Tôi đã trở lại miền Tây một lần nữa, nhưng không có một chương trình nhất định. Tôi đã quá mệt mỏi vì những chuyến xe lửa nhiều bụi bặm và những cỗ xe bò thiếu tiện nghi nên tôi thuê một chiếc xe hơi cũ và một người Ấn vừa làm tài xế vừa là người bạn đường vừa là người chân tay bộ hạ. Phong cảnh thay đổi liền liền. Khi xe đi qua một khu rừng, người tài xế phải ngừng xe khi trời tối, nếu không thấy có làng mạc nào ở gần bên, thì y đốt một ngọn lửa lớn để làm cho thú dữ tránh xạ Dường như trong rừng có rất nhiều beo và mèo rừng, nhưng ánh lửa sáng cũng đủ làm cho chúng không dám lại gần. Ngoài ra còn có loài sơn cẩu, phát ra những tiếng sủa rùng rợn trong cụm rừng gần bên. Ban ngày, loài kêu bay lượn trên không, dưới một vòm trời nắng gắt.
Một buổi chiều đẹp trời, trong khi ngồi trên xe nhẹ lướt trên đường bộ, tôi nhìn thấy bên vệ đường có hai người lạ lùng. Một người mặc áo tu sĩ ngồi tĩnh tọa dưới bóng cây, còn người kia là một thanh niên, dường như là đệ tử của người tu sĩ. Người tu sĩ già dặn hơn vẫn ngồi điềm nhiên bất động, và có lẽ đang ngồi thiền định, vì y không buồn chú ý đến chiếc xe vừa đi qua, mặc dầu người thanh niên đã nhìn thấy tôi, nhưng có một cái gì nó hấp dẫn tôi đến gần người tu sĩ và tôi quyết định ngừng xe. Tôi bảo người tài xế hãy trở lại để hỏi thăm vài điều về hai người lạ mặt, và trong một lát tôi đã thấy người tài xế đang nói chuyện một cách sôi nổi với người thanh niên.
Khi người tài xế trở lại xe, thì y cho biết rằng hai người lạ mặt quả là thầy trò. Người thầy tên là Chandi Das, là một tu sĩ Yogi có những quyền năng lạ lùng. Họ đi ta bà từ làng này sang làng khác, và đã vượt qua rất nhiều dặm đường, có khi đi bộ, có khi đi xe lửa. Họ khởi hành từ tỉnh Bengale là nơi quê hương của họ, đã từ hai năm về trước.
Tôi mời họ lên xe, và người tu sĩ nhận lời với một thái độ thản nhiên còn người thanh niên thì lộ một tia mừng rỡ trong cặp mắt. Chiếc xe ngừng lại một làng kế cận và chúng tôi định ngủ đêm tại đây. Đường sá vắng tanh không có một bóng người, trừ một tên mục đồng coi giữ một đàn bò gầy ốm ở bên cổng làng. Ngày đã hầu tàn nhưng trời còn nóng bức, chúng tôi đến gần một cái giếng để uống nước, nước có vẻ khả nghi nhưng uống rất mát. Làng này không có vẻ gì hấp dẫn, và chỉ có độ năm mươi gian nhà tranh dọc theo hai bên một con đường lộ duy nhất. Nóc nhà lợp bằng rơm, tường nhà đắp bằng đất với hàng rào tre tối, trước cửa nhà của họ, một bà già bước gần giếng, nhìn chúng tôi với cặp mắt khô khan, múc đầy nước vào cái bình đồng và lẳng lặng bước đi.
Người tài xế sau khi đã pha trà xong, liền đi kiếm nhà người thôn trưởng trong làng. Hai thầy trò người Yogi vẫn im lặng ngồi nghỉ ngơi trên bãi cỏ. Người Yogi chỉ biết có vài tiếng Anh, không đủ để nói chuyện, tôi định phỏng vấn y và sẽ nhờ người tài xế làm thông ngôn khi mọi người đã an nơi an chỗ.
Dần dần, một nhóm nhỏ gồm có đàn ông, đàn bà và trẻ con đã vây quanh chúng tôi. Dân chúng ở vùng nội địa ít khi thấy được người Âu, nói chuyện với họ không phải là một điều vô ích, họ rất hồn nhiên và có những ý kiến bất ngờ và chân thật đối với cuộc đời. Đối với trẻ con, tôi là một vật lạ, nhưng tôi chinh phục chúng dễ dàng bằng vài đồng xụ Chúng cũng tỏ ra hâm mộ cái đồng hồ reo của tôi, và lấy làm ngạc nhiên khi tôi vặn cho nó reo vang để làm vui tai chúng. Một người đàn bà đến gần và rạp người lạy người Yogi ở ngay giữa đường, bà ta lấy tay đụng vào chân người Yogi rồi để lên trán mình để tỏ dấu cung kính. Người tài xế trở lại với người thôn trưởng và cho hay trà đã sẵn sàng. Y đã tốt nghiệp ban Trung học, nhưng y vẫn làm đủ mọi nghề:
Phu khuân vác, tài xế, thông ngôn. Y tọc mạch muốn biết về mọi sự việc của Tây phương, và hy vọng rằng có ngày tôi sẽ đem y sang Âu Châu. Tôi đối xử với y như bạn, vì y thông minh và có nhiều thiện chí.
Trong khi chờ đợi, chắc có ai mời mọc hai thầy trò người Yogi, vì họ đã biến mất. Người dân làng thường hiếu khách hơn là người ở tỉnh thành. Chúng tôi bèn lên đường về nhà người thôn trưởng, mặt trời đã ngả về Tây, và sa xuống đỉnh các ngọn đồi ở tận chân trời màu đỏ thắm. Chúng tôi dừng chân trước một nhà tranh cao ráo sạch sẽ hơn những nhà khác. Tôi ngỏ lời cảm ơn chủ nhà. Người này đáp:
- Sự hạ cố của quý vị là một điều hân hạnh cho tôi.
Sau khi dùng trà, mọi người còn ngồi lại một lát. Bóng hoàng hôn đã ngã xuống khắp cánh đồng, những người mục đồng đã đủng đỉnh dắt trâu về chuồng. Tôi nhờ tài xế đi tìm người Yogi và xin y dành cho tôi một cuộc hội kiến. Một lát người tài xế trở về và đưa tôi đến một nhà nhỏ và thấp, vẻ nghèo nàn. Tại đây chỉ có người đệ tử trẻ tuổi đón tiếp tôi, còn người Yogi thì vắng mặt, vì ông ta được mời đi chữa cho một người bịnh nặng và tôi phải đợi chờ người Yogi trở về. Một chập sau, y trở về và vừa gặp tôi, y liền ra bộ và nói một câu mà người tài xế dịch lại rằng:
- Xin chào Tiên sinh, và cầu xin Thánh Thần phù hộ Ông.
Nói xong, y liền ngồi bệt xuống đất, hai chân xếp bằng sau khi từ chối một tấm mền vải của tôi đưa ra để làm nệm lót cho ỵ Vì y ngồi đối diện ngay trước mặt, nên tôi có thể quan sát y tỉ mỉ, bộ râu không chải chuốt làm cho y già đi, tuy thế y có vẻ không hơn năm mươi tuổi. Y để tóc dài chí cổ, vành môi nghiêm khắc hình như không bao giờ cười. Điều đáng chú ý nhứt là cặp mắt sáng quắc. Cái nhìn đó không phải là của trần gian, tôi cảm thấy rằng nó sẽ ám ảnh tôi suốt nhiều ngày. Người Yogi mở lời trước:
- Ông từ phương xa đến đây...
Tôi gật đầu. Y hỏi tiếp:
- Ông nghĩ sao về đại đức Mahasaya...
Tôi giật mình vì ngạc nhiên! Làm sao y biết được rằng tôi vừa đến viếng tỉnh Bengale và gặp Đại đức Mahasaya ở Calcuttả Tôi lặng thinh một hồi và đáp:
- Đại đức đã chinh phục được tấm lòng tôi. Nhưng tại sao ông lại hỏi như vậy...
Người tu sĩ làm như không nghe câu hỏi của tôi, và tôi phải nói tiếp để phá tan sự im lặng:
- Tôi định sẽ gặp lại Đại đức khi tôi trở về Calcuttạ Đại đức có biết ông không, và ông có muốn gởi lời chào Đại đức chăng...
- Không. Ông sẽ không gặp lại Đại đức Mahasaya. Vào lúc này, Tử Thần Yama đang gọi Đại đức về cõi giới bên kia!
Sau một lúc im lặng, tôi nói tiếp:
- Tôi rất thích thú về pháp môn Yoga và đời sống của các tu sĩ. Ông có thể nói cho tôi biết nhân duyên gì đã khiến cho ông trở nên một người Yogi, và nhờ đó ông đã thâu hoạch được những kết quả gì chăng...
Nhưng Chandi Das không có vẻ muốn nói nhiều. Y đáp:
- Dĩ vãng là một đống tro tàn. Tôi không muốn bươi móc dĩ vãng để tìm lại những sự việc nay đã không còn nữa. Tôi không sống trong dĩ vãng, cũng không sống trong tương lai. Những điều đó chỉ là hư ảo, như những cái bóng chập chờn vô định. Đó là cái minh triết mà pháp môn Yoga đã đem đến cho tôi.
Điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi bèn phản đối:
- Nhưng chúng ta là những kẻ sống trong thời gian, làm sao mà không biết đến thời gian được...
Y bèn hỏi ngược lại tôi:
- Trong thời gian... Ông có chắc rằng có cái gì gọi là thời gian hay không...
Coi chừng sa lầy, vì đó là một cuộc tranh luận không có lối thoát. Người tu sĩ này quả thật có khả khiếu lạ lùng như người đệ tử của y đã tuyên bố chăng... Tôi đánh bạo hỏi:
- Nếu thời gian không có, thì dĩ vãng và tương lai đều hiện ra cùng một lúc ngay trong hiện tại. Nhưng kinh nghiệm chỉ cho ta thấy trái ngược lại.
- Ông muốn nói rằng kinh nghiệm của ông, kinh nghiệm của thế gian dạy cho ông biết như thế...
- Lẽ tự nhiên, nhưng phải chăng ông muốn nói rằng ông có một kinh nghiệm khác hẳn về vấn đề này...
- Đúng vậy.
- Phải chăng tôi nên kết luận rằng tương lai cũng là hiện tại đối với ông...
Chandi Das đáp:
- Tôi sống trong cõi vô cùng. Tôi không tìm biết trước những sự việc sẽ đến với tôi trong tương lai.
- Nhưng phải chăng ông có thể biết trước những điều sẽ xảy đến trong tương lai của người khác...
- Phải, nếu tôi muốn.
Tôi quyết định hỏi cho thật rõ:
- Xin ông nói rõ thêm. Phải chăng ông có thể tiên đoán việc tương lai...
- Một phần nào thôi, vì đời người không phải được sắp đặt trước một cách tỉ mỉ từng chi tiết.
- Nhưng ông có thể đoán biết một phần cái tương lai của tôi và nói cho tôi biết chăng...
- Ông muốn biết để làm gì... Nếu Thượng Đế đắp một tấm màn bí mật lên tương lai của con người, ông tưởng rằng không có lý do hay sao...
- Tôi bị ám ảnh dày dò bởi nhiều vấn đề nghiêm trọng. Vì muốn soi sáng phần nào những vấn đề đó, mà tôi đi, hoặc nó cũng có thể cho tôi biết rằng bao nhiêu công lao khó nhọc của tôi đều là vô ích.
Người Yogi ngước lên nhìn tôi với cặp mắt đen láy. Tôi bị hấp dẫn bởi cái nhìn phong độ ung dung tự tại và sự minh triết của người đạo sĩ dường như chiếu hào quang sáng rỡ vào cái chòi tranh nghèo nàn ẩn náu trong rừng thẳm. Sau cùng, Chandi Das cất tiếng nói:
- Tôi không được biết nhiều về khoa học Âu Tây, nhưng nếu ông sẵn lòng nghe tôi, thì cuộc hành trình của ông sẽ không phải là vô ích. Ông hãy trở lại thành phố đầu tiên khi ông bước vào Ấn Độ, và trong tháng sau ông sẽ được như ý nguyện.
- Trở lại Bombay...
- Phải.
Tôi không hiểu gì cả. Bombay, một thành phố đã bị Âu hóa hết ba phần tự Tôi còn thâu thập được gì ở Bombay nữa bây giờ... Tôi nói:
- Tôi xin thú thật là ở Bombay tôi chưa tìm được ai để dẫn dắt tôi hết cả.
- Tuy nhiên, đó là con đường của ông. Ông hãy đi cho mau đừng để mất thời giờ, ông hãy đi vào ngày mai.
- Đó là tất cả những gì ông muốn nói với tôi sao...
- Tôi có thể nói nhiều hơn nhưng tôi chưa suy nghĩ kịp.
Người Yogi lại đắm chìm trong sự im lặng. Cặp mắt y giống như mặt nước hồ trong vắt trong một lúc xuất thần, và sau cơn nhập định y cho biết:
- Ông sẽ từ giã Ấn Độ để trở về phương Tây trước mùa thu tới đây. Ông sẽ bị đau nặng vào lúc ông sắp sửa rời khỏi xứ này. Tinh thần ông còn chiến đấu trong trong một xác thể tàn tạ nhưng ngày giờ giải thoát của nó chưa đến. Ông sẽ được thấy cái ý muốn ẩn dấu của định mệnh vì nó sẽ làm cho ông trở lại đất Ấn Độ tất cả là ba lần. Một vị Tôn Sư mà ông có nhân duyên trong quá khứ hiện nay đang chờ đợi ông, và sau cùng ông sẽ trở lại với chúng tôi.
Người Yogi lại im lặng một lúc, đôi mí mắt y dường như hơi cử động. Kế đó, y nhìn thẳng vào cặp mắt tôi và nói:
- Ông đã nghe chưa... Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với ông.
Chandi Das từ chối không chịu nói gì về cuộc đời cá nhân của y, làm cho tôi không biết nghĩ sao về những lời tiên tri lạ lùng đó, và tôi cảm thấy rằng còn có nhiều điều khác nữa mà y không chịu nói. Trong khi câu chuyện đang tiếp diễn, tôi phải bật cười mà nghe người đệ tử hỏi tôi với một vẻ mặt trịnh trọng, hình như y cũng tự hào về cái bản lĩnh cao cường của thầy y:
- Những người Yogi của Anh Quốc có thể nói tiên tri được như vậy chăng...
Tôi phải khó nhọc một lúc mới làm cho y hiểu rằng ở Anh Quốc không có đạo sĩ Yogị Trong buổi tối diễn ra với những cơn im lặng kéo dài, và khi người Yogi cho tôi biết rằng y không còn điều gì muốn nói nữa, thì người nông phu tiến tới và mời tôi hãy ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với ỵ Tôi đáp rằng tôi đã có sắm sửa đủ mọi thứ mang theo trong xe, và sẽ làm cơm tại nhà người thôn trưởng rồi ở lại ngủ đêm tại đó. Người nông dân trả lời rằng y phải tuân theo những bổn phận cổ truyền của người chủ nhà là phải tiếp khách ở phương xa đến, và khẩn khoản mời mọc hết lời, làm cho tôi không còn cách nào từ chối. Người nông dân bèn đặt trước mặt tôi một đĩa cơm rang nóng sốt. Một vầng trăng khuyết lu mờ hiện ra trong khung cửa sổ nhỏ hẹp. Tôi nghĩ rằng không có một sự học vấn hay một trí óc siêu việt nào của những người ở tỉnh thành có thể bù trừ được với tấm lòng tốt đơn giản của những người thất học ở chốn đồng quệ Khi tôi từ giã hai thầy trò đạo sĩ Chandi Das, người nông dân gỡ lấy cái đèn lồng treo trên trần nhà và tiễn đưa tôi ra tận đường cái. Y đưa bàn tay lên trán để chào và đứng một lúc nhìn khách lên xe. Kế đó, tôi trở về nhà người thôn trưởng dưới ánh đuốc lập lòe do người tài xế cầm nơi taỵ Tôi trằn trọc ngủ không yên giấc, và nghĩ đến những lời tiên tri của người đạo sĩ. Giấc ngủ của tôi bị quấy rối bởi những tiếng kêu rùng rợn của con sơn cẩu trong rừng kế bên, và những tiếng sủa không dứt ở đằng xa của một con chó sủa trăng.
Tuy không có ý định nghe theo lời khuyên của người đạo sĩ, nhưng tôi vẫn đi Bombaỵ Vừa yên nơi yên chỗ xong thì tôi đau nặng. Nằm trong bốn vách tường của một căn phòng khác sạn, mệt mỏi cả tâm hồn lẫn thể xác, tôi đã phải vất vả chiến đấu với sự ngã lòng. Tôi đã bắt đầu cảm thấy chán nản xứ Ấn Độ. Tôi đã vượt qua hàng ngàn dặm đường, dưới những điều kiện thật khó khăn, để rốt cuộc nằm ụ một nơi trong khu sang trọng của một thành phố lớn. Không phải giữa những nơi tửu điếm, những khiêu vũ trường, những sòng bài bạc và những cốc rượu mạnh pha soda sủi bọt mà tôi sẽ khám phá ra cái Ấn Độ huyền bí của tôi đang đi tìm. Sự la cà của tôi ở những khu bình dân bổn xứ chắc chắn đã giúp đỡ tôi trong sự sưu tầm, nhưng điều đó lại có ảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe của tôi. Còn nói về những cuộc phiêu lưu ở những chốn non cao động cả, hay những vùng làng mạc xa xôi trong rừng thẳm, thì tôi đã phải trả một cái giá rất đắt là ăn uống thất thường, thiếu bổ dưỡng, thiếu vệ sinh, những cuộc hành trình vất vả mệt nhọc lúc ban ngày và những đêm mất ngủ vì tiết trời nóng nực. Kết quả là nay tôi đang mang cái thể xác của tôi như một cái gánh nặng.
Tôi sẽ chịu đựng được một đời sống như thế này trong bao lâu nữa... Đôi mắt tôi đã nặng trĩu vì mất ngủ, một cơn mất ngủ nó bám víu tôi một cách chặt chẽ như một con mực khổng lồ bám lấy mồi, kể từ khi bắt đầu cuộc hành trình.
Sự bắt buộc phải sống chung đụng với những người thuộc một nòi giống khác, phải luôn luôn giữ thế quân bình giữa một bộ Óc xét đoán khoa học và một sự thụ cảm tâm linh, làm cho thần kinh hệ của tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi đã phải tập phân biệt những nhà đạo sĩ hiền triết chân tu với những kẻ điên rồ, lầm lạc những điều ảo vọng với những cảm hứng thiêng liêng. Tôi cũng phải biết phân biệt những tu sĩ thần bí với những kẻ buôn thần bán thánh, những điều đó trong một thời gian tối thiểu, vì dầu sao tôi cũng không thể bỏ phí nhiều năm của một đời người để chạy theo một sự tìm tòi như thế.
Nếu thể xác tôi đã kiệt quệ, thì tâm hồn tôi cũng không hơn gì:
Tôi có cảm giác như bị hoàn toàn thất bại cả vật chất lẫn tinh thần. Dĩ nhiên là tôi đã gặp những người chân tu có một giá trị tâm linh cao khiết, tôi cũng đã gặp những người thực hiện được những điều lạ lùng, nhưng tôi chưa gặp được bậc siêu nhân mà tôi tìm kiếm, bậc danh sư có thể làm thỏa mãn cả lý trí lẫn tình cảm của tôi. Những vị đệ tử quá sốt sắng đã cố gắng lôi cuốn tôi theo về môn phái của họ. Tôi đã thừa hiểu rằng cũng ví như trong thời niên thiếu người ta lầm tưởng một chuyện ái tình vụn vặt là một mối tình lớn của cả một đời, thì những người trẻ tuổi này đã lầm tưởng cái kinh nghiệm đầu tiên của họ là một sự khám phá tuyệt diệu, nó ngăn trở không cho họ tiến tới nữa. Có ích lợi gì mà nhồi vào bộ Óc của tôi thêm một giả thuyết hư vô, thần bí, nếu đồng thời tự trong tâm tôi không có xuất hiện một cái gì sống động, độc đáo, đặc biệt là của riêng tôi, một sự giác ngộ thiêng liêng nó là của tôi chứ không phải là một thứ ánh sáng mượn tạm từ bên ngoài... Nhưng nghĩ lại, tôi là ai mà dám mơ ước những triển vọng cao cả như thế. Tôi có quyền lực gì mà dám ước mong đến những ân huệ cao sang của định mệnh như thế. Nhìn về khía cạnh nào của vấn đề, tôi cũng chỉ thấy có những lý do chán nản, tuyệt vọng.
Khi tôi đã thấy hơi khỏe để có thể bước xuống phòng ăn, tôi thấy ở bàn kế bên có một người sĩ quan. Người này mới nói chuyện với tôi về bà vợ của y đang đau ốm trầm trọng chạy chữa thuốc thang không hết, về đơn xin nghỉ phép của y bị từ chối,... Điều này càng làm cho tôi chán nản hơn nữa. Bữa cơm xong, vị sĩ quan vừa châm một điều xì gà lớn vừa nói:
- Đời người phải chăng là một tấn hài kịch... Hả ông bạn...
Tôi cũng đáp buông xuôi lấy lệ:
- Ừ! Hài kịch!
Nửa giờ sau, tôi gọi xe taxi đi đến đường Hornby Road và bước vào văn phòng một công ty hàng hải. Tôi mua vé tàu với ý nghĩ rằng trong hoàn cảnh hiện thời không còn có giải pháp nào khác hơn là lên đường càng sớm càng haỵ Và tôi liền trở về khách sạn mà không màng để ý đến những tòa lâu đài, dinh thự đồ sộ nguy nga của thành phố Bombay.
Chiều đến, người bồi đặt trên bàn tôi một dĩa cari ngon lành và thơm phức, nhưng tôi không thấy đói. Tôi chỉ uống một ly nước đá lạnh và gọi taxi ra đi. Xe ngừng trước một rạp chớp bóng, đèn ống chiếu sáng lòa cả vùng chung quanh:
đó là một món quà của phương Tây nhập cảng sang Ấn Độ. Thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem chớp bóng, và đó là một nguồn lãng quên, ví như nước sông Léthé ở cảng âm tị Người ta không còn thấy cô đơn khi mà trong bất cứ một thành phố nào của thế giới, người ta cũng có thể thuê một chiếc ghế bành êm dịu trong gian phòng ấm cúng để xem hát trong vài giờ. Tôi bước vào và liền thấy trên màn bạc người vợ ngoại tình và người chồng chơi bời phóng túng trong một khung cảnh sang trọng quý phái. Nhưng cốt chuyện trên màn bạc làm tôi chán nản, tôi đã mất cái thích thú đi xem chớp bóng. Tấn bi hài kịch trên màn bạc không còn có thể làm cho tôi cười hay khóc được nữa. Trong khi đó, cảnh vật chung quanh tôi, cả gian phòng lẫn màn bạc, đều như xóa mờ trong một thế giới huyền ảo và tâm trí của tôi lại quay về cái vấn đề nó vẫn ám ảnh tôi từ trước.
Bỗng nhiên, thần kinh và cân não tôi bị căng thẳng mãnh liệt, tôi cảm thấy dường như có một luồng điện chạy qua trong bầu không khí chung quanh và một sự thay đổi lớn đang diễn ra trong người của tôi. Một tiếng nói từ trong nội tâm phát ra và bắt buộc tôi phải chú ý:
- Cuộc đời chẳng khác nào như một cuốn phim chiếu bóng, một ảo ảnh di động luôn, nó diễn ra từ cái nôi đến nấm mồ. Những sự vật trong dĩ vãng nay còn đâu:
Ngươi có thể kêu gọi nó ra được chăng... Thay vì tiếp tục thẳng tiến đến cái chân thật, bền bỉ, trường tồn, ngược lại dừng chân ở nơi đây và lãng phí thời giờ với một cái hình ảnh còn phỉnh lừa hơn là cuộc đời, với một câu chuyện tưởng tượng, một ảo ảnh trong cái ảo ảnh.
Thật vậy, tôi đã chán nản những tấn bi kịch về tình ái của người đời. Tôi bèn đứng dậy đi ra để thở cái không khí mát mẻ ở bên ngoài, đi thơ thẩn vô định dọc theo các đường phố dưới ánh trăng êm dịu. Đến một góc đường, một người hành khất đến gần tôi và thốt ra một tiếng kêu lạ lùng, nó làm cho tôi ngẩng mặt lên:
Tôi thụt lùi lại trong sự khủng khiếp, vì gương mặt của người ấy bị một chứng bệnh quỷ quái gì nó ăn lở loét đến tận xương. Nhưng lòng trắc ẩn mạnh hơn sự ghê tởm, tôi bèn ném hết tất cả những đồng tiền lẻ vào bàn tay lật ngửa của ỵ Tôi đi đến bờ biển để tìm một nơi hẻo lánh và tránh chỗ đông người, dưới vòm trời đầy sao, tôi nghĩ đến cơn khủng hoảng vừa rồi trong rạp hát, và tự thả trôi theo những ý nghĩ triền miên không dứt.
Chỉ còn vài ngày nữa là tôi sẽ xuống tàu vượt biển trở về Châu Âu. Thôi, hãy tạm ngưng việc học Đạo. Tôi tự nghĩ tất cả những gì mà tôi có thể hiến dâng như thời giờ, tiền bạc, trí não, công lao, tôi không hy sinh nữa để chạy theo những giả thuyết vu vợ Khi ngồi trên tàu, có lẽ tôi sẽ nghĩ như vậy, nhưng trong khi chờ đợi, tiếng nói của nội tâm lại dằn vặt tôi một cách ráo riết, không dung tha:
"Đồ điên! Thì ra kết quả của bao nhiêu nguyện vọng thiết tha, của bao nhiêu năm tầm Đạo, nay chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao... Ngươi sẽ trở lại với cuộc đời tầm thường, noi theo con đường bằng phẳng của thế nhân, quên hết tất cả những gì ngược đã học và nhận chìm viên ngọc tâm linh quý báu của ngươi xuống chỗ bùn nhơ của thất tình nhục dục. Nhưng này, ngươi hãy coi chừng! Cuộc đời học Đạo của người có thể thoát khỏi một cách dễ dàng những đòi hỏi của một nguyện vọng như thế hay sao... Ngươi đừng hy vọng thoát khỏi, vì đó là những sợi dây trói buộc người đã từ lâu. " Một mình đứng dưới vòm trời đầy sao, tôi không thể cưỡng lại được cái tiếng nói nội tâm nó dằn vặt tôi một cách thẳng tay không chút tội nghiệp, làm cho tôi trở nên bất lực trước sự khủng hoảng. Và tiếng nói vô âm thinh kia lại tiếp tục:
"Ngươi có chắc rằng trong những người mà ngươi đã gặp, không có ai đáng mặt là vị danh sư mà ngươi tìm kiếm hay chăng... " Tôi hồi tưởng lại tất cả những người tu sĩ và đạo sĩ Yogi mà tôi đã gặp ở dọc đường. Tất cả những gương mặt rám nắng hoặc đen xạm diễn lại trong trí tôi, từ những nét mặt nhanh nhẹn vui tươi của người miền Bắc, thản nhiên của người miền Nam, linh hoạt và dễ xúc cảm của người miền Đông và im lặng trầm tĩnh của người miền Tây. Những gương mặt đó tuy khác nhau về sự thiện cảm hay thù nghịch, khôn ngoan hay đần độn, có hảo ý hay có ác ý, nhưng tất cả đều có một điểm chung là bí hiểm, khôn dò. Tuy nhiên có một gương mặt tách riêng ra khỏi những gương mặt khác, mà đôi mắt không rời khỏi đôi mắt của tôi. Tôi đã nhìn ra rồi:
đó là đức Maharichi, vị Tôn Sư ẩn dật trên ngọn Đồi Thiêng ở dưới tận miền Nam xa xôi của Ấn Độ. Không bao giờ tôi có thể quên Ngài và thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến Ngài nhưng những sự biến thiên, thay đổi của cuộc đời, cùng những điều lo nghĩ dồn dập đã xóa mờ dần cái kỷ niệm êm đềm cùng những ngày ngắn ngủi mà tôi đã sống ở đạo viện. Tôi phải nhìn nhận rằng không có một người nào ở trần gian đã từng hấp dẫn tôi một cách lạ kỳ như thế. Nhưng Ngài dường như quá ẩn dật, quá cách biệt đối với một người Âu như tôi, và quá thản nhiên đối với những mục đích khiêm tốn của tôi. Tuy nhiên, cái tiếng nói của nội tâm lại vang lên:
- Thản nhiên ư! Ngươi có chắc không... Phải chăng ngươi đã bỏ ra đi quá sớm...
Và lý trí của tôi cũng đáp lại để tự bào chữa:
- Phải, có lẽ tôi đã quá vội vàng ra đi, vì tôi nghĩ đến chương trình của tôi. Tôi có thể nào làm khác được chăng...
- Ít nhất có một điều mà ngươi có thể làm:
Hãy trở lại đạo viện.
- Như vậy, phải chăng là tôi làm một điều miễn cưỡng, gượng gạo...
- Cái đó không quan hệ, điều quan hệ là sự thành công. Ngươi hãy trở lại với đức Maharichi.
- Nhưng Ngài ở tận dưới miền Nam xa xôi, ở nơi tận cùng của xứ Ấn Độ, mà tôi thì đã quá mệt mỏi và đau ốm để có thể lên đường.
- Điều đó cũng không quan hệ. Nếu ngươi muốn gặp Tôn Sư thì ngươi đừng quản công lao khó nhọc.
- Tôi đã quá mệt mỏi và chán nản nên không còn thiết đến điều gì nữa, và cũng không chắc rằng tôi còn có ý muốn đi tìm Thầy. Tôi đã giữ chỗ trên tàu và sẽ khởi hành trong ba ngày. Muốn đổi ý kiến thì cũng đã trễ rồi.
- Không bao giờ là quá trễ. Ngươi hãy xét đoán sự vật theo đúng giá trị của nó. Ngươi nói rằng đức Maharichi là người siêu việt nhất mà ngươi đã gặp, vậy mà ngươi bỏ ra đi khi ngươi mới vừa được biết Ngài. Hãy trở lại cho mau!
Cái lý trí đã chịu khuất phục và vâng theo tiếng nói của nội tâm, nhưng cái thể xác đau yếu còn chống cự lại. Tiếng nói bí mật kia lại tiếp tục:
- Ngươi hãy hủy bỏ chương trình đã định, và hãy trở lại với đức Tôn Sư.
Tiếng nói đó phát ra như một cái lịnh và vang lừng trong tâm giới của tôi. Sự biện luận của lý trí và sự chống đối của cái xác thể mỏi mệt cũng trở nên vô hiệu quả. Tôi cũng như một đứa trẻ nhỏ yếu đuối bất lực, không còn sức tự chủ. Vào lúc mà tiếng nói kia kêu gọi một cách mãnh liệt nhất, réo rắt thâm trầm nhất, thì hình ảnh của đức Maharichi hiện ra trước mắt tôi, một hình ảnh sống động và hấp dẫn, không thể nào kháng cự lại được nữa. Tôi đành chịu thua và bỏ cuộc, như một kẻ chiến bại đành buông khí giới và rời khỏi chiến trường. Tôi sẽ trở lại đạo viện, và nếu Tôn Sư bằng lòng, tôi sẽ giao phó vận mạng tôi cho Ngài định đoạt. Thế là xong, tôi đã bị chinh phục, mặc dầu tôi vẫn còn hoang mang chưa hiểu ra sao cả, nhưng tôi cảm thấy rằng tôi không còn thuộc về tôi nữa. Tôi trở về khách sạn, uống một chén trà nóng, tôi đã hoàn toàn thay đổi, và cảm thấy nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng.
Sáng ngày hôm sau, tôi thấy trong lòng vui vẻ và khỏe khoắn lạ thường, đó là lần đầu tiên từ khi trở lại Bombaỵ Người bồi bàn của tôi trong bộ áo đồng phục trắng tinh, nịt thắt lưng vàng, khi vừa thấy tôi bước vào phòng ăn liền vui vẻ cười và nói:
- Có thư của ông đây.
Tôi mở thư ra xem thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy thư gửi từ đạo viện Arunachala, trên ngọn Đồi Thiêng. Thư ấy là của một vị Thẩm phán trong Hội Đồng Lập Pháp tỉnh Madras, người này vì một tấn thảm kịch gia đình, đã quyết định đi tu và trở nên một vị đệ tử của đức Maharichị Tôi đã từng làm quen với y và thỉnh thoảng có trao đổi thư từ qua lại. Trong thư, y nói rằng tôi sẽ được hoan nghinh nếu tôi trở lại đạo viện. Câu cuối cùng trong thư lại nói:
"Ông rất may mắn được gặp vị Tôn Sư mà ông vẫn tìm kiếm. " Bức thư này đến với tôi như một điềm lành, tôi liền đến văn phòng Công ty hàng hải để xin hủy bỏ vé tàu về Anh Quốc.
Một lần nữa tôi lại từ giã thành phố Bombay và vượt qua vùng cao nguyên Décan để trực chỉ miền Nam. Lần này tôi có cảm tưởng như đi đến ánh sáng và an lạc. Qua ngày hôm sau, tôi lấy làm sung sướng mà nhìn thấy lại những phong cảnh êm đềm và những ngọn đồi đất đỏ của miền Nam. Tôi càng phấn khởi hơn khi chuyến xe lửa đã qua khỏi vùng đồng nội khô khan và tôi bắt đầu thở cái không khí mùi gió biển của thành phố Madras, chấm dứt chặng đầu của cuộc hành trình.
Tại Madras, tôi phải đổi qua chuyến xe lửa khác và trong khi chờ đợi, tôi đến viếng thăm nhà văn hào Mani, người bạn đồng nghiệp đã giới thiệu tôi với đức Tăng Thống Shri Shankara độ nọ. Nhà văn hào tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt và khi được biết rằng tôi trở lại đạo viện của đức Maharichi thì y nói rằng:
- Tôi không ngạc nhiên, vì tôi đã biết trước.
Tôi ngạc nhiên nhưng vẫn cứ hỏi:
- Vì đâu mà anh lại nói như vậy...
Y mỉm cười đáp:
- Bạn ơi, bạn có nhớ chăng, khi chúng ta từ giã đức Tăng Thống ở Chingleput, khi ra tới hành lang, Ngài có day lại nói nhỏ với tôi vài điều.
- À! Bây giờ anh nhắc lại, tôi mới nhớ. Vậy đức Tăng Thống nói những gì...
- Ngài nói với tôi như vầy:
"Người bạn anh sẽ đi châu du khắp xứ Ấn Độ để tìm Thầy. Y sẽ gặp nhiều vị đạo sĩ, nhưng sau cùng y sẽ trở lại với đức Maharichi, vì đó là vị Tôn Sư duy nhất sẽ thích hợp với ỵ" Thật là lạ lùng! Phải chăng đức Tăng Thống Shri Shankara quả thật là một nhà tiên trị Dầu sao, những lời này cũng xác nhận và củng cố thêm cho quyết định của tôi, rằng tôi đã tìm thấy đúng con đường của tôi đi.
Có những giờ mà người ta có thể khắc bằng chữ vàng trong quyển lịch của đời mình. Đó là một trong những giờ phút thần tiên mà định mệnh đã dành cho tôi khi tôi trở lại đạo viện của đức Maharachi.
Ngài vẫn ngồi ở Tịnh xá như thường lệ, trên tấm da cọp rất đẹp. Những cây nhang nối tiếp nhau cháy một cách chậm chạp trên chiếc bàn nhỏ, tỏa ra khắp phòng một mùi hương thơm dịu. Trong lúc đó, đức Tôn Sư không ngồi nhập định, Ngài vẫn tỉnh táo như thường, đôi mắt nhìn tự nhiên và đôi môi Ngài nở một nụ cười tiếp đón khi tôi bước vào Tịnh Xá và nghiêng mình kính cẩn chào Ngài. Vài vị đệ tử ngồi cách xa Ngài một cách cung kính, một vị đứng gần kéo cái quạt tre treo trên trần để quạt cho mát khắp phòng.
Lần này tôi định trình bày cho Tôn Sư biết rõ ý muốn của tôi, và chỉ yên lòng khi tôi biết được quyết định của Ngài. Nhưng tôi có nhiều hy vọng được Ngài thâu nhận, vì cái tiếng nói trong nội tâm nó gọi tôi từ Bombay trở về đây, và nó vang lên như một cái lịnh, là một tiếng nói mãnh liệt mà tôi không thể nào cãi lời và không nghe theo. Sau vài lời giải thích tôi trình bày lời thỉnh cầu của tôi một cách vắn tắt, gọn gàng, Đức Maharichi vừa nhìn tôi vừa mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng. Tôi lập lại câu nói của tôi, và lần này Ngài trả lời trực tiếp bằng tiếng Anh rất lưu loát:
- Cần gì phải nói đến việc thầy trò... Những sự khác biệt đó chỉ có dưới quan điểm của người sơ cợ Đối với người nào đã phản hồi nguyên tánh của mình, thì không có chuyện thầy với trò, mà chỉ có người với người mà thôi.
Tôi tự nghĩ phải chăng đó là một sự từ chối, tôi cố gắng trình bày lời yêu cầu của mình một cách khác và tôi được trả lời như sau:
- Anh phải tìm thầy ở tự nơi anh, tôi muốn nói ở nơi Chân Ngã, hay Chân Như Phật tánh của mình.
Tôi bắt đầu hiểu ý Ngài:
đức Maharichi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, tôi phải tìm hiểu những lời nói của Ngài, nó rất u ẩn và tế nhị. Tôi không nói thêm nữa về việc đó, và chỉ nói chuyện với Tôn Sư về chuyến du hành của tôi. Kế đó, tôi trở về chỗ an nghỉ dành riêng cho tôi trong đạo viện, và chuẩn vị Ở trong một thời hạn lâu dài.
Trong tuần lễ kế đó, tôi sống một cuộc đời bất thường. Ban ngày tôi đến ngồi trong Tịnh Xá của đức Maharichi để nghe những lời vàng ngọc của Ngài và để hy vọng nhận được câu trả lời mà tôi đang chờ đợi. Nhưng ban đêm tôi vẫn bị chứng mất ngủ, mặt dầu tôi nằm dưới đất một cách giản dị trong một cái chòi mới cất ở cách đạo viện chừng một trăm thước. Chỗ này vách tường làm bằng đất, nóc lợp tranh, ở chung quanh toàn là những bụi cây có gai, những loại cây xương rồng, là chỗ bắt đầu của khu rừng hoang rậm rạp, không hề có chân ngọn núi Thiêng, ở phía nam, có một cái ao lớn, mặt nước phẳng lặng, trên bờ ao có nhiều chòm cây và rất nhiều loài khỉ vượn nhảy nhót trên cành.
Những chuỗi ngày trôi qua một cách đều đặn. Mỗi ngày, tôi dậy sớm trước khi mặt trời mọc và xuống ao tắm. Tôi phải đập nước và làm nhiều tiếng động để cho loài rắn tránh xạ Kế đó, tôi uống một cách ngon lành ba chén trà thơm nóng, nó là cái xa xỉ phẩm duy nhất của tôi ở đạo viện thâm nghiêm này.
Còn nói về những bữa ăn của tôi, thì chỉ có một người bồi lo việc bếp núc và đi chợ nấu ăn. Tuy thế, tôi chỉ có ăn một buổi trưa còn buổi chiều thì tôi uống sữa hay uống trà. Sau khi điểm tâm xong, tôi thong thả bước lần xuống Tịnh Xá, có khi tôi ngừng lại xem những bụi hoa hường trong vườn, hoặc ngồi dưới những gốc dừa sai trái. Vì buổi sớm mai mặt trời chưa lên cao nên dạo chơi trong vườn để thưởng hoa như thế là một điều thích thú.
Kế đó tôi bước vào Tịnh Xá, cúi đầu chào Tôn Sư, và ngồi xếp bằng dưới sàn gạch. Tôi được tự do đọc sách hay viết thư trong một lúc hoặc nói chuyện với các vị đệ tử, chất vấn Tôn Sư về một vấn đề nào đó, hoặc tham thiền trong một giờ về một đề tài của Tôn Sư đưa ra. Buổi tối thì dành cho cuộc tham thiền chung. Nhưng, dầu cho tôi mắc bận việc gì, tôi cũng cảm thấy cái ảnh hưởng tốt lành của bầu không khí chung quanh nó tiềm tàng một niềm an tịnh thiêng liêng, phảng phất trong đạo viện. Chỉ ngồi bên cạnh đức Maharichi cũng đủ làm cho tâm hồn được tạo ra khi tôi với Tôn Sư ngồi gần nhau. Điều này tuy rất tế nhị, nhưng không thể nào lầm lẫn được.
Đúng mười một giờ, tôi trở về chòi dùng cơm và nghỉ trưa, kế đó tôi trở lại ngồi nơi Tịnh Xá.
Thỉnh thoảng để thay đổi không khí, tôi đi dạo vùng chung quanh hoặc xuống tỉnh để viếng ngôi đền Bà La Môn vĩ đại và tôn nghiêm ở đó. Đôi khi, đức Maharichi bổn thân đến nơi chòi tranh để viếng tôi mà không báo trước. Lẽ tự nhiên, tôi không bỏ qua những dịp đó để hỏi Ngài về nhiều vấn đề thắc mắc. Ngài nghe tôi một cách vô tư tuy rằng với những danh từ ngắn ngủi, ít khi thành một câu trọn vẹn. Có lần tôi hỏi mà Ngài không trả lời. Cặp mắt ngài đắm chìm vào chỗ hư không ở tận chân trời, Ngài im lặng như thế trong vài phút, không chút cử động, hình như Ngài không có ở đó nữa. Ngài mắc thiền định suy tư, hay mãi nhìn vào một vật vô hình nào ở trong không gian, mà chỉ có Ngài mới nhìn thấy... Ngài có nghe thấy tôi chăng... Dầu sao đứng trước mặt Ngài, tôi bị một cái sức mạnh gì nó xâm chiếm và chế ngự cả tâm hồn tôi.
Việc ấy đã cho tôi một bài học. Có ích gì mà đặt ra những câu hỏi nọ kia và thảo luận dông dài khi mà tôi đã có tự nơi mình một cái giếng hiểu biết mà tôi chỉ cần đào xới lên để tìm thấy... Tốt hơn là hãy chấm dứt mọi suy luận, đôi co và cố gắng khai thác những gì tiềm tàng trong bổn tánh Chân Như của mình. Vì thế, tôi vẫn giữ im lặng và chờ đợi.
Nửa giờ sau, đức Maharichi vẫn điềm nhiên bất động. Hình như Ngài đã quên sự có mặt của tôi nhưng tôi cảm thấy rõ ràng rằng sự giác ngộ bên trong của tôi vừa thần giao cách cảm, một ảnh hưởng huyền bí toát ra từ thân mình của Ngài.
Có lần, trong một cuộc viếng thăm bất thần như thế, Ngài thấy tôi đang bị dày vò bởi một cơn khủng hoảng, buồn rầu. Ngài mới an ủi và khuyến khích tôi, và nói về cái mục đích huy hoàng hứa hẹn cho người nào thực hành pháp môn Yoga.
- Nhưng bạch Tôn Sư, pháp môn đó là một con đường đầy những chướng ngại, và tôi tự biết rõ về sự yếu đuối của tôi.
- Đó là điều chắc chắn nhứt để trì kéo ta lại, vì chính sự thiếu tin tưởng đó, cái tinh thần chủ bại đó, làm tê liệt mấy ý chí tiến thủ của con người.
- Nhưng nếu sự chủ bại đó có căn cứ...
- Nó không có căn cứ nào cả. Điều lầm lạc lớn nhứt của ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém, nó là do những thói quen, lòng ham muốn và dục tình sinh ra, chớ không phải chính là của ta.
Những lời nói đó có một sự kích thích rất mạnh. Có lẽ tôi sẽ gạt bỏ, nếu là từ người nào khác thốt ra, nhưng lương tri của tôi cho biết rằng lời Ngài thốt ra là đúng Chân Lý, rằng Tôn Sư không phải là một triết gia phân tách từ cái mũi kim, mà là một bực Hiền Giả nói ra những kinh nghiệm thâm sâu và dồi dào phong phú của Ngài. Một lần khác, trong một cuộc nói chuyện về đời sống ở phương Tây, tôi nói:
- Tôn Sư không có gì khó khăn để tìm thấy sự an tịnh trong một đạo viện êm đềm vì ở đây Ngài bị xao lãng hay xáo trộn tinh thần.
- Anh tưởng như vậy, nhưng một khi đã đi tới mục đích, một khi anh đã được sự giác ngộ, thì dầu cho anh sống giữa chốn phồn hoa náo nhiệt của tỉnh thành hay giữa sự im lặng của rừng thẳm, điều đó không có khác biệt chi cả.
Một lần khác, tôi phàn nán về việc người Ấn Độ không chú ý đến sự tiến bộ về vật chất, thì Ngài nói:
- Thật vậy, chúng tôi thuộc về một chủng tộc mà các anh gọi là lạc hậu. Nhưng chúng tôi quen sống đơn giản. Nhiều sự tiến bộ khoa học vẫn còn xa lạ đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi lấy làm an phận và không có quá nhiều sự nhu cầu như các anh. Như vậy, tuy ít tiến bộ hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi kém hạnh phúc.
Bằng cách nào đức Maharichi đã đạt tới cái trình độ tâm linh tuyệt vời và siêu đẳng như thế... Nhờ sự góp nhặt tài liệu về cuộc đời Ngài, do các đệ tử thuật lại hoặc do chính Ngài thốt ra một đôi khi, mặc dầu Ngài không thích nói về đời tư của mình, tôi đã chép lại đại khái tiểu sử của Ngài như sau:
Ngài tên là Ramana, sinh nãm 1879, tại một làng cách thành phố Madrua độ ba mưưi dặm, thành phố này có một ngôi đền vĩ đại nổi tiếng ở miền Nam Ấn Độ. Cha ngài, một vị thẩm phán thuộc dòng Bà La Môn, có tiếng là nhân từ, giàu lòng bố thí và hay cấp dưỡng cơm áo cho người nghèo. Ngài được nuôi nấng và giáo dục tại Madrua, tại đây ngài học Anh văn ở một trường đạo của các vị giáo sĩ người Mỹ sáng lập.
Lúc thiếu thời chàng thanh niên Ramana thích thú chơi các môn thể thao và điền kinh, chàng tập chơi các môn vật, đánh quyền và bơi lội. Chàng không có biểu lộ một sự thích thú đặc biệt nào về tôn giáo hay triết học.
Có điều lạ là hồi đó chàng thường có những cơn mê sảng, nửa đêm đứng dậy đi trong giấc ngủ và tiếp theo đó là cơn ngủ say li bì, không có tiếng động nào có thể đánh thức dậy. Những bạn học cùng lớp kiêng sợ chàng lúc ban ngày vì chàng trả đũa lại rất mau chóng mọi sự khiêu khích của chúng. Nay chúng thấy vậy, mới lợi dụng lúc ban đêm để trả thù. Chúng kéo chàng ra khỏi giường nằm, đưa chàng ra sân trường và đánh chàng túi bụi rồi đem chàng để lại chỗ cũ trên giường mà chàng vẫn không tỉnh giấc. Qua ngày sau, chàng vẫn không hay biết chi cả. Đối với nhà tâm lý học quan sát hiện tượng lạ lùng này, thì đó là những triệu chứng hiển nhiên của một cơn thoát trần đại định.
Ngày kia có một người thân nhân đến viếng chàng, và thuật lại rằng y vừa đi hành hương ở Arunachala trở về. Danh từ này vang dội một âm thanh lạ lùng huyền bí trong trí của người thiếu niên mà chàng không hiểu lý do vì đâu. Chàng bèn hỏi thăm về Arunachala và khi chàng biết được sự tích của ngôi đền lớn ở tại đó, chàng liền bị một sự ám ảnh. Tuy Ấn Độ có đến mười hai nơi Thánh Địa, nhưng tại sao Arunachala lại làm sao cho chàng say mê và thích thú nhiều hơn những nơi Thánh Địa khác thì chàng cũng không thể trả lời được.
Chàng tiếp tục sự học tại trường đạo nhưng không biểu lộ một khả năng đặc biệt nào, mặc dầu chàng là một đức học trò thông minh và chăm chỉ. Năm chàng mười bảy tuổi thì định mệnh mới bắt đầu hành động. Chàng bỏ trường và thôi học mà không có lý do rõ rệt, cũng không cho các giáo sư hoặc cho gia đình biết trước. Sự thay đổi thình lình đó, nó phá tan mọi triển vọng về tương lai của chàng, có một nguyên nhân nào chăng... Cái nguyên nhân đó đối với chàng thật là hiển nhiên, nhưng nó làm cho gia đình chàng phải bóp trán nghĩ ngợi. Vì cuộc đời, vị Thầy học lớn nhứt của ta, vừa đặt để người thanh niên ấy trên một con đường mà các ông giáo sư không hề nghĩ đến. Sáu tuần lễ sau đó, chàng rời khỏi trường, từ giã Madura và không hề trở lại nữa.
Ngày đó chàng đang ở một mình trong phòng thì tự nhiên chàng bị xâm chiếm bởi một cơn khủng hoảng lạ kỳ. Mặc dầu đang mạnh khỏe, chàng có cảm giác như người sắp chết. Bị ám ảnh bởi ý nghĩ đó, chàng chuẩn bị để đón tiếp Tử Thần, dường như là sự chết đã đến nơi. Chàng tự nghĩ rằng:
"Thế là hết. Cái thể xác này sẽ chết, người ta sẽ đem nó ra thiêu ngoài đồng và nó sẽ thành một nhúm tro tàn. Nhưng còn tôi, tôi cũng sẽ chết với cái xác này chăng... Cái xác này có phải là tôi không, cái xác này đã cứng đờ và im lặng, nhưng tôi vẫn còn tiếp tục cảm thấy cái tôi trong sức mạnh vô biên của nó. " Đức Maharichi đã diễn tả cơn khủng hoảng lạ lùng đó bằng những lời lẽ trên đây. Còn việc gì xảy ra sau đó thì rất khó hiểu, nếu không là khó thuật lại. Chàng dường như rơi vào một trạng thái đại định có ý thức, khi đó chàng đạt tới nguồn gốc của Chân Ngã, tức là tinh hoa của bản thể. Khi đó chàng quan niệm rằng xác thể là một vật ở ngoài Chân Ngã, và Chân Ngã vẫn tồn tại không thay đổi trong khi chết. Chân Ngã xuất hiện với chàng như là một sự chân thật tuyệt đối, nhưng bị ẩn dấu và chôn sâu trong chỗ tận cùng của con người, đến nỗi cũng như bao nhiêu người khác, trước khi đó chàng không hề biết nó là gì.
Khi chàng Ramana tỉnh lại sau cơn khủng hoảng đó thì chàng hoàn toàn thay đổi. Chàng đã mất hết mọi thích thú về sự học, chơi điền kinh, về bạn bè, vì sự thích thú của đời chàng đã tập trung về cái ý niệm Chân Ngã nó thình lình xâm chiếm lấy chàng. Mọi ý niệm về sự chết trước đây đã biến mất. Chàng đã chinh phục được, với một niềm an tịnh bên trong, một sức mạnh tinh thần nó không hề mất đi hoặc suy chuyển chút nào kể từ khi đó.
Xưa kia chàng phản ứng mãnh liệt như thế nào đối với những bạn học khi bị chúng nó phá phách, thì nay đối với chúng chàng chỉ có một lòng ưu ái và nhân từ. Chàng chịu đựng mọi sự bất công một cách thản nhiên và biểu lộ một sự khiêm tốn hoàn toàn trong mọi việc. Chàng từ bỏ những thói quen có từ xưa, tìm kiếm sự yên tịnh để lo việc tham thiền quán tưởng và sống đời sống nội tâm.
Những sự thay đổi tâm tính như thế không khỏi làm cho người chung quanh chú ý. Một hôm người anh cả của chàng bước vào phòng, thấy chàng đang nhắm mắt và đắm chìm trong một cơn thiền định, những sách vở nhà trường rơi rớt tản mát dưới đất, như là chàng vừa ruồng bỏ chúng một cách chán nản. Người anh cả liền trách móc:
- Mầy đang làm gì đó... Nếu mầy muốn trở nên đạo sĩ thì còn đi học để mưu cầu công danh làm gì... Chàng Ramana cảm thấy thấm thía về những lời nói đó và quyết định rất mau chóng. Chàng đã mồ côi cha và biết rằng chàng có thể nhờ cậy nơi người cậu và các em để nuôi dưỡng mẹ chàng. Dầu sao, chàng không còn phận sự gì phải làm ở nhà nữa. Ngay lúc đó, cái tên ngọn Đồi Thiêng bỗng xuất hiện như một tia chớp trong trí chàng, cái tên nó vẫn ám ảnh chàng từ một năm nay, và hiện ra một cách quyến rũ:
Arunachala! Đó chính là nơi chàng phải đi đến, mặc dầu chàng không nói rõ lý do tại sao. Nhưng chàng chỉ nghe theo một tiếng gọi mãnh liệt, không hề dự tính trước. Về sau này, chính đức Maharichi đã nói với tôi:
"Hồi đó, tôi hoàn toàn chịu ảnh hưởng của một sự quyến rũ lạ lùng. Cái mãnh lực huyền bí nó dắt dẫn anh đến đây cũng giống như cái sức mạnh vô hình nó bắt buộc tôi từ giã Madurạ" Như thế, chàng thanh niên Ramana rời bỏ tất cả sự học vấn, bạn bè và gia đình, và nhắm con đường đưa đến Arunachala dưới sự dìu dắt của định mệnh. Chàng để lại cho gia đình một bức thư bằng chữ Tamoul, nay còn được giữ gìn tại đạo viện. Thư nói như vầy:
"Tôi đi tìm đấng Cha Lành và để nghe theo tiếng gọi của Ngài. Mục đích của tôi vốn trong sạch, vậy đừng ai lo ngại gì cả. Không cần phải tiêu phí tiền bạc để đi tìm tôi. " Chàng ra đi hoàn toàn rời bỏ thế gian, với ba rupee trong túi, và bỡ ngỡ trước một thế giới hoàn toàn xa lạ. Nhưng ngọn lửa Thiêng bừng cháy trong lòng chàng, chàng khinh bỉ của cải thế gian đến nỗi khi bước vào đền, chàng cởi bỏ quần áo và cúi rạp đầu lạy trong khi mình mẩy đều trần truồng. Một người giáo sĩ bước tới và khiển trách, nhưng chàng vẫn trơ trợ Nhiều người khác cũng can thiệp và yêu cầu chàng hãy mặc tạm cái quần cụt, chàng không mặc một thứ y phục nào khác hơn kể từ khi đó.
Trong sáu tháng trường chàng vẫn ở đó, thỉnh thoảng chàng rời chỗ nhưng không bao giờ ra khỏi cổng đền. Mỗi ngày một lần, một giáo sĩ ngạc nhiên vì lòng sùng tín quá sớm của chàng, mới đem cho chàng một ít cơm. Những ngày sống trong đền, chàng đều đắm chìm trong một cơn nhập định thâm trầm đến nỗi chàng quên cả sự hiện diện của thế giới bên ngoài. Có đôi khi, những đứa trẻ mất dạy quanh vùng đến ném đá và bùn nhơ vào người chàng, rồi vừa chạy trốn vừa chế nhạo. Chàng chỉ nhận thấy điều đó trong nhiều giờ sau, và không có một sự Oán trách nào đối với những đứa trẻ mất dạy kia.
Những đám người đi hành hương hằng ngày đổ xô đến ngôi đền làm cho nơi đó không còn là một nơi yên ổn tịch mịch như chàng vẫn mong muốn. Vì lẽ đó, chàng mới từ giã ngôi đền và đến ở ẩn trong một cái miếu nhỏ giữa đồng, cách xa thành phố. Chàng ở nơi miếu đó một năm rưỡi, chỉ tự bằng lòng với một ít lương thực mà người hành hương sùng tín đặt trước mặt chàng mỗi ngày. Chàng không nói năng gì với ai. Thật ra, chàng không hề mở miệng trong ba năm đầu tiên của cuộc đời ẩn dật đó, không phải vì chàng đã có lời nguyện giữ giới tịnh khẩu, mà bởi vì tiếng nói của nội tâm, truyền lịnh cho chàng hãy tập trung mọi sự chú ý vào đời sống tâm linh. Khi chàng đã đạt được mục đích, chàng mới phá sự im lặng, tuy nhiên chàng vẫn không hề nói nhiều.
Chàng vẫn giữ kín tung tích của mình, nhưng mẹ chàng lần hồi đã dọ ra được chỗ ở của chàng, vừa đúng hai năm kể từ khi chàng bỏ nhà ra đi. Bà mẫu liền cùng với người anh cả đến tận nơi, và cố gắng dùng nước mắt của bà để làm cho chàng phải xiêu lòng và trở về nhà, nhưng vô ích. Hết dùng nước mắt bà mẫu lại dùng lời oán trách. Khi đó, chàng mới biết trên giấy nói rằng một sức mạnh thiêng liêng điều khiển vận mạng con người, và dầu cho mẹ chàng cũng không thay đổi gì được. Sau cùng bà mẫu chàng phải nhượng bộ.
Chuyện này đồn đãi gần xa, càng ngày càng có nhiều khách hành hương đến viếng chỗ của chàng ở ẩn, làm cho chàng lại phải dời chỗ một lần nữa và lên ngọn Đồi Thiêng, tại đây chàng sống nhiều năm trong một cái động đá. Trên ngọn Đồi Thiêng có rất nhiều động đá làm nơi trú ẩn cho những nhà Yogi và những nhà tu sĩ khổ hạnh, riêng có động đá của chàng Ramana hơi đặc biệt, vì nó có chứa đựng một ngôi mộ của một vị đạo sĩ ưu tú thời xưa.
Người Ấn Độ vẫn theo phong tục hỏa táng, tức là thiêu xác người chết, nhưng đối với người Yogi đã tu hành đắc đạo, thì luồng sinh khí Tiên Thiên của Thời Đất sẽ thấm nhuần trong cơ thể của y trong nhiều ngàn năm, làm cho xác thịt của y vẫn tươi và không hề tan rã. Trong trường hợp đó xác người Yogi được tắm sạch sẽ, ướp dầu thơm và được đặt trong ngôi mộ với thế ngồi kiết dà hai chân tréo như thế ngồi thiền. Cửa vào ngôi mộ được đóng kín bằng một tảng đá lớn và trám lại bằng chất xi măng. Ngôi mộ này thường trở nên một nơi hành hương của dân chúng. Còn một lý do khác vì sao người ta tin rằng xác thể của những vị ấy không cần phải tẩy uế bằng lửa, vì nó đã được tinh luyện bởi lối sống cao khiết và cuộc đời thánh thiện của họ hồi thưở sanh tiền.
Có điều đáng chú ý là những nơi hang động, thường là những nơi trú ẩn của các nhà đạo sĩ Yogi hay các bậc Thánh Nhân Hiền Triết. Thời cổ xưa, người ta dùng những nơi ấy để thờ Thần. Đức Zoroastre, Giáo Chủ đạo Hỏa Giáo, xưa kia đã ngồi thiền trong một động đá, còn Giáo Chủ Mahomet của đạo Hồi cũng đã có những kinh nghiệm tâm linh trong một hang núi. Những nhà đạo sĩ Yogi Ấn Độ có những lý do rất tốt để chọn lựa những hang, động làm nơi trú ẩn khi họ không tìm được chỗ nào khác lúc mưa nắng dãi dầu hay những khi thời tiết thay đổi bất thường ở vùng nhiệt đới. Ở những nơi đó, ít có ánh sáng hay tiếng động có thể làm rộn hay quấy rầy họ trong những cơn tham thiền và thở cái không khí kín bít trong hang làm cho sự đói khát được giảm bớt rất nhiều, nhờ đó sự nhu cầu của thể xác được hạn chế đến mức tối thiểu.
Một lý do khác nữa đã hấp dẫn chàng Ramana đến cái hang đặc biệt này trên ngọn Đồi Thiêng, là cái phong cảnh ngoạn mục của vùng chung quanh. Người ta có thể đứng trên một mô đá bên cạnh hang và nhìn thấy thành phố nhỏ diễn ra dưới chân đồi, và ngôi đền vĩ đại nhô lên ở trung tâm thành phố. Bên kia vùng đồng bằng bao bọc chung quanh, là một dãy đồi núi dài liên tiếp nhau đến tận chân trời.
Dầu sao, chàng Ramana đã sống tại hang đá này trong nhiều năm, đắm chìm trong những cơn thiền định rất thâm sâu. Chàng không phải là một nhà Yogi theo nghĩa thông thường, vì chàng không hề học qua một pháp môn Yoga nào và cũng không hề thụ giáo một vị danh sư nào. Chàng đã được hướng dẫn bởi một nguồn cảm hứng thiêng liêng, đưa đến sự hiểu biết và thực hiện Chân Ngã. Năm 1905, bịnh dịch tả xuất hiện trong vùng, do một người hành hương mang vào khi y từ phương xa đến viếng đền Arunachalạ Dân chúng bị truyền nhiễm chết rất nhiều đến nỗi trong cơn kinh hoàng, hầu hết mọi người đều bỏ thành phố, chạy sang những tỉnh hoặc những làng mạc kế cận. Vùng này bị bỏ trống và trở nên vắng vẻ đến nỗi các loài cọp beo từ trong những sào huyệt của chúng bò ra đến đây và đi lại tự do ngoài đường. Mặc dầu chúng đã đi dạo chơi trên đồi nhiều lần và qua lại trước cửa hang của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, nhưng chàng nhất định không dời chỗ, mà vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt.
Vào lúc đó có một người đến tình nguyện xin làm đệ tử của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, xin được ở gần bên cạnh để lo phục dịch và săn sóc cho chàng. Người ấy nay đã qua đời nhưng tục truyền rằng mỗi đêm có một con cọp lớn đi vào trong hang và liếm hai bàn tay của chàng Ramanạ Trong khi đó chàng cũng đáp lại bằng cách vuốt ve cái bộ da của nó. Con cọp ấy ngồi trước mặt chàng suốt đêm và đến lúc gần sáng mới đi.
Ở Ấn Độ người ta tin rằng những nhà đạo sĩ Yogi và thuật sĩ Fakir sống trong rừng sâu núi thẳm, giữa những loài thú dữ như hùm beo, cọp, sư tử, rắn rết và những loài thú rừng khác, đều không sợ bị thú dữ làm hại nếu họ đạt tới một trình độ khá cao trên đường tu luyện. Người ta còn thuật lại một câu chuyện khác về chàng Ramana, rằng một buổi trưa chàng ngồi nơi cửa hang bỗng có một con rắn hổ mang lớn thình lình xuất hiện từ trong kẹt đá và ngừng lại ở trước mặt chàng. Con rắn vươn mình và phùng mang, nhưng chàng đạo sĩ vẫn ngồi yên không cử động. Chàng và con rắn đều lẳng lặng bốn mắt nhìn nhau trong vài phút. Sau cùng, con rắn rút lui và chàng vẫn bình yên vô sự.
Cuộc đời cô đơn và khổ hạnh của chàng thanh niên lạ lùng này kết thúc giai đoạn đầu tiên khi chàng đã đạt tới điểm thâm trầm cao siêu nhất trong phép tham thiền.
Sự lánh trần và ẩn độn không còn cần thiết nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục sống trong hang cho đến khi có một nhà bác học Bà La Môn ưu tú tên Ganapati Shastri đến viếng chàng trong động đá. Cuộc thăm viếng này đánh dấu một khúc quanh trong đời chàng, và chàng bắt đầu bước vào một thời kỳ nhập thế. Trước khi đó, nhà bác học có đến ở gần ngôi đền để tiện bề học Đạo và tham thiền quán tưởng. Y nghe nói đến một người Yogi trẻ tuổi sống trên đồi, và do tánh hiếu kỳ mới đi tìm xem cho biết. Khi y gặp Ramana thì chàng đang vận nhỡn lực nhìn thẳng vào Mặt Trời. Chàng vẫn thường nhìn Mặt Trời như thế suốt nhiều giờ cho đến khi vầng Thái Dương khuất dạng dưới chân trời hướng Tây. Một người chưa từng kinh nghiệm về điều này không thể nào biết được cái mãnh lực của những tia nắng mặt trời ở Ấn Độ vào buổi trưa. Tôi còn nhớ có một lần tôi trèo lên sườn đồi vào một giờ quá trễ và bận trở về tôi đi đầu trần vào đúng lúc giữa trưa. Tôi bị say nắng và đi loạng choạng như người say rượu trong một lúc. Người ta có thể hiểu rõ hơn cái bản lĩnh của chàng Ramana là như thế nào, khi chàng nhìn thẳng vào Mặt Trời buổi trưa như thế.
Nhà bác học nọ đã từng học hỏi những kinh sách Ấn Độ về nền Minh Triết cổ truyền trong hai mươi năm, và đã thực hành những phép công phu tu luyện khắc khổ để hy vọng đạt tới một vài kết quả thật sự về đường tâm linh, nhưng y vẫn bị chướng ngại bởi những điều thắc mắc và nghi ngờ. Y bèn đưa ra cho Ramana một câu hỏi, và sau mười lăm phút y được một câu trả lời đầy Minh Triết nó làm cho y phải ngạc nhiên. Y đưa ra thêm nhiều câu hỏi khác cùng những điều thắc mắc về các vấn đề triết học tâm linh, và y càng ngạc nhiên hơn nữa mà thấy rằng những điều thắc mắc nghi ngờ nó vẫn dày vò y hằng bao nhiêu năm, nay đã được giải quyết mau chóng. Y bèn khấu đầu làm lễ trước mặt chàng đạo sĩ trẻ tuổi và trở nên một đệ tử của người từ đó. Shastri cũng có riêng một nhóm đệ tử theo học Đạo với y ở tỉnh Vellorẹ Y bèn trở về nói cho họ biết rằng y đã gặp được một vị Maharichi (tức là Đại Hiền hay Thánh Sư). Vị này chắc chắn là người đã đạt tới một trình độ tâm linh siêu đẳng, và những giáo lý của Ngài thật là khác thường đến nỗi nhà bác học chưa từng thấy trong tất cả những kinh sách mà y đã đọc.
Kể từ khi đó, các giới trí thức ở Ấn Độ bắt đầu gọi chàng Ramana bằng cái danh hiệu Maharichi, còn giới bình dân thì lại quá tôn sùng khi họ được biết rõ đạo hạnh và đời sống của Ngài và muốn tôn thờ Ngài như một vị Thánh Sống. Nhưng đức Maharichi triệt để ngăn cấm mọi sự biểu lộ lòng tôn sùng như thế trước mặt Ngài. Phần nhiều những đệ tử và những người trong vùng đều gọi Ngài là bậc Thánh trong khi họ nói chuyện với nhau hoặc trong những câu chuyện riêng với tôi.
Sau đó ít lâu, có một nhóm đệ tử quy tựu chung quanh Ngài. Họ xây cất một ngôi nhà bằng gỗ dưới chân đồi và yêu cầu Ngài sống chung với họ tại đó. Bà mẫu của Ngài cũng đã nhiều lần đến viếng Ngài, và khi người con trưởng của bà cùng những người thân quyến khác đều đã qua đời, bà đến đây và yêu cầu Ngài để cho bà được ở đây với Ngài. Ngài vui lòng chấp thuận, bà sống sáu năm cuối cùng của đời bà ở bên cạnh Ngài, và sau cùng bà trở nên một đệ tử trung kiên của con bà. Trong thời gian ở đạo viện, bà được chôn dưới chân đồi và vài người đệ tử của đức Maharichi xây một cái miếu nhỏ ở chỗ đó. Tại đây người ta đốt nhang đèn cháy thường xuyên để tưởng niệm công đức của một người đàn bà để đem đến cho nhân loại một vị Thánh Sống, và hằng ngày đều có người đem dâng bông hoa cúng trước bàn thờ.
Thời gian trôi qua, danh tiếng của đức Maharichi đã được đồn khắp gần xa, và những người hành hương ở ngôi đền lớn thường hay trèo lên ngọn Đồi Thiêng để chiêm ngưỡng Ngài trước khi về nhà. Về sau, đức Maharichi nghe theo lời thỉnh cầu của bá tánh và bằng lòng lưu trú tại ngôi nhà lớn của họ mới cất dưới chân đồi để làm chỗ ở cho Ngài và các đệ tử.
Đức Maharichi không hề thâu nhận món gì của ai trừ ra lương thực và luôn luôn từ chối không chịu nhận lãnh tiền bạc. Còn những thứ lễ vật gì đem đến cho Ngài đều là do kẻ khác tự nguyện hiến dâng và khẩn khoản yêu cầu Ngài nhận chọ Trong những năm đầu tiên, khi Ngài còn sống cuộc đời ẩn dật và đơn chiếc một mình trên núi để tu luyện và tham thiền, Ngài thỉnh thoảng vẫn rời khỏi hang với cái bình bát trong tay để đi xuống làng xóm xin ăn mỗi khi Ngài thấy đói. Một bà già góa bụa động lòng trắc ẩn, bèn cung cấp thức ăn cho Ngài đều đều mỗi ngày, và sau cùng bà tự nguyện đem thức ăn lên đến tận hang để cho Ngài khỏi phải đi khất thực. Như thế, cái đức tin nó khiến cho Ngài bỏ nhà ra đi, từ giã cuộc đời khá giả của một gia đình trung lưu, để chứng minh rõ rằng Người dốc lòng cầu Đạo, không cần phải lo thiếu hụt về bề vật chất, và những quyền năng thiêng liêng vẫn luôn luôn che chở và cung cấp cơm ăn nhà ở cho họ. Từ đó có nhiều quà tặng và lễ vật được đem đến cống hiến cho Ngài, nhưng Ngài đều luôn luôn từ chối.
Có một đêm nọ, một đám quân cướp đột nhập vào tịnh xá và lục lạo khắp nơi để kiếm tiền bạc chôn dấu, nhưng chúng chỉ tìm được có vỏn vẹn vài đồng rupee trong túi người quản gia lo về việc mua sắm đồ vật thực. Quân ăn cướp lấy làm thất vọng, chúng bèn nổi giận và đánh đập đức Maharichi bằng gậy lớn làm cho thân thể Ngài có nhiều vết bầm. Ngài không những chịu đựng điều ấy một cách kiên nhẫn, mà còn mời chúng ở lại dùng cơm trước khi ra về! Kế đó, Ngài thực sự đem cơm và thức ăn ra đãi chúng. Đối với chúng Ngài không hề có một sự Oán giận hay thù ghét nào trong lòng, mà chỉ có một lòng thương hại cho sự vô minh hắc ám của chúng. Ngài để cho chúng tự do trốn thoát, nhưng một năm sau chúng bị bắt trong khi đánh cướp ở một nơi khác và lãnh án tù chung thân.
Nhiều người Âu không khỏi cho rằng một cuộc đời như thế thật là một cuộc đời lãng phí vô ích. Nhưng có lẽ chúng ta cũng cần có một đôi người tách mình ra khỏi thế cuộc phù vân và nhìn xét cuộc đời dùm cho chúng ta từ đằng xạ Người ngoại cuộc có thể nhìn thấy thế sự một cách rõ ràng sáng suốt hơn. Ai dám bảo rằng một nhà Hiền Giả sống trong rừng thẳm đã chinh phục được cái bản ngã của mình, lại thua kém gì những thằng ngốc sống cuộc đời phiêu bạt như chiếc lá giữa dòng, và rốt cuộc chẳng biết rằng mình đi đến đâu...
Mỗi ngày qua càng đem đến cho tôi những bằng chứng xác nhận về sự cao cả tâm linh của đức Maharichị Trong số những người thuộc đủ các giai cấp đến viếng thăm đạo viện, một hôm có một người cùng đinh bị dày vò bởi một cơn đau khổ tinh thần rất lớn, vừa bước vào tịnh xá vừa khóc kể và trút hết những nỗi đau thương của y dưới chân đức Maharichị Ngài không nói một lời, vì Ngài lúc nào cũng vẫn im lặng và kín đáo, và người ta có thể đếm những lời của Ngài thốt ra trong một ngày. Ngài chỉ lẳng lặng nhìn một lúc vào người kia, trong giây lát, những tiếng khóc kể của y cũng lần lần giảm bớt và hai giờ sau, khi y rời khỏi tịnh xá ra về thì y đã trở nên một người vui vẻ bình tĩnh và tinh thần phấn khởi hơn trước.
Tôi mới hiểu rằng đó là phương pháp của Ngài để giúp đỡ kẻ khác, tức là tỏa ra những luồng sóng rung động có tánh cách an ủi, xoa dịu vết thương của những tâm hồn đau khổ bằng một phương pháp thần giao cách cảm bí mật mà có ngày khoa học sẽ phải khám phá và giải thích.
Một hôm, một người Bà La Môn có học thức đến tịnh xá và trình bày tâm sự của y với nhiều câu hỏi. Người ta không bao giờ biết trước rằng nhà Hiền Giả sẽ trả lời hay không, vì nhiều khi Ngài rất hùng biện mà không cần phải thốt ra bằng lời nói. Nhưng hôm ấy Ngài có vẻ cởi mở và chỉ vài câu nói vắn tắt bao hàm những ý nghĩa sâu sắc thâm trầm cũng đủ hé mở những chân trời mới lạ về tư tưởng để giải đáp những nỗi thắc mắc cho người khách kia.
Mỗi buổi chiều vào lúc mặt trời lặn là giờ tham thiền chung trong tịnh xá. Đức Maharichi thường bắt đầu giờ tham thiền bằng cách chính Ngài tĩnh tọa công phu và xuất thần nhập định, quên hẳn cả thế giới bên ngoài. Trong những giờ tham thiền hàng ngày bên cạnh đức Maharichi, tôi đã học được phương pháp gom tư tưởng của tôi vào nội tâm đến một điểm thâm sâu nhất. Trong những cuộc tiếp xúc thường xuyên với đức Maharichi, người ta không khỏi được giác ngộ từ bên trong và nhận thấy rằng mình được soi sáng tâm hồn trí não bằng một tia sáng phát ra từ hào quang của Ngài. Càng ngày tôi càng nhận thấy rõ rệt rằng Ngài thâu hút tâm trí của tôi vào cái vòng ảnh hưởng đặc biệt của Ngài trong những giờ yên tịnh đó. Và chính trong những lúc đó mà người ta bắt đầu hiểu rằng tại sao sự im lặng của Ngài lại hùng biện và nhiều ý nghĩa hơn là những lời nói. Sự yên tịnh trầm lặng của Ngài có ẩn dấu một cái quyền năng mạnh mẽ phi thường, nó có thể ảnh hưởng mãnh liệt đến một người mà không cần đến ngôn ngữ hay hành động bên ngoài. Có những lúc tôi cảm thấy cái quyền năng đó một cách rõ rệt đến nỗi tôi biết rằng Ngài chỉ cần ra lệnh cho tôi làm một việc hèn mạc nhất, là tôi sẽ vâng lời theo tức khắc. Nhưng đức Maharichi không phải là người bắt những đệ tử tuân lệnh và vâng lời một cách mù quáng và nô lệ, mà trái lại, Ngài để cho mọi người được tự do hành động. Về phương diện đó, Ngài thật là khác hẳn với phần nhiều những danh sư và đạo sĩ mà tôi đã gặp ở Ấn Độ.
Những buổi tham thiền của tôi vẫn noi theo đường lối mà Ngài đã chỉ dẫn cho tôi trong cuộc thăm viếng đạo viện lần đầu, khi mà Ngài làm tôi ngạc nhiên vì những câu trả lời dýưng như mơ màng và bí hiểm của Ngài. Tôi đã bắt đầu nhìn vào cái bản ngã của tôi:
Tôi Là Ai...
Phải chăng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này... Phải chăng tôi là cái trí tư tưởng hay là những tình cảm dục vọng nó phân biệt tôi với những người khác...
Xưa nay, người ta vẫn đáp là "Phải, " nhưng đức Mahatichi đã dặn tôi đừng chấp nhận như thế. Nhưng Ngài cũng không đưa ra một câu trả lời dứt khoát, mà chỉ đưa chỉ thị như sau:
- Hãy đặt câu hỏi "Tôi là ai... " và hãy phân tách toàn bộ con người của anh. Hãy cố tìm xem cái tư tưởng về bản ngã bắt đầu từ chỗ nào... Hãy tiếp tục cuộc tham thiền về điều này và chuyển hướng mọi sự chú ý vào nội tâm. Một ngày kia cái vòng tư tưởng của anh sẽ quay chậm lại và trực giác sẽ hiện ra. Hãy noi theo cái trực giác đó, ngưng hết mọi tư tưởng và sau cùng nó sẽ đưa anh đến mục đích.
Tôi đã chiến đấu hàng ngày với những tư tưởng của tôi và lần lần vạch một đường đi vào tận những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tâm hồn. Nhờ có đức Maharichi ngồi gần bên, những cơn tham thiền của tôi càng ngày càng trở nên ít mệt nhọc hơn và càng hữu hiệu hơn. Sự dìu dắt của Ngài giúp nguồn cảm hứng rất nhiều cho những cố gắng thường xuyên và liên tục của tôi. Có những giờ phút lạ lùng mà tôi ý thức được rõ rệt cái ảnh hưởng và quyền năng thần diệu của Ngài nó làm cho tôi tiến sâu vào lãnh vực huyền bí của nội tâm.
Sau buổi tham thiền chung, đức Maharichi cùng với các đệ tử và khách khứa đều rời khỏi tịnh xá và bước qua phòng ăn để dùng cơm tối. Vì tôi không dùng được cơm Ấn Độ và cũng không muốn nhọc công nấu bữa ăn chiều, nên tôi thường ngồi lại một mình trong tịnh xá và chờ họ trở lại. Tuy nhiên, có một món ăn trong đạo viện mà tôi thấy ngon lành và ăn được, là món sửa chuạ Đức Maharichi, khi nhận thấy rằng tôi thích món ấy, thường dặn người đầu bếp mỗi chiều đem cho tôi một bát lớn.
Độ nửa giờ sau khi cả bọn đều trở lại, những người nội trú của đạo viện cùng những quan khách ở lại ban đêm đều chen chúc nhau nằm trên sàn gạch của nhà tịnh xá, mỗi người đều quấn một cái chăn bằng vải mỏng và sửa soạn đi ngủ. Đức Maharichi thì ngủ luôn trên chiếc giường gỗ của Ngài thường dùng, Trước khi Ngài đắp chăn vải mỏng lên mình, có một người tiểu đồng đấm bóp và xoa dầu lên tay chân của Ngài.
Còn tôi, tôi cầm chiếc đèn lồng rời khỏi tịnh xá và đi một mình về chòi tranh của tôi. Có vô số những con đom đóm bay lập lòe trong những khóm hoa bụi cỏ và các chòm cây trong vườn, có một đêm tôi về trễ độ chừng vài tiếng đồng hồ, lúc ấy có lẽ đến gần nửa đêm, tôi thấy tất cả đom đóm đều đồng thinh tắt hẳn những đóm sáng kỳ dị của chúng. Tôi phải rón rén cẩn thận và coi chừng kẻo đạp nhầm loài bò cạp hay rắn rết khi đi trong đêm tối. Có đôi khi, tôi vừa đi vừa đắm chìm trong sự trầm tư mặc tưởng và tôi cũng không cần chú ý đến những con đường mòn nhỏ hẹp đưa tôi về chòi tranh. Về đến chòi, tôi đóng chặt cánh cửa lớn và các cửa sổ để các loài thú rừng hay rắn độc khỏi đột nhập vào lúc ban đêm.
Một buổi chiều, tôi nhìn thấy một người khách lạ bước vào tịnh xá với một điệu bộ trầm tĩnh và ngồi xuống sàn gạch gần bên giường của đức Maharichị Người ấy có một màu da đem sậm và một gương mặt rất sáng sủa tế nhị. Y vẫn im lặng không nói gì, nhưng đức Maharichi liền tiếp đón y bằng một nụ cười thân mật.
Cái phong độ cốt cách của người này ghi một ấn tượng sâu xa trong lòng tôi. Y có vẻ giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt y biểu lộ một sự bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, y nhìn thẳng vào mặt tôi một hồi lâu làm cho tôi ngượng và day mặt đi chỗ khác. Suốt buổi chiều hôm đó, y không thốt ra một lời nào cả.
Qua ngày hôm sau, tôi lại gặp y trong một trường hợp bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh xá trở về chòi để nấu nước pha trà, vì người nô bộc của tôi đã đi vắng ngoài chợ. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong chòi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hãi và không biết phải là thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nhìn con rắn không chớp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giương hai mắt nhìn lại tôi.
Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy dập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nhìn yên lặng của y làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình tĩnh. Y đến gần chòi tranh, với cái nhìn thoáng qua y đã thấu rõ tình hình và thản nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ý đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi, vì mặc dầu y không có khí giới y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.
Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài hình mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn cuối đầu sát đất và nằm im lặng!
Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảng khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm.
- Đó là một con rắn hổ mang!
Một trong hai người mới đến sau bình phẩm. Người này là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn không một chút sợ hãi. Y bèn giải thích:
- À, đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong những đệ tử cao cấp nhất của đức Maharichị Y là một người có bản lĩnh khá lắm.
Tôi không thể trò chuyện với người Yogi này vì tôi nhận thấy rằng y giữ giới tịnh khẩu, ngoài ra những giới hạnh khác nữa thuộc về phần kỷ luật đặc biệt của y, và cũng bởi vì y là người thuộc về địa phương nói tiếng thổ ngữ Telugu, chứ không biết tiếng Anh. Tôi cũng nghe nói rằng y là một người rất ẩn dật và kín đáo, thường không chịu giao thiệp với ai, rằng y ở một cái nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và y là đệ tử của đức Maharichi đã mười năm nay.
Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đã được lấp bằng. Tôi gặp y trên bờ ao khi y cầm một cái bình nhỏ bằng đồng xuống ao để múc nước. Dáng điệu ung dung tự tại của y làm cho tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới yêu cầu y, bằng cách ra dấu, để cho tôi chụp một bức ảnh. Y không phản đối, và sau khi chụp ảnh y cũng đi theo tôi về chòi. Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của đức Maharichi, nay đã bảy mươi lăm tuổi, làm công chức sở Hỏa Xa về hưu, ngồi đợi ngoài cửa chờ tôi về. Cũng do sự tình cờ, tôi được biết ông lão này biết tiếng Telugu khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn lòng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy rằng chỉ nói bằng bút đàm. Người đạo sĩ không thích nói nhiều và không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng tôi tìm cách gợi chuyện để biết thêm vài điều về cuộc đời y.
Đạo sĩ Ramiah đã trên bốn mười lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore, và mặc dầu y không chính thức xuất gia, y vẫn để cho gia đình y cai quản đồn điền tài sản để cho y có thời giờ theo đuổi việc học Đạo. Y có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh Nellore, nhưng mỗi năm một lần, y rời khỏi tỉnh này để viếng đức Maharichi, và ở lại đạo viện của Ngài mỗi lần đôi ba tháng.
Trong thưở thiếu thời, y đã từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để tìm thầy học Đạo. Y đã học với nhiều vị danh sư và phát triển được vài quyền năng đặc biệt. Phép luyện khí công và tham thiền y đều thực hàng được rất dễ dàng. Dường như y đã vượt bực các danh sư của y, vì y đã trải qua những kinh nghiệm thần bí mà các vị danh sư không thể giải thích được một cách thỏa đáng. Sau đó y tìm đến đức Maharichi, Ngài liền giải thích cho y nghe một cách đúng đắn, và giúp đỡ y thêm về phần tu luyện.
Đạo sĩ Ramiah cho tôi biết rằng y định đến ở trong hai tháng tại đạo viện, y có đem theo một người tiểu đồng, và y lấy làm vui lòng mà thấy có một người Âu chú trọng đến nền Minh Triết cổ truyền của Đông phương. Tôi đưa cho y xem một tờ tạp chí Anh ngữ có in hình ảnh, và y bình phẩm một cách lạ lùng về một bức ảnh trong đó:
- Chừng nào các nhà bác học thông thái ở phương Tây không còn tìm cách làm cho các động cơ chạy mau hơn những thứ máy móc mà họ đã có, và bắt đầu nhìn vào nội tâm của họ, thì chừng đó chủng tộc các anh có thể tìm thấy hạnh phúc chân thật và vững bền hơn. Anh có dám chắc rằng người Âu Tây các anh sẽ an phận và sung sướng hơn chăng, mỗi khi họ phát minh ra được một thứ máy móc mới lạ để giúp cho họ di chuyển mau chóng hơn...
Trước khi từ giã, tôi hỏi y về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉm cười và viết câu trả lời:
- Có gì mà phải sợ... Tôi đến gần nó với tấm lòng thành, không nuôi tư tưởng ác, và với một tình bác ái đối với tất cả chúng sinh.
Tôi nghĩ rằng chắc còn có điều gì ẩn dấu đằng sau những lời giải thích giản dị đó, nhưng tôi không hỏi gì thêm mà để cho y trở về nhà.
Trong những tuần lễ sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với nhà đạo sĩ Ramiah, tôi đã có dịp biết y nhiều hơn nữa. Chúng tôi thường gặp nhau hoặc ở chỗ đất trống chung quanh chòi, hoặc trên bờ ao, hoặc ở trước nhà ỵ Mối tình bằng hữu đã nảy sinh ra giữa chúng tôi, nhưng đó là một mối tình câm, không lời, và một hôm nó được biểu lộ bằng cử chỉ, khi người đạo sĩ đặt một bàn tay trên đầu tôi để ban ân huệ và siết chặt hai bàn tay tôi trong hai bàn tay của ỵ Ngoài ra vài câu bút đàm mà người đệ tử già dịch lại cho tôi nghe chúng tôi không ai nói với nhau một lời nào trong thời gian kết bạn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng giữa tôi và đạo sĩ Ramiah có một sợi dây liên lạc mật thiết, không thể nào cắt đứt đi được. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ chơi với y trong khu rừng rậm, có đôi lần chúng tôi cùng trèo lên sườn đồi giữa những tảng đá lớn dựng lên lởm chởm và đi một cáh rất vất vả mệt nhọc trên đường núi gồ ghề, nhưng dầu cho chúng tôi đi chơi đâu, bao giờ y cũng giữ một thái độ ung dung tự tại mà tôi không khỏi lấy làm cảm phục.
Một lần nữa đó không lâu, tôi lại có dịp nhận thấy y biểu lộ rõ ràng cái quyền năng phi thường của ỵ Tôi vừa nhận được một bức thư từ bên nhà gởi sang với những tin chẳng lành. Tình hình tài chánh của tôi gặp cơn khủng hoảng bất ngờ, và bởi đó tôi sẽ không thể kéo dài chuyến du hành của tôi ở Ấn Độ nữa. Lẽ tự nhiên là tôi có thể ở lại đạo viện thêm ít lâu, vì các đệ tử của đức Maharichi sẵn có cảm tình với tôi và sẵn lòng dung nạp, nhưng bản tính của tôi vốn không thích như thế. Tôi chỉ còn có cách là trở về xứ sở.
Việc này xảy đến cho tôi như một sự thử thách về sự tu luyện tinh thần mà tôi đã theo đuổi bấy lâu nay, nhưng bản lĩnh của tôi thật ra cũng chưa có gì đáng kể nên tôi không vượt qua nổi cơn thử thách đó. Tôi cảm thấy trong lòng nao núng và chán nản vô cùng. Tôi không thể tạo sự giao cảm tâm linh với đức Maharichi như mọi khi, và đành rời khỏi tịnh xá một cách đột ngột sau khi đến viếng Ngài chỉ có một lát. Suốt ngày hôm đó, tôi trở về chòi nằm ngã trên giường, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi. Tôi nằm dã dượi và thiếp đi được một lúc, nhưng tôi giựt mình ngồi chồm dậy khi tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi mời khách vào và ngạc nhiên mà thấy đó không ai khác hơn là đạo sĩ Ramiah.
Tôi ngồi dậy và khi y ngồi xếp bằng dưới nền gạch, tôi cũng ngồi như thế trước mặt ỵ Có lẽ y đã nhận thấy cơn xáo trộn và khủng hoảng tinh thần vừa qua trên nét mặt tôi, nên y chăm chú nhìn tôi với một câu hỏi trong ánh mắt. Mặc dầu chúng tôi ngôn ngữ bất đồng, nhưng một cảm giác lạ lùng khiến tôi cứ nói chuyện với y bằng tiếng Anh, hy vọng rằng y sẽ hiểu được tư tưởng của tôi nếu y không hiểu được những lời tôi nói. Với vài câu vắn tắt, tôi thuật lại những tin chẳng lành vừa xảy ra bất ngờ từ bên nhà, và phụ họa thêm bằng những cử chỉ và sắc mặt thất vọng và chán nản.
Ramiah ngồi lẳng lặng nghe. Khi tôi đã nói xong, y gật đầu đáp lại một cách trịnh trọng, tỏ dấu cho tôi biết rằng y đã hiểu rõ được câu chuyện. Một chập sau, y đứng dậy và lấy tay ra dấu mời tôi đi theo. Chúng tôi đi xuyên qua khu rừng rậm, nhưng chỉ độ một lát là đến một khoảng đất trống, ánh nắng mặt trời xế trưa rọi thẳng vào người chúng tôi. Tôi tiếp tục đi theo y độ nửa tiếng đồng hồ đến một gốc cây đa lớn, chúng tôi ngừng lại và ngồi nghỉ dưới bóng mát. Sau khi ngồi nghỉ được một lúc, chúng tôi lại đi bộ thêm nửa giờ nữa xuyên qua rừng rậm và sau cùng, chúng tôi đi xuống một cái ao lớn do một con đường tắt mà Ramiah có vẻ rất quen thuộc.
Chúng tôi ngồi trên bờ ao, dưới ao có rất nhiều hoa sen. Người Yogi chọn bóng mát của một thứ cây lùn thấp và ngồi dưới gốc cây, tôi cũng ngồi bên cạnh ỵ Ngôn cây nhành lá sum sê tỏa ra trên đầu chúng tôi như một cây dù lớn. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn vắng lặng không có một bóng người, chỉ có toàn là rừng rậm bao bọc chung quanh.
Ramiah ngồi xếp bằng, hai chân tréo, và ra dấu bảo tôi ngồi xích lại gần, Kế đó, y day mặt về phía ao sen và trong giây phút y đã đắm chìm trong một cơn thiền định. Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp, nhưng Ramiah vẫn ngồi điềm nhiên bất động, gương mặt y cũng yên tịnh như mặt nước hồ sen, thân mình y ngay ngắn như pho tượng đồng. Nửa giờ trôi qua, y vẫn ngồi yên như thế, gương mặt y dường như biến đổi bởi sự yên tịnh càng thâm trầm hơn trước, đôi mắt đứng tròng của y nhìn thẳng vào chỗ hư không hay là nhìn vào những ngọn đồi xa xa ở tận chân trời, điều đó tôi không thể biết được.
Sau một chập không lâu, tôi dần dần chịu ảnh hư ởng của bầu không khí im lặng chung quanh và sự điềm tĩnh lạ lùng của ông bạn tôi. Một sự bằng an tuyệt vời đã xâm chiếm lấy tâm hồn tôi một cách từ từ, thấm thía, dịu dàng và chắc chắn. Một sự ung dung tự tại và thản nhiên trước nghịch cảnh mà tôi chưa hề bao giờ đạt tới từ trước, nay đến với tôi một cách dễ dàng. Người đạo sĩ đã giúp đỡ tôi bằng một phương pháp bí mật và huyền diệu của y, tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Y đã dùng cái bí thuật nào để ảnh hưởng đến tôi một cách mầu nhiệm như thế, sự bằng an tuyệt vời nó toát ra từ con người y nguồn gốc do đâu mà ra...
Sức nóng mặt trời đã giảm bớt khi đến lúc xế chiều, bãi cát nóng gắt cũng nguội dần. Một vài tia nắng màu vàng sậm từ hướng Tây chiếu thẳng vào gương mặt của người đạo sĩ, làm cho thân mình y dường như tỏa hào quang sáng chói. Một niềm an lạc vô biên tràn ngập cõi lòng tôi, những sự thay đổi của cuộc đời, những nỗi thăm trầm của số kiếp nay không còn là điều quá ư quan trọng đối với tôi nữa khi tôi bắt đầu sống với nội tâm thiêng liêng của tôi. Trong lúc đó, tôi nhận thấy một cách rõ ràng rằng con người có thể thản nhiên và an vui trước nghịch cảnh nếu y tìm thấy cái Chân Ngã của mình, rằng thật là một điều khờ dại mà bám víu lấy những sự vật phù du giả tạm của cuộc đời trần gian, khi mà y sẵn có một sự che chở thiêng liêng ở hầu kề một bên, rằng nếu đức chúa Jesus ngày xưa đã bảo các môn đệ đừng lo nghĩ đến ngày mai, đó là vì Ngài biết rằng có một quyền năng thiêng liêng che chở cho họ. Tôi cũng nhận thấy rằng khi con người tin tưởng và nghe theo tiếng, y sẽ có thể trải qua những cơn phong trần tục lụy, chìm nổi ba đào của cuộc đời thế gian mà lòng không nao núng hay sợ sệt. Và tôi cảm thấy rằng ở một nơi nào đó trong nội tâm nhưng lại rất gần chúng ta, biểu hiện rõ cái giá trị căn bản của cuộc đời, khi mà người ta nhìn thấy nó rồi, thì tất cả những sự lo âu phiền não của cuộc đời sẽ tiêu tan và không còn nữa. Nhờ sự cải tạo tinh thần nó vừa diễn ra trong tâm hồn tôi, mà nay tôi đã trút được gánh nặng của sự thất vọng ưu phiền.
Tôi không còn nhớ tới thời gian trong khi tôi đã trải qua cái kinh nghiệm tốt đẹp nói trên, và tôi cũng không biết làm sao có thể giải thích một cách mỹ mãn sự huyền diệu của nội tâm, nó hoàn toàn vắng lặng và không tùy thuộc ở thời gian và không gian. Bóng hoàng hôn đã ngả xuống khu rừng rậm. Lúc ấy tôi không còn ý thức được cảnh vật chung quanh nữa, nhưng từ chỗ sâu thẳm của tiềm thức, tôi nhớ lại rằng màn đêm sụp xuống rất mau chóng ở vùng nhiệt đới, và lúc đó tôi đang ngồi ở giữa rừng sâu hoang vắng cô liêu. Tuy nhiên, tôi lại không cảm thấy sợ sệt chút nào khi tôi ngồi bên cạnh người đạo sĩ, nhất là khi người ấy lại dắt tôi đến thám hiểm vào chỗ nội tâm huyền bí để được thấm nhuần trong bầu không khí an lạc tuyệt vời...
Sau cùng khi người đạo sĩ sờ nhẹ vào tay tôi để ra hiệu cho tôi đứng dậy thì chung quanh trời đã tối đen. Chúng tôi nắm tay nhau đi trong đêm tối xuyên qua khu rừng hoang để trở về nhà, không có đèn đuốc soi đường chi cả, nhưng người đạo sĩ dường như được dìu dắt bởi một thứ giác quan lạ lùng. Ở vào lúc khác, khu rừng này lẽ đã làm cho tôi phải sợ sệt, vì ban đêm là lúc mà các loài thú dữ rời khỏi sào huyệt của chúng để đi kiếm mồi, và người ta có cảm giác rằng có bao nhiêu những độc trùng ác thú lởn vởn chung quanh. Tôi nhớ lại con chó Jackie ở đạo viện vẫn thường đi chơi với tôi trong vườn hoặc chia sớt bữa ăn với tôi ở chòi tranh, một hôm trở về nhà với cuống họng bị xé toang, máu me đầm đìa vì vết cắn của một con beo gấm, và một con chó khác cũng bị cọp tha mất, không trở về. Biết đâu đêm nay tôi cũng sẽ thoáng nhìn thấy trong bóng tối cặp mắt xanh biếc và sáng ngời của một con beo gấm, hay vô ý đạp nhầm một con rắn hổ mang nằm khoanh tròn dưới đất hoặc dẫm chân lên một con bò cạp lửa mà nọc độc có thể làm chết người... Nhưng ngay tức khắc tôi cảm thấy hổ thẹn vì những ý nghĩ đó bên cạnh người đạo sĩ không hề sợ sệt, và tôi liền nép mình vào cái hào quang che chở của y mà tôi cảm thấy hình như nó bao bọc lấy tôi.
Đêm càng khuya, khu rừng càng vang rền những âm thanh rùng rợn. Tiếng sủa của một con chó rừng văng vẳng ở đàng xa, những loài phi cầm tẩu thú khác cũng rú lên để đáp lại, và khi chúng tôi về đến gần cái ao bên cạnh nhà chúng tôi, thì tiếng ễnh ương, rắn mối, trùng dế, dơi chuột hòa thành một khúc nhạc lạ lùng, bí hiểm. Sáng ngày hôm sau, khi tôi thức giấc, tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, sẵn sàng chào đón một vũ trụ tràn đầy ánh sáng, nhộn nhịp tưng bừng...
Còn biết bao nhiêu chuyện mà tôi có thể viết về đời sống ở đạo viện và về những cuộc đàm thoại của tôi với đức Maharichị Tôi càng thấy rằng Ngài là người nối nghiệp của một thời quá khứ xa xăm, khi người ta coi sự khám phá ra một điều chân lý thiêng liêng cũng có giá trị không kém gì sự tìm ra một mỏ vàng. Từ nay tôi biết chắc rằng tôi đã gặp ở nơi thâm sơn cùng cốc này, một trong những bậc siêu nhân cuối cùng còn sót lại của xứ Ấn Độ. Gương mặt trầm lặng của nhà Hiền Giả này làm cho tôi cảm thấy gần gũi hơn với những bậc Thánh Nhân Hiền Triết của xứ Ấn Độ thời xưa. Tuy nhiên, người ta cảm thấy rằng cái phần thâm sâu huyền diệu nhất của Ngài vẫn chưa được biểu lộ rõ ràng trước mắt tôi. Có khi Ngài vẫn sống cách biệt một cách lạ lùng, và những khi khác Ngài lại ban rải ân huệ thiêng liêng của Ngài cho tôi với một hảo ý tuyệt vời, nó nối liền tôi với Ngài bằng những sợi dây nhân duyên bền chặt và trường cửu.
Tôi đã tập quen với cái phong độ bí hiểm của Ngài và chấp nhận Ngài theo chỗ tôi nhìn thấy. Tuy Ngài sống cách biệt với cõi giới bên ngoài và không chịu tiếp xúc với người thế gian, nhưng người nào có đầy đủ nhân duyên sẽ được dẫn dắt đến sự giao cảm tâm linh với Ngài. Tôi càng yêu quý Ngài hơn nữa khi tôi thấy Ngài rất giản dị và khiêm tốn giữa một bầu không khí cao cả và thiêng liêng thật sự mà người ta cảm thấy rõ rệt ở chung quanh Ngài. Ngài không hề tuyên bố có những quyền năng thần bí hay có một sứ mạng thiêng liêng nào để lòe đời, nhứt là điều đó lại càng rất dễ đối với người Ấn Độ là một dân tộc sẵn có óc tin tưởng thần quyền, và sẵn sàng thần thánh hóa Ngài ngay trong khi Ngài còn sống, nếu Ngài không phải là một người hoàn toàn chân thật và cực lực phản đối những tư tưởng đó.
Sự có mặt trên thế gian của những người như đức Maharichi hình như không phải là do dự ngẫu nhiên tình cờ. Ngài cũng như một vị sứ giả thiêng liêng tiếp tục công trình của những bậc hiền giả đã từng xuất hiện trải qua giòng lịch sử của nhân loại để gìn giữ, duy trì sự sinh hoạt tâm linh trên mặt địa cầu. Người ta phải chấp nhận sự kiện này là những bậc hiền giả đó xuất hiện để tiết lộ cho chúng ta ít nhiều chân lý, chứ không phải để thảo luận đôi co gì với chúng tạ Dầu sao, những giáo lý của Ngài có một tính cách rất hấp dẫn đối với tôi vì nó rất thực tế và đúng tinh thần khoa học.
Ngài không có sử dụng đến sức mạnh thần thông siêu phàm nào và không đòi hỏi một đức tin mù quáng. Danh từ Thượng Đế cũng ít khi xuất hiện trên môi của Ngài. Ngài chỉ đưa ra một phương pháp phân tách bản ngã, nó có thể thực hành bất luận rằng người ta có những tín ngưỡng như thế nào, một phương pháp nó sẽ đưa con người đến sự thực hiện Chân Ngã, hay Chân Như Phật Tánh của mình.
Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng có một phần sức mạnh tinh thần của đức Maharichi được chuyển qua cho tôi, mặc dầu chúng tôi không có trao đổi với nhau một lời nào. Tuy nhiên, ngày dự định lên đường sắp tới làm trở ngại những cố gắng của tôi. Tôi cố ở nán lại ít lâu, nhưng sức khỏe của tôi lại bị giảm sút và làm cho tôi phải quyết định từ giã đạo viện càng sớm càng haỵ Thật vậy, trong khi tôi nghe theo tiếng nói của nội tâm nó kêu gọi tôi từ Bombay trở về đây, tôi đã có đủ ý chí gạt bỏ sự kháng cự của một thể xác đau yếu và một tinh thần mệt mỏi để lưu ngụ tại vùng nóng bức này. Nhưng sức người có hạn, làm sao có thể thắng đoạt được thiên nhiên, thành thử không bao lâu cõn bịnh cũ của tôi đã bộc phát trở lại và sức khỏe của tôi lại đi xuống dốc đến một mực độ báo nguy và tôi chưa từng cảm thấy bị suy yếu như thế bao giờ. Vài giờ trước khi bước vào giai đoạn quyết liệt trong cơn thiền định bên đức Maharichi, thì tôi bắt đầu run một cách dữ dội khắp cả thân mình và toát mồ hôi như tắm, triệu chứng của cơn sốt sắp đến.
Sau khi viếng thăm một nõi Thánh Điện thâm nghiêm ở ngôi đền lớn, tôi hối hả trở về và bước vào tịnh xá trong khi giờ công phu buổi chiều đã trôi qua hết nửa phần. Tôi lẳng lặng ngồi xuống sàn gạch và tréo chân theo thế ngồi thiền như thường lệ. Trong vài giây đồng hồ, tôi định tĩnh tinh thần và gom tất cả mọi tư tưởng vào một trung tâm điểm nhứt định. Đến lúc tôi nhắm mắt, thì thần thức của tôi đã gom vào nội tâm và tập trung ở đó.
*** Hình thức của đức Maharichi ngồi nhập định hiện rõ ràng trong trí của tôi. Noi theo chỉ thị thường lập đi lập lại của Ngài, tôi cố gắng vượt qua hình bóng ấy để trụ vào cái phần vô sắc tướng, tức là cái thực thể tự tại, hay linh hồn Ngài. Tôi ngạc nhiên mà thấy rằng những cố gắng của tôi có kết quả rất mau chóng, cái hình bóng của ngài đã biến mất trong trí óc tôi, và tôi không còn cảm thấy gì khác hơn sự hiện diện tâm linh của ngài.
Những sự suy gẫm thuộc về lý trí trong những cơn tham thiền ban sơ của tôi trước kia đã dứt hẳn. Tôi đã từng dọ hỏi, cân nhắc những ý thức của tôi về thể chất, về tình cảm và lý trí nhưng khi đã biết đó không phải là Chân Ngã, tôi đã loại bỏ hết tất cả những điều đó. Kế đó, tôi gom thần thức vào chính trung tâm của nó, để tìm xem nguồn gốc của nó ở đâu. Đây là lúc tôi bước vào giai đoạn quyết liệt. Trong khi tôi giữ gìn cho tâm thần yên tịnh, cái lý trí đã tự rút lui cảnh vật chung quanh bắt đầu lu mờ và đắm chìm trong chỗ vắng lặng hư không. Trong trạng thái đó người hành giả phải luôn luôn giữ gìn sự tập trung tư tưởng, không để cho thần thức bị xao lãng hay lo ra. Cuộc đời thế gian với bao nhiêu sự cám dỗ, thử thách, vẫn rình rập chung quanh ỵ Giữ gìn cho thân tâm vắng lặng, không bị xao động bởi ngoại cảnh, thật là một điều khó lắm thay.
Đêm nay, tôi đạt tới điểm đó một cách mau chóng, sau khi đã loại trừ một loạt những tư tưởng vẫn vơ nó vẫn thường đột nhập vào trí óc trước khi tâm thần được bình tĩnh yên lặng. Một sức mạnh mới mẽ và dồi dào bắt đầu hành động một cách mãnh liệt trong tâm giới của tôi và thúc đẩy tôi tiến sâu vào nội tâm với một tốc lực không gì cưỡng nổi. Trận giao phong đầu tiên đã kết liễu mau chóng, hầu như khỏi cần chiến đấu, và sự căng thẳng của nó được nối tiếp theo sau bằng một cảm giác sung sướng, dễ dàng thoải mái.
Trong giai đoạn kế tiếp, tôi đứng ngoài vòng hoạt động của lý trí, và nhìn nó một cách khách quan. Một tiếng nói của trực giác báo cho tôi biết rằng cái lý trí đó chỉ là một khí cụ mà thôi. Tôi nhìn xem những tư tưởng của tôi với một sự siêu thoát lạ thường. Cái trí biện luận, suy tư, từ trước đến nay vẫn được coi như một khả năng quý báu mà người ta lấy làm tự hào, nay đã trở nên một vật cần phải loại bỏ, và tôi nhận thấy muốn đứng ngoài vòng lý trí, nhưng vẫn là mình. Tôi muốn tiến vào một chỗ còn thâm sâu hơn là tư tưởng. Tôi muốn biết xem tự giải thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của bộ Óc và trí não sẽ gây cho tôi cái cảm giác như thế nào, tôi bèn chờ đợi với một tinh thần tỉnh táo và lanh lẹ.
Thật là một điều lạ lùng mà có thể đứng ngoài vòng và quan sát sự hoạt động của bộ Óc dường như nó là của một người khác hơn mình, nhìn xem tư tưởng phát khởi bằng cách nào và chấm dứt ra sao. Nhưng còn lạ lùng hơn nữa khi ta có cái linh cảm rằng mình sắp sửa bước vào một lãnh vực huyền bí nó che dấu cái phần thâm sâu u ẩn nhứt của linh hồn người. Tôi có cảm tưởng như một Kha Luân Bố sắp sửa đổ bộ lên một sự chờ mong với những cảm giác đầy thú vị.
Nhưng làm sao có thể tự giải thoát khỏi áp lực chuyên chế của tư tưởng...
Tôi nhớ lại rằng đức Maharichi không bao giờ bảo tôi nên chận đứng một cách quyết liệt những hoạt động của lý trí. Ngài luôn luôn dặn dò và lập lại rằng:
"Hãy đi ngược dòng tư tưởng cho đến tận nguồn gốc của nó, chờ cho Chân Ngã xuất hiện ra, và chừng đó những tư tưởng sẽ dứt". Tôi bèn rời bỏ mọi sự cố gắng và tự buông trôi theo một sự thụ động hoàn toàn tuy vẫn cảnh giác chờ mong cũng như con rắn đang rình mồi.
Tôi vẫn giữ vững trạng thái đó cho đến khi tôi khám phá rằng những sự tiên đoán của nhà Hiền Giả quả thật không sai. Những luồng sóng tư tưởng bắt đầu giảm bớt lần lần, sự hoạt động của lý trí sụt xuống dần cho đến điểm số không. Tôi bắt đầu kinh nghiệm được một cảm giác lạ lùng nhứt từ trước đến giờ. Thời gian dường như muốn ngừng trôi, khi cái khiếu linh năng trực giác của tôi bắt đầu dò đường để tiến sâu vào lãnh vực huyền bí của nội tâm. Những cảm xúc của giác quan hình như đã chết hẳn, tôi không còn nghe, thấy, cảm hay nhớ điều gì nữa. Tôi biết rằng bất cứ lúc nào kể từ khi đó, tôi sẽ đứng ngoài vòng mọi sự vật của trần gian, và ở ngay ngưỡng của của cõi giới diệu huyền.
Sau cùng cái giờ phút đó đã đến. Tư tưởng đã tắt hẳn như một đóm lửa tàn. Lý trí đã rút lui về cái địa hạt của nó, và thần thức không còn bị chướng ngại. Bộ Óc đã bước vào một trạng thái hoàn toàn ngơi nghỉ, cũng như trong giấc ngủ mê nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo, tuyệt nhiên không chút mê muội. Tôi vẫn điềm tĩnh và biết rõ tôi là ai cùng những gì đang diễn ra ở chung quanh. Tuy nhiên cái ý thức của tôi đã rút lui ra khỏi những giới hạn chật hẹp của bản ngã, và thuộc về một cái gì huyền diệu vô cùng, nó bao gồm hết tất cả hơn nhiều cái bản ngã vô vị kém hèn mà từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng là Tôi, một cái gì thâm sâu hơn, thiêng liêng huyền diệu hơn, hỗn hợp với tâm thức của tôi. Tôi cảm thấy được một điều mới lạ, đó là một sự tự do tuyệt đối hoàn toàn, và thoát ra khỏi sự hoạt động độc đoán của tư tưởng chẳng khác nào như thoát ra khỏi chốn ngục tù để thở bầu không khí tự do phóng khoáng bên ngoài.
Tôi đã vượt qua khỏi giới hạn và bước ra ngoài vòng tâm thức của quả Địa Cầu.
Bầu Hành Tinh vẫn dung dưỡng chứa chấp tôi thưở nay, đã biến mất dạng. Tôi đang phiêu diêu giữa một biển ánh sáng rạng ngời. Biển ánh sáng này, tôi cảm thấy hình như là chất Tiên Thiên. Khí làm căn bản cấu tạo nên các bầu thế giới, tức là trạng thái nguyên thủy của vật chất hồng trần. Nó bao trùm khắp nơi trong cõi không gian bao la vô tận, và sống động một cách không thể tả.
Trong khoảnh khắc, tôi đã thấu rõ ý nghĩa tấn tuồng sinh hoạt nhiệm mầu của Vũ trụ nó diễn ra trong không gian. Tôi, cái Tôi mới, được tràn ngập một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên. Tôi đã uống cạn chén nước cam thủy của giòng sông Léthe, tức giòng nước quên lãng. Những đắng cay của dĩ vãng, những phiền muộn của tương lai, thảy đều tiêu tan và đắm chìm trong sự lãng quên. Tôi đã đạt tới một sự tự do thiêng liêng và một niềm phúc lạc không thể tả. Tôi mở rộng hai tay đón lấy toàn thể vũ trụ và chúng sinh với một tình thương bao la thâm trầm, vì tôi đã hiểu một cách thâm sâu rằng:
Hiểu biết tất cả không phải chỉ là tha thứ tất cả, mà còn thương yêu hết tất cả!
*** Linh hồn tôi đã say sưa trong cơn đại định, thoát trần!...
Làm sao tôi có thể ghi chép lại được một sự kinh nghiệm siêu linh và huyền diệu như thế, vì nó quá tế nhị để có thể diễn tả bằng ngòi bút của tôi...
Tuy nhiên, những điều chân lý bất hủ mà tôi đã thu thập được cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của trần gian, và sự cố gắng đó sẽ không phải là vô ích. Bởi vậy, tôi đã thử ghi chép lại, dẫu rằng một cách vụng về, một vài điểm ký ức của cõi giới diệu huyền mà người đời chưa từng thám hiểm, nó ở ngoài vòng giới hạn tâm trí của con người.
Con người có thể tự hào rằng y thuộc về một giòng giống thiêng liêng:
Một Đấng vô cùng cao cả hơn người mẹ của y vẫn chăm nom săn sóc y từ thưở ấu thõ. Trong những khi khôn ngoan sáng suốt hơn, y sẽ nhận biết điều này.
Có một thưở, trong cái thời kỳ dĩ vãng xa xăm, con người đã từng thề nguyền chung thủy với Đấng Hóa Công, và trong một bầu không khí lộng lẫy huy hoàng, y đã nghe theo tiếng gọi của cuộc đời trần gian tục lụy, thì cũng có những người không hề quên lời thề nguyền thưở xưa, họ sẽ nhắc nhở cho y nhớ lại đúng vào giờ phút thích nghi.
Trong con người, có một yếu tố bất diệt, đó tức là Chân Ngã. Y đã lãng quên mất Chân Ngã của mình, nhưng sự lãng quên đó không bao giờ có thể làm giảm bớt đi sự cao cả thiêng liêng của nó. Y có thể quên mất nó đi và ngủ mê trong sự truy hoan, nhưng một ngày kia nó vươn mình cho trỗi dậy và đánh thức y, y sẽ nhớ lại rằng y là ai và thu hồi lại được linh hồn của mình.
Con người không tìm thấy cái chân giá trị của mình bởi vì y đã mất cái ý thức về Thiêng Liêng. Bởi đó, y chạy quàng xiên theo những lý thuyết của người khác, trong khi y có thể tìm thấy lẽ sống chân thật ở tự nơi mình. Hình biểu tượng Sphinx không nhìn cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn khó lường của nó luôn luôn hướng vào bên trong, và ý nghĩa thâm sâu của nụ cười bí hiểm của nó là Tự Biết Mình.
Người nhìn vào bên trong chỉ thấy có sự bất mãn, yếu đuối, vô minh và sợ sệt, chớ vội thất vọng và hoài nghị Y hãy nhìn sâu hơn và lâu hơn, cho đến khi y nhận thấy những dấu hiệu thoáng qua nó sẽ xuất hiện khi cái tâm hoàn toàn vắng lặng. Y hãy cẩn thận dò xét những dấu hiệu đó, vì nó sẽ sống động và tăng trưởng lên thành những tư tưởng siêu việt vượt ra ngoài vòng giới hạn của lý trí, chẳng khác nào như những vị Thiên Thần tiền phong báo hiệu trước một tiếng nói huyền diệu sắp đến. Đó là tiếng nói của một vật ẩn dấu, huyền bí, thâm trầm nó ngự trong nội tâm của y, tức là tiếng nói của Chân Ngã.
Mỗi người đều sẽ có lúc được hưởng ân huệ thiêng liêng trong đời mình, nhưng nếu y thản nhiên bỏ qua cơ hội, thì ân huệ đó cũng ví như một hột giống gieo trên bãi đá sạn. Không ai bị sa thải ra ngoài cái ân huệ thiêng liêng đó, mà chỉ là con người tự sa thải lấy mình. Con người đi tìm tòi khám phá cái ý nghĩa bí ẩn của cuộc đời, hãy nên biết rằng cái Nguồn sống sinh ra y vốn cao cả và thiêng liêng hơn là y có thể tưởng tượng. Y hãy tin tưởng nơi Thiên Ý và tuân theo những mệnh lệnh thâm trầm nhắn nhủ vào cõi lòng y bằng những linh cảm tế nhị và sâu sắc. Người nào tưởng rằng y có thể sống tự do theo ý mình, chiều theo tiếng nói của dục vọng mà khỏi phải chịu trách nhiệm về những hành động của y về sau này, thật là trói buộc cuộc đời y với điều mộng ảo. Kẻ nào phạm tội với người đồng loại hay với chính họ, ấy là tự họ tuyên án lấy mình. Họ có thể giấu diếm tội lỗi khuất mắt người đời, nhưng họ không thể che dấu các đấng Thần Minh. Nền Công Lý vẫn cai quản thế gian một cách đúng phép mặc dầu người ta không nhìn thấy những hành động của nó, và không phải lúc nào cũng tìm thấy nó ở những Pháp Đình của trần gian. Kẻ nào thoát khỏi luật pháp trần gian sẽ không thoát khỏi lưới công bình thưởng phạt của Thánh Thần.
Những người đã từng chịu đựng đắng cay gian khổ, những người đã trải qua những cơn nghịch cảnh tối tăm, gan bầm ruột héo, lệ sầu tuôn rõi sẽ sẵn sàng hơn để tiếp nhận tiếng nói của Chân Lý. Nếu họ không nghe thấy gì khác hơn, ít nhất họ có thể nhận định rõ tính cách phù du giả tạm của cuộc đời, họa phước vô thường biến đổi. Nếu họ không bị phỉnh lừa bởi những ngày sáng sủa vui tươi, ho sẽ ít khổ hơn trong những giờ đen tối. Đời người gồm cả vui sướng lẫn đau khổ, không ai có thể tự hào rằng mình được trọn vẹn suốt đời. Người nào còn tự đắc, kiêu hãnh đối với kẻ đồng loại sẽ chuốc lấy điều tai họa hiểm nghèo. Trước sự hiện diện vô hình của các đấng Thần Minh, thì đức khiêm tốn là bộ áo duy nhất mà con người nên khoác lấy, vì các Ngài có thể lấy đi trong khoảnh khắc tất cả những gì mà con người đã thu thập trong nhiều năm. Số phận của mọi vật được định đoạt theo từng chu kỳ, và chỉ có những người vô trí thức mới không nhận biết điều đó. Trăng tròn rồi lại khuyết, hết nước lớn lại nước ròng, sự vật trong vũ trụ luân chuyển theo định luật tuần hoàn. Đời người cũng không ngoài cái định luật đó, hết thịnh đến suy, hết già đến trẻ; sức khỏe là một khách vô thường, tình yêu vừa mới đến thì đã ra đi. Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, hết lúc suy vong đến hồi thịnh trị. Một bài học lớn về định luật đó là dù con người có biết hay không biết, nơi trú ẩn rốt ráo cùng tột của con người là ở tự nơi mình. Thưở xưa con người biết rõ điều ấy và đã tìm nguồn an ủi ở nơi đó. Nếu y quên đi cái nguồn gốc cũ của mình, thì sự thất vọng và đau khổ lại cùng liên kết với nhau để đem y trở về. Không ai có thể tránh khỏi được hai điều ấy tức là hai bậc Thầy của nòi giống nhân loại.
Con người chỉ được che chở và an toàn khi nào y xét thấy rằng có những cánh tay thiêng liêng đùm bọc lấy ỵ Ngày nào con người chưa được giác ngộ thì những phát minh mới mẻ tân kỳ nhất của y sẽ trở nên những chướng ngại khó khăn nhất, và bất cứ điều gì thúc đẩy y tiến sâu thêm vào cõi giới vật chất sẽ trở nên những sợi dây trói buộc mà về sau y lại phải cởi mở để thoát lỵ Vậy y hãy quên đi những điều lo âu phiền muộn về những sự vật trần gian để lo trau dồi Chân Ngã, chừng đó y sẽ được sống trong an vui và hạnh phúc.
Người nào thấy được một lần cái Chân Ngã hay Chân Như Phật Tánh của mình sẽ không còn thù ghét được ai nữa. Không có tội ác nào lớn hơn lòng thù hận, không có đau khổ nào lớn hơn chiến tranh.
*** Không ai thoát khỏi sự dò xét của các đấng Thần Minh, tuy im lặng và vô hình, nhưng các Ngài vẫn nhìn thấy mọi hành động của người trần gian. Sự thù hận sẽ biến mất trên thế gian khi nào con người tập nhìn thấy kẻ đồng loại không phải bằng cặp mắt phàm, mà bằng một cái biệt nhãn, nó cho thấy những khả năng thiêng liêng của họ, và khi nào y có thể nhìn họ với một lòng kính nể, vì trong lòng họ có ngự một quyền năng thiêng liêng mà người ta gọi là Thượng Đế.
Những nhà học giả có thể bươi móc, lục lạo những chồng sách cổ kim chất hàng đống trong các thư viện, họ cũng không tìm được một Chân Lý nào cao xa và thâm trầm hơn cái Chân Lý tối trọng này là:
"Chân Ngã con người vốn bất diệt và thiêng liêng. Những triển vọng thiết tha nhất của con người có thể phai mờ dần với thời gian nhưng cái hy vọng một đời sống trường cửu, một tình yêu toàn vẹn không dời đổi, một niềm hạnh phúc chân thật có ngày sẽ được thực hiện, vì nó được hứa hẹn với chúng ta bởi một cái định mệnh chắc chắn không bao giờ phỉnh lừa và không ai tránh khỏi. " Con người hướng về những bậc Giáo Chủ và Hiền Triết thời xưa để tìm những tư tưởng siêu việt và những triết lý cao thâm, nhưng khi một người nhìn thấy được cái bản tính chân thật của mình, y sẽ được sống trong ánh sáng. Tất cả những gì tốt đẹp cao cả về tư tưởng và tình cảm đều đến với y một cách dễ dàng mà y khỏi phải tìm kiếm. Trong sự bằng an của tâm hồn y, hiện ra những linh ảnh thiêng liêng không kém gì những linh ảnh của các nhà tiên tri Do Thái hay Ả Rập thời xưa. Cũng do ánh sáng thiêng liêng đó mà đức Phật thoát nhiên đại ngộ và truyền lại cho hậu thế cái ý niệm về cõi Niết Bàn. Sự giác ngộ ấy cũng làm thức tỉnh một tình thương bao la rộng lớn đến nỗi nó hoán cải được cả một đời người, và chính vì đó mà nàng Marie Madeleine ngày xưa đã rửa sạch tội lỗi bằng nước mắt của nàng dưới đức Chúa Jesus.
Không có lớp bụi mờ nào có thể bao phủ những điều chân lý cổ kính này, mặc dầu nó đã trải qua nhiều thế hệ từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu. Không có một dân tộc nào mà không nhận được từ buổi sơ khai những điều tiết lộ cao cả và thâm trầm này. Người nào sẵn sàng đón nhận những chân lý thâm sâu đó, không những hiểu nó bằng lý trí mà thôi mà còn phải mở rộng cõi lòng để thông cảm cho đến khi nhờ nó đem nguồn cảm hứng mà họ có được những hành động cao cả siêu việt.
Một sức mạnh mà tôi không cưỡng lại được đã bắt buộc tôi quay trở về cõi đời thực tế. Trải qua những giai đoạn tuần tự và rất chậm rãi, tôi đã dần dần ý thức được cảnh vật chung quanh. Tôi nhận thấy rằng tôi vẫn còn ngồi trong tịnh xá của đức Maharichi, nhưng gian phòng vắng lặng như tờ. Đôi mắt tôi chợt nhìn đồng hồ trên vách và tôi nhận ra rằng giờ này có lẽ mọi người đã qua bên phòng ăn để dùng cơm chiều. Kế đó, tôi cảm thấy hình như có người ngồi ở bên cạnh tôi. Vị đệ tử già bảy mười lăm tuổi, làm xếp ga hồi hưu, vẫn còn ngồi lại bên cạnh tôi trên sàn gạch và chăm chú nhìn tôi một cách rất có thiện cảm.
Y cho tôi biết:
- Sư huynh ðã xuất thần nhập định được gần hai tiếng đồng hồ.
Gương mặt của y có đầy những vết nhăn sâu hoắm, dấu tích sự tàn phá của thời gian. Y vừa nói vừa nở một nụ cười rất tươi, dường như y cũng chia sớt niềm hạnh phúc của tôi. Tôi định mở lời để đáp lại, nhưng lấy làm ngạc nhiên tôi không thể nói được nữa. Gần mười lăm phút trôi qua, tôi mới thu hồi lại được giọng nói của mình. Trong khi đó, ông lão lại nói tiếp:
- Đức Maharichi đã theo dõi sư huynh một cách chặt chẽ trong suốt thời gian đó. Tôi chắc rằng Ngài dùng tư tưởng để dìu dắt sư huynh trong cơn nhập thiền.
Khi đức Tôn Sư trở lại tịnh xá, những người đi theo Ngài cũng vào ngồi lại một chút trước khi sửa soạn đi ngủ. Ngài bước lên giường gỗ ngồi xếp bằng như thường lệ. Ngài ngồi nghỉ, khủyu tay mặt chống lên đùi, bàn tay mặt đỡ lấy cằm, hai ngón tay đặt bên gò má. Bốn mắt chúng tôi gặp nhau, và ngài tiếp tục nhìn tôi một cách chăm chú.
Khi người tiểu đồng hạ thấp cái bấc đèn theo như lệ thường mỗi đêm, tôi lại ngạc nhiên mà thấy cái tia sáng lạ thường trong cặp mắt yên lặng của đức Tôn Sự Đôi mắt của Ngài chiếu sáng ngời như hai ngôi sao giữa đêm tối. Tôi chưa từng gặp một người nào có cặp mắt lạ lùng như nhà hiền triết này. Nếu cặp mắt con người có thể phản ảnh cái quyền năng thiêng liêng, thì đó là trường hợp của đức Maharichi vậy.
Khói trầm bay lên nghi ngút tỏa mùi thơm khắp phòng trong khi tôi vẫn nhìn đôi mắt không chớp của Ngài. Bốn mươi phút trôi qua trong cái tình trạng đó, tôi với Ngài đều im lặng nhìn nhau không ai thốt ra một lời nào. Giữa lúc này, lời nói nào có ích gì. Bây giờ, chúng tôi hiểu nhau hơn trong im lặng, vì trong cái im lặng thâm trầm đó tâm hồn chúng tôi hoà hợp lẫn nhau một cách tuyệt diệu và trong cuộc giao cảm thâm trầm này tôi nhận được một thông điệp không lời nhưng rất rõ ràng. Sau khi tôi đã nhận thức được quan điểm của đức Maharichi về cuộc đời, từ nay đời sống nội tâm của tôi đã bắt đầu hòa hợp làm một với đời sống tinh thần của Ngài.
*** Trong hai ngày kế đó, tôi phải chiến đấu với cơn sốt sắp đến và cố gắng giữ vững tinh thần. Vị đệ tử già bước đến chòi của tôi vào một buổi trưa và nói:
- Thời gian chung sống của Sư Huynh với chúng tôi nay đã chấm dứt. Nhưng chắc có ngày Sư Huynh sẽ trở lại với chúng tôi chứ...
- Lẽ tất nhiên tôi sẽ trở lại.
Tôi đáp một cách tự tin. Khi y ra về, tôi đứng trước cửa nhìn lên ngọn Đồi Thiêng, Arunachala, nói theo tiếng Ấn Độ. Nó đã trở nên cái bối cảnh linh thiêng của cuộc đời tôi. Bất cứ lúc nào khi tôi đang làm gì, dầu là đang ăn uống, nói chuyện, đi bách bộ, hay ngồi thiền, tôi chỉ ngước mắt lên là tôi nhìn thấy cái hình dáng hùng vĩ của nó nhô lên trước mặt tôi, hoặc ở chỗ lộ thiên, hoặc xuyên qua khung cửa sổ. Người ta không thể quan niệm được rằng một nõi đạo viện thâm nghiêm như chốn này mà không có một ngọn đồi như thế, và tôi cũng đã chịu ảnh hưởng bởi cái sức hấp dẫn lạ lùng của nó.
Chiều đến, tôi chào từ giã tất cả mọi người trong đạo viện, trừ ra đức Maharichị Tôi cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng bởi vì tôi đã thành công trong sự chiến đấu để đạt tới một kết quả chắc chắn về đường tâm linh, và cũng bởi vì tôi đã thắng trận mà khỏi phải hy sinh cái thái độ hợp lý của tôi cho một đức tin mù quáng. Tuy nhiên, khi đức Maharichi cùng với tôi bước ra đến sân đạo viện một lần cuối cùng, tôi cảm thấy sự sung sướng của tôi thình lình biến mất và nhường chỗ cho một nỗi buồn man mác. Tôn Sư đã chinh phục được tôi một cách lạ lùng và tôi cảm thấy buồn vô hạn khi phải từ giã Ngài ra đi. Ngài đã nối liền hai tâm hồn chúng tôi bằng những sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt tuy rằng Ngài không có ý muốn nào khác hơn là làm cho một người trở về nguyên bổn để giúp cho y tự giải thoát. Ngài đã giúp cho tôi thực hiện Chân Như Phật Tánh và diễn đạt cái danh từ vô nghĩa đó thành một kinh nghiệm sống động, độc đáo và vô cùng huyền diệu.
Tôi cố kéo dài giờ phút từ biệt và không thể nào biểu lộ hết những nỗi xúc cảm thâm trầm trong lòng tôi. Nền trời xanh thẳm chiếu muôn ngàn ánh sao lóng lánh, vầng trăng non mới mọc giống như cái lưỡi liềm bằng bạc treo lủng lẳng trên không trung. Hàng nghìn con đom đóm lập lòe làm cho khu vườn trở thành một tấm thảm chói sáng rực như thêu kim cương, và những chiếc lá dừa đẩy đưa một cách dịu dàng trước ngọn gió chiều hiu hắt.
Cuộc phiêu lưu kỳ diệu của tôi trên cõi giới tâm linh đã chấm dứt, nhưng biết đâu thế cuộc xoay vần, cái bánh xe thời gian lại chẳng có ngày đưa tôi trở lại chốn này... Tôi chắp hai tay đưa lên trán theo phong tục bản xứ và thốt vài lời từ biệt. Ngồi trên chiếc giường gỗ, Tôn Sư không nói một lời, dưới ánh đèn dầu leo lét, tôi còn thoáng thấy gương mặt trầm lặng của Ngài với màu da đồng bạch và cặp mắt sáng ngời, một cái chắp tay vái chào cuối cùng, một cái vẫy tay nhẹ của Ngài đáp lại, và thế là hết.
Tôi trèo lên cỗ xe bò đợi ngoài sân, người phu xe đưa roi quất mạnh, cỗ xe từ từ lăn bánh, hai con bò dễ dạy bèn lầm lũi tiến bước trong đêm khuya thơm ngát mùi hương của vùng nhiệt đới.