- Ông còn chờ gì nữa, ông pạn? – Van der Kuylen lầu bầu.
- Phải, phải, vì Chúa, ông còn chờ gì nữa nào? – Willoughby cũng cáu kỉnh đế theo.
Đấy là vào lúc giữa trưa cùng ngày hôm ấy, hai chiếc tàu cướp biển nhẹ nhàng bập bềnh trên mặt sóng và làn gió thổi từ vụng tàu Port Royal ra uể oải vỗ những cánh buồm. Hai tàu nằm cách pháo đài bảo vệ eo biển dẫn vào vụng tàu không đầy hai dặm. Chúng đã nằm đây hơn hai giờ đồng hồ mà không một ai trên pháo đài cũng như trên các tàu của de Rivarol trông thấy, bởi vì giữa bọn Pháp và quân đồn trú của pháo đài đang diễn ra một trận đánh ác liệt và tiếng pháo cả từ bờ lẫn từ tàu nổ ra liên hồi làm rung động thinh không.
Sự chờ đợi thụ động kéo dài đã bắt đầu ảnh hưởng đến thần kinh của lord Willoughby và đô đốc Van der Kuylen.
- Ông đã hứa cho chúng tôi xem cái gì hay lắm cơ mà. Cái hay lắm ấy của ông đâu rồi? – Viên đô đốc hỏi.
Blood đứng trước mặt viên đô đốc, mình mặc giáp trụ bằng thép đen nhánh, miệng mỉm cười đầy tự tin.
- Tôi không định lạm dụng lòng kiên nhẫn của các ngài nữa, - chàng nói. - Tiếng súng đã thưa dần rồi. Số là chúng ta có vội vã cũng chẳng được gì, còn nếu biết ra đòn đúng lúc thì chúng ta sẽ được rất nhiều, và tôi sẽ chứng minh ngay cho các ngài thấy.
lord Willoughby ngờ vực nhìn chàng:
- Ông hi vọng rằng may ra Bishop về kịp hoặc giả hải đội của Van der Kuylen kéo đến chăng?
- Ồ không, thưa đức ông, tôi không hề nghĩ như vậy. Tôi thì tôi nghĩ thế này: theo chỗ tôi biết thì de Rivarol là một tướng tồi và trong trận đọ pháo với pháo đài thế nào hắn cũng bị những tổn thất nào đó, ít nhiều làm giảm ưu thế của hắn so với chúng ta. Còn chúng ta thì sẽ vào cuộc khi nào pháo đài đã bắn hết đạn.
- Đúng lắm! – Viên toàn quyền Tây Ấn gầy gò rít lên tán thành. – Tôi đồng ý với ý định của ông. Ông có những phẩm chất của một thuỷ soái tài năng, và tôi xin ông thứ lỗi vì đã không hiểu ông sớm hơn.
- Ồ, ngài bất tất phải khách khí như vậy, thưa milord! Ngài biết đấy, tôi đã có ít nhiều kinh nghiệm trong những trận đánh như thế này rồi. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi nguy hiểm không thể tránh được, nhưng trong những trường hợp không cần thiết thì không bao giờ tôi lại liều lĩnh vô ích... – Chàng dừng lại lắng nghe. - Phải, tôi đã không nhầm. Tiếng súng đã lặng dần. Nghĩa là Mallard đã kiệt sức rồi. Này, Jeremy!
Chàng cúi mình qua lan can gỗ chạm và rành rọt ra lệnh. Thuỷ thủ trưởng rúc một hồi còi chói tai và con tàu tưởng chừng đang ngủ chợt bừng tỉnh. Tiếng chân rầm rập trên mặt boong, tiếng ròng rọc nghiến ken két, tiếng buồm kéo lên đập phần phật. “Arabella” từ từ tiến, theo sau là “Elizabeth”. Blad gọi Ogle lên, và một phút sau Ogle lại lao về vị trí của mình dưới boong pháo.
Mười lăm phút sau họ đã đến lối ra vào vụng và đột ngột xuất hiện ngay trước mũi ba chiếc tàu Pháp ở cự li tầm bắn của các nòng pháo cỡ nhỏ.
Pháo đài chỉ còn là một đống gạch vụn, khói bốc nghi ngút. Những kẻ chiến thắng với những lá cờ đuôi nheo nước Pháp trên đỉnh cột buồm giữa, nhanh nhẹn thả xuồng và bơi vào bờ để đánh chiếm cái thành phố giàu có mà tiền đồn bảo vệ nó vừa bị hạ.
Blood chăm chú ngắm các tàu chiến Pháp và cười khẽ. “Victorieuse” và “Medusa” chắc chỉ mới hơi xây xát. Nhưng chiếc tàu thứ ba – “Baleine” – thì đã hoàn toàn bị loại khỏi vòng chiến. Một lỗ thủng toang hoác đen ngòm bên mạn phải nó và viên thuyền trưởng buộc phải thả trôi bằng mạn trái cho nước khỏi vào để cứu con tàu.
- Ngài thấy chưa! – Blood kêu lên với Van der Kuylen và không đợi tiếng làu bàu đồng tình của viên đô đốc, chàng ra lệnh: - Đè lái trái!
Hình ảnh con tàu đồ sộ đỏ rực với pho tượng gỗ thếp vàng trên mũi và những lỗ châu mai mở hoác đang xoay mạn về phía bọn Pháp đã làm kinh hoàng tên de Rivarol vừa mới đây còn đang phấn khích bởi chiến thắng. Nhưng trước khi hắn kịp rời vị trí để ra mệnh lệnh và nói chung là đang nghĩ xem phải ra mệnh lệnh gì thì một cơn cuồng phong của lửa và thép mang đầy chết chóc từ loạt pháo mạn của bọn cướp đã quét sạch mọi thứ trên boong “Victorieuse”. Tiếp tục giữ hướng, “Arabella” nhường chỗ cho “Elizabeth” để tàu này cũng làm đúng như vậy. Bị đánh phủ đầu, bọn Pháp bối rối và cơn hoảng loạn đã trùm lên chúng. Trong lúc đó thì “Arabella” quay gấp ngược hướng gió trở về hướng cũ nhưng ngược chiều và nã tiếp một loạt bằng tất cả các nòng pháo mạn trái, “Elizabeth” cũng lại bồi thêm một loạt nữa sau đó tay lính kèn của “Arabella” rúc lên một tín hiệu gì đó mà Hagthorpe biết rất rõ.
- Tiến lên, Jeremiah! - Blood hét lớn. - Xông thẳng vào chúng trước khi chúng kịp tỉnh lại! Tất cả chú ý! Chuẩn bị áp mạn! Hayton... lấy móc bấu!
Chàng ném chiếc mũ cắm lông chim của mình xuống và chụp chiếc mũ sắt do một gã trai da đen đem đến và chàng giải thích ngắn gọn cho các vị khách của mình:
- Áp mạn là cơ hội duy nhất của chúng tôi để giành chiến thắng. Bên địch có quá nhiều pháo.
Và dường như để chứng nhận cho lời chàng, một loạt pháo của các tàu Pháp liền đáp lại. Lại hồn sau cơn hoảng loạn, chúng nổ súng vào “Arabella”, đối thủ đáng gờm hơn trong hai tàu cướp.
Bọn cướp nã pháo lên mặt boong, còn trái lại, bọn Pháp thì nhằm vào thân tàu. Dưới loạt đạn khủng khiếp, con tàu của Blood chựng lại, mặc dù Pitt đã cố gắng đưa “Arabella” đi theo hướng thu nhỏ mục tiêu đến mức tối đa đối với tàu địch. Con tàu vẫn tiếp tục tiến, song phần mũi của nó đã bị dập nát và bên trên vạch mớn nước một chút đã thủng một lỗ to tướng. Để nước khỏi vào hầm tàu, Blood đã ra lệnh ném hết pháo mũi, mỏ neo và tất cả các thứ trên đó xuống biển.
Bọn Pháp ngoặt gấp và bắn tiếp vào “Elizabeth”. Nương theo gió thuận yếu ớt, “Arabella” cố đến sát địch thủ của mình. Nhưng trước khi bọn cướp làm được việc đó, “Victorieuse” đã bắn vỗ mặt vào “Arabella” một loạt pháo mạn phải. Trong tiếng pháo rền, tiếng các thiết bị buồm dây đổ rào rào và tiếng rên rỉ của những người bị thương, “Arabella” cố gượng tiến lên, chao đảo trong đám khói súng che mắt bọn Pháp. Nhưng sau đó từ phía mũi vọng lại tiếng Hayton báo rằng “Arabella” đang chúi mũi xuống nước.
Tim Blood tuyệt vọng đến chết lặng. Nhưng đúng lúc đấy chàng trông thấy qua làn khói mịt mù khét lẹt vách mạn màu nước biển thếp vàng của “Victorieuse”. Nhưng “Arabella” mình mang đầy thương tích chỉ có thể bò rất chậm chạp và chàng thấy rõ rằng nó sẽ chìm trước khi đến được mạn “Victorieuse”.
Viên đô đốc Hà Lan cũng có ý kiến như vậy và cáu tiết văng tục ầm ĩ. lord Willoughby cũng rủa Blood rằng chàng đã dốc hết vốn liếng đặt ra chiếu bạc lúc quyết định xông vào áp mạn.
- Không còn cách nào khác! - Run bần bật như đang lên cơn sốt, Blood kêu lên. - Các ngài nói đúng, đây là liều lĩnh. Nhưng hành động của tôi là vì thực tế và vì không đủ lực. Tôi đã thua khi gần thắng.
Tuy nhiên bọn cướp vẫn không nghĩ đến chuyện bó tay. Hayton cùng hai chục tên hung thần vạm vỡ, tay lăm lăm móc bấu, lom khom nấp sau những đống gỗ vụn trên mũi tàu. Đến cách “Victorieuse” chừng bảy tám yard, “Arabella” dừng hẳn, và trong lúc mũi tàu chìm dần xuống ngay trước mắt bọn Pháp thì toán cướp của Hayton chồm dậy vừa gào thét man rợ vừa tung móc bấu. Hai chiếc trong số đó đã bấu được vào thành gỗ của “Victorieuse”. Bọn cướp biển dày dạn trận mạc đã hành động một cách chớp nhoáng. Chộp vội sợi xích của một trong hai chiếc móc đó, chúng bắt đầu nắm môi mắm lợi kéo mạnh để rút ngắn khoảng cách giữa hai tàu lại.
Đứng trên boong thượng quan sát bọn cướp gan lì ấy, Blood quát lên như sấm:
- Súng trường lên mũi!
Bọn xạ thủ súng lăm lăm trong tay đang chờ ở boong giữa thi hành mệnh lệnh với một sự nhanh nhẹn khủng khiếp vì chỉ nhờ có như vậy chúng mới mong thoát chết. Năm mươi tay súng lao vội lên và đạn réo xé gió bay qua đầu bọn ném móc bấu của Hayton từ dưới những đống gỗ vụn. Và thật là đúng lúc. Sau khi biết không thể gỡ nổi những móc bấu ấy ra khỏi mạn và boong tàu “Victorieuse”, bọn Pháp đã định nổ súng.
Hai chiếc tàu va sầm mạn phải vào nhau. Blood từ boong thượng chạy xuống boong giữa hò hét ra lệnh, và bọn cướp đi thi hành những mệnh lệnh với một sự nhanh nhẹn như chớp: buồm lập tức được hạ xuống, những sợi dây treo giằng ngang bị chém đứt phăng, tiền đội của nhóm cận chiến trong chớp mắt đã tập trung hết ở phía lái. Đúng vào lúc mạn hai tàu xô nhau, bọn cướp theo lệnh của Blood liền tung các móc bấu lên: “Arabella” đang chìm lập tức được buộc chặt vào “Victorieuse”.
Willoughby và Van der Kuylen nín thở đứng trên boong lái trố mắt thán phục sự nhanh nhẹn và chính xác trong các hành động của Blood và đội tàu cướp biển liều lĩnh của chàng. Và tên lính kèn nổi hiệu lệnh xung phong. Blood dẫn đầu toán cướp nhảy phắt sang boong tàu địch. Hậu đội của nhóm cận chiến do Ogle cầm đầu reo hò nhảy sang mũi tàu “Victorieuse” mà lúc này đã nằm ngang boong lái của “Arabella” đang chìm. Theo gương chủ tướng của mình, chúng nhảy xổ vào bọn Pháp như những con hổ lao vào đàn dê. Và theo sau đoàn cảm tử của “Arabella” tất cả bọn cướp còn lại cũng sang hết bên “Victorieuse”. Trên boong con tàu sắp đắm chỉ còn lại lord Willoughby và viên đô đốc Hà Lan, lúc này vẫn mải mê theo dõi trận đánh từ boong thượng.
Trận giáp lá cà kéo dài không quá nửa giờ. Bắt đầu từ mũi tàu, nó nhanh chóng tràn sang boong giữa. Bọn Pháp chống cự quyết liệt, tự khích lệ mình rằng chúng đông hơn và củng cố thêm quyết tâm của mình bằng ý thức rằng kẻ địch sẽ không thương xót gì chúng. Nhưng bất chấp lòng quả cảm tuyệt vọng của binh sĩ Pháp, bọn cướp dần dần đã dồn chúng sang một bên boong và cộng với sức nặng của “Arabella” buộc chặt vào đó, “Victorieuse” nghiêng hẳn sang mạn trái một cách nguy hiểm. Bọn cướp chiến đấu với sự gan dạ điên cuồng của những người hiểu rằng họ không còn đường rút và rằng họ chỉ có một cách lựa chọn: hoặc chiến thắng hoặc chết. Và cuối cùng chúng đã chiếm được “Victorieuse” mặc dù phải trả giá cho chiến thắng ấy bằng một nửa đội tàu. Các thuỷ thủ của “Victorieuse” còn sống sót bị dồn hết lên boong thượng và bị de Rivarol điền cuồng hò hét đốc thúc vẫn còn chống cự thoi thóp. Nhưng đến khi de Rivarol vỡ sọ ngã xuống thì bọn đồng bào của hắn còn sống sót vội quẳng vũ khí xin tha mạng.
Nhưng cả sau đó bọn cướp của Blood vẫn chưa được xả hơi. “Elizabeth” và “Medusa” quấn lấy nhau bằng những móc bấu tạo thành một bãi chiến trường và bọn Pháp đã hai lần đánh bật người của Hagthorpe ra khỏi tàu mình. Hagthorpe cần được cứu viện gấp. Trong lúc Pitt và đám thủy thủ chuẩn bị buồm dây còn Ogle dọn dẹp boong pháo dưới, Blood ra lệnh tháo móc bấu giải thoát con tàu khỏi gánh nặng mà nó đang phải đeo bên sườn. lord Willoughby và Van der Kuylen đã chuyển sang tàu “Victorieuse”, và khi quay tàu để đến tiếp cứu cho Hagthorpe, Blood đứng trên boong thượng nhìn lại một lần cuối “Arabella”, con tàu đã trung thành phục vụ chàng trong một thời gian dài và trở thành một bộ phận của thân thể chàng. Sau khi bị tháo rời ra, “Arabella” chao qua chao lại mấy phút trên sóng rồi từ từ chìm xuống; một chốc sau, ở nơi nó vừa đứng chỉ còn lại những xoáy nước nhỏ bên trên những đỉnh cột buồm vừa chìm khuất.
Blood im lìm đứng giữa những xác chết ngổn ngang và những mẩu gỗ, mắt chăm chăm nhìn vào nơi “Arabella” vừa biến mất. Chàng không nhận thấy ai đó vừa đến bên và chỉ sực tỉnh khi nghe tiếng nói từ phía sau vọng đến.
- Ngày hôm nay đây là lần thứ hai tôi phải xin ông thứ lỗi, thưa thuyền trưởng Blood. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến lòng quả cảm đã biến điều không thể trở thành có thể và chiến bại chuyển thành chiến thắng như vừa rồi!
Blood quay phắt lại, và chỉ đến bây giờ lord Willoughby mới trông thấy vẻ dễ sợ của chàng. Chiếc mũ sắt trên đầu chàng bật sang một bên, tấm giáp che ngực móp xuống, những mẩu tay áo rách mướp để lộ cánh tay phải trần loang lổ máu. Từ mái tóc phờ phạc của chàng chảy xuống một dòng máu đỏ tươi - máu từ vết thương đã biến khuôn mặt đen sạm đau khổ của chàng thành một chiếc mặt nạ khủng khiếp.
Nhưng từ đằng sau chiếc mặt nạ ấy đôi mắt xanh sáng rực khác thường, và máu, bụi cùng với mồ hóng thuốc súng trôi xuống má chàng trong hai dòng nước mắt.
Cái chiến thắng ấy bọn cướp đã phải trả một giá đắt. Trong số ba trăm tên cùng Blood rời khỏi Cartagena chỉ còn sống sót không đến một trăm. “Elizabeth” bị hư hại nặng đến mức không chắc đã sửa chữa được nữa. Hagthorpe đã chiến đấu hết sức dũng cảm trong trận đánh cuối cùng và đã tử trận. Nhờ những hi sinh lớn lao ấy mà mặc dù thua kém rất nhiều về số lượng, bằng kinh nghiệm chiến trận và lòng can đảm đến liều lĩnh của mình, bọn cướp đã cứu Jaimaica khỏi bị oanh kích và cướp bóc, đồng thời chiếm được cho vua William hải đội của de Rivarol cùng với số của cải khổng lồ.
Chiều ngày hôm sau hải đội của Van der Kuylen gồm chín chiếc tàu mới lục tục kéo đến thả neo trong cảng Port Royal, và không chút chần chừ, viên đô đốc, bằng những lời lẽ thích hợp đã thông báo cho các sĩ quan Hà Lan và sĩ quan Anh của mình điều ông ta nghĩ về họ.
Sáu chiếc tàu trong hải đội lập tức chuẩn bị cho một chuyến đi biển khác. Ngài toàn quyền mới được bổ nhiệm nóng lòng muốn đến một vài thuộc địa Tây Ấn để xem ở đó người ta làm ăn ra sao.
- Thế mà tôi lại phải trùng trình ở đây vì tên thống đốc dở người ấy nữa chứ! - ngài kêu ca với đô đốc.
- Thế à? - Van der Kuylen hỏi lại. - Nhưng tại sao thằng dở hơi ấy lại giữ chân ngài mới được chứ?
- Tại vì tôi định trị con chó ấy một trận và bổ nhiệm thay vào đó một người không chỉ hiểu rõ phận sự của mình mà còn biết thi hành chúng nữa.
- A hà! Nhưng mà vệc gì ngài lại cứ trùng trình ở đây trong khi quân đội Pháp chưa biết lúc nào sẽ tấn công vào đảo Barbados được phòng thủ rất tồi? Ngài đã có một người như như vậy rồi. Người ấy không cần phải dặn dò nhều. Ông ta biết rõ hơn tôi với ngài rằng phải phòng thủ Port Royal thế nào.
- Ngài định nói Blood ấy à?
- Đúng rồi. Còn ai thích hợp hơn ông ta cho cương vị ấy nữa. Ngài đã thấy ông ta là người thế nào rồi đấy.
- Ngài cũng nghĩ thế hả? Mẹ khỉ! Nhưng tại sao lại không nhỉ? Quỉ, bắt tôi đi, ông ta còn hơn cả Morgan nữa, thế mà ngày xưa Morgan cũng được bổ nhiệm làm thống đốc đấy thôi.
Blood liền được gọi đến. Chàng đến, hào hoa và yêu đời, bởi vì đã tranh thủ những hôm ở lại Port Royal để sửa sang lại mình. Khi lord Willoughby thông báo cho chàng đề nghị của mình, Blood hết sức sửng sốt. Không bao giờ chàng ngờ đến một việc như vậy, và những băn khoăn xáo trộn trong đầu chàng làm chàng bối rối, không biết mình có cáng đáng nổi với trọng trách ấy không.
- Lại thế nữa! - Willoughby nổi nóng. - Nhẽ nào tôi lại đề nghị ông nhận cương vị ấy nếu tôi không biết rõ rằng ông có thể đảm đương được? Nếu như đó là cái cớ duy nhất buộc ông từ chối...
- Không, thưa milord, còn có những nguyên nhân khác nữa. Tôi ước ao được trở về nhà. Tôi rất nhớ những con đường xanh rờn của nước Anh... - chàng thở dài, - và hoa táo nở trong những khu vườn ở Somerset.
- “Hoa táo nở”! - đức ông cao giọng nhắc lại với vẻ chế nhạo rõ rệt. - Chuyện quỷ quái gì thế không biết... “hoa táo nở”! - Ngài liếc nhìn Van der Kuylen.
Viên đô đốc nhướn mày liếm cặp môi dày. Trên bộ mặt ông ta thoáng qua một nụ cười giễu cợt phúc hậu.
- Phải rồi, - ông ta nói, - cái đó hết sức trữ tình!
milord quay sang Blood.
- Ông còn phải chuộc lại cái quá khứ cướp biển của ông nữa ấy, ông bạn, - ngài vừa cười vừa nói. - Trong việc này ông đã làm được ít nhiều, tỏ rõ những khả năng không phải nhỏ của mình. Chính vì thế mà tôi đã nhân danh Đức hoàng thượng đề nghị ông giữ chức thống đốc Jamaica. Trong tất cả những người tôi biết thì tôi coi ông là thích hợp hơn cả.
Blood nghiêng mình:
- Đức ông quả là rất độ lượng. Nhưng...
- Không có nhưng gì hết! Ông có muốn người ta quên quá khứ của ông và bảo đảm tương lai cho ông không? Ông có một cơ hội tuyệt vời để làm việc ấy. Và xin đừng tỏ ra nông nổi đối với đề nghị của tôi chỉ vì hoa táo hoa tiếc gì đó và những chuyện đa sầu đa cảm nhảm nhí ấy nữa. Nghĩa vụ của ông là ở lại đây, ít ra là đến hết chiến tranh. Rồi sau đó ông cứ việc trở về Somerset mà nốc rượu tần hay về Ailen quê hương ông mà uống rượu potin. Còn tạm thời thì hẵng vui lòng dùng đỡ rượu rum ở Jamaica vậy.
Van der Kuylen cười sằng sặc. Nhưng Blood thậm chí còn không nhếch mép. Khuôn mặt chàng vẫn bình thản và gần như u ám, bởi vì lúc đó chàng đang nghĩ đến Arabella. Nàng đang ở đâu đó gần đây, ngay trong toà nhà này, nhưng từ lúc chàng đến Port Royal hai người vẫn chưa gặp nhau. Giá nàng tỏ ra thông cảm với chàng dù chỉ một chút...
Những suy nghĩ của chàng bị gián đoạn vì lord Willoughby đã lớn tiếng mắng nhiếc chàng vẫn cứ dùng dằng và có thái độ không nghiêm túc đối với triển vọng rực rỡ đã mở ra trước mắt chàng. Blood sực tỉnh, nghiêng mình:
- Ngài nói phải, thưa milord. Xin ngài đừng nghĩ rằng tôi là một kẻ vô ơn. Nếu tôi khước từ thì chỉ vì tôi có những ý nghĩ khác mà tôi không muốn làm ngài bận lòng.
- Chắc là cái gì đó đại loại như hoa táo chứ gì?- đức ông dè bỉu.
Lần này thì Blood bật cười, nhưng trong ánh mắt chàng vẫn còn đọng lại nỗi buồn.
- Xin biết ơn nhận lời đề nghị của ngài, thưa milord. - Blood nói. – Tôi sẽ cố gắng đền đáp lòng tin của ngài và hết sức phụng sự Đức hoàng thượng. Xin ngài cứ tin ở tôi, tôi sẽ phục vụ một cách trung thực.
- Ồ, lạy Chúa, nếu không biết chắc như vậy thì đời nào tôi lại đề nghị ông nhận chức thống đốc!
Thế là vấn đề đã được giải quyết xong.
Trước mặt viên chỉ huy pháo đài, thiếu tá Mallard, và các sĩ quan khác của đồn binh, lord Willoughby đã ký các giấy tờ bổ nhiệm Blood làm thống đốc và đóng triện của ngài dưới chữ ký. Mallard cùng các sĩ quan khác ngạc nhiên trố mắt nhìn quang cảnh ấy, nhưng không một ai dám ho he gì.
- Nào, bây giờ ta đã có thể bắt tay vào công việc của mình rồi. – Van der Kuylen nói.
- Ngày mai chúng tôi sẽ ra khơi, - đức ông thông báo.
Blood hết sức sửng sốt.
- Thế còn đại tá Bishop? – chàng hỏi.
- Bây giờ ông là thống đốc và đó là việc của ông. Lúc nào hắn về ông muốn làm gì với hắn thì làm. Ông có thể rút thằng ngốc ấy lên giằng buồm trên chính con tàu của hắn. Hắn đáng tội ấy lắm.
- Một việc chẳng hay ho gì cả, thưa milord, - Blood nhận xét.
- Tất nhiên. Thêm nữa, tôi sẽ để lại cho hắn một bức thư. Hi vọng hắn sẽ khoái lắm!
Thuyền trưởng Blood lập tức bắt tay vào thực hiện những chức trách mới của mình. Trước hết là cần phải đưa Port Royal vào trạng thái phòng thủ: khôi phục lại pháo đài đã bị tàn phá, sửa chữa các tàu vừa đoạt được của Pháp mà lúc này đã được kéo lên bờ. Sau khi ra những chỉ thị đó xong, Blood tập trung bọn cướp biển của mình lại và, được phép của lord Willoughby, chàng giao lại cho chúng một phần năm số chiến lợi phẩm chiếm được. Chàng đề nghị các bạn chiến đấu của mình tự lựa chọn lấy: hoặc rời khỏi Jamaica, hoặc về đầu quân cho triều đình vua Williams.
Chừng hai mươi người đã theo gương chàng. – Trong số đó có Jeremy Pitt, Ogle và Dyke, những người cũng giống như Blood, đã hết hạn lưu đày cùng với việc vua James bị lật đổ. Trong nhóm những nghĩa quân lưu đày đã trốn khỏi Barbados trên tàu “Cinco Llagas” chỉ còn sống sót lại ngần ấy và lão Wolverstone già hiện còn ở lại Cartagena nữa mà thôi.
Sáng hôm sau, khi hải đội của Van der Kuylen đã chuẩn bị xong và sẵn sàng rời bến thì thiếu tá Mallard vào phòng làm việc rộng thênh thang của thống đốc gặp Blood và báo cáo rằng đã trông thấy hải đội của đại tá Bishop ở đường chân trời.
- Rất hay, - Blood nói – Rất mừng là Bishop đã về kịp trước khi lord Willoughby ra đi. Thiếu tá Mallard, khi đại tá Bishop về tới, ông hãy bắt hắn và đưa ngay lại đây cho tôi... Khoan đã, - chàng bảo viên thiếu tá và vội viết mấy chữ. – ông hãy chuyển ngay cái này cho lord Willoughby.
Thiếu tá Mallard chào và đi ra, Peter Blood cau mày nhìn lên trần nhà, nghĩ ngợi về những chuyện trớ trêu kì lạ trong số phận của chàng. Những suy nghĩ của chàng bị tiếng gõ cửa rụt rè cắt đứt. Một người đầy tớ da đen già bước vào với một yêu cầu hết sức cung kính xin đức ông tiếp tiểu thư Bishop.
Đức ông thống đốc thất sắc. Trái tim chàng đập rộn lên rồi chết lặng. Chàng ngồi bất động, nhìn chằm chằm người hầu da đen và thấy cổ họng mình nghẹn lại, không thốt lên nổi một lời. Thế là chàng đành phải gật đầu tỏ ý ưng thuận tiếp vị khách nữ.
Lúc Arabella Bishop bước vào, Blood vội đứng lên và nếu mặt chàng không tái nhợt như mặt nàng thì chỉ bởi vì nước da rám nắng của chàng đã che lấp đi. Hai người đứng im một lúc, mắt nhìn vào mắt. Sau đó nàng bước lại và nói bằng một giọng lắp bắp đứt đoạn:
- Tôi... tôi... thiếu tá Mallard bảo tôi rằng...
- Thiếu tá Mallard đã vượt quá quyền hạn của mình, - Blood ngắt lời nàng. Chàng định nói thật bình thản, nhưng chính vì thế mà giọng chàng lạc đi và to đến mức khác thường. Nhận thấy nàng giật thót, chàng lập tức an ủi: - Tiểu thư không nên lo lắng vô ích, tiểu thư Bishop ạ. Dù quan hệ của tôi với ông chú tiểu thư có thế nào đi nữa thì tôi cũng không theo gương ông ấy đâu. Tôi sẽ không lợi dụng quyền hành của mình để thanh toán những món nợ riêng với ông ấy. Ngược lại, tôi buộc phải lạm dụng quyền hành để che chở cho ông ấy nữa. lord Willoughby đã yêu cầu tôi thẳng tay hết mức đối với ông chú tiểu thư. Nhưng tôi thì lại muốn trả ông ấy về đồn điền của mình ở Barbados.
Arabella áp tay lên ngực.
- Tôi... tôi rất mừng thấy ông xử sự như vậy. Tôi mừng trước hết là vì ông... - Rồi bước đến một bước, nàng chìa tay cho chàng.
Chàng nghi ngại nhìn nàng.
- Một tên đầu trộm đuôi cướp như tôi không được phép đụng vào tay tiểu thư, - chàng cay đắng nói.
- Nhưng ông không còn như thế nữa rồi, - Arabella đáp và cố gượng mỉm cười.
- Phải, nhưng rất tiếc rằng, không phải tiểu thư là người tôi cần cảm ơn vì điều đó. Và về chuyện này có lẽ ta không nên nói đến nữa. Tôi còn có thể cam đoan với tiểu thư rằng Lord Julian không việc gì phải sợ tôi. Tôi cho rằng một sự bảo đảm như vậy là cần thiết để tiểu thư yên lòng.
- Nếu vì ông thì tôi xin vâng. Nhưng chỉ vì ông mà thôi. Tôi không muốn ông phải xử sự một cách hèn hạ và không trung thực.
- Dù tôi có là đầu trộm đuôi cướp? - chàng bất giác bật ra.
Nàng tuyệt vọng vung tay:
- Lẽ nào không bao giờ ông tha thứ cho tôi việc đó?
- Phải thú thực rằng tôi không dễ gì làm được điều ấy. Nhưng sau tất cả những điều đã nói thì việc đó có ý nghĩ gì đâu?
Nàng trầm ngâm một lúc, nhìn chàng bằng đôi mắt nâu trong sáng của mình, rồi lại đưa tay cho chàng.
- Tôi sẽ ra đi, thưa thuyền trưởng Blood. Vì ông đã tỏ ra độ lượng với chú tôi như vậy nên tôi sẽ cùng ông ấy trở về Barbados. Không chắc tôi với ông còn gặp lại nhau nữa. Có thể chúng ta sẽ chia tay nhau như những người bạn được không? Xin ông thứ lỗi cho tôi một lần nữa. Có thể... có thể ông sẽ đưa tiễn tôi chứ?
Chàng buộc mình nói nhẹ nhàng hơn, cầm bàn tay Arabella chìa cho chàng và giữ chặt lấy nó trong tay mình, chàng cất tiếng, u ám, buồn bã nhìn Arabella.
- Tiểu thư về Barbados, và Lord Julian sẽ cùng đi với tiểu thư chứ? - chàng hỏi chậm rãi.
- Tại sao ông lại hỏi tôi như vậy? - và nàng mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt chàng.
- Xin lỗi, lẽ nào ông ta không thực hiện uỷ thác của tôi? Hay ông ta có nhầm lẫn chỗ nào?
- Không, ông ta không nhầm lẫn và đã truyền đạt cho tôi tất cả những gì ông yêu cầu. Những lời nói của ông đã làm tôi hết sức xúc động. Chúng tôi đã làm tôi hiểu ra cả sai lầm của tôi lẫn sự bất công của tôi đối với ông. Tôi đã lên án ông quá ư nghiệt ngã, mặc dù chẳng có gì để lên án ông cả.
- Thế còn Lord Julian thì sao? - chàng hỏi, vẫn giữ nguyên tay nàng trong bàn tay mình và nhìn Arabella bằng đôi mắt cháy rực như hai viên lam ngọc trên khuôn mặt rám nắng của chàng.
- Chắc là Lord Julian sẽ lại trở về Anh, ở đây ông ấy chẳng còn việc gì làm nữa.
- Chẳng nhẽ ông ấy không đề nghị nàng đi cùng sao?
- Có, ông ấy có nói, và tôi tha thứ cho ông câu hỏi không đúng chỗ ấy.
Trong chàng chợt bùng lên tia hy vọng điên rồ:
- Còn nàng? Ôi, đội ơn Chúa! Nàng muốn nói rằng... rằng nàng từ chối... Thật không? Từ chối để... để thành vợ tôi, khi mà...
- Ồ! Ông là một người không thể chịu nổi! - Nàng giật tay ra và lùi lại. - Đáng ra tôi không nên đến... vĩnh biệt!
Arabella bước vội đến cửa, nhưng Blood đã đuổi kịp và nắm chặt lấy tay nàng. Gương mặt cô gái đỏ bừng và nàng cay đắng nhìn chàng:
- Ông xử sự như một tên cướp biển ấy. Buông tôi ra!
- Arabella! - Chàng van vỉ. - Nàng nói gì vậy? Chẳng nhẽ tôi lại có thể buông được nàng sao? Chẳng nhẽ tôi lại để nàng ra đi và không bao giờ gặp lại nàng nữa sao? Hay là nàng hãy ở lại đây giúp tôi chịu đựng nốt cái án lưu đày nho nhỏ này rồi chúng mình sẽ cùng ra đi?... Ôi, nàng khóc ư? Tại sao vậy? Anh đã nói điều gì để em phải khóc, hở em yêu?
- Em đã tưởng rằng anh không bao giờ nói ra điều ấy, - Arabella thốt lên, miệng mỉm cười qua làn nước mắt.
- Ồ, nhưng mà ở đây còn cả Lord Julian, đẹp trai, quí phái...
- Với em thì lúc nào cũng chỉ một mình anh thôi, Peter...
Hai người còn nhiều điều để nói với nhau. Nhiều đến nỗi thống đốc Blood quên bẵng tất cả chức phận của mình. Cuối cùng chàng đã kết thúc cuộc đời ba chìm bảy nổi của mình. Bản odyseey của chàng đến đây là kết thúc.
Cùng lúc đó hải đội của đại tá Bishop đã thả neo ngoài cảng. Tên đại tá bực bội bước lên cầu cảng, nơi còn lắm chuyện bực mình hơn nhiều đang đợi hắn. Cùng đi với hắn là Lord Julian Wade.
Một đội cảnh binh hải thuyền xếp hàng đón Bishop. Đứng trước đội cảnh binh là thiếu tá Mallard và hai người mà tên thống đốc chưa từng gặp bao giờ: một người có tuổi bé nhỏ mặc áo camisole bằng vải láng màu đỏ sẫm còn người kia thì to béo, mặc áo camisole may theo lối hải quân.
Thiếu tá Mallard bước lại gần Bishop.
- Đại tá Bishop! - anh ta nói. - Tôi được lệnh bắt ông. Xin ông nộp kiếm, thưa ông!
Bishop đỏ mặt tía tai nhìn chòng chọc vào anh ta:
- Có chuyện quỉ quái gì thế này... ông bảo rằng bắt... bắt tôi?
- Theo lệnh của thống đốc Jamaica, - người đàn ông bé nhỏ ăn mặc quí phái đứng phía sau Mallard nói.
Bishop quay phắt sang người ấy:
- Của thống đốc? Ông điên rồi! - Hắn nhìn hết người lạ này sang người lạ khác. - Nhưng thống đốc là tôi kia mà!
- Ông là cựu thống đốc, - người bé nhỏ nói lạnh lùng. - nhưng trong lúc ông vắng mặt thì nhiều cái đã thay đổi. Ông đã bị phế truất vì đã rời cương vị của mình mà không có lý do xác đáng và vì thế đã gây nguy hiểm cho thuộc địa mà ông chịu trách nhiệm. Đó là một trọng tội, đại tá Bishop ạ, như chính ông rồi sẽ thấy. Lưu ý rằng ông được bổ nhiệm lên chức thống đốc bởi triều đình của vua James nên rất có thể ông còn bị buộc tội phản nghịch nữa. Người thay thế ông sẽ tự giải quyết vấn đề có treo cổ ông hay không.
Bishop suýt nghẹn thở, chửi ầm lên, sau đó vừa run cầm cập vì hoảng hốt, hắn hỏi:
- Nhưng, mẹ khỉ, các ông là ai?
- Tôi là lord Willoughby, toàn quyền Tây Ấn của Đức vua Anh. Tôi tưởng ông phải biết rằng tôi sẽ đến đây rồi chứ?
Trong chớp mắt những tàn tích cuối cùng của cơn giận ở hắn bay sạch. Bộ mặt nhẵn nhụi của Lord Julian đứng phía sau hắn trắng bệch chảy xuống.
- Nhưng, thưa milord... - tên đại tá định phân trần.
- Tôi không quan tâm đến những lời giải thích của ông, thưa ông! – lord Willoughby gay gắt ngắt lời hắn. - Tôi đi đây, tôi không có thời gian để lo việc của ông. Ông hãy đi mà nói với thống đốc và chắc chắn ông ấy sẽ đáp ứng cho ông đúng mức. - Ngài phẩy tay cho Mallard và đội cảnh binh đưa tên đại tá ỉu xìu, hoàn toàn mất tinh thần đi.
Đi theo hắn là Lord Julian, mặc dù không ai bắt giữ ngài. Hơi lại hồn, rốt cuộc Bishop lại có thể nói được:
- Chuyện này lại thêm một món nợ nữa với thằng khốn Blood ấy! - hắn nói rít qua kẽ răng. - Lúc nào gặp hắn thì hắn cứ liệu hồn với tôi!
Thiếu tá Mallard quay đi giấu nụ cười. Anh ta lặng lẽ đưa kẻ bị bắt đến dinh thống đốc mà từ lâu nay vẫn là dinh của đại tá Bishop. Để tên đại tá lại ngoài tiền sảnh cho toán cảnh binh canh giữ, viên thiếu tá vào báo với thống đốc rằng kẻ bị bắt đã được đưa đến.
Tiểu thư Bishop vẫn còn ở chỗ Peter Blood lúc Mallard bước vào. Lời thông báo của anh ta đã đưa hai người trở về với thực tại.
- Anh sẽ chiếu cố cho ông ấy chứ, Peter? Vì em! - nàng nài nỉ và vụt đỏ bừng mặt khi nhìn thấy cặp mắt thiếu tá Mallard trố ra vì kinh ngạc.
- Anh sẽ cố, em yêu của anh, - Blood đáp, vui vẻ nhìn anh chàng thiếu tá ngơ ngác, - nhưng anh sợ rằng điều kiện không cho phép anh làm như vậy.
Arabella bối rối biết rằng trước mặt anh chàng thiếu tá nàng không thể được nghe một câu trả lời nào khác. Nàng chạy vụt ra vườn, còn Mallard thì đi dẫn đại tá Bishop vào.
- Đức ông thống đốc sẽ tiếp ông ngay, - anh ta thông báo và mở toang cửa.
Đại tá Bishop chuệnh choạng bước vào phòng và dừng lại chờ đợi.
Ngồi phía sau bàn là một người mà hắn không quen biết. Chỉ trông thấy đỉnh đầu của bộ tóc giả được uốn rất công phu. Rồi thống đốc Jamaica ngẩng lên và cắp mắt xanh biếc của ngài nhìn xoáy vào kẻ bị bắt. Từ cổ họng đại tá Bishop phát ra những tiếng ấp úng; rồi đứng sững như trời trồng, hắn nhìn chòng chọc vào đức thống đốc Jamaica, nhận ra đó chính là người mà hắn lâu nay hoài công săn đuổi.
Cảnh tượng ấy được Van der Kuylen nhận xét rất hay trong khi ông ta nói chuyện với lord Willoughby lúc hai người bước lên boong chiếc kì hạm đô đốc.
- Chuện này trữ tình như thơ, - ông ta nói và trong ánh mắt lấp lánh những tia lửa vui vẻ, - thuyền trưởng Blood thích thơ mà. Ngài nhớ hoa táo chứ? Đúng không nào? Ha... ha…!