Lúc đó vào tháng Mười. Một buổi sớm kia lão Javis dắt một con ngựa già đi trên đường cái. Nói cho đúng thì lão không dắt con ngựa. Vì cái dây chão để chùng giữa lão và con ngựa. Lão cùng con ngựa đi sát bên nhau thì thào to nhỏ mọi chuyện trên đời. Lão gặp lão John và bảo:
- Chào ông bạn. Tôi có nghe người ta nói về ông. Tôi mới sinh sống ở mạn dưới kia cách đây vài ba nông trại. Cùng cô con gái tôi, cô Jordy, ông biết chứ?
- Tôi biết cô ta rất rõ – John nói, và ông không giải thích vì sao ông biết rõ cô ta, vì ông cảm thấy không thích cái ông khách này.
Lão Javis nắm một nạm bờm trên đầu con ngựa, vân vê trong bàn tay đầy nốt chai của lão, và nói:
- Con ngựa này, có lẽ… có lẽ tôi sắp đem hạ sát nó thôi…
Lão John rùng mình, hỏi lại:
- Ngựa của chính ông mà lại….?
- Tôi đã nuôi nó từ lúc còn bé tí – Lão Javis nói một cách kiêu hãnh – Cho tới nay, thế là nó ở cùng với tôi gần ba chục năm rồi đó.
- Con ngựa này hay đấy – Lão John nói – Có thể thấy rõ là nó đã bị vắt kiệt sức rồi, nhưng vẫn còn hay.
- Đúng thế, nó vốn là một con ngựa hay xưa nay – Lão Javis nói như thể thanh minh - Chắc là ông cũng hiểu. Mà cũng có thể là ông không hiểu. Con gái tôi hình như…ôi chao…lẽ ra tôi đã phải hạ sát con này lâu rồi. Xương cốt nó rã rời, có khác tôi mấy tí đâu.
Lão John thấy một con mòng nơi chân trước con ngựa, liền đi tới xua cho nó. Rồi hỏi lại lão Javis:
- Vậy là, con gái ông không muốn nhìn thấy con này quanh quất bên cô ta chứ gì? Tôi cho rằng chẳng phải vội vàng làm gì? Sao không cho nó ở lại đây ít lâu đã?
Lão Javis vớ ngay lấy cơ hội:
- Tôi có thể trả công chăn dắt! Tôi thuê. Mỗi tuần một đồng cũng được. Tiền tôi không dư dả, nhưng tôi có thể bớt xén ít nhiều và thuê ông. Và thỉnh thoảng tôi cũng có thể lại đây chăm sóc nó cùng ông.
- Tôi cũng không coi trọng lắm chuyện thuê mướn đâu, ông Javis ạ - Lão John nói.
- Ở dưới kia, tôi nghe nhiều người nói ông rất thương súc vật, vì vậy tôi nghĩ ông có thể thông cảm cho. Tên nó là Barni.
- Hoan nghêng chú mình, Barni – Lão John nói và lấy tay gãi gãi vào tai con ngựa – Này, ông Javis, tôi có mảnh đất trồng cỏ cho ngựa cạnh bãi ngô con con kia. Ông hãy đem con Barni ra đó và thả nó ra.
Con ngựa đã xuất hiện và được đón tiếp như thế. Những đứa con trai lớn của lão John tiếp đón con ngựa đầu tiên. Chúng đưa tay dọc theo sống lưng thõng của con ngựa và sờ những đầu gối nổi cục của nó. Chúng nói:
- Cha ạ! Thêm con này hẳn là cha định làm ngựa cỡi chứ?
Và vợ lão thì than van:
- Con này thì chỉ biết ăn thôi, và nhà mình chưa chắc đã đủ rơm cỏ cho mùa thu này.
Còn lão người làm Kelvin mà lôi lão John ra một góc mà bảo:
- Thật là tội lỗi, tội lỗi thật sự khi đem lương thực ra nuôi một cái xác như thế này, trong khi còn biết bao con người không có miếng mà ăn.
Lão John phải thừa nhận rằng, trong những điều lão Kelvin nói có chút sự thật, và điều đó khiến lương tâm lão có lúng túng. Nhưng cuối cùng lão đáp lại một cách bình thản:
- Tôi khi nào cũng thích làm điều đúng đắn.
Từ hôm đó, sáng sáng, chiều chiều, lão Javis đều tới thăm ngựa, cho dù trời mưa, hoặc sương buông, hoặc bụi bay đầy trời chăng nữa. Khi nào lão tới cũng mang theo vài viên đường hoặc chút quà gì đó, và lần nào cũng vậy, lão đều vội vã thở muốn đứt hơi.
- Lẽ ra ta tới sớm hơn kia – Lão nói - Lại còn phải thịt mấy con gà, rửa bát đĩa. Lâu không, Barni?
Nói xong, lão thường đưa cho ngựa những thứ lão mang cho nó.
Qua đi một tuần, rồi hai tuần. Một hôm cuối tuần, vào lúc trời nhá nhem, lão bảo lão John:
- Này, có lẽ tới lúc rồi đó. Lần đầu tiên trong đời Barni đã được nghỉ ngơi, nhưng bây giờ đã tới lúc rồi đó. Có điều là tôi không có súng. Liệu ông có thể giúp tôi cái khoản đó một chút không, ông John?
Lão John lắc đầu.
- Hừm….Cứ để yên cho nó một thời gian nữa có được không? – Lão nói và lảng đi xa - Cứ cho nó ở yên vị đó cho tới vụ cất cỏ vào chuồng. Cỏ rẻ thôi, không đắt đâu.
Thế là lão Javis vừa đi về vừa huýt sáo, còn con Barni thì ở lại. Tháng Mười trôi đi cùng với những ngày ngắn ngủi đầy hương vị mặn mà, sau đó là tháng Mười Một tới với gió lạnh tràn về. Và một bữa kia, hơi thở từ phương Bắc tràn về như một con chim to lớn màu trắng và làm những bông tuyết bay nhảy khắp mặt đất giá băng. Đã đến lúc phải cất rơm, cỏ khô vào chuồng ngựa. Còn con Barni thì xử trí ra sao đây?
- Hừ, đã tới lúc có thể thanh toán nó được rồi đó – Lão Javis nói – Ông John, ông có thể làm chuyện đó giúp tôi không?
Lão John nói rằng phải cần nghĩ ngợi chút đỉnh đã. Lão nghĩ hơi chậm, và cả gia đình lão đều thấy nóng ruột. Vào một bữa ăn sáng, các con trai lão nói:
- Nếu chúng con bắn con Barni, cha cho chúng con bộ da nó nhé? Chúng con sẽ thuộc đi và may áo ngoài.
- Nhà mình đối xử với con ngựa này thế là quá tốt rồi đó - Vợ lão nói – Con ngựa tội nghiệp không còn đủ sức đứng vững và cất đầu lên nữa rồi. Dĩ nhiên trừ khi lão già tới thăm nó.
- Nếu lão Javis tỏ ra đúng đắn – Lão Kelvin nói - hẳn lão phải để ông bán con ngựa này làm thức ăn nuôi chó.
Họ nhao nhao vào bàn tán góp ý cho lão John đến mức lão định nghe họ quách cho xong. Nhưng khi lão tới gặp chú lão là cha xứ, chú lão bảo:
- Chú hiểu rõ lão Javis, cháu ạ. Khi một con người phải đặt lòng yêu vào một con vật già nua thế này, ta cần thông cảm. Con chớ quên cho con ngựa ăn mớ cỏ ít ỏi con vẫn dành cho nó.
Thế là lão John về nhà trong lòng yên ổn hơn bao giờ hết. Lão vẫn chưa biết sẽ nói gì khi lão Javis chiều nay tới thăm con ngựa một lần cuối cùng. John cùng lão ra chuồng ngựa, trong lòng náo nức kích động về một cảnh tượng nào đó có thể xảy ra. Nhưng chẳng có chuyện gì hết.
- Việc đó thế nào cũng phải làm thôi – Lão Javis nói và mở cái túi bằng giấy lão thường mang theo bên người – Tôi không thể kham nổi chuyện nuôi nó nữa. Tôi cũng không thể chi mỗi tuần một đồng để chăn dắt nó nữa. Con gái tôi nay kiểm tra tài khoản dữ lắm.
Lão mở túi ra và những viên đường lăn vào tay lão.
- Tôi cũng không thể mua đường được nữa – Lão nói.
Lão John cảm thấy ngực mình dâng lên một nỗi giận. Lão hỏi lại:
- Vậy ra bác ăn trộm những thứ này chăng?
- Ăn trộm chút ít – Lão Javis nhận – Nhưng giờ đây con gái tôi xem xét ngặt lắm. Tôi đành phải bớt xén từ xuất chè và xuất cháo của tôi.
Lão John chờ cho cơn giận tan đi trong lồng ngực mình và để cho nó dâng lên mắt mình. Rồi lão lẩm nhẩm và lảng đi:
- Chuyện đó lẽ ra không nên để xảy ra!
Và đã xảy ra chuyện như sau. Khi trở lại chuồng ngựa lão nói:
- Này! Ông Javis, chuồng ngựa nhà tôi mùa đông này sẽ rộng hơn đấy. Và có thêm con ngựa cũng đem lại thêm hơi ấm, ông biết đấy. Sao ông không để cho con ngựa này lại đây cho chuồng ngựa của tôi ấm thêm?
Tối hôm đó, xung quanh bếp lò, sau khi lão John kể cho cả nhà nghe ý định của lão, cả gia đình lão bắt đầu rầy la lão.
- Tôi nghĩ rằng ông phải giầu hơn nữa thì mới nên cất công mua khung xương kia về mà nuôi báo hại – Lão Kelvin nói gần như không kịp thở nữa.
Nhưng lão John vẫn nghe rõ Kelvin nói gì, và tiếng lão đáp lại tỏ ra khác thường lắm.
- Con người khi nào cũng phải cố sống cho đúng đắn.
Và thế là lão John đã đúng đắn cả suốt mùa đông năm đó. Lão cho con Barni ăn cùng xuất ăn như những con ngựa khác nhà lão.
- Ta lo rằng mình có tốt hơn nữa với con Barni thì cũng chẳng ăn thua gì. Xem chừng mỗi sớm nó lại yếu thêm, nó khó lắm mới gượng dậy nổi. Ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi một sớm nào đó tới thăm chuồng và sẽ thấy nó chết rồi.
- Càng chết sớm càng tốt – Lão kelvin lầu bầu.
Thế nhưng con Barni đã làm một việc khiến mọi người ngạc nhiên . Vào lúc những móng vuốt mùa đông bớt bám chặt lấy cuộc đời, thì xương cốt con Barni đang rệu rã cũng thay đổi. Nó trở nên thay đổi hẳn, và một hôm lão John thấy ba đứa con nhỏ nhà mình cưỡi và nhào lộn trên lưng nó. Bọn trẻ nói, chúng chưa từng khi nào thấy có con ngựa để cho chúng tập nhào lộn như vậy. Có thể tin cậy vào nó và làm mọi tiết mục nào mình thích làm.
Chính lão Javis lại là người bị Thời Gian cướp đi trước. Một buổi sáng, khi mùa đông tệ hại đã qua rồi, con Barni chờ đợi hoài hơi không thấy lão Javis tới cùng với cái túi giấy đựng quà của lão. Về sau, khi lão John đi xuống cửa hàng với một túi trứng, lão dừng lại thăm nom tình hình lão Javis.
- Chẳng có chuyện gì tồi tệ xảy ra cho lão đâu – Con gái lão nói – Lão chỉ lười hơn mọi ngày tí chút thôi, sáng nay lão không muốn dậy đó mà. Thay đổi thời tiết thì mệt đó thôi, bác à.
Cô Jordy là một người phụ nữ to lớn và trên mặt chẳng có một chút gì khiến ta muốn tìm hiểu hết. Hôm đó lão John rất muốn thăm ông bạn cũ, nhưng cũng chẳng thăm được.
Nhưng hôm sau lão John lại nhà Jordy một bận nữa.
- Tôi nghĩ ông cụ thân sinh ra cô muốn biết tin tức con ngựa của ông ấy – Lão John nói vời giọng khàn khàn – Tôi không ở chơi lâu la gì đâu.
Thế là cô ta mở cửa một cách miễn cưỡng. Cô ta trỏ cho lão John vào thăm ông bạn già nằm trong căn phòng sát bếp đang thiu thiu ngủ, người bọc trong tấm chăn lính cũ. Lão John lay chiếc chăn bụi bặm.
- Ông thấy thế nào? – Lão hỏi.
Lão Javis mở mắt một thoáng, không nhận ra điều gì cả, rồi lại tiếp tục ngủ.
- Hôm nay ông cụ trái tính trái nết thật! - Người con gái nói.
- Con Barni hỏi thăm tin tức của ông đó! – Lão John nói.
Đôi mắt mệt mỏi mở ra và lần này thì nhìn thấy bạn cũ.
- Barni? Con Barni thế nào rồi? – Lão Javis hỏi yếu ớt.
- Ông thấy người ra sao? – Lão John hỏi lại - Chuyện đó mới là chính.
- Tôi sắp khoẻ rồi, John ạ - Lão già nói khẽ rung rung giọng – Tôi chỉ bị từng cơn thôi. Trước đã bị rồi. Nếu tôi qua được tới tháng Tư, thì mọi chuyện lại như thường.
Hôm sau, lão John đem Barni đi và đến đứng trước cái sân bên ngoài phòng lão Javis. Hôm đó người con gái lão có vẻ bẳn bó khác lệ thường.
- Barni,Barni,Barni! – Cô ta nói trong lúc lão John đi qua nhà và mở cửa sổ - Suốt đêm chỉ thấy ông ta gọi như vậy. Ông lão nói với con ngựa ấy như thể với trẻ con vậy. Tôi cười muốn chết và suốt đêm không chợp được mắt.
Lão John nuốt giận. Lão sờ trán ông bạn già và đỡ cho ông ta nhìn qua cửa sổ. Sau đó lão đem những viên đường đặt vào lòng bàn tay nhăn nhúm của lão và làm cho Barni chú ý tới họ. Con Barni gật đầu, ăn đường và liếm tay lão Javis nhiều lần để cảm ơn. Mọi chuyện chỉ xảy ra có bấy nhiêu thôi, sau đó người con gái lão Javis đóng sầm cửa sổ lại, đúng vào lúc con ngựa già thò cái mũi hồng hồng vào.
Lão John không nhận thấy trong túi áo ngoài của mình có lá thư, và chỉ tới khuya, sau khi mọi việc vặt trong nhà đã hết, lão mới biết. Phong bì gắn xi. Bên ngoài là dòng chữ run rẩy: “ John ạ, nếu tôi trết hãi đọc trớ đọc chước nhá ”.
- Có gì trong đó? – Bà vợ lão John hỏi - Tiền chăng?
- Khó mà có chuyện đó – Lão Kenvil lầu bầu.
Sáng hôm sau, cô Jordy gọi dây nói báo tin cho lão John biết cha cô ta đã qua đời. Thấy lão chết trên giường, cô con gái nói như vậy.
- Cứ nghĩ rằng cô ta có một trái tim, và trái tim đó đã vỡ vụn ra – Lão John lầm bầm khi báo tin cho gia đình mình.
Lão ra chuồng ngựa, ra khoang của con Barni, và mở lá thư ra. Trong thư viết:
Từ lay tới tháng tư xa quá, tôi không nghĩ rằng tôi qua được John ạ, nhưng cám ơn John nhiệt tấm lòng vì tốt quá với Barni. John không thể hiểu nổi tấm lòng đó tốt lắm. Bây giờ, John ơi, cần phải cho Barni qua đời thôi nó sống thêm một mùa xuân nữa thì cũng khổ cho nó lắm lắm. Sống mà trẳng là được việc dì, nhưng tôi biết dằng cũng chẳng sao, mong John cho nó qua đời nhé. Tôi mong dằng John sẽ làm cho Barni một đám ma nhỏ khi chôn cất nó,và John tìm một nơi đẹp đẹp đào cho nó cái huyệt xinh xinh nơi bóng cây và khi chôn nó thì đọc vài câu thơ hoặc nói tí gì cho êm dịu nhé như là tạm biệt ấy mà. Tại vì dằng họ nói giống ngựa không có kiếp sau nên cần nói với nó một lời tạm biệt đẹp đẽ. Làm thế tôi sẽ cảm ơn John mãi mãi sau khi tôi đã qua đời. Suốt hai tuần lễ lão John không dám hé răng về nội dung lá thư. Lão cho rằng không nên để cho bất cứ ai trong thiên hạ giễu cợt một con người vừa mới qua đời, cho dù tính khí người đó còn trẻ thơ chăng nữa. Nhưng rồi cuối cùng, vào một tối kia lão đã cho vợ biết.
- Con người cô đơn tội nghiệp! – Bà vợ nói – Tôi thật mừng là ông đã không đọc thư cho tôi nghe ngay khi tôi đang rầy la ông. Tội nghiệp ông già! Thế mà đang có chuyện gì ông biết không? Con gái ông ta đang cho người tới lấy ngựa đó. Họ sẽ đem nó đi bán để người ta làm thức ăn cho chó.
Lão Kelvin lầu bầu, như thể muốn nói:
- Thì tôi đã chẳng bảo đó ư?
- Bọn họ không lấy được ngựa đi – Lão John hứa hẹn một cách bình tĩnh – Tôi sẽ đảm bảo chấm dứt chuyện đó. Và tôi cho rằng tôi sẽ làm được sớm thôi. Ngay chiều nay thôi.
Bà vợ thấy hơi lo lắng chút ít khi thấy ông chồng lấy ra khẩu súng. Bà ta hỏi ông chồng với một vẻ hơi hồ nghi:
- Cũng chẳng có cách gì giữ nó lâu hơn. Nhưng không làm ngay bây giờ chứ?
- Không – Lão John nói – Không làm ngay, có lẽ thế. Có điều là, như lão Javis nói, cần phải làm, vì có thể con Barni chẳng sống thêm nổi một mùa xuân nữa vô công rỗi nghề. Bà làm ơn gọi dây nói cho chú chiều nay tới làm lễ cho nó, có được không? Còn Kelvin, khi đi qua cửa hàng, hãy nói cho lũ đầy tớ nhà đó là có đứa nào rảnh việc thì chiều nay hãy tới đây.
Một số người đã tới để làm ma cho con ngựa. Có cả vài người mà lão John không thể nhớ mà mình đã gặp ở đâu trước đây. Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi khi họ tới. Huyệt đã đào xong. Bên cạnh huyệt là một hình thù, như là một Barni trùm vải nhựa. Hơi một dụt dè một chút, lão John bắt đầu lễ tang.
- Tôi không cho rằng đây là một việc tình cảm hoàn toàn – Lão nói – Nhưng tôi không thể chống lại nguyện vọng cuối cùng của một lão già tội nghiệp, cho dù nguyện vọng đó có vẻ ngớ ngẩn.
Sau đó lão nhường lời cho Kelvin. Kelvin bắt đầu:
- Tôi nghĩ rằng ông John nói đúng khi ông coi chuyện này hơi ngớ ngẩn một tí chút. Ngựa sinh ra đời cho con người để con người sử dụng. Và khi việc sử dụng đó đã xong, con người có toàn quyền thanh toán nó đi, Vả chăng, ngựa không có linh hồn, chúng ta ai cũng biết vậy.
Tiếng nói của linh mục vang lên như một tiếng roi vụt và một ngón tay trỏ vào lão Kelvin:
- Hổ thẹn cho ngươi! Một con người làm việc mỗi tuần bốn chục giờ trong bốn mươi hoặc bốn mươi lăm tuần một năm, và làm việc ở nơi ấm áp. Khi con người già rồi, nó được trợ cấp đủ để đi tới một nơi ấm áp hơn. Nhưng một con ngựa – các người có thể bắt nó làm việc từ khi mặt trời mọc cho tới tối mới về. Các người cho nó ăn bằng những thứ bò không thèm ăn. Các người có thể đánh đập nó một khi nó làm ăn kém, rồi đem bắn bỏ nó khi nào các người ưng. Hừ! ta chỉ muốn nói thế này thôi: nếu con người có thể nuôi cho một con ngựa sống cảnh về hưu một thời gian để hưởng chút ánh mặt trời trước khi mặt trời tắt hẳn với nó, ta không cho rằng đó là một ý nghĩ ngớ ngẩn. Cũng không phải là chuyện xấu! – Và ông trỏ tay vào lão John nói tiếp – Ta lấy làm phiền vì anh. Ta cứ nghĩ rằng có thể anh là một con người khác chứ! Ta không nghĩ rằng anh thật sự bắn bỏ con ngựa này.
Qua vẻ mặt lúng túng của lão John thoáng hiện lên một nụ cười. Lão nói:
- Thưa chú, cháu rất mừng là chú đã giúp cháu đỡ lúng túng. Thực ra thì mùa xuân tới, cỏ thì rẻ, trong khi con Barni thì đang khá lên, cháu không định làm việc đó thật. Cháu không định làm việc đó ngay cả sau khi đã đi đào huyệt chôn nó. Nhưng cháu không biết làm cách nào trì hoãn việc chôn cất nó trong khi mọi đều đã chuẩn bị đầy đủ rồi. Con Barni đã bị trói ở kia, sau bụi cây xanh. Nhưng đó chỉ là một đống đất cháu đem tấm vải nhựa che lên mà thôi.
Khi mọi người trên đường về nhà, họ đều nó đó quả là một lễ tang hay ho thú vị.
Trong lúc lão John và lão Kelvin mang tấm vải nhựa về nhà. Kelvin bảo lão:
- Ông có tính toán xem con ngựa chết tiệt kia làm ông tốn bao nhiêu không? Có khi nào ông tính thử xem, nếu dừng chuyện vớ vẩn kia lại thì ông sẽ tiết kiệm bao nhiêu tiền cho gia đình không?
Trước khi lão John tìm ra được câu trả lời đúng đắn, thì lão nhận ra rằng các người lạ mặt tới dự đám tang con ngựa đang chờ lão ở cuối bãi cỏ chăn ngựa.
- Tên tôi là Maye – Người lạ mặt nói - Mới chiều nay tôi tới đây, thì nghe thấy có chuyện đám tang con ngựa, thế là tôi tới liền. Bác ạ, tôi đang tìm một nơi nào tử tế để thuê chăn dắt ngựa non. Liệu bác có thể nhận giúp tôi chừng, dăm sáu con được không?
Lão John gãi gãi đầu.
- Giá cả ra sao?
- Tôi không tính toán chuyện tiền nong – Người lạ tên Maye nói – Tôi chỉ lo tìm một người xứng đáng làm việc đó, một người nào tôi có thể tin cậy. Nay tôi nghĩ là tôi đã gặp được bác. Cứ mười đồng một đầu ngựa mỗi tháng, bác thấy có nhận được không?
- Mười đồng một tháng, khác nào ăn cướp của ông – Lão John nói – Nhưng tôi nhận.
Người khách ra đi mặt tươi roi rói.
Khi đó lão John mới có thể quay lại cùng lão Kelvin để đáp lại câu hỏi của lão trong lúc hai người khiêng tấm vải nhựa. Lão nói:
- Lúc nãy tôi chỉ muốn nói với lão một điều thôi, nhưng ông khách lạ đã tới ngắt mất câu chuyện giữa hai chúng mình. Tôi muốn nói là, tôi không cho rằng một người nào đó sẽ được coi là đúng đắn khi người đó đối xử không công bằng với bất cứ kẻ khác. Cũng như ngay từ đầu tôi đã nói: con người lúc nào cũng phải cố mà sống cho đúng đắn.
Khi con Loulou lớn lên và tới thời xuân sắc của nó, thì đó là một con nai cái thanh mảnh mà tròn trĩnh một cách tinh tế, đẹp không thể tưởng tượng nổi từ cái mũi cho tới móng chân. Nom nó giống hệt một tấm tranh minh hoạ tỉ mỉ cho bài ca của Heine, về những con nai xinh xắn và thông minh đang giỡn chơi trên sóng nước sông Hằng.
Nhưng con Loulou không chỉ là một con nai nhỏ thực sự xinh xẻo đáng yêu, mà bên trong nó còn có cái có thể gọi là ma quỷ nữa. Ở nó có thể thấy ở mức độ cao nhất tính cách đàn bà, cái nét chỉ xuất hiện khi họ phải tự vệ, khi phải tập trung sức lực vào việc bảo vệ tính vẹn toàn cuộc sống của nó, khi thực sự phải đem hết sức lực ra đấu tranh chống lại sự tiến công vào nó. Chống lại ai kia? Chống lại toàn thế giới. Khi ấy tâm tính nó thay đổi hẳn, nó không tự chủ và không còn biết tính toán nữa, khi đó nó có thể đánh lại ngay con ngựa tôi đang cưỡi nếu nó không ưa con kia. Tôi nhớ rằng ông già Haghenbach ở Hambourg đã từng nói rằng, tất cả các loài vật, kể cả loài ăn thịt, loài nai là loài ít đáng tin cậy hơn cả. Bạn có thể tin cậy một con báo rừng, nhưng chớ có mà tin cậy một con nai đực con, sớm muốn nó cũng sẽ đá hậu vào bạn ngay đấy thôi.
Loulou là niềm kiêu hãnh của cả nhà chúng tôi ngay cả khi nó cư xử như là một cô gái làm dáng đỏng đảnh thực thụ; có điều là chúng tôi đã chẳng làm nổi cho nó có hạnh phúc. Đôi khi nó bỏ nhà đi thật lâu, có khi bỏ đi suốt cả buổi chiều. Đôi khi vào lúc nó chợt nghĩ ra chuyện gì đó và nó cảm thấy bất bình với mọi thứ xung quanh đến mức cao nhất, khi ấy tuỳ theo tình cảm của nó, nó thường ra bãi cỏ trước cửa nhà và nhảy một vũ điệu chiến trận, nom hệt như một cảnh nhảy múa vòng vèo để cầu nguyện quỷ sứ Satan vậy.
- Ôi Loulou – Tôi nghĩ thầm trong lòng – Mày biết rằng mày khoẻ vô cùng, mày biết rằng mày có nhảy cao hơn cả chiều cao của mày. Giờ đây mày đang giận dữ cả bọn tao, mày đang mong bọn tao chết hết đi, và quả thật có thể như vậy lắm nếu như mày có gan giết chết bọn tao. Nhưng mày nghĩ lầm rồi con ạ, tội nghiệp, mày nghĩ rằng chúng tao đã dựng rào thật cao để mày không nhảy qua nổi, nhưng làm sao mà bọn tao lại dựng nổi rào cao mãi, khi mày là kẻ nhảy cao vô cùng? Chúng tao đâu có dựng rào cao nào đâu! Sức mạnh to lớn là ở bên trong con người mày, và rào cao cũng ở ngay bên trong con người mày. Loulou ạ, vấn đề chỉ là chuyện “ lúc nào ” thì xảy ra “ chuyện gì ” đó thôi, Loulou ơi…
Một bữa, Loulou không về nhà, chúng tôi ngóng chờ nó vô vọng suốt cả một tuần lễ. Đó là một vố đánh mạnh vào mọi người chúng tôi. Một không khí vui tươi thường có trong nhà này bỗng mất đi, và chúng tôi thấy nhà này buồn bực hơn các nhà khác. Tôi nghĩ rằng con Loulou đã bị báo ngoài rừng tha đi, và một bữa kia, về chiều, tôi đã bộc lộ điều tôi nghĩ đó với bác người làm là Kamante.
Như lệ thường trong tính khí bác, bác thường không trả lời tôi ngay tức thì, mà để cho một thời gian trôi qua, bác nghiền ngẫm những ý kiến chợt bừng nảy trong đầu tôi vốn chẳng lấy gì sáng láng lắm. Mãi vài hôm sau, bác mới rón rén tới bên tôi và nói:
- Loulou không chết. Nhưng nó lấy chồng rồi.
Hay thật, vui thật, kỳ lạ thật đấy. Và tôi hỏi lại bác xem vì sao bác biết chuyện đó.
- Vâng, nó lấy chồng rồi. Nó sống trong rừng cùng chàng boana, chồng nó, người chủ của nó. Nhưng nó vẫn không quên mọi người, sáng sáng nó vẫn trở về nhà mình. Tôi để ngô xay cho nó ở phía sau nhà bếp, và đúng lúc mặt trời sắp mọc thì nó về, nó từ trong rừng ra và ăn. Chồng nó cũng cùng đi với nó, nhưng sợ người, vì anh chàng chưa khi nào biết tới con người cả. Chồng nó đứng chờ dưới gốc cái cây to và trắng phía bên kia bãi cỏ. Chỉ thế thôi chứ không dám đến sát bên nhà ta.
Tôi bảo bác Kamante rằng khi nào thấy Loulou về thì tìm tôi và cho tôi biết ngay. Và vài ngày sau, trước lúc mặt trời mọc, bác tới và gọi tôi ra ngoài.
Đó là một buổi sáng dễ chịu vô cùng. Những ngôi sao còn sót lại trên bầu trời đang tắt dần trong lúc chúng tôi chờ con Loulou, và bầu trời vừa trong vừa êm ả trong khi nơi chúng tôi đang bước đi vẫn còn hơi âm thầm tối và yên ả khôn cùng. Cỏ ướt, dưới những gốc cây, mặt đất tràn ra sóng sánh nom như bạc mờ mờ đục. Khí trời buổi sớm lành lạnh, có cái gì đó nhoi nhói buốt mà ở phương Bắc này có nghĩa là băng giá vẫn chưa hết. Song hẳn là bạn cũng thường có kinh nghiệm như tôi – tôi nghĩ vậy – ngay trong cảnh lạnh lẽo âm u đó, thật khó mà tin được là chỉ trong vài giờ nữa trời sẽ nóng không thể chịu nổi. Sương mù còn bao phủ những quả đồi và mang hình thù những quả đồi một cách kỳ lạ.
Cái mái vòm to lớn trên đầu chúng tôi dần dần sáng ra nom hệt như một cốc đầy rượu vang. Đột nhiên, dịu dàng vô cùng, đỉnh những ngọn đồi nhận lấy ánh sáng mặt trời, sáng loá lên. Thế rồi, chầm chậm, tựa hồ như mặt đất dâng lên tới mặt trời, những vùng cỏ loang loáng dưới chân núi chuyển thành một màu vàng dịu, và những cánh rừng Maixa bị thụt xuống thấp. Rồi tới lúc này đỉnh những ngọn cây trong rừng bên bờ dòng sông nhỏ, bỗng loá sáng lên như đồng thau. Lúc này là thời gian của những con chim câu núi màu nâu sẫm và to tướng, bốc bay lên chật cả bên kia bờ sông và đi kiếm ăn nhưng trái hạt dẻ trong rừng của tôi. Loài chim này chỉ tới đây trong một vụ ngắn thôi. Chúng bay lên một cách chậm chạp vô cùng, tựa như một đoàn kỵ binh bay lên chiếm lĩnh bầu trời. Các bạn tôi ở Nairoby rất quen với cảnh này và họ thường tới đây từ sớm, đi trong xe hơi không bật đèn pha, để chờ đón cảnh đó.
Khi bạn được đứng dưới cái bóng trong trẻo như vậy, nhìn lên những đỉnh núi cao ánh vàng và nhìn lên bầu trời trong sáng, bạn hẳn phải có ý nghĩ là mình thực sự đang đi dạo dưới đáy biển, xung quanh là nước đang chảy, và cái nhìn của bạn là nhìn từ đại dương nhìn lên.
Một con chim nào đó cất tiếng ca, và sau đó tôi nghe xa xa trong rừng có tiếng nhạc chuông khẽ rung. Ôi, sao mà sung sướng, Loulou đã trở về và đã trở về gần như nơi chốn cũ! Nó tới gần dần, và tôi có thể theo dõi các động tác của nó theo nhịp chuông những bước nó đi. Nó đang đi, lại dừng,và lại đi tiếp. Sau khi quành một trong những chiếc lều canh của bọn con trai, Loulou đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Thốt nhiên tôi cảm thấy một cảm giác khác thường và thú vị khi thấy một con nai đực đến gần nhà mình như vậy. Lúc này, nó đứng sững lại, dường như nó đang chuẩn bị để nhìn thấy Kamante chứ không trông chờ nhìn thấy cả tôi nữa. Nhưng nó chẳng chút lúng túng, nó nhìn tôi chẳng chút sợ hãi, cũng chẳng chút nhớ nhung nào, đến những lo lắng của tôi khi nó bỏ đi không một lời báo trước.
Con Loulou của rừng sâu là một tồn tại sống cao cả, độc lập, trái tim nó đã đổi thay, nó như bị ma ám rồi. Nếu như trong đời tôi từng được quen biết một quận chúa trẻ sống trong cảnh lưu đầy, trong khi nàng vẫn còn là người chuẩn bị về lên ngôi báu, và tôi đã được gặp nàng trong cảnh nàng vẫn còn đầy rẫy quyền lực sau khi đã trở lại nắm quyền, hẳn cuộc gặp mặt của chúng tôi cũng giống như lúc này tôi gặp Loulou thôi. Lúc này đây, đó là một con Loulou hoàn chỉnh. Cái tinh thần tiến công đã không còn ở nó nữa, vì nó cần tiến công ai và tiến công vì lý do gì kia chứ? Nó đang đứng kia bình thản trong những quyền lực thiêng liêng của mình. Nó nhớ tới tôi vừa đủ thế thấy rằng tôi chẳng có gì đáng sợ sệt cả. Nó trân trân nhìn tôi trong một thoáng, đôi mắt mơ màng của nó tuyệt nhiên chẳng có chút biểu cảm nào và không hề chớp – và tôi cũng nhớ lại rằng các thần linh nam và nữ đều không khi nào chớp mắt, và lúc này đây tôi cảm thấy như mình đang đứng trước nữ thần Canh nông Héra có đôi mắt bò. Khi đi ngang tôi, Loulou khẽ vặt một nhánh cỏ, khẽ nhảy lên một cách duyên dáng, rồi đi vào phía sau bếp, nơi có ngô xay cho nó do Kamante đã để sẵn cho.
Kamante lấy một ngón tay khẽ đụng vào cánh tay tôi, rồi trỏ về phía rừng cây. Nhìn theo hướng tay chỉ, tôi nhìn thấy dưới một cây dẻ, một con nai đực, một cái dáng hung hung nhỏ in trên lớp áo ngoài của rừng, với đôi sừng giương lên như chạc cây. Kamante quan sát nó một hồi rồi bật cười.
- Ông xem kìa – Bác ta nói – Con Loulou đã giảng giải cho chồng nó biết rằng ở khu nhà này chẳng có gi đáng sợ hết. Thế mà cậu chàng vẫn không dám tới. Sáng nào cũng vậy, cậu ta đều nghĩ rằng cậu sẽ đi đến tận nơi, nhưng khi nhìn thấy nhà cửa và con người, cậu ta lại thấy có hòn đá trong bụng, và đứng chết dưới gốc cây đó.
Trong một thời gian dài, Loulou sáng nào cũng về nhà. Tiếng chuông trong trẻo của nó, báo tin mặt trời đã mọc trên đỉnh đồi, khi đó tôi thường nằm trên giường và chờ. Có khi Loulou không về trong một thời gian một hoặc cả hai tuần lễ, và chúng tôi quên nó đi, rồi chúng tôi lại nghĩ tới những người đi săn trong rừng hẳn đã bắn nó mất rồi. Thế rồi những người làm trong nhà, bỗng một hôm lại tới báo cho tôi: “Loulou đã về ”, cứ như thể Loulou là con gái trong nhà đi lấy chồng, nay có dịp về thăm nhà vậy! Lát sau, tôi cũng nhìn thấy cả bóng dáng con hươu đực trong đám cây, nhưng bác Kamante đã nói đúng, anh chàng này vẫn chưa có đủ dũng cảm để về thật gần nhà.
Một hôm, khi tôi mới từ Nairoby trở về, bác Kamante rình đón tôi ở cửa bếp, và với vẻ rất kích động, bác cho tôi biết Loulou ngày hôm đó đã trở về, và nó cũng có cả loto của nó về cùng – con đẻ của nó vậy. Vài ngày sau, bản thân tôi đã có cái vinh dự thấy Loulou trong dãy lều của người làm, vẻ rất nhanh nhẹn và nghiêm trang, và luẩn quẩn dưới chân nó là một con nai con, cũng chậm chạp như con Loulou hồi chúng tôi mới bắt về nuôi. Đó là sau mùa mưa kéo dài, và suốt trong tháng hè ấy Loulou luôn ở nhà, có khi ở suốt buổi chiều, có khi tới cả chiều sẫm vẫn còn ở nhà. Có khi giữa trưa Loulou vẫn còn đó và nằm tránh nắng dưới lều.
Con nai nhỏ của Loulou không sợ chó, thường để mặc cho chó hít ngửi khắp người, nhưng nó không khi nào quen được với dân địa phương và cả với tôi nữa, và một khi chúng tôi thử tìm cách túm lấy nó, thì cả hai mẹ con đều chuồn thẳng.
Sau khi đã xa nhà một thời gian khá dài, chưa từng khi nào Loulou lại về gần nhà đến thế, đến mức chúng tôi có thể sờ được vào nó. Nó tỏ ra thân thiện, nó hiểu rằng chúng tôi muốn săn sóc con nhỏ của nó, và nó thường nhận tấm mía chúng toi chìa cho, Nó lững thững đi về phía cửa nhà ăn mở rộng, nó nhìn chằm chằm vào những căn buồng sáng ngập ánh đèn, nhưng không một lần nào nó lại bước qua ngưỡng cửa như xưa cả, vào thời gian này nó mất cái chuông đeo cổ và nó đi đi lại lại lặng lẽ.
Người giúp việc của tôi gợi ý rằng, tôi có thể cho bác ta bắt lấy con nai con của Loulou và nuôi nấng nó như chúng tôi từng nuôi nấng Loulou xưa. Nhưng tôi nghĩ làm thế sẽ gợi lại mối hồ nghi của Loulou, làm nó mất đi cái lòng tin cao quý với chúng tôi.
Tôi cứ nghĩ rằng mối ràng buộc tự do với con nai và ngôi nhà chúng tôi là một sự việc hiếm hoi, đáng trọng. Loulou đã từ cái thế giới hoang dã trở về để cho thấy rằng chúng tôi sống thân thiện với nó, và nó đã làm cho ngôi nhà chúng tôi đang sống hoà làm một với khung cảnh châu Phi, và khó mà có ai đó nói được rằng đâu là nơi bắt đầu và đâu là nơi chấm hết khung cảnh đó. Loulou biết cả vị trí nhiều chim trong rừng. Ở châu Phi có một loại chim gáy hót vào giữa trưa những ngày nóng, và tiếng hót giữa rừng ấy giống hệt như những tiếng đập âm vang của thế giới. Tôi chưa từng khi nào có cái diễm phúc được thấy con chim gáy đó, và ngay cả những người tôi biết cũng chưa ai có cái may mắn như thế, chưa từng ai mô tả nổi cho tôi con chim gáy đó ra sao. Nhưng Loulou hẳn là đã lần theo lối mòn quen thuộc của nó và đã tới đúng cái chỗ, con chim gáy cất tiếng gáy vang…
Hai con nai, một con to và một con nhỏ, suốt mùa hè đó cứ quẩn quanh bên ngôi nhà chúng tôi, Thỉnh thoảng lại có một thời gian cách quãng từ mười lăm ngày hoặc ba tuần lễ hai mẹ con bỏ đi; thời gian còn lại, ngày nào chúng tôi cũng thấy mặt nhau. Bắt đầu mùa mưa năm sau, người giúp việc nhà tôi lại cho biết, Loulou đã trở về với một con nai nhỏ nữa. Chính mắt tôi không nhìn thấy con nai nhỏ, vì vào thời gian đó hai mẹ con không về gần nhà; thế nhưng ít lâu sau tôi đã nhìn thấy những ba con nai đực cùng đi với nhau trong rừng cây…
Cuộc liên minh giữa Loulou và gia đình nó cùng chúng tôi cứ thế kéo dài thật lâu…
Đó là vào lúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, vào một trong những buổi chiều vẫn còn những cuộc hỗn chiến khi đó. Tôi chẳng biết vì sao con vật nhỏ nhoi sợ sệt kia, hẳn là từ một chiếc tàu nào đó bị đánh đắm, đã hoảng loạn nhảy sang được chiếc tàu của chúng tôi, và tới ẩn ngay trong phòng tôi, dưới giường ngủ của tôi. Một con mèo còn non, thân thể chưa trưởng thành, gầy gò, thảm hại, khốn khổ, nhưng xem chừng tông tích vốn hẳn là được nuôi nấng chu đáo như cha mẹ của nó và chủ nó, nghĩa là từng sống bằng cơm và các đầu cá nấu lộn với nhau. Tôi chợt thấy thương hại con vật và ra lệnh cho cần vụ nấu cho nó một chút gì có chất bột và chút gì đó cho nó uống.
Với một vẻ khiêm nhường và hàm ơn, con mèo nhận những thứ tôi mời mọc – lúc này đây tôi vẫn còn nhớ cảnh nó chậm chạp tiến tới gần bữa ăn bất ngờ đó, nó nhích một chân rồi một chân khác, trong lúc đôi mắt trong trẻo không ngớt nhìn vào mắt tôi, như thể để tin chắc rằng nó không nhầm, rằng đó chính là dành cho nó thực…
Sáng hôm sau, tôi tính chuyện đuổi nó đi. Sau khi cho nó ăn một bữa tiệc chia tay, tôi lấy hai tay đập thật mạnh vào nhau, chân thì dậm thật dữ dội, theo tục lệ vào những dịp đó thì phải làm như thế, và tôi nó với nó bằng một giọng cứng rắn:
- Đi thôi, xin mời đi thôi, bà Miu!
Thế nhưng nào nó có đi cho. Hiển nhiên là nó không hề sợ tôi chút nào, nó đã hiểu bằng trực giác rằng mọi thứ ồn ào kia chỉ là chuyện cố tình làm quá lên thôi. Với một vẻ như thể muốn nói cùng tôi: “ Tôi biết thừa đi rồi, ông chẳng làm gì hại tôi đâu ”, nó cứ thế nằm lỳ trong góc buồng, người dán sát xuống sàn tàu, trong tư thế một kẻ đang van nài, mắt mở to nhìn tôi, đôi mắt nhìn như mắt người mà tôi chỉ thấy có ở nó thôi.
Làm thế nào bây giờ? Tôi hẳn không thể để cho một con mèo sống chung phòng trên con tàu. Nhất là một con vật yếu ớt và tinh quái thế kia. Chà, nghĩ chuyện đường dài, thật phiền hà quá đáng…
Thế là tôi nổi nóng lên, tóm lấy nó, dĩ nhiên là nhẹ nhàng, và có cả lời an ủi nó nữa: “ Tôi không thể chịu được nữa rồi, bà ạ! ” và tôi kiên quyết lôi nó ra ngoài, đem nó lại tận đầu tàu đằng kia, ném nó vào giữa đám thuỷ binh nói chung thường là những người hiếu khách đối với những con mèo bất kể mèo như thế nào.
Nó nằm ẹp xuống sàn tàu, đầu ngoảnh lại tôi như thể muốn van xin, và bỗng dưng thoắt cái, nó chạy về phòng tôi trước cả tôi nữa. Khi tôi về tới phòng mình, tôi đã thấy nó chui vào một xó rồi, và đôi mắt nó đầy vẻ than van, khiến tôi không sao còn đủ dũng khí đuổi nó đi lần nữa. Cậu chuyện tôi có con mèo bắt đầu như vậy.
Tôi còn nhớ rõ cái ngày đầu tiên khi mối quan hệ giữa hai chúng tôi trở nên thực sự thân thương.
Lúc đó tàu chúng tôi đang ở ngoài khơi xa, phía bắc biển Hoàng Hải, vào những ngày tháng chín buồn bã…Tôi đang ngồi ở bàn và đang viết….
Đã gần hai tuần nay, bà Miu ngủ dưới gầm giường tôi. Nó sống ở đó, ẩn dật, kín đáo, buồn rầu, ít ló ra ngoài, hầu như luôn luôn trốn mặt, và hình như nhớ nhưng quê hương, bản quán mà chắc hẳn nó chẳng có dịp trở lại.
Đột nhiên, trong bóng tối nhập nhoạng, tôi thấy nó vươn dài mình ra, và dường như còn muốn suy nghĩ thêm chút nữa, rồi nó đi lại tới tôi, vẫn còn ngập ngừng, đi lại dừng, đi lại dừng. Đôi khi trong lúc đang đi, theo một kiểu cách hệt như của người Trung Hoa, nó giơ một chân lên và chưa chịu đặt chân xuống đất, lát sau mới hạ xuống rồi bước tiếp. Và trong lúc đi, mắt nó nhìn tôi chăm chăm, dò hỏi:
Nó muốn gì vậy nhỉ? Hiển nhiên là nó không đói. Cần vụ của tôi ngày ngày cho nó ăn hai bữa no căng. Vậy nó muốn gì ở tôi?
Khi nó đã tới sát, rất sát chân tôi, nó liền ngồi xuống thu đuôi lại, và cất lên một tiếng “ meo ”, vô cùng hiền dịu.
Và nó tiếp tục nhìn tôi chăm chú, nhưng là một cách nhìn sâu vào trong ánh mắt tôi, điều đó cho thấy trong cái đầu bé bỏng của nó cả một thế giới nhận thức: trước hết nó cần biết rằng, tôi cũng như mọi sinh vật bậc cao khác, tôi không phải là một đồ vật, mà là một sinh vật suy tư, một kẻ có khả năng có tình thương và hiểu nổi một ánh mắt câm lặng. Hơn nữa, điều cần thiết là nó phải nhìn thấy ở đôi mắt tôi đích thực một đôi mắt, tức là những tấm gương nơi đó tâm hồn nhỏ nhoi của nó đang tìm kiếm một cách lo lắng, e ngại một ánh phản chiếu của tâm hồn tôi…Thật vậy, loài vật, khi ta nghĩ tới chúng, ta thấy chúng gần gũi với ta trong những quan niệm như vậy, chúng cũng có nhiều khả năng có những quan niệm như thế lắm chứ.
Còn tôi, lần đầu tiên tôi nhìn ngắm kỹ vị khách bé bỏng của mình, đã hai tuần lễ rồi cùng ở trong phòng với tôi. Lông nó màu xám đậm như lông thỏ rừng, lại lốm đốm như lông con hổ, còn mõm và gáy thì trắng. Nó xấu xí thật đấy, nhưng đó là do ốm yếu, và nói chung thì không thể gọi nó là xấu xí, gọi nó bằng hai tiếng “ ngồ ngộ ” đúng hơn. Con mèo này khác nhiều giống mèo Pháp của ta: chân nó thấp, người dài như con cầy hương, và cái đuôi dài quá khổ: tai dựng đứng và mặt kín đáo; duy đôi mắt thì đầy rẫy một vẻ duyên, mắt xếch về phía thái dương như mắt người vùng Viễn Đông, tròng mắt màu vàng tươi chứ không xanh lơ, luôn luôn linh hoạt, có sức biểu cảm lạ kỳ.
Tôi vừa nhìn nó, vừa hạ tay xuống đầu nó và xoa lên lớp lông nó, lần đầu tiên tôi ve vuốt nó như vậy.
Nó đã cảm thấy cái gì? Hẳn đó phải là một cảm giác hơn là một khoái cảm thể xác: nó có cảm giác được che chở, nó nhận thấy một thiện cảm trong cảnh hắt hủi, đau khổ. Chính vì thế mà nó rời bỏ nơi ẩn náu tối tăm và ra ngoài. Cái mà nó quyết định cầu xin của tôi, không phải là miếng ăn. Cái nó cầu xin, trong tâm hồn mèo bé bỏng kia, là một chút tình bầu bạn, một chút nghĩa kết thân trong cuộc đời này.
Khi ấy, một cẳng chân thanh mảnh khẽ đặt lên người tôi một cách rụt rè – ôi chao, với biết bao tinh tế, với biết bao thận trọng xét suy! – và sau khi đã kiên nhẫn dò hỏi và cầu xin tôi bằng cái nhìn kia, bà Miu, sau khi nghĩ rằng đã đến lúc “đốt cháy giai đoạn ” liền nhảy tót lên lòng tôi.
Lúc đó là cuối một mùa đông gian khổ, đã vào đầu tháng ba ấm áp, và bà Miu đánh bạn ở bên đất Trung Hoa, cùng tôi về Pháp và vào nhà tôi ở.
Nhà tôi cũng có một con mèo khác, con Trắng. Vào mùa này, con Trắng vẫn còn mang bộ lông trắng đường bệ, và chưa từng khi nào tôi nhận thấy Trắng to, đẹp đến thế.
Cảnh tương phản thật vô cùng rõ với con Miu Trung Hoa gầy gò, với bộ lông thỏ rừng và rụng lông từng mảnh như bị bọ ăn. Thế thì tôi cảm thấy bối rối vô cùng khi người nhà tôi ra bến đón nó về, đã ngạo nghễ nhấc nắp chiếc giỏ đựng nó, và khi mỗi người trong gia đình tôi tụ tập chờ đó, bà bạn Trung Hoa của tôi hãi hùng bước ra.
Ấn tượng chung của mọi người thật tệ hại, và chỉ cần nhắc câu nói sau của dì tôi là đủ: “ Tội nghiệp cháu tôi! Con mèo sao mà chết cười! ”
Chết cười thật, bây giờ tôi biết làm cách nào và lấy lý do gì đem giới thiệu bà Miu Trung Hoa của tôi với chị mèo Trắng đây? Chưa biết cách làm sao, tôi bèn đem Miu Trung Hoa cho lên tầng thượng cách nẻo, sao cho hai con mèo không gặp nhau một thời gian, và tìm cách…
Khi hai con gặp nhau lần đầu, thật là một chuyện khủng khiếp kinh hoàng.
Chuyện đó xảy ra bất ưng, vài ngày sau khi tôi về, và xảy ra tại nhà bếp ( một địa điểm có sức hấp dẫn tuyệt vời mà những con mèo sống chung một mái nhà không thể nào không tới cho được ). Người nhà cấp tốc tìm tôi và tôi lao ngay tới. Lúc đó đang nghe thấy những tiếng kêu thất thanh; như một cuộn len làm bằng hai bộ lông và những móng vuốt, hai thân hình cuộn chặt lấy nhau, làm lăn đổ tanh bành bát đĩa, cốc chén, quăng lên quật xuống, trong lúc những sợi lông trắng và lông thỏ rừng xám, bay tung khắp xung quanh. Tôi phải can thiệp một cách thật kiên quyết, tách rời hai bên ra bằng cách té vào hai con một bình to nước lã. Tôi băn khoăn vô cùng…
Người run rẩy, đầy vết xước, tim đập như muốn vỡ tung ra, bà Miu Trung Hoa nép sát người tôi, và dần dần yên tĩnh lại, thần kinh bớt căng thẳng vì đã cảm thấy được cảnh an toàn êm dịu. Sau đó, nó chuyển sang ngay đơ và nhão ra như một thân xác không hồn. Ở loài mèo, đó là biểu lộ một tình trạng tin cậy vô cùng lớn với người đang che chở nó.
Mèo trắng ngồi một góc, vẻ nghĩ ngợi và buồn, mở to mắt nhìn hai chúng tôi, trong cái đầu bé bỏng của nó diễn ra một sự suy lý. Nó vốn là một con mèo, suốt năm này qua năm khác, từng xua đuổi trên mái nhà mọi con mèo lạ, ngay cả khi đó là những con mèo hàng xóm, giờ đây thấy trong tay tôi một con mèo thân thiết vì tôi cho nó nằm sát cổ tôi và nó đang buông thả mình trong sự ôm ấp của tôi. Và như vậy có nghĩa là không nên làm điều gì có hại cho nó và phải chấp nhận sự hiện diện của nó trong nhà này thôi.
Tôi vừa kinh ngạc vừa khâm phục vô cùng, khi thấy hai con, một lúc sau, đã sóng hàng cùng nhau, tuy vẫn coi thường nhau, nhưng lịch sự vô cùng, yên lành vô cùng, và thế là xong mọi chuyện, suốt đời chúng hai con mèo đó không còn giận dữ gì nhau nữa.
Cuộc đời một con mèo có thể kéo dài, tới mười hai hoặc mười lăm năm nếu như không có tai họa gì xảy ra.
Bà Miu Trung Hoa bị đầu tiên, ở bà, ta thấy biểu hiện những rối loạn tâm trí, bệnh buồn bã - hẳn là nỗi buồn nhớ xứ sở xa xôi. Không ăn uống gì, bà chui đi nằm ẩn một nơi trong những thời gian dài trên những nóc tường cao, nằm hằng ngày dài không nhúc nhích, ai gọi cũng chẳng thưa và chỉ đáp lại những tiếng gọi âu yếm bằng con mắt nhìn dịu dàng và những tiếng “ meo, meo ” thảm thương.
Bà mèo Trắng cũng thế, ngay từ những ngày đầu xuân, đã tỏ ra yếu mệt, và cho tới tháng tư, cả hai con mèo của tôi đều thực sự ốm nặng.
Các bác sĩ thú y được mời tới đã cho những thang thuốc và những biện pháp chữa trị không sao thực hiện nổi. Người này thì sáng cho thuốc, chiều đắp chườm lên bụng. Người kia thì bắt dùng phép trị liệu bằng nước: phải hút sạch lông và mỗi ngày hai lần đem mèo đi tắm nước lạnh xối xả. Người giúp việc nhà tôi thi hành mọi điều và tuyên bố mọi chuyện đều vô ích. Và bắt đầu thử dùng những phương thuốc đặc biệt nhưng cũng chẳng ăn thua.
Cả mùa xuân đang tới, cả ánh nắng chói chan cũng chẳng có tác dụng gì với chúng hết.
Một sớm kia, tôi từ Paris trở về nhà, người giúp việc của tôi khi đỡ vali cho tôi, đã thông báo một cách buồn bã:
- Thưa ông, Miu Trung Hoa đã chết rồi!
Đã ba ngày rồi, Miu kia vốn tính chín chắn vô cùng, đã biến mất. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó đã cảm thấy ngày cuối cùng tới rồi, và nó quyết định ra đi, trong lòng bị thúc đẩy vì cái tình cảm tuyệt vời chất phác thường khiến cho những con vật kia lẩn trốn kín một nơi mà chết. Người nhà tôi nói:
- Thưa ông, suốt cả tuần, nó nằm trên cây nhài đỏ, không chịu xuống ăn nữa. Khi chúng tôi gọi, nó vẫn đáp lại, những tiếng yếu ớt quá chừng.
Đến cái phút giây khủng khiếp, Miu Trung Hoa của tôi đã đi đâu nhỉ? Hẳn là đã đi tới một nhà xa lạ nào đó, những người chẳng những không cho nó chết yên lành mà còn xua đuổi nó, làm đau đớn dằn vặt nó và sau đó vứt nó vào chuồng phân. Thực lòng, tôi chỉ muốn nó chết tại chính ngôi nhà của tôi. Lòng tôi se buồn khi nhớ lại đôi mắt nhìn hệt như người của nó, đôi mắt van lơn biết bao, đôi mắt khi nào cũng tràn đầy một tình cảm và một nhu cầu che chở và yêu thương của nó không sao nói ra nổi thành lời; đôi mắt luôn luôn tìm gặp đôi mắt tôi, lúc nào cũng với cái vẻ hỏi han lo âu kia những không sao phát biểu ra nổi…Nào ai biết trong những tâm hồn nhỏ nhoi kia đã diễn ra những lo âu bí ẩn gì, vào những giây phút hấp hối, nhưng tâm hồn con vật có những tình cảm phức tạp kia đã diễn ra những chuyện gì?…
Hè đã đến, lại được tới trường luôn luôn là một điều vui thú. Lại có những cây bút mới và bút chì mới phát. Bút chì thì càng vót nhọn càng nức mùi hương cây tuyết tùng. Các bài trên trang sách mới phát phần lớn đều quăn góc và ghi đầy những lời bình chẳng có gì hay ho cùng những hình vẽ thô lỗ. Nhưng đôi khi chúng tôi cũng được phát đôi ba cuốn sách vừa mới in xong, thơm nức mùi giấy mới và mùi mực in. Riêng năm học này, ngay đầu tiên tới trường đối với tôi càng không thể nào quên, vì tôi đã được lên học lớp Bốn.
Bọn học sinh lớp Bốn chúng tôi phải ngồi ở những hàng ghế phía trên của phòng học lớn, chúng tôi chẳng thèm để ý đến bọn ngồi phía sau. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng một ngày nào đó chúng tôi cũng sẽ lớn như bọn ấy. Và chúng tôi cũng có đủ tư cách riêng cùng hứng thú riêng, khiến chúng tôi chẳng đến nỗi phải đau khổ vì cái tội mình còn nhỏ quá, còn ít tuổi quá.
Sau nữa là có hai trong số các giáo viên mới của tôi là những người thực sự có tài năng. Cô Stafford đã làm cho môn văn thành một môn học tuyệt diệu. Và cô Wallen thì yêu môn sinh vật cũng bằng tình yêu của mẹ tôi với môn học đó.
Tôi chỉ có mỗi một điều miễn cưỡng khi nghe tiếng chuông báo học đầu tiên vào tháng Mười năm 1918 ấy, là tôi phải chấm dứt vụ hè sống cùng với Rascal và phải nhốt kỹ nó vào trong một cái chuồng làm bằng giây thép tựa như chuồng gà. Tôi đã di chuyển cái cũi chó to tướng của con Uxo tới chính cửa ra vào của Rascal. Vì rất có thể có một anh chàng táo tợn hoặc một con chó nào đó cả gan mò vào dinh cơ của con gấu trúc nhà tôi. Biết rõ là nó được tin cậy, con Uxo nằm canh chừng ngay cạnh chuồng gấu của tôi, cái mõm to tướng của nó cùng đôi mắt sâu và thông cảm của nó dõi trông chú tù nhân bé bỏng đang nằm bên trong lớp dây thép. Còn Rascal thì lò dò ra sát vai con chó, vỗ về cái mũi con chó, và lần nào cũng thế, con chó săn nòi cũng chỉ khẽ liếm cái bàn chân nho nhỏ chìa với nó một cách thân tình. Khi con Rascal kêu hoặc gầm gừ rung trong họng, con Uxo trả lời bằng một tiếng sủa to, cộc cằn yêu thương và thường kết thúc bằng một tiếng hú thân thiện. Con ngựa Denibruc cũng quan tâm tới chuyện này, từ tàu ngựa kế bên cũng thêm vào một tiếng hí dịu dàng. Và thế là mảnh sân sau ấy đã có một cảnh bầu bạn thực thụ rồi.
Tôi làm mọi cách có thể để làm cho việc cầm tù chú gấu của tôi thêm dễ chịu. Tôi luôn luôn ít ra là mỗi ngày cùng ăn một bữa trong chuồng của Rascal, và trước khi tôi đi học cũng như sau khi đi học về, thế nào chúng tôi cũng phải sống bên nhau. Tôi mang nó ra vườn để nó giúp tôi thu hái đậu khô và bí. Nó thích để cho tôi thu dọn lá, khi ấy nó nấp vào một đống lá mới gom lại, và xổ ra “ oà ” tôi từ những địa điểm bất ngờ nhất. Và nó đã trở thành một tay phụ việc thực thụ trong một công việc mới của tôi là đi bán báo. Nó thu hút khách mua ở bất kỳ ở đâu chúng tôi đi bán.
Đã từng có hàng trăm ngàn người đi bán tờ Bưu điện chiều thứ bảy khi họ còn là những chú nhóc con, và tôi đã tham gia vào đội ngũ họ hồi tuần lễ đầu tiên của tháng Mười. Lúc đó tôi túng tiền lắm, tôi thấy mình phải làm việc nhiều hơn nữa thì may ra một lúc nào đó mới đủ tiền mua buồm cho chiếc du thuyền nhỏ của mình.
Thế là, cho Rascal ngồi trong cái giỏ trên xe đạp, tôi đạp tới toà báo và cửa hàng văn phòng phẩm do Frank Asher đứng chủ, ở toà báo lớn ngay cạnh ngôi nhà Ngân hàng Thuốc lá. Những chồng báo lớn tới nơi vào chuyến tàu ngày thứ ba, và mỗi người chúng tôi thử lấy năm chục số đem bán. Trên trang bìa là một cô gái với một vòng hoa quấn quanh lá cờ ngành Bưu điện. Và tôi còn mang ấn tượng mạnh hơn nữa, khi biết rằng tờ báo này đã được tổng thống Franklin sáng lập.
Cả ông chủ hiệu Asher lẫn viên quản lý cơ quan bán hàng của công ty xuất bản Curtis, đã đưa ra một quyết định ma mãnh vì một ý đồ tuyệt vọng muốn bán tống bán tháo một tờ tạp chí, trong số báo công ty đó kinh doanh. Vì vậy, cứ nhận bán năm chục tờ Bưu điện thì chúng tôi có nhiệm vụ phải bán năm tờ Nhà quý tộc địa phương. Thành phố chúng tôi là nơi đầy rẫy những chủ nông trại về hưu, quý tộc cả đấy, nhưng chẳng ai trong bọn họ muốn mua tờ báo này. Thế nhưng, Rascal đã trở thành một vật quảng cáo sinh động khiến cho chúng tôi lắm khi mời được người mua cả hai tờ báo liền.
Hai chúng tôi tha nhau trên xe đạp trong cát bụi ngày thu, miệng gào lên: “ Bưu điện chiều thứ bảy năm xu đây! Bưu điện của quý ông đây, năm xu, chỉ năm xu thôi! Bưu điện chiều thứ bày đây! ”
Có tin đồn đại xầm xì rằng năm nay về môn sinh vật học, chúng tôi sẽ được học những điều về sự sống. Phần lớn chúng tôi đều có biết qua quýt và sai lạc về vấn đề này, nhưng riêng tôi thì vẫn còn rất mơ hồ không hiểu cơ thể con người ta được cấu tạo như thế nào. Song, vì tôi chưa tròn mười hai tuổi, nên tôi cũng chẳng hoàn toàn thất vọng về sự ngu dốt của mình.
Thế nhưng điều làm tôi khó hiểu là, một người dễ thương tinh tế như cô Wallen, người mắt sáng và tóc óng ánh, làm sao lại có thể dạy cho một lớp học chung cả con trai và con gái về chuyện phát triển nòi giống. May sao, chuyện đó chỉ xảy ra mãi lâu về sau này, và cô đã phải dùng nhiều tháng ròng, thông qua việc dạy các con thú nhỏ hơn, để dẫn chúng tôi đi tới vấn đề đó.
Giáo viên sinh vật học của chúng tôi, có cách thức dạy riêng cho môn học hấp dẫn. Cô đã dạy học theo cách dùng bản năng. Khi thấy có những con ngỗng trời đang bay qua trên bầu trời tháng Muời, cô liền gọi tất cả chúng tôi lại bên cửa sổ để nghe tiếng quàng quạc xa xôi của chúng, và nhìn theo chúng bay về phương Nam thành hình như chữ V. Cô kể cho chúng tôi nghe cách thức từng con ngỗng đực thay nhau bay vào vị trí khó khăn ở đỉnh nhọn chữ V, phá vỡ lực cản của không khí, để cho những con bay ở phía sau được dễ dàng, và cách thức cũng chính những con đực dũng cảm ấy – đôi khi là một con ngỗng đực goá vợ - một thân một mình canh gác suốt đêm cho cả bầy được ngủ.
- Chúng ta ở đây dưới đúng một nhánh của Đường bay lớn Missisipi – Cô nói – Chính vì thế mà chúng ta có cơ may kỳ diệu được thấy hàng ngàn, hàng ngàn con chim di trú lên hướng Bắc vào mùa xuân và lại bay về hướng Nam vào mùa thu.
Sau đó cô kể với chúng tôi rằng những con ngỗng trời đó ( giống như những con thiên nga ) kết bạn cùng nhau suốt đời, con này theo con kia, mùa này sang mùa khác, chúng nuôi nấng chú ngỗng con tại miền Bắc cực, tới mùa đông lại đưa con tới nuôi tại các nhánh sông phương Nam…
- Chính vì vậy – Cô nói - nếu ta bắn một con ngỗng trời hoặc thiên nga, thì thật là một điều độc ác. Vì như vậy sẽ khiến cho có một con goá bụa suốt đời.
Ngay từ buổi học đầu tiên, cô đã làm chúng tôi hết sức chú ý, khi cô hỏi xem chúng tôi có những con vật nuôi gì được chúng tôi cưng. Phần lớn đứa nào cũng có một con chó, một con mèo, một con hoàng yến hoặc một chú ngựa nhỏ. Riêng tôi là đứa duy nhất trong lớp lại có một con gấu trúc. Nhiều con vật nuôi của chúng tôi đã được cô bảo đem tới lớp vào những ngày khác nhau trong giờ sinh vật học.
Cô bảo thằng Babcock đem tới trường con chó Fox bé nhỏ, bảo những đứa khác đem tới trường con cá vàng, con vẹt, và một con sóc được thuần dưỡng. Nhưng Rascal và tôi có vinh dự được mời đầu tiên.
Sau buổi học, tôi nán lại một chút để nói với cô Wallen về con gấu trúc của tôi, và nêu ra với cô một câu hỏi làm tôi trong một thời gian dài lấn bấn mãi.
- Thưa cô, có khi nào những con gấu trúc, lại trở thành người được không ạ? – Tôi hỏi cô, lòng đầy hy vọng.
- Chà, Sterling, em có ý nghĩ kỳ lạ thật đó!
- Houton, ở cạnh nhà em, chú ấy nghiên cứu nhân chủng học. Và chú đề ra lý thuyết hai bàntay là thầy dạy học cho bộ não.
- Có thể - Cô giáo tôi nói và ngẫm nghĩ - rất có thể như vậy.
- Chú ấy còn cho rằng, do tổ tiên chúng ta, giống khỉ, đã đứng thẳng được, đã dùng đôi bàn tay và đã tạo ra những công cụ đơn giản, vì thế đã làm cho bộ não phát triển.
- Đó là một tư tưởng rất hấp dẫn – Cô giáo tôi nói.
- Thế đó, con gấu trúc của em luôn sử dụng đôi bàn tay và mỗi ngày một thành thạo. Vì vậy, trong vòng một trăm triệu năm nữa chẳng hạn, rất có thể loài gấu trúc sẽ phát triển thành một thứ gì đó giống như con người ta chứ?
- Những chuyện kỳ lạ đã từng xảy ra – Cô nói – Cô rất mong được xem con gấu trúc thông minh của em.
Cô mỉm cười với tôi thật hiền dịu, mà chẳng cười phá lên nhạo tôi và cũng không cho câu hỏi của tôi là ngờ nghệch. Tôi ra về với ý nghĩ: cô Wallen quả là con người đặc biệt.
Buổi sáng, cái bữa Rascal được mời tới trường, tôi chải lông cho nó thật cẩn thận cho tới khi màu lông đen sậm trên mình nó bóng láng lên và bộ lông đen xám trước ngực nó mềm ra tựa như lông cừu non. Tôi dùng nước bạc đánh bóng biển khắc tên nó, và dùng xà bông giặt yên cương để rửa sạch cái cổ dề và dây giữ mảnh dẻ. Dẫu sao thì đây cũng là ngày đầu tiên Rascal tới trường, và tôi những mong nó gây được ấn tượng tốt đẹp nhiều nhất.
May mắn sao, giờ sinh vật học lại là giờ đầu tiên buổi sáng đó, nên chúng tôi cũng không phải chờ đợi lâu la gì.
Hành vi của Rascal, có thể nói là xuất sắc. Sạch sẽ, chải chuốt, linh hoạt và lễ phép, nó ngồi trên bàn của cô Wallen, tưởng chừng như nó đã sống gần hết cả cuộc đời ngắn ngủi của nó để dạy các giờ sinh vật vậy. Nó dò xét cái chặn giấy bằng thuỷ tinh của cô giáo ( cái chặn giấy này, khi lắc lên thì tạo ra một trận bão tuyết trên một cái làng nho nhỏ ), và nó xem xét một cách thú vị cái quả cầu thủy tinh bé con đó.
- Như các em thấy đó – Cô Wallen bắt đầu - giống gấu trúc có tính tò mò.
Sau đó cô ghi lên bảng: Gấu trúc - gốc từ một tiếng thổ dân da đỏ có nghĩa là “ kẻ hay gãi ”
Stihnen giơ tay và nói luôn:
- Nó gãi vì nó có rận phải không ạ?
Câu hỏi này gây ra một trận cười, và cô giáo phải giữ trật tự liền.
Tôi giơ tay lên và được phép nói:
- Thưa cô Wallen, con Rascal sạch sẽ vô cùng ạ. Hằng ngày nó đều đi bơi và cả đời nó chưa hề có một con rận ạ.
- Theo ý cô – Cô giáo nói - người da đỏ muốn nói giống gấu trúc gãi, cào, đào bới để kiếm trứng rùa và những thức ăn khác dọc bờ biển. Đôi khi nó cũng đào để bắt giun đất nữa.
Thằng Stihnen quắc mắt lên và ngồi phịch xuống ghế.
- Các em có thấy con gấu trúc này giống loài vật nào khác? – Cô giáo hỏi.
- Nó giống một con gấu nhỏ - Thằng Babcock nói.
- Em nói đúng, Babcock – Cô đáp – Nó là anh em họ của gấu và đôi khi được gọi là “ gấu rửa ráy ”, bởi vì nó rửa ráy mọi thức nó ăn như các em sẽ thấy đây.
Cô lấy một viên phấn và viết lên bảng: Procyon lotor. Tên khoa học bằng tiếng Latin của gấu trúc. Nghĩa của Lotor là “ người rửa ráy ”
Tôi thấy thích thú vì cô Wallen đã cho chúng tôi biết một đôi điều hấp dẫn, mà thậm chí chính tôi cũng không biết về Rascal. Rồi cô đem ra một cái xoong tráng men nông của phòng thí nghiệm trong đó không chỉ có nước mà có cả một con tôm nữa, thế mới lạ chứ. Và cô đặt trước mặt Rascal vẫn ở trên bàn của cô.
- Bây giờ các em hãy xem Rascal sẽ làm những gì.
Rascal giống hệt như anh hề nhỏ kỳ khôi, nó vẫn thường như thế, nhìn đảo quanh lớp học và nhìn ra phía cửa sổ, rồi run rẩy khua hai tay vào trong cái xoong nông choèn. Nó biết rõ con tôm nằm ở chỗ nào, nhưng nó vẫn còn đang khoe khoang tí chút. Đột nhiên, toàn thân nó cứng lại một chút, và hai giây sau, con mồi đã được nó túm chặt và được nó trân trọng rửa ráy trước khi vào tiệc.
Lúc đó cả lớp đều sung sướng như Rascal và gần như tất cả mọi người đều vỗ tay.
- Gấu trúc là giống ăn tạp – Cô nói và ghi từ đó lên bảng – Nghĩa là gần như nó có thể ăn mọi thứ. Nó sống từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, và từ miền nam Canada sang Mehico. Mỗi lứa sinh, gấu trúc có thể đẻ từ hai tới sáu con con, và đẻ ở một thân cây rỗng. Những con gấu trúc con đó rất giống mẹ, chúng theo mẹ để mẹ dạy cho cách bắt cá ở dưới đầm ao. Đó là những con vật hiền hoà nếu không bị tiến công, nhưng nó có thể giết chết một con chó nếu bị dồn vào thế bí.
Cô bảo tôi kể vài điều ngắn gọn về những điều tôi hiểu biết được qua con gấu trúc của mình, và tôi đứng trước cả lớp vừa nói vừa ve vuốt Rascal. Tôi nghĩ cả lớp đều chăm chú tới hai chúng tôi, trừ thằng Stihnen ra, nhất là khi Rascal leo lên vai tôi và bắt đầu nghịch vớ vẩn cái tai tôi.
- Đôi khi, tôi còn cho nó ngủ cùng giường nữa – Tôi thú nhận – Đó là một con vật nuôi kỳ thú.
Sau đó thì đứa nào cũng muốn được sờ nó một cái. Thế là từng đứa bạn học của tôi đi tới và ve vuốt nó, một vài đứa con gái có vẻ hơi sờ sợ một chút. Thằng Stihnen đi cuối hàng, dáng đi thõng thượt, mắt gian xảo và cười nhăn nhở giễu cợt. Tôi đoán có chuyện gì xảy ra, nhưng hơi muộn. Đúng lúc nó tới bên con gấu trúc, Stihnen rút một chiếc roi bằng cao su to tướng ra và vụt vào mặt con Rascal.
Trước đây rất ít khi tôi nghe thấy con Rascal gào lên điên giận như thế. Lần này quả là một cơn cuồng nộ thật sự - một tiếng thét chiến đấu cho tới chết và chỉ trong một thoáng Rascal đã ngoạm hàm răng nhọn sắc vào bàn tay to mập của Stihnen….
Thằng Stihnen gào lên đến nỗi đứng trong phòng hội đồng cũng nghe thấy. Nó nhảy chồm chồm, tay run lên, miệng gào:
- Gấu điên! Gấu điên! Phải bắn bỏ nó đi, gấu điên!
Giọng nói của cô Wallen lạnh lùng và nghiêm:
- Stihnen, mọi người trong phòng này đã nhìn rõ em làm gì. Nếu em cho rằng đây là con gấu trúc bị bệnh dại, thì em không cần một sự trừng phạt nào khác nữa, ngoài việc em được mình thử xem thật sự bệnh dại là như thế nào. Đây, em hãy xoa iốt vào chỗ vết cắn. Giờ học đã hết. Còn Sterling, em có thể ở lại một chút được chứ?
Tôi không biết cô sẽ còn quyết định điều gì, nhưng tôi thấy sự trừng phạt của cô với thằng Stihnen thế là quá đủ nghiêm rồi. Cô nói:
- Cô rất tiếc, nhưng trong tình hình này, em sẽ phải nhốt con gấu trúc của em vào chuồng suốt ngày đêm trong mười bốn ngày liền. Nếu nó có hiện tượng bệnh dại thì chúng ta còn có đủ thời giờ chữa chạy cho Stihnen.
- Nhưng thưa cô, nó không dại – Tôi cãi lại – Cô đã thấy rồi đó ạ. Chỉ vì bạn…
- Chắc chắn là cô có thấy. Và cô tin chắc đó là con thú hoàn toàn lành mạnh. Nhưng chúng ta cứ phải đề phòng.
Cô im lặng một lát. Khi cô quay lại với tôi, nét mặt cô đã thay đổi, và cô nói một cách bình thản:
- Rascal, là một con vật nuôi kỳ diệu. Cám ơn em đã đem nó tới lớp và cám ơn báo cáo miệng rất hay của em nữa.
Cô vỗ về Rascal và nói thêm:
- Tốt hơn hết là em hãy đem nó về nhà và nhốt vào lồng, Sterling ạ. Cô sẽ nói với các thầy cô khác lý do em vắng mặt từ giờ cho tới hết buổi chiều.
Trong khi tôi đạp xe về nhà với con Rascal trong giỏ treo ở xe, nó đã hoàn toàn quên mất trận chiến vừa xảy ra rồi. Và cái ngày đầu tiên hai chúng tôi cùng chui vào chuồng để chịu hình phạt, hai tuần lễ là một ngày thu trong trẻo, nhẹ nhõm…Tôi có một ý nghĩ điên rồ và trìu mến thế này: nếu phải giam Rascal lại, thì cũng phải giam cả tôi với nó.
Chúng tôi ngồi ăn những quả hồ đào vỏ mềm, ước mong rằng sẽ được ngồi như thế này mãi mãi bên nhau, cùng chia xẻ những bữa ăn bên nhau.
Thật chẳng may là thằng Stihnen lại không chết vì bệnh dại. Mà thực ra thì những vết răng cắn vào tay nó đã lành rất nhanh. Thế nhưng hình phạt với Rascal và với tôi thì vẫn còn kéo dài. Chúng tôi trở thành những bạn tù trong rất nhiều giờ mỗi ngày theo khả năng tôi có thể tới được với nó.
Rascal xem chừng bắt đầu đẫy người ra để chuẩn bị cho mùa đông tới. Tôi cho nó ăn bất kỳ thức gì nó thích, và vì thế mà tuy phải sống giam trong chuồng, chúng tôi chẳng đến nỗi khổ sở cho lắm.
Vào ngày bị giam thứ mười bốn, khi thấy nó không biểu hiện bất kỳ dấu hiệu bệnh dại nào, tôi bèn mở chuồng, và hai chúng tôi lao ra với cuộc sống ngày thu. Chúng tôi đi bộ ngược lên phố và quành xuống con đường mòn thôn dã, đi vào thế giới rực màu vàng đỏ của mùa thu. Đó là một ngày trong mùa thu hái của người da đỏ. Những đống lúa mạch bù xù, nhạt màu như những tấm lều bằng da hoẵng, mọc lô nhô in trên nền cong cong của bầu trời xanh mênh mông, và những cây gỗ thích như bốc lửa trên chỏm.
Đi ngang qua vườn quả của Baden, chúng tôi nhặt vài trái táo. Rồi đi dọc tiếp theo con đường mòn hai bên là những hàng rào đầy trái cây dại, Rascal đã nhuộm cho mõm nó thành màu nâu sậm vì ăn nhiều trái quá.
Cứ mỗi lần thu tới, lại phải xem xét những cây hồ đào và cây óc chó định lấy quả, và phải ước lượng số lượng chuột xạ sống trong những vùng bùn và ao có hy vọng bẫy được. Đó là một thú vui chơi tôi thường cùng làm với thằng bạn Dinisen. Vì Dinisen không có nhà, nên Rascal cùng tôi đi làm công việc khảo sát trước với nhau.
Đến bên bờ một vũng nước lớn có thể bơi qua được, chúng tôi buồn rầu nhìn thấy một cây óc chó lớn bị chặt cụt, trước đó là một cây khổng lồ, và chỉ mấy tháng trước nó còn đứng sừng sững ở đó. Tôi thường vẫn ngồi nghỉ chân dưới bóng cây to lớn đó mỗi lần thu tới, và hai tay thường sậm nâu đi vì nhuộm màu vỏ quả óc chó. Chính nơi đây tôi đã bắt được một con bướm thuộc loại Óc chó Hoàng tộc để đưa vào bộ sưu tập. Giờ đây cái cây to lớn đó, cùng nhiều cây óc chó khác vào mùa này đã bị hạ để làm báng súng. Tôi tìm được một viên đá phấn trong đầm nước, và bằng những chữ to tướng giận dữ, tôi viết lên thân cây cụt: NGUYỀN RỦA KẺ NÀO CHẶT CÂY NÀY.
Ấy thế nhưng, càng lang thang theo những đầm những ao lên mạn Bắc, dần dần tôi đã quên nỗi giận dữ đi. Chưa từng khi nào tôi được nhìn thấy nhiều ổ chuột xạ mới đến thế - những đống lau xậy xếp thành hình chóp, với những lối vào chui dưới nước, tạo thành những ngôi nhà thực sự cho giống gậm nhấm vô hại với bộ lông kỳ thú ấy. Tôi đã từng nuôi nhiều chuột xạ nhỏ và thả chúng ra. Tôi chưa khi nào dám giết hoặc lột da những con chuột xạ do chính tay tôi nuôi dưỡng. Rascal cùng tôi ngồi im lặng bên bờ một cái đầm đang có vài con vịt trời bơi qua bơi lại và rỉa lông rỉa cánh. Chiều bắt đầu xuống, những con chuột xạ bình thản đi tới những căn nhà làm dở, và chúng bắt đầu vặt những bông lau, ngậm vào miệng để tha xuống làn nước bằng lặng, xây nốt những ngôi nhà cho cao thêm.
Đầy hạnh phúc, chúng tôi lang thang trở về thành phố trong bụi, trong màu sắc vàng đỏ của những cây thích câm lặng trong ánh sáng đang tắt dần.
Người ta nói rằng ông ấy cho dơi ở trên gian xép tầng thượng, nhưng thế là nói sai. Ông ấy cho dơi ở ngay trong phòng ngủ.
Hồi tưởng xa xưa của tôi về ông Atkinson là một con người thấp lùn, dữ tợn, gân guốc, khoảng năm chục tuổi, một con người trầm tĩnh mang kính nặng, sinh sống trên một nông trại gần ba chục hécta đầm lầy mà không một trại chủ khôn ngoan nào chịu nhận nếu có người cho. Thế nhưng đó không phải là bề ngoài khác thường của ông Atkinson đã khiến cho từng đứa trong lứa tuổi tôi đều hiểu ông thật rõ. Đó chỉ là những lời đồn đại hấp dẫn xung quanh con người ông. Bởi vì người ta nói rằng ông Atkinson ăn ếch và ăn châu chấu, rằng trên nền gian lều ông ở đầy những rắn và trên gian xép tầng thượng của ông thì đầy những dơi.
Giờ đây tôi không muốn chối cãi rằng, cũng như các bạn mình, tôi đã từng vô cùng hấp dẫn vì một con người có quan hệ chặt chẽ với ma quái, nhưng nghĩ lại cho kỹ tôi thấy mình hoàn toàn bị ám ảnh vì cảnh cô độc tuyệt đối của ông ta, không còn có gì kinh hoàng hơn cảnh một người sống đơn độc và huyền bí.
Tôi nghĩ rằng hành động thô lỗ từ xưa của con trẻ đối với người sống cô độc như vậy có nguồn gốc từ sự kinh hoàng như thế: trẻ con chúng tôi rất muốn thực hiện với ông Atkinson những điều bậy bạ như đập gõ cửa sổ, hoặc chèn cửa ra vào ban đêm, hoặc làm tắc ống lò sưởi, hoặc trăm thứ trò chơi khăm khác mà một cậu bé bình thường đều biết.
Thế nhưng chưa một ai trong chúng tôi từng thử trêu ông Atkinson theo cách như vậy. Và cho dù chúng tôi không lý giải được đàng hoàng, riêng tôi ngày nay đã hiểu rõ. Đó chỉ là vì chẳng đứa nào trong chúng tôi có thể đoán trước ông Atkinson sẽ phản ứng ra sao. Ví thử chúng tôi mà biết được ông có thể làm gì thì sự tình khác hẳn. Và chúng tôi đã giữ hoà khí với ông Atkinson theo cách chúng tôi đối đãi với một ông thầy lúc nào cũng khó hiểu.
Thế rồi đã xảy ra tới cái ngày đáng ghi nhớ: chúng tôi giáp mặt với ông Atkinson mà chẳng có một ai bảo vệ chúng tôi, khi chúng tôi lại đang xâm phạm vào dinh cơ của ông! Chúng tôi có cả thảy bốn đứa vào sáng thứ bảy đó, và một đứa trong bọn đã có cơ may đáng ngờ vớ được một khẩu súng săn của ông anh to đầu mà lẩm cẩm. Được trang bị bằng thứ vũ khí kích động diệu kỳ đó và vô số đạn ăn trộm được, chúng tôi lại kéo nhau đi săn quạ.
Và cái địa điểm duy nhất để cho lòng dũng cảm của chúng tôi, có được cơn phiêu lưu vào sáng hôm đó chính là nơi bãi lầy của ông Atkinson. Kệ cho ông già điên điên khùng khùng đã treo kín mọi nơi những tấm biển “ Cấm săn bắn ”. Ở đó chẳng có chỗ nào kín mà lẩn. Nhưng chúng tôi cứ nghĩ rằng ông Atkinson đâu có dám xua đuổi chúng tôi.
Nhưng ông Atkinson đã vớ được chúng tôi, trước khi chúng tôi nổ phát súng đầu tiên. Một phút trước đó chúng tôi còn tụ tập bên những đám cây, ranh ma và không biết sợ là gì, một phút sau đã thấy ông Atkinson đứng ngay trước mặt và nhìn chúng tôi với vẻ nhạo báng.
Tôi nhớ lại và tôi thấy hình như nom ông còn bé nhỏ hơn nhiều so với những lần trước đây, tôi nhìn thấy ông từ một khoảng cách an toàn. Song cũng có một cái gì đó ở con người ông, khiến chúng tôi cũng cảm thấy vô cùng bé nhỏ.
- Chào các cậu! – Ông nói giọng đều đều – Có thú vị không?
Chúng tôi nhìn nhau sốt ruột.
- Chúng cháu…chúng cháu đang đi tìm nấm ạ - Một trong những cậu dũng cảm nhất của chúng tôi giải thích cho ông.
Cái cách ông Atkinson nheo nheo mắt một cách kỳ cục sau đôi mắt kính nom như mắt cú có thể là một cách ông định mỉm cười. Nhưng rồi sau đó rất có thể chẳng phải là cười tí nào.
- Tôi chưa khi nào bắn một cái nấm – Ông nói – Làm cách nào các cậu lại bắn nấm được nhỉ?
Không đứa nào trong chúng tôi dám trả lời.
- Có thể là các cậu không hiểu vì sao tôi lại không cho phép săn bắn ở bãi lầy này – Ông nói tiếp – Tôi sẽ nói cho các cậu hay vì sao. Bãi lầy này là cuộc sống của tôi, các cậu ạ. Cha các cậu đều có những nông trại và đất đai đẹp đẽ trồng lúa mạch và trồng cỏ. Tôi thì chỉ có được một mảnh bãi lầy mà ai chẳng muốn có cả, và tôi chỉ có vậy thôi. Và mảnh đất lầy đó phải nuôi sống tôi. Tôi cũng phải ăn chứ, các cậu hiểu cho…
Nhìn cái cổ lộ hầu xương xương, khô khô của ông nhô ra khỏi cổ, tôi nghĩ rằng ông ăn chẳng nhiều nhặn gì.
Lúc đó chúng tôi có nói lại điều gì không, tôi không nhớ nổi nữa. Chúng tôi đã hoàn toàn bị ông chinh phục rồi.
- Cậu bắn cái gì vậy hử? – Ông hỏi thằng mang súng.
- Quạ, chỉ bắn quạ thôi ạ. Không bắn gì khác.
- Tôi yêu quạ - Ông nói – Nhưng tôi biết đôi khi quạ cũng làm ta khó chịu. Cũng như các cậu vậy thôi. Nhưng tôi yêu chúng. Và dĩ nhiên tôi cũng yêu hầu như mọi thứ gì sống trên vùng đầm lầy của tôi. Rất có thể là tôi hiểu rõ chúng. Tôi cho rằng thật khó mà ghét được những gì ta hiểu rõ. Thậm chí tôi cũng có thể yêu cả các cậu bé mang súng nữa, nếu như tôi có thể hiểu rõ các cậu đó.
Chúng tôi bắt đầu cười mỉm, nhưng ông Atkinson thì không. Vì thế chúng tôi lại thấy lo lo.
- Các cậu thấy đó, khu bãi lầy này là khu nhà của tôi. Phần lớn thời gian tôi sống ở đây. Gần như là tôi biết rõ từng cái cây và từng cành cây đang lớn. Liệu các cậu có thích ai đó tới bắn súng vào nhà các cậu không? Đúng thế đó thưa các cậu: đây là nhà tôi và công việc của tôi. Đây là nơi tôi phải tạo ra cuộc sống cho tôi để tôi có cái ăn.
Có đứa nào đó không chịu được sự căng thẳng đặc biệt lâu hơn nữa, đã nói:
- Thưa ông Atkinson, người ta nói là ông bắt ếch và ăn ếch. Tôi không tin. Nhưng có đúng thế không?
Ông Atkinson nhìn vào thằng bé vừa hỏi một lát có vẻ hơi lâu. Sau đó ông gỡ kính ra, lau kính, rồi lại nhìn. Cuối cùng ông nói:
- Có lẽ tôi nên mời các cậu vào nhà ăn với tôi.
Lúc này chúng tôi còn hơn là sợ hãi. Chúng tôi thấy kinh hoàng. Tôi nghĩ là chúng tôi kinh hoàng thật vì ông đã nói những lời đó theo một cách nói mà chúng tôi không dám chối từ. Có thể là do đôi mắt ông đã khiến chúng tôi cảm thấy như vậy.
- Thưa ông, chúng cháu không dám, mẹ chúng cháu…Thưa không ạ. Chúng cháu không dám…
Nhưng chúng tôi vẫn đi theo ông.
Đến trước gian lều nhỏ và sạch sẽ, chúng tôi đứng đực ra không đi được nữa.
- Đi đi, các cậu vào đi! Vào đi!
- Có đúng là nền nhà ông nhiều rắn lắm, thưa ông Atkinson?
- Chúng không cắn đâu. Vào đi, chú ý bậc lên.
Ông Atkinson nói với chúng tôi rằng mỗi lần ông chỉ cho phép một con rắn ra ngoài nhà mà thôi. Chúng tôi đều đinh ninh rằng đã nhìn thấy con rắn đó trước khi vào nhà, một con rắn khổng lồ với cặp mắt quỷ dữ. Thế là chúng tôi đùn nhau, càng đứng xa càng tốt.
- Tôi sẽ làm món bột bánh rán cho các cậu ăn – không lâu la gì đâu. Mà các cậu có thích ăn đậu không? Tôi ăn đậu đấy.
Khi cái lạnh lẽo của bước đầu va chạm đã tan đi, một lần nữa chúng tôi lại thấy hấp dẫn vì mưu đồ liều lĩnh sớm nay. Quả thực là một cuộc phiêu lưu! Có lẽ chúng tôi là những kẻ đầu tiên đã có gan thâm nhập vào hòn đảo bí mật này, và chúng tôi vẫn còn sống sót!
Trong lúc ông Atkinson trút lọ đậu và trút cả hộp to tướng bột nhào màu vàng vào chảo, chúng tôi ngắm nhìn căn nhà. Trong đời chúng tôi chưa từng khi nào thấy chuyện gì lạ kỳ đến thế. Trong một cái khay nông to, hệt như cái khay lúc nãy đang đựng bánh bột rán, có mấy con kỳ nhông còn sống đang chạy đi chạy lại dưới một tấm màn chắn. Trong một cái khay khác sâu hơn, hơn chục con tôm đồng trân trân mắt nhìn chúng tôi. Ở một cái giá bên trên là những tổ chim với đủ mọi loài chim, trong đó có những con đang ấp. Chúng tôi cũng thấy một cái kính hiển vi nữa, trên đó treo những bó cây thân thảo.
Và đúng là cũng có cả ếch cùng châu chấu! Nhưng chúng không còn sống. Chúng được đựng trong các lọ kín, nổi lập lờ trong một thứ nước coi bộ khá ghê tởm.
- Không đâu các cậu ạ, tôi không ăn ếch đâu – Ông Atkinson vừa nói vừa cời lửa – Tôi bắt chúng cho các phòng thí nghiệm và trường học. Trước khi chúng ta hiểu được sự sống trong bản thân ta, cần thiết phải nghiên cứu sự sống của các loài động vật khác chứ. Như các con ếch và châu chấu và mọi thứ khác các cậu nhìn thấy ở đây. Và phải có một ai đó đi lấy các mẫu như thế này để gửi cho các thầy giáo chứ?
Trong phòng đột nhiên ấm áp hơn lên. Chúng tôi bắt đầu mỉm cười với nhau, và sau đó phá lên cười thoải mái. Bánh bột rán bắt đầu bốc mùi ngon lành và cả món hạt đậu cũng thế.
- Rất có thể một ngày nào đó các cậu lên trung học và đại học, các cậu sẽ được học một số mẫu của tôi vào một dịp nào đó. Tôi thì chẳng từng được học nhiều.
Chúng tôi gỡ tấm màn che những con kỳ nhông để nhìn cho rõ hơn.
- Nhưng thưa ông Atkinson, còn những con dơi đâu ạ? Người ta bảo là ông cũng có cả dơi nữa.
Ông Atkinson rút một cọng rơm ra khỏi cái chổi và thử tấm bánh bột rán.
- Có, tôi thường có dơi ở đây – Ông nói – Nhưng bây giờ tôi để chúng trong một phòng ngủ không dùng tới. Đi, tôi sẽ cho các cậu coi.
Thế rồi ông cho chúng tôi coi một căn phòng có dơi ở. Có tới một nửa tá, có khi hơn ấy chứ. Chúng tôi không muốn đứng lâu mà đếm. Một đứa trong bọn chúng tôi thì thầm:
- Quả thật ông ấy cũng say mê với công việc của mình thật!
Ông Atkinson nói:
- Tôi chưa từng gửi con dơi nào cho các phòng thí nghiệm. Tôi tự nghiên cứu chúng. Có thấy các sợi dây thép chứ?
Chúng tôi nhìn thấy các con dơi và như thế là quá đủ rồi. Chúng tôi đều muốn ra khỏi căn phòng này. Những con dơi coi thật xấu xí gớm ghiếc.
- Không, không, chớ đi! Chúng không cắn các cậu đâu! – Ông Atkinson không cho chúng tôi rút lui – Các cậu có nhận ra những sợi dây thép không?
- Có đúng là dơi mù mắt không, thưa ông Atkinson?
Ông Atkinson gỡ kính ra và lại lau mắt kính.
- Đúng thế - Ông nói với một vẻ lạ lùng – Hình như chúng hoàn toàn mù, thế nhưng, xem đây, hãy xem lúc chúng đang bay đi. Hãy xem vì sao chúng không một lần nào, chúng không hề chạm vào một sợi dây thép nào. Và trong phòng thì đầy dây thép. Những sợi dây nhỏ căng trong đàn Piano, thấy không?
- Thế nhưng, tại sao chúng không chạm vào các sợi dây, thưa ông Atkinson?
Ông chủ nhà cẩn thận đóng cửa buồng nhốt dơi lại, và quay về nhà bếp.
- Đó là một chuyện tôi muốn cho mọi người biết – Ông nói – Đó là điều tôi đang nghiên cứu, khi mắt tôi còn chút khả năng để nhìn.
Lúc này bánh bột rán đã chín, những hạt đậu nở phồng. Nhưng chúng tôi chẳng để ý tới chúng. Giờ đây chúng tôi đều nhìn vào đôi mắt ông Atkinson, và tự hỏi, cũng như mỗi ngày ông Atkinson cũng hẳn tự hỏi, xem đôi mắt kia còn sáng được bao lâu nữa để ông tiếp tục cuộc đời đẹp đẽ trong vùng đồng lầy kỳ diệu của ông?
Chiếc bánh bột rán đó là chiếc bánh ngon nhất hạng chúng tôi chưa từng nếm thử, và không một ai e ngại liệu cái khay đựng bánh ấy có phải chính là cái khay đã từng đựng mấy con kỳ nhông hay không?
- Thỉnh thoảng chúng cháu quay trở lại đây có được không ông Atkinson? – Chúng tôi hỏi ông khi từ biệt ra về - Liệu thứ bảy tới chúng cháu có thể tới đây giúp ông tìm các thứ cho phòng thí nghiệm được không?
Ông Atkinson nói rằng được.