao trùm, về mối lo sợ chẹn ngang cuống họng. Khói thuốc vươn ra quanh những bóng đèn điện. Chiếc bàn bia phô ra tấm dạ màu lục như một thảm cỏ trụi lá. Có những mẩu thuốc lá trên đất cũng như vài ba bãi đờm lẩn trên mạt cưa.
Emma thấm ướt đầu bút chì và nhẩm:
- Tôi viết bảy, nhớ một.
Rồi, ngước đầu lên, cô nói vọng:
- Tôi đến đây thưa bà!
Maigret nhồi tẩu thuốc. Bác sĩ Michoux chăm chăm nhìn xuống nền đất và mũi của anh lại lệch thêm hơn trước. Đôi giầy của Le Pommeret bóng láng như chưa bao giờ dùng. Thỉnh thoảng Le Pommeret vừa nhún vai vừa tự tranh luận với chính mình.
Tất cả mọi ánh mắt đều quay về phía người dược sĩ khi ông này trở lại với cái chai và chiếc cốc không.
Ông đã chạy. Ông thở hồng hộc. Đến cửa, ông giơ chân đá vào khoảng không để đuổi một vật gì đấy và lẩm bẩm:
- Con chó bẩn thỉu!
Rồi vừa vào đến quầy cà phê, ông nói:
- Đúng là một trò đùa phải không. Không ai uống đấy chứ.
- Thế nào?
- Thuốc Strychnine. Phải, có lẽ người ta đã bỏ vào chai cách đây độ nửa giờ.
Ông kinh hãi nhìn thẳng chiếc cốc còn đầy, năm người đàn ông ngồi im lặng.
- Thế là thế nào. Thật lạ lùng. Tôi rất có quyền phải biết. Đêm hôm qua, một người đàn ông bị giết cạnh nhà tôi, và hôm nay.
Maigret đỡ lấy cái chai trong tay ông. Emma trở lại phô ra phía trên cái két khuôn mặt dài với đôi mắt có quầng, cặp môi mỏng, làn tóc chải sơ sài, trên đấy một chiếc mũ không vành kiểu Bacfagne lúc nào cũng lệch về bên trái, mặc dù thỉnh thoảng cô lại sửa lại.
Le Pommeret vừa đi đi lại lại bằng những bước chân dài vừa ngắm nhìn hình phản chiếu của Jean Servières trên đôi giày của mình đang ngồi im, nhìn xoáy vào những chiếc cốc rồi đột nhiên oà lên một tiếng hãi hùng đến đinh tai:
- Chết chửa!
Người bác sĩ rụt vai lại.
Thanh tra Leroy hai mươi lăm tuổi rất giống với cái mà người ta gọi anh là một chàng trai được đào luyện tốt thành một thanh tra cảnh sát.Anh đã ra trường. Đấy là một công việc đầu tiên của anh và từ khi anh quan sát Maigret một lát với vẻ tẻ nhạt, anh cố kín đáo thu hút sự chú ý của ông. Cuối cùng anh đỏ mặt thốt lên.
- Xin ông thứ lỗi, ông cảnh sát trưởng. Nhưng, những dấu vết…
Chắc anh nghĩ rằng sếp của anh học ở trường lâu rồi nên không biết giá trị của những việc nghiên cứu khoa học vì Maigret vừa kéo một hơi thuốc vừa buông thõng:
- Nếu anh muốn.
Người ta không còn thấy thanh tra Leroy ở đâu. Anh đã thận trọng mang cái chai và những chiếc cốc vào phòng của anh, và suốt buổi tối anh làm một gói mẫu, chuẩn bị kỹ lưỡng để gửi những vật chứng bị xoá vết tích đi xét nghiệm.
Maigret ngồi trong một góc của quầy cà phê. Người chủ tiệm mặc áo bờ lu trắng và mũ đầu bếp nhìn ngôi nhà của mình bằng chính con mắt của mình để xem xét nó có bị tàn phá bởi trận bão hay không.
Người dược sĩ đã nói xong. Có nhiều người xì xầm bên ngoài. Jean Servières, người đầu tiên đội mũ lên đầu, đứng dậy:
- Không phải tất cả như thế! Tôi đã có vợ và bà Servières nhà tôi đang chờ tôi! Xin tạm biệt, ông cảnh sát trưởng, hẹn gặp lại Le Pommeret ngừng đi đi lại lại.
- Chờ tôi với! Tôi cũng đi ăn tối đây. Anh ở lại chứ, Michoux?
Người bác sĩ chỉ trả lời bằng cái nhún vai. Ông dược sĩ thì tiếp tục đóng một vai trò của kế hoạch ban đầu Maigret nghe ông nói với người chủ tiệm :
- … Và tất nhiên cần phải phân tích chất đựng trong tất cả các chai. Chính vì
ở đây có người của sở Cảnh sát, chỉ cần ra lệnh cho tôi là được.
Có hơn sáu mươi chai đựng rượu khai vị đủ loại và rượu mùi trong tủ.
- Ông nghĩ sao về việc này, ông cảnh sát trưởng?
- Đây là một ý kiến đúng, có lẽ phải thận trọng.
Người dược sĩ vốn nhỏ con, gầy và cứng cáp. Ông hối hả làm việc gấp ba lần. Người ta phải tìm cho ông một cái sọt đựng chai. Rồi ông gọi điện thoại cho một tiệm cà phê của thành phố cổ để người ta đến nói với người nhân viên của ông là ông rất cần anh ta giúp sức.
Đầu để trần, ông đi từ khách sạn Amiral đến phòng thuốc của ông năm đến sáu lần, tất bật, bận rộn. Ông thấy cần phải nói vài lời với những người thóc mách tập trung trên vỉa hè.
Người chủ tiệm rên rỉ:
- Tôi sẽ làm như thế nào đây nếu người ta đem tất cả rượu của tôi đi? Rồi không còn ai nghĩ đến ăn uống nữa! Ông không ăn tối à, ông cảnh sát trưởng?
Còn ông, ông bác sĩ, ông về nhà phải không?
- Không, mẹ tôi ở Paris, bà đầy tớ nghỉ phép.
- Vậy ông ngủ lại đây chứ?
------
Trời mưa. Các đường phố ngập ngụa bùn đen. Gió giật từng hồi các cánh cửa chớp của lầu một. Maigret đã ăn trưa trong phòng ăn, không xa chiếc bàn mà người bác sĩ đang ngồi ảo não.
Qua những ô kính nhỏ màu lục, người ta đoán được có những cái đầu hiếu kỳ ở bên ngoài đôi khi dán vào kính. Cô gái hầu phòng vắng mặt nửa giờ đồng hồ; đã đến phiên ăn trưa của cô. Rồi cô lại về vị trí quen thuộc của mình bên phải chiếc két, một khuỷu tay tì lên đấy, tay cầm một chiếc khăn lau.
Maigret nói với cô:
- Cô lấy cho tôi một chai bia.
Ông cảm thấy rất rõ người bác sĩ đang quan sát ông trong khi ông uống, rồi sau đấy, như để đoán những triệu chứng của sự trúng độc.
Jean Servières không trở lại như đã nói với ông khi ra về. Le Pommeret cũng không, đến nỗi quầy cà phê vắng vẻ vì nhiều người không muốn vào và không thích uống. Ở ngoài, người ta khẳng định là tất cả những cái chai đã nhiễm độc.
- Chẳng lẽ lại giết cả thành phố!
Ông thị trưởng từ biệt thự "Cát Trắng" của mình gọi điện thoại đến để biết thực hư điều gì đã xảy ra. Rồi một sự im lặng buồn tẻ. Bác sĩ Michoux ngồi trong một góc, lật từng trang của các tờ báo mà không hề đọc. Cô gái hầu phòng không nhúc nhích. Maigret bình thản hút thuốc, còn người chủ tiệm thỉnh thoảng đến liếc mắt xem có chuyện gì lôi thôi không.
Người ta nghe tiếng đồng hồ của thành phố cổ điểm giờ từng nửa giờ một.
Tiếng bước chân và tiếng xầm xì trên vỉa hè đã ngừng, chỉ còn có tiếng rì rào đơn điệu của gió và tiếng mưa vỗ vào cửa kính.
- Ông ngủ ở đây à? - Maigret hỏi người bác sĩ.
- Vâng, đôi khi phải thế. Tôi sống với mẹ tôi cách thành phố ba kilômét. Một biệt thự lớn. Mẹ tôi đi Paris vài hôm và bà đầy tớ của tôi lại xin nghỉ phép để dự đám cưới của người em trai.
Anh đứng dậy, do dự, nói rất nhanh:
- Xin chào.
Rồi anh biến mất trong cầu thang. Có thể nghe được tiếng anh cởi giầy ở lầu một, đúng phía trên đầu của Maigret. Chỉ còn lại cô hầu phòng và viên cảnh sát trưởng trong quầy cà phê.
- Lại đây! - Ông nói với cô gái và ngã hẳn người ra trên lưng ghế tựa.
Rồi ông nói tiếp, vì cô gái vẫn đứng trong một tư thế rất đắn đo.
- Ngồi xuống đi! Cô bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi bốn.
Ở cô có sự nhún mình quá đáng. Đôi mắt có quầng, mệt mỏi; cách đi đứng của cô không có tiếng động, không va chạm vào bất cứ gì, run run lo ngại, không thốt lên lời nào. Tất cả những cái ấy phù hợp với ý nghĩ mà người ta cho cô là thuộc hạng người "bẩn thỉu", quen với tất cả những điều khắc nghiệt. Thế nhưng người ta cảm thấy dưới vẻ bề ngoài ấy là những nét nào đấy của lòng kiêu hãnh mà cô cố không để lộ cho người ta nhận thấy.
Cô xanh xao, bộ ngực xẹp lép không đủ gợi được sự kích thích của tính hám dục. Tuy vậy, trông cô vẫn quyến lũ bởi vì trong cô có sự biến loạn, sự nản lòng và ốm yếu.
- Cô làm gì trước khi làm việc ở đây?
- Tôi mồ côi. Cha tôi và anh tôi chết ngoài biển trên con thuyền hai buồm "Ba Đạo sĩ . Mẹ tôi chết đã lâu. Đầu tiên tôi là người bán hàng ở cửa hàng giấy bút, quảng trường bưu điện.
Ánh mắt của cô như tìm tòi, lo lắng điều gì.
- Cô có người yêu chưa?
Cô quay đầu đi không nói gì, còn Maigret, hai mắt dán chặt vào khuôn mặt cô, từ từ rít thuốc lá, uống một ngụm bia.
- Có những khách hàng có lẽ là hâm mộ cô đấy! Những người hồi nãy ở đây đều là khách quen, cứ chiều chiều họ đến đây. Họ yêu những cô gái đẹp. Nào!
- Ai trong số ấy?
Nhợt nhạt hơn, cô nói bằng một cái bĩu môi chán nản:
- Chỉ có ông bác sĩ.
- Cô là người tình của ông ấy?
Cô gái nhìn ông với lòng tin mới chớm.
- Ông ấy đã có các cô khác. Đôi khi ông ấy mới đoái hoài đến tôi. Ông ấy nghỉ ở đây. Ông ấy bảo tôi gặp ông ấy trong phòng riêng của ông.
Ít khi Maigret có được một sự thú nhận thành thật như thế.
- Anh ấy có cho cô gì không?
- Có, nhưng không thường xuyên. Hai ba lần, đấy là ngày tôi vắng ở khách sạn, ông ấy báo tôi đến nhà ông ấy. Và ngày hôm kia nữa, nhân khi mẹ ông ấy đi xa. Nhưng ông ấy có những cô gái khác.
- Còn ông Pommeret thì sao?
- Cũng vậy thôi. Trừ có lần tôi đến nhà ông ấy, đã lâu rồi. Ở đấy có một cô thợ làm ở nhà máy cá hộp và, và tôi không muốn! Tuần nào họ cũng có những cô gái mới.
- Ông Servières cũng thế chứ?
- Không! Cùng một giuộc… ông ấy đã lấy vợ. Có vẻ như ông ấy sắp tổ chức tiệc cưới ở brest. Ở đây,ông ấy chỉ thích đùa cợt, véo vào người tôi mỗi khi đi qua.
Trời vẫn đổ mưa. Xa xa vang lên tiếng còi của một con tàu, có lẽ nó tìm đường vào cảng.
- Và suốt cả năm như vậy chứ?
- Không phải cả năm đâu. Mùa đông họ lẻ loi trơ trọi. Đôi khi họ uống một chai với một khách buồn. Nhưng mùa hè thì đông lắm. Khách sạn đầy người. Ban đêm, họ vẫn có mươi, mười lăm người uống sâm banh hay nhậu nhẹt trong các biệt thự. Có những chiếc xe hơi, những người đàn bà đẹp. Chúng tôi, chúng tôi có đủ việc. Mùa hè, không phải tôi phục vụ mà là những chú bồi bàn. Khi ấy tôi ở dưới kia rửa bát đĩa.
Vậy cô gái đang tìm gì xung quanh cô? Cô ngồi không yên trên mép ghế và dường như cô sắp giải lao. Một hồi chuông lanh lảnh reo lên. Cô nhìn Maigret, rồi nhìn bảng điện đặt sau két.
- Ông cho phép chứ?
Cô leo lên. Viên cảnh sát trưởng nghe tiếng bước chân, rồi một tiếng rì rầm không rõ ở lầu một, trong phòng của người bác sĩ.
Người dược sĩ bước vào, hơi say.
- Xong rồi, ông cảnh sát trướng ạ! Bốn mươi tám chai đã được phân tích! Rất chu đáo, tôi thề với ông không có một dấu vết thuốc độc nào khác trong rượu mùi và rượu táo. Ông chủ tiệm cứ nằng nặc đòi lại đồ đựng của ông… Ông nghĩ sao, ý kiến của ông thế nào?
Emma đã trở lại, ra phía ngoài đường để hạ những tấm cửa rèm xuống, chờ để có thể khoá cửa.
- Thế nào? - Maigret nói khi họ chỉ còn lại hai người.
Cô gái quay đầu đi với một vẻ thẹn thùng, còn người cánh sát trưởng có cảm tưởng như mình có thái độ đuổi cô ra và cô đã bật lên khóc. Ông nói:
- Chúc ngủ ngon, cô bé.
------
Khi viên cảnh sát trưởng bước xuống lầu, ông tự cho mình là người thức dậy đầu tiên, bầu trời còn đầy mây xám xịt. Nhìn từ cửa sổ, ông thấy ngoài cảng vắng vẻ, nơi ấy chỉ có một chiếc cần trục đang bốc dỡ một tàu cát xuống. Trong các đường phố, vài ba chiếc ô đang chạy mưa sát các ngôi nhà.
Đến giữa cầu thang, ông gặp một người khách bườn và một người đàn ông vất vả vác một chiếc hòm lớn.
Emma quét phòng ở dưới. Trên một chiếc bàn bằng đá cẩm thạch có một chiếc tách đầy cặn cà phê. Maigret hỏi :
- Có ông thanh tra của tôi đến không? Đã lâu rồi, ông ấy có hỏi tôi đường ra ga để mang một gói gì lớn đến đấy.
- Ông bác sĩ thế nào?
- Tôi đã đem bữa điểm tâm lên cho ông ấy. Ông ấy ốm. Ông ấy không muốn đi ra ngoài.
Rồi cái chổi lại tiếp tục làm tung bụi lên trộn lẫn với mạt cưa.
- Ông dùng gì ạ?
- Cà Phê đen.
Cô gái phải đi qua gần ông để đến nhà bếp.
Lúc này ông nắm lấy hai vai cô gái bằng đôi bàn tay hộ pháp của ông, nhìn vào mắt cô vừa thô bạo vừa thân mật.
- Nói đi xem nào, Emma.
Cô gái chỉ có một cử động rụt rè để cô thoát ra, rồi đứng im, run rẩy cố thu mình lại.
- Giữa chúng ta thôi, cô biết gì nào. Cô im đi. Cô lại nói dối đấy. Cô là một cô gái đáng thương, tôi không muốn xoi mói những điều khốn nạn của cô. Cô hãy nhìn thẳng vào tôi. Cái chai… Thế nào?… Bây giờ cô nói đi…
- Tôi thề với ông…
- Khỏi phải thề.
- Không phải là tôi?
- Tôi biết rõ như vậy, tất nhiên, mong rằng không phải là cô. Nhưng ai mới được chứ?
Bỗng nhiên cặp mi mắt mọng lên, nước mắt trào ra. Môi dưới của cô cong lên, co thắt và cô gái hầu phòng xúc động đến nỗi Maigret thôi không giữ lấy vai cô nữa.
- Tay bác sĩ… đêm qua?
- Không. Không phải là điều mà ông nghĩ.
- Anh ta muốn gì?
- Ông ấy đã hỏi tôi cũng như thế, như ông đã… Ông ấy đã doạ tôi. Ông ấy muốn tôi nói cho ông ấy biết ai đã sờ vào chai. Ông ấy chỉ còn thiếu đánh tôi nữa thôi. Tôi không biết, thật mà! Tôi lấy mẹ tôi ra để thề rằng …
- Cô mang cà phê đến cho tôi đi.
Đã tám giờ sáng, Maigret đi mua thuốc hút, dạo một vòng trong thành phố.
Khi ông trở lại, vào khoảng mười giờ, người bác sĩ đã ở trong quầy cà phê, đi đôi giày păng-túp, một chiếc khăn quàng vắt qua cổ. Nét mặt của anh ta võ vàng, tóc màu hung rối bù.
- Trông anh có vẻ không được khỏe thì phải.
- Tôi ốm, quả tôi không ngờ lại như thế. Lại những quả thận của tôi đấy mà.
Khi xảy ra vào chuyện vặt, tôi phiền lòng, xúc động, chính vì vậy mà nó sinh chuyện. Suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt được.
Mắt anh không rời khỏi cửa ra vào.
- Anh không về nhà à?
- Chẳng có ai ở nhà cả. Tại đây tôi được chăm sóc tốt hơn.
Anh tìm tất cả những báo buổi sang nằm trên bàn.
- Ông không thấy các bạn của tôi à? Servières, Le Pommeret. Thật buồn cười họ không đến xem tin tức.
- Ối dào! Có lẽ họ vẫn còn ngủ! - Maigret thở dài - Lạ thật, tôi không trông thấy con chó vàng thảm hại ở đâu. Emma, cô có thấy con chó không, không à?
- Leroy đây rồi, có lẽ anh ấy đã gặp nó trong phố. Có gì mới không, Leroy?
- Những cái chai và cốc đã được gửi đến phòng sét nghiệm. Tôi đã đến Sở mật thám và toà thị chính, Tôi nghĩ là ông đang nói đến con chó phải không? Có vẻ như sáng nay một người nông dân đã trông thấy nó trong vườn của ông Michoux thì phải… …
- Trong vườn của tôi? - Người bác sĩ đã đứng dậy. Đôi bàn tay xanh xao của anh run lẩy bẩy.
- Nó làm gì trong vườn của tôi nhỉ?
- Như điều người ta nói với tôi là nó nằm trên thềm của biệt thự và khi người nông dân đến gần thì nó gầm gừ đến nỗi người ấy phải chuồn khỏi đấy.
Maigret liếc mắt quan sát các khuôn mặt.
- Nào bác sĩ, chúng ta cùng đi đến nhà anh chứ?
Một nụ cười không tự nhiên.
- Trong cơn mưa thế này à. Với căn bệnh của tôi. Như thế đối với tôi cũng bằng ít ra là tám ngày nằm liệt giường. Con chó ấy thì có quan trọng gì đến thế, một con chó tầm thường chạy rông, có thể là…
Maigret đội mũ, mặc áo khoác.
- Ông đi đâu thế? - Viên thanh tra hỏi.
- Tôi không biết nữa. Thở hít không khí. Anh đi cùng tôi chứ, Leroy?
Khi hai ngườl đã ra đến bên ngoài, họ còn có thể nhìn thấy cái đầu dài dài của người bác sĩ mà những tấm kính mầu đã làm cho biến dạng, dài hơn và làm cho nó có một màu lục nhạt.
Viên thanh tra hỏi:
- Chúng ta đi đâu đây?
Maigret nhún vai, lang thang suốt mười lăm phút quanh vũng như một người quan tâm đến những con tàu. Đến gần đê chắn song ông quay sang phải, theo một con đường có biển chỉ lối của đường Cát Trắng. Leroy bắt đầu nói sau một cơn ho:
- Nếu người ta phân tích tàn thuốc lá tìm thấy trong hành lang của ngôi nhà không có người ở…
- Anh có nghĩ gì về Emma không? - Maigret ngắt lời anh.
- Tôi… tôi nghĩ. Theo ý kiến tôi, cái khó khăn nhất là trong một xứ sở như xứ sở này, nơi mọi người đều quen biết nhau, tự kiếm cho mình một lượng Strychnine như thế… …
- Tôi không hỏi anh về điều ấy, mà là, anh có thể làm như sẵn sàng trở thành tình lang của cô ấy thì sao?
Viên thanh tra đáng thương không tìm được câu gì đề trả lời. Và Maigret buộc anh ta dừng lại, mở cúc chiếc áo măng tô ra che gió cho ông châm tẩu thuốc.
-----
Đường Cát Trắng có vài ba biệt thự xây xung quanh, giữa những biệt thự có một toà nhà lộng lẫy xứng với cái tên lâu đài. Nó thuộc quyền sở hữu của ông thị trưởng. Lâu đài kéo dài ra giữa hai mũi đá cách Cocarneau ba kilômét.
Maigret và người đồng hành của ông lội trong cát phủ đầy tảo giạt, hầu như không để ý nhìn những ngôi nhà không có người ở, cửa đóng kín.
Ở phía kia của bãi cát, khoảnh đất nhô lên, những mỏm đá thẳng đứng, trên đầu viền những cây lãnh sam chúc xuống phía biển. Một tấm biển lớn có chữ: “Phân lô của Cát Trắng”. Một sơ đồ nhiều màu sắc, có mảnh đã bán, có mảnh chưa. Một kiốt bằng gỗ có biển ghi: “Văn phòng bán đất”.
Cuối cùng là lời ghi chú: “Trường hợp vắng mặt, xin hỏi ông Ernest Michoux, người quản lý”.
Về mùa hè, tất cả có lẽ sẽ tươi tắn, được sơn lại như mới, còn trong mưa gió, bùn lầy, trong sự hỗn độn của sóng dồi thì thật là thê thảm.
Ở chính giữa là một ngôi biệt thự lớn bằng đá xám với bồn đất cao và bề nước, còn bồn hoa thì chưa trổ bông. Xa hơn, phác thảo của những toà biệt thự khác chưa xây xong, vài vạt tưòng xây dở trồi lên trên nền đã vạch sẵn các căn phòng.
Còn thiếu những tấm cửa kính ở kiốt nói trên. Những đống cát nằm chờ để trải ra trên con đường mới, nơi ấy, một chiếc trục lăn nằm chắn ngang ở đoạn giữa. Trên đỉnh vách đá, một khách sạn, hay đúng hơn là một khách sạn tương lai, chưa xây xong với những bức tường chưa tô trát, những khung cửa sổ tạm bít kín bằng những tấm ván và bìa cứng. Maigret lặng lẽ bước lên trước, đẩy rào chắn mở lối vào biệt thự của bác sĩ Michoux. Khi ông đã ở trên bậc thềm giơ tay cầm nắm cửa thì thanh tra Leroy nói thầm:
- Chúng ta không có giấy phép. Ông không nghĩ là…
Lại một lần nữa, cấp trên của anh lai nhún vai. Trên các lối đi, họ nhìn thấy những vết chân sâu xuống của con chó vàng để lại. Có cả những dấu vết khác của những bàn chân lớn đi giày đinh, dễ chừng cỡ bốn sáu là ít.
Quả đấm xoay, cửa mở ra như có phép lạ và người ta có thể xác đính chính những vết bùn của chân chó và của đôi giày là đáng chú ý.
Ngôi biệt thự, một kiểu kiến trúc phức tạp được bày biện một cách kiêu kỳ, bất kể đâu, cả xó xỉnh cũng vậy được sắp xếp những chiếc ghế đi văng, tủ sách thấp, những chiếc giường hòm bretagne biến đổi thành tủ kính, những chiếc bàn Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Trung Hoa. Rất nhiều bức thảm đẹp và trướng phủ tường.
Rõ ràng là chủ của biệt thự muốn trang trí bằng gỗ cổ, một tập hợp những thiết bị vừa mộc mạc lại vừa hiện đại. Một vài phong cảnh Bretagne.
Những bức tranh khoả thân có ký tên đề tặng: “Tặng người bạn tốt Michoux”, hay là: “Tặng người bạn của các nghệ sĩ”.
Ông cảnh sát trưởng nhìn cái mớ hổ lốn ấy với một thái độ càu cạu, còn viên thanh tra Leroy thì không biểu lộ cảm xúc của mình về sự bày biện lung tung này.
Rồi Maigret mở các cửa ra vào, liếc mắt vào các phòng. Một số phòng chưa có đồ gỗ, vừa trát tường mới khô.
Cuối cùng, ông dùng chân đẩy một cánh cửa và thì thầm, thoả mãn khi trông thấy nhà bếp. Trên mặt bàn bằng gỗ mộc có hai chai Bordeax đã hết rượu.
Độ chục chiếc vỏ hộp mở rồi, có con dao con bên cạnh. Mặt sàn bẩn thỉu dây mỡ nhầy nhụa. Người ta đã ăn hết, ngay cả những hộp cá trích ướp vang trắng, ra-gu nguội, nấm xép và mỡ ướp.
Nền nhà rác rưởi, vương vãi những miếng thịt. Một chai rượu sâm banh quí bị vỡ và mùi thơm bốc lên trộn lẫn với mùi thơm của thức ăn.
Marget nhìn người đồng hành bằng một nụ cười rất lạ
- Leroy này, anh tin là người bác sĩ đã làm bữa ăn này bằng thịt lợn bột à?
Nhưng viên thanh tra sững sờ không đáp lại. Ông lại nói:
- Mẹ anh ta cũng không, tôi tin như vậy. Ngay cả bà ở. Này, anh là người thích những dấu vết. Đây là những vệt bùn làm nổi bật một đế giày cỡ bốn lăm hay bốn sáu. Và những dấu vết của con chó!
Ông nhồi một tẩu thuốc mới, nhặt ống diêm trên một cái giá.
- Anh hãy ghi chép cho tôi những gì cần ghi chép ở đây! Đấy là việc không thể thiếu được. Chốc nữa, chúng ta gặp lại.
Ông bước đi, hai tay thọc trong túi, cổ áo pác-đơ-xuy dựng ngược, men dọc theo bãi Cát Trắng.
Khi bước vào khách sạn Amiral, người đầu tiên ông nhìn thấy là bác sĩ
Michoux ngồi trong góc vẫn đi giầy păng-túp, râu không cạo, khăn quàng quấn xung quanh cổ. Le Pommeret cũng ăn mặc nghiêm chỉnh như hôm trước, ngồi né sang bên cạnh để ông cảnh sát trưởng đi qua mà không nói năng lời nào Cuối cùng người bác sĩ nói bằng một giọng không được bình thường:
- Ông biết điều gì người ta đã báo cho tôi không? Servières mất tích. Vợ ông ấy gần như phát điên lên, ông ấy đã rời khỏi đây tối hôm qua. Từ khi ấy, không còn gặp lại ông ấy nữa.
Maigret giật nảy mình, không phải vì lý do mà người ta nói với ông, mà vì
ông vừa nhìn thấy con chó vàng nằm dưới chân Emma.
Le Pommeret thấy cần phải làm cho người ta tin khi anh nói rằng:
- Hồi nãy, chị ấy đã đến chỗ tôi van xin cho tiến hành tìm kiếm. Servières, tên thật là Goyard.
Đang mải nhìn con chó vàng, Maigret đảo mắt ra phía cửa khi người bán báo bước vào như bị gió đẩy, và thế là ông liếc thấy đầu đề in bằng chữ đậm, dù ông ngồi hơi xa nhưng vẫn có thể đọc được: “Sự khiếp sợ bao trùm lên Concarneau”.
Những đề mục phụ tiếp sau là: “Mỗi ngày một thảm kịch. Jean Servières, cộng tác viên củachúng ta đã biến mất”. “Những vết máu trên chiếc xe con”. “Sẽ đến lượt ai?”
Maigret túm lấy tay áo thằng bé bán báo:
- Mày bán được nhiều không?
- Gấp mười những ngày khác. Chúng tôi có ba người bán từ nhà ga.
Thằng bé được buông ra lại chạy dọc bến cảng, vừa chạy vừa rao:
- Báo Hải Đăng Brest, số đặc biệt đây…
Viên cảnh sát trưởng chưa kịp có thì giờ để bắt đầu giở báo đọc thì Emma đến nói với ông:
- Ông có điện thoại…
Một giọng nói giận dữ cất lên ở phía đầu kia dây nói. Đó là ông thị trưởng:
- A… lô, ông đấy à, ông cảnh sát trưởng. Có phải ông đã đọc bài báo vớ vẩn ấy rồi không? Mà chính tôi cũng chưa rõ. Tôi nghe đây, có phải thế không? Là người đầu tiên được báo cho biết những gì xẩy ra trong thành phố mà tôi là người đứng đầu. Chuyện về chiếc ôtô ấy như thế nào? Và người đàn ông có vết chân lớn ấy… Đã một giờ nay tôi nhận được hơn hai mươi cú điện thoại của những người hoảng hốt hỏi tôi những tin ấy có chính xác không? Tôi nhắc lại với ông rằng tôi muốn từ nay…
Maigret bình tĩnh đặt ống nghe xuống, trở lại quầy cà phê, ngồi xuống bắt đầu đọc. Michoux và Le Pommeret cũng lướt mắt một lượt khắp tờ báo đặt trên mặt bàn bằng đá hoa cương.
"Cộng tác viên Jean Servières tuyệt vời của chúng ta vừa kể nhũng sự kiện của Concarneau mới xẩy ra. Đấy là ngày thứ Sáu một thương gia đáng kính của thành phố, ông Mostaguen bước ra khỏi khách sạn Amiral, dừng lại trên một bậc thềm để châm thuốc lá thì bị một viên đạn từ thùng thư của ngôi nhà không có người bắn vào bụng. Ngày thứ bảy, cảnh sát trưởng Maigret mới từ Paris biệt phái về, đứng đầu đội cảnh sát lưu động của Rennes đã đến nhưng không ngăn cản được một thảm kịch mới lại xảy ra. Quả vậy, đến tối một cú điện thoại báo cho chúng tôi biết lúc ba người có danh vọng trong thành phố là các ông Le Pommeret, Jean Servières và bác sĩ Michoux đang uống rượu khai vị thì nhận thấy trong rượu Pernod mà họ được phục vụ có chứa một liều mạnh chất Strychnine. Lúc này các nhân viên điều tra cũng vừa mới đến. Nhưng sáng Chủ nhật này, xe hơi của Jean Servière đã được tìm thấy gần sông Saint - Jacques không có chủ. Chủ của nó đã mất tích vào tối thứ bảy,không ai biết ở đâu. Đệm ngồi phía trước có vấy máu. Một tấm kính cửa bị vỡ, hoàn toàn có thể giả thiết là có sự vật lộn. Ba ngày, ba thám kịch. Người ta cho rằng sự khiếp sợ bắt đầu bao trùm cả Concarneau. Nhân dân sợ hãi tự hỏi ai sẽ là nạn nhân mới tiếp theo. Sự huyên náo đặc biệt được đồn đại trong dân chúng là do sự xuất hiện bí ẩn của một con chó vàng mà không ai biết từ đâu ra. Con chó hình như vô chủ và cứ mỗi lần có tai hoạ xảy ra là y như người ta lại gặp nó. Phải chăng con chó ấy đã không dẫn cảnh sát đến một hướng điều tra quan trọng và người ta không tìm thấy một người chưa xác định được đã để lại nhiều dấu vết lạ ở một số nơi, như dấu bàn chân của hắn lớn hơn nhiều so với bàn chân bình thường. Một thằng điên ư? Một tên rình mò lượn quanh? Có phải hắn là tác giả của tất cả những hành động xấu ấy không? Ai sẽ bị hắn tấn công vào tối nay? Có thể hắn sẽ phải đụng đầu với người ấy vì những người dân khiếp sợ sẽ thận trọng mang theo vũ khí và bắn vào hắn khi có dấu hiệu báo nguy. Trong khi chờ đợi, Chủ nhật này thành phố như chết và bầu không khí gợi lại những thành phố miền Bắc trong chiến tranh khi được báo có một cuộc oanh tạc.
------
Maigret nhìn qua cửa kính. Không còn mưa nữa, nhưng các đường phố ngập bùn đen và gió vẫn tiếp tục thổi mạnh. Bầu trời còn xám xịt. Nhiều người đi lễ nhà thờ về. Hầu như tất cả đều có tờ Hải Đăng brest trong tay. Và tất cả những khuôn mặt đều ngoảnh về phía khách sạn Amiral, còn những khách qua đường thì vội vàng gấp bước.
Hẳn là có cái gì chết chóc trong thành phố. Nhưng không phải sáng chủ nhật nào cũng như vậy? Chuông điện thoại lại reo lên. Có tiếng của Emma trả lời.
- Thưa ông, tôi không biết ạ. Tôi không được rõ ạ. Ông có muốn để tôi mời ông cảnh sát trưởng đến không? Alô… Alô. Người ta đã cúp máy.
- Chuyện gì vậy? - Maigret gầm lên - Một toà báo ở Paris, tôi nghĩ là… Người ta hỏi có phải có thêm những nạn nhân mới phải không… ? Người ta đã đặt trước một phòng.
- Cô gọi điện thoại giúp tôi đến tờ Hải Đăng Brest.
Trong khi chờ đợi, ông bước dọc rồi lại bước ngang, không liếc nhìn người bác sĩ vừa buông ghế, cũng không để ý đến Le Pommeret đang ngắm nghía các ngón tay của mình đeo đầy nhẫn.
- A lô… Hải Đăng Brest phải không? Cảnh sát trưởng Maigret đây. Làm ơn cho gặp giám đốc. Alô!
- Ông đấy à. Tốt! Ông có thể cho tôi biết số báo của ông sáng nay ra khỏi nhà in lúc mấy giờ? Thế nào, chím giờ rưỡi à? Thế ai viết bài về những thảm kịch ở Concarneau? Ô! Không, chẳng có chuyện gì đâu! Hả!, ông nói gì? Ông nhận bài báo ấy có phong bì dán kín à? Không ký tên à? Và ông đã đăng như vậy bất kể thông tin nào gửi đến ông à? Xin chào ông!
Ông định đi ra bằng cửa mở thẳng ra cảng nhưng thấy cửa đóng kín.
- Thế là thế nào? - Ông hỏi Emma và nhìn vào mắt cô.
- Dạ, ông bác sĩ đấy ạ.
Ông nhìn chằm chằm vào, Michoux có cái đầu nghiêng nghiêng hơn bao giờ hết, rồi ông nhún vai, bước ra bằng một cửa khác, cửa của khách sạn. Phần lớn các cửa hàng đều đóng cửa. Nhiều người ăn mặc đẹp bước đi vội vã.
Ở phía kia của vũng, nơi những con tàu kéo căng dây neo, Maigret thấy lối vào của sông Saint - Jacques tận cuối thành phố, ở đấy những ngôi nhà thưa thớt, nhường chỗ cho các xưởng đóng tàu. Người ta nhìn thấy những con tàu chưa đóng xong trên bến cảng. Có những con thuyền cũ bị mục nát trong bùn.
Tại nơi có chiếc cầu bằng đá bắc qua sông chảy vào cảng, có một nhóm người tò mò vây quanh một chiếc ô tô con.
Phải đi vòng để đến được đấy vì những bến cảng đã bị cản bởi các cọc chắn.
Nhìn ánh mắt của mọi người, ông hiểu rằng họ đều biết ông. Và trên thềm của các quán hàng đã đóng cửa, ông thấy nhiều người lo lắng nói thầm với nhau.
Cuối cùng ông đã đến được gần chiếc xe bỏ lại bên lề đường. Bằng một cử chỉ nhanh nhẹn, ông mở cửa xe làm rơi mấy mảnh kính vỡ và không cần thiết tìm kiếm để làm rõ những vết màu nâu trên đệm ngồi bằng dạ.
Xung quanh ông, những chú nhãi con và những người trẻ tuổi tự đắc chen lấn nhau.
- Nhà của ông Servières ở đâu?
Có đến mười người trong số họ dẫn ông đến. Ngôi nhà cách đấy độ ba lăm mét, hơi biệt lập, một ngôi nhà bình dị có vườn bao quanh. Đoàn tuỳ tùng dừng lại trước hàng rào sắt, còn Maigret thì kéo chuông, được một người ở gái thấp bé với vẻ mặt sợ sệt dẫn vào.
- Bà Servières có ở đây không?
Người đàn bà mở cửa phòng ăn.
- Ông cảnh sát trưởng, ông nói đi! Ông nghĩ là người ta đã giết anh ấy à?…
Tôi phát điên mất… Tôi…
Một người đàn bà nhân hậu, chừng bốn mươi, có dáng dấp của một người nội trợ giỏi mà sự sạch sẽ, ngăn nắp của nội thất đã xác định điều ấy.
- Bà không thấy chồng bà trở về từ lúc nào?
- Hôm qua anh ấy về ăn bữa tối. Tôi nhận thấy anh ấy có điều gì lo lắng, nhưng anh ấy không hề nói gì với tôi cả. Anh ấy để xe trước cổng, điều ấy có nghĩa là đến tối anh ấy lại đi nữa. Tôi biết như thế là anh ấy sẽ đánh bài ở quầy cà phê Amiral… Tôi đã hỏi anh ấy… Đến mười giờ tôi đi nằm. Tôi còn thức rất lâu. Tôi nghe tiếng đồng hồ điểm mười một giờ, rồi mười một giờ rưỡi. Nhưng thường anh ấy về rất muộn, tôi đành phải đi ngủ… Khi thức dậy lúc nửa đêm tôi lấy làm lạ là không thấy anh ấy nằm cạnh tôi. Lúc ấy tôi nghĩ có người nào lại kéo anh ấy đến Brest. Lúc này thì không thể nào chịu được nữa mặc dù đôi khi… Tôi không thể ngủ lại được nữa… Từ năm giờ sáng, tôi đã đứng rình sau cửa sổ… Anh ấy không thích tôi có vẻ chờ anh ấy, và ít ra là tôi còn truy hỏi anh ấy. Đến chín giờ tôi chạy đến nhà ông Le Pommeret. Khi trở về bằng con đường khác, tôi trông thấy nhiều người xúm quanh chiếc xe hơi. Ông nói đi! Tại sao người ta có thể giết anh ấy? Đấy là người đàn ông tốt nhất trần đời. Tôi dám chắc là anh ấy không có kẻ thù.
Một nhóm người đứng lại trước hàng rào sắt.
- Có vẻ như có những vết máu… Tôi trông thấy nhiều người đọc một tờ báo nhưng không có ai muốn để lộ cho tôi xem.
- Chồng bà có mang nhiều tiền trong người không?
- Tôi không nghĩ là, vẫn như mọi khi… ba hay bốn trăm phơrăng.
Maigret hứa sẽ báo cho bà biết tin, ngay cả việc cố gắng làm cho bà yên tâm bằng những lời nói chung chung. Một mùi thơm của thịt cừu từ nhà bếp đưa lên.
Người ở gái khoác tạp dề trắng tiễn ông ra cổng.
Ra đến ngoài viên cảnh sát trưởng đi chưa được trăm mét thì có một ngườí qua đường nhanh nhẹn đến gần.
- Ông cảnh sát trưởng, ông xá lỗi cho. Tôi xin tự giới thiệu, Dujardin, giáo viên tiểu học. Đã một giờ đồng hồ nay có nhiều người, nhất là cha mẹ học sinh của tôi đến hỏi tôi là những điều đăng trên báo có đúng sự thật không. Một số muốn biết nếu trường hợp họ trông thấy người đàn ông có đôi bàn chân lớn, họ có quyền được bắn không.
Maigret không phải là một thiên thần của kiên nhẫn, ông thọc hai tay vào túi mà lẩm bẩm:
- Hãy để tôi yên.
Rồi ông đi đến trung tâm thành phố.
Thật ngu ngốc! Ông chưa bao giờ thấy sự việc như vậy. Điều ấy gợi lên cho người ta nhớ đến những cơn giông bão đôi khi gặp trong điện ảnh: Người ta được xem một đường phố tươi vui, một bầu trời quang đãng. Rồi một đám mây dày đặc ùn đến che lấp mặt trời. Một ngọn gió mạnh quét trên đường phố. Chớp sáng xanh lè. Cánh cửa va đập. Lốc bụi. Những giọt nước lớn rơi xuống.
Rồi thế là phố xá dưới một trận mưa rào, dưới một bầu trời rất kịch.
Concarneau thay đổi trông thấy. Bài báo của tờ Hải đăng Brest chỉ là một điềm khởi đầu. Từ lâu, những lời bình luận bằng miệng đã vượt qua những lời bình luận bằng văn. Rồi chính ngày Chủ nhật lại tăng hơn. Các cư dân không có gì để làm. Người ta thấy họ chọn chiếc xe hòm của Jean Servières như mục đích đi dạo. Bên cạnh xe đã có hai lính cảnh sát đứng. Những kẻ hiếu kỳ dừng lại đấy một giờ đồng hồ nghe những lời giải thích do những người thạo tin nhất đưa ra.
Khi Maigret trở về khách sạn Amiral, người chủ tiệm đội mũ vải trắng không vành bị giày vò bởi một trạng thái bất thường, bực dọc, đã nắm lấy ống tay áo của ông.
- Tôi cần phải nói chuyện với ông, ông cảnh sát trưởng. Như vậy không thể nào chịu được.
- Trước tiên, ông hãy phục vụ tôi ăn trưa cái đã.
- Nhưng mà…
Maigret đến ngồi trong một góc, cáu kỉnh gọi:
- Một cốc nửa lít. Ông không trông thấy cậu thanh tra của tôi đâu à?
- Anh ấy đi rồi. Tôi nghĩ là anh ấy được gọi đến gặp ông thị trưởng. Người ta vừa gọi điện thoại từ Paris đến. Một toà báo đã đặt chỗ trước hai phòng: Một cho phóng viên và một cho người nhiếp ảnh.
- Ông bác sĩ đâu?
- Ông ấy ở bên kia. Ông ấy đã dặn là không cho ai lên.
- Thế ông Le Pommeret?
- Ông ấy vừa đi xong.
Con chó vàng không còn ở đấy nữa. Những người trẻ tuổi cài một bông hoa ở lỗ khuy áo, tóc chải sáp đã ngồi vào bàn nhưng không uống limônát mà họ đã gọi. Họ đến chỉ để xem, hoàn toàn tự hào là đã có được can đảm ấy.
- Lại đây, Emma.
Có một sự cảm thông giữa cô hầu phòng và ông cảnh sát trưởng. Cô đến gần ông bằng sự phó mặc, để cho ông kéo vào trong một góc.
- Cô có chắc rằng tối hôm qua ông bác sĩ không ra khỏi nhà không?
- Tôi xin thề với ông rằng tôi không ngủ trong phòng của ông ấy.
- Có thể anh ta đã ra ngoài chứ?
- Tôi không tin như vậy. Ông ấy sợ. Sáng nay chính ông ấy bảo tôi đóng cánh cửa mở ra bến cảng.
- Làm thế nào mà con chó vàng ấy quen được cô?
- Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ trông thấy nó. Nó đến, nó lại đi. Chính tôi cũng tự hỏi ai cho nó ăn.
- Nó đi đã lâu chưa?
- Tôi không để ý.
Thanh tra Leroy trở về, bực dọc.
- Ông cảnh sát trưởng, ông biết không, ông thị trưởng rất giận, vì có người nào đấy ở địa vị cao…
- Ông ấy đã nói với tôi rằng ông ấy là anh em họ với ông Bộ trưởng Tư pháp. Ông ấy nhận xét là chúng ta chẳng được tích sự gì, rằng chúng ta đã lám ngơ nên báo chí đã gây hoang mang trong thành phố. Ông ấy muốn chúng ta bắt giữ được một kể nào đấy, bất kể là ai để trấn an dân chúng. Tôi đã hứa với ông ấy sẽ nói lại với ông về việc này. Ông thị trưởng đã nhắc lại rằng con đường tiến thủ của chúng ta, cả ông lẫn tôi, không bao giờ bị cản trở.
Maigret gẩy nhẹ cái nõ điếu.
- Ông định làm như thế nào? -Viên thanh tra hỏi.
- Chẳng làm thế nào cả… Nhưng - Anh còn trẻ Leroy ạ. Anh đã làm nổi bật những dấu vết cần thiết trong biệt thự của gã bác sĩ rồì chứ?
- Tôi đã gửi tất cả đến phòng thí nghiệm, những chiếc cốc, những chiếc vỏ hộp, con dao. Tôi cũng đã làm một khuôn thạch cao lấy vết chân của người đàn ông và của cả con chó. Việc này rất khó bởi vì thạch cao ở đây quá xấu. Ông có ý kiến gì không?
Để thay cho những câu trả lời, Maigret rút cuốn sổ tay trong túi ra và viên thanh tra đọc, mỗi lúc một hoang mang:
“Ernest Michoux (được gọi là bác sĩ) - con trai của một nhà công nghiệp nhỏ ở Seine Oise đã được đề cử vào hội đồng lập pháp, về sau bị phá sản. Cha chết, mẹ là một người mánh khoé, cùng với con trai lợi dụng khai thác một lô đất ởJuan-les-pins. Thất bại hoàn toàn, Đã làm lại ở Concarneau. Dựa vào tên tuổi người chồng đã khuất để dựng lên một công ty ma, không đóng góp vốn. Trên thực tế đã thu được lợi mà chi phí lại do xã và tỉnh phải chi trả. Ernest Michoux đã cưới vợ, rồi ly hôn. Vợ cũ của y đã trở thành vợ của một viên thư lại ở Lille. Mẫu người thoái hoá. Nợ đến kỳ hạn khó bề thanh toán được.”
Viên thanh tra nhìn cấp trên của mình, có vẻ như muốn nói:
- Rồi sau đấy thế nào?
Maigret lại chỉ tiếp cho anh những dòng sau đây:
“Yves le Pommeret. - Gia đình Le Pommeret. Người anh là Arthur quản lý xưởng làm vỏ đồ hộp lớn nhất ở Concarneau. Gia đình thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ. Yves Le Pommeret là một chàng trai khôi ngô có gia đình. Không bao giờ lao động. Từ lâu đã tiêu hết phần lớn gia tài thừa kế ở Paris. Khi đến ởConcarneau chỉ còn hai mươi nghìn phơrăng lợi tức. Cố giữ được bộ mặt là người có danh vọng, nhưng dù sao cũng đã tự mình đánh lấy giầy của mình. Có nhiều chuyện dan díu với các cô thợ nhỏ. Vài chuyện tai tiếng đã cố dập tắt được. Săn đuổi trong tất cả các lâu đài vùng quanh. Ra vẻ bệ vệ, ngoi lên do quan hệ chạy chọt để được bổ nhiệm chức danh phó lãnh sự Đan Mạch. Mưu đồ để có được Bắc đẩu bội tinh. Thỉnh thoảng vay tiền của người anh để trả nợ. Jean Servières (bút danh là Jean Goyard) sinh trưởng tại Morbilan. Nhà báo lâu năm ở Paris, tổng thư ký của những nhà hát nhỏ,v.v… Đã nhận một gia tài thừa kế khiêm tốn và đến ở tại Concarneau. Đã cưới vợ là một cô xếp chỗ củ của rạp hát, vốn là nhân tình lúc mười lăm tuổi. Gia thế bình dị. Vài hành động lầm lạc, ngông cuồng ở Brest và ở Nantest. Sống bằng những lợi tức nhỏ hơn là nghề làm báo mà gả rất tự hào. Huy chương giáo dục.”
- Tôi không hiểu! - Viên thanh tra ấp úng.
- Tất nhiên! Anh đưa tôi những lời ghi chép của anh đây!
- Nhưng, nhưng ai nói với ông là tôi…
- Đưa đây!
Cuốn sổ tay của ông cảnh sát trưởng là một cuốn sổ mười xu bằng giấy kẻ ô vuông, bìa bằng vải đánh xi. Còn sổ của viên thanh tra Leroy là một cuốn nhật ký, các trang giấy có thể lất qua lật lại bằng những vòng thép. Với vẻ nhân từ, Maigret đọc:
l - Sự việc Mostaguen: Viên đạn bắn trúng thương gia kinh doanh rượu chắc làdành cho mộtngười khác. Vì có thể dự kiến một người nào đấy dừng lại trên thềm, có lẽ người ta đã cho rằng nơi ấy là một nơi hẹn cho nạn nhân thật mà lại không đến, hay đến quá muộn. Trừ phi mục đích làm cho dân chúng khiếp sợ, kẻ giết người biết rất rõ Concarneau (quên không phân tích tàn thuốc lá trong hành lang).
2 - Sự việc rượu Pernod nhiễm độc: Về mùa đông quầy cà phê Amiral vắng vẻ hầu như cả ngày. Một người đàn ông biết rõ chi tiết ấy đã có thể đột nhập và rót thuốc độc vào các chai. Vậy là người ta đặc biệt nhằm vào những người uống Pernod và rượu táo (thế nhưng ghi nhận ràng người bác sĩ đã để ý kịp thời và dễ dàng thấy được những hạt bột trắng trong chất lỏng).
3 - Sự việc con chó vàng: Nó quen quầy cà phê Amiral. Nó có một người chủ. Nhưng ai? Có vẻ ít ra nó cũng đã năm tuổi.
4 - Sự việc Servières: Phát hiện bằng giám định chữ viết của người đã gửi bài báo đến tờ Hải Đăng Brest.
Maigret mỉm cười trả lại cuốn nhật ký cho người đồng nghiệp, buông thõng một câu:
- Rất tốt, chú bé ạ.
- Rồi bằng cái nhìn cáu kỉnh về phía những người hiếu kỳ mà ông không ngừng rời mắt qua những tấm kính màu lục nhạt.
- Chúng ta đi ăn nào.
Emma phải báo cho họ chậm lại một chút trong khi chỉ có họ ở trong phòng ăn với người khách buôn đến hồi sáng, còn bác sĩ Michoux do sức khỏe tồi tệ hơn đã yêu cầu được phục vụ bữa ăn nhẹ tại phòng.
------
Buổi chiều, quầy cà phê Amiral mà nền lát bằng những viên gạch vuông xanh lục, giống như một cái lồng của vườn cây, những người hiếu kỳ ăn mặc đẹp nối tiếp nhau lượn trước cái lồng ấy. Rồi sau đấy người ta thấy họ đi sâu vào cảng, nơi chiếc xe hơi của Servières là vật có sức hấp dẫn thứ nhì do hai người cảnh sát canh gác.
Ông thị trưởng từ ngôi biệt thự Cát trắng lộng lẫy của ông đã ba lần gọi điện thoại đến.
- Ông đã tiến hành việc bắt giữ chưa?
Thật khó cho Maigret khi phải trả lời câu hỏi ấy. Bọn người trẻ tuổi ấy từ mười tám đến hai mươi tràn vào quầy cà phê. Nhóm người ồn ào chiếm một chiếc bàn, gọi thức uống nhưng lại không dùng.
Chúng chỉ có mặt trong quầy cà phê chưa đến năm phút mà những lời đối đáp ngắt quãng, những tiếng cười đến vỡ bụng, những lời ngượng ngùng khó chịu nhường chỗ cho những lời phỉnh phờ. Rồi chúng lần lượt ra đi, đứa này sau đứa khác. Sự khác biệt ấy càng rõ rệt hơn khi người ta phải đốt đèn lên. Đã bốn giờ. Như thường lệ, đám đông tiếp tục đi lại.
Tối hôm ấy, lại vắng vẻ và im lặng như tờ. Dường như tất cả những người đi dạo thoả thuận với nhau. Trong thời gian lâu nhất là mười lăm phút các đường phố không có người, và khi những bước chân lại vang lên thì chính đây là những bước chân vội vàng của một người qua đường lo âu, nhanh chóng về nhà mình cho yên ổn.
Emma tì khuỷu tay lên két. Ông chủ khách sạn đi từ nhà bếp lên quầy cà phê, nơi Maigret vẫn khăng khăng không nghe những lời ca cẩm của ông.
Ernest Michoux mãi đến bốn giờ rưỡi mới xuống, vẫn đi đôi giầy păngtúp.
Râu của anh mọc tua tủa, chiếc khăn quàng bằng lụa màu kem đã vấy bẩn mồ hôi.
- Ông ở đấy à, ông cảnh sát trưởng?
Sự có mặt của ông có vẻ như làm cho anh yên tâm hơn.
- Thế người thanh tra của ông?
- Tôi đã cử anh ta đi một vòng trong thành phố.
- Con chó đâu rồi?
- Từ sáng đến giờ, không ai thấy nó đâu cả.
Sàn nhà xám xịt, mặt đá cẩm thạch của những chiếc bàn có một màu trắng bệch, vân xanh. Qua những ô kính người ta đoán thấy chiếc đồng hồ dạ quang của thành phố cổ chỉ năm giờ kém mười.
- Vẫn chưa biết người nào đã viết bài báo ấy chứ?
Tờ báo nằm trên bàn. Và cuối cùng người ta chỉ thấy có bốn chữ: "Sẽ đến lượt ai?"
Tiếng chuông điện thoại rung lên. Emma trả lời:
- Không ạ, chẳng có gì cả. Tôi chẳng biết gì cả.
- Ai đấy? - Maigret hỏi.
- Lại một toà báo ở Paris, có vẻ như các biên tập viên đến bằng xe ô tô.
Cô chưa trả lời xong thì chuông điện thoại lại reo.
- Điện thoại cửa ông đấy, ông cảnh sát trưởng ạ.
Người bác sĩ tái mặt, đưa mắt nhìn theo Maigret.
- A lô! Ai đấy?
- Leroy. Tôi đang trong thành phố cổ đây, gần chỗ dòng nước chảy qua.
Người ta đã bắn một phát súng. Một người thợ giầy đã nhìn qua cửa sổ thấy con chó vàng, thế là…
- Chết à?
- Bị thương! Vùng lưng bị toác. Con vật phải khó khăn lắm mới có thể lết được. Nhiều người không dám đến gần. Tôi từ một quán cà phê gọi cho ông đây. Con chó đang ở chính giữa đường phố. Tôi nhìn thấy nó qua cửa kính. Nó tru lên. Tôi phải làm như thế nào đây?
Giọng nói của viên thanh tra cố giữ bình tĩnh nhưng lai bộc lộ sự lo âu như thể con chó vàng bị thương ấy là một vật siêu nhiên.
- Có nhiều người đứng chật tất cả các khung cửa sổ. Ông cảnh sát trưởng, ông nói đi, có cần phải kết liễu nó không?
Người bác sĩ, nước da màu chì, đã đứng sau Maigret, rụt rè hỏi:
- Điều gì thế. Ông ấy nói gì?
Rồi người cánh sát trưởng nhìn Emma đang tì khuỷu tay lên mặt quầy, ánh mắt lơ đãng.
Maigret đi qua cầu rút, vượt qua tuyến thành luỹ vào một phố lổn nhổn, so le và thiếu ánh sáng.
Điều mà người dân Concarneau gọi là thành phố đóng kín có nghĩa là khu phố cổ còn bao bọc những bức thành, là một trong những phần đất đông dân nhất của thành phố.
Thế nhưng khi người cảnh sát trưởng bước lên trước, đi sâu vào một vùng ngoại ô nghèo, thầm lặng làm cho ông mỗi lúc một đáng ngờ. Ông như bị thôi miên hút vào cảnh tượng thầm lặng ấy của đám đông run lẩy, sợ hãi và thiếu nhẫn nại.
Vài giọng nói lạc lõng của những cậu thiếu niên có vẻ như bạo dạn hơn.
Lại đến một chỗ ngoặt và người cảnh sát trưởng thấy một hiện tượng lạ: từ những khung cửa sổ của các nhà sáng đèn dầu hoả có nhiều người nhìn ra con đường hẻm chật hẹp, ở đấy có một nhóm người tụ tập chắn mất lối đi và ở phía kia của một khoảng trống lớn vọng đến một tiếng rên nghe khá rõ.
Maigret rẽ những người đứng xem, hầu hết là những người trẻ tuổi. Bọn chúng lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông bước đến. Hai trong số đó còn thi nhau ném đá về phía con chó. Bạn bè của chúng muốn ngăn hành động của chúng lại.
Chúng nghe được hay ít ra là đoán được câu nói: - Coi chừng!
Thế là một tên ném đá mặt đỏ bừng đến lỗ tai khi Maigret đẩy hắn về bên trái và bước thẳng đến chỗ con chó bị thương. Sự im lặng đã trở lại. Dĩ nhiên trước đấy mấy phút một sự hăng say thiếu lành mạnh đã khích động những người xem, trừ một người đàn bà từ một khung cửa sổ hét lớn:
- Thật xấu hổ. Ông cảnh sát trưởng, ông phải lập biên bản đối với chúng đi.
Chúng đã bám riết con vật đáng thương ấy. Và tôi đã biết rõ tại sao lại thế. Bởi vì chúng nó sợ.
Người thợ giầy, kẻ bắn phát súng đã trở về, ngượng ngùng trong cửa hiệu của mình. Maigret cúi xuống, vuốt đầu con chó. Con chó nhìn ông với vẻ ngạc nhiên và cả biết ơn nữa. Viên thanh tra Leroy bước ra khỏi quán cà phê nơi anh đã gọi điện thoại. Nhiều người đã miễn cưỡng lánh xa.
- Yêu cầu đem đến một chiếc xe ba gác.
Những cánh cửa sổ lần lượt khép lại, nhưng người ta đoán rằng có những bóng dáng tò mò còn ở sau những tấm vải che. Con chó lấm bẩn, lông nó rậm và vấy máu, bụng của nó bết bùn, mũi khô và nóng bỏng. Bây giờ người ta đang săn sóc nó; nó hồi phục lại lòng tin, không còn phải cố gắng lết trên đất, nơi còn hai chục hòn cuội lớn vây xung quanh nó.
- Cần phải đem nó đi đâu, ông cảnh sát trưởng?
- Về khách sạn. Nhẹ nhàng thôi. Anh đặt nó trên rơm trong xe ba gác.
Đoàn người hộ tống trông đến nực cười. Thật xúc động bởi ma lực của mối kinh hoàng mà từ sáng đến giờ nó không ngừng cộm lên. Chiếc be ba gác do một ông già đẩy, nhảy lộc cộc trên đá lát dọc theo đường phố có nhiều đoạn ngoặt, vượt qua câu rút và chẳng ai dám đi theo. Con chó vàng thở mạnh, duỗi thẳng cả bốn chân ra trong một cơn co giật.
Maigret để ý đến một chiếc xe hơi mà ông chưa từng thấy vừa đỗ lại trước khách sạn Amiral. Khi ông đẩy cánh cửa của quầy cà phê thì nhận thấy không khí đã thay đổi.
Một người đàn ông xô vào ông, trông thấy con chó mà người ta đang nâng nó lên, chĩa máy ảnh vào nó bấm lia lịa. Một người khác mặc quần chẽn gối, áo săng đay đỏ, cầm cuốn sổ, đưa bàn tay lên chiếc mũ lưỡi trai.
- Chào ông! Ông cảnh sát trưởng Maigret phải không ạ? Vasco của báo… Tôi đến đúng lúc mà được may mắn gặp ông…
Ông chỉ Michoux ngồi trong một góc, dựa lưng vào chiếc ghế dài có nệm giả da.
- Chiếc xe con người Paris nhỏ đuổi theo chúng tôi. Nó bị hỏng cách đây mười kilômét.
Emma hỏi ông cảnh sát trưởng:
- Ông định cho người ta để nó ở đâu?
- Không có chỗ cho nó trong nhà à?
- Vâng, gần chỗ sân, nơi người ta trữ vỏ chai.
- Leroy! Anh hãy gọi điện cho một bác sĩ thú y.
Bấy giờ người nhiếp ảnh mặc áo Trench-coat nhờ nhờ trắng đẩy bàn ghế ra và kêu lên:
- Chờ một lát. Yêu cầu đừng động đậy. Hay quay giúp cái đầu con chó về phía này.
Rồi máy ảnh chớp sáng.
Maigret quay về phía người bác sĩ hỏi:
- Le Pommeret đâu?
Ông ấy ra khỏi nhà sau khi ông đi được một lát. Ông thị trưởng còn gọi điện thoại nữa. Tôi nghĩ là ông ấy sẽ đi tới.
------
Đến chín giờ tối, ở đấy như một kiểu tổng hành dinh. Hai phóng viên mới đã đến. Một người đang thảo bài báo ở chiếc bàn trong cùng. Thỉnh thoảng một phóng viên nhiếp ảnh ra khỏi phòng.
- Ông không có cồn chín mươi độ à? Tôi cần có một ít để sấy phim. Con chó thật phi thường. Ông nói là có một hiệu thuốc bên cạnh à? Đóng cửa rồi ư?
- Chẳng sao.
Trong hành lang, nơi đặt máy điện thoại, một nhà báo đọc bản thảo của mình qua ống nói cho ai đấy giọng hơi run run.
- Maigret, đúng. M như của chữ Maurice. A như của Arthur. Đúng T như
Isidore. Anh hay ghi tất cả các tên cùng một lúc… Michoux…M… I…Choux, như chữ chou…Như chou của Bruxelle. Mà không, không như pou đâu. Hay chờ một tí, tôi sẽ cho anh các đầu đề. Cái ấy sẽ chuyển vào trang một chứ.
Được! Anh hãy nói với ông chủ là cần phải để ở trang đầu.
Thanh tra Leroy hoang mang, không ngừng đưa mắt tìm kiếm Maigret như để bám chặt vào ông.
Trong một góc, người khách buôn độc nhất chuẩn bị cuộc hành trình vào ngày hôm sau nhờ vào tập thương mại kỹ nghệ niên giám. Thỉnh thoảng ông gọi Emma.
- Chauffier đấy là một cửa hàng ngũ kim quan trọng chứ? Cảm ơn.
Người bác sĩ thú y đa gắp được viên đạn ra và băng bó phần thân sau cho con chó.
- Những con vật ấy, chúng có cuộc sống đến là gay go!
Người ta đã trải một tấm chăn cũ lên trên rơm rạ trong một góc lát đá hoa cương xanh, vừa thông ra sân vừa nhìn ra cầu thang xuống hầm rượu. Con chó đã nằm ra đấy, hoàn toàn cô độc, cách nó mười mét có một miếng thịt mà nó không hề màng tới.
Ông thị trưởng đã đến bằng xe hơi. Một ông già có chòm râu trắng ăn mặc chải chuốt với những cử chỉ cứng đờ. Ông chau mày bước vào khu vực của đội vệ binh này, hay đúng hơn là của đại đội cảnh sát trung tâm.
- Các ông này là ai?
- Các nhà báo ở Paris.
Ông thị trưởng sắp nổi khùng.
- Đẹp thật. Đến ngày mai thì tất cả ước Pháp, người ta sẽ nói đến chuyện ngớ ngẩn này! Các anh vẫn không tìm thấy gì cả à?
- Cuộc điều tra đang tiếp tục! - Maigret cằn nhằn, vẫn bằng cái giọng của ông khi ông tuyên bố:
- Điều ấy không ảnh hưởng gì đến ngài!
Vì dễ cáu bẳn nên thái độ ai nấy đều biểu hiện sự bực dọc.
- Còn ông, ông Michoux, ông không về nhà à?
Ánh mắt của ông thị trưởng khinh khỉnh, buộc tội sự hèn nhát của người bác sĩ.
- Cứ theo chiều hướng ấy thì đấy là sự hoảng sợ chung trong suốt hai mươi tiếng đồng hồ. Điều nhất thiết như tôi đã nói, chính là một sự bắt giữ bất kể cuộc bắt giữ ấy như thế nào.
Rồi ông nhấn mạnh những lời vừa rồi với ánh mắt nhìn về phía Emma.
- Tôi biết là tôi không có lệnh cho ông. Còn về cơ quan cảnh sát địa phương, ông chỉ nên để cho họ một vai trò không đáng kể. Nhưng tôi nói với ông điều này: chỉ một thảm kịch, một thảm kịch thôi thì điều ấy sẽ là thảm hoạ. Nhiều người trông chờ vào điều ấy. Những ngày chủ nhật khác, các quán hàng đều mở cửa cho đến chín giờ thì nay các cánh cửa đều đóng kín. Bài báo ngớ ngẩn ấy của tờ Hải Đăng Brest đã làm cho dân chúng lo sợ.
Ông thị trưởng không nhấc chiếc mũ qua dưa ra khỏi đầu mà còn kéo sụp nó xuống thấp hơn rồi bỏ đi sau khi đã nhắc nhở:
- Ông cảnh sát trưởng, tôi buộc lòng báo cho ông biết…Và tôi nhắc lại với ông rằng tất cả những gì xảy ra trong lúc này là thuộc về trách nhiệm của ông.
Maigret gọi.
- Một cốc nửa lít, Emma!
Người ta không thể ngăn cản các nhà báo xuống khách sạn Amiral cũng như vào quầy cà phê, gọi điện thoại, bàn cãi ầm ĩ. Họ đòi mực, đòi giấy. Họ chất vấn Emma làm cho cô thêm hốt hoảng, đáng thương.
Bên ngoài, trời đã tối đen. Luồng ánh sang yếu ớt của mặt trăng đã bị đám mây dày cản trở. Rồi các thứ bùn quánh này dính vào tất cả giầy dép vì
Concarneau chưa hề biết đến những đường phố lát gạch.
Maigret thốt lên với Michoux:
- Le Pommeret đã nói với anh là sẽ trở lại phải không?
- Vâng. Anh ấy về dùng bữa tối ở nhà.
- Địa chỉ ở đâu? - một nhà báo hỏi khi thấy mình không có gì để làm nữa.
Người bác sĩ nói cho nhà báo biết chỗ ở của Le Pommeret, trong khi ông cảnh sát trưởng chỉ biết nhún vai và kéo Leroy vào một góc.
- Anh có nguyên bản của bài báo ra sang nay không?
- Tôi cũng vừa nhận được. Nó đang ở trong phòng tôi. Bài báo vết bằng tay trái do một người nào đấy sợ người ta nhận ra mặt chữ của mình.
- Không có dấu của bưu điện à?
- Không. Bài được ném vào trong thùng báo toà soạn. Ngoài phong bì có lời ghi chú: "cực kỳ khẩn cấp".
- Mãi đến tám giờ sáng thì một người nào đấy mới biết được sự mất tích của Jean Servières, biết được chiếc ô tô đã hoặc có thể bị bỏ lại gần sông Saint-
Jacques, và người ta nhận thấy có những vết máu trên đệm ngồi. Và thêm vào đấy là người ấy không biết rằng nguời ta còn phát hiện được nơi nào đấy những dấu vết của người lạ mặt có đôi bàn chân rất lớn.
- Thật khó tin - Viên thanh tra thở dài. Còn về những dấu vết, tôi đã gửi đến cơ quan nghiên cứu vết tích bằng ảnh truyền xa. Họ đã tham khảo các hồ sơ. Tôi đã được trả lời: chúng không tương ứng với một đặc điểm nào của kẻ gian.
Không có gì phải nhầm lẫn. Leroy để cho sự sợ hãi xung quanh chinh phục.
Nhưng người bị đầu độc nhất về tư tưởng bởi mầm độc hại, nếu người ta có thể nói được thì chính đó là Ernest Michoux mà bong dáng càng lu mờ vì nó đối lập với bộ quần áo thể thao, nhưng điệu bộ thư thái và sự tự tin của các nhà báo.
Anh ta không biết phải bắt đầu từ đâu. Maigret hỏi anh ta:
- Anh chưa đi ngủ à?
- Chưa. Tôi không bao giờ ngủ trước một giờ sáng.
Anh ta cố gắng hé một nụ cười ngượng nghịu, để lộ ra hai chiếc răng vàng.
- Thực ra thì anh đang nghĩ gì?
Chiếc đồng hồ dạ quang của thành phố cổ điểm mười tiếng. Người ta gọi ông cảnh sát trưởng đến nghe điện thoại. Đấy là ông thị trưởng.
- Có còn gì nữa không?
Không biết ông ấy còn chờ gì, một thảm kịch chăng?
Nhưng xét cho cùng, chính Maigret không chờ như vậy. Với cái trán bướng bỉnh, ông đến xem con chó vàng đang thiu thiu ngủ. Nó không sợ, mở một mắt ra nhìn ông đang đi đến. Ông cảnh sát trưởng vuốt ve đầu nó, đẩy thêm một ít rạ đến dưới chân nó.
Ông nhác thấy người chủ khách sạn sau lưng ông.
- Ông nghĩ là mấy ông nhà báo ấy ở lại lâu à? Vì trong trường hợp này tôi cần phải nghĩ đến việc dự trữ thức ăn. Chính ngày mai lúc sáu giờ có phiên chợ.
Khi người ta chưa quen biết Maigret, thì trong trường hợp như thế thật hoang mang nếu nhìn thấy đôi mắt trợn trừng của ông nhìn xoáy vào trán anh mà như không trông thấy anh, rồi nghe ông lẩm nhẩm điều gì khó hiểu trong khi ông rời xa ra với vẻ ít quan tâm đến anh.
Người phóng viên của tờ Petit Parisien trở về, rũ chiếc áo vải dầu đầm đìa nước.
- Này! Mưa à? Sao, có gì mới không? Groslin?
Một tia sang long lanh trong con ngươi của chàng trai; anh nói nhỏ nhẹ vài lời với người nhiếp ảnh đi theo anh, rồi nhấc ống nghe của máy điện thoại:
- Petit Parisien, cô… Trụ sở báo… Ưu tiên đấy nhá! Sao? Cô nối trực tiếp với Paris được chứ? Nào, cô cho nhanh lên … Alô… A lô… Báo Petit Parisien đấy à?, Cô Germaine phải không? Chuyển cho tôi người ghi tốc ký của cơ quan. Đây, Groslin đây!
Giọng nói của anh có vẻ như sốt ruột. Còn ánh mắt của anh dường như thách thức các đồng nghiệp đang nghe anh nói.
- Alô! Cô phải không, cô Jeanne? Nhanh lên nhé! Đang còn thì giờ cho vài tờ báo của tỉnh. Những bài khác phải dành cho tờ báo ở Paris. Cô phải nói với thư ký của toà soạn là thảo bài báo đi. Tôi không có thì giờ. Sự việc của Concarneau. Nhưng dự kiến của chúng tôi là chính xác. Vụ ám sát mới…Alô! Đúng, vụ ám sát!… Một người đàn ông bị giết, nếu cô muốn, thì tốt hơn là…
Tất cả mọi người im lặng. Người bác sĩ bị thôi miên đến gần nhà báo đang tiếp tục công việc một cách hăng say, đắc thắng và giậm chân suốt ruột
- Sau ông Mostaguen, sau nhà báo Jean Servière thì ông Le Pommeret!.Đúng, tôi đã đọc cho cô hồi nãy. Ông ấy vừa được tìm thấy, đã chết trong phòng của nhà ông ấy! Không có vết thương, Các cơ đã cứng lại nên hoàn toàn có thể tin là bị trúng độc. Cô hãy chờ… Cô hãy kết thúc bằng: "sự khiếp sợ bao trùm … " .Đúng! Cô hay chạy đến gặp thư ký toà soạn. Lát nữa tôi sẽ đọc cho cô một bài báo cho các báo xuất bản Paris, nhưng tin tức phải qua các tờ báo tỉnh.
Anh móc ống nghe lên, thấm mồ hôi, ném ra xung quanh một cái nhìn hớn hở.
Điện thoại lại hoạt động.
- Alô! Ông cảnh sát trưởng à? Đã mười lăm phút chúng tôi cố gắng để gọi cho ông. Đây, nhà của ông Le Pommeret. Nhanh lên. Ông ấy đã chết.
Rồi giọng nói nhắc lại trong một tiếng rú:
- Chết…
Maigret nhìn ra xung quanh. Trên các bàn có những chiếc cốc không. Emma mặt cắt không ra máu, mắt nhìn theo người cảnh sát trưởng
- Yêu cầu không để ai sờ vào một cái cốc cũng như cái chai nào! Anh nghe không Leroy? Từ bây giờ, anh không được động đậy.
Người bác sĩ, trán đẫm mồ hôi, đã giật chiếc khăn quàng ra để lộ cái cổ gầy, chiếc áo sơ mi còn được giữ lại bằng một cái khuy cổ kiểu cần gạt.
Khi Maigret đến căn hộ của Le Pommeret, một người thày thuốc ở ngôi nhà bên cạnh đã bước đầu khám nghiệm tử thi.
Ở đấy có một người đàn bà độ năm mươi tuổi, bà chủ của ngôi nhà, là người đã gọi điện thoại cho ông.
Một ngôi nhà đẹp bằng đá xám, nhìn ra biển. Rồi suốt hai mươi giây đồng hồ, chùm sáng của ngọn hải đăng làm rực đỏ các cửa sổ.
Một bao lơn. Một cán cờ và một phù hiệu quân sự của Đan Mạch.
Xác chết nằm duổi ra trên một tấm thảm đỏ nhạt trong căn phòng nhỏ ngổn ngang những đồ mỹ nghệ không có giá trị. Trên tường, những bức ảnh nữ điệp viên, bức vẽ cắt từ những tờ báo phong nhã và lồng dưới kính, vài ba bức có đề tặng của đàn bà.
Le Pommeret mặc chiếc áo sơ mi bị giật rách. Đôi giầy của anh dính đầy bùn nặng trĩu.
- Strychine! - Người thày thuốc nói - ít ra tôi cũng thề đúng như thế. Ông hãy nhìn đôi mắt của ông ấy. Và nhất là ông nhận thấy xác bị cứng đơ… Sự hấp hối đã kéo dài đến nửa tiếng đồng hồ. Có thể là hơn…
- Bà ở chỗ nào? - Maigret hỏi người cho thuê nhà.
- Ở dưới. Tôi cho ông Le Pommeret thuê toàn bộ lầu một. Ông ấy ăn tại nhà tôi. Mãi đến tám giờ ông mới về đùng bữa tối. Ông ấy hầu như không ăn gì. Tôi nhớ 1à ông ấy đã cho rằng điện bị trục trặc trong khi ấy những ngọn đèn sang không được bình thường. Ông ấy có nói với tôi là ông sẽ lại ra ngoài, nhưng trước tiên, ông ấy dùng một viên Asperine bởi vì ông váng đầu.
Ông cảnh sát trưởng nhìn người bác sĩ bằng con mắt dò hỏi.
- Đúng như vậy! Nhưng triệu chứng đầu tiên…
- Những ai có ý kiến sau bao nhiêu thời gian thì thuốc độc ngấm?
- Điều ấy tuỳ thuộc liều lưọng và thể trạng của từng người. Đôi khi chỉ nửa giờ đồng hồ. Nhiều khi là hai giờ.
- Thế cái chết?
- Chỉ bất thần xảy ra tiếp theo sau cơn tê liệt toàn thân. Nhưng trước đây có những tê liệt cục bộ. Như vậy có khả năng là ông ấy đã cố gắng gọi. Ông ấy nằm trên chiếc, đi-văng này.
Chính chiếc đi-văng có giá trị như nơi trú ngụ của Le Pommeret. Những tranh khắc duyên dáng nhiều hơn nơi khác xung quanh chiếc đi-văng. Một ngọn đèn ngủ để lọt ra một ánh dáng hồng.
- Ông ấy đã giãy giụa như trong một cơn mê sản động kinh do rượu. Cái chết đã quật ông xuống đất.
Maigret bước đến tận cánh cửa mà một người chụp ảnh định vượt qua, đóng sập cửa lại. Ông thấp giọng nhẩm tính:
- Le Pommeret đã rời tiệm cà phê Amiral lúc gần bảy giờ. Ông ấy đã uống một ít rượu trắng. Ở đây mười lăm phút sau, ông ấy đã ăn và uống. Theo những gì mà ông nói với tôi về tác dụng của Strychine thì ông ta đã có thể hoàn toàn uống thuốc độc dưới ấy cũng như ở đây.
Bất thình lình Maigret đến tầng trệt, nơi bà chủ nhà cho thuê phòng đang khóc, có ba bà hàng xóm ngồi vây quanh.
- Các cốc đĩa của bữa cơm tối đâu?
Trong một lát, bà không hiểu. Rồi khi bà ta định trả lời thì ông đã nhìn thấy trong nhà bếp có một chậu nước còn nóng, những chiếc đĩa sạch bên phải, những chiếc bẩn ở bên trái và cả những chiếc cốc nữa.
- Tôi đang bận rửa bát đĩa thì…
Một người cảnh sát đến. Maigret nói:
- Anh canh gác ngôi nhà. Bảo tất cả mọi người ra ngoài, trừ bà chủ không có một nhà báo nào, không để cho ai sờ mó vào một cái cốc hay một cái đĩa.
Phải chạy đến năm trăm mét trong cơn lốc để trở lại khách sạn. Thành phố nằm trong bóng tối. Chỉ có hai, ba khung cửa sổ, cái nọ cách cái kia một quãng xa là còn ánh sáng. Trái lại trên bãi ở góc bến cảng, ba lỗ cửa màu lục nhạt của khách sạn Amiral là còn ánh đèn sáng trưng, nhưng vì những kính ghép màu nên chúng gây cho người ta có cảm giác như một cái bể nuôi cá kỳ lạ. Khi đến gần, người ta nhận thấy những tiếng nói ồn ào, tiếng reo của máy điện thoại, tiếng rù rù của một chiếc xe con đang nổ máy.
Maigret hỏi một nhà báo:
- Anh đi đâu?
- Đường dây điện thoại đang bận. Tôi đi gọi điện nơi khác. Trong mười phút nữa thì sẽ quá chậm cho bản in của tôi ở Paris.
Viên thanh tra Leroy đứng trong quầy cà phê có vẻ như một viên giám thị đang coi thi. Một người nào đấy không ngừng ghi chép. Người khách buôn ngơ ngác, nhưng ông lại say mê môi trường mới này.
Tất cả những chiếc cốc đều nằm lại trên bàn. Có những chiếc ly có chân đựng rượu khai vị, những chiếc cốc nửa lít dính nhiều bọt, những chiếc cốc nhỏ đựng rượu mùi.
- Người ta thu dọn bàn lúc mấy giờ?
Emma lục tìm trong trí nhớ của mình.
- Tôi không thể nào nói được. Có những chiếc cốc mà tôi đã lần lượt cất đi.
Những chiếc khác đã ở đấy từ chiều…
- Chiếc cốc của ông Pommeret đâu?Ông ấy đã uống gì, ông Michoux?
Ông bác sĩ trả lời:
- Rượu trắng pha nước lọc.
Cô hầu phòng lần lượt nhìn những chiếc đĩa kê.
- Sáu phơ-răng. Nhưng tôi đã phục vụ một ly Whisky cho một trong các ông ấy và cũng giá tiền như thế. Có lẽ là chiếc ly này chăng? Có thể là không phải…
- Anh hãy tìm cho tôi người dược sĩ - Ông cảnh sát trưởng nói với Leroy.
Người ta mang tất cả những thứ ấy từ trong nhà của phó lãnh sự Đan Mạch ra. Các phóng viên vào trong phòng xét nghiệm của người dược sĩ như vào nhà của họ và trong số ấy có một sinh viên y khoa cũng tham gia vào việc phân tích.
Qua điện thoại ông thị trưởng buộc lòng buông lỏng một câu bằng giọng rất xẵng:
- … Tất cả là trách nhiệm của các ông.
Người ta chẳng tìm thấy gì cả. Bỗng ông chủ khách sạn xuất hiện và nói:
- Không biết người ta đã làm gì với con chó?
Cái xó mà người ta cho con chó nằm trên rơm rạ đã trống không, Con chó vàng được băng bó chặt phần thân sau không có khả năng bước được, ngay cả kéo lết cung không nổi, thế mà nó đã biến mất.
Những chiếc cốc không biểu lộ được điều gì cả.
- Cốc của ông Le Pommeret có lẽ đã được rửa sạch. Tôi không còn nhớ gì nữa trong lúc thu dọn đống cốc chén này - Emma nói.
Tại nhà của bà cho thuê phòng cũng vậy, phân nửa chén đĩa cũng đã nhúng qua nước nóng.
Ernest Michoux, nước da nhợt nhạt, lo lắng về sự biến mất của con chó.
- Người ta đã tìm kiếm khắp sân. Có một lối ra bến cảng, một kiểu ngõ cụt.
Cần phải cho bịt cái cửa lại, ông cảnh sát trưởng ạ. Nếu không… Ông nghĩ là người ta có thể vào đây được mà không ai nhìn thấy và có thể lại ra đi với con chó ấy trên tay!
Hình như Michoux không dám rời khỏi chỗ trong cùng của gian phòng, anh ta cũng ngồi xa các cửa ra vào chừng nào hay chừng ấy.
Đã tám giờ sáng, Maigret không ngủ được đã đi tắm và cạo xong râu trước một chiếc gương treo ở then móc cửa sổ.
Trời lạnh hơn những ngày trước đấy. Mưa âm u tựa như tuyết tan. Một phóng viên ở dưới nóng lòng chờ đợi nhật báo của Paris. Người ta đã nghe tiếng còi tàu lúc bảy giờ rưỡi. Trong vài khắc nữa sẽ có người mang các ấn phẩm đặc biệt đến.
Dưới con mắt tinh tường của người cảnh sát trưởng, bãi rộng ngổn ngang bởi phiên chợ hàng tuần. Nhưng người ta có thể phỏng chừng phiên chợ này không có sự náo nhiệt thông thường của nó. Người ta không nói to. Nông dân dường như lo lắng về những tin tức mà họ biết được. Trên nền đắp cao có đến năm mươi sạp hang với những tảng bơ, những rổ trứng, rau quả, những dải đeo quần và những đôi tất dài bằng lụa. Bên phải, những cỗ xe bò đủ kiểu đổ kềnh càng, còn thì tất cả đều chuyểng động nhẹ nhàng như lướt đi của những chiếc khăn trùm đầu đủ loại.
Maigret nhận thấy toàn thể phiên chợ thay đổi trạng thái, khác hẳn mọi lần.
Nhiều người đã dồn đống, ùa lại nhìn vào một hướng nhất định. Các cửa sổ đóng kín. Ông không nghe thấy tiếng ồn ào hay đúng hơn là tiếng xì xào khó phân biệt dội đến chỗ ông.
Ông đưa mắt tìm kiếm xa hơn. Ngoài cảng, vài người đánh cá chất những chiếc sọt không và những tấm lưới lên thuyền. Nhưng thình lình họ đứng yên thành hàng rào khi hai nhân viên cảnh sát của thành phố giải một người tù đến toà thị chính. Một trong hai người cảnh sát rất trẻ, chưa có râu. Khuôn mặt của anh ta trông thật ngây ngô. Người kia có bộ râu mép hung hung và cặp lông mày rậm tạo cho anh có một vẻ gai ngạnh.
Ở chợ, những cuộc bàn cãi đã dừng. Người ta nhìn ba người đàn ông đang đi đến. Họ chỉ trỏ cho nhau những chiếc còng tay của tên tội phạm. Một tên khổng lồ. Hắn bước đi, chúi người về phía trước làm cho đôi vai của hắn có vẻ rộng gấp đôi. Hắn lê bước trong bùn giống như đang kéo hai ngời nhân viên đi theo hắn.
Hắn mặc một áo véc cũ xoàng xĩnh, đầu để trần, tóc dày, cắt ngắn và nâu sẫm.
Một nhà báo chạy trong cầu thang, giật cánh cửa, gọi người nhiếp ảnh đang ngủ.
- Bénoit! Bénoit! Nhanh lên, dày đi. Một bản âm rất cừ.
Anh ta không ngờ lại như thế. Vì trong khi Maigret đang lau những vệt xà phòng trên má và tìm chiếc áo khoác, mắt không rời bãi chợ thì đã xảy ra một sự việc thật sự lạ thường.
Đám đông nhanh chóng vây quanh các viên chức và người tù. Bất thình lình tên tù, chắc là đã chờ cơ hội từ lâu bổng giật mạnh, tung ra những cú đấm choáng váng bằng hai nắm tay rắn chắc.
Từ xa, ông cảnh sát trưởng thấy những mẩu xích thảm hại sót lại lủng lẳng ở bàn tay của hai nhân viên cảnh sát. Còn người đàn ông thì lao vào đám đông.
Một người đàn bà lăn ra đất. Mọi người chạy túa ra. Ai cũng sững sờ, trừ tên tù đã nhảy vào một ngõ cụt cách khách sạn Amiral hai mươi mét ngay gần ngôi nhà bỏ không mà một viên đạn sung ngắn từ thùng thư đã bắn ra ngày thứ sáu trước đây.
Một cảnh sát - người trẻ nhất - định bắn, nhưng do dự, bắt đầu đuổi theo, tay vẫn cầm vũ khí. Maigret đã chờ đợi việc bất trắc có thể xảy ra. Một lán che bằng gỗ đã sập xuống dưới sự xô đẩy của những kẻ chạy trốn và cái mái bằng vải của nó đã ụp xuống những tảng bơ.
Người nhân viên cảnh sát trẻ một mình, can đảm nhào vào ngỏ cụt. Maigret đã biết các đường ngang ngỏ dọc; ông mặc xong quần áo, không hề vội vàng.
Con đường hẹp, bề ngang độ hai mét hình thành hai khuỷu của một góc vuông. Hai mươi ngôi nhà quay mặt về phía bến cảng hay ra bãi chợ có một lối ra ngõ cụt. Và còn có những láng hàng, những nhà kho của một người buôn thừng, chão cùng những mặt hang phục vụ cho thuyền bè, một kho vỏ đồ hộp.
Toàn bộ là một mớ hỗn độn những công trình không theo một quy củ nào; những ngóc, ngách và xó xỉnh, những nóc nhà dễ ẩn náu làm cho việc truy đuổi rất khó khăn.
Đám đông, bây giờ đứng cách xa. Người đàn bà lúc này bị hất ngã, đỏ mặt và phẫn nộ, giơ nắm tay về mọi hướng, nước mắt chảy dài xuống tận cằm.
Người nhiếp ảnh ra khỏi khách sạn đi chân trần, khoác chiếc áo đi mưa ra ngoài bộ pi-gia-ma.
------
Nửa giờ sau ông thị trưởng đến, sau viên đội phó mật thám một chút. Những người có nhiệm vụ bắt tay vào lục soát những ngôi nhà lân cận.
Vừa tìm thấy Maigret ngồi ở bàn trong của quầy cà phê cùng với viên cảnh sát trẻ đang ăn những lát bánh mì nướng, vị quan viên đứng đầu thành phố giận run lên.
- Ông cảnh sát trưởng, tôi đã báo cho ông là tôi giao trách nhiệm cho ông là… là… Nhưng điều ấy có lẽ không làm cho ông quan tâm. Lát nữa tôi sẽ gửi một bức điện cho ông Bộ trưởng Nội vụ để báo rằng… rằng… và đề nghị Bộ… Nhưng ông đã thấy điều gì xảy ra ngoài ấy chưa? Nhiều người lánh xa ngôi nhà của mình. Một ông già bại liệt hét lên kinh hãi vì ông ấy phải bất động trên lầu hai… Người ta nghĩ đâu đâu cũng gặp phải tên cướp.
Maigret quay người lại, thấy Ernest Michoux như một đứa bé sợ sệt cố đứng gần ông chừng nào hay chừng ấy, không thể rời đi đâu khác.
- Ông có nhận thấy đấy là cảnh sát địa phương, tức là những nhân viên cảnh sát bình thường đã bắt được hắn trong khi…
- Ông vẫn tin vào điều mà tôi tiến hành một vụ bắt giữ à?
- Ông muốn nói như thế nào? Ông chắc chắn là ông sẽ bắt được tên chạy trốn chứ?
- Hôm qua ông đã yêu cầu tôi tiến hành một vụ bắt giữ, bất cứ vụ bắt giữ
ấy…
Các nhà báo đang ở ngoài khách sạn. Quầy cà phê đã hầu như vắng người, lộn xộn, bừa bãi vì người ta không có thì giờ để dọn dẹp, quét tước. Một mùi hăng hắc của thuốc lá tưng tức ngang cổ họng. Người ta dẫm lên những mẩu thuốc lá, nhưng bải đờm, mạt cưa và những mảnh cốc vỡ.
Người cảnh sát trưởng rút trong ví ra một lệnh bắt giam khống chỉ.
- Xin ông cho ý kiến, thưa ông thị trưởng, để tôi …
- Tôi rất tò mò muốn biết ông định bắt giử người nào đây…
- Emma! Bút mực đây, xin ông vui lòng.
Maigret rít từng hơi ngắn tẩu thuốc của ông, hy vọng được đồng ý. Ông nghe ông thị trưởng nói lầm bầm:
- Dối trá!
Nhưng ông không hề bối rối, điền vào chỗ trống bằng nét đậm theo thói quen những từ sau đây: Ernest Michoux, quản lý Hội bất động sản Cát Trắng.
Điều ấy buồn cười hơn là bi thảm; Ông thị trưởng đọc ngược dòng chữ trên.
Maigret nói:
- Thế đấy! Chính vì ông đồng ý, tôi bắt ông bác sĩ.
Người bác sĩ nhìn hai viên quan chức, nở một nụ cười gượng gạo như để đáp lại lời đùa cợt. Nhưng ông cảnh sát trưởng quan sát thấy Emma bước đến gần cái két và đột nhiên quay lại, ít xanh xào hơn thường ngày. Cô đã không thể kìm nén được cái rung mình, mừng rỡ.
- Ông cảnh sát trưởng tôi nghĩ là ông biết được tính nghiêm trọng của…
- Đấy là nghề nghiệp của tôi, thưa ông thị trưởng.
- Và tất cả những gì ông phải làm sau việc vừa xảy ra, đấy là bắt giữ một trong những người bạn của tôi, một người tâm đắc của tôi, đúng hơn là, tóm lại là một trong những người danh vọng của Concarneau, một người …
- Ông có một nhà giam thoải mái đủ tiện nghi không?
Trong lúc này, Michoux dường như chỉ bận tâm bởi cái khó khăn là nuốt nước bọt.
Trừ cái bót của cảnh sát ra, ở toà thị chính thì chỉ có trại mật thám, trong thành phố cổ.
Thanh tra Leroy vừa vào. Anh thở không ra hơi khi Maigret nói với anh rất tự nhiên:
- Này anh bạn thân mến! Anh sẽ vui lòng áp giải ông bác sĩ đến trại mật thám. Phải thận trọng, không cần thiết xích tay ông ta, Anh tống giam ông ta phải hết sức chăm lo, đừng để ông ta thiếu thốn gì cả.
Người bác sĩ ấp úng:
- Thật là điên rồ hết chỗ nói. Tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi… Thật lạ lùng!… Thật bỉ ổi!
- Tất nhiên! - Maigret lẩm bẩm.
Rồi quay về phía ông thị trưởng:
- Tôi không phản đối việc người ta tiếp tục truy tìm tên du đãng của ông.
Như thế là lừa phỉnh dân chúng . Biết đâu cũng có ích … Nhưng ông đừng quá quan trọng hoá vào người bị bắt. Ông nên làm cho mọi người yên tâm.
- Ông có biết rằng sáng nay khi bắt hắn, người ta đã thấy hắn cầm một con dao sẳn sàng gây án không.
- Điều ấy không thể có.
Maigret bắt đầu sốt ruột. Ông đứng thẳng lên, khoác chiếc áo pác-đờ-xuy nặng nề, cổ lót nhung, dung ống tay áo phủi phủi chiếc mũ quả dưa của mình.
- Xin hẹn gặp lại ông, thưa ông thị trưởng. Tôi sẽ báo lại cho ông biết. À tôi còn một lời khuyên: Đừng để cho người ta kể quá nhiều chuyện với các nhà báo. Thực ra, trong toàn bộ việc này, nêu cần thiết mới phải lưu tâm đến việc nhỏ nhặt… ông nhất trí chứ?
Viên cảnh sát trẻ đưa mắt nhìn ông thị trưởng có vẻ như ngầm nói rằng: Xin lỗi ông, nhưng tôi buộc phải nghe theo ông ấy. Anh ta ngại ngần bước xung quanh người bác sĩ như một người do dự trước một gánh nặng cồng kềnh.
Người ta trông thấy Maigret vỗ vào má Emma khi ông đi qua, rồi bước qua bãi chợ, không quan tâm đến sự tò mò của nhiều người.
- Đúng chỗ này chứ?
- Đúng, cần phải đi vòng qua vũng. Chúng ta phải mất đến nửa giờ đấy.
Những người đánh cá không đến nổi hoang mang như cư dân trong thành phố bởi cái thảm kịch diễn ra xung quanh quầy cà phê của khách sạn Amiral, nên có một chục con thuyền lợi dụng sự bình yên tương đối để chèo đến tận lối ra cảng hứng gió.
Viên cảnh sát trẻ phóng ánh mắt ân cần của một cậu học trò tiểu học về phía Maigret như đề làm vừa lòng người thầy của mình:
- Ông biết đấy… Ông thị trưởng và tay bác sĩ cùng chơi bời với nhau ít ra là mỗi tuần hai lần. Việc này ắt phải gây cho ông ta một vố…
- Những người trong vùng kể lại như thế nào…
- Điều ấy còn tuỳ thuộc ở nhiều người, dân nghèo, thợ thuyền, những người đánh cá không quá xúc động. Và hầu như họ hài lòng về việc này, vì tay bác sĩ, ông Le Pommeret và ông Servières, tiếng tăm không được tốt cho lắm. Dĩ nhiên là… người ta không dám nói gì về các ông ấy. Tuy nhiên các ông ấy cũng hơi lạm dụng, lừa phỉnh làm hư hỏng tất cả những cô bé của các nhà máy. Mùa hè, họ cùng với bạn bè ở Paris, điều ấy còn tệ hại hơn. Họ nhậu nhẹt, làm ầm ĩ phố xá đến hai giờ sáng như thể thành phố là của riêng họ… Chúng tôi thường nhận được những lời than phiền. Nhất là những ai có liên quan đến ông Le Pommeret khi ông không thể nào nhìn thấy một chiếc váy mặc trong mà không lồng lộn lên. Thật là buồn phải nói rằng… Nhưng các nhà máy ít làm việc, ở đấy thất nghiệp… Thế là, với đồng tiền… , tất cả những cô gái ấy…
- Trong trường hợp ấy ai là kẻ bị lay chuyển?
- Những người khác! Những kẻ phàm tục! và các nhà buôn có quan hệ với nhóm ở quầy cà phê Amiral. Đấy như là trung tâm của thành phố, phải không? Ngay như ông thị trưởng cũng đã đến đấy.
Người cảnh sát cảm động về sự ân cần mà Maigret đã quan tâm, chú ý đến anh.
- Chúng ta đang ở đâu?
- Chúng ta vừa rời thành phố. Kể từ đây trở đi, bờ biển hầu như vắng vẻ… chỉ có những mỏm đá, những lùm cây lãnh sam, vài ba ngôi biệt thự có người Paris về nghỉ hè. Đấy là nơi chúng ta gọi là mũi Cabélou.
- Điều gì làm cho anh có ý nghĩ lục lọi ở phía này?
- Khi ông nói với chúng tôi, tôi và người đồng sự của tôi, là phải truy tìm một tên du đãng có thể là chủ của con chó vàng, chúng tôi đã bắt đầu lục soát những con thuyền củ ở cảng trong… Thỉnh thoảng chúng tôi thấy ở đấy một kẻ sống lần hồi. Năm vừa rồi, một chiếc thuyền buồm bị cháy vì một tên lang thang đã quên tắt ngọn lửa mà hắn đã đốt lên để sưởi.
- Không tìm thấy gì à?
- Chẳng thấy gì. Chính người đồng sự của tôi đã nhớ đến một cái trạm tuần canh cũ ở Cabélou. Chúng ta đến đấy. Ông có thấy cái công trình vuông vuông bằng đá đẽo trên phần nhô ra của mỏm đá không? Nó bắt đầu có từ thời cùng với những công sự của thành phố cổ. Ông lại đây. Hãy cẩn thận, có nhiều rác rưởi đấy. Đã lâu lắm có một người gác, sống ở đấy như một người canh tuần có nhiệm vụ là báo hiệu cho những con tàu đi qua. Người ta nắm vững cái lạch đi qua của quần đảo Glénan, cái lạch duy nhất để vào vũng tàu. Nhưng có lẽ nó đã được cải dụng năm mươi năm nay rồi.
Maigret đã vượt qua một lối đi mà cánh cửa đã mất, vào trong một căn phòng, nền bằng đất nện. Có những lỗ châu mai hẹp hướng ra khơi. Ở phía kia, một cửa sổ độc nhất không có ô kính, không có nẹp.
Và trên những bức tường bằng đá có những chử khắc bằng mũi dao. Dưới đất, những tờ giấy bẩn, những mảnh vụn và rác rưởi nhiều vô kể.
- Thế đấy, trong gần mười lăm năm, một người đàn ông đã sống ở đây hoàn toàn một mình. Một tâm hồn mộc mạc. Một kiểu người cô độc. Ông ấy ngủ trong góc này, dửng dưng với rét lạnh, với ẩm ướt, với giông bão đã ném những vốc nước biển vào qua lỗ châu mai. Đấy là một sự lạ. Mùa hè những người dân Paris đã đến gặp ông, cho ông những đồng tiền. Một số người bán bưu ảnh đã có ý nghĩ chụp ảnh ông và bán những chân dung ấy ở lối vào. Người đàn ông đã chết trong chiến tranh. Không ai nghĩ đến dọn sạch nơi này. Hôm qua tôi đã nẩy ra ý nghĩ là nếu có người nào ẩn trốn trong vùng, thì có thể là ở đây.
Maigret chui vào bên trong, một cầu thang hẹp bằng đá đào hõm vào cùng với chiều dài của bức tường, đến một chòi gác, đúng hơn 1à một cái tháp canh bằng đá hoa cương, nhìn được ra bốn phía, có thể ngắm nhìn được toàn vùng.
- Đấy là trạm canh tuần. Trước lúc phát minh ra hải đăng, người ta đốt lên một ngọn lửa trên sân thượng. Vậy là sáng hôm ấy, rất sớm, tôi và người đồng sự đã đến. Chúng tôi bước lên trước bằng mũi bàn chân. Ở dưới, chính nơi ngày xưa người canh tuần điên rồ đã ngủ ở đấy, chúng tôi trông thấy một người đàn ông đang ngáy. Một tên khổng lồ. Cách mười lăm mét đã nghe được tiếng thở của hắn. Thế là chúng tôi đến khoá tay hắn lại trước khi hắn thức dậy.
Họ đã tụt xuống căn phòng vuông vắn có gió lạnh tràn vào.
- Hắn có giãy gịua không?
- Hầu như không. Người đồng sự của tôi đã hỏi giấy tờ của hắn nhưng hắn không trả lời. Ông không thể gặp được hắn đâu khi chỉ một mình, hắn khỏe hơn cả hai chúng tôi. Tôi không lúc nào lỏng tay với cái báng súng ngắn của tôi. Đôi bàn tay của ông to có phải không? Này, ông thử tưởng tượng xem bàn tay hắn lớn gấp hai lần đôi bàn tay của ông, đầy hình xăm.
- Anh có thấy những hình xăm ấy biểu thị cái gì không?
- Tôi chỉ thấy có một cái mỏ neo trên bàn tay trái và các chữ cái S. S ở hai bên. Nhưng có những hình vẽ rắc rối. Có lẽ là một con rắn thì phải? Chúng tôi không sờ vào những cái vung vãi trên đất. Ở đấy có tất cả: những chai rượu quý, hảo hạng, những chiếc vỏ đồ hộp và hai chục hộp còn nguyên, chưa đụng đến. Có điều lạ hơn là: tro của một bếp lửa đã được đốt lên chính giữa phòng, và, rất gần đây là một ống xương của một đùi cừu, những khúc bánh mì, vài cái xương cá, một vỏ chai Saint - Jacques và những cái gọng tôm hùm.
- Một chầu nhậu nhẹt thực sự, chứ sao! - Viên cảnh sát trẻ ngẩn người ra, có lẽ anh ta chưa bao giờ dự một bữa tiệc như thế.
- Điều này cắt nghĩa cho chúng tôi rõ những lời phàn nàn mới đây mà chúng tôi đã nhận được. Chúng tôi đã không quan tâm đến bởi vì không quan hệ đến những sự việc quan trọng. Một chiếc bánh 3 kilôgam ăn cắp được ở hiệu bánh mì. Một rổ cá hét đã biến mất khỏi chiếc thuyền câu. Người quản lý của nhà kho Prunier khẳng định trong đêm người ta đã ăn cắp mất tôm hùm của ông.
Maigret làm một phép tính nhẩm thử chứng minh mất bao nhiêu ngày một người đàn ông ăn khỏe có thể ngốn hết những cái mà gã đã tiêu thụ hết ở đấy.
- Một tuần lễ. Ông nhẩm tính. Phải, kể cả cái đùi cừu.
Bất thình lình, ông hỏi:
- Thế con chó?
- Đúng! Chúng tôi chưa tìm được nó. Rõ ràng là có những dấu chân trên đất, nhưng chúng tôi không thấy con vật. Ông biết đấy! Ông thị trưởng chắc phải cuống cuồng lên vì sự việc của ông bác sĩ. Điều ấy làm tôi ngạc nhiên là ông ấy không đánh điện về Paris như ông ấy đã nói.
- Người đàn ông mà anh nói có vũ khí chứ?
- Không, chính tôi đã lục soát tất cả túi của hắn trong khi người đồng sự
Piedboeuf của tôi cầm coòng tay và ngắm bắn bằng tay kia. Trong một túi quần của hắn có hạt đẻ rang … bốn, năm hạt… cái ấy chắc từ một chiếc xe ngựa đậu trước nhà chiếu bóng ngày thứ bảy và tối chủ nhật. Rồi vài ba đồng tiền. Không đến mười phơ-răng… Một con dao con… nhưng không phải là con dao ghê gớm, một con dao như những con dao của các thuỷ thủ dùng để cắt bánh mì.
- Hắn không nói lời nào?
- Không một lời. Đến mức người đồng sự của tôi và tôi nghĩ hắn là một tên tầm thường như người thuê nhà cũ. Hắn nhìn chúng tôi theo kiểu của một con người thô lỗ. Hắn có bộ râu cằm độ tám ngày chưa cạo, hai chiếc răng cửa bị gãy.
- Hắn ăn mặt thế nào?
- Tôi không thể nói được với ông, một bộ quần áo cũ. Tôi không biết bên trong hắn mặc áo sơ mi hay áo dệt kim. Hắn đã ngoan ngoãn đi theo chúng tôi. Chúng tôi tự hào về việc bắt giữ mà chúng tôi thực hiện. Hắn đã có thể chạy trốn được mười lần trước khi về đến thành phố, đến nỗi chúng tôi không nghi ngờ gì thì một cái giật mạnh, hắn đã bứt đứt sợi xích của khoá tay. Tôi ngỡ là cổ tay phải của tôi đã bị giật đứt, cổ tay tôi đang mang vết tích. Vấn đề của ông bác sĩ Michoux.
- Rồi sao nữa?
- Ông biết rằng mẹ của anh ta phải trở về, hôm nay hay ngày mai. Đấy là người đàn bà goá của một nghị sĩ. Hình như bà có thế lực, và bà là bạn thân của vợ ông thị trưởng.
Maigret nhìn đại dương xám xịt qua các lỗ châu mai. Những con thuyền buồm đan nhau giữa mũi Cabélou, rồi đổi hướng và thả lưới xa ra ít nhất là một hải lý vì một bãi đá ngầm có thể đoán thấy do sóng dồi.
- Ông thực sự tin rằng ông bác sĩ đã… ?
Ông cảnh sát trưởng cắt ngang:
- Ta đi thôi!
Thuỷ triều lên. Khi họ đã ra khỏi, nước bắt đầu mấp mé chỗ họ đứng. Một thằng bé cách họ độ một trăm mét nhảy từ mô đá này lên mô đá khác, tìm kiếm nhưng chiếc lờ mà nó đặt trong các mõm đá. Viên cảnh sát trẻ không chịu được sự im lặng.
- Điều lạ lùng nhất, đấy là người ta đã tấn công ông Mostaguen là người đàn ông tốt nhất của Concarneau. Có lần ông ấy muốn làm một người tổng cố vấn. Hình như ông ấy đã được cứu sống nhưng không thể lấy viên đạn ra được. Có lẽ suốt đời ông phải giữ mẫu chì trong bụng. Khi người ta cho rằng giá như ông không có cái ý nghĩ là đốt điếu xì-gà thì …
Họ không đi vòng hết các vũng mà đi qua một phần bến cảng bằng một chiếc thuyền qua lại thường xuyên giữa cù lao Passage và thành phố cổ.
Hơi xa nơi hôm trước mà bọn trẻ đã tấn công con chó vàng bằng những hòn đá, Maiglet trông thấy một bức tường có một tấm cửa lớn, bên trên có một lá cờ và dòng chữ: Sở mật thám Quốc Gia.
Ông đi qua sân của một ngôi nhà có từ thời Colbert. Trong một phòng làm việc, thanh tra Leroy đang bàn cải với một viên đội trưởng.
- Người bác sĩ ở đấy à?… - Maigret hỏi.
- Đúng! Người đội trưởng không muốn có những bữa ăn từ bên ngoài đưa đến…
- Hay là thuộc trách nhiệm của ông - Người đội trưởng nói với Maigret - Và tôi xin ông cho một căn phòng để tôi làm việc, giúp tôi tránh được sai sót.
Ngoài sân yên tĩnh như ở một tu viện. Một lạch nước chảy róc rách, thật tuyệt.
- Anh ấy đâu?
- Ở kia, bên phải. Ông cứ đẩy cửa ra. Sau đấy là cánh cửa thứ hai ở hành lang. Ông có muốn tôi đến mở ra cho ông không? Ông thị trưởng đã gọi điện thoại đến để dặn dò phải đối xử với người tù tử tế.
Maigret gãi cằm. Thanh tra cảnh sát và Viên cảnh sát hầu như cùng tuổi với nhau rụt rè nhìn ông với sự tò mò đặc biệt.
Một lát sau, ông cảnh sát trưởng một mình bước vào phòng giam, tuờng quét vôi trắng không còn ảm đạm như phòng của trại lính. Michoux ngồi sau một chiếc bàn con bằng gỗ mộc, đứng dậy khi ông bước vào, do dự một lát và bắt đầu nói nhưng mắt nhìn đi nơi khác.
- Ông cảnh sát trưởng, tôi tưởng chừng ông chơi cái trò hề này để tránh một thảm kịch mới, khi ông giam tôi để…
Maigret để ý người ta không thu dây đeo quần của anh cũng như khăn quàng, các dây giầy theo quy định. Bằng mu bàn chân, ông kéo một chiếc ghế lại gần, rồi ngồi xuống, nhồi một tẩu thuốc và hiền từ lẩm bẩm:
- Tất nhiên! Nhưng anh hãy ngồi xuống đi, bác sĩ!