Sau khi đã hứa sẽ đưa tàu đến Curacao, don Diego được giao các chức trách của hoa tiêu và được phép tự do đi lại trên con tàu vốn là của hắn. Tất cả mọi người đều tỏ ra kính trọng đức ông Tây Ban Nha, để đáp lại sự lịch thiệp tế nhị của hắn. Được như vậy không chỉ vì ngoài hắn không một ai có thể đưa con tàu ra khỏi vùng biển nguy hiểm gần bờ biển xứ Main, mà còn vì các nô lệ của Bishop trong lúc đang mải lo cứu mạng mình đã không trông thấy tất cả những khủng khiếp và bất hạnh mà Bridgetown phải gánh chịu, nếu không thì họ đã xử trí với bất kỳ một tên cướp biển Tây Ban Nha nào như với một giống dã thú tàn ác và xảo quyệt cần phải hạ thủ ngay tại chỗ. don Diego cùng ăn chung với Blood và các sĩ quan của chàng - Hagthorpe, Wolverstone và Dyke - trong một buồng rộng.
Họ nhận thấy don Diego là một người nói chuyện thú vị và dễ chịu, cảm tình của họ đối với hắn càng sâu sắc thêm bởi sự tự chủ và thái độ bình thản của hắn trong khi chịu đựng những bất hạnh đến với mình.
Không ai có thể ngờ nổi là don Diego lại giở trò tráo trở. Ngay từ đầu hắn đã chỉ cho họ thấy sai lầm của họ: rời khỏi Barbados, họ đã đi theo chiều gió, mà đáng ra từ quần đảo này muốn ra biển Caribbean thì họ phải bỏ Barbados nằm dưới gió mới phải. Muốn sửa chữa sai lầm ấy, họ buộc phải cắt ngang quần đảo một lần nữa mới đến Curacao được. Trước khi đưa tàu đi theo hướng ấy, hắn đã báo trước rằng con đường đi này là khá mạo hiểm. Tại bất kỳ điểm nào giữa các hòn đảo kia họ đều có thể đụng độ với các tàu mạnh bằng hoặc mạnh hơn tàu họ, và bất luận đó là tàu Tây Ban Nha hay là tàu Anh, họ cũng đều gặp nguy hiểm như nhau: “Cinco Llagas” thiếu người một cách trầm trọng nên họ không thể giao chiến được. Cố gắng giảm đến mức thấp nhất nguy cơ ấy, thoạt đầu don Diego đưa tàu xuống phía nam rồi sau đó mới quay sang hướng tây. Họ đã đi trót lọt qua giữa Tobago và Grenada, vượt khỏi khu vực nguy hiểm và ra được vùng nước tương đối an toàn trên biển Caribbean.
- Nếu không đổi gió, - don Diego xác định vị trí tàu rồi nói, - ba ngày nữa chúng ta sẽ đến Curacao.
Trong ba ngày ấy sức gió vẫn giữ nguyên, vào ngày thứ hai thậm chí còn mạnh hơn một tí, tuy nhiên, mãi đến đêm thứ ba vẫn chẳng thấy tăm hơi đất liền đâu cả. “Cinco Llagas” lướt nhanh, nhưng xung quanh vẫn trời nước mênh mông, tịnh không còn gì khác. Thuyền trưởng Blood lo ngại đem chuyện ấy nói với don Diego.
- Ngày mai chúng ta sẽ thấy bờ, - tên Tây Ban Nha đáp không chút lúng túng.
- Thề có tất cả các thánh thần, người Tây Ban Nha các ngài bao giờ cũng ngày mai, nhưng cái “ngày mai” ấy không bao giờ đến cả, ông bạn ạ.
- Đừng lo, lần này thì ngày mai sẽ đến. Khi thức giấc ngài sẽ được trông thấy bờ, dù ngài có dậy sớm đến đâu đi nữa, don Pedro ạ.
Thuyền trưởng Blood yên tâm đến thăm bệnh nhân của chàng là Jeremiah Pitt, người do bệnh tình đã cứu mạng don Diego. Hai ngày nay Pitt đã dứt sốt và những vết thương bắt đầu liền miệng. Sức khoẻ khá lên đến mức anh đã bắt đầu than phiền vì cứ phải nằm bẹp trong căn buồng ngột ngạt. Không thể khước từ những đòi hỏi ấy, Blood đành phải cho phép người bệnh được hít thở không khí trong lành, và chiều hôm đó, vịn cánh tay thuyền trưởng, Jeremiah Pitt bước ra boong.
Ngồi trên nắp cửa khoang, anh khoan khoái hít thở không khí ban đêm mát rượi, ngắm nhìn mặt biển và theo thói quen của thuỷ thủ, ngửa mặt ngắm vòm trời xanh đen rải đầy hàng tỉ ngôi sao. Anh cứ ngồi như vậy một lúc lâu, sung sướng và thanh thản, rồi bồi hồi nhìn quanh, dõi mắt ngắm nhìn những chòm sao sáng rực lung linh trên mặt đại dương mênh mông. Vài phút sau, Pitt đưa mắt sang thuyền trưởng Blood.
- Anh có hiểu gì về thiên văn không Peter? - anh hỏi.
- Thiên văn ấy à? Rất tiếc, mình chẳng biết dải Nhân sư với Hải sư gì cả.
- Tiếc thật. Mọi người khác trong đoàn thuỷ thủ hổ lốn của chúng ta cũng đều dốt nát về vấn đề này như anh hết sao?
- Cậu sẽ gần sự thật hơn nếu bảo rằng họ còn biết ít hơn mình.
Jeremiah chỉ một chấm sáng trên bầu trời phía bên phải mũi tàu, nói:
- Kia là sao Bắc cực, anh thấy chứ?
- Tất nhiên là thấy rồi, - Blood uể oải đáp.
- Nhưng nếu sao Bắc cực nằm đằng trước chúng ta mà lại ở bên mạn phải thì như vậy có nghĩa là chúng ta đang đi hướng Bắc - Tây Bắc, hoặc có thể là Tây Bắc, bởi vì tôi không nghĩ là hướng đi của chúng ta lớn hơn mười độ phía Tây.
- Thì sao? - Thuyền trưởng Blood ngạc nhiên.
- Anh bảo tôi rằng chúng ta xuyên qua giữa hai đảo Tobago và Grenada đi về phía tây quần đảo để đến Curacao. Nhưng nếu đi hướng ấy thì sao Bắc cực phải nằm ở chính ngang của ta mới phải, ở kia kìa.
Cái uể oải đang chế ngự Blood lập tức tan biến. Một linh cảm đen tối đè nặng lên chàng và chàng đang định nói gì đó. Đúng lúc ấy, một luồng ánh sáng từ cửa ngăn buồng phía lái rạch ngang mà màn đêm ngay trên đầu họ. Cánh cửa đóng lại và hai người nghe thấy tiếng chân bước xuống thang. Đó là don Diego. Thuyền trưởng Blood bóp vai Jeremiah đầy ngụ ý rồi gọi tên Tây Ban Nha lại và nói với hắn bằng tiếng Anh như chàng vẫn thường làm khi có mặt những người không biết tiếng Tây Ban Nha.
- Nhờ ngài phân giải giúp chúng tôi một cuộc tranh cãi nho nhỏ, don Diego, - chàng nói, giọng cười cợt. - Tôi với Pitt đang cãi nhau xem sao, nào là sao Bắc cực.
- Chỉ có thế thôi à? - tên Tây Ban Nha thản nhiên hỏi, giọng hắn lộ rõ vẻ khôi hài. Nếu tôi nhớ không nhầm thì ngài có nói rằng ông Pitt đây là hoa tiêu của ngài kia mà.
- Vâng, thằng chột làm vua xứ mù thôi, - thuyền trưởng đùa cợt nói bằng giọng coi thường. - Nhưng tôi vừa đánh cuộc với anh ta một trăm pêxô rằng Bắc cực là ngôi này kìa - và chàng hờ hững khoát tay chỉ vào một điểm sáng vừa chợt nhìn thấy trên bầu trời.
Sau này, Blood đã thú thực với Pitt rằng nếu lúc đấy don Diego đồng ý với chàng thì chàng đã giết phăng hắn tại chỗ rồi. Thế nhưng tên Tây Ban Nha đã tỏ ý khinh bỉ ra mặt những kiến thức thiên văn của Blood.
- Lời quả đoán của ngài là dựa trên cơ sở dốt nát, thưa don Pedro. Ngài đã thua cuộc, sao Bắc cực là sao này kia, - đoạn hắn chỉ ngôi sao.
- Ngài dám chắc đấy chứ?
- don Prêđrô thân mến của tôi! - tên Tây Ban Nha cự lại, hắn thấy thu thú câu chuyện. Tôi mà lại nhầm thì nghe có được không kia chứ? Vả lại chúng ta còn một chứng cớ nữa là la bàn. Mời ngài quá bộ đến xem chúng ta đang đi hướng nào.
Sự thành thật cởi mở và sự bình thản của một người không có gì phải giấu giếm đã xua tan ngay những nghi kị của Blood. Tuy nhiên để thuyết phục được Pitt thì không phải dễ như vậy.
- Nếu thế thì, don Diego, - anh hỏi, - tại sao chúng ta lại đi đến Curacao theo một hành trình lạ lùng như vậy?
- Ông có đầy đủ cơ sở để hỏi tôi câu ấy. - don Diego đáp không chút bối rối và thở dài - tôi tưởng thiếu sót của tôi sẽ không ai nhận thấy chứ. Thông thường tôi không quan sát thiên văn bởi vì tôi hoàn toàn tin cậy cách tính đường theo phương pháp hàng hải. Nhưng than ôi, không bao giờ được quá tự tin. Hôm nay khi cầm đến thước đo góc tôi mới xấu hổ phát hiện ra rằng mình đã bị chệch nửa độ về phía nam. Chính sai lầm ấy đã dẫn đến sự chậm trễ trên đường đi. Nhưng bây giờ thì ổn cả rồi, sáng mai chúng ta sẽ đến nơi.
Lời giải thích ấy thẳng thắn và chân thành đến nỗi không thể nghi ngờ gì ở lòng trung thực của don Diego được. Và khi tên Tây Ban Nha đi khỏi, Blood nhận xét rằng nói chung nghi ngờ gì đó về hắn là rất lố bịch bởi vì hắn đã chứng minh lòng trung thực của mình lúc khảng khái tuyên bố thà chết chứ quyết không chịu làm bất cứ điều gì trái với danh dự.
Lần đầu tiên trôi dạt đến biển Caribbean và chưa biết kiểu chơi của bọn giang hồ ở đây nên thuyền trưởng Blood vẫn còn vài ảo tưởng đối với đối với chúng.
Tuy nhiên các sự kiện hôm sau đã quét sạch những ảo tưởng ấy.
Bước ra khỏi boong tàu khi mặt trời còn chưa mọc, chàng trông thấy trước mặt mình một giải đất mà tên Tây Ban Nha đã hứa với họ đêm qua. Bờ biển cách con tàu chừng mười dặm trải dài theo đường chân trời sang mãi phía đông và phía tây. Thẳng hướng mũi tàu là một doi đất rộng. Dải bờ ấy làm Blood khó chịu, chàng nhăn mặt vì chẳng bao giờ nghĩ rằng đảo Curacao lại lớn đến thế. Trước mặt chàng dường như không phải hòn đảo mà là đất liền hẳn hoi.
Bên mạn phải, cách đó chừng ba bốn dặm, một chiếc tàu lớn có lượng dãn nước không thua gì, nếu không phải là lớn hơn “Cinco Llagas”, đang lướt sóng. Trong khi Blood đang theo dõi thì chiếc tàu bỗng đổi hướng vòng lại và ngược gấp hướng gió tiến đến gần.
Hơn chục người trong đội tàu của Blood lo lắng chạy lên boong mũi, sốt ruột nhìn vào bờ.
- Chính là đất hứa đấy don Pedro, - chàng nghe thấy phía sau có người nói bằng tiếng Tây Ban Nha.
Vẻ đắc chí ngấm ngầm trong giọng nói ấy lập tức khơi dậy những ngờ vực của Blood. Chàng quay phắt lại phía don Diego, nhanh đến nỗi nụ cười chế giễu chưa kịp tắt trên bộ mặt của tên Tây Ban Nha.
- Vẻ vui mừng của ngài khi nhìn thấy miền đất này, theo tôi nói nhẹ ra cũng là rất khó hiểu.
- Vâng, đúng thế! - Tên Tây Ban Nha đang xoa hai bàn tay vào nhau và Blood nhận thấy chúng run run. - Đó là nỗi vui mừng của một thuỷ thủ.
- Hay đúng hơn là của một tên phản bội. - Blood điềm tĩnh nói. Tên Tây Ban Nha biến sắc lùi lại. Cái đó đã xua tan mọi ngờ vực của Blood. Chàng trỏ tay vào đất liền gắt hỏi: - Bây giờ ngài có còn đủ càn rỡ nhắc lại rằng đây là bờ đảo Curacao nữa không? - chàng quả quyết bước lại phía don Diego lúc này đang từng bước từng bước lùi dần. - Hay ngài muốn tôi bảo cho ngài biết miền đất này là đâu? Ngài có muốn không?
Sự vững tin toát ra trong câu nói của Blood dường như đánh gục tên Tây Ban Nha. Hắn lặng thinh không thốt lên một tiếng. Và thế là thuyền trưởng Blood liều nói bừa - nhưng chưa biết chừng không hoàn toàn nói bừa - dự đoán của mình. Bờ biển kia nếu không phải xứ Main thì rất có thể là Cuba hoặc là Haiti. Nhưng đảo Cuba chắc phải nằm xa hơn về phía bắc và Blood hiểu ngay rằng sẵn âm mưu phản bội, don Diego có thể đã đưa họ đến lãnh thổ gần nhất của Tây Ban Nha.
- Nghe đây, tên phản trắc và thề gian kia, miền đất ấy là đảo Haiti!
Chàng nhìn chằm chằm vào bộ mặt rám nắng nhưng lúc này tái nhợt của tên Tây Ban Nha, để xem hắn phản ứng như thế nào. Nhưng tên Tây Ban Nha lúc ấy đã lùi đến giữa boong sau, nơi cánh buồm lòng sau đã che lấp không cho các đồng đội người Anh nhìn thấy Blood và don Diego. Tên Tây Ban Nha nhếch môi cười khinh bỉ.
- Mày biết nhiều quá đấy, con chó Anh kia! - hắn vừa thở dốc vừa nói, đoạn nhảy xổ vào Blood và chịt lấy cổ chàng.
Hai người ghì chặt lấy nhau, quần nhau quyết liệt. Blood gạt chân tên Tây Ban Nha và cả hai cùng ngã nhào xuống mặt boong. Quá tự phụ với sức vóc của mình, tên Tây Ban Nha đã tính rằng hắn có thể bóp cổ Blood và tranh thủ hơn được nửa tiếng đồng hồ quý báu để con tàu đẹp đẽ đang nhằm hướng tàu họ lao đến kia tới kịp. Chiếc tàu ấy chắc chắn là tàu Tây Ban Nha, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa, bởi vì không có tàu nước nào lại dám nghênh ngang tung hoành trên hải phận Tây Ban Nha gần bờ biển Haiti. Tuy nhiên, những tính toán của don Diego đều sai bét, còn hắn thì lại hiểu ra quá muộn, khi những bắp thịt bằng thép đã bóp chặt lấy hắn như những gọng kìm. Dùng đầu gối đè dí tên Tây Ban Nha xuống mặt boong, Blood lớn tiếng gọi các bạn chàng đang theo cầu thang chạy bổ lên.
- Đã đến lúc mày sám hối cho cái linh hồn bẩn thỉu của mày rồi đấy. - Blood quát đầy thịnh nộ.
Nhưng mặc dù đang ở trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, don Diego vẫn gượng cười và đáp lại một cách nhạo báng.
- Thế ai sẽ cầu nguyện cho linh hồn chúng mày khi chiếc galion kia áp mạn bắt sống chúng mày?!
- Chiếc galion kia? - Blood hỏi lại, đau đớn nhận ra không thể nào tránh khỏi hậu quả của sự phản phúc được nữa.
- Phải, chiếc galion kia! Mày có biết đó là tàu gì không? Đó là “Encarnacion”, kì hạm của tư lệnh hạm đội Tây Ban Nha tại vùng biển này - đô đốc don Miguel de Espinosa, anh tao. Một cuộc gặp gỡ hết sức đúng lúc. Mày thấy không. Đấng tối linh cũng chăm lo cho những lợi ích của nước Tây Ban Nha công giáo đấy chứ!
Đôi mắt xanh biếc của thuyền trưởng Blood loé sáng, nhưng vẻ mặt chàng lại hết sức nghiêm nghị.
- Trói chân tay nó lại! - Blood ra lệnh cho người của mình rồi thêm: - Nhưng không được để rụng một sợi tóc nào trên cái đầu quý giá của thằng khốn ấy!
Câu nhắc nhở ấy hoàn toàn không thừa. Bởi vì, đang phát điên lên với ý nghĩ rằng một cuộc đời nô lệ mới còn khủng khiếp hơn cả cuộc đời họ vừa mới thoát ra đang đe doạ, các cựu nô lệ chỉ chực phanh thây xé xác tên Tây Ban Nha ra từng mảnh. Và nếu bây giờ họ chịu phục tùng thuyền trưởng của mình và không làm việc đó thì chỉ bởi chất thép trong giọng nói của Blood hứa hẹn cho don Diego de Espinosa y Valdez không phải một cái chết bình thường mà một thứ tàn độc hơn nhiều.
- Quân cướp biển khốn kiếp! - Blood khinh bỉ thốt lên - lời thề danh dự của mày đâu rồi, thằng chó đẻ!
don Diego liếc nhìn chàng và cả cười.
- Mày chưa đánh giá hết tao đâu, - hắn nói bằng tiếng Anh để tất cả đều hiểu được, - đúng thế, tao đã nói rằng tao không sợ chết, và tao sẽ chứng tỏ cho mày thấy! Hiểu chưa, đồ chó Anh?!
- Chó Ailen, nếu mày muốn thế, - Blood đính chính - Nhưng lời thề danh dự của mày đâu rồi, đồ súc sinh Tây Ban Nha?
- Chẳng nhẽ mày lại nghĩ rằng tao chịu trao con tàu tuyệt vời này vào những bàn tay bẩn thỉu của chúng mày để đánh lại Tây Ban Nha ư? Ha ha ha ! - don Diego cười ngạo nghễ. - Đồ ngu xuẩn! Chúng mày có thể giết tao, nhưng tao chết đi với ý thức rằng đã hoàn thành bổn phận. Chưa đầy một giờ nữa, tất cả chúng mày sẽ bị gông cổ tuốt tuột, và “Cinco Ligas” sẽ được hoàn trả cho Tây Ban Nha.
Khuôn mặt bình thản của Blood tái nhợt đi mặc dù nước da chàng vốn sạm nắng, chàng nghiêm khắc nhìn chằm chằm vào mặt tên tù binh. Đội thủy thủ của Blood tức tối vây quanh, một hai đòi xé xác hắn. Họ đang đòi trả máu.
- Không được động đến hắn! - thuyền trưởng Blood oai nghiêm ra lệnh, đoạn quay phắt bước đến mạn tàu và lặng đi trong suy nghĩ.
Hagthorpe, Wolverstone và pháo thủ Ogle đến bên chàng. Họ lặng lẽ nhìn con tàu đang tiến lại. Bây giờ nó đang cắt ngang hướng đi của “Cinco Llagas”.
- Nửa giờ nữa nó sẽ đến gần chúng ta và những khẩu pháo của nó sẽ quét sạch mọi thứ trên mặt boong tàu ta, - Blood nói.
- Chúng ta sẽ đánh trả! - lão khổng lồ một mắt gầm gừ, thề độc.
- Đánh trả? - Blood mỉm cười giễu cợt - Chúng ta chỉ vẻn vẹn hai chục người mà đòi đánh trả ư? Không, chúng ta chỉ có một lối thoát duy nhất: phải làm cho tên thuyền trưởng tàu kia nghĩ rằng chúng ta là người Tây Ban Nha, rằng mọi việc ở đây đều ổn thoả rồi đường ai nấy đi.
- Nhưng làm sao làm được việc đó? - Hagthorpe hỏi.
- Làm sao ấy à? - Blood nhắc lại - Tất nhiên nếu như... - Chàng im bặt và trầm ngâm nhìn ra mặt nước xanh ngắt.
Vốn hay châm chọc, Hagthorpe đề nghị:
- Nếu như chúng ta có thể đưa don Diego cùng các tay chèo Tây Ban Nha đến bảo với ông anh đô đốc của hắn rằng tất cả bọn ta là thần dân của đức vua Tây Ban Nha công giáo...
Thuyền trưởng nổi giận quay phắt lại phía anh ta, định xạc cho kẻ ngứa mồm một trận. Nhưng đột nhiên vẻ mặt chàng thay đổi hẳn, cặp mắt ánh lên vẻ phấn khích.
- Khỉ thật, anh nói phải! Tên cướp biển đáng nguyền rủa kia không sợ chết, nhưng có lẽ thằng con hắn nghĩ khác. Đạo hiếu là tình cảm rất phổ biến và mạnh mẽ ở Tây Ban Nha... Này, các bạn! - chàng quay lại nói với những người của mình đang xúm quanh tên tù binh.- Đem nó xuống dưới này!
Rồi đi trước dẫn đường, Blood chui qua cửa khoang xuống hầm tàu tranh tối tranh sáng rực mùi nhựa thông và mùi thừng chão. Sau đó chàng quay xuống lái và mở toang cửa bước vào gian công thất rộng thênh thang.
Mấy người lôi xềnh xệch tên Tây Ban Nha đã bị trói gô xuống theo.
Tất cả những người có mặt trên tàu đều muốn chạy đến đây xem Blood sẽ xử trí tên phản phúc như thế nào, nhưng thuyền trưởng đã ra lệnh cho họ không được rời khỏi mặt boong.
Trong gian công thất có ba khẩu pháo đã nạp đạn, chĩa nòng về phía đuôi tàu qua những lỗ châu mai mở toang.
- Bắt đầu đi, Ogle! – Blood quay sang anh chàng pháo thủ thấp lùn ra lệnh, chỉ tay vào khẩu pháo nằm giữa - Kéo lui nó lại.
Ogle lập tức thi hành mệnh lệnh của thuyền trưởng. Blood hất hàm ra hiệu cho những người đang giữ don Diego.
- Trói nó vào họng pháo! - chàng ra lệnh và trong khi họ vội vã thực hiện mệnh lệnh của chàng, Blood quay sang nhìn những người khác nói: - Các anh đến khoang lái đưa bọn tù binh Tây Ban Nha tới đây. Còn anh, Dyke, chạy ngay lên trên bảo họ kéo cờ Tây Ban Nha.
Bị buộc vào họng pháo, don Diego mắt long sòng sọc luôn mồm chửi rủa thuyền trưởng Blood. Hai tay tên Tây Ban Nha bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng bằng những sợi thừng xiết chặt, còn chân hắn thì bị buộc vào bệ pháo. Ngay cả một người dũng cảm dám can đảm nhìn thẳng vào cái chết có thể cũng khiếp sợ khi biết trước mình phải chết một cái chết như thế.
Mồm tên Tây Ban Nha sùi bọt nhưng hắn vẫn không ngừng nguyền rủa và thoá mạ kẻ hành hạ mình.
- Đồ man rợ! Đồ súc vật! Đồ tà đạo đáng nguyền rủa! Mày không thể giết tao bằng cách nào đó như người có đạo hay sao?
Thuyền trưởng Blood không thèm nói với hắn một lời, quay lại mười sáu tên tù binh Tây Ban Nha đeo cùm vừa bị vội vã xua đến gian công thất.
Trên đường đến đây, chúng đã nghe thấy tiếng kêu gào của don Diego và bây giờ thì kinh hãi trông thấy hắn đang bị trói trong tư thế như vậy. Một cậu trai dễ thương với nước da màu ô liu, nổi bật giữa đám tù binh bởi trang phục và cử chỉ, lao bổ tới hét lên:
- Cha!
Vùng vẫy trong tay những người tóm giữ mình, cậu ta cầu trời khấn đất đừng để cơn ác mộng ấy xảy ra rồi quay lại thuyền trưởng cầu xin lòng thương của chàng. Lời cầu khẩn ấy vừa điên dại, lại vừa não nuột. Nhìn cậu bé Tây Ban Nha, thuyền trưởng Blood hài lòng nghĩ rằng giọt máu của don Diego có khá đủ tình cảm quyến luyến của một đứa con có hiếu.
Sau này Blood thú nhận rằng đã có lúc tình cảm của chàng lên tiếng chống lại kế hoạch tàn nhẫn do mình vạch ra. Và để xua đuổi cảm giác ấy, chàng đã phải viện đến ký ức về những việc làm man rợ của bọn Tây Ban Nha ở Bridgetown. Chàng nhớ lại khuôn mặt trắng bệch của Mary Traill lúc cô khiếp đảm chạy trốn tên sát nhân dâm ô mà chàng đã hạ sát; chàng nhớ đến những cảnh tượng không bút nào tả xiết của cái ngày khủng khiếp ấy và nhờ đó đã giữ được lòng cứng rắn đang sắp chảy tan của mình. Bọn Tây Ban Nha tàn nhẫn và khát máu, với lòng cuồng tín tôn giáo, không hề mang trong mình dù là chút ít tín ngưỡng Thiên chúa giáo mà biểu tượng của nó đang phấp phới bay trên đỉnh cột buồm con tàu đang tiến lại gần. Mới một phút trước, lòng đầy hận thù và ác độc, don Diego đã khẳng định rằng Đức Chúa trời giáng phúc cho nước Tây Ban Nha công giáo. Không sao, don Diego sẽ bị trừng phạt tàn khốc vì sự hồ đồ ấy.
Cảm thấy sắt đá đã trở lại trái tim mình, Blood ra lệnh cho Ogle đốt bùi nhùi và mở nắp che ổ dẫn lửa trên khẩu pháo mà don Diego đang bị trói. Espinosa con lại sa sả nguyền rủa lẫn van xin, lúc ấy Blood quay phắt lại phía cậu ta.
- Im ngay! - chàng giận dữ quát. - Im đi mà nghe đây! Ta hoàn toàn không có ý định đưa cha chú xuống địa ngục như hắn đáng phải thế. Ta không muốn giết hắn, chú hiểu chứ?
Sửng sốt trước lời tuyên bố ấy, con trai don Diego im bặt ngay tức thì. Blood cất giọng bằng thứ tiếng Tây Ban Nha rất chuẩn, chàng rất thạo thứ tiếng này, đó là điều may mắn cho cả don Diego lẫn cho chính chàng.
- Vì sự phản bội bỉ ổi của cha chú mà chúng ta đang lâm vào một tình thế cực kỳ khó khăn. Bọn ta có đầy đủ mọi cơ sở để lo ngại rằng chiếc tàu Tây Ban Nha kia sẽ bắt sống “Cinco Llagas”. Lúc “Encarnacion” đến gần, ông bác của chú sẽ hiểu ngay có chuyện gì đã xảy ra ở đây. Họ sẽ nã pháo vào chúng ta, hoặc sẽ áp mạn bắt sống. Cha chú hiểu rằng bọn ta không đủ sức đánh trả vì quá ít người, nhưng bọn ta sẽ không ngoan ngoãn bó tay đầu hàng đâu, bọn ta sẽ đánh đến cùng! - chàng đặt tay lên giá pháo nơi don Diego đang bị trói - Chú phải hiểu cho rõ điều này: đáp lại phát đạn đầu tiên của “Encarnacion” sẽ là khẩu pháo này. Ta hy vọng rằng chú đã hiểu.
Espinosa con hoảng hốt rung lên bần bật nhìn vào cặp mắt không biết thương xót của Blood, và khuôn mặt màu ô liu của cậu ta tái xám đi.
- Tôi hiểu không ư? - cậu con lắp bắp nói. - Nhưng tôi phải hiểu gì mới được chứ? Nếu như còn khả năng tránh được đụng độ và tôi có thể giúp được các ông thì xin ông hãy cho tôi biết.
- Trận đánh có thể sẽ không xảy ra nếu don Diego de Espinosa chịu sang tàu anh mình và làm cho ông ta tin rằng “Cinco Llagas” vẫn thuộc về Tây Ban Nha như lá cờ trên cột buồm của nó chứng tỏ và mọi việc trên tàu vẫn ổn thoả. Nhưng don Diego không thể đích thân đến thăm ông anh được vì... đang còn bận việc khác. Chẳng hạn, ông ta đang lên cơn sốt nhẹ và buộc phải nằm trong buồng mình. Là con trai ông ta, chú có thể nói tất cả điều đó cho ông bác hay, và bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với ông bác. Chú sẽ đi cùng với sáu tay chèo người Tây Ban Nha mà chú tự chọn trong số những kẻ kín tiếng nhất, còn ta, một nhà quý tộc Tây Ban Nha được bọn các chú giải thoát khỏi ngục tù Anh ở Barbados sẽ đi cùng với chú. Nhưng nếu có gì rắc rối xảy ra thì phía chúng ta sẽ bắt đầu trận đánh, như ta đã báo trước với chú, bằng phát đạn bắn ra từ chính khẩu pháo này và cha chú sẽ là nạn nhân đầu tiên của trận đánh.
Chàng ngừng lời. Trong nhóm các bạn của chàng vọng lên những lời đồng tình, còn bọn tù binh Tây Ban Nha thì xao xuyến trông thấy. Espinosa con thở hổn hển chờ xem cha có dặn dò gì không, nhưng don Diego vẫn im lặng. Xem ra trong cuộc thử thách tàn khốc này lòng can đảm đã rời bỏ hắn và hắn để con trai toàn quyền quyết định, bởi vì có lẽ hắn không dám khuyên con bác bỏ yêu cầu của Blood, hoặc đúng hơn, hắn coi là một điều sỉ nhục đối với mình nếu bắt con chấp nhận điều kiện của thuyền trưởng.
- Thôi đủ rồi! - Blood nói. - bây giờ thì chú rõ cả rồi. Chú nói sao?
don Esteban đưa lưỡi liếm đôi môi khô khốc và run run gạt mồ hôi rịn ra trên trán. Cậu ta tuyệt vọng nhìn bố như muốn khẩn cầu bố lên tiếng, nhưng don Diego vẫn tiếp tục im lặng. Cậu con nấc lên, cổ họng bật ra một tiếng gì như nức nở.
- Tôi... đồng ý, cuối cùng cậu ta lên tiếng và quay sang bọn Tây Ban Nha. Và các người... các người cũng đồng ý! - Cậu ta nói, kích động và quả quyết. - Vì don Diego, vì ta, vì tất cả chúng ta. Nếu các người không đồng ý thì chúng sẽ không thương xót gì chúng ta đâu.
Vì don Esteban đã đồng ý, mà chủ tướng không bảo chúng chống lại thì chúng phải tỏ khí tiết anh hùng một cách vô ích làm gì? Không đắn đo, cả bọn đồng thanh đáp rằng sẽ làm tất cả những gì cần thiết.
Blood quay lại, bước tới bên don Diego.
- Rất tiếc tôi buộc phải để ngài trong tư thế bất tiện này một lát... - Tới đó chàng tự ngắt lời mình một chút, nhíu mày chăm chú nhìn tên tù binh và sau một giây nghĩ ngợi rất khó nhận thấy, chàng nói tiếp. - Nhưng tôi nghĩ rằng ngài không còn gì phải lo lắng nữa. Hy vọng rằng điều xấu nhất đã qua rồi.
don Diego vẫn một mực lặng thinh.
Blood một lần nữa chăm chú nhìn tên cựu thuyền trưởng của “Cinco Llagas”, sau đó chàng khẽ nghiêng mình chào hắn và bước ra.
Sau khi trao đổi những tín hiệu chào hỏi, “Cinco Llagas” và “Encarnacion” thả trôi cách nhau chừng một phần tư dặm. Một chiếc xuồng với sáu tay chèo Tây Ban Nha đang vượt quãng biển gợn sóng lăn tăn lấp lánh ánh mặt trời từ “Cinco Llagas” sang “Encarnacion”. Cùng ngồi với don Esteban de Espinosa ở đuôi xuồng là thuyền trưởng Blood.
Dưới lòng xuồng là hai hòm sắt đựng năm chục ngàn pêxô. Thời nào thì thời, vàng luôn luôn là một bằng chứng về lòng chân thành, mà Blood thì nghĩ rằng cần phải gây được ấn tượng có lợi nhất. Thực ra, các bạn chàng đã ra sức chứng minh cho chàng thấy rằng chàng đã quá sốt sắng trong mẹo che giấu, tuy nhiên chàng vẫn giữ ý kiến của mình. Chàng còn đem theo một gói nặng gửi ông lớn Tây Ban Nha đóng đủ thứ dấu má mang huy hiệu dòng họ de Espinosa y Valdez, một “bằng chứng” nữa vừa mới được vội vã làm giả trên “Cinco Llagas”.
Vài phút trước khi đến “Encarnacion”, Blood dặn dò lần cuối cùng người đồng hành trẻ tuổi của mình là don Esteban, mà mãi đến lúc này xem ra vẫn còn nghi ngại chuyện gì, nhưng không dám nói.
Blood chăm chú nhìn cậu ta.
- Nhưng nhỡ ra chính ông tự làm lộ mình thì sao? - cậu ta hỏi.
- Lúc ấy thì mọi việc sẽ kết thúc cực kỳ đáng buồn cho... tất cả. Ta đã yêu cầu cha chú cầu chuyện cho chúng ta thành công, còn với chú thì ta đợi ở chú sự giúp đỡ. - Blood nói.
- Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm. Thề có Chúa, tôi sẽ làm tất! - don Esteban kêu lên với sự bồng bột của tuổi trẻ.
Blood đăm chiêu gật đầu và không ai nói thêm câu nào cho tới khi chiếc xuồng chạm vào vỏ con quái vật khổng lồ biết bơi “Encarnacion” ấy. Don Esteban, có Blood đi kèm, leo thang dây lên tàu. Trên boong giữa đích thân viên đô đốc đang đứng đợi khách. Đó là một người cao lớn, kiêu kỳ, rất giống don Diego nhưng hơi già hơn hắn một chút và tóc ở thái dương đã điểm bạc. Bên cạnh ngài còn có bốn viên sỹ quan và một thầy tu mặc áo thụng đen trắng của dòng Dominique.
Viên đô đốc Tây Ban Nha ghì đứa cháu trai vào lòng, hiểu thầm sự run rẩy, nhợt nhạt và hơi thở đứt đoạn của cậu ta là vì xúc động được gặp bác. Sau đó ngài quay sang chào người đồng hành của don Esteban.
Peter Blood duyên dáng cúi chào, trông bên ngoài thì chàng hoàn toàn tự chủ.
- Tôi là don Pedro Sangre, - Chàng lên tiếng, dịch sát nghĩa tên mình ra tiếng Tây Ban Nha, - một quí tộc bất hạnh ở Leon, được người cha cực kỳ dũng lược của don Esteban đây giải thoát khỏi ngục tù. - Và chàng kể lại tóm tắt những tình tiết tưởng tượng mà chàng bị sa vào tay bọn tà đạo trên đảo Barbados và được don Diego cứu thoát ra sao.
- Benedicticamus Domino, - lão thầy tu lên tiếng sau khi nghe xong câu chuyện ngắn ngủi ấy.
- Ex hoc nunc et usque in seculum,- Blood, một người hễ lúc nào cần đều nhớ mình là tín đồ Công giáo, nhún nhường cụp mắt xuống đáp.
Viên đô đốc và các sĩ quan thông cảm lắng nghe câu chuyện của nhà quí tộc và nhiệt liệt chúc mừng chàng. Nhưng rốt cuộc, câu hỏi chờ đợi từ lâu cũng đã được nói ra:
- Nhưng chú em của tôi đâu nhỉ? Tại sao chú ấy không tự sang chào tôi?
Espinosa con trả lời:
- Cha cháu rất buồn vì không có vinh hạnh và niềm vui này. Rất tiếc, thưa bác, cha cháu hơi khó ở nên không thể ra khỏi buồng... ồ, không, không, không có gì nghiêm trọng đâu ạ! Người bị sốt nhẹ bởi một vết thương xoàng trong trận tập kích vừa rồi lên đảo Barbados, khi caballero đây đã may mắn được giải thoát khỏi tù ngục.
- Này cháu, đủ rồi! - Don Miguel bác đi với một vẻ nghiêm khắc vờ vịt. - Trận tập kích nào kia? Bác không hề hay biết gì chuyện đó cả. Bác có vinh dự đại diện cho Đức vua Công giáo ở đây, mà Đức thánh thượng lại đang hoà hiếu với vua Anh. Như thế cháu cũng đã nói với ta nhiều hơn những điều cần nói rồi đấy... Ta sẽ cố quên đi tất cả chuyện đó và cả các ngài nữa, tôi cũng yêu cầu các ngài như vậy. - ngài quay sang các sĩ quan của mình nói thêm. Vừa nói, ngài vừa nháy mắt với thuyền trưởng Blood đang tủm tỉm cười, rồi tiếp: - Thôi thì biết làm sao được! Nếu chú ấy không sang đây được thì ta phải qua bên đó vậy.
Mặt don Esteban tái mét như xác chết, nụ cười trên môi Blood cũng vụt biến mất, nhưng không hề nao núng, chàng lấy giọng úp mở, vừa tôn kính, vừa thuyết phục lại vừa hài hước một cách chân tình, nói:
- Nếu ngài cho phép, thưa don Miguel, dám xin mạo muộn thưa rằng chính đó là điều ngài không nên làm. Và ở đây là tôi nói theo cách suy xét của don Diego. Ngài không nên gặp ông ấy trong lúc những vết thương của ông ta chưa lành. Đó không những chỉ là ý muốn của don Diego mà còn là nguyên nhân chủ yếu giải thích sự vắng mặt của ông ấy trên tàu “Encarnacion”. Thực tình mà nói, thưa don Miguel, vết thương của em ngài không nghiêm trọng đến nỗi cản trở ông ấy đến đây. Điều khiến don Diego lo lắng nhiều hơn cả không phải là sức khoẻ của ông ấy mà là nguy cơ đặt ngài vào tình thế dễ bị hiểu lầm nếu ngài được đích thân ông ấy kể cho nghe chuyện vừa xảy ra mấy hôm trước. Như ngài đã dạy, thưa quan lớn, giữa Đức hoàng thượng Công giáo và vua Anh đang có tình hoà hiếu, mà don Diego lại là em ngài... - Blood chững lại một chút. - Thiết tưởng tôi không cần phải thêm gì nữa, việc ngài đã nghe về một cuộc tập kích nào đó chẳng qua chỉ là những lời đồn đại, những lời nhảm nhí không hơn không kém. Quan lớn thừa biết thế rồi, có phải không ạ?
Quan lớn đô đốc nhíu mày:
- Phải, tôi hiểu, nhưng không hoàn toàn... - ngài đăm chiêu nói.
Trong một thoáng, Blood cảm thấy không yên tâm. Vai trò của chàng đã làm lão Tây Ban Nha này sinh nghi chăng? Chẳng nhẽ quần áo và lời ăn tiếng nói của caballero Pedro Sangre không giống một người Tây Ban Nha chính cống và chẳng nhẽ đứng bên cạnh chàng không phải don Esteban, người đang sẵn sàng làm chứng cho câu chuyện của chàng sao? Và trước khi viên đô đốc kịp nói, Blood vội vàng đưa thêm bằng chứng bổ sung:
- Còn dưới xuồng kia là hai chiếc rương với năm chục ngàn pêxô mà chúng tôi được uỷ quyền giao lại cho quan lớn.
Quan lớn thậm chí đã hơi nhổm lên vì khoái chí, còn các sĩ quan của ngài thì bỗng rậm rịch hẳn.
- Đó là tiền chuộc tự tay thống đốc Barbados giao cho don Diego…
- Ấy chớ, xin đừng nói nữa! - quan đô đốc kêu lên. - Tôi chưa nghe thấy gì hết... Chú em tôi muốn nhờ tôi đưa giúp số tiền ấy về Tây Ban Nha ư? Được thôi! Nhưng đây là việc riêng trong nhà. Nó chỉ liên quan đến anh em chúng tôi mà thôi. Việc đó dĩ nhiên là làm được. Nhưng tôi không có quyền tò mò... - ngài nín bặt. - Hừm! Trong khi người ta đưa chiếc rương ấy lên tàu, xin mời vào chỗ tôi dùng tạm một cốc malaga, thưa các ngài. - Đoạn quan đô đốc cùng bốn sĩ quan và viên cố đạo được mời riêng nhân dịp ấy về ngăn buồng được bày biện xa hoa như cung điện vua chúa của mình.
Người hầu rót thứ rượu nho màu nâu sẫm vào các cốc rồi đi ra. Don Miguel ngồi xuống bàn, vuốt bộ râu xoăn nhọn hoắt của mình và mỉm cười, nói:
- Lạy Đức mẹ chí thánh! Chú em tôi kỹ tính quá đi mất. Suýt nữa tôi đã bất cẩn mà sang tàu chú ấy mà trông thấy ở đó những thứ mà với cương vị đô đốc Tây Ban Nha, tôi khó mà không nhìn thấy được.
Esteban và Blood lập tức tán thành. Sau đó Blood nâng cốc chúc mừng sự phồn vinh của Tây Ban Nha và mong ma quỉ vật chết thằng James ngu ngốc đang ngồi trên ngai vàng nước Anh. Nửa sau lời chúc của chàng là hoàn toàn thành tâm.
Quan đô đốc phá lên cười:
- Senor! Senor! Tiếc rằng không có chú em tôi ở đây. Thế nào chú ấy cũng can ngăn ngài không nên khinh suất như vậy. Chớ quên đức hoàng thượng và vua Anh là chỗ lân bang hoà hiếu và vì vậy những câu chúc rượu như của ông vừa rồi, chắc ông cũng tự thấy là không đúng chỗ. Nhưng câu đó là của một người có những lý do đặc biệt để căm thù bọn chó Anh ấy nói ra, cho nên tất nhiên chúng ta vẫn có thể cạn chén được, thưa các ngài, nhưng chỉ... không chính thức thôi.
Tất cả cười ồ và cạn chén chúc vua James chóng chết, mà lại càng hăng vì cốc này chỉ là không chính thức. Sau đó, lo lắng cho tính mạng của cha và nhớ rằng họ càng nấn ná lại đây lâu bao nhiêu thì những đau khổ của cha cậu ta càng kéo dài bấy nhiêu, nên don Esteban đứng dậy tuyên bố rằng đã đến lúc họ phải trở về.
- Bố cháu đang vội đi San Domingo, - cậu trai nói. - Người yêu cầu cháu đến đây chỉ để ôm hôn bác, thưa bác kính yêu. Vì vậy xin phép bác cho chúng cháu cáo từ.
Dĩ nhiên quan đô đốc không nghĩ rằng sẽ giữ được họ lại.
Đến bên thang đây, Blood lo ngại nhìn các thuỷ thủ của “Encarnation” đang nhoài người qua mạn trò chuyện với các tay chèo của chiếc xuồng bập bềnh trên sóng bên dưới. Tuy nhiên, thái độ của các tay chèo đều không có gì đáng lo ngại. Bọn sống sót trong thuỷ thủ đoàn của “Cinco Llagas”, rất may cho chính chúng, đã không hé răng.
Quan đô đốc âu yếm chia tay với cháu, còn với Blood thì lại đúng phép xã giao.
- Rất lấy làm tiếc là chúng ta phải chia tay nhau sớm như vậy, don Pedro. Tôi rất muốn ông lưu lại ít lâu nữa trên tàu “Eucarnation”.
- Tôi thì lúc nào cũng không gặp may, - Blood nhã nhặn đáp.
- Nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ sớm gặp nhau, thưa caballero.
- Ngài đã dành cho tôi một vinh dự cao quý, thưa don Miguel, - Blood xã giao đáp, - Nó vượt quá điều tôi đáng được hưởng.
Họ xuống xuồng và vừa rời khỏi con tàu lớn, nơi viên đô đốc đang đứng trên chóp đuôi vẫy tay từ biệt, họ đã nghe thấy tiếng còi chói tai của thủy thủ trưởng ra lệnh cho đội tàu về vị trí. Chưa kịp về đến “Cinco Llagas”, họ đã trông thấy “Encarnation” giương buồm quay trở gió, hạ cờ ra hiệu từ biệt và bắn súng chào.
Trên tàu “Cinco Llagas”, không biết ai (sau này mới biết là Hagthorpe) đã đủ khôn ngoan để đáp lại đúng như thế. Màn hài kịch đã chấm dứt, nhưng đến đoạn kết, đột nhiên nó lại nhuốm màu tăm tối.
Về đến “Cinco Llagas”, Hagthorpe ra đón họ, Blood để ý ngay đến vẻ bần thần gần như hốt hoảng trên bộ mặt anh ta.
- Chắc anh cũng hình dung được tình thế, - Blood khẽ nói.
Hagthorpe nhìn chàng tỏ ý hiểu và lập tức bỏ ngay ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu anh ta: chắc thuyền trưởng Blood không thể biết được việc anh ta đang muốn nói.
- Don Diego... - Hagthorpe mở miệng nhưng rồi lại im bặt và nhìn Blood rất lạ.
Bắt gặp ánh mắt hai người trao đổi với nhau, don Esteban tái mặt và lao bổ vào họ.
- Các người không giữ lời hứa phải không, bọn chó? - Các người đã làm gì cha ta? - Cậu ta kêu lên và sáu tên Tây Ban Nha đứng phía sau cũng hò hét ầm ĩ.
- Chúng tôi không sai lời đâu, - Hahthopơ đáp quả quyết và tiếng gào thét im bặt ngay. - Chẳng việc gì phải làm thế cả. Don Diego đã chết trước khi anh đến được tàu “Encarnaction”.
Blood vẫn tiếp tục im lặng.
- Chết? - Esteban nức nở hỏi. - Mày định nói rằng chúng mày đã giết cha tao? Vì sao cha tao chết?
Hagthorpe nhìn cậu ta.
- Nhưng tôi nhận thấy thì ông ta đã chết vì sợ hãi. - Anh ta nói.
Nghe câu trả lời xúc phạm ấy, don Esteban chồm lên tát Hagthorpe, và anh chàng kia chắc đã đáp lại đúng như vậy nếu Blood không len vào giữa hai người và nếu các cựu nô lệ không giữ cậu trai Tây Ban Nha lại.
- Thôi ngay, - Blood nói. - Chính anh đã nhục mạng bố cậu bé nên nó mới làm như thế chứ.
- Tôi không định nhục mạ ai cả, - Hagthorpe xoa má đáp. - Có thế nào tôi nói thế ấy. Ta đến đó xem vậy.
- Tôi không cần phải xem xét gì cả. - Blood nói. Hắn đã chết trước khi chúng tôi rời “Cinco Llagas”, và lúc tôi nói chuyện với hắn, hắn đã chết từ lâu trong những vòng dây trói rồi.
- Ông nói sao? - Esteban gào lên.
Blood nhìn cậu ta cười buồn bã và nhẹ nhàng nói:
- Chắc chú tiếc rằng không biết sớm chuyện đó đấy nhỉ. Đúng không?
Esteban nghi hoặc trố mắt nhìn chàng
- Tôi không tin ông, - cuối cùng cậu ta lên tiếng.
- Tuỳ chú. Còn tôi là thầy thuốc và tôi không thể nhầm khi nhìn thấy một người chết.
Qua một lúc im lặng nặng nề nữa rồi cậu trai mới chậm chạp hiểu được điều đã xảy ra.
- Nếu tao biết sớm thì mày đã bị treo lên giằng buồm của tàu “Encarnaction” rồi!
- Hẳn thế. Chính vì vậy mà bây giờ tôi mới nghĩ đến cái lợi ích người ta có thể rút ra được từ những điều mình biết, nhưng người khác không biết.
- Nhưng rồi mày sẽ được lủng lẳng trên đó cho mà xem! - Espinosa con tức tối nói.
Thuyền trưởng Blood nhún vai quay đi. Tuy nhiên chàng vẫn nhỡ kỹ câu nói ấy, cũng như Hagthorpe và những người đang đứng trên boong tàu đều nhớ rõ. Điều đấy đã được chứng tỏ trong cuộc họp chiều hôm đó.
Cuộc họp được triệu tập để quyết định số phận của các tù binh Tây Ban Nha. Mọi người đều thấy rõ rằng họ không thể đến được Curacao bởi vì dự trữ nước ngọt và lương ăn đã gần cạn, còn Pitt thì vẫn chưa thể bắt tay vào thực hiện chức trách hoa tiêu của mình được. Bàn bạc mọi nhẽ xong, họ quyết định sẽ đến phía đông đảo Haiti và bám theo bờ bắc của nó họ sẽ tới đảo Tortuga.
Ở đó, trong một hải cảng thuộc công ty Tây Ấn của Pháp, ít ra thì họ sẽ không có nguy cơ bị bắt.
Đến đây nảy ra một vấn để là họ có nên lôi theo bọn tù binh Tây Ban Nha hay quẳng chúng xuống xuồng cho chúng tự tìm vào bờ, cách chừng mười dặm. Chính Blood đã đề nghị như vậy.
- Chúng không còn lối thoát nào khác, - chàng kiên trì giải thích. - Ở Tortuga thế nào chúng cũng bị thiêu sống.
- Cái bọn lợn ỉ ấy phải trị thế cũng chưa đáng! - Wolverstone lẩm bẩm.
- Nhớ đấy, Peter, hãy nhớ hôm nay thằng nhóc đã đe anh như thế nào, - Hagthorpe xen vào. - Nếu nó thoát chết và kể lại cho lão bác đô đốc về chuyện đã xảy ra thì khả năng thực hiện lời đe doạ của nó sẽ quá hiện thực nữa cơ đấy.
- Tôi không sợ những lời đe doạ của nó.
- Cũng chẳng ích gì - Wolverstone nói. - Khôn ngoan hơn cả là cứ treo cổ tất tật chúng lên.
- Nhân nghĩa không chỉ trong những hành vi khôn ngoan, - Blood ngẫm nghĩ thành lời - Nhiều khi thà vì nhân nghĩa mà nhầm, dù cái nhầm lẫn ấy, thậm chí chỉ là ngoại lệ, là do chúng ta thấy không đành lòng. Chúng ta sẽ chấp nhận ngoại lệ ấy. Tôi không đồng tình với kiểu không dưng giết người như thế. Sớm mai các bạn hãy cho bọn Tây Ban Nha một chiếc xuồng, một thùng nước ngọt, một ít bánh ngô, rồi để chúng muốn đi đâu thì đi!
Đó là lời tối hậu của chàng. Những người đã trao quyền lực cho Blood đều đồng ý với quyết định ấy. Mờ sáng hôm sau, don Esteban và những đồng bào của cậu ta đã rời khỏi tàu.
Hai ngày sau “Cinco Llagas” tiến vào vịnh Cayona được bao bọc những vách đá. Cái vịnh do thiên nhiên tạo ra ấy là một thành trì bất khả xâm phạm cho những ai có may mắn được chiếm được nó.
Bây giờ là rất đúng lúc để giải thích rõ, rằng các câu chuyện về các chiến tích của thuyền trưởng Blood đến được với chúng ta hoàn toàn là nhờ sự cần mẫn của Jeremy Pitt, chủ tàu xứ Xômơxetsiơ. Chàng trai này không chỉ là một thuỷ thủ cừ mà còn là một cây bút lanh lợi và được thúc đẩy bởi lòng quyến luyến đối với Peter Blood, anh đã sử dụng cái năng khiếu ấy không hề mệt mỏi.
Nhật ký tàu được Pitt ghi chép khác hẳn bất kỳ cuốn nhật ký nào cùng loại mà tôi đã trông thấy. Nó gồm hai mươi tập lớn nhỏ đủ cỡ. Một phần trong số đó đã bị thất lạc, những quyển khác thì bị thiếu nhiều trang. Tuy nhiên khi lục lọi kỹ các tập ấy trong thư viện của ông James Speke ở Comerton, nếu nhiều lần tôi đã phải phát khùng lên vì những đoạn bị thiếu, thì cũng có lúc tôi sốt ruột thật sự vì tính lắm lời của Pitt đã gây cho tôi những khó khăn kinh khủng trong việc lựa chọn các sự kiện quan trọng nhất, giữa đống tài liệu lộn xộn còn lưu lại được.
Những tập nhật ký đầu tiên gần như dành trọn vẹn để trình bày các sự kiện trước khi Blood xuất hiện ở Tortuga. Những tập nhật ký này cũng như biên bản lưu trữ các vụ tố tụng quốc gia, cho đến bây giờ vẫn là những nguồn chủ yếu mặc dù không phải là duy nhất để tôi sưu tầm tài liệu cho câu chuyện của mình.
Pitt đặc biệt nhấn mạnh cái thực tế là chính những hoàn cảnh mà tôi đã nói đến một cách chi tiết ở trên đã buộc Blood phải tìm chốn nương thân ở Tortuga. Về việc này, anh viết rất dài dòng với một thái độ thiên vị rõ rệt, nhằm làm cho chúng ta biết rằng, lúc bấy giờ vấn đề đó đã có một ý kiến khác.
Anh quả quyết là Blood và các bạn cùng chung hoạn nạn với chàng không hề có ý định trước trong việc liên kết với bọn cướp biển, lúc ấy đã biến Tortuga - nằm dưới sự bảo hộ chính thức của nước Pháp - thành căn cứ của mình, để từ đó tiến hành đánh úp các thuộc địa và chặn đánh tàu Tây Ban Nha.
Theo lời Pitt thì lúc đầu đâu như Blood định đi Pháp hay Hà Lan gì đó. Nhưng trong lúc đợi tàu, chàng đã tiêu gần hết số tiền mình có. Chàng không có nhiều tiền. Mặt khác, Pitt còn cho biết lúc ấy anh đã nhận thấy những dấu hiệu của nỗi day dứt nội tâm hành hạ bạn mình. Pitt đưa ra giả thuyết rằng trong những ngày đó, vì buộc phải vô công rồi nghề nên Blood đã giao thiệp với những kẻ đi tìm kiếm phiêu lưu và đã nhiễm cái máu mê hết sức đặc trưng ấy của miền Tây Ấn.
Tôi nghĩ rằng không thể lên án Pitt là đã bịa ra những lý do để bào chữa cho bạn mình, bởi vì quả thực rất nhiều điều có thể giày vò Peter Blood. Chắc chắn chàng phải rất hay nghĩ tới Arabella Bishop và phát điên lên vì chàng không thể đến với nàng. Chàng yêu Arabella nhưng lại biết rằng chàng đã vĩnh viễn mất nàng. Tất nhiên nguyện vọng đi Pháp hay Hà Lan của chàng là hoàn toàn dễ hiểu, nhưng chắc gì chàng có thể lý giải và hình dung một cách rõ ràng được chàng sẽ làm gì ở đó. Vì nói cho cùng, chàng vẫn là một tên nô lệ chạy trốn, một người bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở đất nước mình, một kẻ bị hắt hủi, không cửa không nhà ở nơi đất khách. Chỉ còn biển cả là giang rộng vòng tay cho tất cả và đặc biệt ân cần với những ai oán hận loài người.
Vậy là tâm hồn và lòng can đảm táo bạo vốn có ở Blood, ngày trước đã từng đẩy chàng đi tìm kiếm những cuộc phiêu lưu đơn giản chỉ vì ham thích, bây giờ đã buộc chàng phải nhân nhượng, còn kho kinh nghiệm phong phú - thậm chí tôi dám nói là tài năng - của chàng trong việc chỉ huy hải chiến chỉ càng làm tăng sức quyến rũ của những đề nghị hợp tác. Đồng thời cần phải nhớ rằng những đề nghị hấp dẫn ấy không phải chỉ của những tên cướp biển quen biết chàng vẫn thường tụ tập đầy các quán rượu ở Tortuga, mà thậm chí còn là của thống đốc d’Ogeron nữa. Ông này thu của bọn hải tặc dưới hình thức thu thuế cảng một phần mười số của cải mà chúng cướp được, ngoài ra ông ta còn kiếm thêm kha khá hoa hồng trong việc trao đổi tiền mặt lấy các hối phiếu có thể thanh toán ở Pháp.
Cái nghề này xem ra rất đáng ghê tởm nếu biện hộ cho nó chỉ là những gã giang hồ nhếch nhác lúc nào cũng sặc hơi men, những thợ săn, thợ rừng và dân miền duyên hải chuyên nhặt nhạnh tất cả những gì mà biển cả ném lên; nhưng lập tức cái nghề ấy trở nên đứng đắn, gần như một dạng hợp pháp của nghề kaper khi được một ngài ăn mặc sang trọng, đại diện cho công ty Tây Ấn của Pháp đứng ra chứng minh cho sự cần thiết của nó với bộ dạng quang trọng hệt như ông ta là đại diện của chính nước Pháp vậy.
Tất cả những người đã cùng Blood trốn khỏi đồn điền ở Barbados, kể cả Jeremy Pitt, người mà bên tai luôn văng vẳng tiếng gọi da diết của biển cả - tất cả bọn họ đều cảm thấy mình là những người vĩnh viễn bị xua đuổi và đều muốn nhập bọn với “hải hồ huynh đệ” hùng hậu, như bọn cướp biển tự xưng. Họ tha thiết yêu cầu Blood làm thủ lĩnh và thề sẽ theo chàng đến cuối đất cùng trời.
Những ghi chép của Jeremiah về chuyện này cho thấy: chiều theo tâm trạng của mình và tâm trạng của những người bạn cùng cảnh ngộ, Blood đã để mặc cho mình cuốn theo dòng số mệnh, bảo rằng đã là số mệnh thì thoát làm sao được.
Tôi cho rằng nguyên nhân chính trong những do dự và giằng co dai dẳng ấy của chàng là ý nghĩ về Arabella Bishop. Cả lúc ấy lẫn sau này chàng đều nghĩ không bao giờ hai người còn gặp lại nhau nữa. Chàng hình dung thấy nàng sẽ khinh chàng đến mức nào khi được biết rằng chàng đã trở thành cướp biển, và sự khinh bỉ ấy, tuy chỉ mới tồn tại trong tưởng tượng của chàng, đã làm chàng đau đớn như thể nó đã thành hiện thực vậy.
Ý nghĩ về Arabella Bishop không bao giờ rời bỏ chàng. Sau khi ngã giá với lương tâm mình - mà những hồi ức về cô gái ấy đã làm lương tâm chàng trở nên nhạy cảm đến nhức nhối - chàng thề với mình là sẽ cố kìm giữ bàn tay nhúng chàm ở mức mà một người theo đuổi nghiệp giang hồ như chàng có thể giữ được. Tuy rõ ràng chàng cũng chẳng nuôi một hy vọng hão huyền nào về chuyện sẽ được người con gái ấy đáp lại tình cảm của mình, hay thậm chí chỉ được trông thấy nàng một lần nữa, nhưng ký ức cay đắng về nàng phải được mãi mãi giữ trọn trong tâm hồn chàng.
Quyết định xong, chàng mê mải lao vào chuẩn bị cho cuộc đời cướp biển. D’Ogeron, có lẽ là người cả nể nhất trong các thống đốc, đã cho chàng vay một số tiền đáng kể để chàng trang bị “Cinco Llagas”, con tàu lúc này đã được đổi tên thành “Arabella”. Blood đã suy nghĩ rất lâu trước khi đặt cho con tàu cái tên mới, ngại rằng vì thế mà chàng để lộ những tình cảm thực của mình. Tuy nhiên, các bạn chàng chỉ thấy cái tên mới là biểu hiện tính khôi hài của thủ lĩnh họ.
Vốn biết người biết của, Blood đã lấy thêm vào số cộng sự của chàng sáu mươi người được lựa chọn kỹ trong đám giang hồ thường quanh quẩn ở Tortuga. Theo đúng những luật lệ bất thành văn của “hải hồ huynh đệ” chàng ký giao kèo với những người đó sẽ được nhận một phần nhất định trong những của cải cướp được. Nhưng về tất cả những điều khoản còn lại thì giao kèo đó khác hẳn những thoả thuận kiểu này. Tất cả những biểu hiện hung hăng vô kỷ luật thường thấy trên các tàu cướp biển thì ở “Arabella” bị cấm ngặt. Những người cùng đi biển với Blood có bổn phận tuyệt đối phục tùng chàng và các sĩ quan khác do họ tự chọn, còn những ai không chấp nhận những điều khoản ấy thì cứ việc đi tìm thủ lĩnh nơi khác.
Trước ngày Năm mới, khi mùa bão đã hết, Blood ra khơi trên con tàu được trang bị tốt và biên chế đầy đủ. Nhưng ngay từ trước khi chàng quay về, vào tháng năm, sau một chuyến đi dài đầy sự kiện, tiếng tăm của chàng đã lan khắp vùng biển Caribbean như sóng cồn.
Ngay từ đầu cuộc hành trình, tại eo Đầu Gió đã xảy ra trận đụng độ với một chiếc galion Tây Ban Nha, kết thúc bằng việc chiếc tàu Tây Ban Nha bị đánh chìm. Sau đó, bằng vài chiếc thuyền thoi, một cuộc đánh úp táo bạo vào hải đội Tây Ban Nha đang mò ngọc trai bên bờ Rio de la Hacha đã được thực hiện và toàn bộ số ngọc trai mà hải đội ấy kiếm được đã bị đoạt trọn. Rồi đến cuộc đổ bộ lên khu đãi vàng Santa Maria ở Main mà những chi tiết về nó thậm chí khó ai tin nổi; và còn vài vụ khác ít tiếng tăm hơn. Trong mọi cuộc đụng độ, thuỷ thủ tàu “Arabella” luôn luôn là người chiến thắng, chiếm được một lượng của cải khổng lồ và chỉ tổn thất rất ít về người.
Vậy là trước khi trở về Tortuga vào tháng năm năm sau, tiếng tăm của “Arabella” và của thuyền trưởng Peter Blood đã lừng lẫy suốt từ quần đảo Bahamas đến quần đảo Đầu Gió và từ New Providence đến tận Trinidad.
Tiếng tăm ấy đã vọng sang tận Châu Âu. Sứ thần Tây Ban Nha tại triều đình St. James, như cách gọi triều đình vua Anh lúc bấy giờ, đã trình một bức công hàm gay gắt và đã nhận được trả lời chính thức rằng thuyền trưởng Blood không những không phụng sự Đức vua Anh quốc, mà còn là một tên phiến loạn đã bị kết án, một tên nô lệ đào tẩu, vì thế, mọi hành động của Đức bệ hạ Công giáo nhằm chống lại tên tội phạm hạ tiện ấy đều được Đức vua Anh quốc là James II nhiệt liệt đồng tình.
camisole Miguel - đô đốc Tây Ban Nha ở Tây Ấn - và cháu ông ta là camisole Esteban nóng lòng tóm được tên phiêu lưu ấy để treo lên giằng buồm tàu của mình. Vấn đề vây bắt Blood lúc này đã mang tính chất quốc tế, nhưng đối với bác cháu hắn còn là việc riêng tư gia đình nữa.
camisole Miguel không tiếc lời doạ dẫm Blood. Dư âm của những lời đồn đại ấy đã bay đến Tortuga cùng với tuyên bố của đô đốc Tây Ban Nha rằng trong cuộc chiến đấu với Blood, hắn không chỉ dựa vào sức mạnh của đất nước mình, mà còn vào uy danh của nhà vua Anh quốc nữa.
Những lời huênh hoang của viên đô đốc không làm thuyền trưởng Blood sợ hãi. Chàng không cho phép mình và thuỷ thủ đoàn ăn không ngồi rồi ở Tortuga. Chàng quyết định lấy Tây Ban Nha làm kẻ hứng sấm sét vì tất cả những đau khổ của mình. Làm như vậy nhằm một lúc đạt được hai mục đích: thoả mãn khát vọng báo thù đang sôi sục trong chàng và giúp ích cho nước Anh – chứ không phải cho tên vua Anh James II mà chàng căm hận – và còn giúp toàn bộ phần còn lại của nhân loại văn minh mà nước Tây Ban Nha tham lam và cuồng tín đang cố sức ngăn không cho vươn tới Tân Thế giới.
Một hôm, khi Blood đang ngồi hút tẩu với Hagthorpe và Wolverstone bên chai rượu rum trong cái quán rượu sực mùi hắc ín và thuốc lá bên bờ biển, thì một người lạ mặt bước lại. Hắn mặc áo camisole xa tanh màu lục thêu kim tuyến, thắt một chiếc thắt lưng to bản màu huyết dụ.
- Có phải ông là người mà người ta gọi là Le Sang đó chăng? - Hắn hỏi Blood.
Trước khi trả lời, thuyền trưởng Blood liếc nhìn tay anh chị nóng nảy ấy. Về việc đó là một tay anh chị thì không còn nghi ngờ gì nữa - chỉ cần nhìn qua những cử động nhanh mạnh của thân hình dẻo dai và khuôn mặt đẹp trai một cách thô bạo với chiếc mũi khoằm là đủ. Bàn tay không lấy gì làm sạch của hắn đặt trên đốc thanh kiếm dài, trên ngón tay đeo nhẫn lóng lánh một viên kiêm cương lớn, còn đôi khuyên vàng thì lấp ló sau những lọn tóc màu hạt dẻ bóng mượt.
Thuyền trưởng nhả tẩu ra và đáp:
- Tên tôi là Blood, bọn Tây Ban Nha biết tôi dưới cái tên Pedro Sangre, còn người Pháp nếu muốn thì có thể gọi là Le Sang cũng được.
- Tốt lắm - tay anh chị nói bằng tiếng Anh, rồi không đợi mời, hắn kéo ghế lại gần cái bàn. - Tôi tên là Levasseur, - hắn tự giới thiệu với ba người Anh mà ít nhất là có hai trong số đó nhìn hắn với vẻ ngờ vực. - Chắc các ông đã được nghe nói về tôi.
Phải, tất nhiên họ biết rõ cái tên ấy, Levasseur chỉ huy một chiếc tàu kaper hai mươi pháo vừa bỏ neo trong vịnh Tortuga cách đó một tuần. Thuỷ thủ đoàn gồm toàn những thợ săn người Pháp trước đã từng sống ở miền bắc Haiti và căm ghét bọn Tây Ban Nha còn hơn cả người Anh. Levasseur trở về Tortuga sau một chuyến đi chẳng mấy thành công; tuy vậy, cần phải có cái gì đấy lớn hơn mới kìm nổi lòng tự phụ quái đản của tên phiêu lưu ấy, chứ mới chỉ chưa thành công thôi thì chưa đủ. Lắm mồm như một mụ hàng tôm hàng cá, nát rượu và máu mê đen đỏ, hắn rất nổi danh trong giới anh chị hải hồ. Hắn còn nổi tiếng về một mặt hoàn toàn khác. Tính truỵ lạc buông thả và mẽ ngoài kẻng trai của hắn đã hấp dẫn được nhiều phụ nữ thuộc đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Hắn khoe khoang không chút giấu giếm những “chiến tích” của mình đối với “cái nửa kia của nhân loại”, như cách Levasseur gọi những người đàn bà, và công bằng mà nói, hắn có đầy đủ cơ sở để huênh hoang như vậy.
Những lời đồn đại dai dẳng còn cho biết rằng cả con gái thống đốc, tiểu thư d’Ogeron, cũng vướng lưới tình của hắn, và Levasseur đã dám cả gan ngỏ lời cầu hôn với bố cô ta. Cách duy nhất mà quan thống đốc đáp lại đề nghị đầy cám dỗ được làm bố vợ một tên cướp phóng đãng là trỏ tay ra cửa, mà ông ta đã làm thế thật.
Levasseur giận dữ bỏ đi, thề rằng hắn sẽ lấy bằng được con gái thống đốc, bất chấp mọi sự chống đối của tất cả các ông bố bà mẹ trên đời, và d’Ogeron rồi sẽ phải hối hận vì đã xúc phạm đến chàng rể tương lai.
Chính là con người đang ngồi cùng bàn trong một quán rượu ở bến tàu và đề nghị thuyền trưởng Blood liên minh với hắn để đánh lại bọn Tây Ban Nha.
Khoảng mười hai năm trước, lúc mới chừng hai mươi tuổi, Levasseur đã cùng đi biển với một hung thần - tên cướp biển L'Ollonais và những “chiến tích” sau đó đã chứng tỏ rằng hắn không phụ công rèn cặp của sư phụ. Trong “huynh đệ hải hồ” thời ấy, khó có ai đểu cáng hơn Levasseur. Tuy ghê tởm tên phiêu lưu này, nhưng dù sao thuyền trưởng Blood vẫn không thể phủ nhận rằng những đề nghị của hắn là táo bạo và thông minh và nếu hợp sức lại, họ có thể tiến hành những chiến dịch đáng kể hơn so với những cái họ làm riêng lẻ. Một trong những chiến dịch do Levasseur đề nghị là kế hoạch tấn công thành Maracaybo giàu có nằm xa bờ biển. Để tiến hành trận đánh úp ấy, cần phải có ít nhất là sáu trăm người, mà hai chiếc tàu của họ thì không thể chở hết ngần ấy. Blood hiểu rằng nếu không làm vài chuyến chuẩn bị nhằm cướp thêm mấy chiếc tàu nữa thì không xong.
Mặc dù không ưa Levasseur và không muốn ôm ngay những ràng buộc gì đó, nhưng Blood nhận thấy đề nghị của tên phiêu lưu ấy khá hấp dẫn. Chàng nhận lời sẽ suy nghĩ và trả lời sau, Hagthorpe và Wolverstone không tán thành mối ác cảm cá nhân đối với tên người Pháp của Blood nên đã gây sức ép rất mạnh với thuyền trưởng của mình. Rốt cuộc, Levasseur và Blood đã ký kết một giao kèo mà, theo thông lệ, còn có các đại biểu chọn lọc của hai thuỷ thủ đoàn cùng tham gia ký.
Bản giao kèo, ngoài tất cả những điều khoản khác, còn nói rõ rằng mọi thứ chiến lợi phẩm do mỗi tàu chiếm được, bất luận họ làm chung hay riêng, đều phải được tính toán sát sao; tàu đó sẽ giữ lại ba phần năm những của cải cướp được, hai phần còn lại thì phải chia cho tàu kia. Việc chia bôi phải làm thật sòng phẳng giữa các tàu theo đúng bản giao kèo đã ký kết. Còn lại thì mọi điều khoản của bản giao kèo ấy không khác gì các giao kèo bình thường, kể cả điều khoản nói rằng bất kỳ thành viên nào trong hai đội tàu nếu đã xác minh được là phạm tội ăn cắp hay ăn bớt một phần nào trong số tài sản chiếm được, dù giá trị của thứ bớt xén ấy không đáng một pêxô đi nữa, cũng đều bị treo cổ lên giằng buồm ngay lập tức.
Làm xong những công việc sơ bộ ấy, bọn cướp biển chuẩn bị ra khơi. Nhưng ngay trước ngày xuất phát, Levasseur suýt nữa thì bị lính canh bắn chết khi hắn leo qua bức tường cao vào vườn nhà thống đốc để mùi mẫn chia tay với tiểu thư d’Ogeron, tình nương của hắn. Thậm chí hắn còn chưa kịp gặp cô nàng, bởi vì theo lệnh của ông bố kỹ tính, các lính canh nấp ở những khóm hoa rậm rạp thơm tho trong vườn đã bắn vào hắn hai lần. Levasseur phải bỏ cuộc, thề rằng lúc trở về, nhất định hắn phải làm cho ra nhẽ.
Đêm hôm ấy Levasseur ngủ trên con tàu mà hắn đặt cho cái tên huênh hoang rất hợp với thói bốc đồng của hắn là “La Foudre”, có nghĩa là “Tia sét”. Ngay hôm sau Levasseur gặp Blood ở đó và nửa đùa nửa thật chào chàng là đô đốc. Thuyền trưởng “Arabella” muốn xác minh lại một vài chi tiết về đội hình đi biển, mà trong đó chúng ta chỉ cần quan tâm đến thoả thuận của hai người về việc nếu đang hành trình, do tình cờ hay vì bắt buộc, hai tàu phải tách ra thì họ phải về lại Tortuga để hội quân.
Sau cuộc hội ý ngắn ngủi, Levasseur mời đô đốc của mình dùng cơm và hai người đã nâng cốc chúc cho cuộc viễn chinh thành công. Levasseur hăng quá, đến nỗi hắn say mềm không còn biết trời đất gì nữa.
Đến xế chiều thì Peter Blood trở về tàu của mình. Mạn trên và các lỗ châu mai thếp vàng lấp lánh nắng hoàng hôn.
Chàng cảm thấy bứt rứt. Tôi đã nói ở trên rằng chàng khá hiểu người, cái cảm giác khó chịu mà Levasseur gây ra cho chàng thì càng đến gần lúc ra khơi càng làm chàng lo ngại. Gặp Wolverstone trên tàu “Arabella”, chàng nói điều đó với lão:
- Quỉ tha ma bắt các anh đi, đồ du đãng! Các anh đã ép tôi ký bản giao kèo đó. Việc chúng ta hợp tác với bọn ấy khó mà đem lại gì hay ho.
Nhưng lão hộ pháp kia đã lại nheo con mắt độc nhất vằn máu, mỉm cười rồi vêch chiếc cằm đồ sộ lên nói:
- Chúng ta sẽ vặn cổ con chó ghẻ ấy nếu nó định làm phản.
Phải, tất nhiên nếu lúc ấy chúng ta còn có thể làm được việc đó, - Blood nói và trước khi về buồng, chàng thêm: - Sáng mai, trước lúc con nước lên, chúng ta sẽ ra khơi.
Sáng hôm sau, một giờ trước khi lên đường, một con thuyền nhỏ của người bản xứ - một chiếc thuyền thoi - ghé mạn “La Foudre”. Trong thuyền là một người lai mặc chiếc quần ngắn cũn cỡn làm bằng da sống và một tấm chăn đỏ khoác lên vai thay cho áo. Nhanh nhẹn như mèo, anh ta thoăn thoắt theo thang dây leo lên tàu và trao cho Levasseur một mẩu giấy bẩn thỉu gấp nhỏ.
Gã thuyền trưởng giở tờ giấy nhàu nát và đọc những dòng chữ xiêu vẹo nhảy nhót của cô con gái quan thống đốc viết cho hắn:
Hỡi tình lang của thiếp! Thiếp đang ngồi trên chiếc Brig “Jongvrouw” của Hà Lan. Nó đang sắp sửa ra khơi. Người cha độc đoán của thiếp quyết định chia loan rẽ thuý đôi ta vĩnh viễn và đưa thiếp về Châu Âu, có em trai thiếp đi kèm. Van chàng hãy mau mau đến cứu! Hãy giải thoát cho thiếp, hỡi người anh hùng của thiếp!
Kẻ bị chàng bỏ rơi, nhưng vẫn một lòng yêu dấu chàng.
Madeleine
Lời khẩn cầu tha thiết ấy đã rung động đến tận đáy lòng “người anh hùng” được “một lòng yêu dấu”. Hắn nhíu mày nhìn ra vịnh tìm chiếc brig Hà Lan chở thuốc lá và da thú đi Amsterdam.
Trong vịnh cảng bé nhỏ được bao bọc bởi các vách đá ấy chẳng thấy bóng dáng chiếc brig đâu cả. Thế là Levasseur phát khùng túm lấy anh chàng người lai hỏi xem con tàu đã biến đi đằng nào. Thay cho lời đáp, gã lai run rẩy chỉ tay ra mặt biển đang dồn sóng, thấp thoáng ngoài dải đá ngầm - những thành luỹ thiên nhiên bảo vệ lấy cảng.
- Nó kia kìa. - gã ú ớ nói.
- Kia à? - Bộ mặt tên người Pháp tái nhợt đi. Mất mấy phút hắn nhìn chòng chọc ra biển, sau đó, không thèm kìm giữ tính nóng nảy thô lỗ của mình nữa hắn rống lên: - Thế mày đi đây bây giờ mới vác mặt đến, hả thằng khốn? Tại sao bây giờ mới thấy mặt mày? Mày đã cho ai xem lá thư này? Nói ngay!
Hốt hoảng vì cơn giận vô lý của hắn, anh chàng người lai co rúm lại. Anh chàng không thể giải thích được gì, mà thậm chí dù có lý do đi nữa thì anh ta cũng không mở mồm nổi vì khiếp sợ.
Levasseur điên cuồng nghiến răng nắm cổ áo anh chàng người lai lắc thật mạnh mấy cái rồi lấy hết sức bình sinh xô bắn anh ta vào mạn tàu. Anh chàng người lai đập đầu vào cầu ngang sóng soài rồi nằm yên bất động. Mồm anh ta hơi há và một dòng máu đỏ trào ra.
- Ném cái đồ rác rưởi này xuống nước! - Levasseur sai bọn thủ hạ đang tụ tập trên boong giữa. - Xong rồi nhổ neo. Ta sẽ đuổi theo cái tàu Hà Lan kia.
- Bình tĩnh đã nào, thuyền trưởng. Có việc gì vậy?
Levasseur nhìn thấy trước mặt mình bộ mặt bè bè của thuyền phó Cahusac, một gã người Breton thấp đậm, chân vòng kiềng, đang bình thản đặt tay lên vai hắn.
Vừa chửi rủa bằng những lời tục tĩu, Levasseur vừa kể lại câu chuyện và cho biết hắn định làm gì.
Cahusac lắc đầu:
- Chiếc brig Hà Lan ấy à? Không, không xong đâu! Không ai cho phép chúng ta làm thế cả.
- Thằng quái nào dám cản tao nào? - Levasseur điên tiết lồng lên, không hiểu vì giận dữ hay vì ngạc nhiên.
- Trước hết là thuỷ thủ của anh. Với lại còn cả thuyền trưởng Blood nữa kia.
- Tao không sợ thuyền trưởng Blood...
- Nhưng nên sợ ông ta mới phải, ông ta có ưu thế về lực lượng, cả hoả lực lẫn sinh lực, và tôi nghĩ rằng ông ta thà đánh chìm chúng ta còn hơn là cho phép chúng ta ra tay với người Hà Lan. Tôi đã chẳng nói với anh rằng tay thuyền trưởng này có những quan điểm của mình về chuyện kaper đó sao?
Không rời mắt khỏi cánh buồm phía xa, hắn thần mặt nghĩ ngợi, nhưng chỉ trong một thoáng. Sự nhạy bén và óc sáng kiến mà Blood từng nhận thấy ở hắn bây giờ đã giúp hắn tìm ra ngay lối thoát. Trong thâm tâm hắn tự nguyền rủa mình là đã cộng tác với Blood và thầm tính xem phải bịp ông bạn làm ăn bằng cách nào. Cahusac nói đúng, không đời nào Blood cho phép tấn công chiếc tàu Hà Lan. Nhưng khuất mặt Blood thì vẫn có thể ra tay được. Còn lúc việc đã rồi thì anh ta đồng ý với Levasseur thôi vì có nói gì cũng đã muộn.
Chưa đầy một giờ sau “Arabella” và “La Foudre” cùng nhổ neo ra khơi. Blood ngạc nhiên nhận thấy Levasseur đưa tàu đi hơi chệch hướng, nhưng chỉ một lát sau “La Foudre” lại trở về đúng hướng đi đã thoả thuận trước và đồng thời cũng là hướng đi của con tàu mang những cánh buồm trắng thấp thoáng phía chân trời.
Suốt ngày hôm ấy, chiếc brig Hà Lan luôn nằm trong tầm mắt, mặc dù đến chiều thì nó chỉ còn là một chấm nhỏ ở phía bắc khoảng trời nước mênh mông. Hướng đi mà Blood và Levasseur đã chọn chạy về phía đông, dọc theo bờ bắc đảo Haiti. “Arabella” giữ đúng hướng đi ấy suốt đêm nhưng đến rạng ngày hôm sau thì chỉ còn lại một mình. Lợi dụng bóng đêm, “La Foudre” đã giương hết buồm quay mũi sang hướng đông Bắc.
Một lần nữa Cahusac cố cưỡng lại thói ngang ngược tự tiện của Levasseur.
- Quỉ bắt anh đi, - tên thuyền trưởng ngạo mạn đáp. - Tàu nào cũng là tàu, bất kể của Hà Lan hay của Tây Ban Nha. Việc của chúng ta là bắt tàu và chỉ cần giải thích cho bọn thuỷ thủ như thế là đủ.
Gã thuyền phó của hắn không nói gì thêm. Nhưng đã biết nội dung bức thư do anh chàng người lai đưa đến và hiểu rằng đối tượng ham muốn Levasseur không phải là chiếc tàu Hà Lan mà là cô gái, Cahusac cau có lắc đầu. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, và, lắc lư trên cặp chân vòng kiềng, gã thuyền phó bỏ đi để ra các chỉ thị cho bọn thủ hạ.
Đến rạng sáng thì “La Foudre” chỉ còn cách “Jongvrouwv” một dặm. Em trai tiểu thư d’Ogeron nhận ra con tàu của Levasseur. Lòng thấp thỏm, anh ta báo với viên thuyền trưởng Hà Lan những lo ngại của mình. “Jongvrouwv” giương buồm cố bỏ “La Foudre” lại sau. Hơi đánh lái sang phải, Levasseur đuổi theo chiếc tàu Hà Lan cho tới khi có thể nổ súng cảnh cáo cắt ngang hướng đi của “Jongvrouwv”. Chiếc tàu Hà Lan quay đuôi lại bắn trả, những hòn đạn nhỏ xé gió bay lướt qua bên trên con tàu của Levasseur, gây một vài hư hỏng không đáng kể cho những cánh buồm. Còn trong lúc hai tàu tiếp cận “Jongvrouwv” chỉ bắn được một loạt pháo mạn vào đối thủ.
Năm phút sau các móc câu áp mạn đã bấu chắc vào “Jongvrouwv” và bọn cướp biển bắt đầu la hét nhảy vào từ mạn boong “La Foudre” sang boong giữa chiếc tàu Hà Lan.
Thuyền trưởng “Jongvrouwv” bừng bừng giận dữ bước lại trước mặt tên cướp. Cùng với ông ta là một chàng trai quý phái mà Levasseur nhận ra ngay đó là cậu em vợ tương lai của mình.
- Thuyền trưởng Levasseur! - viên thuyền trưởng Hà Lan thốt lên. Đây là một sự ngang ngược chưa từng có! Anh cần gì ở tàu tôi?
- Tôi chỉ cần lấy lại thứ mà người ta đã cướp đi của tôi. Nhưng vì các ông đã đánh trước, gây hư hại cho “La Foudre” và làm chết năm người trong thuỷ thủ đoàn của tôi nên tàu của ông sẽ là chiến lợi phẩm của tôi.
Đứng ở lan can trên buồng đuôi, tiểu thư d’Ogeron nín thở chiêm ngưỡng người tình của mình. Oai hùng và táo tợn, với nàng lúc ấy hắn là hiện thân của hào khí. Trông thấy nàng, Levasseur mừng rỡ kêu lên và lao bổ về phía nàng. Viên thuyền trưởng Hà Lan bước ra chặn đường và giang tay ngăn tên cướp biển.
Nóng lòng được ôm ấp tình nương, Levasseur vung gươm và viên thuyền trưởng Hà Lan gục xuống với cái sọ bị bửa toác. Gã tình lang nóng ruột bước qua cái xác và vội chạy lên buồng lái. Tiểu thư d’Ogeron khiếp đảm lùi lại. Đó là một cô gái cao dong dỏng, mảnh dẻ, hứa hẹn sẽ thành một giai nhân tuyệt sắc. Mái tóc đen bồng bềnh khuôn lấy gương mặt kiêu kỳ trắng như ngà. Vẻ kiêu kỳ càng rõ nét thêm bởi hàng mi che rợp đôi mắt đen to
Levasseur lao lên thang rồi vội quẳng vội lưỡi gươm sang bên, giang vội vòng tay chực ghì chặt tình nương vào ngực. Nhưng khi đã rơi vào vòng tay mà từ bây giờ khó lòng thoát ra, tiểu thư d’Ogeron rúm người lại, khuôn mặt méo xệch đi vì sợ hãi, vẻ kiêu kỳ thường ngày biến mất.
- Ồ, cuối cùng thì nàng đã thuộc về ta! Thuộc về ta, bất chấp mọi thứ trên đời! - người hùng của tiểu thư thốt lên bằng giọng rất hoa mỹ.
Nhưng cô gái đã tì tay vào ngực hắn, cố hết sức đẩy hắn ra và yếu ớt lẩm bẩm.
- Sao lại giết ông ấy? Để làm gì vậy?
Gã người hùng của nàng phá lên cười sằng sặc và như một thiên thần chiếu cố cho kẻ trần tục, hắn cất giọng hùng hồn:
- Hắn đã dám cản đường ta! Hãy để cái chết của hắn trở thành biểu tượng và lời cảnh cáo cho tất cả những kẻ nào dám len vào giữa đôi ta!
Cử chỉ hào hùng đó đã làm tiểu thư d’Ogeron mê mẩn đến nỗi nàng tạm quên sợ hãi, thôi không chống cự nữa mà khuất phục người tình của mình. Nhấc bổng cô gái lên vai, hắn vác món chiến lợi phẩm quý giá của mình về tàu “La Foudre” trong tiếng reo hò đắc thắng của bọn tay chân. Cậu em trai dũng cảm của cô có lẽ đã cản trở màn kịch lãng mạn ấy lại rồi nếu như Cahusac không cẩn thận quật ngã và trói gô chàng trai ấy lại.
Rồi sau đó, khi thuyền trưởng Levasseur thưởng thức những nụ cười tình tứ của giai nhân trong buồng mình thì gã thuyền phó bận bịu kiểm kê một cách tỉ mỉ các thành quả của chiến thắng. Các thuỷ thủ Hà Lan bị đẩy xuống một chiếc thuyền lớn và được phép muốn đi đâu thì đi. Rất may là thủ thuỷ đoàn của tàu Hà Lan có không quá ba chục người nên, mặc dù hơi khẳm, chiếc xuồng vẫn chở hết bọn họ. Sau khi đã xem xét hàng hoá xong, Cahusac để lại viên đội của mình cùng với hai chục người nữa trên tàu “Jongvrouwv” và ra lệnh cho họ đi theo “La Foudre” về hướng Nam đến quần đảo Cuối Gió.
Caudac thấy bực mình. Giá trị món hàng thu được không xứng tí nào với sự liều lĩnh mà chúng đã dấn thân vào để cướp chiếc tàu Hà Lan và dùng vũ lực với thân nhân của thống đốc Tortuga. Không thèm giấu giếm bực tức, gã nói thẳng chuyện ấy cho thuyền trưởng.
- Anh nghĩ thế nào mặc xác anh, đừng nói ra đây với tôi! - tên thuyền trưởng đáp. - Chẳng nhẽ anh cho tôi là thằng ngốc dám đút đầu vào thòng lọng mà không biết trước cách gỡ hay sao? Tôi sẽ đưa những điều kiện mà thống đốc Tortuga không nhận không xong. Anh hãy đưa tàu đến đảo Virgen Magra. Chúng ta sẽ ghé và lên bờ thu xếp cho xong mọi việc. À mà anh bảo dành cho thằng chó con Ogeron ấy một buồng.
Rồi Levasseur quay vào với tình nương.
Lát sau người em trai của nàng cũng bị đưa đến đó. Tên thuyền trưởng nhổm dậy đón, đầu phải cúi xuống để khỏi bị cộc vào trần. Tiểu thư d’Ogeron cũng đứng lên.
- Sao lại thế này? - nàng hỏi và chỉ vào đôi tay bị trói chặt của em.
- Ta rất lấy làm tiếc vì sự cần thiết bắt buộc ấy, - Levasseur nói. - Chính ta đang muốn chấm dứt ngay việc này. Nếu ngài d’Ogeron chịu hứa...
- Tôi không hứa hẹn gì hết! - Chàng trai tái nhợt vì phẫn nộ quát lên, anh ta là người cũng không phải bé gan.
- Đấy, nàng đã thấy chưa? - Levasseur nhún vai như muốn cho thấy là hắn cũng lấy làm tiếc.
- Henry, sao em lại thế! - Em xử sự như không còn là bạn của chị nữa. Em...
- Bà chị bé bỏng ngốc nghếch của tôi - ... chàng trai đáp, mặc dù bảo là bé bỏng thì không đúng chút nào bởi vì cô ta lớn hơn cậu em nhiều. - Bà chị bé bỏng ngốc nghếch ơi, lẽ nào em còn coi mình là bạn của chị nếu em hạ mình nói chuyện với tên cướp biển này?
- Bình tĩnh đã nào, chú trống choai! - Levasseur bật cười, nhưng cái cười của hắn không hứa hẹn điều gì tốt lành.
- Chị nghĩ lại đi,- Henry nói.- chị hãy nhìn xem sự dại dột của chị đã đưa chị đến đâu! Mấy mạng người chết oan vì thằng quái vật này rồi. Chị đã không chịu cân nhắc cẩn thận trong hành động của mình. Chẳng nhẽ chị có thể tin rằng cái giống chó má đẻ rơi dưới mương rãnh và lớn lên giữa bọn trộm cướp giết người ấy...
Cậu ta còn nói thêm nhiều điều nữa nếu không bị Levasseur đấm mạnh vào mặt. Giống như nhiều kẻ khác, hắn ít muốn biết sự thật về con người mình.
Tiểu thư d’Ogeron cố nén tiếng kêu thất thanh đang chực bật ra khỏi cổ. Cậu em nàng lảo đảo ngã nhào vào mạn tàu, môi rách toạc. Không một chút nao núng cậu ta tìm kiếm ánh mắt của cô chị và trên khuôn mặt nhợt nhạt của chàng trai hiện rõ một nụ cười giễu cợt.
- Chị hãy nhìn kỹ đi, - d’Ogeron bình thản nói. - Mời chị chiêm ngưỡng sự cao thượng của hắn đi. Hắn đánh cả người đang bị trói đấy.
Những lời nói giản dị bằng một giọng cực kỳ khinh bỉ đã thổi bùng cơn giận nãy giờ vẫn âm ỉ trong tên người Pháp nóng nảy và không biết kiềm chế
ấy.
- Thế mày sẽ làm gì nếu tao cởi trói cho mày, đồ chó ranh? - Rồi nắm cổ áo camisole của người tù trẻ tuổi, hắn lắc lấy lắc để. - Nói xem! Mày sẽ làm gì hả đồ khoác loác, đồ chó chết... và hắn tuôn ra một lô từ ngữ chối tai, mà tuy không biết là gì nhưng tiểu thư d’Ogeron vẫn hiểu được ý nghĩa bẩn thỉu và thô tục của chúng.
Mặt nàng tái nhợt như mặt người chết và nàng kêu thét lên khủng khiếp. Levasseur sực tỉnh, vội mở cửa và tống cậu em nàng ra ngoài.
- Ném thằng khốn này xuống hầm tầu cho tao! - hắn rống lên và đóng sầm cửa lại.
Levasseur cố gắng trấn tĩnh, quay lại phía cô gái, gượng gạo mỉm cười. Nhưng bộ mặt nhợt nhạt của nàng lạnh như hoá đá. Từ trước tới giờ nàng vẫn gán cho người hùng của mình những đức tính mà hắn không có, và lúc này hoang mang. Nhớ lại việc hắn đã giết viên thuyền trưởng Hà Lan một cách tàn nhẫn ra sao, nàng lập tức nhận rõ sự thực trong những lời của em trai về con người này, và vẻ khủng khiếp ghê tởm hiện rõ trên nét mặt nàng.
- Nào, sao thế, cô nương? Có chuyện gì với nàng vậy? - Levasseur vừa nói vừa tiến lại.
Tim cô gái nhói đau. Vừa cười, hắn vừa tiến đến gần và luôi tuột nàng vào lòng.
Sự nhạo báng đó đối với cô gái còn đáng sợ hơn cả. Hắn thô bạo kéo nàng đến, cố tình làm nàng đau. Tiểu thư d’Ogeron tuyệt vọng chống cự, cố thoát khỏi vòng tay hắn. Hắn nổi cáu, ghì chặt lấy nàng và hôn, và những dấu tích cuối cùng của cái mặt nạ của trang anh hùng đã tuột nốt khỏi bộ mặt hắn.
- Đồ ngốc, - hắn nói. - Đúng là ngốc như thằng em cô nó bảo cô ấy. Đừng quên rằng việc cô ở đây là hoàn toàn tự nguyện. Đùa với tôi không xong đâu! Cô hiểu rõ cô đang đi đến đâu và vì thế cô hãy biết điều một chút, mèo con ạ! - Và hắn lại hôn cô gái, nhưng lần này thì gần như khinh bỉ; đoạn, hất nàng sang bên, hắn nói thêm: - Tôi mà còn trông thấy cái kiểu cau có ấy thì cô đừng trách!
Có ai đó gõ cửa. Levasseur ra mở cửa và trông thấy Cahusac. Vẻ mặt gã người Breton sa sầm. Gã đến báo cáo rằng thân tàu hư hại do đạn pháo Hà Lan đã bị rò nước. Levasseur lo lắng đi theo gã để kiểm tra chỗ rò. Lúc ấy biển đang lặng, chỗ thủng không đáng lo lắm, nhưng thậm chí chỉ cần biển hơi động hơn bình thường thôi là tình hình đã khác ngay. Đành phải thả một tên thuỷ thủ xuống bịt tạm chỗ rò bằng vải buồm và sai bơm nước ra khỏi hầm tầu...
Cuối cùng thì ở chân trời hiện ra một dải mây dài thấp là là, và Cahusac giải thích rằng đó là hòn đảo cực bắc của chòm đảo Virgin
- Phải đến đấy nhanh lên mới được, Levasseur nói. - Chúng ta sẽ ghé vào đó và sửa sang lại “La Foudre”. Tôi không khoái cái kiểu oi ả này tí nào. Chưa biết chừng còn gặp giông ấy chứ...
- Giông hay một cái gì đó còn tệ hơn kia, - Cahusac lầm bẩm. Anh nhìn thấy chưa. Và gã chỉ tay qua vai Levasseur.
Tên thuyền trưởng ngoái lại và cảm thấy nghẹn thở. Cách đấy chưa đầy năm dặm có hai chiếc tàu lớn đang tiến về phía chúng.
- Quỉ tha ma bắt chúng đi! - hắn bật chửi đổng.
- Nhỡ chúng lại tính đuổi theo ta thì sao? - Cahusac hỏi.
- Ta sẽ đánh trả, - Levasseur quả quyết nói. - Dù đã sẵn sàng hay chưa cũng mặc!
- Đánh liều thí xác đấy, - Cahusac nói, không hề giấu giếm vẻ khinh bỉ và để nhấn mạnh thêm điều đó, gã nhổ toẹt xuống sàn tàu. - Khi một thằng ngốc mê gái đi biển thì sự thể sẽ đến nước ấy! Hãy biết kiềm chế nào, thuyền trưởng! Sau cái chuyện ngu ngốc với chiếc tàu Hà Lan kia chúng ta không dễ gì giãy ra được đâu.
Đến lúc này những tơ tưởng về tiểu thư d’Ogeron mới bay tiệt khỏi đầu hắn. Levasseur bước trên boong, sốt ruột hết nhìn về phía bờ đất xa xa lại quay ra hai con tàu đang thong thả nhưng không ngừng tiến lại gần. Ở giữa biển thế này mà lẩn trốn là vô ích, và khi tàu hắn đang rò nước như vậy thì lại còn nguy hiểm hơn nữa. Levasseur hiểu rằng đụng độ là điều không thể tránh khỏi. Lúc đó trời đã về chiều, còn cách bờ ba dặm, và Levasseur đang định ra lệnh chuẩn bị nghênh chiến thì suýt nữa hắn ngã lăn ra bất tỉnh vì mừng rỡ khi nghe tên thủy thủ đứng ở vị trí quan sát trên cột buồm báo xuống:
- Một trong hai chiếc tàu là “Arabella”, - tên kia thông báo - Còn chiếc kia có lẽ là chiến lợi phẩm.
Tuy nhiên cái tin tức đáng phấn khởi ấy không làm Cahusac vui lên được tí nào.
- Chẳng có gì hay ho hơn đâu! gã cau có lẩm bẩm - Blood sẽ nói thế nào về chuyện chiếc tàu Hà Lan của chúng ta?
- Hắn muốn nói cái gì thì nói! - Levasseur phá lên cười, trong lòng hắn vẫn lâng lâng nhẹ nhõm.
- Còn hai người con của thống đốc Tortuga thì làm thế nào?
- Không được để lộ cho hắn biết chuyện ấy.
- Nhưng rốt cuộc ông ta cũng sẽ biết thôi.
- Phải, nhưng đến lúc ấy thì, mẹ kiếp, mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi, bởi vì tôi sẽ thoả thuận xong với ngài thống đốc. Tôi sẽ có cách bắt d’Ogeron phải thuận theo tôi.
Một lát sau, bốn chiếc tàu đã bỏ neo ở bờ bắc đảo Virgen Magra. Đó là một hòn đảo nhỏ, dài mười hai dặm, rộng ba dặm, không cây cối, không nước ngọt, sống trên đó chỉ có chim và rùa. Phía nam hòn đảo có rất nhiều đầm nước mặn. Levasseur ra lệnh thả xuồng rồi cùng Cahusac và hai sĩ quan nữa sang tàu “Arabella”.
- Tôi thấy cuộc chia tay ngắn ngủi của chúng ta cũng khá có lãi đấy, - thuyền trưởng Blood đón Levasseur, cùng hắn vào gian buồng lớn của mình để kiểm kê kết quả.
“Arabella” bắt được tàu “Santiago” - một chiếc tàu lớn hai mươi sáu đại bác của Tây Ban Nha từ Puerto Rico đến, chở theo 120 tấn cacao, 40 nghìn pêxô và các thứ châu báu khác trị giá 10 nghìn pêxô nữa. Hai phần năm chiến lợi phẩm dồi dào ấy, theo như giao kèo đã ký, là thuộc về Levasseur và thuỷ thủ đoàn của hắn. Tiền bạc và châu báu được chia ngay tại chỗ, còn cacao thì tất cả quyết định sẽ đem đi Tortuga bán.
Đến lượt Levasseur thông báo về việc hắn đã làm và càng nghe những lời khoác loác của tên người Pháp. Blood càng sa sầm mặt. Câu chuyện của tên bạn làm ăn đã gây cho Blood sự bất bình gay gắt. Phải rất ngu xuẩn mới đi biến những người Hà Lan bè bạn thành kẻ thù của mình chỉ vì một món hết sức vớ vẩn là thuốc lá và da, trị giá nhiều lắm cũng không thể quá 20 nghìn pêxô.
Nhưng Levasseur trả lời chàng đúng như trước đó ít lâu hắn trả lời Cahusac rằng tàu nào cũng là tàu, mà họ thì đang cần có tàu cho chuyến làm ăn sắp tới. Có lẽ vì hôm đó là một ngày may mắn đối với thuyền trưởng Blood nên chàng chỉ nhún vai và phẩy tay. Sau đó Levasseur đề nghị “Arabella” và chiếc tàu nó vừa bắt được trở về Tortuga trước để dỡ cacao, còn Blood thì đi mộ thêm người, rất hay là bây giờ đã có cái để chở họ. Còn Levasseur thì, như hắn nói, muốn bắt tay vào sửa chữa những chỗ cần thiết rồi sau đó hắn sẽ xuống phía nam, đến đảo Saltatudos, một hòn đảo nằm rất đắc địa ở vĩ độ 11o 11’ bắc, Levasseur quyết định sẽ chờ Blood ở đấy để cùng chàng đến cướp phá Maracaybo.
May mắn cho Levasseur, thuyền trưởng Blood không những đồng ý với đề nghị của hắn mà còn tuyên bố rằng mình sẵn sàng nhổ neo đi ngay không chậm trễ.
“Arabella” vừa đi khỏi thì Levasseur đưa luôn hai tàu của mình vào một vụng nhỏ và ra lệnh cắm lều trên bờ cho thuỷ thủ ở trong thời gian sửa chữa “La Foudre”.
Đến sập tối thì trời nổi gió, sau đó chuyển thành một cơn bão với nhiều đợt gió giật. Levasseur rất mừng là đã kịp đưa người của mình lên bờ và các tàu thì được đưa vào nơi an toàn. Hắn thoáng nghĩ không biết Blood bây giờ gặp bão thì ra sao, nhưng hắn lập tức gạt ngay ý nghĩ ấy đi, bởi vì hắn không thể cho phép mình phải băn khoăn nhiều đến việc đó.
Sáng hôm sau là một buổi sáng đẹp trời. Bầu không khí trong lành sau cơn bão thoang thoảng vị muối của những đầm nước mặn phía nam hòn đảo. Trên chỗ trũng dưới chân những cồn cát trắng, bên cạnh chiếc lều bằng vải buồm của Levasseur, đã diễn ra một màn kịch lạ lùng.
Tên cướp biển người Pháp ngồi trên chiếc thùng rỗng, bận bịu tìm giải pháp cho một vấn đề quan trọng: hắn đang nghĩ xem phải làm thế nào để tránh được cơn lôi đình của thống đốc Tortuga.
Vòng xung quanh như để bảo vệ hắn là sáu sĩ quan, năm trong số đó là các tay thợ săn cục mịch mặc áo chẽn bằng da bẩn thỉu và quần da cũng bẩn thỉu không kém, còn người thứ sáu là Cahusac. Đứng trước mặt Levasseur là công tử d’Ogeron mặc áo sơ mi, cổ tay đính đăng ten, chiếc quần ngắn bằng sa tanh và chân đi một đôi giày đẹp bằng da dê thuộc. Áo camisole của chàng đã bị lột mất, tay bị trói quặt ra sau. Khuôn mặt đẹp của chàng hóp hẳn lại. Ngay tại đó, cô chị của chàng đang ngồi trên một đụn cát trong tư thế rất thiếu tự nhiên. Trông cô ta nhợt nhạt, và cố tỏ ra cao ngạo để che giấu những giọt nước mắt đang chực trào ra.
Levasseur tràng giang đại hải một hồi rồi cuối cùng vờ vịt lễ độ tuyên bố:
- Thưa ngài, tôi nghĩ rằng bây giờ ngài đã rõ cả rồi, nhưng để tránh hiểu lầm, tôi xin nhắc lại một lần nữa: số tiền để chuộc mạng ngài đã được ấn định là 20 nghìn pêxô, và nếu ngài chịu hứa sẽ quay lại đây thì ngài có thể về Tortuga mà lấy. Tôi cho ngài một tháng đi đường và tạo mọi điều kiện để ngài về được đến nơi. Tiểu thư sẽ được ở lại đây với tư cách con tin. Thân phụ ngài chắc sẽ không nghĩ rằng số tiền ấy là quá lớn bởi vì đó là cái giá để chuộc lại tự do cho con trai cộng với hồi môn của con gái. Quỉ bắt tôi đi. Tôi thiết tưởng giá như vậy là hơi nhẹ đấy! Nghe nói ngài d’Ogeron giàu có lắm kia mà!
Công tử d’Ogeron kiêu hãnh ngẩng cao đầu, nhìn thẳng vào mặt tên cướp không chút sợ sệt.
- Ta không chấp nhận, dứt khoát trước sau như một! Nghe ra chưa? Ngươi muốn làm gì ta thì làm. Chúa nguyền rủa ngươi, hỡi tên cướp biển bất lương bất nghĩa kia!
- A, ăn nói hay nhỉ!- Levasseur cười khẩy. - Ngài nóng nảy và hồ đồ quá! Ngài có nghĩ đến việc tôi sẽ làm với ngài nếu ngài cứ khăng khăng từ chối hay không! Tôi đủ sức bắt bất kỳ một kẻ cứng đầu cứng cổ nào khuất phục. Hơn nữa, tôi khuyên ngài nên nhớ rằng danh dự của chị ngài đang nằm trong tay tôi như món đặt cọc. Cho nên một khi ngài quên trở lại đây với của hồi môn thì đừng trách tôi là bất tín nếu tôi quên không cưới chị Madeleine của ngài.
Trông thấy cậu em của Madeleine thất sắc, Levasseur nhăn nhở nháy mắt với cậu ta. D’Ogeron điên dại đưa mắt nhìn chị và nhận thấy vẻ tuyệt vọng trong ánh mắt chị.
Sự ghê tởm và cơn phẫn nộ lại bùng lên trong lòng chàng trai.
- Đừng hòng, đồ chó! Không! Ngàn lần không!
- Ngài ương ngạnh như vậy chỉ vô ích mà thôi, - Levasseur lạnh lùng nói, không một chút gắt gỏng mà chỉ làm bộ thương hại rất đểu cáng. Trong tay tên cướp sợi thừng không ngừng uốn éo, tự động buộc thành những nút dây. Vung sợi dây thừng lên quá đầu, hắn nói: - Ngài biết đây là cái gì chứ? Là chuỗi hạt hành xác. Sau khi làm quen với nó, nhiều tên dị giáo bướng bỉnh đã biến thành tín đồ Công giáo đấy. Chuỗi hạt này giúp người ta trở nên biết điều bởi vì nhờ nó mà mắt người ta trợn ngược lên kia.
- Các người muốn làm gì ta thì làm!
Levasseur quẳng sợi thừng cho một tên da đen. Tên này vươn tay chụp lấy nó ngay trên không và nhanh như chớp quấn chặt nó vào đầu người tù. Giữa vòng dây với những nút thắt quấn quanh đầu chàng trai, hắn nhét thêm một thanh kim loại tròn và nhỏ như cái cán tẩu, đoạn giương mắt nhìn chòng chọc vào tên thuyền trưởng đợi lệnh bắt đầu tra tấn.
Levasseur liếc nhìn nạn nhân của mình. Mặt d’Ogeron xám ngắt và trên trán, dưới những vòng dây, rịn ra những giọt mồ hôi to tướng.
Tiểu thư d’Ogeron thét lên và chồm dậy, nhưng bị những tên cướp đứng canh giữ lại, nàng bật rên và quỵ xuống mặt cát.
- Hãy nghĩ lại đi và đừng để cho chị ngài phải trông thấy cảnh tượng không lấy gì làm ngoạn mục lắm ấy, - Levasseur chậm rãi nói. - Nói cho cùng thì số tiền mà tôi định ra kia có đáng gì cơ chứ? Nó có thấm tháp gì với phụ thân của ngài? Xin nhắc lại một lần nữa: tôi đã dễ tính quá rồi đấy! Nhưng một lời đã nói ra như đinh đóng cột - hai chục ngàn pêxô không hơn không kém.
- Xin cho phép được hỏi, anh định giá hai chục ngàn pêxô cho cái gì thế?
Câu ấy được hỏi bằng một thứ tiếng Pháp rất tồi, nhưng giọng nói thì đanh gọn dễ nghe, cũng pha chút âm sắc độc địa, cái độc địa mà Levasseur đang trưng ra hết cỡ.
Levasseur và các sĩ quan của hắn ngạc nhiên ngoái lại.
Trên đỉnh đụn cát, giữa nền trời xanh sẫm nỗi rõ thân hình duyên dáng của một người cao dong dỏng, mảnh dẻ, trong chiếc áo camisole đen tuyền đính những dải bạc. Trên vành mũ rộng che rợp khuôn mặt rám nắng của thuyền trưởng Blood rực lên một ngù lông đà điểu màu huyết dụ.
Levasseur kinh ngạc chửi đổng và nhổm dậy khỏi chiếc thùng rỗng. Nhưng hắn lập tức trấn tĩnh lại ngay. Thế mà hắn đã tưởng nếu thoát được cơn bão hôm qua thì lúc này thuyền trưởng Blood đang trên đường về Tortuga mịt mù tít tận chân trời kia rồi.
Nhẹ nhàng bước trên cát lún tận mắt cá với đôi ủng làm bằng da mềm Tây Ban Nha, thuyền trưởng Blood đi xuống cái hố cạn hình lòng chảo. Theo sau chàng là Wolverstone cùng mười hai người khác trong thuỷ thủ đoàn của “Arabella”. Đến trước mặt đám người đang sửng sốt vì sự xuất hiện của chàng. Blood bỏ mũ cúi chào tiểu thư d’Ogeron, sau đó mới quay sang Levasseur.
- Chào thuyền trưởng! - chàng nói, giải thích ngay nguyên nhân mình xuất hiện đột ngột ở đây. - Cơn bão hôm qua đã buộc chúng tôi phải quay lại. Chúng tôi không còn cách nào khác, đành phải hạ buồm phó mặc cho trời đất. Và cơn bão đã đẩy chúng tôi dạt vào đây. Cột buồm của “Santiago” lại bị rạn và tôi rất mừng là đã may mắn cho nó thả neo ở một vụng nhỏ bên bờ tây hòn đảo, cách đây chừng hai dặm. Thế rồi chúng tôi quyết định xuyên đảo sang bên này cho đỡ chồn chân và còn để thăm hỏi các anh luôn thể... Nhưng đây là ai vậy? - Chàng chỉ vào hai người bị bắt.
Levasseur cắn môi, mặt biến sắc, nhưng vẫn trấn tĩnh được, hắn đáp:
- Như anh thấy đấy, đó là các tù binh của tôi.
- Thế cơ à? Vừa mới bị bão đánh dạt lên đảo hôm qua chăng?
- Không! - Tức tối vì lời châm chọc lộ liễu ấy, phải khó khăn lắm Levasseur mới nén được. - Họ bị bắt trên chiếc brig Hà Lan.
- Sao tôi không nhớ anh nói chuyện này lúc nào nhỉ?
- Nhưng việc gì anh lại phải biết mới được chứ? Đây là các tù binh riêng của tôi. Họ là người Pháp.
- Người Pháp? - Và đôi mắt màu sáng của thuyền trưởng Blood nhìn chằm chằm vào Levasseur rồi sau đó quay sang hai người tù.
D’Ogeron rùng mình trước cái nhìn xoi mói nhưng trên mặt cậu ta không còn vẻ khiếp đảm nữa. Sự can thiệp quá đột ngột đối với kẻ hành hạ cũng như với nạn nhân ấy chợt đem lại cho chàng trai một tia hi vọng. Cô chị của chàng mở to mắt chăm chăm nhìn ra phía trước.
Thuyền trưởng Blood nhíu mày cau có nói với Levasseur.
- Hôm qua anh đã làm tôi ngạc nhiên bằng cách tấn công vào người Hà Lan bạn bè. Còn bây giờ thì hoá ra cả đồng bào của anh cũng phải dè chừng anh nữa.
- Thì tôi đã bảo rằng họ là… đó là việc riêng của tôi kia mà.
- À, ra thế! Nhưng họ là ai? Tên tuổi họ thế nào?
Phong thái bình tĩnh uy nghi và hơi ngạo mạn của Blood đã làm tên Levasseur nóng nảy không kìm chế được nữa. Mặt hắn từ từ đỏ rần lên, ánh mắt trở nên ngang ngạnh gần như đe doạ. Hắn định đáp thì người tù đã cướp lời:
- Tôi là Henri d’Ogeron, còn đây là chị tôi.
- D’Ogeron? - Blood ngạc nhiên. - Có phải các vị là người nhà ông bạn tốt bụng của tôi, thống đốc Tortuga đó chăng?
- Đấy là cha tôi.
- Lạy các thánh thần che chở chúng con! Anh điên đấy à, Levasseur. Thoạt tiên thì anh tấn công bạn bè của chúng ta là người Hà Lan, sau đó lại bắt giữ hai người đồng bào của anh, mà lúc đó hỏi lại thì hoá ra hai người là con của thống đốc đảo Tortuga, nơi ẩn náu duy nhất của chúng ta ở vùng biển này…
Levasseur cáu tiết cắt ngang:
- Tôi nhắc lại một lần cuối cùng rằng đó là việc riêng của tôi! Tôi sẽ đích thân chịu trách nhiệm trước thống đốc Tortuga.
- Nhưng hai mươi ngàn pêxô cũng là việc riêng của anh nốt hay sao?
- Phải, việc riêng của tôi.
- Chà, anh biết không, tôi không đồng ý với anh về điểm này đâu. - Và thuyền trưởng Blood điềm nhiên ngồi xuống chiếc thùng rỗng mà Levasseur vừa ngồi. - Không nên mất thời gian vô ích nữa! - chàng đanh giọng nói. - Tôi đã nghe rõ những yêu cầu của anh đối với tiểu thư và công tử đây. Đồng thời, tôi phải nhắc lại cho anh nhớ rằng chúng ta ràng buộc với nhau bởi một giao kèo hoàn toàn nghiêm túc. Anh đã định tiền chuộc cho họ là hai chục ngàn pêxô. Nghĩa là số tiền chuộc ấy thuộc về cả hai đội tàu của chúng ta, mỗi bên có phần của mình như bản giao kèo đã quy định. Hy vọng rằng anh không bác bỏ điều ấy. Nhưng điều đáng buồn và khó chịu nhất là việc anh đã giấu giếm chúng tôi một phần chiến lợi phẩm, theo giao ước của chúng ta một hành động như vậy nhất thiết phải bị trừng trị và như anh ấy biết đấy, trừng trị khá nghiêm khắc nữa kia.
- Ô hô! - Levasseur láo xược phá lên cười rồi nói: - Nếu anh không vừa lòng với kiểu xử sự của tôi thì chúng ta huỷ bỏ giao kèo vậy.
- Chắc chắn tôi sẽ làm như thế, - Blood không chút do dự đáp luôn: - Nhưng chúng ta huỷ bỏ nó chỉ khi nào và chỉ bằng cách nào mà tôi thấy cần thiết, và việc ấy sẽ xảy ra lập tức ngay sau khi anh thực hiện các điều khoản giao ước của mình như chúng ta đã ký kết trước khi lên đường.
- Anh muốn nói gì vậy?
- Tôi sẽ cố nói cho thật ngắn gọn, - thuyền trưởng Blood đáp. - Tôi sẽ không nói đến việc tấn công vào người Hà Lan, bắt các tù binh người Pháp và gây ra nguy cơ làm thống đốc Tortuga nổi giận có thể dung thứ được hay không. Tôi chấp nhận tất cả, coi như việc đã rồi. Tự anh đã đặt giá tiền chuộc những người này là hai mươi ngàn pêxô và như chỗ tôi hiểu, tiểu thư đây sẽ thành vật sở hữu của anh. Nhưng tại sao nàng lại thuộc về anh trong khi nếu theo đúng như chúng ta đã thoả thuận thì món chiến lợi phẩm ấy phải thuộc về tất cả chúng ta.
Mặt Levasseur tối sầm hơn cả đám mây giông.
- Hơn nữa, - Blood nói tiếp, - tôi không định đoạt nàng nếu anh chịu mua nàng.
- Mua à?
- Phải, với cái giá mà chính anh đã đặt ra ấy.
Levasseur cố gắng kìm cơn giận dữ đang sôi sùng sục trong hắn để còn kè mặc cả với chàng Ailen.
- Đó là tiền chuộc người đàn ông, và người phải nộp là thống đốc Tortuga kia.
- Không, không được! Anh đã gộp họ vào làm một và phải nói là bằng cung cách khá lạ đời. Giá tiền chuộc họ là do anh đưa ra và dĩ nhiên anh có thể mua được họ với cái giá ấy. Anh phải trả 20 ngàn pêxô mua họ và số tiền đó phải được chia cho hai đội tàu của chúng ta. Lúc đó thì có lẽ chúng tôi sẽ nhân nhượng hơn đối với sự vi phạm giao ước của anh.
Levasseur cười gằn:
- Thế à? Mẹ kiếp! Trò đùa khá đấy!
- Hoàn toàn đồng ý với anh, - thuyền trưởng Blood công nhận.
Đối với Levasseur thì ý nghĩa của trò đùa ấy là thuyền trưởng Blood cùng với hơn chục người của mình đã dám đến tận đây mà đe doạ hắn mặc dù hắn chỉ cần hô một tiếng là có thể gọi được ngay cả trăm tên hung đồ của mình. Tuy nhiên, trong các tính toán của mình, Levasseur đã bỏ qua một điểm quan trọng mà địch thủ của hắn đã bắt đúng thóp. Và lúc Levasseur vừa cười vừa quay sang đám sĩ quan của mình để khiến chúng cười theo cho có bạn, hắn trông thấy một cảnh tượng làm tắt ngấm ngay tiếng cười của hắn. Thuyền trưởng Blood đã khéo léo đánh vào lòng tham của bọn cướp, vào cái lòng tham đã đưa chúng theo nghiệp cướp biển. Levasseur đọc thấy trên nét mặt chúng sự tán thành tuyệt đối với đề nghị của Blood: số tiền chuộc mà thủ lĩnh của chúng định chiếm làm của riêng phải chia cho tất cả mọi người.
Tên trùm cướp biển suy nghĩ một lát, chửi thầm thói tham lam của bọn thủ hạ, và hắn đã kịp hiểu ra rằng cần phải hành động thật thận trọng.
- Anh không hiểu ý tôi rồi, - hắn cố nén cơn điên, nói: - Một khi số tiền chuộc được trả đủ, chúng tôi sẽ lập tức chia ngay. Còn tạm thời thì cô gái này sẽ ở lại đây với tôi.
- Nếu thế thì lại là chuyện khác, Cahusac lẩm bẩm. - Lúc đó thì mọi việc sẽ được thu xếp xong xuôi thôi.
- Anh nghĩ thế à? - Blood hỏi lại. - Thế nhỡ thống đốc d’Ogeron không chịu nộp tiền chuộc? Lúc ấy thì làm thế nào? - Chàng cả cười và thong thả đứng lên. - Không, không! Thuyền trưởng Levasseur định giữ cô gái lại cho mình ư? Được thôi. Thế cũng xong. Nhưng trước hết, anh ta phải ứng trước số tiền và đành phải liều chịu lấy một mình nếu như không nhận được món tiền ấy.
- Chí lí lắm! - Một viên sĩ quan của Levasseur tán thành.
Còn Cahusac thì thầm:
- Thuyền trưởng Blood nói phải đấy. Điều ấy hoàn toàn phù hợp với giao ước của chúng ta.
- Cái gì phù hợp với giao ước? Đồ bẻm mép! - Levasseur không làm chủ được mình nữa. - Quỷ bắt chúng mày đi! Tao lấy đâu ra hai chục ngàn pêxô bây giờ? Đến một nửa ngần ấy tao còn chẳng có nữa là. Tôi sẽ khất nợ các anh cho đến khi nhận được tiền. Các anh đã hài lòng chưa?
Bọn cướp biển nhao nhao đồng tình. Có thể không nghi ngờ gì rằng chúng sẽ chịu ngay nếu thuyền trưởng Blood không có ý định khác.
- Thế nếu anh chết trước khi có được số tiền ấy thì sao? Nói gì thì nói, nghề nghiệp của chúng ta đầy những bất ngờ mà, thuyền trưởng thân mến của tôi ạ.
- Quỉ tha ma bắt anh đi! - Levasseur rống lên, mặt mũi bừng bừng giận dữ. - Không có gì anh vừa lòng hết!
- Ồ, không đúng đâu. Hai chục ngàn pêxô và chia ngay tại chỗ là xong.
- Tôi không có số tiền ấy.
- Nếu vậy ai có tiền hẵng mua.
- Nhưng tôi không có thì thử hỏi còn ai có nữa chứ? Ai có thể bỏ số tiền ấy ra đây được?
- Tôi, - thuyền trưởng Blood đáp.
- Anh? - Levasseur sửng sốt. – Anh… anh cần đến cô gái này?
- Sao lại không? Tôi không những hào hoa hơn anh, dám chịu thiệt thòi để được cô gái ấy mà lại còn hơn hẳn anh về chữ tín, sẵn sàng bỏ ngay tiền ra mua lấy cái tôi cần kia mà.
Levasseur đứng ngây người như phỗng vì ngạc nhiên, rồi ngơ ngác há hốc mồm, hắn nhìn viên thuyền trưởng của “Arabella”. Các sĩ quan của “La Foudre” cũng ngỡ ngàng nhìn chàng. Ung dung ngồi xuống chiếc thùng rỗng, thuyền trưởng Blood rút từ túi trong của chiếc áo camisole một cái túi nhỏ bằng da.
- Tôi xin vui lòng giải quyết cái vấn đề mà các anh cho là nan giải ấy.
Levasseur và các sĩ quan của hắn không sao rời mắt khỏi cái túi nhỏ mà Blood đang thong thả tháo dây buộc. Cẩn thận mở túi, chàng dốc ra lòng bàn tay bốn năm viên ngọc trai, viên nào viên nấy to bằng trứng chim bồ câu một. Blood đã được chia hai viên như vậy trong lần đánh úp hải đội Tây Ban Nha đang tìm ngọc trai.
- Trước đây có lần anh đã khoe rằng anh rất thông thạo về ngọc trai mà, phải không Cahusac? Theo anh thì mấy viên này đáng giá bao nhiêu?
Gã người Breton vội thò bàn tay thô kệch nhón lấy một viên bi óng ánh bảy sắc cầu vồng dịu mắt và chăm chú ngắm nghía nó một cách thán phục.
- Một ngàn pêxô, - gã đáp, giọng lạc hẳn đi vì hồi hộp.
- Ở Tortuga hay Jamaica người ta sẽ trả hơn một chút, còn ở Châu Âu thì đắt gấp đôi. Nhưng tôi chấp nhận cái giá của anh đấy, thuyền phó. Anh thấy không tất cả đều sàn sàn như nhau. Tôi giao cho các anh mười hai hạt, tức là mười hai ngàn pêxô, ba phần năm tổng giá trị của món chiến lợi phẩm phần “La Foudre”, đúng như chúng ta đã giao ước với nhau. Còn tám ngàn pêxô phần “Arabella” tôi sẽ chịu trách nhiệm thanh toán với người của mình… Bây giờ thì Wolverstone, phiền bố đưa vật sở hữu của tôi về tàu “Arabella” giúp. - Nói đoạn, chàng chỉ tay vào hai người tù và đứng dậy.
- Ồ, không được… ! - Levasseur rống lên, để mặc cho cơn giận cuốn mình đi. - Anh đừng hòng mà đem cô ta đi đâu!
Và hắn lao đến Blood lúc ấy vẫn còn đang đứng ở thế thủ, nhưng một người trong số sĩ quan của Levasseur đã bước ra ngăn hắn lại.
- Hãy nghĩ lại đi, thuyền trưởng! Chẳng phải mọi việc đều đã thu xếp ổn thoả rồi đó sao? Chẳng phải tất cả đều vừa lòng rồi sao?
- Tất cả à? - Levasseur rít lên. - Ái chà! Tất cả chúng mày đều thoả mãn rồi hả, lũ súc sinh?
Nắm những viên ngọc trai trong bàn tay to kệch của mình, Cahusac chạy đến bảo Levasseur:
- Đừng có mà ngốc, thuyền trưởng! Anh muốn gây chuyện ẩu đả giữa hai bên à? Blood đông gấp đôi chúng ta kia. Tại sao anh lại cứ bám chằng chằng lấy con bé ấy làm gì thế? Quỉ tha ma bắt nó đi. Lạy Chúa đừng có dây vào Blood. Anh ấy đã trả rất hậu và giữ tín với ta.
- Giữ tín à? - tên thuyền trưởng điên cuồng hộc lên. – Mày!... mày!... - Và không tìm thấy trong vốn từ tục tĩu hết sức phong phú của mình một tiếng rủa vừa ý, hắn vung tay đấm mạnh vào mặt gã thuyền phó, suýt nữa làm gã ngã ngửa. Những viên ngọc trai bắn tung toé xuống cát.
Cahusac cùng cả bọn, như một đám thợ lặn lao xuống nước, nhao vội theo những hạt ngọc trai, không thèm để ý gì đến những sự kiện quan trọng đang diễn ra trên đầu chúng.
Mặt tái nhợt đi vì giận dữ, Levasseur chống tay trên đốc kiếm đứng trước mặt thuyền trưởng Blood lúc này đang định quay gót.
- Chừng nào tao còn sống thì mày đừng hòng đem nàng đi khỏi đây! - hắn quát lớn.
- Thế thì ta sẽ đưa cô ấy đi sau cái chết của mi, - Blood nói và ánh thép lưỡi gươm của chàng nhoáng lên trong nắng. - Giao kèo của chúng ta đã qui định rằng bất cứ một ai trong hai đội tàu, nếu giấu giếm một phần của cải chiếm được, dù chỉ đáng một pêxô, thì kẻ đó phải bị treo lên giằng buồm. Ta định xử trí với mi đúng như thế. Nhưng nếu mi không thích dây thừng thì, hỡi đồ sâu bọ đáng bỉ kia, ta sẽ trị mi bằng cách khác!
Chàng khoát tay ngăn những người định cản trở cuộc tỉ thí lại và đập mạnh lưỡi gươm của mình vào gươm Levasseur nghe đánh chát một tiếng.
D’Ogeron ngơ ngác theo dõi chàng, hoàn toàn không thể hình dung nổi cuộc đọ gươm này sẽ dẫn đến đâu. Trong lúc đó, hai người trong đội tàu “Arabella” đến thay cho hai gã da đen canh giữ tù và gỡ vòng dây thừng quấn trên đầu chàng trai ra. Cô chị của cậu ta, mặt trắng bệch như vôi, ánh mắt tràn ngập một nỗi khủng khiếp man dại, lồm cồm đứng dậy và áp chặt hai tay lên ngực dán mắt vào cuộc đọ gươm.
Trận đấu diễn ra rất nhanh. Sức mạnh dã thú mà xưa nay Levasseur vẫn dương dương tự đắc đã phải chịu thua kinh nghiệm và sự nhanh nhẹn của chàng Ailen. Và khi Levasseur bị lưỡi gươm của Blood xuyên qua ngực, ngã sấp xuống mặt cát trắng, thuyền trưởng Blood đứng bên xác địch thủ và bình thản nhìn Cahusac.
- Tôi cho rằng cái này sẽ huỷ bỏ giao kèo của chúng ta, - chàng nói.
Cahusac hờ hững và bạc bẽo nhìn cái xác co quắp của tên thủ lĩnh. Rất có thể mọi việc sẽ không như thế này nếu Levasseur có tính khí khác. Nhưng lúc ấy chắc Blood sẽ có kiểu chơi khác cho hắn. Còn lúc này thì bọn thủ hạ của Levasseur không mảy may yêu quý hay thương xót gì hắn cả. Điều duy nhất thôi thúc chúng là lòng tham. Blood đã khéo lợi dụng khía cạnh ấy trong tính cách của chúng, buộc tên thuyền trưởng “La Foudre” vào tội nặng nhất - chiếm đoạt cho mình cái đáng lẽ phải được chuyển thành tiền và chia chác sòng phẳng.
Và khi bọn cướp biển vung tay vung chân đầy vẻ đe doạ kéo ùa xuống lòng trũng nơi xảy ra màn bi kịch chớp nhoáng kia thì chỉ bằng mấy câu ngắn ngủi, Cahusac đã can ngăn được chúng.
Thấy chúng vẫn còn ngần ngừ, để mọi việc chóng vánh hơn, Blood nói thêm:
- Các anh có thể đến chỗ chúng tôi thả neo để lấy phần món hàng đoạt được trên tàu “Santiago” và muốn làm gì với nó thì làm. Các anh thấy chưa, bao giờ tôi cũng thủ tín.
Và thế là bọn cướp biển nhao nhao đồng tình. Theo sau Blood, cả bọn xuyên qua đảo kéo đến chỗ “Arabella” đậu, đưa theo cả hai người tù.
Chiều hôm đó, sau khi chia của xong đáng lẽ họ đã chia tay nhau, nhưng Cahusac, người vừa được đồng bọn nhất trí chọn làm kẻ kế tục Levasseur, đã đề nghị Blood chấp nhận cho đội tàu Pháp hợp tác làm ăn.
- Thôi được, tôi đồng ý, - Blood đáp, - nhưng chỉ với một điều kiện bắt buộc: các anh phải dàn hoà với người Hà Lan và trả lại cho họ chiếc brig cùng toàn bộ số hàng.
Điều kiện ấy đã được chấp nhận ngay không chút do dự, và thế là thuyền trưởng Blood đi thăm những vị khách của mình - hai người con của thống đốc Tortuga.
Tiểu thư d’Ogeron và cậu em mới được giải thoát khỏi vòng dây thừng đang ngồi trong ngăn buồng rộng rãi của “Arabella”.
Benjamin, người hầu kiêm đầu bếp da đen của thuyền trưởng Blood, bày rượu nho và thức ăn lên bàn rồi khuyên họ nên ăn một tí. Nhưng cả hai đều không chịu ăn gì hết.
Hai chị em ngồi đó ruột rối như tơ vò, nghĩ rằng họ thoát khỏi hang hùm để rồi rơi vào hàm sấu. Cuối cùng, kiệt sức vì tình trạng mơ hồ, tiểu thư d’Ogeron phủ phục xuống chân cậu em van xin tha thứ cho tất cả những cực nhục mà vì nhẹ dạ nàng đã gây ra cho em mình.
Nhưng cậu em vẫn không có ý định khoang dung.
- Hy vọng rằng rốt cuộc chị đã hiểu việc mình làm. Bây giờ môt tên cướp biển khác đã mua chị và chị đã thuộc về hắn. Chắc chị cũng hiểu rõ điều đó...
Cậu ta có thể nói thêm nhiều nữa nhưng vừa nghe thấy cửa buồng kẹt mở liền vội im bặt. Thuyền trưởng Blood đứng trên ngưỡng cửa. Chàng đến đây ngay lúc thu xếp xong với người của Levasseur và còn kịp nghe rõ câu nói cuối cùng của d’Ogeron. Vì thế chàng không chút ngạc nhiên khi trông thấy tiểu thư d’Ogeron giật thót và co rúm người lại khi trông thấy ông chủ mới của mình.
Bỏ chiếc mũ cắm lông chim ra, Blood bước đến bên bàn.
- Xin tiểu thư cứ yên tâm, chàng nói bằng thứ tiếng Pháp rất tồi. - Trên tàu “Arabella” này tiểu thư sẽ được đối xử với tất cả sự kính trọng xứng đáng với tiểu thư. Khi nào nhổ neo, tàu chúng tôi sẽ nhằm thẳng hướng Tortuga để đưa tiểu thư về với quan thống đốc. Và xin chớ quên rằng tôi đã mua tiểu thư như công tử đây vừa nói. Vì muốn tránh nguy hiểm cho hai vị, buộc lòng tôi phải mua chuộc bọn bất lương và xúi giục chúng chống lại một tên khác cầm đầu chúng bất lương hơn gấp nhiều lần. Nếu hai vị thấy cần, xin coi số tiền tôi đã bỏ ra để chuộc hai vị là một món vay của bạn bè.
Vẫn chưa dám tin vào tai mình, cô gái bàng hoàng nhìn chàng, cậu em nàng thậm chí còn nhổm lên vì kinh ngạc.
- Ông nói thật đấy chứ?
- Thật hoàn toàn! Mặc dù những lời như vậy chẳng mấy khi các vị được nghe. Tôi là một tên cướp biển, nhưng tôi không thể hành động như Levasseur được. Tôi cũng có những khái niệm của mình về danh dự và có cả danh dự nữa… hay cứ cho rằng đó là tàn tích của danh dự trước đây còn sót lại. - Rồi chuyển sang giọng công việc, chàng nói tiếp: - Bữa trưa sẽ được dọn sau một tiếng nữa. Hy vọng rằng hai vị sẽ không từ chối tôi cái vinh hạnh được dùng cơm với các vị. Còn bây giờ thì lão Benjamin của tôi sẽ lo quần áo cho các vị.
Rồi chàng cúi chào và quay mình chực đi ra, nhưng tiểu thư d’Ogeron đã kêu to ngăn chàng lại:
- Thuyền trưởng!
Blood quay mình lại, còn cô gái thì từ từ bước đến và nhìn chàng với vẻ sợ sệt pha lẫn ngạc nhiên, rồi xúc động nói:
- Ông là một người cao thượng, thưa thuyền trưởng!
- Ồ, tiểu thư khen quá lời đấy, - Blood mỉm cười.
- Không! Không! - Cô gái sôi nổi kêu lên. - Ông là một bậc quân tử, ông là một hiệp sĩ chân chính. Tôi hết sức có lỗi trong sự việc vừa qua. Tôi phải kể hết cho ông... ông có quyền được như vậy.
- Madeleine! Cậu em bật kêu lên định ngăn cô chị lại.
Nhưng tiểu thư không đủ sức kìm nổi lòng biết ơn nồng nàn đang tràn ngập trái tim nàng. Đột nhiên nàng quỳ xuống trước mặt Blood, nắm tay chàng và, trước khi Blood kịp hiểu, nàng hôn lên bàn tay ấy.
- Tiểu thư làm gì vậy? -Chàng thốt lên.
- Tôi đang cố gắng chuộc lại lỗi. Trong thâm tâm, tôi đã xúc phạm đến ông. Tôi đã nghĩ rằng ông cũng là đứa như Levasseur và cuộc quyết đấu giữa ông với hắn là lang sói cắn xé nhau. Tôi quỳ xuống van xin ông hãy tha thứ cho tôi!
Thuyền trưởng Blood nhìn nàng và một nét cười thoáng qua đã đốt lên tia lửa trong đôi mắt xanh biếc, chúng như càng sáng rực hơn trên khuôn mặt rám nắng của chàng.
Chàng nhủ thầm rằng cứu được hai người trẻ tuổi này thoát khỏi cảnh giam cầm là chàng đã làm được một việc tốt, nhưng liền đó chàng lại thở dài.
Cái tiếng tăm bất hảo của chàng lan nhanh trong vùng biển Caribbean và chắc là đã đến tai Arabella Bishop. Chàng tin rằng nàng khinh bỉ chàng, coi chàng là một tên đê tiện như tất cả bọn cướp biển khác. Vì vậy chàng mong mỏi có một hồi âm, dù là mơ hồ, về hành động hôm nay của mình sẽ vọng đến tai nàng và làm trái tim nàng dịu đi chút ít. Dĩ nhiên, chàng không để tiểu thư d’Ogeron biết nguyên nhân thực sự trong việc chàng cứu cô ta. Blood quyết định liều mình, được thôi thúc bởi một ý nghĩ duy nhất là Arabella Bishop sẽ hài lòng vì chàng nếu như nàng có mặt tại đây hôm nay.