Buổi sáng hôm nay, cuối cùng chúng tôi nhận được thư của Quân Vỹ, được biết anh ta đang ở cùng với Bách Lý Tấn. Thư viết, lúc này hai người đang ở Bối Trung tập trung nghiên cứu một bí thuật, bí thuật đó là làm thế nào dùng thuốc điều khiển chính xác sự chuyển biến từ người thành thú.
Những bí thuật lưu truyền xưa nay Quân Vỹ không hề biết, anh ta không nên nhúng tay vào những việc đó mới phải, có lẽ ngẫu nhiên gặp Bách Lý Tấn, bị anh ta lôi kéo đi làm những việc không công. Thư cho biết, nghiên cứu hiện đang ở giai đoạn sơ khai, muốn chuyển đổi thành công, trước hết phải tìm ra bí dược khiến người ăn xong biến thành dã thú, hỏi tôi có đề nghị nào hay.
Tôi cho là không có bí dược biến người thành thú, muốn biến thành thú, có thể mua ít xuân dược kích dục, con người sau khi dùng xuân dược đó sẽ trở nên giống cầm thú, càng dùng nhiều càng giống cầm thú, rồi sinh ra một đống tiểu cầm thú…
Mộ Ngôn nghe vậy, suy nghĩ một lát, quyết định đổi ý đích thân đưa tôi đến Bối Trung. Chuyện này cảm giác giống như các bậc phụ huynh trước khi đi đâu đó làm việc lớn nhất định phải đưa con cái gửi gắm một nơi nào đó, kết quả những bậc phụ huynh đi làm việc lớn kia thường không hay trở về hoặc không thể trở về nữa, những đứa con để lại lần lượt trở thành trẻ hư… Tôi cảm thấy một cách bản năng nên đi theo Mộ Ngôn, nhưng chàng cho là tôi nên chờ đợi ở một nơi an toàn, Bối Trung là một nơi an toàn, tuyệt đối sẽ không có sơ sẩy gì.
Mặc dù lập tức bày tỏ có thể cùng chàng đồng cam cộng khổ nhưng lại bị phản bác: “Một số nơi rất nguy hiểm với phụ nữ, còn đối với đàn ông chỉ là hơi nhạy cảm một chút, em đến đó mới làm tôi lo lắng”.
Tôi cảm thấy nên tin tưởng chàng, nhưng vẫn phải dùng thủ thuật để chàng bỏ ý định đưa tôi đến chỗ Quân Vỹ: “Chàng không biết sao, Quân Vỹ từ lâu đã nói muốn lấy em, sao chàng ngốc thế, nhất định đưa em đến bên anh ta, như vậy không an toàn”. Nói câu đó xong, mới sực nhớ ra là chàng luôn thích khiêu chiến, lập tức tôi bị nhấc lên ấn vào xe ngựa: “Anh ta cứ thử xem”.
Đi thâu đêm, đến thẳng Bối Trung.
Hai nước Vệ, Trần chung một con sông, đó là Đoan Hà, Đoan Hà bắt nguồn từ Bối Trung của nước Trần. Nhưng Bối Trung không nổi tiếng bởi con sông đó, mà nổi tiếng bởi có dòng họ Công Nghi làm nghề đúc kiếm lừng danh thiên hạ.
Nghe đồn dòng họ Công Nghi tồn tại từ xa xưa, tổ tiên từng tham gia cuộc quyết chiến giữa con người với sứ thần nhà trời ở bồn địa đá, sau đó buông kiếm chuyển sang buôn bán, lập nghiệp ở đất Bối Trung, nhiều đời làm nghề đúc kiếm, do từng lập công với Trần triều nên được hưởng nhiều đặc quyền, đến khi Trần quốc phong đất, gia sản đã giàu có vô địch thiên hạ. Mỗi đời Trần vương đều gả một vị công chúa sủng ái nhất cho dòng họ đó, khiến dòng họ Công Nghi có những quan hệ chằng chéo về huyết thống hết sức phức tạp với vương thất Trần quốc.
Người trong thiên hạ cho rằng, mục đích nước cờ đó của Trần vương là hướng tới tài sản khổng lồ của dòng họ Công Nghi, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên bất luận thế nào, dòng họ Công Nghi có bảy trăm năm lịch sử được kế truyền hai mươi nhăm đời đã bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn bảy năm trước.
Bảy năm trước quả thật đã xảy ra không ít biến cố, lúc đó tôi còn nhỏ không biết, sống trong Thanh Ngôn tông, tin đồn về một gia tộc ở xa xôi đâu đó bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn lọt qua những bức tường sừng sững của quốc tông giáo truyền đến tai tôi, tôi cảm thấy chuyện đó chẳng liên quan đến mình.
Sư phụ nói: “Con là công chúa nước Vệ, cũng nên hiểu ít nhiều thế sự thiên hạ, dòng họ Công Nghi giàu có như thế, bị hủy diệt khác nào chặt mất một cánh tay của Trần vương, bất luận thế nào đối với nước Vệ cũng là chuyện tốt”.
Tôi thầm nghĩ, ai biết chuyện đó không phải do Trần vương gây ra?
Sư phụ trầm ngâm hồi lâu, sau đó lần đầu tiên tôi được nghe sư phụ kể về truyền thuyết hung thú Thiên Hà. Hung thú Thiên Hà, sau nghìn kiếp nạn máu chảy thành sông là thần hộ vệ của dòng họ Công Nghi, ngủ yên dưới đáy sông, bảo vệ dòng họ Công Nghi đời đời thái bình. Thực ra tôi hơi nghi ngờ, cảm thấy cái gọi là hung thú đó sao có thể gọi là Thiên Hà, giả sử nhất định phải có ngụ ý sau khi trải qua nghìn tai họa máu chảy thành sông, gọi là Hậu Hà cũng hay hơn Thiên Hà.
Nhưng đó không phải là vấn đề chủ yếu, vấn đề chủ yếu là, tại sao một gia tộc cường thịnh như vậy, lại có riêng một vị thần bảo hộ, lại có thể bỗng chốc bị hủy diệt tan tành, Trần vương không làm được, chỉ có một lý giải duy nhất, dòng họ Công Nghi bị chính vị thần bảo hộ đó hủy diệt.
Bài học tôi rút ra được từ câu chuyện này là nuôi thần hộ vệ cũng rất nguy hiểm, còn sư phụ lại nhìn xa hơn: “Rất nhiều việc có nhân mới có quả, có quả tất có nhân, dòng họ Công Nghi bị tai họa triệt diệt như vậy tất có nhân từ xa xưa, ví như một ngày nào đó Vệ quốc bị diệt, cũng do nguyên nhân từ xa xưa, con có thể không hiểu nhân quả, nhưng con phải nhìn thấy hậu quả, trước khi làm gì hãy nghĩ tới hậu quả”.
Ấn tượng của tôi về gia tộc Công Nghi sở dĩ rất sâu chính do những lời dạy đó của sư phụ, những lời đó đến giờ tôi vẫn nhớ, ngoài ra còn cảm thấy nhiều tiền như vậy bị lửa thiêu hết thật đáng tiếc. Đương nhiên một gia tộc lâu đời như thế có thật bị hỏa hoạn tàn phá như đồn đại hay không, đến nay vẫn còn là bí ẩn, nhưng lại có tin đồn, hai năm sau, Công Nghi Phỉ, trưởng tộc đời thứ hai nhăm của gia tộc Công Nghi đã tái dựng môn đình từ đống đổ nát, chàng ta còn là một trang nam nhi tuấn kiệt, chỉ có điều gia tộc Công Nghi sau khi tái thiết không sinh sống bằng nghề đúc kiếm nữa, chuyển sang kinh doanh đất đai, châu báu. Đấy là những tin sau này nghe được .
Bỗng dưng nhớ tới chuyện cũ chẳng qua là do lần này nơi Mộ Ngôn định đưa tôi đến chính là gia tộc Công Nghi ở đất Bối Trung. Trước khi chàng trở lại, tôi sẽ chờ ở đó. Suy cho cùng cũng là chuyện thường, người đời chẳng phải luôn ở trong trạng thái chờ đợi và được chờ đợi đó sao, thước đo khoảng cách giữa hai cái đó chính là lòng người. Khoảng cách gần trong gang tấc mà biển trời xa cách ngày xưa hy vọng sau này có thể trở thành xa cách cả biển trời mà gần trong gang tấc, nhưng tốt nhất là chỉ nên gần trong gang tấc thôi.
Chưa đầy một ngày đã tới chân núi Cô Trúc, thuộc địa phận Bối Trung.
Mộ Ngôn nói Phật Tang uyển, biệt cư của gia tộc Công Nghi tọa lạc trên lưng chừng núi Cô Trúc, ngày mai sẽ có người đến đón chúng tôi lên núi, nghĩ đến lúc này Quân Vỹ và Tiểu Hoàng đang ở gần đây, bất luận là nơi nào, một điều chắc chắn là sẽ gặp lại sau bao ngày xa cách, chắc chắn hơn nữa, khi gặp nhau Quân Vỹ nhất định hỏi thẳng tình hình của tôi từ ngày xa nhau, những vết thương trên vai tôi không thể giải thích với anh ta.
Tôi nằm trên giường thầm nghĩ, xa nhau đã lâu tôi cũng hơi nhớ Quân Vỹ, con người anh ta có lúc thần kinh nhập nhằng, nhưng ngoài lúc đó cũng là một người có tiền đồ, nhưng không muốn bị anh ta cằn nhằn, chỉ có cách hoãn cuộc gặp thêm vài ngày. Nghĩ vẩn vơ mãi, đầu óc dần mơ màng, đó là dấu hiệu sắp ngủ.
Cái chết chỉ là bóng đêm, vạn vật trên đời rồi cũng đến lúc trở về bóng đêm, những người sống đang nhích từng bước đến bóng đêm đó, đây cũng chính là giấc ngủ của người chết. Khi bóng tối quen thuộc dần dần bao phủ, trước mắt tôi bỗng nhiên hé ra một luồng sáng. Luồng sáng bùng phát tỏa khắp nơi, lát sau dần dần biến mất, thay vào đó là một màn sương mù dày đặc cuồn cuộn lan tỏa, thềm đá màu xanh cao cả trăm bậc ẩn hiện trong sương, cuối những bậc đá tít trên cao là một cái cổng lớn uy nghi.
Sương mù lan tràn, tầng tầng hoa phật tang màu vàng trải khắp nửa ngọn núi ẩn hiện trong mênh mang sương khói. Sơn môn sừng sững, cột đá uy nghi, lầu gác trùng trùng, trước lầu môn treo một bức rèm châu ngũ sắc cực lớn, gió lay động bức rèm, tiếng ngọc châu va chạm lanh canh.
Bên cạnh bức rèm châu có một cô gái đang đứng, tay giương chiếc ô lớn, cán trúc hơi cong, tán ô màu trắng toát, không có bất kỳ trang trí nào, giống như một món đồ tang, dưới tán ô lộ ra một vầng trán trắng ngần với một dải lụa đen đính ngọc buộc vắt ngang, hai hàng lông mày dài cong như mảnh trăng non, mắt băng lạnh, sống mũi thẳng, môi nhạt màu, hơi mím.
Toàn thân cô gái là một màu trắng toát, vật trang điểm duy nhất là mái tóc đen buông xõa tựa dòng thác đen từ trong sương mù đổ xuống, dài chấm gót chân. Một mỹ nhân như tạc từ băng.
Cách ba bậc thềm đá màu xanh trên có những vết nứt, một chàng trai áo trắng đang cúi người nhặt lên chiếc vòng tay bằng ngọc màu đen óng ánh, khi ngẩng đầu mới thấy đó là một khuôn mặt hao hao giống cô gái, chỉ có khác cặp lông mày không cong như mảnh trăng non, ánh mắt không lạnh như băng tuyết.
Mặc dù cũng xiêm áo trắng muốt như cô gái, nhưng cổ tay áo thêu hoa phật tang bằng chỉ tím, bàn tay cầm chiếc vòng ngọc màu đen lộ ra dưới ống tay áo: “Chiếc vòng này là của cô nương?”. Ánh mắt chàng trai long lanh như cười, “Hình như tại hạ đã gặp cô nương ở đâu?”.
Mưa lất phất, những đám rêu xanh trên bậc thềm đá ngấm nước mưa, màu sẫm dần, ở chóp mái hiên hai lớp cong vút nạm bạch ngọc treo tấm gương đồng cực lớn phản chiếu biển hoa màu vàng trên núi.
Chàng trai dung mạo tuấn tú, rạng ngời hơi ngẩng đầu nhìn cô gái, trong màn sương mù vần vũ, cạnh tấm rèm ngũ sắc trên bậc thềm, cô giương ô bước từng bước, đôi giày thêu màu trắng ướt nước mưa lộ ra đường viền màu vàng chanh.
Dừng lại cách chàng một bậc cô đón chiếc vòng ngọc màu đen bóng loáng nước mưa trong tay chàng, những ngón tay trắng bóc chạm vào tay chàng, chàng nắm tay cô, cô ngước mắt nhìn vẻ mặt hơi ngơ ngẩn của chàng: “Đa tạ”.
Cô chờ chàng buông tay, có tiếng sáo từ một nơi không xa nào đó từ từ vọng đến, chàng vẫn nắm tay cô: “Tại hạ là Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, dám hỏi quý danh cô nương?”.
Cô hơi nâng chiếc ô, ngước nhìn chàng đăm đăm, lát sau, giọng nói trong như tiếng châu ngọc va nhau, lạnh như hoa phật tang nở trong tuyết vang lên: “Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu”.
Vội mở bừng mắt, nếu có hơi thở tôi nhất định thở hổn hển, bên ngoài một vầng trăng tròn treo cao, ánh trăng lặng lẽ lọt qua cửa sổ, soi trước giường lúc mờ lúc tỏ.
Đây không phải là mộng, mà là ý thức tàn dư mà Hoa Tư dẫn viên giao châu phong ấn bắt được, nó vấn vương lơ lửng trên núi Cô Trúc, lẩn khuất trong sương mù, lạnh lùng và cao ngạo, trong suốt như ánh trăng dưới đáy nước giữa phồn hoa cuộc đời, lại như bức tranh thủy mặc dang dở cô đơn đợi chờ ai đó vẽ nốt những nét cuối cùng.
Ý thức phiêu du giữa đất trời được Hoa Tư dẫn cảm tri chỉ có thể là ký ức của người chết đối với thế gian, là những ký ức đặc biệt được khắc ghi.
Một cánh cổng sơn môn, một bức rèm châu ngũ sắc, một khung trời mờ sương, một chiếc ô trúc, mùa hoa phật tang, một đôi nam nữ tương ngộ, tất cả hình ảnh này nhất định có ý nghĩa đặc biệt nào đó đối với người đã chết. Nhớ lại cảnh tượng vừa nhìn thấy trước sơn môn, tôi thầm nghĩ, người đã chết có thể là chàng trai áo trắng nắm mãi tay cô gái, bất giác thầm tiếc nuối.
Nhưng lại nghĩ đến hai cái tên nghe được vừa rồi, cảm thấy có lẽ không đúng, Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, nếu không trùng tên, trưởng tộc đời thứ hai mươi lăm của gia tộc Công Nghi hẹn sáng mai xuống núi đón chúng tôi cũng mang tên đó. Nếu vậy… cảnh tôi nhìn thấy có phải là ý thức tàn dư của cô gái áo trắng kia?
Thì ra cô mới là người đã chết, Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu.
Cả đêm không ngủ, tôi luôn cảm thấy có bóng hình ẩn hiện, nhưng lờ mờ không rõ.
Ngày hôm sau tỉnh giấc trong tiếng đàn dạt dào như nước, đầy một trời ánh nắng, mấy con chim lạ đậu trên cửa sổ hân hoan ríu rít, là khung cảnh sáng sớm mùa hè.
Bước xuống giường vừa dụi mắt vừa mở cửa sổ, mấy con chim vỗ cánh bay vụt đi, ngẩng đầu nhìn ra chiếc sân rộng, thấy Mộ Ngôn đang ngồi khoanh chân dưới gốc cây hợp hoan cuối sân.
Hầu như mỗi lần chia tay chàng đều đánh đàn. Chấp Túc đứng bên cạnh, không xa có một chàng trai áo trắng đang đứng ngược chiều ánh sáng, nhìn không rõ mặt, đoán là người đến đón tôi, có lẽ là tùy tùng nào đó của Công Nghi Phỉ, nghĩ đến đây, cảm thấy không hài lòng.
Cây hợp hoan cao to rợp bóng, nở đầy những bông hoa trông như quả cầu nhung, ánh nắng sớm rạng ngời chiếu trên tán lá, lung linh nhảy múa trên cây đàn thất huyền, lóng lánh như hòa quang trên những ngón tay Mộ Ngôn.
Một giai điệu êm lắng, nhẹ như nước chảy, như gió lốc sa mạc thổi qua ốc đảo màu xanh, chỉ có chàng mới có thể đánh ra cầm âm như vậy, ấm áp khẽ khàng chầm chậm chảy vào lòng, tôi mở cửa chạy ra.
Tiếng đàn dừng đột ngột, đồng thời lúc đó tôi cảm thấy chân như vấp phải vật gì, người mất thăng bằng chúi đầu về phía trước, bị Mộ Ngôn bước vội tới kéo vào lòng: “Vừa sáng sớm đã được tặng một cái ôm, làm người ta hoảng hồn vì đắc sủng”. Tôi nghĩ, rõ ràng tôi hoảng hồn hơn chàng, thầm nghĩ được ôm chàng thêm chút nào hay chút đó, thừa cơ nép vào chàng, liếc xuống chân, thì ra là một bụi cỏ.
Đằng sau thoáng có tiếng đằng hắng, chắc là thấy tôi mãi không nói, giọng Mộ Ngôn ở ngay trên đầu: “Sao thế?”.
Tôi xoa mũi, hai tay ôm riết lưng chàng, khẽ nói: “Không có gì, cho chàng ôm thêm lát nữa, có vui không?”.
Tôi còn nhớ trong tiểu thuyết của Quân Vỹ những cảnh chia ly của cổ nhân luôn xảy ra trong màn mưa bụi ngợp trời, hay bên nắm tay nhau rơi lệ, uống cạn chén rượu chia ly, hái cành liễu tặng nhau. Nhưng lúc này là buổi sáng nắng chan hòa, mặt trời đang lên cao, nhìn quanh chẳng thấy bóng dáng nửa cây liễu, quả thật không biết làm sao tạo khung cảnh sầu bi.
Tôi lưu luyến Mộ Ngôn, lẽ ra phải buồn khi xa chàng, nhưng từ khi biết chàng thích tôi, ngưỡng mộ tôi gì gì đó như chàng nói, mọi nỗi buồn bã, quyến luyến đều trở nên ngọt ngào, lòng thầm nhủ chàng sẽ quay về, sẽ đến tìm tôi, vậy là can đảm lại tăng gấp trăm lần, chẳng còn một chút sầu bi.
Nhưng dù sao lúc chia ly cũng nên thể hiện một chút, không có liễu, đành lấy cành cây khác thay thế. Tôi cố bẻ một cành hợp hoan để vào tay Mộ Ngôn.
Vừa định căn dặn chàng mấy câu, lại nghe thấy tiếng cười khúc khích, ngẩng đầu nhìn thấy chàng trai áo trắng đứng cách không xa. Vị trí của người này quả rất hiểm, ở khoảng cách gần như vậy lại không nhìn rõ mặt, chỉ thoáng thấy một vật hình tròn màu đen anh ta cầm trong tay. Tôi căng mắt nhìn về phía đó nhưng vẫn nhìn không rõ mặt anh ta, vừa ngoảnh đầu định tiếp tục dặn dò Mộ Ngôn, thấy chàng đăm đăm nhìn cành hợp hoan trong tay, ánh mắt khó dò.
Tôi ngạc nhiên nhìn chàng, không biết cành cây xoàng đó có gì đáng nhìn.
Lát sau, Mộ Ngôn nén cười ngước mắt: “Khi chia tay, người ta tặng nhau cành liễu, ngụ ý là lưu luyến không muốn xa, hôm nay chúng ta chia tay A Phất lại tặng cành hợp hoan, có phải là muốn…”.
Trong khi chúng tôi nói chuyện, Chấp Túc đứng bên thần sắc bình thường, chàng trai áo trắng lại luôn mỉm cười như kẻ ngẩn ngơ, lúc này cuối cùng không nhịn được, bật cười to: “Thế… công tử, công tử tìm đâu ra bảo bối này vậy?”.
Giọng nói hơi quen, Mộ Ngôn cúi đầu sửa lại cổ áo cho tôi, không nói gì, còn tôi thầm lục tìm trong trí nhớ, xem đã nghe thấy giọng nói này ở đâu. Còn chưa kịp tìm ra, qua tấm gương đồng phản chiếu, nhìn thấy chàng trai áo trắng thong thả bước tới.
Dưới ánh nắng sớm, tôi tròn mắt há miệng nhìn khuôn mặt rõ dần trước mắt, mái tóc như dao cắt, lông mày như vẽ, mắt như nước mùa thu sóng sánh đào hoa, bước chân nhàn tản ung dung, so với chàng trai đêm qua nhìn thấy trong mơ, ngoài vài nét phong sương hoàn toàn không có gì khác biệt. Công Nghi Phỉ ở Bối Trung. Ngoài ra, vật tròn tròn màu đen chàng ta vẫn cầm trong tay dưới tán cây cũng lọt vào mắt tôi. Tôi nhướn mày, không biết tại sao lại buột miệng hỏi một câu: “Chiếc vòng trong tay huynh là của ai?”.
Chàng ta sững người, lại giơ chiếc vòng ngọc màu đen ra trước ánh nắng ngắm nhìn: “Cô nương cũng thấy nó đẹp ư?”. Khóe mắt như cười có vẻ âu yếm, lời nói ra lại lạnh lùng: “Không biết, hình như sinh ra đã mang nó”. Không hề nhắc đến chủ nhân thực sự của chiếc vòng.
Mộ Ngôn gửi gắm tôi cho Công Nghi Phỉ, rõ ràng tôi đầy thắc mắc trước biểu hiện của chàng trai áo trắng vừa rồi, nhưng nghĩ đến triết học xử thế trong thời loạn mà sư phụ đã dạy, ví dụ, ở đời nên ít quan tâm những chuyện không đâu, trên đường thấy chuyện bất bình nên tránh xa, liền lặng lẽ xua đuổi ý nghĩ muốn làm rõ chuyện này, kiên nhẫn chờ Mộ Ngôn xong câu chuyện với Công Nghi Phỉ.
Không biết hai người nói những gì, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười ranh mãnh của Công Nghi Phỉ: “Nói ra e chẳng ai tin, Mộ công tử có tiếng là người cẩn trọng, mọi việc dự trù đủ đường lui, vậy mà lại có điểm yếu, chính là một cô gái yếu ớt ngây thơ, hai vị công chúa Đường quốc và Lầu quốc nếu biết chắc tức ói máu”.
Tôi dỏng tai, nghển cổ nhìn phản ứng của Mộ Ngôn, thấy chàng phe phảy quạt hơi liếc về phía tôi, lại lập tức quay đi, nghiêng đầu có thể nhìn thấy nụ cười thoáng trên miệng chàng, giọng dù cố hạ thấp, nhưng vẫn bị tôi nghe thấy: “Việc này chẳng phải huynh hiểu rõ nhất sao? Cái gọi là điểm yếu, hoặc là nên tự tay phá hủy, hoặc là giữ gìn cẩn mật. Mặc dù từ thượng cổ, phàm những kẻ làm việc lớn đều chọn phương án thứ nhất, nhưng con người tôi luôn cảm thấy đời người nơi trần thế tựa phù vân ngắn ngủi, nếu có điểm yếu cũng là chuyện tốt”.
Công Nghi Phỉ ngạc nhiên nhìn chàng, thú thực tôi cũng ngạc nhiên không kém, sửng sốt nhìn chàng, có lẽ cảm thấy ánh mắt tôi, mắt chàng hơi liếc lại, tôi vội vàng khép áo ngồi ngay ngắn, giả bộ không nghe thấy gì, ngoẹo đầu thầm nghĩ mình phải đối xử thật tốt thật tốt với chàng.
Lát sau, hai người nói chuyện xong, Công Nghi Phỉ đi theo sau Mộ Ngôn, một trước một sau thong thả bước đến. Mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, sắp đến giờ lên đường, thấy Mộ Ngôn như có gì muốn nói với tôi,
Nhưng tôi không cho chàng cơ hội, tranh nói trước, sợ không đủ thời gian, nắm tay áo chàng vội vàng nói ra những điều vẫn luôn muốn nói với chàng:
“Buổi tối nên đi ngủ sớm, không được thức khuya”. Có thể chàng sẽ cho là quá ấu trĩ.
“Lúc ngủ phải chèn chăn thật chặt, không được đạp chăn ra”. Nếu là các cô gái từng trải, lúc xa người yêu chắc sẽ có những cách thức từng trải hơn.
“Trời lạnh phải mặc nhiều áo, đừng nghĩ mình có sức khỏe mà bất chấp”. Nhưng những chuyện đó tôi không biết.
“Không nên kén ăn, rau xanh, thịt, đều phải ăn”. Nếu tôi ở bên, sẽ dần dần học cách chăm sóc chàng như vậy.
Cả khu nhà trúc bỗng yên tĩnh, cũng không nghe thấy tiếng cười châm chọc của ai, còn một điều quan trọng nhất chưa nói ra, tôi liếm môi, phải lấy can đảm mới nói được, cổ hơi khô, đang định mở miệng, đột nhiên bị Mộ Ngôn cười ngắt lời: “Những điều đó tôi phải dặn em mới đúng…”.
Tôi lườm chàng: “Em nghiêm túc đấy”.
Chàng nhìn tôi một lát, không cười nữa, gập cái quạt trong tay, gật đầu: “Được tôi nhớ, còn gì nữa?”.
Khó khăn lắm mới lấy đủ can đảm nhưng lại bị ngắt lời, có cảm giác khó nói tiếp, ngẩng đầu liếc nhanh chàng một cái, đằng hắng một cái, nhìn xuống đất: “Còn, còn nữa chính là…”, tỏ ra dữ dằn: “Không được nhìn các cô gái đẹp, có cô gái đẹp nào làm quen cũng không được bắt chuyện!”.
Chàng khẽ cười, đặt tay lên vai tôi: “Ờ, còn gì nữa?”.
Đột nhiên hơi buồn, tôi cúi đầu ủ rũ nhìn mũi giày dưới chân: “Phải sớm quay về đón em”.
Đầu bị nâng lên, chàng chăm chú nhìn tôi một lát, môi ai chạm nhẹ vào trán: “Khi hoa phật tang tàn, tôi sẽ đến đón em”.
Trong một sớm mùa hè chói nắng, chúng tôi mỗi người mỗi ngả, người xuôi xuống núi, người lên núi, hai con đường trước mặt như vươn ra ngàn dặm, như số phận chia ly.
Tôi không thể biết trước, nhưng mơ hồ cảm thấy bất an, tự cổ đến nay, phàm những đôi khi chia tay lấy mùa hoa làm lời hứa hẹn, cơ hồ đều lỡ dở, vì lỡ mùa hoa nên không tìm lại, vì không tìm lại nên lỡ dở.
Cảnh vật rộn ràng lướt qua bên cạnh, suốt đường yến hót oanh ca, không lâu sau trước mặt tôi xuất hiện những bậc đá xanh trải dài, lốm đốm ánh nắng, bóng cây soi trên bậc đá phủ rêu xanh, giống như một mảnh gấm thêu chìm đường chỉ cùng màu trên mặt đá. Dừng chân ngẩng đầu nhìn lên, những chiếc cột sừng sững, lầu gác trùng trùng, chóp mái hiên cong viền bạch ngọc, rèm châu ngũ sắc lóng lánh hào quang, sơn môn uy nghi trước mặt, tất cả giống hệt cảnh nhìn thấy đêm qua.
Công Nghi Phỉ ngoái nhìn tôi: “Có lẽ Quân cô nương thấy mệt?”.
Thực ra, chỉ là do trong đầu hiện lên bóng người thướt tha cầm chiếc ô cán trúc. Tôi lắc đầu, đi theo chàng ta, bước lên những bậc đá cổ xưa, khi đến gần sơn môn, cuối cùng vẫn không kìm được, buột miệng hỏi: “Cô Trúc sơn này là sản nghiệp của Công Nghi gia?”.
Công Nghi Phỉ dừng chân, một chiếc gương đồng lớn treo trước lầu chính trên cao phản chiếu bóng áo trắng của chàng ta: “Trước đây không phải, Cô Trúc sơn là thánh địa của hoa phật tang, mỗi năm đến kỳ hoa nở, khách đến thưởng hoa đông như hội cho nên năm năm trước tôi đã mua lại, một nơi thanh tịnh thế này nên yên tĩnh thì hơn”.
Tôi bước hai bậc lại gần chàng ta, đến trước sơn môn, giơ tay chạm bức rèm châu lóng lánh: “Sơn môn trông khá cổ kính, bức rèm ngũ sắc này xem chừng lại rất mới”.
Công Nghi Phỉ nửa cười nửa không, xoay xoay chiếc vòng ngọc trong tay, “Quân cô nương, xin mời!”. Rèm châu rung lên, tiếng ngọc lanh canh.
Tôi giơ tay chạm một chuỗi ngọc: “Thực ra có thể tháo bức rèm này, luôn thay mới có phần lãng phí”.
Chàng ta cúi đầu, tư lự, “Nhưng nếu tháo đi sẽ cảm thấy thiêu thiếu”.
Tôi nhìn chàng ta: “Thiếu gì cơ?”.
Chàng ta hơi sững lại, tay hất một chuỗi ngọc trên bức rèm, giọng trầm tư: “Có lẽ là khoái cảm đốt tiền”.
“…”.
Tôi không biết sơn môn này có ý nghĩa thế nào đối với Công Nghi Phỉ, hình như chàng ta không bận tâm, cõ lẽ đã quên một cô gái từng gặp thuở thiếu thời, cô gái tóc đen áo trắng cầm chiếc ô cán trúc, không biết đã chết ở đâu, từ bao giờ. Những cây cổ thụ chọc trời mọc hai bên đường, vừa bước vào đã cảm thấy có vô số đôi mắt ẩn giữa tán lá rậm rạp đang lạnh lùng nhìn tôi, cánh cổng sơn môn đồ sộ này là ký ức tàn dư không thể tiêu tan của cô gái đã chết.
Phía sau sơn môn lại là thềm đá trăm bậc, trên thềm đá, một đại viện đồ sộ uy nghi thấp thoáng bóng cây cổ thụ, quy mô có thể sánh với hành cung vương thất, thầm nghĩ Công Nghi Phỉ quả nhiên rất giàu có, giàu như thế, sau lưng không phải là thế lực nắm thóp triều đình, thì là thế lực phản triều đình.
Mộ Ngôn có quan hệ với gia tộc như thế thật đáng lo ngại.
Dọc đường không ai nói gì, đến gần biệt viện, thấy cửa biệt viện đóng chặt, trước cửa không có ai, tôi cảm thấy rất lạ, một thiếu nên có vẻ là người hầu cưỡi một con ngựa gầy loạng choạng không biết từ đâu đến, hình như bị ngã ngựa, quỳ khóc trước mặt Công Nghi Phỉ: “Đại nhân, đại nhân đã về, phu nhân và đại tiểu thư đánh nhau, Tiêu Phong sắp chết rồi, Thúy Nhi tỷ tỷ bảo nô tài đi tìm đại nhân…”.
Lời chưa dứt, bóng trắng trước mắt vụt lóe, Công Nghi Phỉ thoắt cái đã kéo tôi lên lưng con ngựa đang thở dốc, như một mũi tên vòng qua bức tường vây cao sừng sững của biệt viện, phóng vọt đi. Tôi ngồi trên ngựa chỉ kịp hỏi một câu: “Những ai vậy, phu nhân, đại tiểu thư nào?”.
Giọng Công Nghi Phỉ ngập ngừng phía trên: “Đại tỷ và phu nhân tôi bất hòa đã lâu, thỉnh thoảng lại xích mích, để Quân cô nương nhìn thấy, thật hổ thẹn”. Nhưng lại không thấy chàng ta có vẻ hổ thẹn chút nào.
Tiếng gió rít bên tai, tôi nói như ma xui quỷ khiến: “Đại tỷ có phải là song sinh với huynh?”.
Người phía sau chợt lặng thinh, lát sau khẽ cười, giọng bình thường, mạch lạc: “Phải”.
Bàn tay nắm bờm ngựa suýt tuột, tôi suýt lăn xuống đất, sao có thể, tôi lẩm nhẩm ba chữ đó trong đầu, cuối cùng cố nén không để bật ra miệng.
Chuyện Công Nghi Phỉ có chị gái song sinh còn sống trên đời cũng lạ lùng và khó tin như chuyện Quân Vỹ từ nhỏ đến giờ vẫn thầm yêu tôi. Nghe đồn, gia tộc Công Nghi sinh sống ở Bối Trung tuyệt nhiên không cho phép tồn tại trẻ song sinh, nếu sinh đôi nhất định giữ một bỏ một.
Chuyện này chủ yếu là do hung thú Thiên Hà, thần hộ vệ của gia tộc Công Nghi quá vô dụng. Trước nay, trưởng tộc Công Nghi xác lập quyền uy của mình chủ yếu dùng phép chiêu hoán hung thú, nhưng hung thú vô dụng đó không thể phân biệt được sự khác nhau giữa hai người song sinh, ví dụ trong họ có người sinh ra một cặp anh em song sinh, nếu có ngày người anh được kế thừa ngôi vị trưởng tộc, sau khi cắt máu tuyên thệ với Thiên Hà, có khả năng sai khiến Thiên Hà, người em trai có cùng huyết thống nếu mạo danh anh trai sai khiến Thiên Hà tạo phản thì quá dễ dàng.
Giống như một vị anh hùng vô địch, trên đời không ai địch nổi nhưng một khi vị anh hùng mắc bệnh hiểm nghèo thì cũng không sống nổi. Những cặp song sinh chính là nguyên nhân gây ra căn bệnh hiểm nghèo cho gia tộc Công Nghi, căn bệnh đó chính là nội loạn. Một gia tộc dù mạnh đến đâu cũng sẽ suy yếu nếu có nội loạn, đó là kinh nghiệm. Những bậc trưởng lão cơ mưu đã sớm nhìn ra điểm đó. Gia tộc Công Nghi kế truyền bảy trăm năm, có không ít người xúi quẩy sinh đôi, cho dù là thai long phượng cũng đều bị xử lý, người được lựa chọn là niềm tự hào của trời, từ đó được mọi người tôn sùng, người không được chọn thì nhỏ mọn như cây cỏ, lập tức mất mạng.
Điều thú vị là nhiều thế hệ trưởng tộc có thành tựu nhất lại hầu như đều xuất thân song sinh. Món nợ đầu tiên phải gánh chịu khi đặt chân đến thế gian chính là máu của huynh đệ cùng huyết thống, cảnh ngộ đó có lẽ khiến người ta trở nên vô tình.
Bảy năm trước, lúc gia tộc Công Nghi bị hủy diệt, hình như nghe nói trưởng tộc thế hệ này có một người chị song sinh, dạo đó nghe chuyện chỉ biết thở dài. Bây giờ lại biết người chị đó vẫn sống, thật là chuyện kỳ lạ khó tin, chẳng phải người chị đó khi ra đời đã bị ném xuống Đoan Hà tế thần hộ vệ của dòng họ rồi sao?
Chuyện về sau chứng minh sự kinh ngạc của tôi là không đáng, điều kỳ diệu của sự việc không chỉ dừng ở đó, như một triết gia đã nói, cuộc sống luôn luôn có những chuyện đáng kinh ngạc, bạn không sắp kinh ngạc thì cũng đang kinh ngạc.
Con ngựa gầy hổn hển đưa chúng tôi tới một bãi cỏ xanh rộng lớn, đến một khoảnh đất đỏ trống không, tôi thấy một con tuấn mã đen bóng hí lên rồi khụy xuống, đất đỏ bốc lên mù mịt.
Công Nghi Phỉ kéo tôi nhảy xuống ngựa, khi vừa chạm đất, mới nhìn thấy một cô gái áo hồng tay cầm kiếm, quỳ bên cạnh con ngựa, đang ôm cánh tay phải hình như bị thương, khuôn mặt như hoa tường vi đầy ấm ức, một vẻ đẹp phong mãn mơn mởn. Nô bộc hoảng hốt nhất tề nhường lối đi, Công Nghi Phỉ vội chạy đến đỡ cô gái dậy, có lẽ chạm vào vết thương, cô rên một tiếng, kiếm dài chống đất, cánh tay không bị thương giơ lên níu cánh tay chàng ta, giọng tủi thân, nói như khóc: “Hãy đi xem Tiêu Phong thế nào, có phải bị người đàn bà điên đó đánh chết rồi không!”.
Công Nghi Phỉ vốn dĩ mặt luôn tươi cười, lúc này cau mày, nhẫn nại dìu cô gái áo hồng đi đến kiểm tra con tuấn mã vừa ngã. Còn mắt tôi lại đăm đăm nhìn cô gái áo trắng đứng bên cạnh chuồng ngựa phía xa. Mái tóc đen như thác nước, đôi mắt lạnh như đầm sâu, một dải lụa đen đính ngọc buộc ngang trán, trong tay là chiếc roi chín khúc màu bạc.
Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu. Cô gái tôi vốn tưởng đã chết đứng dưới ánh sáng như một bức tượng ngọc tạc, bóng đổ dài dưới chân, một người sống thực sự. Tôi nhìn kỹ một lát, không kìm nổi muốn đi ra chỗ cô, bỗng nghe tiếng Công Nghi Phỉ trầm giọng hỏi: “Huân tỷ, đã xảy ra chuyện gì?”.
Chàng ta ngẩng đầu nhìn về phía cô, cô gái áo hồng đang chúi trong lòng chàng ta hai tay run run, đôi mắt phẫn nộ đẫm nước, con ngựa đen bên cạnh gọi là Tiêu Phong sau khi thở hắt ra mấy hơi đã nằm im bất động.
Huân tỷ?
Giọng cô thanh như tiếng ngọc bội va nhau, lạnh lùng vang lên: “Tôi kiếm thuật kém, không cẩn thận bị tuột tay, làm cô ấy bị thương. Còn về con ngựa chẳng phải tối qua nó đã làm ngã đệ, một con ngựa tồi ngay chủ cũng không nhận ra giữ lại làm gì”.
Tôi nhìn kỹ cô gái áo trắng đang nói, ánh mắt cô lướt tới, lạnh như băng tuyết nghìn năm không tan trên núi, dừng một lát, thu lại cái roi, quay phắt người bỏ đi.
Cô gái áo hồng khóc to: “Cô ta đánh chết Tiêu Phong, lại còn làm thiếp bị thương vậy mà chàng vẫn để cô ta đi…”.
Công Nghi Phỉ lạnh lùng ngắt lời cô: “Nàng cũng quá bướng, đầu óc tỷ tỷ có vấn đề, bảo nàng hãy tránh xa, nàng lại đi chọc tức người ta”.
Cô gái áo hồng trợn mắt nhìn chàng: “Rốt cuộc chàng có phải là phu quân của thiếp không?”.
Công Nghi Phỉ dìu cô đứng dậy: “Hỏi hay lắm, ngoài ta, thử hỏi trên đời còn ai có thể dung túng cho nàng như thế”.
Cô gái áo hồng đẩy chàng ra đứng lên, mắt vẫn còn ánh nước, lại mím môi, nói cứng: “Trên đời này người thương thiếp nhất là cha thiếp, nhưng cha thiếp, cha thiếp…”. Chưa nói hết đã ngồi sụp xuống đất òa khóc.
Công Nghi Phỉ cũng ngồi xuống, lấy chiếc khăn mùi xoa từ trong ống tay áo đưa cho cô: “Đừng khóc, nhìn xem, trông nàng có ra dáng phu nhân không”.
Giọng có vẻ nghiêm khắc nhưng lời lại dịu dàng.
Tôi ngẩng đầu nhìn về phía Khanh Tửu Tửu vừa đi, mặt trời di chuyển sau những đám mây nhỏ để lại những bóng râm dị hình trên bãi cỏ, gió lại thổi tan đi, bồ công anh rung rinh múa, hoa phật tang vàng rực nở ngập cánh đồng và triền núi, dập dờn đuổi nhau như sóng, bóng trắng đó đi xa dần, khuất hẳn ở phía cuối cánh đồng hoa phật tang.
Năm ngày sau đó tôi không gặp Khanh Tửu Tửu, nô bộc trong biệt viện nói, đó không phải là Khanh Tửu Tửu nào hết, mà là Công Nghi Huân, chị em song sinh của Công Nghi Phỉ, từ nhỏ lưu lạc bên ngoài, cảnh ngộ rất đáng thương, vào một đêm trăng hai năm trước được đưa tới biệt viện của Công Nghi gia, chia lìa nhiều năm cuối cùng trở về đoàn tụ với tiểu đệ song sinh.
Nghe nói đêm đó phu nhân của Công Nghi Phỉ không thể tin chuyện đó, cho rằng người đó mạo danh, hầm hầm đi đến hoa đình, nhưng lại sững người khi nhìn thấy dung mạo của Công Nghi Huân. Tôi muốn hỏi dò phần kết câu chuyện, người nô bộc đang hào hứng kể bỗng dừng lại, sau đó mặc cho tôi gạn hỏi thế nào cũng nhất định không chịu mở miệng, tôi đoán có lẽ một đại tiểu thư đầu óc không bình thường, gia nhân cũng không tiện nói ra với người ngoài.
Tôi không biết đầu óc Công Nghi Huân có phải bất bình thường thật không, nhìn có vẻ không giống, nhưng Công Nghi Phỉ đã nói cô ta không bình thường, nghĩa là cô ta không bình thường thật, giống như khi phụ vương nói tôi là kẻ máu lạnh vô tình, cho dù tôi nhiệt huyết sục sôi cũng vô nghĩa, đây chính là sức mạnh của quyền lực.
Qua nhiều lần lân la hỏi chuyện gia nhân trong nhà, tôi được biết thêm, Công Nghi Phỉ có thái độ kỳ thị đối với người chị sinh song của mình. Nghe nói khi Công Nghi Huân mới trở về, cậu em trai mặc dù tình cảm không thật thân thiết nhưng cũng không có vấn đề gì lớn, thực ra chị em thất lạc đã lâu, có những xa cách nhất định cũng là lẽ thường.
Nhưng bầu không khí có vẻ hòa hợp đó chỉ kéo dài trong hai tháng đầu, dần dần mọi người phát hiện, có những lúc, việc làm của Công Nghi Huân thật rất khó lý giải. Đương nhiên, hầu như cô ít làm việc, nhưng động làm việc gì hầu như đều xảy ra chuyện.
Tháng thứ ba sau khi Công Nghi Huân trở về Công Nghi gia, có người đến mời Công Nghi Phỉ tham dự cuộc thi đấu chim ưng, hai con chim ưng trên không hăm hở lao vào nhau, một con sau khi bị thương muốn chạy trốn, con kia hiếu thắng truy đuổi đến cùng, hai con xông thẳng về phía Công Nghi Phỉ ngồi xem trên đài cao, bị Công Nghi Huân ngồi bên cạnh dùng chiếc roi chín khúc quật chết trong chớp mắt, cuối cùng phải bồi thường không ít tiền cho vị khách chủ nhân của con chim.
Đó là lần thứ nhất, Công Nghi Huân luôn muốn bảo vệ Công Nghi Phỉ. Hai năm sau đó những việc tương tự xảy ra không biết bao nhiêu lần, Công Nghi gia do vậy phải bồi thường không biết bao nhiêu tiền. Đồng thời, thích khách hãm hại hoặc sắp hãm hại Công Nghi Phỉ bị chết dưới chiếc roi chín khúc của Công Nghi Huân cũng không ít.
Mặc dù tôi có nhiều anh chị, nhưng đều cùng cha khác mẹ, hơn nữa hầu như không đi lại với nhau, tôi không hiểu chính xác cái gọi là tình anh em, từ nhỏ thân thiết nhất có lẽ là Quân Vỹ, nhưng tôi hình dung ra một chuyện như sau, giả sử có một ngày, Quân Vỹ thích viết tiểu thuyết, hy vọng có được cuốn tiểu thuyết độc quyền của một tiểu thuyết gia danh tiếng nào đó, nhưng con trai tiểu thuyết gia đó lại ra điều kiện chỉ có gả tôi cho anh ta thì Quân Vỹ mới được độc quyền cuốn tiểu thuyết của cha anh ta. Tôi suy nghĩ một lát xem mình có vì Quân Vỹ mà nhận lời không, cuối cùng cảm thấy, cho dù Quân Vỹ đánh ngất tôi đem gả cho người ta, khi tỉnh dậy tôi cũng nhất định trốn về… Nhưng trước một hoàn cảnh tương tự, Công Nghi Huân lại chủ động nhận lời, chỉ vì một cuốn kỳ phổ quý hiếm, vì muốn người em song sinh có được món quà sinh nhật vừa ý nhất.
Theo lời đồn, khi đối phương mang sính lễ đến cửa Công Nghi Phỉ mới biết chuyện, một người trước nay cho dù núi Thái Sơn sụp đổ cũng không thay đổi sắc mặt, lần này lại nổi giận thực sự, đem một đội quản gia, người hầu cùng đồ sính lễ vứt ra khỏi cửa Công Nghi gia như vứt một món đồ.
Sau đó quan hệ chị em vốn không thân thiết dần dần xa cách, đến hôm nay, theo cách nói của gia nhân trong nhà, Công Nghi Phỉ hầu như không coi mình có người chị đó nữa.
Công Nghi Phỉ nói Công Nghi Huân đầu óc không bình thường, tôi nghĩ không phải chàng ta nói bừa, có lẽ trải qua những chuyện đó chàng ta thực sự cảm thấy đầu cô có vấn đề. Nhưng tôi biết một điều mà chàng ta không biết. Bất luận bọn họ cho là thế nào, tôi biết Công Nghi Huân chính là Khanh Tửu Tửu.
Đương nhiên Khanh Tửu Tửu cầm chiếc ô đứng trước sơn môn đã chết, trên thế gian có một dạng tồn tại, ý thức và tinh thần đã phân tán được nhập trở lại vào cơ thể, sau đó, họ quên hết con người trước đây của mình, sinh vật đó nếu đến thế gian được gọi là ma.
Tôi không tin Khanh Tử Tửu là chị em song sinh với Công Nghi Phỉ, gia tộc Công Nghi xưa nay rất cương quyết trong chuyện xử trí trẻ song sinh. Nếu Khanh Tửu Tửu không phải là chị em song sinh của Công Nghi Phỉ, vậy thì Công Nghi Huân do hồn phách của Khanh Tửu Tửu nhập vào đương nhiên cũng không phải.
Nhưng suy đến cùng, đó chỉ là trực giác của tôi.
Quân sư phụ không muốn tôi ra ngoài gây chuyện. Lúc còn nhỏ tôi cho rằng biết nhiều mới hạnh phúc, không biết là bất hạnh, sau khi lớn lên bị dồn ép không còn lối thoát, mới cảm thấy nhiều lúc vô tri là phúc, hiểu biết nhân gian càng ít càng nhẹ nhõm thoải mái. Do vậy tôi kìm chế ý muốn tiếp cận Công Nghi Huân.
Nhưng tôi không đi tìm cô, cô lại chủ động đến tìm tôi.
Hôm đó có gió lạnh, trong tiểu viện dành cho khách, Hoa tử vi màu tím trong vườn đung đưa trong tán lá xanh, cả một tấm thảm hoa lớn dềnh lên như sóng mỗi khi có gió thổi. Công Nghi Huân rẽ hoa đi vào, xiêm áo trắng muốt du nhàn như ẩn hiện, như một đóa hoa được sóng đẩy đến trước mặt tôi, chúng tôi đối diện qua song cửa sổ: “Thiên hạ thênh thang quả không hiếm sự lạ, tôi là một bóng ma, còn cô là một người chết hồi sinh do luyện Hoa Tư dẫn”.
Cô hơi cụp mắt, một đôi mắt không có thần, màu lam nhạt như dòng nước chảy qua nghìn núi in bóng trời xanh, trên trời dưới đất một màn tuyết mỏng.
Tôi chống tay vào má nhìn cô: “Vì sao cô đến tìm tôi? Muốn tôi dệt cho cô giấc mộng ư? Cô đã được nghe về Hoa Tư dẫn thì nhất định đã biết cái giá phải trả nếu muốn tôi dệt cho mộng cảnh?”. Tôi nhìn mắt cô: “Cái giá này cô không trả được, sinh mệnh của một con ma không có ý nghĩa với tôi”.
Cô ngước mắt, ánh mắt lướt qua thảm hoa tử vi nhấp nhô ngoài cửa sổ, “Dệt mộng ư? Thuật sỹ giúp tôi nhập vào cơ thể mới từng nói đến công dụng này của Hoa Tư dẫn. Nhưng tôi không muốn ảo mộng nào từ cô. Tôi không biết Hoa Tư dẫn dệt mộng cần một cái giá như thế nào, thiên hạ cũng chẳng mấy người biết, điều tôi muốn chân thực hơn rất nhiều. Cô nhìn tôi, “Cô nhất định có thể nhìn thấy phần ký ức của cuộc đời trước đây được phong ấn vào cơ thể tôi”.
Mặt tôi suýt đập xuống bàn, có thể thấy lời cô khiến tôi chấn động thế nào, nếu có tái sinh, bóng ma cơ hồ tương đương với chuyển kiếp của con người, giống như chúng ta sinh ra đều quên hết ký ức về tiền kiếp của mình, ma lại càng thế, làm sao có thể có cái gọi là ký ức của cuộc đời trước.
Có lẽ nhìn thấy băn khoăn của tôi, ngón tay trắng như tuyết của cô đưa lên che mắt, đó là đôi đồng tử màu lam nhạt: “Ở đây phong ấn ký ức của tôi với tư cách là người.
Nghe nói sau khi tôi chết bảy năm trước, thuật sỹ dùng năm năm giúp tôi tái sinh, lấy ra phần ý thức tàn dư trước khi chết phong vào hai viên ngọc châu, đưa vào cơ thể tôi. Nhưng tôi bây giờ không phải là tôi trước đây, không có ký ức đó, tôi chẳng là gì hết”.
Tôi lạ lùng nhìn cô: “Vậy vì sao cô đến tìm tôi? Chỉ cần nhờ thuật sỹ kia mở phong ấn ra là được, như vậy cô sẽ là cô hoàn chỉnh”.
Gió lùa qua cửa sổ, trong mắt cô lóe lên bao điều, còn chưa kịp nắm bắt đã yên tĩnh trở lại: “Tử Khác nói đúng, trẻ như thế đã chết, không phải là một số phận tốt, những ký ức đó không cần cũng được. Chàng nhờ thuật sỹ tái sinh cho tôi, nghe nói tiền kiếp tôi nợ A Phỉ rất nhiều, tâm nguyện duy nhất là được trả ơn, mượn cơ duyên đó sống lại trở thành một sinh mệnh mới. Nhưng gần đây tôi nghĩ, một cuộc đời dù không tốt đến đâu cũng có những ký ức đẹp, khi Tử Khác đưa tôi đến Công Nghi gia đã nói A Phỉ vẫn nhớ nhung tôi. Nhưng bây giờ tôi lại hoài nghi những lời đó. Những ký ức được phong ấn vào cơ thể tôi thuật sỹ không có cách nào nhìn thấy, như cô nói, chỉ cần mở phong ấn, nhưng ký ức xấu khiến người ta đau khổ tôi không muốn biết, chỉ cần những ký ức đẹp. Hoa Tư dẫn có lẽ làm được điều đó, nếu cô đồng ý giúp tôi, cô muốn gì tôi sẽ cố làm cho cô. Còn ký ức của tôi, sau khi cô nhìn thấy, xin hãy kể cho tôi nghe những gì đẹp nhất”.
Cô nói phải, Hoa Tư dẫn quả thực có thể nhìn thấy ký ức được phong ấn, chuyện này giống như lén đi vào giấc mơ của người khác, chỉ là khi vào ký ức của cô phải chú ý giữ an toàn cho bản thân, ngoài ra không bị hao tổn gì.
Lát lâu sau, tôi khẽ nói: “Tử Khác? Tên tự của Trần thế tử Tô Dự?”.
Tôi cười: “Tôi có thể giúp cô, tôi không cần trả ơn gì hết”.
Quân sư phụ cứu sống tôi, mục đích là để tôi đi hành thích Trần vương, thấm thoát ra đi đã kha khá thời gian, nhưng vẫn chưa có chuẩn bị nào cho việc đó, lần này vừa may có thể mượn ký ức của Công Nghi Huân để thăm dò. Cũng cần nói thêm, gia tộc Công Nghi bảy năm trước có thể coi là một cánh tay của nước Trần.
Công Nghi Huân nói cô chỉ muốn biết những phần đẹp đẽ trong quá khứ, xem ra đây không phải là người hay suy nghĩ, thật tiếc là không thể giới thiệu cho Quân Vỹ.
Có một số người nghĩ nhiều làm ít, còn những người chỉ biết cắm cúi làm việc suy nghĩ thường đơn thuần. Nghe các gia nhân nói sau lưng, hai năm nay Công Nghi Huân làm khá nhiều, bất luận là việc gì chung quy là làm không ít việc, có thể thấy cô là người ít suy nghĩ. Thực ra con người ta sống trên đời, bất luận làm nhiều hay ít, chỉ cần cảm thấy niềm vui trong đó là được, khi người ta vui, thế giới của người đó sẽ vui, những người trong thế giới của họ cũng vui, mỗi người đều có thế giới của mình, những người có duyên với nhau, thế giới của họ mới có một phần trùng nhau. Tôi nghĩ, Công Nghi Huân đến tìm tôi nhờ giúp là muốn tìm phần thế giới trùng với thế giới của Công Nghi Phỉ.
Đêm trăng tròn, Công Nghi Huân vẫn y phục trắng muốt một lần nữa đến ngôi tiểu viện dành cho khách trong biệt viện của Công Nghi gia gặp tôi. Nghe nói đêm nay bên ngoài chính đường sẽ có yến tiệc mừng tiết hoài nguyệt, có lẽ sẽ không ai quấy rầy chúng tôi. Gia nhân để một chiếc giường dưới giàn nho trong sân, những chùm nho xanh trĩu quả lủng lẳng, tựa như vô số chiếc bình phỉ thúy màu xanh, ánh trăng lạnh êm đềm lọt qua kẽ lá nho chiếu trên chiếc giường trải tấm nệm mỏng và bức bình phong nhỏ vẽ cành hoa che phía trước.
Vừa sắp đặt xong, bóng áo trắng thanh nhã của Công Nghi Phỉ đã xuất hiện ở cổng viện. Chàng ta dừng lại nhìn Công Nghi Huân, không tỏ thái độ gì: “Tìm mãi, thì ra tỷ ở đây”.
Công Nghi Huân bước lên mấy bước lại dừng lại, bóng đổ dài dưới trăng.
Công Nghi Phỉ lạnh nhạt liếc nhìn cô, ánh mắt di chuyển đến tôi, đôi mắt đào hoa như nước mùa thu tươi cười: “Gia tỷ đã thân thiết với Quân cô nương, vậy tối nay xin nhờ cô nương chăm nom dùm, đừng để tỷ ấy ra khỏi nơi này”.
Tôi băn khoăn nhìn chàng ta, không biết là ý gì, còn chàng ta đã quay đi, được một đoạn lại dừng: “Chuyện năm trước tôi không muốn lại xảy ra”.
Công Nghi Huân nãy giờ không nói gì, quay người đi đến bên giường, tôi hiếu kỳ: “Năm trước đã xảy ra chuyện gì?”.
Cô khép áo nằm lên giường, lạnh nhạt: “Không có gì, các nhà quyền quý mời khách đến dự tiệc mừng tiết hoài nguyệt, có lẽ cô cũng nghe nói”.
Quả là tôi có nghe, các bậc công hầu khanh tướng, thế gia thường tổ chức yến tiệc trong đêm trăng tròn, nói một cách văn hoa nho nhã là ngắm trăng uống rượu hát ca, nhớ những ngày qua, vân vân, thực ra là một hình thức xã giao hưởng lạc, ca kỹ mua vui trong yến tiệc mọi người đều có thể tùy ý trêu đùa hành lạc. Cửu Châu tồn tại đến nay để lại không ít lề thói phong lưu, tiết hoài nguyệt là một trong số đó.
Tôi ngồi lại gần giường, cô nhắm mắt, lạnh lùng nói tiếp: “Trong tiệc đó của Công Nghi gia năm ngoái, gia chủ các nơi đến dự rất đông, tôi đi dạo bên ngoài, gặp hai vị khách say, bị tưởng nhầm là ca kỹ mua vui trong yến tiệc”.
Tôi xê dịch bức bình phong che gió: “Sau đó thì sao?”.
Tay ôm trán, vẻ mệt mỏi, giọng cô lại bình thản rất mực: “Sau đó ư? Tôi lấy của mỗi người một cánh tay”.
Tôi tròn mắt: “Sao?”.
Cô nói: “A Phỉ rất giận, cơ hồ việc gì tôi làm cũng khiến đệ ấy giận, có lẽ tôi bị hai kẻ đó khinh bạc đệ ấy mới không giận?”.
Tôi nghĩ, nói: “Có lẽ, chàng ta giận là bởi vì họ dám khinh cô”.
Cô nhấc tay khỏi trán, mở mắt, lạnh lùng nhìn tôi: “Tôi không còn tin những lời như thế nữa”.
Mây che lấp mặt trăng, hoa rơi lả tả, trong tiếng đàn êm êm như tiếng nước, Công Nghi Huân dần dần thở đều, có lẽ đã ngủ. Tiếng đàn này không phải là Hoa Tư điệu, chỉ có tác dụng ru ngủ.
Bóng ma phiêu du bên ngoài quy luật thời gian thực ra không có Hoa Tư điệu lấy tính mạng làm nhạc phổ, tôi không cần mạng của một con ma, cô không trả được cái giá đắt như thế, thực ra tôi cũng không dệt được Hoa Tư mộng của cô. May có ký ức được phong ấn trong hai hạt trân châu chính là đôi đồng tử trong mắt, cũng may nguyện vọng của cô chỉ là muốn tôi nhìn giúp những ký ức được phong ấn trong đó. Đối với bóng ma, tinh thần có trước thân xác ký gửi, sự kết hợp giữa tinh thần và thân xác ký gửi cũng giống như sự kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần và thể xác của con người, nhưng đối với bóng ma, tinh thần chứa những ký ức tàn dư không bị trói buộc bởi thân xác mà nó nương náu, dễ tách khỏi thân xác đó, cũng dễ bị nhìn trộm.
Năng lực dùng Hoa Tư dẫn thôi động ý thức tự thân của nó, nhìn thấu tinh thần đó của chủ nhân viên giao châu được gọi là ảo chi đồng. Trong điều kiện đối phương tinh thần bình ổn, khỏi nói chỉ bị phong ấn, cho dù ký ức được bảo mật đến đâu, ảo chi đồng cũng có thể đọc được.
Đương nhiên chuyện đó không hay lắm, nhìn chung tôi không đi đọc ký ức của một con ma. Chủ yếu là vì lớn bằng ngần này, tôi vẫn chưa từng gặp ma. Giả sử Mộ Ngôn là một con ma, hàng ngày nếu rỗi rãi tôi đọc ký ức của chàng xem chơi.
Tôi nhắm mắt, trước mắt một dải ánh sáng luân lưu. Cát, sỏi mù mịt, cây xanh khô héo, phong cảnh thê lương loang loáng vút qua trước mắt. Trong khe suối lạnh quạ hoang lượn lờ, trong chớp mắt, một chùm tia sáng bùng phát như sao rơi. Bên tai có tiếng mưa lắc rắc, tầm mắt đột nhiên rộng mở. Nhìn thấy phía trước sơn môn huy hoàng một bức rèm châu ngũ sắc, mấy phiến đá xanh, cô gái áo trắng đón chiếc vòng ngọc màu đen trong tay chàng trai áo trắng, chiếc ô hơi nâng lên, một khuôn mặt trắng như tuyết không thần sắc.
Đó là Khanh Tửu Tửu, cũng là Công Nghi Huân, thì ra quả nhiên đây là cảnh họ lần đầu quen nhau.
Hình ảnh nhìn thấy đêm đó lần lượt lướt qua trong đầu, thầm nghĩ, nên tiết kiệm thời gian, phảy những giọt nước mưa bám trên người, quả quyết lướt qua chi tiết đó đi nắm bắt ý thức đoạn tiếp theo, vừa chớp mắt, mở ra, bàng hoàng bước vào một màn đêm mịt mùng vô tận.
Tôi hơi sợ, nắm chặt ống tay áo, Mộ Ngôn không có ở đây, không có ai để bám vào.
Khi mắt đã nhìn thấy vạn vật trong bóng tối, tôi cũng không căng thẳng nữa, sau một tiếng động cực nhẹ, ánh đèn chớp lóe, cuối cùng nhìn thấy ánh sáng từ dưới đất từ từ dâng lên, bên tai có tiếng hát văng vẳng, trôi nổi, ngân nga, cảnh sắc hiện dần theo ánh sáng tựa bức tranh thủy mặc mở ra.
Đưa mắt nhìn quanh, bóng người trùng trùng. Ngẩng đầu, tôi thấy trên đỉnh treo một chiếc đèn cực lớn hình tán cây, chiếc trụ đèn bằng đồng đen tựa tháp ngọc chín tầng, lửa cháy rực trong mười mấy bát đèn, khiến tòa chính đường sáng như ban ngày.
Phía trên chính đường cao rộng là giếng trời có lan can bao quanh, chính giữa là một cái bục cao bằng đá nổi vân hoa, ba cô gái mình vận đại hỉ bào màu đỏ đứng trên đó, cô gái bên trái ôm cây tỳ bà cúi đầu vừa đàn vừa hát. Trên những hàng ghế xung quanh cách đó hai trượng nam nhân ngồi chật kín, từ thiếu niên mười ba, mười bốn đến ông già bảy, tám chục tuổi, nếu chiêu mộ quân dịch mọi người cũng hưởng ứng nhiệt tình như vậy, quốc gia này ắt hẳn có tiền đồ.
Lầu hai gồm những ô nhỏ trang trí vô cũng trang nhã, đằng sau những lan can hình vuông chạm trổ tinh xảo là những bức rèm che, đó là những phòng hoa phục vụ khách giầu sang. Tôi suy nghĩ một hồi, sau khi nhận ra mình đang ở đâu, bịt mắt thở dài, cảm thấy sao mình có duyên với lầu xanh đến vậy. Mặc dù nhiều lúc cũng muốn thể hiện sự thoải mái phóng khoáng, nhưng quả thực không có ý nghĩ rằng đời này nhất định phải đến đó một lần mới bõ công sống trong thế giới này .
Số phận lại hơi quá hiểu lòng người, trong vụ của Thập Tam Nguyệt tôi đã buộc phải đi dạo lầu xanh một lượt, lần này lại phải dạo qua lần nữa. Hơn nữa nhìn quang cảnh, xem ra, lần này lại còn gặp đúng dịp lầu xanh mở hội chọn tân hoa khôi và đấu giá đêm đầu tiên của hoa khôi.
Cô gái áo đỏ trên đài vừa đánh xong khúc nhạc, khách ở lầu trên lầu dưới đua nhau trả giá, bia báo giá liên tục giơ lên, có thể thấy, đúng là cả đời phong lưu không bằng một đêm phong lưu.
Nhưng đêm đầu tiên của hoa khôi không phải ai cũng đủ ngân lượng để mua, làn sóng ồn ào qua đi, chỉ còn hai vị khách ở trong phòng hoa lầu hai tranh nhau ngã giá. Tôi thật không hiểu, những người đó bỏ nhiều tiền như thế mua một cô gái, chỉ được ngủ một đêm, sao không đem số tiền đó đi mua cô gái khác có thể ngủ suốt đời.
Bức rèm châu dài sát đất vây quanh che khuất vị khách bên trong, thân giá của cô gái áo đỏ tên gọi Ổn Liên đã lên tới ba ngàn lẻ năm đồng vàng. Sở dĩ có số tiền lẻ đó là bởi vì bất luận người khách ở phòng hoa trả giá thế nào, phòng hoa đối diện luôn thong thả trả thêm năm đồng.
Có lẽ là cảm thấy có gì bất thường, ca vũ ở lầu dưới đều ngừng lại, lầu trên lầu dưới im phăng phắc. Mọi người đang nóng lòng chờ xem kết cục cuộc mặc cả, phía cửa lớn đột nhiên có tiếng ồn ào. Từ xa nhìn lại, bóng áo trắng phấp phới phát ra ánh bạc, mấy gã trai tráng có vẻ là bảo vệ của lầu xanh bị chiếc roi bạc trong tay vị khách dồn vào chính đường. Chỉ riêng chiếc áo trắng toát trên người vị khách đã tỏa hơi lạnh, người đó chỉ có thể là Khanh Tửu Tửu. Mấy cô gái đứng dưới đang chờ đến lượt lên đài dự tuyển mặt sợ hãi biến sắc, các vị khách cũng hốt hoảng lảng đi, vị khách mới đến còn chưa kịp bước qua bậc cửa, cửa lớn nãy giờ vốn chật ních người, “ào” một tiếng chạy sạch không còn một mống. Cô gái áo trắng tay cầm roi bạc bước vào chính đường, mấy người áo đen có vẻ là tùy tùng xếp hàng hai theo vào. Quả nhiên là Khanh Tửu Tửu. Chủ lầu vừa liếc mắt đã biết là khách đặc biệt, mặt tươi như hoa bước ra đón: “Tiểu thư chắc là vào nhầm chỗ, chúng tôi ở đây không kinh doanh các cô gái…”. Lời chưa dứt đã bị lạnh lùng cắt ngang: “Các người ở đây không kinh doanh các cô gái thật ư?”. Từ sau bức rèm châu ở phòng hoa bên phải bỗng vọng ra tiếng nói, giọng không to nhưng do không khí yên lặng nên nghe rất rõ, sau đó bức rèm được vén lên, hiện ra một người đàn ông dáng nho nhã. Thật trăm lần phán đoán cũng không ngờ người đó lại là Công Nghi Phỉ.
Công Nghi Phỉ vận áo chùng gấm từ trên cao nhìn thẳng vào Khanh Tửu Tửu, vẻ ngạc nhiên thoáng qua, mặt lại như cười, vén một cánh rèm vào chiếc móc vàng bên cạnh.
Dưới lầu một ca kỹ che miệng ỏn ẻn nói thầm: “A, người ở trong Ứng Mai hiên thì ra là Công Nghi công tử…”. Một giọng khác giản dị hơn hỏi: “Là ai thế?”. Cô ca kỹ giọng trầm trồ: “Trưởng tộc gia tộc Công Nghi ở Bối Trung, được đồn đại là tư phong lừng danh, văn tài nức tiếng, Công Nghi Phỉ”. Ngừng một lát nói tiếp, “Ổn Liên đúng là có phúc”.
Hai cô gái nói chuyện gần trong gang tấc, tôi cũng nghe thấy, huống hồ Khanh Tửu Tửu. Nhưng mắt cô chỉ thoáng liếc vào phòng hoa được gọi là Ứng Mai hiên ở lầu hai, thu lại chiếc roi, cúi đầu thong thả bước lên cầu thang gỗ trải thảm đỏ.
Chủ lầu đứng phía sau giậm chân: “Cô nương đã đến tham quan thanh lâu, ít ra cũng nên vận nam trang, kẻo ảnh hưởng quy củ nghề chúng tôi…”, lập tức được mấy người áo đen đi sau cô gái dúi vàng lá bịt miệng.
Ánh mắt cả phòng dồn vào Khanh Tửu Tửu, nhưng cô dường như không nhận ra, đi thẳng tới phòng hoa đối diện Ứng Mai hiên.
Lát sau rèm vén lên, thấy một thiếu niên bảnh bao áo gấm đai ngọc vội vã đứng lên đón Khanh Tửu Tửu: “A Ninh không nên đến nơi này làm tỷ tỷ không vui, A Ninh…”.
Khanh Tửu Tửu thong thả ngắt lời, tay chống cằm, cúi đầu nhìn mấy cô gái trên đài còn chưa ngã giá: “Đệ thích cô nào?”.
Thiếu niên bối rối: “Gì cơ?”.
Công Nghi Phỉ đối diện nãy giờ im lặng, lắc chén rượu trong tay: “Vừa rồi tại hạ đã trả đến ba ngàn lẻ năm đồng vàng, xem ra ý huynh đài là muốn…”. Nói đến đó mỉm cười ngừng lại, nhìn đăm đăm Khanh Tửu Tửu ngồi cạnh rèm châu: “… muốn tác thành cho tại hạ chăng?”.
Chàng thiếu niên cúi đầu không dám nói, Khanh Tửu Tửu ngước mắt, lơ đãng nhìn vị khách, ánh mắt lại hướng vào chiếc bục cao bên dưới, ngón tay hơi ngừng trên mặt bàn gỗ đàn: “Hai vạn đồng vàng, tôi mua cả ba cô”.
Khách trên lầu dưới lầu đều trố mắt, tôi cũng trố mắt. Nhìn xung quanh chỉ thấy Công Nghi Phỉ một mình ung dung tự rót rượu uống, khóe mắt cười cười. Chưa bao giờ thấy một cô gái mua gái lầu xanh ngang nhiên, hào phóng, bức ép đến thế. Khiến người ta không thể không thán phục.
Chủ lầu há mồm không nói được gì, không biết là kinh ngạc hay là vui mừng, hai vạn đồng vàng gọi ba cô, ngay những gã công tử phá gia nhất Cửu Châu này cũng không dám vung tay như vậy.
Chàng thiếu niên tên A Ninh mặt hết trắng lại đỏ, bối rối: “Chẳng, chẳng phải tỷ đến bắt đệ về nhà sao, sao lại…”.
Khanh Tửu Tửu nhìn cậu ta từ đầu xuống chân, nhấc chén trà đang tỏa khói trên bàn lên: “Đã đến tranh giành mỹ nhân với người ta thì phải thắng, mọi ngày…”. Ánh mắt từ sau làn khói mông lung liếc qua, “… ta dạy đệ thế nào?”.
Chàng thiếu niên ngây người, cúi đầu rất thấp, cô uống hai ngụm trà rồi đứng dậy đi ra, khi rèm buông xuống, mắt liếc xuống lầu dưới một cái, “Ba cô đó nhan sắc cũng được, chọn một cô vừa ý nhất, đêm nay không cần về nhà”.
Không có ai nhìn thấy tôi, có nghĩa là từ khi Khanh Tửu Tửu xuất hiện, tôi có thể điều chỉnh góc độ, quan sát mỗi biểu hiện của cô. Đây quả là một đại mỹ nhân, nhưng lạnh như băng tạc, không thấy nụ cười, dù chỉ là cười khẩy, dường như không hứng thú với bất cứ thứ gì trên đời.
Nhưng trong ký ức này, tiểu đệ của cô lại là một thiếu niên có tên là Khanh Ninh kia. Mà lần thứ hai cô gặp Công Nghi Phỉ lại là lúc chàng ta tranh giành hoa khôi lầu xanh với tiểu đệ của cô. Ảo chi đồng chỉ có thể nhìn thấy ký ức, nhưng không thể hiểu được tâm tư của chủ nhân, cho nên tôi cũng không hiểu.
Đi theo Khanh Tửu Tửu ra khỏi lầu xanh mới phát hiện lầu này bên một chiếc hồ, ven bờ liễu rủ như rèm buông. Trên hồ bóng trăng nhàn nhạt. Tùy tùng áo đen lẫn vào đêm tối, bị cô lưu lại tại chỗ, tay xách chiếc đèn nhỏ, một mình cô đi dạo quanh hồ.
Tôi đi theo sát, gần như đi một vòng quanh hồ. Đến một chỗ có bậc đá xuống hồ thì nhìn thấy một chiếc thuyền mộc neo sát mép nước, người đứng ở mui thuyền lại là Công Nghi Phỉ vừa rồi còn uống rượu ở lầu xanh.
Công Nghi Phỉ vẻ đào hoa phóng túng, tay cầm một chung rượu bằng gốm xanh, đang cúi đầu rót rượu xuống hồ, nghe thấy tiếng động hơi ngẩng đầu, nhìn thấy người đến là Khanh Tửu Tửu, mỉm cười ra ý ngạc nhiên: “Khanh tiểu thư”.
Khanh Tửu Tửu khoan thai bước đến trước thuyền, dừng lại ngước nhìn chàng: “Trăng thanh nước biếc, Công Nghi công tử đồng ẩm với hồ, thật phong nhã”.
Chàng thu lại chiếc chung, mắt tươi cười, giọng xem chừng đầy tủi thân: “Mấy giai nhân vừa ý lại bị tiểu thư cướp mất, không người đối ẩm họa vần, đành một mình tìm chút thú vui”. Dừng lại thở dài, “… Không may chèo thuyền không thạo, mới nghĩ ra hối lộ thần hồ hai chung rượu nhạt, mong thần hồ không gây khó dễ”.
Ánh mắt nhìn Khanh Tửu Tửu, chàng hơi ngẩng đầu chìa tay cho cô, “Có điều, lần này tương ngộ cùng tiểu thư, xem ra ông trời đã đoái thương, không biết có thể cho Phỉ một vinh hạnh, mời tiểu thư cùng du thuyền thưởng ngoạn cảnh hồ”.
Giọng nói có vẻ tội nghiệp, nét mặt lại hân hoan khích lệ, tôi thầm nghĩ diễn như thế quá xoàng, không bẩm sinh như Mộ Ngôn, với tính cách của Khanh Tửu Tửu có họa là uống nhầm thuốc mới nhận lời.
Nhưng không biết Khanh Tửu Tửu nghĩ thế nào.
Gió lay cành liễu, Khanh Tửu Tửu giơ bàn tay trắng ngà, cổ tay đeo chiếc vòng ngọc màu đen túm ống tay áo Công Nghi Phỉ, nghiêng người lấy đà nhảy lên thuyền.
Chiếc thuyến gỗ chòng chành, hai người đứng rất gần nhau, cô đưa chiếc đèn trong tay cho chàng,“Công Nghi công tử chèo thuyền nhất định phải cẩn trọng”.
Tôi nhân cơ hội cũng lên thuyền, đứng một góc, đương nhiên tôi không có trọng lượng, không ảnh hưởng gì tới cái gọi là trọng tải.
Mắt Công Nghi Phỉ lóe sáng, nhưng chỉ thoáng qua, khi thuyền đã chèo ra xa bờ mới khẽ cười: “Tiểu thư lên thuyền thế này thật khiến Phỉ kinh ngạc, lẽ nào không sợ Phỉ có dụng tâm, mạo phạm tiểu thư?”.
Trên chiếc bàn trà nhỏ trong thuyền có hai chiếc gối thủy tinh lóng lánh, Khanh Tửu Tửu đưa mắt ngắm nghía, chậm rãi nói: “Vậy còn để xem Công Nghi công tử có đánh bại được Tửu Tửu không đã”.
Chiếc thuyền chầm chậm dừng lại giữa hồ, Công Nghi Phỉ tay ôm đầu, giả bộ phiền não, “Biết thế này, tại hạ đã không hối lộ thần hồ hai chung rượu, để ông ta nổi sóng lật ngã cả hai ta có phải tốt không”.
Cô chống tay vào má, mắt nhìn mặt chàng: “Thế nào?”.
Chàng rời chỗ đến ngồi đối diện cô, chỉ cách chiếc bàn trà nhỏ, tay cầm chung rượu đã rót: “Tiểu thư có thật lòng muốn biết?”.
Hình như cô suy nghĩ thật, ngẩng nhìn chàng, hỏi lại: “Thế nào?”.
Ánh mắt chàng từ chung rượu gốm màu xanh di chuyển đến mặt cô, không cười nữa, trầm tĩnh nhìn cô: “Tiểu thư thân thủ cao cường, thầm nghĩ lúc này chỉ có như vậy mới có thể đến gần tiểu thư. Tâm nguyện của Phỉ rất bé nhỏ, sau khi chia tay ở núi Cô Trúc, bấy lâu chỉ mong có dịp đến gần tiểu thư một chút”.
Sự thổ lộ đường đột mà khéo léo, quá một chút là giống đùa cợt, bớt một chút là đối phương không hiểu mình nói gì, tôi thầm tán thưởng, Công Nghi Phỉ đúng là thiên tài về khoản này.
Theo tưởng tượng của tôi Khanh Tửu Tửu sắc mặt lúc nào cũng không biểu cảm có lẽ sẽ giả bộ không nghe thấy, vậy là Công Nghi Phỉ đã thổ lộ uổng công.
Nhưng cũng may, chuyện trái với quy luật tiểu thuyết tình cảm đó không xảy ra.
Khanh Tửu Tửu nãy giờ chống má, bàn tay nghịch chiếc gối thủy tinh thoáng dừng, từ từ ngồi thẳng người, ánh mắt hơi ngạc nhiên, trầm tĩnh nhìn Công Nghi Phỉ, phía xa vẳng đến tiếng tiêu đồng, cô cầm cái gối nghiêng người nhích lại gần chàng, hai người gần nhau trong hơi thở, tư thế rất âu yếm nhưng giọng cô lạnh băng: “Chàng muốn cứu tôi một phen? Có phải chàng thực lòng muốn thế?”. Đôi mắt trong như nước mùa thu của chàng xao động.
Cô xích lại gần hơn, môi cơ hồ chạm vào tai chàng: “Nếu tôi nhảy xuống, chàng có cứu thật không?”. Cô hơi nghiêng đầu, né ra một chút, giọng rất thanh rất nhạt, không nhận ra cảm xúc: “Tôi không biết bơi, chàng không cứu, tôi sẽ chết”.
Một món tóc xõa trên trán cô, Công Nghi Phỉ nắm lấy, chàng cúi đầu, nhìn không rõ biểu cảm, giọng ôn tồn: “Lời nói ra như giễu cợt Phỉ mỗ, tiểu thư cảm thấy tâm ý của Phỉ… quá nực cười? Hay là cảm thấy Phỉ không biết tự lượng sức…”.
Lời chưa dứt, món tóc tuột khỏi tay chàng, “ùm” một tiếng, nước như hoa bắn lên mạn thuyền, qua làn nước hoa vọt lên, thấy bóng trắng như đóa hoa sen đã chìm xuống hồ. Lại “ùm” một tiếng, nước trào lên, Công Nghi Phỉ đã ôm Khanh Tửu Tửu đang ho sặc sụa vì sặc nước lên thuyền, y phục hai người ướt sũng, mặt Công Nghi Phỉ tái nhợt: “Tiểu thư…”.
Khanh Tửu Tửu đang vuốt ngực, giơ tay nắm vạt áo Công Nghi Phỉ, trong đôi mắt lạnh có bóng trăng: “Tôi chưa bao giờ đùa ai”. Lại ho một tiếng, “Chàng cũng đừng đùa tôi”. Mặt áp lại gần chàng, hơi thở cách trong gang tấc, “Đã vậy, mười ngày sau đến Khanh gia cầu hôn tôi”.
Câu nói bất ngờ đáng kinh ngạc, nhưng dưới ánh trăng Khanh Tửu Tửu người ướt sũng nhìn chàng đăm đăm: “Chàng có bằng lòng?”.
Ánh mắt trong veo của chàng xao động, không trả lời ngay. Cô lạnh mặt đẩy chàng ra, giọng lạnh thấu tận xương: “Không bằng lòng ư? Những lời nhớ nhung chàng nói vừa rồi quả nhiên là dối trá. Nhưng Vĩnh An Khanh Tửu Tửu không phải là người chàng muốn giễu là giễu, Công Nghi công tử”.
Vẻ sửng sốt của chàng cuối cùng trở lại bình thường, mặt hồ xanh sẫm dưới trăng, nụ cười dâng đầy trong mắt: “Sao có thể? Mười ngày sau, ta đến cưới nàng”.
Chàng nắm tay cô, miệng hơi nhếch, “Ta chưa thích một ai, nhưng Tửu Tửu, ta vừa nhìn thấy nàng đã cảm thấy nàng phải là của ta”.
Cô ngoảnh đầu, nhìn chiếc đảo nhỏ không xa trên mặt hồ, “Chàng nhìn thấy các cô gái thanh lâu, cũng cảm thấy họ phải là của chàng à?”.
Chàng bật cười: “Họ không phải là của ta, nàng thấy đấy, nàng thích ta cũng không tranh với nàng”.
Cô ngoảnh lại, vẻ trầm tư, lát sau lấy ra chiếc vòng ngọc đen trên cổ tay: “Đến ngày hẹn cha muốn thiếp ca vũ kén chồng. Chàng hãy đến xem thiếp múa, phổ một khúc hay hơn trình cho cha, như vậy chàng sẽ lấy được thiếp. Cha thiếp từng ca ngợi văn tài của chàng, đáng tiếc lần này kén chồng không phải là vịnh thơ gieo vần, về nhạc lý được cha khen hay, thiên hạ hiện chỉ có Trần thế tử Tô Dự”.
Chàng tươi cười nắm tay cô: “Ý nàng là muốn ta nhờ biểu đệ giúp?”. Lại giả bộ thở dài, “Ta bình sinh không thích đi với hắn, vạn nhất lúc đó nàng lại thích hắn, cha nàng thích hắn, thì biết làm sao? Ta không muốn động thủ với hắn”.
Cô để chiếc vòng vào tay chàng: “Hãy nhớ chàng đã nói gì, chàng nói thiếp là của chàng, vậy hãy giành thiếp về cho mình, đừng làm thiếp thất vọng”.
Gió thổi qua, con thuyền nhỏ đung đưa, chàng ôm cô: “Lúc nhảy múa nên mặc nhiều xiêm áo, dừng để kẻ khác được hời”. Hai tay cô buông thõng từ từ giơ lên, ôm lấy tấm lưng thanh tú của chàng, chàng cơ hồ cứng người, ôm cô chặt hơn. Cằm cô tì vào bờ vai ướt của chàng, mắt mở to, nhìn lên vầng trăng xa xăm trên trời.
Đây là một đôi uyên ương quan hệ phát triển nhanh chóng nhất sau lần gặp đầu tiên mà tôi từng thấy, không hiểu tiếng sét ái tình là thế nào, làm sao biết người mình cần là người này chứ không phải người kia, không phải một người khác, lời hứa lúc này về sau quên hết? Tôi có ý nghĩ như vậy, chủ yếu là nhớ tới người vợ chính thức của Công Nghi Phỉ tám năm sau chính là Công Nghi San, con gái của nhị thúc chàng. Đã biết kết cục như vậy, cuộc cầu thân này sao có thể thuận buồm xuôi gió?
Nhưng bất luận thế nào, mười ngày cũng trôi qua rất nhanh.
Sáng sớm hôm đó, xung quanh chiếc đài cao tế thần của Khanh gia ở Vĩnh An tụ tập rất đông công tử các bậc thế gia trong thiên hạ, Khanh Tửu Tửu toàn thân áo trắng giản dị, mặt dửng dưng đứng trên đài cao trước một đỉnh hương lớn bốc khói.
Những chàng công tử bên dưới tế đàn có người đến đây vì tài sản của Khanh gia, có người vì nhan sắc của cô, duy nhất một người đến vì cô. Nhưng khi cô tìm thấy chàng trong đám đông lại không tỏ vẻ vui mừng, trái lại tay chống vào trán, đôi môi đỏ chỉ khẽ mấp máy, mệt mỏi nhắm mắt như bị kiệt sức. Nhạc sư bên cạnh bắt đầu tấu nhạc. Tôi nghe rất rõ, cô nói: “Vẫn đến sao?”.
Đồng thời tôi sực nhớ đến một tin đồn từ mấy năm trước, rằng họ Khanh ở Trần quốc có một thiên kim có tài ca vũ nức tiếng thiên hạ, thầm nghĩ chắc là Khanh Tửu Tửu này. Chỉ là về sau không nghe thấy tin tức gì về tài ca vũ của cô, cho nên thiên hạ không bị chấn động hơn nữa, nhưng ca khúc phối với điệu múa của cô gọi là “Thanh hoa huyền tưởng” một thời rất nổi tiếng, ngay đến một vùng hẻo lánh như núi Quân Vu thỉnh thoảng cũng nghe thấy người ta ngân nga vài câu, có thể thấy nó vô cùng thịnh hành.
Điều bất ngờ là ca khúc được đồn thổi thần kỳ đó thực ra cũng bình thường, cơ hồ chỉ hơn các ca khúc của ca kỹ chút đỉnh, chỉ có vậy mà đã chấn động, có thể thấy thiên hạ quá dễ chấn động.
Càng bất ngờ hơn đó là hôn sự của hai người lại không hề gặp trở ngại, tất cả các thủ tục rườm ra như vấn danh, ăn hỏi, đều được giản lược loại bỏ, lập tức định ngày thành hôn, thuận lợi đến mức khó tưởng tượng. Nhưng tôi biết kết cục của câu chuyện, kết cục là Khanh Tửu Tửu chết.
Điểm lại một lượt, tôi cơ hồ ngửi thấy hơi hướng của âm mưu nào đó, nhưng do bản tính tương đối thuần khiết, lại cho chẳng qua do mình hay nghĩ lung tung.
Mặc dù ngày thành hôn đã định vào tháng sau, nhưng đêm đó, Công Nghi Phỉ không về ngay Bối Trung để chuẩn bị. Tôi từng đọc một cuốn tiểu thuyết của Quân Vỹ, kể về một vị công tử phong lưu, đang đêm khuya nhảy tường vào hậu viên của ý trung nhân, hái một cành mai trắng để trước cửa sổ phòng cô. Kết quả hái đúng cành dị mai, khiến ý trung nhân ngủ suốt ngàn đêm.
Khi nhìn thấy bóng áo trắng của Công Nghi Phỉ vọt qua tường cao nhảy vào hoa viên của Khanh phủ, giơ tay hái cành phong linh màu tím trên tường, tôi cảm thấy hôm nay đã gặp được một độc giả nhiệt thành của Quân Vỹ.
Đáng tiếc Khanh tiểu thư không yếu như cô gái trong truyện đó, dưới một gốc cây to trong hoa viên, tiểu thư đang một mình tập múa, giọng rất lạnh, ca từ đúng là ca khúc “Thanh hoa huyền tưởng”, nhưng nghe khang khác.
Đột nhiên cô cảm giác phía sau có người nhìn, khi quay lại, con dao nhỏ kẹp giữa hai ngón tay tức thì phi ra, lúc nhìn rõ là Công Nghi Phỉ, con dao đã ở cách chàng ba thốn(2), một cái né người rất đẹp, con dao sượt qua tóc, cô tái mặt, ngẩng đầu nhìn chàng: “Chàng làm gì ở đây?”.
Công Nghi Phỉ tư phong ngời ngời đứng trên bờ tường, trong tay là cành phong linh vừa hái, chỉ bị bay mất mấy sợi tóc: “Còn nàng đang làm gì?”. Hơi cúi xuống nhìn cô, “Ca khúc nàng hát dường như là ca khúc hôm nay ta trình lên nhạc phụ”. Ngừng lại, bổ sung thêm, “Đừng nói nàng không biết ca khúc đó do ai soạn”.
Vừa nói vừa nhảy từ trên tường xuống, nhẹ nhàng cài cành phong linh lên tóc cô, càng làm nổi bật mái tóc đen dài óng mướt của cô. Cô ngẩng đầu nhìn chàng, mắt long lanh, nhưng chỉ thoáng qua, tay chàng đặt lên vai cô, cô nghiêng đầu nhìn cảnh sắc trong vườn, “Do chàng soạn thì sao? Cha lại chọn khúc này, trình độ thưởng thức của cha quả đã giảm sút rồi”.
Chàng cười càng tươi, cúi đầu ghé sát tai cô: “Thế đêm khuya nàng hát ca khúc kém cỏi của ta, rồi biên ra điệu vũ phối hợp với nó, rồi tập múa một mình, rốt cuộc nàng đang đợi ai?”.
Cô hơi cau mày: “Chẳng đợi ai hết”.
Chàng lẩm bẩm: “Thì ra đúng là điệu múa soạn riêng cho ca khúc này.”.
Cô ngây người, mặt lạnh lùng tỏ ra phẫn nộ, quay người định bỏ đi, bị chàng kéo lại, ngược ánh trăng nhìn ra, trong ánh sáng mờ mờ là một khuôn mặt dịu dàng thâm tình: “Ta muốn xem nàng múa, Tửu Tửu. Sáng nay là múa cho bọn họ xem, đêm nay ta muốn nàng múa cho mình ta xem”.
Những lời tình tứ thẳng thắn như thế có thể sẽ khiến các cô gái bình thường khó xử, nhưng Khanh Tửu Tửu không phải là cô gái bình thường, trên mặt không hề có vẻ ngượng ngùng, trái lại nhìn chàng đăm đăm, cất giọng thanh thanh: “Chàng nói phải, thiếp tập múa nhiều năm như vậy là muốn múa cho chàng xem, quả thực thiếp đang đợi chàng đến”.
Tôi cảm thấy mỗi lần Công Nghi Phỉ trêu chọc cô mục đích là muốn cô trêu chọc lại. Một cô gái như thế, trí tuệ tuyệt đối không kém ai, ngay cách trêu đùa cũng thật thông minh thú vị.
Những lời tình tứ thẳng thắn đó được cất lên bởi một giọng thanh lạnh như vậy, giống như băng tuyết tan khi xuân về, róc rách chảy ra từ khe núi, nghe thật sảng khoái dễ chịu.
Ngọn lửa cháy dần trong mắt Công Nghi Phỉ, nhưng cô không nhận ra, thản nhiên nhìn chàng: “Sau đêm nay thiếp sẽ không múa khúc này nữa”. Cô nhìn sâu vào mắt chàng, “Thực ra thiếp không hề thích múa. Những bước vũ này nhờ chàng nhớ giúp”.
Âm nhạc quen thuộc vang lên, rất nhiều chỗ khác, nhưng càng dạt dào viên mãn, nhạc điệu cơ bản vẫn là khúc Thanh hoa huyền tưởng, nhưng lúc này lại nhìn thấy một vũ điệu khác hẳn ban ngày.
Thân hình mảnh mai khẽ uốn mềm như sóng, tựa như có ba ngàn sợi tơ phiền muộn vấn vít gót chân, tựa bị mười trượng hồng trần mềm mại trói chặt, những ngón tay lại như nở đóa hoa xuân, đây mới là điệu vũ xứng với bốn chữ “danh chấn thiên hạ”. Những ngón tay thanh tú của Công Nghi Phỉ không ngừng lướt trên dây đàn, mắt mơ màng phiêu lãng… âm điệu cuối cùng, cô đứng trước mặt chàng, trán lấm tấm mồ hôi, khuôn mặt vốn trắng như tuyết giờ ửng hồng. Cô hơi ngẩng đầu nhìn chàng, “Đây là một đêm vui nhất của thiếp, sau này nhớ lại cũng sẽ rất vui”.
Chàng cười đứng lên, vuốt tóc cô, mũi chạm vào cành hoa phong linh trên tóc cô: “Đêm vui nhất phải là đêm nàng thành hôn với ta”.
Tôi đắm chìm trong vũ khúc “Thanh hoa huyền tưởng” đó, mãi không thoát ra được, cảm thấy đây là điệu múa có hồn duy nhất tôi từng xem. Từ nhỏ sư phụ dạy tôi mỗi môn nghệ thuật đều có linh hồn, nghệ không có linh hồn, nhưng nghệ thuật có linh hồn.
Một tháng trước hôn lễ, họ luôn bên nhau. Lúc này ngoài xã hội đang thịnh hành ca khúc “Trăng bên hiên”, nghe đồn đó là do Công Nghi Phỉ sáng tác trong lúc chếnh choáng hơi men để tặng vị hôn thê của mình: “Trước hiên lạnh bóng cây lồng bóng nguyệt, hoa rụng đầy theo gió cuốn về đâu…”, được thanh niên nam nữ truyền nhau hát.
Tôi cảm thấy yêu nhau hà tất cứ phải ngồi ngoài hiên, nếu thật sự thích một người, người đó ở đâu, thiên đường ở đó, đừng nói ngắm sao, cho dù trong bóng tối dựa vào nhau cũng hạnh phúc… nhưng lập tức lại phát hiện so sánh như vậy không đúng lắm, so với ngắm sao đàn ông đương nhiên càng thích ngồi dựa vào cô gái trong bóng tối hơn.
Thực ra tôi vẫn đang chờ đợi, chờ đợi câu chuyện này lao thẳng xuống vực như xe ngựa đứt dây cương. Bởi vì kết quả đã biết là thảm khốc, quá trình càng suôn sẻ chỉ càng khiến người ta thêm hồi hộp thót tim.
May mà một tháng cũng không lâu, đoạn ký ức này giống như tia sáng vụt qua trước mặt.
Chiếc xe ngựa mất phanh cuối cùng dừng lại trước đêm thành thân, những chuyện không nên xảy ra lại lặng lẽ xẩy ra như định mệnh.
Khi Công Nghi Phỉ toàn thân áo chùng tân lang đỏ chói, miệng mỉm cười ngũ quan rạng rỡ lật khăn trùm đỏ của tân nương, đúng lúc đó thần định mệnh trước nay vẫn ngủ gật đột nhiên mở mắt.
Dưới mũ phượng ánh vàng lóng lánh, Khanh Tửu Tửu làn da trắng như tuyết tóc không vấn, mặt không trang điểm, hơi nghiêng đầu không biết nghĩ gì. Ánh nến đột ngột chiếu vào mắt, cô giơ tay, nhắm mắt cơ hồ như vô thức, Công Nghi Phỉ bật cười, đưa chén rượu hợp cẩn đến trước mặt cô: “Mặc dù trước nay ta vẫn yêu vẻ tố nhã thanh đạm của nàng, nhưng nàng cũng không nên vì muốn chiều ý ta mà ngay ngày thành hôn cũng trang điểm giản dị như vậy”.
Cô ngây người nhìn cốc rượu trước mặt, mắt dần dần trở nên hốt hoảng, lát sau không trả lời câu hỏi của chàng, mà lại gọi tên chàng, “A Phỉ”.
Cô hơi ngẩng đầu, lạnh băng nhìn vào đôi mắt tươi cười của chàng, “Đệ định uống rượu hợp cẩn này với chị ruột của mình sao?”.
Cặp nến long phượng đốt trên cao đúng lúc bùng ra một nắm hỏa tinh, chiếc cốc bạc trong tay Công Nghi Phỉ dừng lại trên không, trên trời đột nhiên bùng nổ một tiếng sấm kinh hoàng, thời gian ngưng lại trong tiếng sấm đó, chỉ có những ngọn nến vẫn cháy rừng rực. Công Nghi Phỉ vẫn cầm chiếc cốc bạc nghiêng người để lên bàn trà, định giơ tay buông bức rèm màu trắng trước giường.
Giọng cô căng thẳng, như níu giữ tay chàng: “Đệ còn nhớ mình có một người chị song sinh, tôi cũng chưa quên trên đời có một tiểu đệ cùng huyết thống. A Phỉ, thực ra chính đệ cũng thấy lạ, tại sao trông tôi giống đệ hơn là giống A Ninh, đúng không?”. Cô chờ chàng từ từ ngoảnh lại, “Bởi vì Khanh Ninh không phải là tiểu đệ của tôi, đệ mới là tiểu đệ của tôi. Chúng ta cùng huyết thống, là hai người cốt nhục gần gũi nhất trên thế gian”.
Trong ánh nến hồng, sắc mặt Công Nghi Phỉ trắng dần, khóe miệng vẫn nở nụ cười dịu dàng: “Tửu Tửu, nàng mệt rồi”.
Cô nhìn sâu vào mắt Công Nghi Phỉ, từ từ nhắm mắt như quá mệt mỏi: “Tại sao đệ không tin?”.
Chàng không nói.
Cô đứng dậy rời khỏi giường tân hôn, giày mềm bằng tơ đỏ giẫm lên chiếc bậc hình mặt trời để trước giường: “Ngôi trưởng tộc của Công Nghi gia không dung thứ song sinh, mười tám năm trước, tôi là kẻ bị vứt bỏ, thập tử nhất sinh sống lại chính là để hôm nay lấy lại những gì thuộc về mình. Tình cờ gặp gỡ, ca vũ kén chồng, từ đầu đến cuối tất cả đều được sắp đặt”. Hai người cách nhau không đầy ba bước, cô dừng lại nhìn thẳng vào chàng, “Chiếc gậy hình đầu rắn màu đỏ khảm hoa phật tang tượng trưng cho quyền lực của gia tộc Công Nghi do hai mảnh ghép lại, vợ chồng trưởng tộc mỗi người giữ một nửa. Đệ xem, ngoài lấy đệ, không nghĩ ra cách nào tốt hơn để tôi đường hoàng quang minh trở về Công Nghi gia, đường hoàng lấy lại những gì thuộc về tôi”.
Không gian như xẻ làm hai nửa, một nửa trôi chầm chậm, một nửa dừng lại, trong nửa dừng lại đó, sắc mặt Công Nghi Phỉ càng trắng bệch, cơ hồ không thể giả bộ cười được nữa.
Những lời đó sắc tựa dao, hơn nữa mỗi nhát đều là đòn chí mạng, phụt máu tươi, nhưng cô nhìn thần sắc trắng bợt như bị mất máu quá nhiều của chàng, giọng lại vẫn bình tĩnh như không: “Tôi đã biết đệ từ trước, từ trước khi đệ nhìn thấy tôi, hôm đó tôi cố tình đợi đệ ở Cô Trúc sơn, cố tình đánh rơi chiếc vòng ngọc, đệ tưởng tất cả là ý trời, nhưng ý trời lại chỉ là để chúng ta vừa sinh ra đã gánh chịu số mệnh bi thảm này”.
Công Nghi Phỉ sững người nhìn cô, đôi mắt trong như nước mùa thu, đào hoa sóng sánh, giờ đây đào hoa không còn, nước mùa thu cũng cạn. Ngũ quan tuấn mỹ phong lưu ngày xưa giờ trắng nhợt, nhưng vẫn cười một tiếng, nhìn vào khoảng không: “Ta vẫn nhớ, lúc đó nàng nói với ta, nàng không biết bơi, nếu ta không cứu, nàng sẽ chết”.
Thần sắc nhàn nhạt, cô nói: “Tôi lừa đệ”.
Chàng dừng một lát, lại tiếp: “Khúc ‘Thanh hoa huyền tưởng’ đó, nàng nói là tập đã lâu, đang chờ ta đến, muốn múa cho ta xem”.
Cô vẫn lạnh lùng: “Tôi lừa đệ”.
Chàng như không nghe thấy: “Đêm đó nàng nói đó là đêm vui nhất của nàng, sau này nhớ lại…”.
Cô ngắt lời: “Tất cả đều là lừa dối”, dừng một lát, trầm tư nhìn chàng, “Bộ dạng đệ thế này là đang hận vì mắc lừa tôi sao? Tôi đã cho đệ cơ hội, nhưng đệ lại bỏ qua”.
Đứng đối diện với nhau như vậy, chàng cao hơn cô một cái đầu, trông rất giống một đôi Kim Đồng Ngọc Nữ. Chàng hơi nhướn mi, mày hơi cau, lại không nói gì. Cô nghiêm nghị nhìn chàng một lát, bất chợt cau mày: “Cho phép tôi đoán thử, phải chăng là đệ thích tôi thật?”.
Chàng ngẩng phắt đầu.
Cô nhìn thẳng vào mắt chàng: “Tôi nói đúng không?”.
Chàng nhếch mép: “Nàng nói xem?”.
Cô lạnh lùng nhìn chàng: “Buồn nôn”.
Câu này nhất định làm tổn thương Công Nghi Phỉ, dưới ánh nến, mắt chàng thâm trầm như biển, môi không sắc máu, lát sau bật cười một tiếng, một tay kéo cô ngã vào trong tấm chăn lớn màu đỏ.
Lại một tiếng sấm rền, khiến bức rèm trước giường rung lên, cũng lóng lánh như bức rèm châu treo trước sơn môn núi Cô Trúc. Tay chàng chống bên cạnh mái tóc buông xõa của cô, cúi nhìn cô, đôi môi không sắc máu nhếch lên đường cong theo thói quen, áp gần miệng cô: “Đêm xuân một khắc ngàn vàng, trước đây ta đã nghĩ câu nói này quá tục, định trong đêm tân hôn sẽ nói với nàng những lời hay hơn, đêm nay, bỗng nhiên cảm thấy những ý nghĩ đó thật nực cười, Tửu Tửu, những điều nàng nói, nàng tưởng là ta sẽ tin sao?”.
Tôi nghĩ chắc cô không ngờ đột nhiên bị chàng đẩy ngã, đến nỗi mãi không phản ứng được gì. Thầm nghĩ, Khanh Tửu Tửu thân thủ cao cường, cũng rất có thể một tay đẩy Công Nghi Phỉ đè lên người mình ra, đánh cho một trận, nếu vậy, cuộc động phòng này quả thật sẽ vô cùng thú vị.
Nhưng đợi mãi, không thấy cô ra tay, chỉ bình tĩnh nhìn lên đỉnh màn. Môi chàng áp gần má cô, cũng không thấy có hành động nào tiếp. Nói không tin là một chuyện, nhưng tôi nghĩ, chung quy chàng ta vẫn để bụng những điều cô nói, nếu không đã không bị tổn thương như vậy, nếu không đã vượt qua vạn hiểm hoàn tất đêm động phòng. Mà cái gọi là vạn hiểm đó rõ ràng không thể bao gồm hai người là ruột thịt. Đây là số mệnh, nếu chưa nghe chưa biết chưa có khả năng phản kháng thì số mệnh chung quy vẫn là số mệnh.
Bóng rèm khẽ lay, vẫn là cô lên tiếng phá vỡ bầu không khí yên lặng, thần thái hoàn toàn bình thản, như thể chàng lúc này không làm bộ thân mật âu yếm áp sát vào cổ cô, như thể hai người pha một ấm trà lạnh đang trịnh trọng tâm sự: “Từ lúc tôi hiểu biết đến giờ, lớn lên trong kỹ viện, từ ba tuổi đã bắt đầu học múa. Kỹ viện không phải là chốn bình thường, múa đẹp mới có miếng ăn, múa kém là đói bụng. Hai, ba tuổi còn đỡ, càng lớn càng phải làm nhiều việc nặng. Hồi đó thường phải làm lụng mọi việc trong khi bụng đói. Tôi rất ghét múa. Nhưng ngoài múa, múa đẹp, đẹp nữa, không còn con đường nào khác, khi sáu tuổi tôi đã nghĩ nên tìm một nghề khác để kiếm sống, không phải bán thân. Khi sáu tuổi, đệ nghĩ gì, A Phỉ?”. Giọng cô vẫn không đổi. Đây là lần đầu tôi thấy cô nói nhiều như vậy.
Công Nghi Phỉ không trả lời, cơ hồ cô cũng không bận tâm chàng có trả lời hay không: “Lúc tôi tám tuổi, cha nuôi mua tôi về, tôi mới hiểu thì ra tôi cũng có cha mẹ, cha tôi vẫn sống yên lành trên đời, ông ấy có thể nuôi tôi nhưng lại vứt bỏ tôi vì một tội lỗi tôi không gây ra. Mẹ lén cứu tôi, nhưng vì vậy bị cha lạnh nhạt, sau đó buồn phiền qua đời. Mẹ giấu tôi ở một nơi tự cho là an toàn, không ngờ cuối cùng tôi phiêu dạt vào kỹ viện. Một người duy nhất muốn tôi sống trên đời đã ra đi, mẹ của chúng ta, đời tôi chưa một lần được gặp mặt”. Cô ngừng lại, “Nhưng con gái của Ung Cẩn công chúa sao có thể trở thành ca kỹ, xem ra có vẻ quá hoang đường, nhưng suýt nữa, nếu cha nuôi không tìm thấy tôi, chuyện như vậy đã xảy ra. Có lẽ đệ sẽ gặp tôi ở một kỹ viện nào đó, bỏ ra ba ngàn lẻ năm đồng vàng mua đêm đầu tiên của tôi như mua những cô hoa khôi đó…”.
“Đừng nói nữa”. Công Nghi Phỉ ngẩng đầu khỏi vai cô, một tay ôm trán, nhắm mắt cười một tiếng, “Hoặc là để người ta chỉ yêu nàng, hoặc là để người ta chỉ hận nàng, Tửu Tửu, nàng như thế, thật không hay”.
Cổ áo cô hơi trễ, thản nhiên nhìn chàng. Tôi không biết cô nói vậy rốt cuộc có nên coi là quyết làm đến cùng hay không, thực ra không phải là cô không bộc lộ tình cảm mà là hoàn toàn không có tình cảm. Lát sau, cô nhẹ giọng: “Đệ vẫn không tin chúng ta là ruột thịt ư? Phải thế nào đệ mới tin?”.
Lời vừa dứt đột nhiên tay rút chiếc trâm trên đầu. Chàng vội giơ tay ngăn lại, cán châm nhọn rạch một vết trên tay chàng, chàng để tay cô vào trong chăn: “Trích máu nhận người thân? Nàng nói đúng, huyết dịch không đánh lừa ai”. Môi chàng áp gần tai cô, “Vạn nhất nếu đúng thì sao. Tửu Tửu, ta không tin nàng là chị ta. Nàng mệt rồi, ngủ đi”.
Ánh nến kéo dài bóng chàng. Cô nằm trong chăn, chiếc trâm vàng nổi bật trên nền chăn đỏ tràn ngập bầu không khí tân hôn, nhưng phòng tân hôn đã không còn tiếng người. Cô chớp mắt, giơ chiếc trâm có dấu máu mờ mờ, nắm chặt trong tay.
Khanh Tửu Tửu nói cô đến đây vì quyền lực, cô đang nói dối. Nếu chỉ vì quyền lực, có thể dùng cách khác, không cần đánh đổi bằng hạnh phúc cả đời. Nhưng cô đã lựa chọn lấy Công Nghi Phỉ, đó là sự điên rồ. Nếu có một thứ có thể khiến người ta điên rồ như vậy, chỉ có thể là lòng hận thù và ý muốn hủy diệt. Quá yêu và quá hận ở một mức độ nhất định cũng như nhau, lâu dần biến thành tín ngưỡng, nếu vậy, yêu và hận thực ra đều mất đi ý nghĩa tự thân của nó.
Lần đầu tiên tôi cảm thấy, có lẽ họ đúng là ruột thịt. Nếu không, tại sao cô phải đánh lừa Công Nghi Phỉ như thế?
Đoạn ký ức tiếp theo chỉ lướt qua, nhưng lại giúp tôi nhìn thấy dấu hiệu lụn bại của gia tộc Công Nghi. Trưởng tộc mất sớm như vậy, đem cả đại gia sản như thế trao vào tay Công Nghi Phỉ mới mười hai tuổi, do hai vị thúc thúc phò tá.
Hai vị đó mỗi vị nắm một phương thế lực, nếu không phải do Công Nghi Phỉ khi làm lễ kế vị trưởng tộc đã cắt máu tuyên thệ với thần hộ vệ Thiên Hà, có khả năng sai khiến Thiên Hà, thì hai vị thúc thúc đã sớm đuổi đứa cháu mồ côi khỏi ngôi trưởng tộc. Cũng may Trần vương đời này tử tức hiếm hoi, chỉ có hai trai một gái, mà công chúa duy nhất đó lại nhỏ tuổi hơn Công Nghi Phỉ quá nhiều, vì thế Công Nghi Phỉ vốn từ lúc ra đời đã được định sẵn sẽ kết hôn với một công chúa của Trần vương mới được tự do hôn nhân, có thể tùy ý lựa chọn hôn thê.
Công Nghi gia xưa nay hành sự bí hiểm, thông hôn cận huyết mà thiên hạ cho là loạn luân đối với họ cũng bình thường, hơn nữa có thể thông hôn trong cùng một chi và thông hôn giữa các chi trong tộc. Hai vị thúc thúc mỗi người có một cô con gái, đều toan tính muốn gả cho đứa cháu trưởng tộc để củng cố quyền lực.
Nhưng người tính không bằng trời tính, họ quên là thiên hạ rộng lớn, mỹ nhân không hiếm, hơn nữa với địa vị gia thế và bản thân con người Công Nghi Phỉ sự lựa chọn dành cho chàng không phải là một, hai, mà là cả biển người. Vậy là trong khi hai vị thúc thúc đánh nhau vỡ đầu chảy máu để gả con gái cho đứa cháu, thì đứa cháu đã nhẹ nhàng rước đại tiểu thư Khanh Tửu Tửu của Vĩnh An Khanh thị vào phủ đệ của gia tộc.
Cô gái áo trắng lạnh như băng tạc đến đây để báo thù. Những quyền lực mà hai người đó tranh giành được xây dựng trên cơ nghiệp bao đời của gia tộc Công Nghi, nếu gia tộc bị hủy hoại phỏng còn gì để tranh giành. Có lẽ khi đó họ không nghĩ đến điều này.
Ngoài đêm tân hôn Công Nghi Phỉ ngủ ở trong thư phòng, hôm sau chàng sai gia nhân chuyển một cái giường mềm vào tân phòng, coi như quên hẳn chuyện đã xảy ra, đêm đêm ngủ trên chiếc giường đó.
Cô coi chàng là tiểu đệ, nhưng chàng chưa bao giờ gọi cô là tỷ tỷ, dường như cô là chính thê thật sự của chàng, để chàng trân trọng cưng chiều, sủng ái.
Mặc dù ngày ngày gặp mặt, nhưng thỉnh thoảng lại có gia nhân mang quà đến cho cô, một con bọ ngựa kết bằng cỏ lau, một con chim yến cắt bằng giấy vàng, những món đồ chơi tuy vụn vặt nhưng phải dụng công, tỷ mẩn, đường hoa ngõ liễu không còn thấy bóng chàng, các cô gái lầu xanh thở dài.
Khanh Tửu Tửu cau mày nhìn chàng: “Trước đây đệ thế nào, thích cô ca kỹ nào, có thể mời về đây mấy ngày, không cần phải giày vò bản thân”. Chàng cười khẩy: “Nàng thật khoan dung”.
Khanh Tửu Tửu muốn làm gì, người ta cũng đoán được ít nhiều. Điều tôi quan tâm nhất trong câu chuyện này ngoài cô và Công Nghi Phỉ còn có Công Nghi San con gái của nhị thúc chàng.
Trong ấn tượng của tôi, cô gái đó luôn mặc áo hồng, có khuôn mặt như hoa tường vi, kiều diễm và rực rỡ như mặt trời giữa trưa hè. Quá khứ tôi nhìn thấy là thế này, nhưng trong hiện thực bảy năm sau lại là Khanh Tửu Tửu đã chết, Công Nghi San là chính thê của Công Nghi Phỉ.
Vốn nghĩ có kết quả như vậy, có lẽ là do từ nhỏ cô ấy đã yêu Công Nghi Phỉ. Nhưng xem hết đoạn ký ức này mới biết sự thật không phải thế, lúc này Công Nghi San yêu một thuộc hạ của tam thúc tên là Mạc Trọng, hai người lén tư tình, thề non hẹn biển, thậm chí hẹn nhau bỏ trốn. Tất cả đã sắp đặt xong xuôi, nhưng Mạc Trọng trong một lần đi làm nhiệm vụ ở Đường quốc đã bị đâm chết do sơ suất của Công Nghi Hàm con gái của tam thúc, để lại Công Nghi San đã mang thai hai tháng.
Hai tháng sau, khi hầu nữ Họa Vị từ Khanh gia đi theo hầu Khanh Tửu Tửu bẩm báo sự việc với cô, Khanh Tửu Tửu đang ngồi trong đình hóng mát bên đầm cho cá ăn, nghe tiếng thong thả ngẩng đầu: “Những người biết chuyện Mạc Trọng và San tiểu thư không biết giữ miệng, ngươi biết nên làm thế nào chứ?”.
Họa Vị mím môi cười gật đầu: “San tiểu thư tính tình nóng nảy, gặp chuyện thế này, Hàm tiểu thư e là xúi quẩy rồi, nhị lão gia và tam lão gia nhiều năm tranh giành với nhau nhưng cũng không có thù oán lớn, xích mích nhỏ không đáng kể, lần này chính là thời cơ tốt khiến họ huyết hải thâm thù. Chuyện xảy ra vào lúc này thật đúng là ý trời, không cần tiểu thư nhọc công bố trí ván cờ, tiết kiệm được khối công sức”. Ngừng một lát, nói tiếp: “Nhưng tiểu thư, tiểu thư thế này e là quá nhọc lòng, cái giá phải trả quá lớn, không giống phong cách quyết liệt vốn có của tiểu thư”.
Cô vung tay ném hết chỗ thức ăn cho cá, rồi bám vào cột hoa đình bên cạnh, nói giọng nhẹ tênh: “Trên đời có những người tài, có thể đạp gió cưỡi sóng, giữ cho cả tòa nhà lớn không đổ. Nhưng nếu tòa nhà đó bị mối mọt đục dần từng chút bên trong, cô nói xem ai có thể cứu vãn số phận sụp đổ tan tành của nó?”.
Cô nhìn chiếc cột đình vững chắc, tay kia chầm chậm đưa lên xoa thân cột nhẵn bóng, ánh mắt hướng lên xà ngang chạm trổ tinh xảo, thong thả nói: “Lúc đó, chỉ cần đẩy nhẹ là nó vạn kiếp không thể phục hồi”.
Mười ngày sau có tin Công Nghi Hàm con gái của tam thúc ngã ngựa chết.
Đêm đó Công Nghi Phỉ không trở về bản gia, phủ đệ của tam thúc nơi cử hành tang lễ cũng không thấy bóng chàng. Dưới ánh trăng thanh mát mẻ, Khanh Tửu Tửu tìm thấy chàng ở lầu xanh lớn nhất thành. Trước sân lầu tiếng đàn sáo rộn ràng, ngợi ca nhân thế phồn hoa, đầm sen ở hậu viên xanh rì ngát hương. Trước tiểu lầu dành cho hoa khôi chỉ có một sân, một lối vào, tiểu nha đầu ngăn cô lại: “Công Nghi công tử và tiểu thư chúng tôi đã đi nghỉ, cô nương dù có việc gì, xin để sáng mai hãy đến”.
Khanh Tửu Tửu sắc mặt dửng dưng, hầu nữ Họa Vị phía sau mỉm cười bước lên: “Phiền cô nương thông báo một câu, nói là Công Nghi phu nhân đang đợi bên ngoài, đêm nay bất luận thế nào cũng nhất định phải gặp công tử”.
Tiểu nha đầu ngạc nhiên nhìn cô, giọng hơi sẵng: “Công Nghi công tử đã dặn không gặp bất kỳ ai, phu nhân mời về cho”.
Họa Vị vẫn tươi cười, sợi dây thép đã ướm vào cổ nha đầu, cô gái hoảng sợ kêu thất thanh, cánh cửa gỗ hồ đào sau lưng cùng lúc mở ra.
Mỹ nhân thanh mảnh toàn thân xiêm áo trắng toát đứng sau cánh cửa khép hờ, mặt vẫn còn sắc hồng hơi rượu, lặng lẽ nhìn cô: “Công Nghi công tử mãi mới ngủ được, đêm khuya trăng lạnh cô nương cớ gì đến quấy rầy giấc mộng của người khác”.
Cô không thèm nhìn cô ta, bước thẳng vào sân, cô gái áo trắng ngây người, định bước tới ngăn cản liền bị Họa Vị đứng bên giữ lại. Một tiếng cười nhẹ vang lên trong sân, rèm hoa buông trước cửa lầu, Công Nghi Phỉ mà chủ tớ hoa khôi vừa rồi nói là đã ngủ giờ lại đang đứng dưới cây ngô đồng sum suê, chàng đi ra khỏi bóng cây, giọng đầy ngờ vực: “Cô đến có việc gì?”.
Khanh Tửu Tửu dừng bước, nhìn chàng từ trên xuống dưới, “Tang lễ của Hàm tiểu muội, thân là huynh trưởng, không ở linh đường bên tiểu muội nốt chặng cuối cùng, lại đến đây tìm lạc thú, còn ra thể thống gì, nếu tam thúc biết sẽ nghĩ sao về đệ?”.
Chàng vẫn cười: “Cô thân chinh đến đây tìm tôi là vì chuyện này?”. Không đợi cô trả lời đã quay gót vén rèm hoa đi vào, chậm rãi nói: “Sênh Sênh tiễn khách!”.
Cô gái áo trắng được gọi là Sênh Sênh đó khóe mắt lóe ánh cười, đang định bước tới, lại bị Họa Vị giữ lại.
Khanh Tửu Tửu liếc nhìn cô ta, lướt qua bộ quần áo trắng muốt giản dị và mái tóc đen chấm gót, cất giọng lạnh lùng: “Nhìn từ xa ăn vận thế này có vài phần giống tôi, A Phỉ, đệ thích tôi đến thế sao?”.
Cô gái áo trắng mặt biến sắc.
Công Nghi Phỉ từ sau rèm hoa sải chân bước nhanh ra, mặt dửng dưng nhìn cô. Bóng trăng xao động, quang ảnh chập chờn, cô bước từng bước lại gần, cách ba bước dừng lại hơi cau mày: “Uống nhiều rượu lắm phải không? Đệ trở nên buông thả từ lúc nào vậy, trước đây đệ đâu có thế?”.
Tay chàng bất thần nắm tay cô, kéo lại gần, khóe mắt lại là nụ cười sóng sánh đào hoa: “Chẳng phải cô đang muốn tôi như vậy hay sao?”.
Cô hơi ngước mắt, lặng lẽ nhìn chàng.
Tay phải chàng khẽ nhấc lên, lát sau đặt vào lưng cô, ôm chặt cô như không thể kìm chế. Cô để cho chàng ôm, để chàng gục đầu lên vai mình.
Chàng khẽ cười bên tai cô, giọng nói lại lạnh như băng: “Rất nhiều lúc nhìn thấy vẻ lạnh nhạt vô tình thế này, tôi đã muốn bóp chết cô cho xong. Cô nói đúng, tôi thích cô đến mức này, có phải cô thấy quá buồn nôn? Trên đời không có yêu hận vô cớ, có lẽ cô nói đúng, huyết duyên đã trói chúng ta vào nhau, khiến tôi đau khổ không thể thoát ra, nhìn tôi thế này hẳn cô vui lắm?”.
Bàn tay chàng đan vào tay cô, xiết chặt, cô lại không vùng ra, bàn tay kia cũng se sẽ nâng lên, cuối cùng vẫn buông xuống. Có lẽ bản thân cô cũng không hiểu tay mình định nắm cái gì. Môi mấp máy, cũng không nói ra được.
Môi chàng ghé sát tai cô, như đã quen sự trầm lạnh của cô, nói khẽ: “Cô muốn cho Công Nghi gia rối loạn, càng rối càng tốt, tôi không đến tang lễ của Hàm tiểu muội, tam thúc sẽ ghét tôi, chẳng phải quá tốt sao? Hàm muội chết thế nào, sau đây cô định làm gì nữa? Không sao, Tửu Tửu, cho dù cô làm tôi điên đầu thế nào, tôi cũng vẫn ở bên cô. Cô đến để báo thù, nếu lời cô nói là thật, tôi đã nợ cô nhiều như vậy…”. Giọng nói lại giống như thầm thì với tình nhân.
Cô chỉ hơi cúi xuống, mặc cho môi chàng in lên tai mình: “Đệ say rồi, A Phỉ”.
Chàng từ từ buông cô ra, trên trời đêm một vầng trăng cô lạnh bàng bạc, chàng nhìn cô, gật đầu cười: “Cô nói đúng, tôi say”.
Ba ngày sau an táng Công Nghi Hàm. Cô gái mới mười bảy tuổi đã phải kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, là Công Nghi San đã giết cô ta. Quả thật muốn hỏi trời xanh, ái tình là thứ chi mà khiến người ta tuyệt tình tuyệt nghĩa, nhẫn tâm như vậy.
Nửa tháng sau Bối Trung bước vào tháng tám nắng gắt, Công Nghi Phỉ trước nay luôn có thú chơi phong nhã hơn hẳn các bậc đại quý tộc khác, phía sau hoa viên chàng cải tạo rất nhiều cảnh trí mô phỏng thiên nhiên, trong đó có Tự Vũ đình ở phía đông hoa viên, dùng guồng lấy nước từ trong hồ phun lên đình hóng mát. Nước từ trên mái theo bốn góc mái hiên cong tí tách nhỏ xuống như mưa, khiến không khí trong đình dịu mát như mùa thu.
Quân Vỹ với lập trường của một tiểu thuyết gia từng ân cần giáo huấn tôi rằng những nơi phong nhã sẽ chỉ diễn ra những chuyện phong nhã, nếu không sẽ có lỗi với kiến trúc sư. Đây đúng là một lời giáo huấn chân thành đối với trẻ nhỏ. Tôi không biết những chuyện đó có phong nhã không, chỉ thấy đó là hạnh phúc bình thường nhưng lại quý hiếm như mộng ảo.
Khanh Tửu Tửu hình như rất sợ nóng, có lẽ là ám ảnh tâm lý do từ nhỏ lớn lên trong kỹ viện, chưa bao giờ được mặc những bộ quần áo mát mẻ, những ngày oi bức thường cùng Họa Vị mang bàn cờ đến Tự Vũ đình tránh nắng, thỉnh thoảng bắt gặp Công Nghi Phỉ nằm trên giường mây đọc sách ở đó.
Nhưng thâm tâm tôi cảm thấy, lần đầu là gặp ngẫu nhiên, còn những lần liên tiếp sau đa phần là do Công Nghi Phỉ cố ý đợi cô ở đó.
Bởi vì ở đó hai người trông hơi giống phu thê, có thể bình tâm chuyện trò với nhau, thỉnh thoảng lại nói những chuyện thú vị hồi nhỏ, bàn vài câu về cách chơi cờ. Thái độ cô trước sau vẫn lạnh nhạt, chàng cũng không bận lòng, hình như những lời ác độc muốn bóp chết cô đã thốt ra chỉ là nói trong lúc say.
Nghe tiếng guồng nước chuyển động kẽo kẹt, nước tí tách nhỏ từ mái hiên, vẻ mặt an nhiên của chàng khi cúi đầu, ngôi đình hóng mát được ngăn cánh bởi hồ nước giống như một thế giới khác, quả thật có thể khiến người ta quên đi ít nhiều phiền muộn. Thỉnh thoảng Khanh Tửu Tửu cũng ngây người nhìn chàng, nhưng khi chàng ngẩng đầu khỏi trang sách, lại giả bộ chầm chậm nhìn ra bức tường rậm lá phía xa.
Nhưng Công Nghi Phỉ trước sau vẫn không lay chuyển được cô. Tôi từng cảm thấy Oanh Ca tim lạnh, chỉ là do tôi thiếu từng trải, so với Khanh Tửu Tửu, nói Oanh Ca có trái tim yêu thương e là có lỗi với cô ấy, mà phải nói là trái tim dào dạt yêu thương.
Đây là một cô gái cứng rắn, không ai có thể ngăn cản ý định của cô. Tôi từng nói, yêu và hận nếu trở thành tín ngưỡng sẽ mất đi ý nghĩa tự thân của nó. Tín ngưỡng khiến người ta như bị quỷ ám, khi bóng đen chiếm cứ trong lòng như một bông hoa màu đen xòe nở, cánh hoa đen thù hận sẽ che hết ánh sáng, khi không còn ánh sáng chính là lúc ngày tàn, người như thế sẽ hủy hoại bản thân, cuối cùng cô sẽ hủy hoại chính mình.
Khi thấy hầu nữ Họa Vị chuẩn bị thuốc mê theo lệnh Khanh Tửu Tửu, tôi không nén nổi hiếu kỳ, muốn xem tiếp, thầm nhủ mình phải kiên cường.
Một khắc trước Công Nghi Phỉ còn dịu dàng mỉm cười với cô, một khắc sau cô đã có thể thản nhiên đưa chén rượu bỏ thuốc mê cho chàng, dụ chàng uống hết cốc này đến cốc khác. Có lẽ nụ cười dịu dàng chân thật của chàng đối với cô hoàn toàn vô nghĩa, nó chỉ là công cụ để cô phục thù, nhưng tôi biết cô sẽ mất gì.
Hoàng hôn xuống dần, những tia nắng cuối ngày chiếu lên mái hiên cong lung linh ánh nước như sương khói. Trên chiếc giường mây, Công Nghi Phỉ đã ngủ say, cuốn “Vân Châu bát ký” chép tay che mặt. Bên ngoài, bánh xe của guồng nước vẫn quay đều, hầu nữ Họa Vị biến đâu nửa ngày đã trở về, vòng qua hòn giả sơn bước vội đến, đi thẳng vào trong đình hóng mát, liếc nhìn Công Nghi Phỉ đang ngủ, nói nhỏ vào tai Khanh Tửu Tửu: “Đã bắt chước nét chữ của Mộ Trung lưu bút ở phòng của San tiểu thư, có lẽ chỉ sau nửa tuần nhang cô ta sẽ đến”.
Cô gật đầu tiện tay cầm lên cuốn “Vân Châu bát ký”, ngón tay vô ý chạm vào đôi môi nhợt nhạt của chàng, cuốn sách rơi xuống đất.
Họa Vị khẽ kêu: “Tiểu thư?”.
Cô ngây người nhìn tay mình, lẳng lặng trở gót ra khỏi đình hóng mát, lát sau nói: “Hai vị phu nhân của nhị lão gia và tam lão gia khi nào đến đây uống trà ngắm trăng?”.
Họa Vị mím môi khẽ nói: “Tất cả đều theo ý tiểu thư. Hai vị phu nhân đã nhận được thiếp mời, đầu giờ Tuất tiểu thư đến Thùy Nguyệt môn đón họ”.
Nước từ mái hiên nhỏ xuống làm ướt nửa ống tay áo của cô, qua màn nước mỏng Khanh Tửu Tửu ngoái nhìn Công Nghi Phỉ áo trắng nằm trên giường mây, cuối cùng nhắm mắt, lát sau ném ra một câu “Chuyện này nhất định phải làm thật tốt” rồi trở gót đi thẳng.
Hầu nữ Họa Vị không phụ kỳ vọng của cô, làm rất tốt, rất đẹp.
Khi Khanh Tửu Tửu lấy cớ uống trà thưởng nguyệt, đưa hai vị phu nhân đi đến Tự Vũ đình, từ xa, qua bức rèm mỏng thấp thoáng nhìn thấy bóng một đôi nam nữ đầu gục vào nhau trên giường.
Tài diễn xuất phi thường của Họa Vị giống hệt Mộ Ngôn, vừa nghi hoặc vén rèm, kêu ối một tiếng, vẻ kinh hoàng như thật. Khanh Tửu Tửu còn chưa cất bước, hai vị phu nhân đã nhanh chân chạy đến.
Sau khi vén rèm, cảnh tượng trên giường thảm khốc không thể tả, dưới tấm chăn mỏng Công Nghi San tóc xõa tung, nửa thân để trần gục trên ngực Công Nghi Phỉ xiêm áo xộc xệch, tư thế như vừa qua cuộc giao hoan, hai người đều nhắm mắt, trông như đang ngủ say.
Tôi cảm thấy đây có lẽ chỉ là dàn cảnh, xem ra lại giống như thật, có thể thấy Họa Vị đã bỏ không ít công sức, nếu không một cô gái còn trinh sao có thể biết hai người giao hoan xong là phải cởi xiêm áo chứ không phải mặc thêm xiêm áo? Trước khi chết tôi không biết những chuyện đó, thật vất vả cho cô gái này.
Bị kích động như vậy, hai vị phu nhân dường như không đứng vững, vị phu nhân trông như sắp ngất xỉu có lẽ là thân mẫu của Công Nghi San. Có thể là do không thấy có nha đầu nào ở bên dìu mình mới gắng gượng không ngất đi.
Công Nghi San mơ màng tỉnh dậy, kêu thét một tiếng, kéo vội tấm chăn che người lùi vào góc giường, mắt hoang mang kinh hãi.
Công Nghi Phỉ hơi nhíu mày, từ từ mở mắt trong tiếng thét phẫn nộ đó, chàng ôm trán ngồi dậy. Tia sáng cuối cùng từ chân trời rọi đến, chàng hơi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua Công Nghi San y phục xộc xệch ôm chăn run lập cập một góc giường, lướt qua hai người thím mặt xám ngoét đứng trước giường, lướt qua Khanh Tửu Tửu sắc mặt trầm ngâm đang đứng cúi đầu nhìn chàng, lát sau chàng đột nhiên khẽ cười: “Nhờ hai thím đưa San muội về trước, sự việc hôm nay A Phỉ sẽ thưa lại với hai thím”. Dứt lời nụ cười lại hiện trên môi, đôi mắt đen nhìn đăm đăm phu nhân của mình, “Để A Phỉ nói chuyện riêng với Tửu Tửu”.
Họa Vị thắp một cây nến cao trên bàn đá, Công Nghi San chỉnh lại xiêm áo, nức nở khóc, được tam phu nhân dìu rời khỏi Tự Vũ đình. Thân mẫu cô nãy giờ sắc mặt vẫn khó coi, thực ra thâm tâm bà nằm mơ cũng mong con gái trèo được lên giường của Công Nghi Phỉ, thủ đoạn như vậy cũng từng nghĩ đến, hôm nay cuối cùng không ngờ lại thành hiện thực, vốn là chuyện vui nên nhảy múa mới phải, nhưng lại xảy ra trước mặt mấy người, cũng khiến bà có chút xấu hổ.
Ánh nến nhuộm một phía tiểu đình thành màu vàng nhạt như màu hoa phật tang, Công Nghi Phỉ vẫn trong tư thế co gối nhàn tản, chàng bảo mọi người đi hết, chỉ lưu lại một mình cô, nhưng lại ôm má nhìn ánh nến chập chờn có vẻ như không còn gì để nói.
Bên ngoài đình, bánh xe nước vẫn chầm chậm quay đều, nước vẫn tuôn xuống từ mái hiên, ánh mắt chàng thậm chí không nhìn cô: “Tôi cho là sự đã đến nước này, cô sẽ không so đo với tôi nữa. Tôi đối tốt với cô, cô cũng đã nhìn thấy”. Không đợi cô trả lời, ánh mắt chàng như cười, nhưng giọng lạnh như băng, “Có điều đối với những người mình không quan tâm, ai sẽ đi lo rốt cuộc họ sẽ thế nào. Trước giờ, cô chưa từng sợ làm tổn thương tôi, đúng không Tửu Tửu?”.
Có tiếng “khộc” phát ra từ guồng bánh xe nước bên ngoài, bàn tay cầm cốc của cô thoáng dừng, lát sau thong thả đi tới trước giường mây, cúi người nhìn chàng, giọng lạnh lùng: “Đệ hận tôi đã làm tim đệ tổn thương?”.
Bàn tay như men sứ lộ ra khỏi ống tay áo, tách tà áo trên ngực chàng, áp vào bộ ngực trần của chàng, “Không ai nói với đệ, A Phỉ, mỗi người phải tự bảo vệ tim mình”.
Chàng ngạc nhiên, hơi nghiêng đầu, hai người lặng lẽ nhìn nhau, không ai nhượng bộ, cứ giữ khoảng cách gần trong hơi thở như vậy. Cuối cùng chàng mím môi tự trào, “Cô nói đúng, Tửu Tửu”. Ánh mắt di chuyển đến mắt cô, đến bàn tay cô áp vào ngực chàng, “Vậy lần này, cô sắp đặt như vậy, là muốn tôi thế nào?”.
Cô buông tay cúi đầu: “Chúng ta không thể có con cái, các bậc trưởng lão sớm muộn cũng ép đệ nạp thiếp, đệ cần một đứa con”.
Chàng gật đầu: “Nếu ta chỉ có mình cô là vợ, một năm sau nếu cô không sinh con, chưa biết chừng các bậc trưởng bối sẽ ép ta bỏ cô, ai cũng biết Công Nghi gia coi trọng tử tôn thế nào. Còn Khanh gia, nếu cô vì lẽ đó bị ruồng bỏ phải quay về nhà, họ cũng không có gì để nói. Cô nghĩ vậy, đúng không?”.
Chàng buồn bã thở dài: “Rốt cuộc là tôi cần đứa con hay cô cần tôi có đứa con?”.
Cô quay mặt, chăm chú nhìn ra ngoài đình, giống như bức tượng quay mặt ra hồ: “Cái đó có gì khác, hoặc là ngay từ đầu phải ngăn cản tôi, hoặc là phải tránh xa tôi, sự đến hôm nay, tất cả đã muộn, hãy nhanh chóng cưới Công Nghi San, cho dù cái thai trong bụng cô ta không phải là cốt nhục của đệ, nếu đệ muốn, đệ sẽ có con của mình”.
Nụ cười bên miệng tự rút như thủy triều, thần sắc lạnh như băng, nhìn cô một lát: “Trước giờ cô không hề biết, cô muốn gì tôi đều có thể đáp ứng, không phải cô thuyết phục tôi, chỉ là chính tôi muốn cô mãn nguyện”.
Chàng cúi đầu chỉnh sửa y phục, nhặt lên cuốn “Vân Châu bát ký” rơi dưới đất, “Cho dù tim cô làm bằng đá, bất luận tôi làm gì cũng không lay chuyển được quyết tâm của cô, nhưng tình yêu là thứ không phải nói cho là cho, nói lấy lại là lấy lại được, cô muốn gì tôi vẫn có thể đáp ứng, nhưng từ nay về sau, Tửu Tửu, từ nay về sau cô đừng bao giờ xuất hiện trước mắt tôi nữa”.
Khanh Tửu Tửu trang nghiêm ngồi một bên cúi đầu, cầm cái cốc, trông có vẻ bình thường, khi đưa cốc trà lên miệng nhấp, lại để nước trà sánh ra ngoài, nước trà ngấm vào vạt áo, loang lổ như nước mắt, nhưng cuối cùng cô vẫn uống cạn cốc trà. Đến nước này, hai người có lẽ đã kết thúc.
Nạp thiếp là chủ đề vĩnh hằng của đàn ông, Quân Vỹ từng đặt một giả thiết, nếu có một thời đại nào đó pháp luật đưa ra quy định cấm nạp thiếp, không biết sẽ xảy ra hậu quả thế nào. Tôi cảm thấy điều này đâu có gì đáng nói, hậu quả tất là đàn ông rỗi việc sẽ đến lầu xanh. Đây thật ra là chuyện tốt, có khi xã hội lại càng tốt đẹp hài hòa. Nhưng Công Nghi Phỉ nạp thiếp quả thật hơi oan, có lẽ chàng ta là người duy nhất ở Triều Châu bị chính thê ép nạp thiếp, vừa thấy thương cảm cho chàng lại có chút ngưỡng mộ chàng.
Công Nghi San suy cho cùng là tiểu thư của một chi trong đại gia tộc Công Nghi, cho dù làm thiếp hôn lễ cũng rất linh đình. Tân thiếp về phủ theo lệ phải dâng trà mời bố mẹ chồng, Công Nghi San áo gấm tân nương đỏ thẫm ngẩng khuôn mặt đẹp như hoa tường vi, nhìn Khanh Tửu Tửu ngồi trên ghế hoa lê, môi khẽ nhếch: “Mời tỷ tỷ dùng trà”.
Cốc trà đưa lên không hiểu sao đột nhiên tuột tay rơi xuống nền choang một tiếng vỡ tan, cánh tay Khanh Tửu Tửu giơ ra đón cốc trà dừng lại trên không, cô vốn chưa bao giờ tỏ ra mất tư thế, lúc này cũng ngây người nhìn tay mình, phong thái ung dung thường nhật bỗng chốc biến đâu mất, Công Nghi Phỉ bên cạnh lạnh lùng liếc nhìn mấy mảnh sứ vỡ trên nền, giơ tay đỡ Công Nghi San đứng dậy.
Tôi nghĩ có phải Khanh Tửu Tửu đã hối hận, nhưng lại không thể kiểm nghiệm, khi tôi đang hiếu kỳ theo dõi ký ức bị phong ấn của cô, càng xem càng cuốn hút, sắp đến lần động phòng thứ hai trong đời Công Nghi Phỉ, trong sân bất chợt vang lên tiếng cười giòn giã.
Xem ký ức của người khác nhất thiết xung quanh phải trong trạng trái yên tĩnh hoàn toàn, không bị quấy rầy, tiếng cười giòn giã khiến cả hai chúng tôi giật mình, giá nến long phượng màu hồng cao vút trong tân phòng chớp mắt vỡ vụn, giống như hòn đá ném xuống mặt hồ phẳng lặng, để lại những sóng nước lan tỏa, cảnh sắc trước mặt tan thành vô vàn điểm sáng, xem ra Công Nghi Huân sắp tỉnh, không thể xem tiếp ký ức được nữa.
Tôi mở mắt nhìn thấy cô nằm trên giường, vẫn chưa tỉnh, tức phát điên, tôi lao ra khỏi bức bình phong.
Chàng trai tươi cười từ phía xa chạy đến, dừng lại dưới bóng cây tử vi ở lối vào, trong ánh sáng lờ mờ, có thể nhìn thấy vẻ ngây ngô trên mặt anh ta. Những bông tử vi tươi thắm đung đưa trong tán lá trên đầu anh ta, môi dần nở nụ cười, anh ta giang hai tay đi về phía tôi: “A Phất”.
Đã lâu không gặp, tôi giang hai tay chạy như bay đến, băng trên lối đi hẹp lát đá xanh, giống như băng qua khoảng thời gian xa cách dài lâu, mãi mới đến đích, trào nước mắt ôm chặt con hổ dưới chân anh ta. Tiểu Hoàng thân thiết dụi mãi đầu vào vai tôi, khiến tôi phải ngửa cổ lên, nhìn thấy nét mặt khó hiểu của Quân Vỹ, tôi lạ lùng hỏi anh ta: “Huynh chìa tay ra làm gì?”.
Quân Vỹ ngập ngừng, môi hơi run run: “Không có gì, trên bàn tiệc nóng qua, huynh chạy ra ngoài định ôm thiên nhiên một chút”.
Tôi nghĩ một lát, chỉ cho anh ta khoảng cây xanh phía trước: “Vậy huynh ra kia mà ôm, ở đó không khí rất trong lành”.
Quân Vỹ lặng thinh liếc tôi một cái, ôm ngực, từ từ quay người bước ra khỏi cổng.
Chú thích:
(2) Đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc, một thốn xấp xỉ bằng 3,3 cm
Trước đây chưa bao giờ Quân Vỹ dằn dỗi như thế, nhìn chung anh ta đều nghe lời tôi, lần này vừa gặp lại sau hai tháng chia tay đã giận dỗi bỏ đi, không biết cả chặng đường vừa rồi đã phải chịu đựng những gì.
Đúng là anh chàng yếu đuối. Anh ta còn chưa đi khỏi cổng, mới được vài bước đã bị chàng trai áo trắng cười ha hả lúc trước hớn hở chạy ra kéo lại, lúc này mới nhìn rõ chàng trai đó thì ra là Bách Lý Tấn.
Có một việc khác đáng chú ý hơn so với việc tại sao hai người cùng xuất hiện ở đây, tôi hít một hơi dài, giơ tay xoa mũi, ngại ngùng hỏi: “Hai người vừa rồi sao lại đuổi nhau?”.
Quân Vỹ đứng nhìn tôi, ngoẹo đầu sang một bên, vẻ bất chấp. Cuối cùng Bách Lý Tấn thật thà rút ra một chiếc trâm bằng gỗ, bối rối nói: “Tôi đưa chiếc trâm Vỹ Vỹ tặng tôi đem tặng lại một cô ca kỹ trên bàn tiệc, khiến huynh ấy không vui, đuổi tôi đòi lại chiếc trâm”. Nói xong rụt rè lùi về sau một bước, liếc nhanh Quân Vỹ một cái.
Đầu tiên tôi bị chấn động bởi cách xưng hô của anh ta, vừa rồi anh ta gọi Quân Vỹ là Vỹ Vỹ, khi tôi trấn tĩnh trở lại thấy Quân Vỹ xám mặt đang chồm đến túm lấy Bách Lý Tấn: “Không phải cậu định tặng người ta chiếc trâm tôi cho cậu! Cậu định tặng chiếc trâm ngọc bích của tôi! Giấu đâu rồi? Mau trả đây!”.
Nước trà như đặc quánh trong cổ, tôi ho sặc sụa túm cánh tay Quân Vỹ: “Huynh, huynh, huynh tặng trâm cho Bách Lý tiểu đệ sao?”.
Bách Lý Tấn đứng bên ngượng nghịu gật đầu, Quân Vỹ không nhìn thấy, khẽ nói: “Tặng một chiếc, nhưng…”.
Hai tay ôm trán, tôi hỏi: “Bởi vì anh ta đem tặng lại người khác nên huynh giận?”.
Bách Lý Tấn lại ngượng nghịu gật đầu, Quân Vỹ vẫn không nhìn thấy, khẽ nói: “Tôi rất giận, nhưng…”.
Tôi run người kéo ống tay áo anh ta, choáng váng như bị búa giáng vào đầu: “Đoạn thật rồi à?”.
Quân Vỹ không nói gì nữa, ngẩng đầu vẻ mặt như muốn hỏi gì, Bách Lý Tấn ngây người, bối rối cúi đầu vò vạt áo, mặt hơi đỏ: “Phải, đoạn rồi”.
Trước mặt dường như đã hiện lên cảnh Quân Vỹ bị Quân sư phụ dùng gậy đánh chết, tôi lảo đảo lùi về sau, một tay bám vào thân cây để khỏi ngã, gắng gượng trấn tĩnh, lát sau bình tĩnh vỗ vai Quân Vỹ: “Thôi, đã sớm biết đàn ông viết tiểu thuyết, mười người thì chín người mắc chứng đó, không trách huynh, đây là bệnh nghề nghiệp, phong lưu một trận, lúc nào huynh bị Quân sư phụ đánh chết, cùng lắm muội chia cho nửa viên giao châu”.
Quân Vỹ nghiến răng ngắt lời tôi: “Muội nghĩ đi đâu vậy?”.
Tôi à một tiếng: “Nhưng chẳng phải đã đoạn tụ(3) rồi sao?”.
Bách Lý Tấn xen vào: “Đoạn tụ ư?”. Tay giơ chiếc trâm ngọc bích bị gẫy về phía Quân Vỹ, “Chiếc trâm này bị gẫy, tay áo của của huynh cũng đứt à? Thật là đại cát đại lợi, đại cát đại lợi, không bất hủ không thành văn, không gẫy không thành đôi, ha ha ha”.
Tôi thấy chiếc trâm rất quen, nhìn kỹ nhận ra chính là chiếc trâm hồi nhỏ tôi tặng Quân Vỹ. Bách Lý Tấn vẫn đứng một bên ha ha cười nhạt thếch: “Tôi không tặng cô ca kỹ chiếc trâm này thật mà, nhưng tôi đã hứa gắn lại giúp huynh, nhất định tôi sẽ làm, huynh đừng thiếu tin tưởng người ta như vậy, chiếc trâm tôi vừa tặng cô gái đó chỉ là loại trâm rẻ tiền huynh mua đại bên đường, định tặng người nhà, nhân thể cũng cho tôi một chiếc”.
Tôi mới hiểu ra, thì ra họ hiểu lầm nhau. Mặt Quân Vỹ càng xám ngắt, ánh mắt liếc trộm về phía tôi, lại vội quay đi. Tôi ghé lại nhìn kỹ chiếc trâm ngọc bích trong tay Bách Lý Tấn, nhìn một lúc cười khinh khích nói với anh ta: “Không cần gắn, cái này thực ra là đá giả ngọc, hồi nhỏ tôi mua rất nhiều tặng mọi người, tất cả mọi người trong tông phái trên dưới đều được tặng, ngay người quét dọn và người gác cổng cũng được tặng, một đồng tiền đồng có thể mua năm chiếc”. Quay lại nói với Quân Vỹ, “Nếu huynh thích sau này muội sẽ tặng huynh cái khác”. Nói xong lại đắn đo: “Nhưng không biết bây giờ có lên giá không?”.
Bóng lưng Quân Vỹ cứng đờ, hai tay bám vai Bách Lý Tấn, khẽ nói: “Cậu dìu tôi”.
Tôi vội ghé lại đỡ một tay, không biết anh ta trở nên yếu đuối như vậy từ bao giờ, lo lắng hỏi: “Đây có phải là chứng thận hư như người ta nói?”.
Bách Lý Tấn gãi đầu, nhăn nhó: “Không biết, thận tôi chưa bị hư, không nghiên cứu về khoản đó”.
Quân Vỹ gắng bám thân cây, môi run run khó nhọc quay người, một tay ôm ngực: “Tôi đi trước, hai người cứ nói chuyện tự nhiên”.
Thư lần trước của Quân Vỹ chỉ nói hai người đang ở Bối Trung, bảo tôi đến ở cùng nhưng lại quên ghi địa chỉ, lại mãi không phát hiện ra, vẫn chờ tôi đến, Bối Trung rộng như vậy, cuối cùng lại gặp nhau, không biết cơ duyên thế nào.
Qua một hồi chuyện trò với Bach Lý Tấn mới biết hai người gặp nhau ở biên giới Khương – Trần, anh ta được Công Nghi Phỉ mời đến Bối Trung luyện thuốc, Quân Vỹ vừa hay đang định trở về nước Trần, vậy là thành bạn đồng hành. Mãi đến tối vừa rồi, hai người còn đang ở biệt phủ của Công Nghi gia dưới chân núi, sốt ruột chờ tôi đến, không ngờ gặp tiết hoài nguyệt được mời lên núi dự tiệc, không hẹn mà gặp ở đây.
Trong lúc tôi nói chuyện, Tiểu Hoàng cắn tay áo tôi giật giật, buộc tôi phải chú ý, tôi vừa liếc nhìn nó, nó lập tức choãi chân nằm nghiêng trên đất, lộ ra cái bụng vằn vện, còn khó nhọc nâng đùi muốn chìa cái bụng ra hơn nữa.
Bách Lý Tấn hiếu kỳ giơ tay vuốt bụng nó nhưng bị gạt ra, tôi đưa tay xoa bụng nó, bảo: “Béo ra rồi phải không, xem ra cha con chăm con rất tốt”.
Tiểu Hoàng tiu nghỉu cố cúi đầu nhìn bụng mình, lát sau dứt khoát xoay người nằm ngửa chổng bốn chi lên trời, ý bảo tôi sờ thử, Bách Lý Tấn bĩu môi: “Nằm như thế này cho dù béo núc sờ bụng cũng lép”.
Tiểu Hoàng mặc kệ anh ta, tứ chi chới với mặt buồn thiu, ra ý mình rất khổ sở, rất khổ sở, tôi lại xoa tay lên bụng nó, giả bộ ngạc nhiên: “Ôi chao, gầy thật, ngày mai bảo nhà bếp cho con ăn gà rán, cha con chăm con thế nào vậy, đúng là người cha tồi, ngày mai chúng ta đánh cho huynh ấy một trận”.
Tiểu Hoàng mãn nguyện lăn hai vòng đứng đậy, dụi đầu vào chân tôi, nhưng hình như cảm thấy làm vậy có vẻ nhanh nhẹn hoạt bát quá, không giống bị đói lâu ngày, lập tức gục xuống chân tôi, yếu ớt nhắm mắt giả bộ ngủ.
Tôi đang lo Tiểu Hoàng thế này làm sao đưa về được, ngẩng đầu nhìn thấy Bách Lý Tấn miệng há hốc đến nỗi có thể nhét vừa một con gà, theo ánh mắt anh ta tôi ngoái đầu, nhìn thấy Công Nghi Huân áo trắng phấp phới đứng sau tôi, thì ra cô đã tỉnh.
Bách Lý Tấn ngẩn ngơ hồi lâu, tôi giật mình, cảm thấy với danh tiếng thần y sau thánh dược, nhất định anh ta sẽ phát hiện đây là ma, còn chưa kịp lên tiếng giải thích, Bách Lý Tấn đã đỏ mặt, ngượng ngùng tay vò gấu áo, bẽn lẽn mở miệng: “Ôi, tỷ tỷ xinh đẹp, tỷ tên gì vậy?”.
Cuối cùng cũng tống khứ được Bách Lý Tấn đưa Tiểu Hoàng đi ngủ, dưới trời đêm mùa hạ, hoa tử vi dập dờn xung quanh, chỉ còn hai chúng tôi. Công Nghi Huân khép tà váy, lặng lẽ ngồi xuống ghế đá, đôi mắt trống rỗng hơi ngước lên: “Quân cô nương nhìn thấy gì trong ký ức?”.
Xem xong ký ức của tôi, hãy kể cho tôi nghe những phần tốt đẹp nhất. Cô đã nói như vậy. Tôi nghĩ một hồi, không biết bắt đầu từ đâu, hình như tất cả đều tốt, hình như tất cả đều không tốt, con người ta tại sao cứ cố bám lấy quá khứ đã qua, quá khứ không phải là mình, tương lai không phải là mình, chỉ lúc này mới là mình, người ta chỉ nên sống với hiện tại, nếu bị trói buộc bởi quá khứ và tương lai chỉ tự chuốc phiền não đau khổ không cần thiết mà thôi.
Tôi cúi đầu ngồi đối diện Công Nghi Huân, lát sau chậm rãi nói: “Chàng rất thích cô, tìm mọi cách làm cho cô vui, lại còn soạn riêng cho cô một ca khúc gọi là ‘Thanh hoa huyền tưởng’, cô đã sáng tác điệu múa phối với ca khúc đó, chỉ múa cho mình chàng xem, lúc đó tình cảm hai người rất tốt”.
Đêm đó cô đứng trước mặt chàng ngước nhìn chàng, nói đây là đêm vui nhất của cô, sau này nhớ lại cũng sẽ vui, nhưng cuối cùng cô vẫn quên tất cả, giống như cây cỏ đầy vườn sau khi bị thiêu cháy, tuy rễ vẫn cắm sâu trong đất, nhưng mùa xuân đến lại không thể nào ra hoa đẹp như trước. Tôi nói với cô chuyện đó, thầm nghĩ có lẽ đó chính là những ký ức tốt đẹp mà cô nói.
Nét mặt Công Nghi Huân chăm chú như đang lần theo ký ức, lát sau cau mày: “Thanh hoa huyền tưởng? Tôi quên rồi, thì ra tôi từng biết múa?”.
Đôi đồng tử hơi xanh của cô lặng như mặt hồ ngước nhìn tôi, tôi gật đầu: “Cô múa rất đẹp, đó là điệu múa cô tự sáng tác, cô đã quên rồi, bây giờ có muốn học lại không?”. Tôi nắm tay cô, “Nếu muốn học lại, tôi sẽ dạy cô”.
Điệu múa đêm đó tôi vẫn nhớ, đó là điệu múa có thể xứng bốn chữ “danh chấn thiên hạ”.
Không biết sau đó đã xảy ra chuyện gì dẫn tới kết cục như hôm nay, nhưng nếu điệu múa ‘Thanh hoa huyền tưởng’ xuất hiện trở lại, xuất hiện trước mặt Công Nghi Phỉ, chàng ta sẽ thế nào? Tôi hình dung sẽ có hai khả năng, một là Công Nghi Phỉ lương tâm thức tỉnh, sẽ sửa đổi, đối tốt với Công Nghi Huân, hai là Công Nghi Phỉ lương tâm vẫn không thức tỉnh… vậy là đành phải múa thêm mấy lần.
Ngày hôm sau, trời quang đãng, mới sáng sớm tôi đã đi đến tiểu viện của Công Nghi Huân dạy cô học múa, thực ra tôi không hề biết múa, sư phụ không dạy tôi. Lúc nhận nuôi tôi, ông đã ngoại lục tuần, một ông lão sao có thể dạy lễ nhạc múa hát uốn éo, đó là nguyên do tại sao cầm kỳ thi họa tôi đều biết ít nhiều, nhưng múa hát tuyệt nhiên không biết.
Trời vẫn còn rất sớm, trên núi không khí mát mẻ trong lành, đi qua một đình hoa nhỏ gió lùa mát rượi, nhìn thấy Quân Vỹ ngồi bên trong, vẫy tay với tôi như hôm qua không có chuyện gì xảy ra, Tiểu Hoàng ngủ gật dưới chân. Tôi nhìn quanh, không thấy Bách Lý Tấn, trời lại còn sớm nên thong thả rẽ vào.
Trên bàn để một bó hoa phật tang được buộc bằng sợi gai màu xanh. Quân Vỹ che miệng đằng hắng một tiếng: “Vừa hái lúc sáng sớm, nếu muội thích, tặng muội”.
Tôi dè dặt đón bó hoa, cảm thấy đột nhiên anh ta tốt với tôi như vậy, nếu trên đường không làm việc gì có lỗi với tôi thì cũng sắp làm.
Cả hai yên lặng một lát, sau đó anh ta lại rút ra một quả táo đỏ nhẵn bóng đưa cho tôi, tôi kinh ngạc há miệng, vừa thấp thỏm nghĩ sắp được nghe anh ta trình bày việc làm có lỗi với tôi, vừa đón quả táo bất giác đưa lên miệng cắn một miếng, dỏng tai nghe.
Trông thần sắc Quân Vỹ có vẻ còn kinh ngạc hơn tôi, ngây người một lát, lên tiếng: “Thôi, nói chuyện chính trước. Gần đây hai nước Trần, Triệu xảy ra chuyện lớn, muội có biết không?”.
Tôi cắn miếng nữa, lắc đầu. Tay Quân Vỹ bám vào mép ghế, hạ giọng: “Chuyện ba tháng trước Trần thế tử Tô Dự bị một nữ nhạc sư sủng ái hành thích, có lẽ cô cũng nghe nói, nữ nhạc sư đó cũng có lai lịch nhất định, Triệu thái hậu và thân mẫu Tô Dự lại là chị em ruột, coi như là dì của Tô Dự.
Tháng hai năm nay, trong sinh nhật lần thứ bốn mươi của Triệu thái hậu, Tô Dự đến chúc mừng, gặp nhạc sư trong Triệu cung, vừa gặp đã mê, liền đưa về nước Trần, càng thêm sủng ái, nhưng không ngờ hai tháng sau bị nhạc sư đâm suýt chết. Sau đó Tô Dự buồn rầu vì tình duyên đi lang thang khắp thiên hạ, còn ở nước Trần và các nước chư hầu lại dấy lên tin đồn, nói là nhạc sư kia là do nước Triệu phái đến, trước khi vào cung được Triệu vương đặc biệt huấn luyện…”.
Tôi xua tay xen lời: “Cái gọi là huấn luyện đặc biệt có lẽ chỉ là chỉ dạy cô ta lễ nhạc, sắp xếp cho cô ta chân nhạc sư trong cung, chờ thời cơ mê hoặc Tô Dự”.
Tô Dự thích nhạc, rất am hiểu nhạc lý, thiên hạ đều biết, nghe đồn cuốn cầm phổ do anh ta soạn lưu lạc trong dân gian không biết thế nào bị xé thành hai nửa, do hai vị công chúa hai nước Đường – Lầu mỗi người giữ một nửa. Hai vị công chúa đều muốn có cả cuốn, cả hai đều sẵn sàng bỏ giá cao muốn mua nửa còn lại. Khi tôi còn là công chúa nước Vệ, nghe nói giá của nó là một tòa thành.
Nhưng tôi không hiểu hai vị công chúa kia sao lại phải làm vậy, đã có thể trả giá cao bằng một tòa thành, thà bí mật đi tìm Tô Dự xin một cuốn, tôi dám cược Tô Dự muốn duy trì hình ảnh hiền đức của mình, đừng nói một tòa thành, dù chỉ một viên gạch xây thành cũng không lấy, chung quy là tại hai vị công chúa kia nhát gan.
Quân Vỹ gật đầu tán thành ý kiến của tôi, nghĩ một lát, bổ sung: “Tất cả là lời đồn, Tô Dự thích một người như thế nào, Triệu vương vốn là biểu huynh của anh ta biết rõ nhất, cho nên thiên hạ cho rằng, tin đồn này cũng có vài phần căn cứ. Sau khi chuyện xảy ra, ở các nước chư hầu lại lan truyền một tin đồn khác, nói là nước Trần biết nước Triệu phái thích khách hành thích thế tử của họ, vô cùng căm phẫn, đang ráo riết chuẩn bị lương thảo định khai chiến với Triệu. Triệu vương tuổi trẻ, thần tử triều đình cũng khí huyết sục sôi, coi chiến tranh lãng mạn như sử thi, định nhân cơ hội làm nên nghiệp lớn, trong buổi hội đàm trên triều đa phần chủ chiến, từ bốn tháng nay, quan hệ Trần – Triệu vẫn vô cùng căng thẳng, nhất là sau khi Trần quốc nhị công tử Tô Tạ do gây ra cung biến bị xử trảm tháng sáu vừa rồi, Tô Dự nắm đại quyền, các nước chư hầu càng dấy lên dư luận, cho rằng sách lược của Tô Dự nhất định là muốn thắng ngoại địch trước hết nội tình phải yên, sau này nhất định sẽ lấy cớ bị Triệu hành thích, xuất chinh thôn tính nước Triệu, Trần quốc đã có dấu hiệu xưng bá một phương, không ít chư hầu bí mật hành động, xem ra định kết đồng minh, nếu Trần có động tĩnh, rất có thể sẽ liên minh với nhau chống lại Trần”.
Quả táo trong tay chỉ còn hạt, Tiểu Hoàng thức dậy chớp mắt ngây ra nhìn hạt táo trong tay tôi, tôi vỗ vai Quân Vỹ: “Còn táo nữa không? Cho Tiểu Hoàng một quả”.
Quân Vỹ cau mày: “Còn đâu, quả vừa rồi vốn định cho Tiểu Hoàng, cuối cùng muội lại ăn hết”. Nói xong ngẩng đầu: “Muội thấy thế nào?”.
Tôi nhìn hạt táo, lại nhìn Tiểu Hoàng tiu nghỉu gục đầu dưới chân tôi, làm bộ mếu máo: “Thấy thế nào, mua cho nó quả khác chứ sao”.
Khóe miệng Quân Vỹ giật giật: “Huynh hỏi chuyện hai nước Trần, Triệu cơ, muội thấy thế nào?”.
Quốc sự đối với tôi bây giờ đã là chuyện của đời trước, Diệp Trăn đã chết, ở ngôi vị nào gánh vác trách nhiệm của ngôi vị đó, bây giờ tôi đã không còn là công chúa nước Vệ, cũng ít quan tâm chính trị, may mà thời còn là công chúa từng quan tâm, tư duy vẫn tốt, nghe Quân Vỹ kể cảm thấy tình hình trước mắt rối ren như mê cung.
Chuyên tâm suy nghĩ một hồi, rút ra một cành phật tang từ bó hoa Quân Vỹ tặng, bứt cánh hoa, nhụy, cành, lá rải trên mặt đất dựng lên bản đồ cục diện Trần, Triệu và các vấn đề liên quan.
Khi Quân Vỹ thấy tôi bứt cánh hoa định nói gì lại thôi, cân nhắc một hồi tôi phân tích tình hình cho Quân Vỹ nghe: “Nước Triệu có vẻ như đang bị kẻ khác hãm hại, với quốc lực của họ, không có lý do chủ động khiêu chiến với Trần, huống hồ giữa hai nước lại có quan hệ liên hôn. Giống như Tiểu Hoàng dù đói đến đâu cũng không ăn thịt muội và huynh. No bụng một bữa, bữa sau ai kiếm tiền mua gà rán cho mà ăn?”.
Nhưng lại nghĩ hình như Quân Vỹ trước nay cũng chưa kiếm tiền mua gà rán cho Tiểu Hoàng ăn, lại nói chữa, “À không, có thể cho nó ăn thịt huynh”, bị Quân Vỹ lườm một cái.
Tôi ngồi xuống nhìn bản đồ trên đất tiếp tục suy nghĩ, Quân Vỹ cũng ghé lại gần, tôi dùng cành hoa phật tang chỉ cho anh ta: “Đây nhất định là mưu kế của một nước khác ngoài hai nước Trần, Triệu, đưa thích khách vào Triệu cung mượn dao giết người, nếu giết được Tô Dự là đại hoan đại hỉ, nước Trần mấy chục năm tới sẽ không xuất hiện một người kế vị tuổi trẻ tài cao như vậy, không có gì đáng sợ. Nếu Tô Dự may mắn không chết, với tính cách anh ta, cho dù biết đó không phải do Triệu gây ra, cũng có thể giả bộ không biết, nhân cơ hội này thôn tính Triệu.
Người chủ mưu gây ra tình hình này đã suy xét kỹ hai điểm đó. Tin đồn của các nước về hai nước Trần, Triệu từ tháng tư đến nay mà huynh nói, theo muội do chính kẻ chủ mưu cố tình tung tin, tất cả đều phát triển theo suy tính của kẻ đó, kẻ này chờ hai nước Trần, Triệu xảy ra chiến tranh, chư hầu liên minh kháng Trần, sẽ lợi dụng ở hội kiếm lời.
Cho dù Tô Dự nhìn thấu âm mưu đó, không xuất binh phạt Triệu, nhưng hiện tại không phải là vấn đề Trần có xuất binh hay không, huynh thử hình dung, một lũ mãng phu nước Triệu có khi lại tin vào lời đồn, bị kích động một chút, rất có thể lại chủ động xuất binh. Chuyện này thật vô cùng nguy hiểm, bất luận ai xuất binh trước, chỉ cần cuộc chiến Trần, Triệu bùng nổ, Tô Dự đã thua một nửa, đúng là ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Ngón tay Quân Vỹ chỉ vào vị trí của Hạo thành kinh đô nước Trần ở bản đồ trên mặt đất, trầm ngâm: “Theo muội, chủ mưu nước cờ này là ai?”.
Tôi tiếp tục: “Lân bang của Trần chỉ có bốn nước Vệ, Khương, Trịnh, Triệu, đạo trị quốc rất coi trong viễn giao cận công, giao hảo với các nước ở xa, tấn công các nước gần. Kẻ e ngại Trần hùng mạnh nhất ắt là bốn nước lân bang kia, trong đó Vệ đã mất, Triệu là thân hôn của Trần, trước nay luôn cúi đầu tuân phục Trần, quốc lực cũng yếu, cho nên ai bố trí cục diện này nhắm mắt cũng đoán ra, không Trịnh thì Khương”.
Nghĩ một lát, cắm cành hoa trong tay lên vị trí của Hạo thành, “Nhưng nếu ngay từ đầu Tô Dự đã nhìn thấu âm mưu này, tương kế tựu kế đưa nhạc sư kia về nước, bất luận là Trịnh hay Khương, cái gọi là mưu kế tinh vi của họ thực ra lại nằm trong mưu kế lớn của Tô Dự mà thôi. Tô Dự mượn mưu của họ làm động thái giả nào đó liền loại bỏ được tiểu đệ dã tâm của mình, nếu huynh là Tô Dự, lâm vào cục diện tiến thoái lưỡng nan này, huynh sẽ làm thế nào?”.
Hồi lâu không thấy trả lời, tôi mới nghĩ ra người trước mặt mình là một tiểu thuyết gia chuyên viết truyện tình cảm chứ không phải là tiểu thuyết gia viết truyện quân sự. Mặc dù hỏi Quân Vỹ nhưng tôi cũng âm thầm muốn đoán xem sao, nếu tôi là Tô Dự, trước cục diện trước mặt có báo sau lưng có hổ, Trần quốc bị chư hầu bao vây tứ phía, nhất định toàn quốc trên dưới đồng lòng chưa từng có, còn nước Triệu một bang lỗ mãng tiểu nhân tôi nên làm thế nào đây?
Ngoài tiểu đình, hoa phật tang rung rinh trong gió, sóng vàng nhấp nhô, Quân Vỹ đứng lên ngồi trở lại ghế đá: “Tất cả những điều muội dự đoán đều đúng. Sau khi chia tay dạo trước, huynh và cha luôn thăm dò theo sát tình hình, chủ sự là nước Khương, chủ mưu là thừa tướng Bùi Ý, một trọng thần có tài, nước cờ như thế vừa tinh vi vừa hiểm ác, huynh đoán chắc chắn Tô Dự cũng biết nhưng không lộ ra, thiên hạ đều cho lần này Trần thế tử bị dồn vào đường cùng, không ngờ…”.
Anh ta ngoái đầu nhìn tôi, “Trong khi tiếng hô về cuộc chiến Trần, Triệu dâng cao chưa từng có ở cả trong và ngoài hai nước, Tô Dự lại ung dung lựa chọn lễ vật đường hoàng đến Tiều đô, dâng thư lên thiên tử vốn từ lâu đã xa rời chính sự. Biểu thư đó niêm phong trong chiếc hộp gỗ hồng mộc, tôi đã lén xem, nói là anh ta từng thân thiết như huynh đệ thế nào với Triệu vương, Triệu vương lại coi anh ta như cái đinh trong mắt, mấy lần hãm hại, tháng trước anh ta bị hành thích không thể xác định là Triệu vương sai khiến, nhưng tuyệt đối chưa hẳn không phải. Có điều anh ta thấy Triệu thái hậu tuổi đã cao, Triệu, Trần tiền triều bang giao hữu hảo, lại thêm tất cả đều là chư hầu của thiên tử, trừ phi thất đạo, nếu không không thể công phạt lẫn nhau, chuyện lần này coi như cho qua, nên coi nữ thích khách là tội thần muốn báo tư thù, mong thiên tử có thể chuyện lớn hóa nhỏ”.
Tôi trầm trồ: “Nước cờ này đi rất tuyệt, hòa giải theo kiểu trong nhà, thiên tử đã lâu không được coi trọng, lần này Tô Dự đem chuyện lớn như vậy trưng cầu ý kiến, thiên tử nhất định rất cảm động, chắc sẽ làm theo ý Tô Dự, các chư hầu đang chờ kiếm lời chắc chắn há mồm kinh ngạc. Triệu vương nếu còn tỉnh táo, đương nhiên nên thuận đà xuống thang, lúc này không phải khai chiến trước, cũng khỏi nơm nớp lo bị Trần tấn công”.
Quân Vỹ gật đầu: “Không chỉ có thế, thiên tử cảm phục đức hạnh cao thượng của Tô Dự, mặc dù bị hành thích suýt chết cũng lấy đức báo oán, lại tôn vương sùng lễ như vậy, đặc biệt ban tước cho Tô Dự là Hiển Khanh, là tước vị cao hơn tước công, khi nào kế vị Trần hầu vương, địa vị sẽ cao hơn các chư hầu khác trong thiên hạ. Thừa tướng Bùi Ý cơ mưu của nước Khương dù tức muốn chết cũng đành bó tay, thực ra ông ta cũng chẳng tổn thất gì”.
Tôi đứng dậy, quẳng cành hoa phật tang đã bị vặt trụi trong tay, nghĩ một lát nói: “Cho dù năm xưa Vệ không bị thôn tính, có thể cầm cự thêm vài năm, nếu có ngày bị Trần để mắt đến cũng khó tránh khỏi số phận diệt vong”.
Quân Vỹ khẽ nói: “Trần có Tô Dự, Vệ có Diệp Trăn”.
Lần đầu tiên anh ta gọi tôi như vậy khiến tôi giật mình, bối rối nói: “Không dám, muội không phải là đối thủ của anh ta, phụ vương không cho muội can dự triều chính, muội chỉ đánh trận trên giấy vậy thôi”.
Quân Vỹ ngắm nghía tôi một lát, nghiêng đầu, “Nếu anh ta nhìn thấy muội, nhất định sẽ thích muội”.
Tôi há miệng: “Sao?”.
Quân Vỹ lại tiếp: “Anh ta nhất định sẽ nhốt muội trong Trần cung, hoa nở hoa tàn, ngày tháng trôi nhanh, hai bên yêu yêu hận hận, âu yếm, giày vò, muội nhất định sống rất thê thảm”.
Tôi há miệng: “Hả?”.
Anh ta liếc tôi một cái, “Có gì lạ đâu, từ cổ những chuyện thế này đa phần là thế, cuối cùng không phải muội giày vò anh ta đến chết thì là anh ta giày vò muội đến chết, sau khi chết mới thấy giá trị của nhau, tóm lại không có kết cục tốt đẹp gì”. Anh ta thở dài, quay đầu chăm chú nhìn tôi, “Trước đây huynh luôn sợ muội đi tìm Tô Dự báo thù, cảm thấy anh ta tiêu diệt nước Vệ, muội sẽ hận anh ta, nhưng thực ra, A Trăn, muội đánh giá rất cao Tô Dự phải không?”.
Tôi hoàn toàn không hiểu tâm tư hôm nay của Quân Vỹ, lùi một bước, nói vẻ nghiêm túc: “Huynh đừng nói bừa, muội rất chung thủy với Mộ Ngôn”.
Anh ta lơ đãng nói: “Bởi vì cuối cùng muội phải hành thích Trần vương, huynh mới nói chuyện về nước Trần… nếu huynh nói với muội, Mộ Ngôn…”.
Tôi căng thẳng: “Mộ Ngôn làm sao?”.
Quân Vỹ đăm đăm nhìn tôi, chưa bao giờ tôi thấy anh ta có bộ dạng nghiêm túc như thế, lát sau, anh ta lắc đầu: “Không sao, từ nhỏ muội đã thích anh ta, đến chết vẫn thích anh ta”.
Tôi ngồi đối diện Quân Vỹ, anh ta dứt khoát quay lưng lại, cách một cái bàn đá lạnh ngắt, giọng lơ đãng truyền đến: “Nếu có một ngày muội phát hiện không thể ở bên anh ta thì cũng đừng buồn, A Trăn, huynh, huynh luôn ở đây”.
Tôi ngây người: “Huynh định nói gì?”.
Vai Quân Vỹ rung rung, tôi chờ đến phát ngủ gật anh ta cũng không nói nữa, Tiểu Hoàng dưới chân vẫn nhay nhay gấu váy tôi, phía xa trên khóm hoa phật tang có mấy con bướm màu bay lượn, xem ra nó muốn rủ tôi đi bắt bướm.
Thầm nghĩ có lẽ cảm hứng đến bất chợt, Quân Vỹ cần yên tĩnh để sáng tác, không quấy rầy anh ta, tôi kéo Tiểu Hoàng nhảy nhót rời khỏi đình hóng mát.
Mộ Ngôn nói khi nào hoa phật tang tàn, tôi sẽ đến đón em, sương mù vấn vít dưới chân, hoa phật tang bên đường vẫn đang nở rộ, tôi buồn bã ngồi xuống bên đường thầm nghĩ, hoa phật tang đã rực rỡ khoe sắc hơn hai chục ngày rồi, hoa kỳ bền lâu kiên gan như vậy, bao giờ mới tàn.
Tiểu Hoàng nhảy nhót bắt bướm cạnh khóm hoa bên dưới, chạy vòng quanh đến mấy chục lần, chắc váng đầu mới thong thả bò lên, nhìn nó chơi sung sướng như vậy tôi mới sực nhớ nhiệm vụ chính hôm nay là đi dạy Công Nghi Huân học múa, vội vàng dắt Tiểu Hoàng quay về hoa đình giao cho Quân Vỹ.
Cách hoa đình gần chục bước, thấy Quân Vỹ vẫn ngồi y nguyên như lúc tôi rời đi, còn sau lưng anh ta chỗ tôi vừa ngồi là Bách Lý Tấn. Đang định đi đến chào hỏi, phát hiện thấy Bách Lý Tấn mặt lộ vẻ lúng túng, giọng Quân Vỹ lạnh lùng có phần nhẫn nhịn: “Cậu luôn nghĩ tôi chỉ nói đùa, nhưng những gì tôi nói đều rất thật lòng, tôi thích cậu lâu như vậy, cậu thật sự không biết hay giả bộ không biết(4)?”.
Bách Lý Tấn ngây người ngồi yên, lúng túng: “Tôi không biết thật”.
Quân Vỹ nghe có tiếng động quay phắt đầu lại, do quá vội khuỷu tay đập vào mép bàn đá, đau há miệng không nói ra lời, Bách Lý Tấn vội đi đến: “Huynh… huynh đừng xúc động, tôi… tôi trở về suy nghĩ thêm, được không?”.
Quân Vỹ nén đau, khẽ nói: “Cậu…”.
Bách Lý Tấn giận dữ nhìn anh ta: “Huynh đẹp như vậy, tại sao không phải là con gái!”. Nói xong quay người chạy thẳng. Quân Vỹ phía sau bàng hoàng giơ tay cơ hồ muốn níu anh ta lại.
Tôi trấn tĩnh nấp sau khóm hoa vỗ đầu Tiểu Hoàng: “Cha con quả nhiên bừa bãi rồi, vẫn còn muốn giấu mẹ, nhưng chúng ta không nên coi thường huynh ấy, huynh ấy đã bừa bãi như vậy thì không xứng làm cha, nhưng không sao, mẹ đã tìm cho con người cha mới, cha mới rất đẹp trai, kiếm thuật cũng giỏi, lại còn rất biết kiếm tiền, con có vui không?”.
Tiểu Hoàng buồn bã vùi đầu vào lòng tôi.
Tôi nói thêm: “Kiếm được tiền sẽ mua thật nhiều gà rán cho con ăn”.
Tiểu Hoàng lại tươi tỉnh mặt mày.
Tôi dạy Công Nghi Huân điệu múa đã nhìn thấy trong ký ức của cô, ý thức quả rất thần kỳ, cho dù cơ thể được tái sinh, quên hết ký ức cũ, tôi chỉ biểu diễn sơ sơ, động tác cứng như que củi, ngay gia nhân mang trà và đồ điểm tâm đến cũng che miệng cười, vậy mà Công Nghi Huân vẫn dáng lạnh lùng, khục hồi nguyên dạng vũ điệu ngày xưa, thân người mềm như sóng, từng động tác đẹp mắt lộ dần ra, giống như từ mầm cây mới nhú lớn dần, cành lá xanh tươi vươn thẳng lên trời, nở ra một vòm hoa rực sắc màu, huy hoàng không gì sánh được.
Tôi kinh ngạc thốt lên: “Roi chín khúc cô sử dụng tốt như vậy, múa cũng tuyệt vời, mặc dù không có ký ức quá khứ, nhưng cô không thấy cô như thế này chẳng phải chính là cô ngày xưa hay sao, không nên sống vì quá khứ”.
Cô dừng lại, bàn tay vươn cao quá trán, những ngón tay chụm lại thành một nụ hoa, vẫn giữ nguyên tư thế, mắt nhìn theo bàn tay đó, tiếng nói thoảng như tiếng gió: “Tử Khác cũng nói như vậy, người ta không nên sống vì quá khứ, mà nên sống vì những người cần tới mình”. Lời vừa dứt bàn tay thu lại như nắm vật gì, “Tôi không biết có ai cần tôi, thế gian này cơ hồ không có ai thực sự cần tôi”.
Tôi gục đầu lên chiếc bàn thấp để cây đàn: “Công Nghi Phỉ cần cô, cô là ruột thịt của chàng ta”.
Công Nghi Huân hình như ngẩn ra, hơi ngước mắt, giọng nhàn nhạt: “Đệ đệ không cần tôi, mọi người tưởng là tôi không biết, thực ra tôi biết. A Phỉ và vợ đệ ấy đều rất ghét tôi, đối với đệ ấy, tôi chỉ là là người thừa. Rất nhiều chuyện đệ ấy không chấp với tôi, bởi vì cho rằng đầu óc tôi không bình thường”.
Cô dừng lại rồi nói tiếp: “Cho nên tôi nghĩ, chỉ cần trong cuộc đời trước đây có ai đó thực sự cần tôi vậy là tốt rồi”. Những lời đó cô nói ra với một giọng bình thản, nhưng khiến người nghe não lòng.
Bảy ngày sau là lễ hội săn thú. Nghe nói Công Nghi gia từ thuở lập nghiệp đã luôn giữ gìn truyền thống đó, để hậu thế tử tôn không chìm trong hưởng lạc mà lãng quên quá khứ gian nan và vàng son tổ tiên gây dựng đại nghiệp từ trên lưng ngựa.
Tôi cảm thấy chuyện này rất không nhân đạo, suy cho cùng, muốn ghi nhớ vinh quang của tổ tiên cũng không cần phải dựa vào bắt nạt mấy con thú yếu đuối, chúng đâu có tội tình gì, chúng cũng có mẹ.
May Công Nghi Phỉ lười biếng đã quen, truyền thống ưu tú của Công Nghi gia những gì bỏ được chàng ta đều bỏ hết, chỉ giữ lại lễ hội săn thú này nhưng cũng lược bỏ tính chất long trọng trang nghiêm, biến thành buổi dã ngoại ăn thịt nướng uống rượu, thưởng thức nghệ thuật mới nhất, không ngờ lại được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là những nữ khách khao khát muốn trổ tài trước mặt nam khách.
Tất cả chỉ do tình yêu là chủ đề vĩnh hằng của loài người, hôn nhân là chủ đề phụ của chủ đề vĩnh hằng.
Tôi cảm thấy đây là thời cơ thích hợp. Tám năm trước, điệu múa kén chồng của Khanh Tửu Tửu đã chấn động thiên hạ hôm nay sẽ tái xuất, thiên hạ không cần nhớ dáng thướt tha của tiểu thư áo trắng múa điệu “Thanh hoa huyền tưởng”, nhưng Công Nghi Phỉ cần nhớ.
Bên ngoài nắng hè oi bức, buổi sớm trên núi không khí đã phảng phất hơi thu. Bữa tiệc tổ chức bên chiếc hồ nhỏ sau núi, trên bãi cỏ rộng kê những dãy bàn ghế dài, xung quanh là rừng trúc xanh ngút ngát.
Tôi đã bàn với Quân Vỹ, bất luận thế nào cũng không thể để Công Nghi Huân vô duyên vô cớ đứng ra nhảy múa khi mọi người đang mải ăn uống, ai cấm họ không nghĩ là do hưng phấn hơi men hay bị thần kinh.
Tình huống chúng tôi sắp đặt như sau, khi bữa tiệc đang ở độ cao trào, Quân Vỹ dáng nho nhã thật thà mượn cớ uống say mạnh dạn chắp tay trước Công Nghi Phỉ: “Nghe đồn trưởng nữ của Công Nghi gia vũ kỹ tuyệt thế, Quân mỗ mộ danh đã lâu, hôm nay hạnh ngộ Huân tiểu thư, thực muôn phần diễm phúc, dám mong tiểu thư ban cho một vinh hạnh được thưởng thức vũ điệu diệu kỳ của tiểu thư, Quân mỗ bội phần cảm tạ”.
Lời nói khiêm nhường như vậy Công Nghi Phỉ nhất định không thể chối từ, dẹp sự không hài lòng mà gật đầu: “Quân công tử đã có lời như vậy, Huân tỷ nên đi chuẩn bị”. Đương nhiên chúng tôi đã sắp đặt đâu vào đó, không cần chuẩn bị nhiều, nhưng vẫn giữ ý ra ngoài một chút”.
Khi luyện nói những lời đó, Quân Vỹ phát biểu ý kiến: “Tại sao phải nói những câu sách vở như vậy?”. Tôi nhẫn nại giải thích: “Có lúc chúng ta cần dùng những lời thanh nhã để che đậy những suy nghĩ cầm thú, để khiến người ta không thể chối từ”. Quân Vỹ không hiểu: “Huynh có ý nghĩ cầm thú gì?”.
Tôi bực mình: “Ai biết huynh có ý nghĩ cầm thú hay không?”.
Tất cả diễn ra như dự tính của tôi, chỉ có điều người chơi đàn vốn định là tôi, cuối cùng lại thành Công Nghi Phỉ. Khi thử đàn chàng ta bình thản hỏi một câu: “Gảy khúc gì?”.
Tôi ngẩng đầu đáp: “Thanh hoa huyền tưởng”. Chàng ta sững người, lập tức tươi tỉnh, khẽ cười: “Khúc này Phỉ cũng biết, hay là để Phỉ thay thế”. Nụ cười lồ lộ, nhưng mắt lại không cười.
Tiếng đàn dồn dập trong vắt như tiếng suối nguồn trong rừng trúc buổi sớm mai, những ngón tay trắng như tuyết của Công Nghi Huân lộ ra khỏi ống tay áo màu vàng rơm, đôi giày mềm lụa bạch giẫm lên tiếng đàn như một cành hoa tươi duy nhất từ thân hình nở ra, lại bị xiêm áo tha thướt nhẹ nhàng trói chặt, những động tác có vẻ đẹp của thiền đó còn gây chấn động hơn cái đêm cô múa cho Công Nghi Phỉ xem.
Do ngược sáng nên không nhìn rõ thần sắc của Công Nghi Phỉ đang chăm chú hòa khúc, điều làm tôi ngạc nhiên hơn nữa là chàng ta không hề đánh sai một nốt, khiến tân khách xung quanh không ai không nín thở, ngẩn ngơ, thỉnh thoảng có tiếng trầm trồ không nén nổi bật ra, lại chìm trong tiếng đàn sóng xao như nước, xem ra tân khách không hổ là những bậc văn nhân, trình độ thưởng thức nghệ thuật không tồi, toàn cảnh chỉ có mỗi Tiểu Hoàng ngủ gật.
Vũ khúc kết thúc, bốn bề im phăng phắc. Khuôn mặt trắng như tuyết của Công Nghi Huân ửng hồng, tựa như đóa yên chi phớt hồng nở giữa biển băng, ánh mắt ngạo nghễ nhìn Công Nghi Phỉ như không bận tâm, nhưng bàn tay lại nắm chặt giấu trong ống tay áo sau lưng. Cô muốn được một lời khen của chàng ta, cô đang đợi chàng ta khen ngợi, tâm trạng này tôi hiểu.
Người hầu bước ra chuyển đi chiếc bàn thấp trước mặt Công Nghi Phỉ, chàng ta ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt cô đang nhìn mình, thần sắc dửng dưng cười nhạt: “Vũ khúc thật đặc biệt, trước đây chưa thấy Huân tỷ múa bao giờ”.
Tôi đang thấy lạ, Công Nghi Huân vốn yên lặng, không ngờ lại lạnh lùng cất tiếng: “Sao lại chưa thấy bao giờ, họ nói khúc nhạc này ngày trước đệ phổ cho tôi, vũ khúc này tôi biên cho riêng đệ”.
Rừng trúc vốn tĩnh mịch càng thêm tĩnh mịch, nếu là chị em thật, những lời hai người vừa nói với nhau quả là không ổn, Công Nghi Phỉ thôi cười cau mày, Công Nghi San bên cạnh đứng phắt lên: “Cô!”.
Công Nghi Huân hơi nghiêng đầu, chậm rãi: “Lẽ nào không phải?”.
Xem ra hai người sắp cãi nhau, một giọng trẻ con ỏn ẻn vang lên từ bàn tiệc: “Không phải là vũ khúc cô cô soạn, nhạc khúc này chính mẹ dạy cha đàn, vũ khúc này mẹ cũng múa cho cha xem, tối qua mẹ còn múa cho chúng cháu xem, cô cô nói bừa”.
Đứa bé trai đó là con trai Công Nghi San, chuyện quá khứ tôi chỉ biết một nửa, không biết đây có phải là cốt nhục của Công Nghi Phỉ.
Công Nghi Huân đứng ngây, tôi cũng đứng ngây không hiểu, rõ ràng vũ khúc này chỉ có hai chúng tôi biết, tại sao Công Nghi San cũng biết.
Lúc này đã thấy Công Nghi Phỉ ôm cây đàn tiến lại, đó là cây đàn tôi đem đến, có lẽ chàng ta mang trả tôi.
Công Nghi Huân đã trấn tĩnh trở lại, cau mày: “Tôi sao có thể nói bừa, đó là tôi…”.
Lời chưa hết đã bị Công Nghi Phỉ ngắt lời, giọng rất nhỏ: “Đủ rồi, tỷ là tỷ tỷ của tôi, San muội là phu nhân tôi, cũng là tiểu muội của tỷ, có gì đáng tranh giành với cô ấy, sao chuyện gì tỷ cũng muốn hơn, nên nhường nhịn một chút, hãy ra dáng đại tỷ, suốt ngày cãi cọ với tiểu muội của mình còn ra gì nữa”.
Chút sắc hồng trên má Công Nghi Huân đã tan biến, thần sắc vẫn trấn định, tay càng nắm chặt ống tay áo, chàng ta đi ngang qua cô, cô giơ tay túm tay áo chàng ta, chàng ta vẫn không dừng lại, bóng áo màu bạc lướt qua cô.
Một giọng cười khinh thị vang lên giữa bàn tiệc ngổn ngang chén bát, Công Nghi San quàng tay ôm đứa bé trai bên cạnh vào lòng, mắt lạnh lùng nhìn cánh tay chơi vơi trên không của Công Nghi Huân. Công Nghi Phỉ cơ hồ không nhận ra tất cả những điều đó, mỉm cười đưa cây đàn cho tôi: “Cây đàn rất tốt, xin trả lại Quân cô nương”.
Sự việc không ngờ lại kết thúc như vậy. Vũ khúc “Thanh hoa huyền tưởng” Công Nghi Huân múa rất tuyệt, chưa bao giờ tuyệt đến thế. Nhưng Công Nghi Phỉ lại nói đủ rồi.
Chàng ta không hề biết cô đã luyện vũ điệu này vất vả thế nào. Ký ức đã mất, người dậy chỉ vụng về biểu diễn qua loa vậy mà cô thể hiện hoàn hảo hơn cả ngày xưa. Nếu không có một động lực mãnh liệt nào đó thôi thúc bên trong, sao có thể làm được như vậy.
Tôi không biết giữa cô và Công Nghi Phỉ rốt cuộc là quan hệ gì, tỷ đệ hay là quan hệ nào khác, nhưng dường như cô chỉ muốn dành cho chàng ta những gì tốt đẹp nhất, nếu có thể làm được, bất luận thế nào cô cũng quyết làm. Nhưng chàng ta lại cho là cô hiếu thắng. Tôi nghĩ, có lẽ chúng tôi đã sai khi sắp xếp chuyện này.
Trên bàn tiệc tiếng đàn hát lại vang lên, Công Nghi Huân vẫn lặng lẽ đứng đó, giống như một cây tùng cô đơn, lạc lõng giữa chốn phồn hoa. Trên mặt hồ lăn tăn ánh vàng phía xa, một con cá nhỏ nhảy vọt lên khỏi mặt nước, rồi “bõm” một tiếng lại lao xuống, Công Nghi Phỉ tay cầm chén rượu bằng sứ màu lam ngoảnh mặt nhìn ra, Công Nghi Huân lấy cây đàn trong tay tôi: “Về thôi, tôi hơi mệt”.
Ký ức của cô tối hôm trước dừng lại ở cảnh đại hỉ đường ngày hôn lễ của Công Nghi Phỉ và Công Nghi San. Sự đời có nhân có quả, hôm nay chàng ta lạnh lùng với cô như vậy ắt có căn nguyên, mặc dù biết chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng tôi lại nóng lòng muốn biết, cuộc đời trước của Khanh Tửu Tửu kết cục thế nào.
Nhưng chẵn ba ngày Công Nghi Huân không ra khỏi tiểu viện của mình.
Sáng sớm ngày thứ tư, Quân Vỹ thấy tôi ủ dột, cố nài tôi cùng đi chơi bóng. Thực ra trình độ chơi bóng của tôi rất siêu, do hồi nhỏ, tôi và Quân Vỹ không ai chịu rửa bát, nên thường chơi bóng để phân định thắng thua.
Nhìn chung là Quân Vỹ rửa, nếu thua, tôi khóc lóc chạy đi tìm sư phụ, cuối cùng vẫn là Quân Vỹ rửa. Có thể ôn lại chuyện xưa, tôi hào hứng cùng đi, đột nhiên sực nhớ, lúc chia tay Mộ Ngôn đã dặn phải chú ý chăm sóc bản thân, nên lại hơi do dự, một hoạt động mạnh như vậy ngộ nhỡ bị thương, Mộ Ngôn biết thì sao, ôm đầu nghĩ một hồi, đột nhiên đầu óc sáng láng, nghĩ ra là có thể nói dối mình bị mộng du, bị ngã trong khi mộng du, tinh thần lại lập tức phấn chấn vẫy tay với Quân Vỹ: “Đi thôi, đi chơi bóng thôi”.
Biệt viện của Công Nghi gia quả rất rộng, đi vòng vo mãi mới tới sân bãi. Khác với Vệ vương cung, bãi bóng ở đây không có tường thấp bao quanh, chỉ vẽ ra trường địa, dựng lên hai cây trúc, có lưới chăng, hai đội đối kháng đội nào đá bóng vào lưới coi như được một quả, cuối cùng dựa vào số quả đá trúng phân định thắng thua. Hai đội đều là khách của Công Nghi Phỉ, trong lễ hội săn thú này, không ai vào núi săn thú.
Trong nửa trận đầu, đối phương sợ làm tôi bị thương, chỉ cần thấy tôi đứng gần lưới là không dám mạo hiểm đá bóng qua, sợ bóng đập trúng tôi.
Sau đó mỗi khi thấy đối phương chuẩn bị đá, tôi đều tự giác đứng dưới lưới, đội tôi liên tục giành được thắng lợi quan trọng trong phòng thủ, tôi trở thành cát nhân của đội mình. Thủ thuật hồi nhỏ nghĩ ra đế trốn rửa bát dưới sự phối hợp của Quân Vỹ cũng được phát huy ổn định, ngáng chân, cướp bóng, tôi cũng may mắn đá trúng ba quả.
Thật không hiểu nổi ngày trước, lúc thi vào sư môn tôi giở bài dưới gầm bàn, Quân Vỹ phát hiện, không những không phối hợp mà còn đứng lên tố cáo. Hồi đó quả thực anh ta không biết điều.
Đá xong nửa trận, mọi người chia nhau tản ra ngồi nghỉ dưới bóng cây, Quân Vỹ kéo tôi đến ngồi dưới một gốc cây to, gia nhân đưa khăn mặt ẩm lau mồ hôi. Bách Lý Tấn ở đội bên kia hớn hở chạy lại định ngồi với chúng tôi, Quân Vỹ dùng chân vẽ một vòng tròn bên ngoài bóng cây, trợn mắt nói: “Đứng ở đó, cấm vào đây”.
Bách Lý Tấn lấy tay áo che nắng, rụt vai rụt cổ nói giọng tủi thân: “Tại sao?”.
Quân Vỹ nhướn mày: “Cậu nói xem”.
Bách Lý Tấn nghiêm túc nghĩ một hồi, mặt dần đỏ lên: “Có phải lúc tôi tranh bóng bị đội trưởng sờ vào đùi, chỉ là ngẫu nhiên, ngẫu nhiên, chơi bóng mà, khó tránh…”.
Nước trà trong miệng tôi suýt phun ra ngoài, Quân Vỹ nghiến răng: “Ông không biết mi bị ai sờ, ông hỏi mi tại sao đá hai quả đều trúng người A Phất?”.
Bách Lý Tấn ngớ ra, cúi đầu lẩm bẩm: “Vận… vận khí không tốt”.
Quân Vỹ gõ vào trán anh ta: “Đá vào người ta lại còn nói người ta vận khí không tốt”.
Bách Lý Tấn tủi thân xoa trán: “Tôi nói là tôi vận khí không tốt, tôi làm sao biết tôi đá trúng Quân cô nương, rõ ràng tôi không nhằm vào cô nương…”.
Quân Vỹ nhướn mày ngắt lời: “Nói vào trọng tâm!”.
Bách Lý Tấn dè dặt liếc Quân Vỹ rồi nhìn tôi: “Cho nên vừa nghỉ giải lao là tôi chạy đến định xin lỗi”.
Quân Vỹ băn khoăn hừ một tiếng. Tôi kéo Bách Lý Tấn vào bóng râm: “Vậy cậu mau xin lỗi đi”.
Bách Lý Tấn đỏ mặt gãi đầu: “Tôi…”.
Tôi nói: “Ấy, trước khi xin lỗi cậu hãy nói xem, làm thế nào cậu lại bị đội trưởng sờ đùi?”.
Bách Lý Tấn: “…”.
Quân Vỹ: “…”.
Cuộc đấu chưa kết thúc, trước ánh mắt mọi người ba tuyển thủ của hai đội đối địch khoác vai nhau cười nói vui vẻ, có thể thấy nửa trận sau ba chúng tôi sẽ không có cơ hội ra sân.
May vừa rồi tôi đã chơi rất vui, bao nhiêu phiền muộn bay biến, ngẩng nhìn trời cao gió thoảng, phía xa nước biếc mây ngàn. Tôi uống một cốc trà lạnh, lại uống thêm cốc trà lạnh nữa, nhớ lại hồi nhỏ thường cùng Quân Vỹ mang ấm nước ra đình hóng mát ngồi chơi, dạo đó còn ngây thơ khờ khạo, Quân Vỹ cũng vậy, vốn tưởng sẽ trở thành nhân tài kết quả lại trở thành lãng tử.
Đang mệt mỏi buồn ngủ, loáng thoáng nghe tiếng Bách Lý Tấn tranh luận với Quân Vỹ về trận bóng vừa rồi, chợt anh ta reo lên: “Này, mọi người nhìn xem, cô gái áo vàng kia xinh quá!”.
Tôi giật mình bởi tiếng reo phấn khích của anh ta, cốc trà trong tay sánh ra ngoài một nửa, thầm nghĩ không biết cô gái nào xinh đẹp mà mình lại không nhìn thấy, vừa nhìn theo ánh mắt sáng rực của anh ta, bỗng trong đầu như có gì bùng nổ. Cuối tầm mắt tôi, màu áo lam trang nhã nổi bật giữa biển hoa phật tang vàng rực, tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay.
Mộ Ngôn. Trước lúc đi chàng nói, khi nào hoa phật tang trên núi tàn, chàng sẽ quay lại đón tôi. Từ đó mỗi ngày trước khi đi ngủ, tôi nghĩ đến câu đó, ghi nhớ trong lòng, tâm niệm cầu mong ngày hôm sau tôi tìm thấy dù chỉ một bông hoa tàn, như vậy có thể sớm được gặp chàng.
Tôi dụi mắt, lại dụi mắt, xác định không phải mình nằm mơ, còn chàng đang rẽ hoa đi đến, càng đến càng gần, nhàn tản ung dung, như bước trên vệt sáng thời gian chờ đợi của tôi.
Tôi cảm thấy không thể kiềm chế, muốn chạy ra lao vào lòng chàng, gót chân đã nhón đi một bước, một ý nghĩ lại vụt qua đầu như tia chớp, chàng đã dặn nếu không nghe lời chàng tự bảo vệ mình, nhất định sẽ bị đánh đòn, do dự một lát cảm thấy không nên gặp nhau lúc này, hơn nữa bây giờ người đầy bụi bặm lem nhem, càng không thể gặp chàng, vội vàng lủi trốn sau lưng Quân Vỹ.
Không biết tại sao chàng lại đi nhanh thế, vừa núp sau lưng Quân Vỹ đã nghe thấy tiếng bước chân rất gần. Thực ra tôi rất muốn nhìn chàng, nhưng lại sợ bị lộ, mà lần nào gặp lại cũng bị chàng bắt gặp trong bộ dạng chẳng ra gì, lần này quyết không để tái diễn, nhất định phải tạo ra một cảnh trùng phùng thật lãng mạn, phải vận bộ cánh thật đẹp, ngồi trong đình hóng mát ung dung ôm đàn hay nhàn tản cho cá ăn, tóm lại phải làm chàng kinh ngạc.
Tiếng bước chân vừa đi qua trước mặt, tôi vừa thở phào, vừa không hiểu sao lại cảm thấy một chút thất vọng, hơi ló đầu ra khỏi lưng Quân Vỹ, Bách Lý Tấn vẫn đang trầm trồ reo khe khẽ: “Chà chà, sao mà đẹp thế, thực ra màu vàng rất kén người, mặc màu vàng cũng có thể đẹp đến thế, thật là quốc sắc thiên hương…”.
Quân Vỹ sầm mặt lườm anh ta, Bách Lý tiểu đệ lại đổi giọng: “Dù quốc sắc thiên hương đến mấy tôi cũng chẳng có ý nghĩ gì với cô ta”. Tay vuốt sống mũi, bổ sung, “Thoáng nhìn đã biết cô ta và công tử áo xanh bên cạnh rất xứng đôi, cho dù tôi nghĩ gì cũng vô ích”.
Tóm được bốn chữ “công tử áo xanh” tôi mới nghĩ ra, vừa rồi nhìn Mộ Ngôn, bên cạnh chàng hình như quả thật có một cô gái vận váy vàng… lập tức trợn mắt lườm Bách Lý Tấn: “Cậu không có mắt hay sao!”.
Anh ta ngạc nhiên: “Sao cơ?”.
Tôi nhẫn nhịn, lại không nhịn nổi: “Họ xứng đôi chỗ nào, rõ ràng không xứng tí nào”.
Bách Lý Tấn nét mặt băn khoăn.
Tôi dứ nắm đấm về phía anh ta: “Mau nói lại đi, họ không xứng tí nào, cậu muốn ăn đấm hay sao, dám nói trước mặt tôi, Mộ Ngôn xứng đôi với cô gái khác!”.
Bách Lý Tấn ngớ người: “Mộ Ngôn? Ai cơ?”.
Tôi lườm anh ta: “Công tử áo xanh cậu vừa nói đó, chàng là…”, đột nhiên cảm thấy ngại ngùng, nhưng nghĩ Mộ Ngôn đã thổ lộ với tôi, tôi đã nhận lời, vậy là lấy hết dũng khí trợn mắt nhìn cậu ta nói, “… là hôn phu của tôi”.
“Choang!”. Không hiểu sao Quân Vỹ tuột tay đánh rơi cốc trà xuống phiến đá dưới chân, nước trà bắn lên cả người tôi. Bàn tay anh ta vẫn dừng trên không, vẻ chấn động, miệng há mấy lần nhưng không nói ra tiếng, Bách Lý Tấn ghé lại ngắt lời: “Là hôn phu của cô? Vậy sao vừa rồi không đứng ra chào hỏi?”.
Tôi nhìn mũi giày dưới chân: “… sẽ bị đánh đòn”.
Bách Lý Tấn đột nhiên im lặng, chắc là không tin, tôi vội giải thích: “Nếu chàng biết tôi không nghe lời chàng, chạy ra ngoài chơi bóng, bị ngã lăn trên đất, bị bóng ném vào người, nhất định tôi sẽ bị đánh đòn…”.
Đằng sau giọng nói khoan thai du nhàn vang lên: “Ồ, vậy rất đáng ăn đòn”.
Tôi tiếp tục nói với Bách Lý Tấn: “Trời nắng quá, hình như hơi nhức đầu…”. Nói xong, rất tự nhiên người lả ra như sắp ngã, bàn tay ai sau lưng đã đỡ, bên tai là tiếng nói quen thuộc: “Lại giở trò rồi”.
Tôi mở hé một bên mắt, lập tức bắt gặp ánh mắt tươi cười của Mộ Ngôn, tôi lập tức mỉm cười như phản xạ có điều kiện, nụ cười càng hiện rõ trong mắt chàng, tôi bỗng nhớ ra bây giờ không phải lúc cười, lập tức ngoan ngoãn từ trong lòng chàng đứng lên, ngoan ngoãn cúi đầu: “Em sai rồi”.
Những ngón tay thon dài của Mộ Ngôn từ từ gập cái quạt giấy, giọng nói từ trên đầu tôi vọng xuống: “Sao? Nhận tội nhanh thế, nói mau, sai ở đâu?”.
Tôi cúi đầu càng thấp: “Diễn không giỏi bằng chàng…”.
Mộ Ngôn trầm mặc một lát: “… Nhìn nhận rất sâu sắc”.
Tôi cười nhạt, nhích lại gần, dè dặt nhìn chàng, thử nắm tay áo chàng: “Vừa rồi là em nói bừa, chàng đừng giận, em không nên chạy ra đây chơi bóng, em nên ở trong sân chơi đàn, hoặc ngồi bờ ao cho cá ăn, nhưng anh ta nhất định kéo em đi”. Nói xong lừ mắt nhìn Quân Vỹ, anh ta hiểu ý, cười gật đầu: “Đúng, là tôi rủ A Phất đến đây”.
Tôi nghiêng đầu, phát hiện quả nhiên không phải do ánh sáng, ngạc nhiên hỏi Quân Vỹ: “Sắc mặt huynh sao trắng thế”. Vừa nói vừa đến gần để nhìn anh ta, bị Mộ Ngôn nắm tay kéo lại.
Quân Vỹ còn chưa mở miệng, cô gái áo vàng được Bách Lý Tấn ca ngợi là quốc sắc thiên hương lại ngây thơ nói thật: “Bất luận thế nào con gái đều không thể đá bóng với đàn ông, ở nước chúng tôi, con gái như thế sau này sẽ không có đàn ông nào muốn lấy”.
Nói xong tự cảm thấy lỡ lời, nhún vai lè lưỡi, liếc sang tôi lại bổ sung một câu, “Dù gì, là con gái cũng không nên tùy tiện ở bên đàn ông, mặc dù tôi từ nhỏ lớn lên ở chốn dân dã, cũng chưa bao giờ chơi với con trai”.
Tôi căng thẳng hỏi: “Cô và Mộ Ngôn có cùng một nước không?”.
Cô ta lắc đầu, “Không, tôi là người nước Đường”.
Tôi vỗ ngực thở phào, vỗ xong vẫn chưa thấy yên tâm, ngẩng đầu hỏi Mộ Ngôn: “Ở nước chàng có phong tục đó không? Vậy em thường xuyên chơi đùa với Quân Vỹ có phải là rất không hay? Nhưng Quân Vỹ là sư huynh của em…”.
Mộ Ngôn cười ngắt lời: “Mộ Nghi cũng thích chơi bóng, không thích các trò chơi khác, thường rủ hộ vệ của ta cùng chơi. Trần quốc không có phong tục như Đường quốc”.
Tôi thở phào, lại đắn đo: “Nếu vậy, em không sai, tại sao phải nhận lỗi?”.
Mộ Ngôn thong thả phe phảy quạt, nhìn tôi tán đồng: “Em cứ thử được nước lấn tới xem”.
Vừa nói xong, trận bóng lại bắt đầu, ba chúng tôi quả nhiên bị loại khỏi sân, nhân lúc mọi người tập trung xem bóng, tôi nén cười xích lại gần Mộ Ngôn: “Được nước lấn tới có phải là thế này không?”.
Chàng ngây người, bật cười, giơ tay kéo tôi vào lòng chàng, tự nhiên như hái một bông hoa, cúi đầu khẽ cười: “Đúng, chính là như thế”.
Cô gái áo vàng đúng lúc ngoái đầu, mặt hớn hở: “Mộ ca ca”. Chợt tròn mắt nhìn chúng tôi, im bặt, có lẽ là Đường quốc của họ đầu óc quá bảo thủ, tôi chun mũi làm mặt xấu với cô ta, cô ta cắn môi, hừ một tiếng ngoảnh mặt đi.
Đoán là cô ta định hỏi Mộ Ngôn về cách chơi bóng, Bách Lý Tấn lại bảo cô ta và Mộ Ngôn rất xứng đôi, khiến tôi rất khó chịu, nắm tay Mộ Ngôn khẽ hỏi: “Một cô gái ngay chơi bóng cũng không biết là người không có văn hóa đúng không?”. Mộ Ngôn xoa đầu tôi, cười cười lắc đầu: “Em nói thế nào thì là như thế”.
Cô gái cùng đến với Mộ Ngôn nghe nói tên là Doãn Đường, là con gái một người bạn thâm giao của Mộ gia, hai người gặp nhau ở Cô Trúc sơn, vì cô ta muốn lên núi ngắm hoa phật tang, nên chàng để cô ta cùng đi. Vốn tưởng hết mùa hoa phật tang mới được gặp lại Mộ Ngôn, mặc dù sớm hơn lời hẹn, nhưng không phải chàng đến đón tôi, chỉ là dừng lại nghỉ mấy ngày trên đường đi nước Triệu, tôi cảm thấy hơi buồn, nhưng nghĩ tới lần gặp này là được thêm ngoài dự kiến, nên đổi buồn thành vui.
Chàng định đến nước Triệu, thực ra là chàng đi đường vòng đến đây, cho dù muốn gặp Công Nghi Phỉ thương lượng chuyện quan trọng, nhưng đâu phải không có chim bồ câu đưa thư. Nghĩ tới đó lòng lại rưng rưng ngọt ngào.
Mộ Ngôn rõ ràng bận hơn trước nhiều, buổi sáng cùng tôi xem bóng một lúc, sau bữa trưa lại đóng cửa mật đàm với Công Nghi Phỉ, mãi đến bữa tối vẫn chưa thấy bóng dáng, tôi nghĩ, trước khi đi ngủ sẽ tìm chàng, lựa chọn đúng lúc chàng sắp quay lại, đang định đi ra, lại sực nhớ một vấn đề vô cùng khẩn cấp… chàng ở phòng nào? Muộn thế này một cô gái lang thang đi dò hỏi, thật không tiện chút nào, đành buồn bã khép cửa sổ chuẩn bị đi ngủ.
Cộc, cộc, cộc, đang định tắt đèn, chợt có ba tiếng gõ vào cánh cửa sổ, viên giao châu trong ngực tôi cơ hồ nảy lên. Tôi vội ra mở, nhưng cánh cửa sổ chưa đóng chặt, tự bật ra, Mộ Ngôn tay ôm mấy cuốn sách nhảy qua cửa sổ vào phòng, ném mấy cuốn sách lên bàn, ngồi lên chiếc ghế hoa lê giơ tay vẫy tôi: “Lại đây”.
Tôi trố mắt đi đến ngồi đối diện chàng, ngoái nhìn cửa sổ, lại nhìn chàng: “Tại sao cửa chính không đi lại nhảy qua cửa sổ?”.
Chàng dùng một cái kim bạc dài khêu to bấc đèn, mắt cười lấp láy nhìn tôi: “Bí mật hẹn hò có ai đi cửa chính bao giờ”.
Tôi cắn phải lưỡi: “Chàng đến là để bí mật hẹn hò với em? Nhưng… nhưng em không biết nên hẹn hò thế nào, chưa ai dạy em”.
Vai chàng hơi rung, tôi sốt ruột hỏi: “Có phải chàng thấy em quá ấu trĩ? Nếu biết sớm em đã đi hỏi Quân Vỹ, xem các cô gái bí mật hẹn hò thế nào, tuy em không biết nhưng em có thể học”.
Ngọn đèn sáng hơn một chút, chàng đứng lên, để cái kim bạc xuống bàn tôi mới phát hiện, thì ra người ta đang cười, chân tay tôi luống cuống không biết để vào đâu, chàng vẫn cười, tôi vừa giận dỗi lườm chàng vừa nghĩ, đây chính là người của lòng tôi, chàng cười thật đẹp, chờ chàng cười đủ, lại giơ tay vuốt lông mày tôi, hỏi như chưa có chuyện gì xảy ra: “Sao lại cau mày, gặp tôi không vui sao?”.
Tôi ngoảnh mặt đi: “Nhưng chàng cười em”.
Chàng bật cười ngồi trở lại ghế, tay chống đầu: “Sao tôi có thể cười em, nếu em biết hết những chuyện đó tôi mới không vui”.
Tôi hoài nghi: “Thật không? Vậy hôm nay chàng đến để dạy em?”.
Chàng lắc đầu: “Tôi đã hai mươi mấy tuổi, lần đầu nghe nói dạy hẹn hò”. Nói đoạn nhấc ấm trà tự rót cho mình: “À, sáng nay em đang định nhận lỗi với tôi thì bị ngắt lời, thế nào, bây giờ nghĩ ra mình sai ở đâu chưa?”.
Tôi đứng dậy rời khỏi ghế: “Em rửa mặt đi ngủ đây…”. Bị chàng kéo lại: “Vẫn chưa nghĩ ra ư?”.
Thực ra hết trận cầu tôi đã nghĩ, lúc tôi trốn sau lưng Quân Vỹ, người đi qua lúc đó nhất định không phải Mộ Ngôn, chàng không thể đi nhanh như vậy, hơn nữa có Doãn Đường đi cùng, thế nào cũng phải nghe thấy hai tiếng bước chân. Nếu vậy, tôi vừa nhìn chàng đã trốn mất, nhất định chàng đã nhìn thấy, nhất định chàng đang nói chuyện này, nhưng nên giải thích thế nào? Giải thích thế nào để mình khỏi ngượng…
Quả nhiên chàng hỏi: “Nhìn thấy tôi sao lại trốn?”.
Cúi đầu đứng trước ghế chàng ngồi, vừa ngước lên lại bắt gặp ánh mắt chàng, tôi cố cãi: “Không…”.
Ngón tay chàng gõ nhẹ lên thành ghế, mắt cười cười: “Vậy để tôi đoán nhé”. Làm ra vẻ suy nghĩ, mắt liếc nhìn tôi: “Là bởi vì gặp lại tôi mà chưa kịp đeo trang sức đẹp nhất, mặc y phục đẹp nhất, để cho tôi phải lóa mắt, đúng không?”.
Tôi kinh ngạc: “Sao chàng…”. Vừa nói đến đó lại nghĩ, nếu thừa nhận như vậy thì quá mất mặt, vội nói chữa: “… à không!”.
Mắt chàng như có ngàn ánh sao, lát sau kéo tôi vào lòng: “Không trang điểm cũng không sao, còn rất nhiều thời gian, em có thể từ từ trang điểm cho tôi ngắm”.
Tôi gục lên vai chàng, sụt sịt lắc đầu: “Chàng không được nhìn thấy em lúc em đẹp nhất, khi em mười bảy tuổi mặt không có vết sẹo này, ngay phụ thân cũng nói em là đứa con gái đẹp nhất của ông, nếu lúc đó chàng nhìn thấy em có phải tốt biết bao, nếu chàng…”. Nhưng không thể nữa rồi.
Chuyện đó luôn khiến tôi đau lòng, tôi lau nước mắt, ôm chặt cổ chàng, nói ra câu định nói lúc gặp chàng: “Em rất nhớ chàng”.
Chàng yên lặng, ôm tôi chặt hơn, hơi thở ngay bên tai, đây là thời khắc tôi mong mỏi nhất, ngẩng đầu nhìn thấy ánh đèn vàng nhạt, giống như điểm sáng hy vọng duy nhất trong đêm lạnh mênh mông, trên bức tường in bóng hai người áp sát vào nhau, nếu thời gian dừng lại, ước gì thời gian dừng lại, không có chia ly, không có đau buồn.
Nửa đêm về sáng, một trận mưa lớn đổ trên núi, sáng sớm ra không khí trong lành mát rượi, Mộ Ngôn đến ăn sáng cùng tôi. Còn mang theo một con gà rán cho Tiểu Hoàng, Tiểu Hoàng vui sướng ngoáy đuôi rối rít, bày tỏ sự thích thú đặc biệt đối với người cha mới, xem ra trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra mâu thuẫn gì.
Thu dọn xong xuôi, chúng tôi cùng đi ra ngoài, đến cổng nhìn thấy cô gái áo vàng Doãn Đường đang chạy vội đến, đứng trước chúng tôi, tay chống eo thở dốc, đôi mắt cong ngây thơ nhìn Mộ Ngôn: “Mộ ca ca, hôm nay ca đưa Đường Đường đi ngắm hoa được không? Cô Trúc sơn đường núi quanh co, Đường Đường đi một mình e bị lạc”.
Tôi hỏi: “Sao có thể bị lạc, Công Nghi Phỉ đã lát một con đường đá lên núi để ngắm hoa phật tang, cô cứ men theo đường lát đá mà đi, đi hết thì quay lại, không lo bị lạc”.
Doãn Đường cắn môi, ý chừng muốn nói lại thôi.
Tôi vừa đẩy Mộ Ngôn đi làm việc của chàng, vừa thân mật, khẳng khái nói: “Mộ ca ca của cô buổi sáng còn bận chính sự, Quân tỷ tỷ của cô vừa may đang rỗi, nếu Doãn cô nương không chê, Quân tỷ tỷ sẽ đưa cô đi ngắm cảnh thưởng hoa ~”.
Thấy Mộ Ngôn gật đầu như sắp bỏ đi, Doãn Đường vội trợn mắt nhìn tôi: “Nếu tôi không muốn đi với cô thì sao, tôi không muốn đi con đường đó thì sao?”.
Cô ta chưa dứt lời, Mộ Ngôn đã bị tôi đẩy ra xa, chầm chậm nhìn về phía tôi, e ngại cười cười đi khỏi, tôi quay người nghiêm mặt nhìn Doãn Đường, gật đầu: “Được, dù sao tôi cũng chỉ buột miệng nói vậy, cô không thích thì thôi”. Nói xong nhón gót đi thẳng.
Doãn Đường chần chừ một lát, giậm chân: “Cô quay lại ngay!”.
Tôi vẫn bước nhanh, vẫy tay: “Cô đến đây”.
Tôi quả thực muốn đi dạo, cũng quả thực không ưa cô gái tên Doãn Đường này, suốt ngày cô ta nhìn Mộ Ngôn với ánh mắt lạ lùng, tôi không đánh cô ta một trận là tử tế lắm rồi, nhưng tôi còn kiềm chế chủ yếu là bởi vì không biết nếu đánh thật liệu có thắng. Lúc này là cơ hội tốt, tôi dự định vẫn nên dùng cách làm của người văn minh, nghĩa là vừa ngắm hoa vừa giảng đạo lý cho cô ta.
Hai bên đường bạt ngàn hoa và cây xanh, sau cơn mưa hoa càng tươi thắm, cây xanh càng xanh ngắt ẩn hiện trong màn sương, lãng đãng như tiên cảnh. Tôi đang suy nghĩ nên mở đầu thế nào, Doãn Đường phía sau đã lên tiếng, bàn tay đẹp lộ ra dưới ống tay áo màu vàng, ngắt một bông phật tang vừa nở: “Cô đã nghe chuyện kể về hoa phật tang chưa?”.
Tôi ngẩng đầu: “Sao?”. Cô ta hơi ngước mắt, nhìn bông hoa trong tay: “Chuyện kể rằng, một công tử thế gia yêu cô hầu của mình, bị cha chàng phát hiện, thiếu gia lập tức được cử đi làm việc ở xa, ngay buổi tối hôm thiếu gia rời đi, cô gái bị ném xuống chiếc giếng cạn ở hậu viên. Họ nói với thiếu gia cô gái ốm chết, không lâu sau, thiếu gia cưới một tiểu thư môn đăng hộ đối. Đêm tân hôn, từ trong giếng cạn ở hậu viên mọc ra một cây hoa rất to, nở một bông hoa dị thường, đó là hoa phật tang. Cô đã nghe thấy tiếng gió thổi qua cây phật tang chưa, giống như tiếng khóc của cô gái”.
Tôi dừng bước: “Cô muốn nói gì?”.
Cô ta nhìn tôi, quay đầu đi, giọng cố trang nghiêm nhưng vẫn mang nét ngây thơ: “Có thể cô sẽ cảm thấy tôi rất đáng ghét, nhưng bất luận cô ghét hay không tôi đều muốn nói, giống như câu chuyện hoa phật tang, người đời không thể dung thứ tình yêu không môn đăng hộ đối, nhất định sẽ xảy bi kịch”.
Cô ta mím môi, ngước nhìn tôi, “Từ thượng cổ đến nay đều như thế, cô và Mộ ca ca cũng vậy. Cô không xứng với Mộ ca ca”.
Cạnh con đường đá có tiếng nước chảy róc rách, ánh nắng sớm xiên qua tán lá nhảy nhót trên mặt đường lát đá xanh. Thực ra tôi cũng biết mình không xứng với Mộ Ngôn. Không phải là khoảng cách về thân phận, mà là khoảng cách giữa sống và chết, suy cho cùng tôi chỉ là xác chết sống nhờ viên giao châu, một tồn tại trái quy luật tự nhiên, còn chàng vẫn là người sống đàng hoàng.
Nhưng lòng biết là một chuyện, bị người khác nói ra thực sự khó nhẫn nhịn, nhưng càng những lúc như vậy càng phải bình tĩnh. Tôi trấn tĩnh nhìn cô ta, thong thả nói: “Chàng nói chàng thích tôi, chỉ cần chàng thích là chúng tôi tương xứng”.
Doãn Đường hơi xúc động: “Đó là bởi vì cô không biết Mộ ca ca xuất sắc thế nào”. Cô ta đỏ mặt, “Mộ ca ca xuất sắc như vậy, nhất định chỉ có một công chúa cũng xuất sắc như thế mới xứng với chàng. Mà công chúa đó thế gian chỉ có một, đó là Quỳnh Hoa tỷ tỷ của tôi”.
Tôi kinh ngạc nhìn cô: “Tỷ tỷ của cô là Đường quốc Quỳnh Hoa công chúa? Vậy cô là…”.
Cô ta cũng sững ra, như sực nhớ vừa rồi lỡ miệng làm lộ thân phận, cắn môi hồi lâu, đột nhiên ngẩng đầu: “Chắc cô cũng đoán ra, tôi là Dục Đường, công chúa út của Đường quốc”.
Cô dừng lại, “Cái đó cũng chẳng có gì ghê gớm, tôi không muốn dùng phân phận để ép cô, nhưng vương tỷ của tôi từ nhỏ đã thích Mộ ca ca, tôi không lớn lên trong vương thất không biết Mộ ca ca thế nào, còn thấy lạ vì sở thích của vương tỷ, nhưng tháng trước Đường quốc gặp nạn, Mộ ca ca…”.
Nói đến đây mặt cô ta bỗng ửng đỏ, cô ta phẫn nộ nhìn tôi, “Nói với cô những chuyện đó cũng chẳng ích gì, cô chỉ cần biết, vì bản thân chàng, Mộ ca ca sẽ biết nên thành thân với ai thì tốt. Cô không giống chúng tôi, không biết thân ở ngôi cao, hôn nhân tượng trưng cho cái gì, cô chẳng giúp gì cho chàng, gia tộc chàng cũng không cho phép chàng lấy cô, những cô gái như cô trong thiên hạ không thiếu, nhưng Đường quốc Quỳnh Hoa công chúa thiên hạ chỉ có một. Bất luận thế nào kết cục cũng là chia ly, tại sao không chấm dứt sớm đi? Cô cũng muốn có kết cục như hoa phật tang sao?”.
Lời cô ta thực ra rất có lý, tôi vốn định nhân buổi đẹp trời hoa nở chim ca, tâm trạng mọi người đều tốt, thuyết phục cô ta không ngờ cuối cùng lại thành ra tôi bị cô ta thuyết phục.
Trở thành Quân Phất đã lâu, dường như gần quên mất, hôn nhân chốn vương thất đa phần bị bóp méo, mọi người đều cho rằng hôn nhân nhất định phải đổi được cái gì.
Mặc dù tôi không phản đối liên hôn vương thất vì lợi ích quốc gia, giống như Thẩm Ngạn và Tống Ngưng năm xưa, nhưng thầm nghĩ, một quân vương có trách nhiệm không nên dựa vào hy sinh hôn nhân để đổi lấy lợi ích quốc gia, liên hôn là thủ đoạn chính trị không cần thiết.
Giá trị của công chúa, vương tử lẽ nào chỉ có thế, yêu cầu của quốc gia đối với họ cao hơn thế nhiều, mọi người có thể nỗ lực theo hướng khác.
Nhưng những lời đó cho dù nói ra cũng không thuyết phục được vị công chúa này, tôi nghĩ thực ra cô ta nói đạo lý lớn lao với tôi, chẳng qua là bởi vì cô ta thích Mộ Ngôn, không tiện nói ra, nên mượn cớ môn đăng hộ đối, nhất định mượn danh nghĩa tỷ tỷ của cô ta.
Cô ta nhìn tôi hỏi: “Sao không trả lời, cô đang nghĩ gì?”.
Tôi cười: “Tôi đang nghĩ, một cô gái như tôi quả thật rất nhiều, không có gì đặc biệt, Quỳnh Hoa công chúa của Đường quốc quả thật chỉ có một. Nhưng trên đại lục này không chỉ có một công chúa”.
Tôi biết nói thế nhất định cô ta sẽ nổi giận, quả nhiên cô ta nổi giận, nghiến răng kèn kẹt hồi lâu, cười khẩy: “Ngoài Văn Xương công chúa Diệp Trăn của Vệ quốc đã tuẫn tiết, đại lục này tuy nhiều công chúa nhưng ai có thể túc trí đa mưu sánh bằng vương tỷ tôi? Nếu cô từng nghe danh Quỳnh Hoa công chúa thì chắc biết Đường quốc coi vương tỷ như viên minh châu, nếu vì cô mà khiến Đường quốc công chúa phải chịu nhục, chính là khiến quốc thể Đường quốc chịu nhục, Đường quốc quyết không cam lòng, quan hệ Đường – Trần nhất định xấu đi, một trận ác chiến là khó tránh. Còn cô không những không thể giúp Mộ ca ca, trái lại khiến chàng rơi vào khốn cảnh, cô không áy náy sao?”.
Tôi cảm thấy kinh ngạc, cô gái trước mặt đích thực là quốc sắc thiên hương, cho dù nóng giận trong giọng nói cũng có vẻ rất ngây thơ, nhưng lời nói ra lại không giống công chúa một nước chút nào, không biết cả ngày cô ta nghĩ gì.
Tôi quay đầu đứng thẳng nhìn cô ta: “Vương tỷ của cô quý là bởi thân phận công chúa, nhưng có biết thế nào là công chúa không, thân là do phụ mẫu sinh ra, nhưng nuôi dưỡng nên người là muôn dân thiên hạ. Một cuộc chiến tranh phải trả giá bằng tính mệnh muôn dân, lẽ nào có thể khinh suất phát động? Con dân thiên hạ hiến dâng tính mệnh là để bảo vệ mỗi tấc quốc thổ dưới chân chứ không phải vì tình yêu của một cô công chúa ngu ngốc. Tôi chưa bao giờ thấy một cuộc chiến tranh ấu trĩ như thế, cũng chưa từng thấy một công chúa khiến mẫu quốc xấu hổ như thế”.
Cô ta sững người nhìn tôi, lát sau cơ hồ suýt khóc: “Cô có tư cách gì nói tôi như thế, tôi phải đi tìm Mộ ca ca, xem có thật chàng bằng lòng vì cô mà làm xấu đi quan hệ với Đường quốc chúng tôi. Thực ra sao chàng có thể thích cô, ngay đến thân phận thực sự của mình chàng cũng không cho cô biết”.
Đột nhiên cảm thấy có thứ gì trào ra cổ họng, vẫn cố nói “Im miệng” nhưng thứ đó đã tràn ra miệng, tôi sững người nhìn máu phun trên mặt đất, nhưng không ngăn được chất đó trào ứ trong cổ họng, vừa há miệng máu lại phun đỏ đất. Dục Đường kinh hoàng trố mắt, tôi lau miệng, nói sẵng: “Chưa bao giờ nhìn thấy máu sao. Không được nói gì với Mộ Ngôn”. Lời chưa dứt đã ngã lăn ra và ngất đi.
Đối với tôi tất cả chỉ trong chớp mắt, khoảnh khắc lúc mất đi ý thức tôi đã hiểu đang xảy ra chuyện gì. Khi xuống núi, Quân sư phụ đã dặn tôi, viên giao châu kế mệnh cứ mười tháng sẽ có ba ngày trập phục, trong ba ngày đó mọi pháp lực đều bị thu hồi, lúc đó tôi hoàn toàn giống một người đã chết, phải đề phòng kẻo bị người ta đem chôn.
Tính ra viên giao châu đã ở trong người tôi vừa tròn mười tháng, tôi lại quên mất chuyện này, khi ý thức vừa khôi phục, tôi kinh hãi nghĩ, liệu người ta có cho tôi vào quan tài đóng chặt chuẩn bị đem chôn.
Đó là dự đoán tình huống xấu nhất, nhưng không ngờ vừa mở mắt, lại thấy đang nằm trong tay Mộ Ngôn. Tôi đã sợ cứng người, nhìn đôi mắt nhắm nghiền của chàng, hàng mi hơi khép, khuôn mặt nhìn nghiêng trắng lạnh, trông chàng lúc này cũng giống một người chết.
Lát sau, tôi run run lay chàng, nghe thấy giọng mình khản đặc không ra tiếng, se sẽ như gió lùa qua tán lá: “Mộ Ngôn, chàng sao thế?”.
Vừa nói xong, bàn tay kia đã bị nắm chặt, tôi còn đang thấp thỏm lo âu đã thấy chàng mở mắt, dưới ánh đèn vàng vọt, đôi mắt lặng như mặt hồ của chàng lóe sáng: “Cuối cùng em đã tỉnh rồi? Hay là…”. Chàng ngừng lại, “… ta vẫn đang mơ?”.
Tôi không hiểu gì, nhìn đôi mắt chàng vừa lóe sáng lại tối sẫm mông lung, đột nhiên hiểu ra, gắng mỉm cười nhưng không cười được.
Tôi đã quên một việc quan trọng, không nói trước để chàng yên tâm, chàng nhất định tưởng tôi đã chết.
Ngực tắc nghẹn, tôi ngây người nhìn chàng, khuôn mặt kề sát lại mỗi lúc càng nhòa đi, tôi giơ tay lau nước mắt, còn chưa kịp lau, nước mắt đã trào ra rơi xuống môi chàng.
Chàng sững người, ánh sáng đã trở về trong mắt chàng, dùng tay lau nước mắt trên má tôi, rất lâu, rất lâu, lâu đến mức đủ thời gian cho một hạt nảy mầm: “A Phất, em tỉnh rồi?”. Giọng chàng như nói thầm.
Tôi bám lấy cánh tay giơ ra lau nước mắt cho tôi, cắn môi hỏi chàng: “Em làm chàng sợ phải không?”.
Chàng để tôi nằm trên ngực mình, ánh nến mờ mờ sau bức bình phong, những ngón tay thon mảnh ấm áp của chàng vuốt ve đuôi mắt tôi, đầu ngón tay như tỏa hương mai thanh khiết. Ngón tay run run dừng trên đuôi mắt tôi, giọng lại vô cùng bình tĩnh: “Tôi biết, em sẽ tỉnh lại, em không nỡ xa tôi”. Tôi vẫn gục lên ngực chàng, như một cô gái e lệ, nghe vậy lập tức phản bác: “Chàng nói bừa”. Nhưng lòng thầm tán đồng, chàng nói đúng, tôi không muốn xa chàng. Chàng ngừng lại, khẽ nói: “Thật ư? Tôi đi hỏi Quân Vỹ rằng em có ước nguyện gì, anh ta bảo em muốn lấy tôi, từ nhỏ em đã muốn lấy tôi”.
Tôi bỗng căng thẳng, toàn thân cứng đờ như khúc gỗ. Lát sau, hơi nhướn cằm nhìn vào đôi mắt cười lấp lánh của chàng, nghe thấy giọng chàng: “Em bắt đầu thích tôi từ bao giờ?”.
Mặc dù bối rối, nhưng chỉ thoáng qua, sau đó nỗi tủi thân âm thầm bao năm bỗng ập đến, tình yêu day dứt âm ỉ, đến chết cũng không phai, cuối cùng chàng đã hỏi câu đó, nước mắt vốn đã kìm được lại một lần nữa ứa ra. Tôi cắn môi, nghẹn ngào: “Chàng còn nhớ ba năm trước trên núi Nhạn Hồi, chàng đã cứu sống một cô bé bị rắn cắn, cô ấy đã tặng chàng bức tranh dùng cành cây vẽ trên mặt đất”. Tôi chỉ vào người mình, “Cô bé ấy là em”.
Nói xong, mắt cay sè, đỏ hoe, tôi vội giơ tay chẹn lên mắt, hít một hơi cố ép nước mắt vào trong, gắng nói hết câu: “Từ lúc đó em đã thích chàng, tìm chàng suốt ba năm, tìm mãi, tìm mãi, nhưng không tìm thấy”.
Nước mắt như suối tuôn qua kẽ ngón tay, nỗi buồn bị nén chặt như bật ra, không thể kiềm chế. Từ lần gặp đầu tiên trên núi Nhạn Hồi đến phút cuối cùng trước khi chết, ba năm tìm kiếm đằng đẵng. Trong hồi ức toàn những hình ảnh đẹp, nhưng sự tuyệt vọng tủi hờn chỉ một mình tôi biết.
Tôi che mắt vùi đầu vào ngực chàng: “Bao người đến cầu thân, phụ thân muốn gả em đi, nhưng em không đồng ý, em phải tìm được chàng. Bức tranh tặng chàng em đã nhờ người ta khắc lên giường đá trong hang, em nghĩ nếu có một ngày chàng trở lại hang núi đó, nhìn thấy bức tranh sẽ biết cô bé ấy đang đợi chàng”.
Nước mắt lọt qua khẽ ngón tay, làm ướt ngực áo chàng, tôi sịt mũi ngẩng đầu, xua đi những hồi ức và tâm trạng bi thương, dùng tay áo lau nước mắt, cố mỉm cười: “Cũng may, cuối cùng em đã tìm được chàng”.
Chàng lặng lẽ nhìn tôi, khiến tôi bắt đầu lo lắng, nhưng chàng chỉ im lặng gỡ dải lụa buộc tóc của tôi. Mái tóc xõa xuống, tôi thấp thỏm nghĩ vừa rồi có nói câu nào sai, còn chưa kịp nghĩ ra đã bị kéo xuống, đầu đặt nghiêng trên chiếc gối mặt đối mặt với chàng, chiếc chăn dày chèn chắc sau lưng, người tôi quả thực lạnh, nhưng lại không thấy lạnh.
Tay trái chàng chống đầu, tay phải vuốt ve tóc mai tôi, lát sau khẽ nói: “Những điều em nói tôi vẫn nhớ, lúc đó tôi thấy em vẫn còn là một đứa trẻ, chớp mắt em đã lớn như vậy, có thể thành hôn cùng tôi”.
Tôi gối đầu trên gối sứ, tay nắm ngực áo chàng, thầm nghĩ, chàng vẫn nhớ, vậy là chàng vẫn nhớ, không kìm nổi sung sướng hôn lên cằm chàng. Hôn xong mới biết mình vừa làm gì, bỗng giật mình nghĩ tới câu chàng vừa nói, có phải chàng vừa nói, tôi có thể thành hôn với chàng?
Tôi sững người, nhổm dậy nhìn quanh, kinh ngạc nhận ra chiếc giường đang nằm lúc này không phải là chiếc giường ở phòng tôi, giơ tay vén bức màn sa trắng thêu nổi những bông hoa phù dung, đập vào mắt là chiếc bục nhỏ trước giường bằng gỗ hồng đàn, bên ngoài là một bức rèm khác màu đỏ.
Màn vén ra, ánh nến sáng hơn, nhìn rõ hai giá nến long phượng lờ mờ sau bức rèm đỏ.
Tôi khó nhọc quay đầu, Mộ Ngôn gối đầu lên cánh tay nhìn tôi, lúc này tôi mới nhận thấy chàng vận đại hỉ bào đỏ chói, mái tóc đen lấp lóa trên chiếc gối sứ trắng, nửa người đắp chăn đỏ thêu đôi uyên ương nghịch nước, trên ngực áo một đám đỏ thẫm ươn ướt, rõ ràng là nước mắt tôi. Qua cửa màn hé mở, khắp phòng là màu đỏ. Tay run run, tôi ôm lấy ngực, cảm thấy thứ bên trong lồng ngực mình nảy rất mạnh, nhất định là ảo giác, tôi nhắm nghiền mắt, thầm nghĩ sao có thể, đang mơ hồ lại bị kéo xuống gục lên ngực chàng, giọng ai thanh thanh, vẻ trêu chọc quen thuộc vang bên tai: “Nếu ngượng cũng muộn rồi, tôi đã phải ôm em đi qua bốn đình bia, hành đại lễ bái thiên địa, một trăm năm sau em nhất định sẽ được táng trong mộ phần của Mộ gia”.
Tôi vẫn nhắm mắt, mặt vẫn áp lên ngực chàng, nghe thấy tiếng nói run run của mình: “Nhưng, nhưng…”.
Chàng trầm mặc một lát, khẽ nói: “Tôi không còn cách nào khác”.
Tôi không hiểu, ngẩng đầu hỏi chàng: “Chàng nói gì?”.
Chàng cau mày, giọng lơ đãng: “Một trang hảo hán cho dù bất tài, ít nhất cũng phải giữ được hai thứ, mảnh đất dưới chân và người đàn bà trong lòng mình”. Ngừng một lát, chàng thong thả nói tiếp: “Lúc đó em bất động nằm trước mặt tôi, mà tôi lại không biết làm thế nào”.
Tôi suy nghĩ một lát, hơi nhổm người, chăm chú nhìn vào mắt chàng: “Chàng không có gì là không làm được”.
Cùng nhìn nhau một lát, nụ cười ngập tràn trong mắt chàng: “Phải, quả thực không có gì tôi không làm được”.
Tôi ngây ra: “Chàng thiếu khiêm tốn quá, lúc này người ta thường khiêm tốn một chút, sẽ nói đại loại như thực ra cũng không vạn năng đến thế, rất nhiều sự việc không thể nào kiểm soát được, phải nói như thế chứ…”.
Chàng thản nhiên: “Em lại định làm gì?”.
Tôi lại gục xuống ngực chàng: “Sau đó có thể em sẽ dịu dàng an ủi chàng”.
Chàng khẽ cười: “Vẫn như ngày trước, vẫn trẻ con như thế”.
Tôi phụng phịu: “Chàng chê em hả?”.
Chàng khẽ cười: “Cũng tạm”.
Tôi nghiêm giọng: “Nếu chàng dám chê em, em cũng chê chàng”.
Chàng cười: “Nói xem, em định chê ta thế nào?”.
Tôi nghĩ mãi, quả thực không biết chê chàng thế nào, ngẩng mặt lừ mắt nhìn chàng, nhưng lại không có sức uy hiếp chút nào, thầm nghĩ, thôi không nên tính toán với người ta, định khuyên người ta ngủ trước, chính sự ngày mai hẵng hay, thì đã bị người ta kéo lại, đặt tay lên eo, nhẹ nhàng xiết vào người.
Giọng nói nhẹ như tiếng gió đùa tơ liễu vang bên tai: “Lúc đó tôi đã nói với em, mọi chuyện đã có tôi, em chỉ cần sống đến lúc tôi tìm ra cách nào đó, em còn nhớ không?”.
Tôi không biết chàng hỏi câu đó làm gì, chỉ nói: “Lúc đó em đã đồng ý với chàng”.
Chàng cười, để tay lên ngực tôi: “Phải nhớ ở chỗ này, trước khi tôi tìm ra biện pháp, phải sống thật tốt, em là vợ của tôi, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của người vợ, tuyệt đối không được chỉ nói suông như trước”.
Tôi nằm trên ngực chàng, gật đầu lia lịa, nhưng lại thấy không ổn, tôi luôn nói lời giữ lời, chỉ nói suông lúc nào? Nhưng tôi không biết chàng có thể làm gì để cho tôi sống, có lẽ chàng tưởng tôi chỉ không có hơi thở không có cảm giác, khác với người sống bình thường chỉ là do luyện Hoa Tư dẫn mà thành.
Tôi không thể nói với chàng, kỳ thực tôi đã chết, cho dù nhảy nhót trước mặt chàng cũng là do viên giao châu mà thôi, có lúc muốn chàng biết, nhưng có lúc muốn chàng vĩnh viễn không biết.
Cứ nằm như vậy, tôi thiu thiu sắp ngủ, chàng vén mái tóc tôi xõa xuống trán, ngón tay dừng lại ở đó, giọng nhẹ nhàng: “Có một số chuyện tôi mãi chưa hỏi em, không phải tôi không muốn biết”.
Nghe vậy tôi đã tỉnh ngủ một nửa, bỗng thấy căng thẳng. Đúng là giấu chàng quá nhiều, nhưng những gì giấu giếm, không chuyện nào có thể kể cho chàng nghe. Tôi khẽ nói: “Muộn rồi, em buồn ngủ…”.
Mọi lần nếu tôi nói vậy, nhìn chung chàng sẽ chiều theo, nhưng lần này lại như không thấy sự phản kháng của tôi, chàng nâng cằm tôi lên để tôi có thể nhìn rõ chàng. Lát sau, chàng khẽ nói: “Tôi là người nước Trần, em là người nước Vệ, Trần đã tiêu diệt Vệ, A Phất, em có hận tôi?”.
Tôi thở phào, thì ra là chuyện này, may quá.
Trước nay Quân Vỹ luôn lo sợ điều đó, nhưng quả thực chẳng có gì đáng lo, giả sử tôi chưa tuẫn tiết cùng Vệ quốc, vẫn là một công chúa vong quốc, để không có lỗi với những binh sĩ đã xả thân vì đất nước, về tình về lý đều không nên giao hảo với nước Trần.
Nhưng Vệ quốc công chúa Diệp Trăn đã chết.
Tôi chưa bao giờ hối hận năm xưa đã nhảy từ trên tường thành xuống, cũng không cảm thấy chuyện đó có gì cao quý, họ Diệp thống trị Vệ quốc tám mươi sáu năm, cuối cùng bị mất ở triều đại phụ thân tôi, xã tắc sụp đổ một cách bình an, còn uy danh vương thất tạo lập hơn tám mươi năm tiêu tan mây khói, họ Diệp vốn không còn mặt mũi nào sống trên đời.
Mặc dù không hiểu tại sao trừ tôi, mọi người dường như sống rất bình an. Về sau cũng nghĩ ra, suy nghĩ của tôi và họ khác nhau, những gì tôi coi trọng chưa hẳn người khác coi trọng, mà cũng chưa hẳn tôi đúng, họ sai, chỉ là mỗi người sống trên đời đều có nguyên tắc riêng.
Quân sư phụ cứu sống tôi, đặt cho tôi cái tên Quân Phất, hy vọng tôi quên hết mọi sự trong cuộc đời trước. Những chuyện không vui, những trách nhiệm không phải gách vác có thể quên, nhưng những ký ức đẹp, những tình cảm lưu luyến tại sao phải quên.
Nếu trở thành Quân Phất mà phải quên Mộ Ngôn, sống trở lại như một tờ giấy trắng, giống như hồn ma được nhập vào thân xác khác, như thế cho dù sống lại thì cũng có ý nghĩa gì. Nghĩ đến đó bỗng hiểu ra tâm tư của Công Nghi Huân, những hồi ức đẹp nên nhớ suốt đời.
Mộ Ngôn hỏi tôi có hận chàng, vẻ mặt lại nghiêm túc như vậy, ngẫm nghĩ cảm thấy hơi ngạc nhiên, tôi nép sâu vào lòng chàng: “Chàng rất để tâm chuyện nước Trần diệt Vệ phải không?”.
Chàng không nói gì.
Tôi trầm ngâm: “Kỳ thực nếu Vệ đủ mạnh, mà Trần lại yếu nghèo, Vệ cũng nhất định tìm thời cơ thôn tính Trần, mặc dù em chưa từng trải cũng hiểu quan hệ giữa hai nước Trần, Vệ không đơn giản như thiên hạ nghĩ, Vệ không thể tồn tại, không phải do trời vô đạo, mà do Vệ vương thất bất nhân, không phải Trần cũng sẽ là nước khác đến thôn tính. Mọi sự bại hoại đều từ trong mà ra, ngoại nhân suy cho cùng chỉ là thúc đẩy, mặc dù mất nước khiến người đau lòng nhưng cũng khó trách Trần, trong thời loạn thế quần hùng tranh bá như vậy, chàng là tướng quân Trần quốc, dốc sức vì mẫu quốc, binh sĩ Vệ quốc cũng xả thân vì xã tắc, mỗi người đều có bổn phận riêng, không thể nói người này đúng, người kia sai”.
Nói xong cảm thấy tư thế nằm không thoải mái, đang định ôm chàng nhích lên một chút, ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt chàng: “Vừa rồi em nói tôi là ai?”.
Tôi vẫn nhích lên chút nữa, liếc trộm chàng, đắn đo: “Tần Tử Yên nói chàng là tướng quân chinh phạt, giết tướng phá thành, em biết nước Trần có một danh tướng hiển hách cũng họ Mộ, tên là Mộ Tuy Phong, là chàng ư?”.
Tôi mạnh dạn ôm cổ chàng, “Nhưng em vẫn thích gọi chàng là Mộ Ngôn, đó là cái tên chàng nói với em”.
Ngón tay chàng sục vào tóc tôi: “Vậy còn Trần thế tử Tô Dự, em không hận tướng soái dưới trướng anh ta, cũng không hận sĩ tốt trong tay anh ta nhưng em hận anh ta gây ra cuộc chiến đó ư?”.
Tôi trầm ngâm một lát: “Muôn dân Vệ quốc sống lầm than nhưng vẫn một lòng chống lại sự tấn công của Trần là bởi vì họ hiểu nỗi thống khổ nhục nhã của nô lệ mất nước. Mặc dù cuối cùng Tô Dự thắng, anh ta có thể tùy ý xử lý Vệ quốc, nhưng em thầm mong muôn dân Vệ quốc có thể sống khá hơn dưới sự cai trị của anh ta. Tuy nhiên, có lẽ đó chỉ là hoang tưởng, lịch sử chưa có tiền lệ như vậy, người dân mất nước xưa nay đều gánh chịu đủ mọi sự ức hiếp nhục nhã, bị đối xử thấp hơn so với dân bản quốc”.
Tôi nói xong lại cảm thấy buồn, nói: “Sao chúng ta lại bàn quốc sự trong đêm tân hôn, mặt dù em chưa thành hôn, nhưng cũng không nghe nói đêm động phòng phải bàn chuyện đó, chàng đừng cho là em không biết gì mà làm bừa”. Rồi lại nghĩ, khó khăn lắm mới được thành hôn, bao nhiêu nghi lễ quan trọng lại không được chứng kiến, mặt nhăn nhó, “Mà những nghi thức long trọng đó em đều không nhìn thấy, tỉnh lại đã nằm trên giường, chẳng có chút cảm giác tân nương gì hết”.
Chàng không phản bác, lại nhiệt thành hôn trán tôi, không trả lời câu hỏi của tôi, “Một ngày khác tôi sẽ bù cho em”.
Tôi ôm chàng, yên tâm gật đầu: “Được rồi, cho chàng nợ”.
Ánh nến nhạt dần, nghĩ là nến hỉ sắp cháy hết, mơ màng nghe thấy tiếng chàng nói khẽ: “Ta nghe nói đêm tân hôn, nếu nến long phượng cháy hết, đôi phu thê đó sẽ bình an sống đến bạc đầu”.
Tôi ngẩn người lập tức nhổm dậy.
Chàng ấn xuống: “Đang ngoan lại sao thế?”.
Tôi vẫn một mực nhổm dậy vén màn, vừa ngoái đầu lườm chàng: “Em đi giữ lửa, sao chàng không nói sớm, ngộ nhỡ nến tắt thì sao. Ấy, buông em ra”.
Nhưng chàng không buông: “Sắp cháy hết rồi, nhiều nhất không quá mười tiếng đếm nó sẽ tắt, không tin em đếm đi”.
Tôi đếm nhẩm đến mười, quả nhiên chưa đếm đến mười, trong phòng đã tối om, tôi không tin truyền thuyết đó nhưng vẫn yên tâm nghĩ, nến long phượng đã cháy hết, dù tương lai bất luận thế nào, đây cũng là một điềm lành, sẽ mang đến dũng khí và an ủi cho người ta những lúc khó khăn.
Tôi ôm cổ Mộ Ngôn, lòng rất vui, hỏi chàng: “Này, nói thật đi, chàng bắt đầu thích em từ bao giờ?”.
Chàng ngập ngừng: “Nói thật là tôi không muốn nói”.
Tôi nhổm dậy: “Không thẳng thắn chút nào, không muốn thành hôn sao!”.
Chàng không kéo tôi lại, thong thả nói: “Đã thành hôn rồi, bây giờ là động phòng. Em về cũng tốt, kẻo đêm nay tôi ngủ không yên”.
Tôi quay lại, lao lên người chàng, ra sức dụi đầu vào ngực chàng: “Vậy em không đi nữa, để chàng ngủ không yên”.
Chàng không trả lời, tôi hiếu kỳ dụi tiếp, nghe thấy giọng nén nhịn của chàng trên đầu: “Xuống đi”.
Tôi nghĩ một hồi, bỗng nghĩ đến điều gì, mặt đỏ bừng, nhón chân nhón tay khẽ khàng trèo xuống. Tự đấu tranh trong lòng một hồi, lại áp đến hôn lên mắt chàng, lại còn dùng lưỡi liếm láp, tỏ ý an ủi.
Vốn định hôn xong sẽ lùi vào góc tường ngủ thì bị chàng tóm được, tôi giương mắt nhìn đôi môi mỏng mím thành một đường cong như cười của chàng, từ từ áp lại, ép vào môi tôi hôn thật mạnh, hôn mãi, thong thả nói: “Em lại dám”.
Tôi mới tỉnh lại, cơ thể còn yếu, chàng nhất định không dám, tôi cảm thấy lúc này không dám còn đợi lúc nào, nhưng nhìn thấy ánh mắt lặng sóng của chàng, liền tủi thân lăn vào một góc.
Chú thích:
(3) Đoạn tụ: Đồng tính nam, bắt nguồn từ một điển tích, Hán Ai Đế sủng ái một mỹ nam tên là Đổng Hiền, cho chàng ta ăn cùng, ngủ cùng. Một hôm Hán Ai Đế ngủ dậy, thấy Đổng Hiền còn ngủ say, nằm đè lên tay áo mình, không nỡ đánh thức liền sai người dùng kéo cắt đứt tay áo.
(4) Ngôi xưng hô trong tiếng Trung không phân biệt giới tính, tuổi tác.
Mặc dù chuyện tôi tỉnh lại khiến bao người kinh ngạc nhưng không ai phát hiện ra bí mật của tôi, mấy ngày sau cũng không bàn tán gì nữa, còn mang quà đến với đủ kiểu danh nghĩa.
Bách Lý Tấn đến thăm tôi, nói bao nhiêu lời tốt đẹp chẳng đâu vào đâu. Cuối cùng như nhớ ra chuyện gì, gãi đầu nói: “Đã chuẩn bị lo hậu sự, mời đến những đầu bếp có tiếng nhất Bối Trung, ai ngờ cô tỉnh lại, đành mời họ ra về”.
Giọng có vẻ luyến tiếc, như muốn tôi lại chết lần nữa. Nghe anh ta than vãn một hồi, tôi lặng lẽ rót trà cho khách. Bách Lý Tấn “à” một tiếng giơ tay đón, hai tay lại cứng đờ dừng trên không, rồi run run đặt cốc trà cạnh mép bàn, vừa gượng cười vừa đi giật lùi ra phía cửa, chớp mắt đã mất hút sau cánh cửa.
Mộ Ngôn ngồi bên xem sách thong thả liếc lại: “Độc dược trong nước trà hình như cho hơi nhiều”.
Tôi nhìn nước trà vẫn giữ nguyên màu trong cốc, ngạc nhiên: “Rõ ràng Quân Vỹ nói với em đây là độc dược không mùi không vị, sao chàng biết em cho cả gói?”.
Chàng trầm ngâm một lát: “… Lượng độc nhiều, làm nước trà hơi sáng màu”.
Tôi phiền não ôm đầu.
Thấy tôi ủ rũ, chàng buông sách giả bộ vui vẻ hỏi: “Là loại độc gì?”.
Tôi bỗng hứng thú giải thích: “Là thuốc xổ”.
Mộ Ngôn: “…”.
Nghỉ ngơi ba ngày trong phòng, tôi đã bình phục hoàn toàn, Mộ Ngôn đồng ý cho tôi xuống giường, có lúc Tiểu Hoàng cũng đến chơi với tôi một lát, nhưng thường lại bị Mộ Ngôn đuổi thẳng, khiến nó nhìn chàng với ánh mắt thù hận ra mặt, vừa nhìn thấy chàng là tiu nghỉu ngoẹo đầu ngoẹo cổ, chỉ có dùng gà rán mới mua chuộc được nó.
Khi không có gà rán để gặm, Tiểu Hoàng tỏ ra chán ngán, trước đây không có tôi thì Quân Vỹ chơi với nó, nhưng bây giờ Quân Vỹ đang ngủ bù, không có thời gian để ý đến nó.
Về chuyện Quân Vỹ ngủ bù, nói ra thì dài, bí mật về viên giao châu trập phục tôi tưởng Quân Vỹ cũng biết, bây giờ mới phát hiện hóa ra anh ta không hề biết.
Nghe Bách Lý Tấn nói loáng thoáng, trong ba ngày tôi hôn mê, Quân Vỹ rất buồn, đêm nào cũng ngồi thừ đến sáng, khi tôi tỉnh lại, vừa lăn lên giường là ngủ liền ba ngày, Bách Lý tiểu đệ hỏi tôi suy nghĩ gì về chuyện này. Tôi còn có suy nghĩ gì, chỉ thấy Quân Vỹ rất tốt, rất tình nghĩa.
Quân Vỹ ngủ đúng ba ngày, nhưng sau khi ngủ đủ, tinh thần cũng không khá hơn, sang ngày thứ tư, mới sáng sớm đã xuất hiện ở tiểu viện của tôi, bộ dạng thiểu não như bị chà đạp cả trăm lần, sắc mặt xanh xám, môi tím nhợt, mắt vô thần.
Tôi kinh ngạc nhìn anh ta hồi lâu: “Quân Vỹ…”.
Quân Vỹ nhìn tôi mấy lượt từ đầu xuống chân, ngước mắt: “A Phất, lấy anh ta muội có vui không?”. Giọng nói thoảng như làn gió, như lập tức bay mất.
Tôi không biết có phải Quân Vỹ đang mộng du, nghĩ đến những chuyện kể đáng sợ về mộng du, tôi rùng mình, không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.
Anh ta lặng lẽ nhìn tôi một lát, chống tay lên trán: “Chúc mừng”.
Tôi vẫn không dám lên tiếng.
Tay anh ta giơ ra, xem chừng sắp chạm vào tóc tôi, lại rụt vội về, giống như chạm phải lửa. Tôi nghi hoặc cố nhướn mắt nhìn món tóc đó, khi ngẩng lên đã thấy bóng anh ta loạng choạng đi xa.
Anh chàng quả nhiên đang mộng du.
Quân Vỹ đi không lâu, Dục Đường công chúa lại đến.
Hình dung ra rất nhiều lý do cô ta đến tìm tôi, đều liên quan đến Mộ Ngôn, kết quả cô ta đến cáo biệt lên đường khiến tôi sung sướng như mở cờ trong bụng. Tuy tôi không thích cô ta, nhưng cũng không ghét đến mức không muốn gặp mặt, mặc dù cô ta làm tôi tức mấy lần, đằng nào tôi cũng trả đũa được rồi, huống hồ cô ta sắp ra đi.
Hai bên mắt to mắt nhỏ nhìn nhau một hồi, tôi hắng giọng, lòng vui khôn tả, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thường, cất giọng nói: “Cô Trúc sơn là thắng cảnh đẹp thế này, công chúa đã sớm bỏ đi như vậy, e hơi đáng tiếc”.
Cô ta gật đầu như rất tán đồng: “Tôi cũng thấy…”.
Tôi hoảng hồn, vội nói: “Có điều, cũng không nên chìm đắm trong hưởng lạc, mọi việc nên lấy đại cục làm trọng, đi lo việc lớn là rất đúng, không giữ công chúa nữa, cô lên đường bình an”.
Cô ta ngây ra hồi lâu, trợn mắt nhìn tôi: “Tôi thì có việc lớn gì, chỉ là…”. Cô ta cắn môi, “ … Tôi từ bỏ”.
Tôi rót trà không nói gì.
Mắt cô ta đột nhiên đỏ lên: “Mộ ca ca mà tôi quen là một người trầm tĩnh, tháng trước Trần quốc trợ Đường kháng Tấn, trong trận chiến ở Lâm Khâu, liên quân Trần, Đường dùng mười vạn quân phá ba mươi vạn địch quân, tin thắng trận báo về Hạo thành, Mộ ca ca đang ung dung pha trà, nghe vậy chỉ cười nhạt, lệnh cho binh sĩ báo tin nói nhỏ một chút, kẻo kinh động trà trong ấm”.
Cô ta phẫn nộ nhìn tôi, “Nhưng lần này, ngay tiểu thánh y Bách Lý Tấn cũng chẩn đoán cô không thể cứu được nữa, chàng lại nhất quyết cùng cô bái thiên địa, bế cô đến bái bốn đình bia. Cô biết không, ở Trần quốc của họ chỉ có phu nhân cưới hỏi đàng hoàng mới có tư cách được phu quân bế đến bái bốn đình bia lễ, hiếu, trung, thứ như vậy”.
Một giọt nước từ đôi mắt đỏ hoe của cô ta lăn ra: “Tôi vốn không đến Cô Trúc sơn ngắm hoa phật tang gì hết, chỉ là khó khăn lắm mới gặp chàng, muốn ở bên chàng. Nhưng tận mắt nhìn thấy chàng bế cô đã chết trên tay đến đình bia…”.
Cô ta dừng lại, dùng ống tay áo lau nước mắt, “Thật không hiểu chàng nghĩ gì, chàng có thể có được những thứ tốt hơn”. Nước mắt giàn giụa, “Nhưng tôi hiểu tôi nên từ bỏ, vương tỷ không được, tôi cũng không được. Chỉ có điều tôi không cam lòng, cô có thích Mộ ca ca thật không? Vì chàng, cô không nên ở bên chàng”.
Tôi lặng lẽ nhìn cô ta, cô gái này có thể còn ít tuổi hơn tôi, cô ta đau lòng như vậy, những giọt nước mắt long lanh dưới ánh mặt trời, giống như bao đêm không tìm thấy Mộ Ngôn, tôi ngồi một mình bên cửa sổ, nước mắt cũng lăn trên má như thế, chỉ có khác không long lanh bởi ánh mặt trời mà nhạt nhòa dưới ánh trăng khuya.
Trong phòng chỉ có tiếng nức nở của Dục Đường, tôi nhìn cốc trà trong tay: “Lần trước cô đã kể cho tôi nghe câu chuyện hoa phật tang, giờ tôi cũng kể cho cô nghe một câu chuyện”.
Cô ta nghi hoặc.
Tôi ngừng một lát thong thả nói: “Ngày xưa có một cô công chúa, cô phải xa người yêu, cô tìm người đó mãi nhưng ông trời không tốt với cô lắm, cho đến lúc chết cô vẫn không tìm được người cô yêu. Lúc cô chết trời đổ một cơn mưa lớn, nước mưa xối trên người cô. Cô thầm nghĩ, đau đớn quá, nếu trước khi chết có thể được gặp chàng một lần thì tốt biết bao, dẫu chỉ đứng nhìn từ xa, công chúa lặng lẽ chết, trong lòng ôm ấp ước nguyện bé nhỏ như vậy”.
Dục Đường ngừng khóc, ngây người nhìn tôi.
Tôi tiếp tục: “Tôi đã nghe rất nhiều lời khuyên như vậy, vì muốn tốt cho chàng, cô nên thế này nên thế kia, nếu không thì không phải thật lòng yêu chàng, nhưng yêu đâu phải là chuyện của một người, tại sao không để hai người được bên nhau, tốt cho cả hai thay bằng chỉ tốt cho một người?”. Tôi ngẩng đầu nhìn cô ta: “Cô đã bao giờ đến chết vẫn không từ bỏ ước nguyện? Không phải chết trong tưởng tượng mà chết thực sự, ước nguyện quay cuồng trong đầu cô khiến cô không thể từ bỏ, không thể quên?”.
Cô ta không trả lời.
Tôi cười: “Nếu có cô sẽ hiểu, có những thứ cho dù phải trả một giá thế nào cô cũng bằng lòng đánh đổi”. Hình ảnh cho đến thời khắc cuối cùng trước khi chết vẫn bám riết trong óc tôi là ảo giác được tạo nên do tôi khư khư bám lấy ước nguyện, chàng trai trẻ vận áo chùng đen cầm chiếc ô sáu mươi tư nan thong thả đi đến, trước ánh mắt nhòe máu của tôi hiện ra một rừng mai trắng.
Hai tay tôi đưa lên ôm ngực: “Tôi rất thích chàng, vì vậy càng phải ở bên chàng”.
“Cạch” một tiếng, chiếc cốc rơi trên bàn trà, cô ta sững người giơ tay định thu dọn, nhưng tay vừa chạm chiếc cốc gốm đổ trên mặt bàn liền vội rụt sâu vào trong ống tay áo, mắt khẽ ngước, trên mặt không còn nét ngây thơ nữa mà bàng hoàng như nghĩ ra điều gì khó tin.
Tôi chờ cô ta phản bác, nhưng không ngờ cô ta lại dễ thuyết phục như vây, cô ta ngồi ngây một lát, không nói gì, đi ra, trước khi đi còn đăm đăm nhìn tôi, ánh mắt đầy nghi hoặc.
Sau khi Dục Đường đi khỏi, tôi thu dọn ấm chén. Lặng lẽ ngồi thần một hồi, thầm nghĩ Mộ Ngôn đi đến chỗ Công Nghi Phỉ không thể một lúc về ngay. Lập tức quả quyết đi giày, đẩy cửa lẻn ra như một tên trộm, thử đi mấy bước trên sân đầy ánh nắng, không thấy ai chạy ra ngăn cản, xem ra những hộ vệ của Mộ Ngôn cũng không bí mật giám sát, tôi tạm yên tâm. Bóng tôi đổ dài trên khoảng sân rộng lát gạch, nhớ lại hồi nhỏ chơi trò giẫm bóng với Quân Vỹ, vậy là nhón chân một mình giẫm bóng mình chơi cũng rất khoái trá.
Đột nhiên phía cổng có tiếng nói vang lên “Đang làm gì vậy?”.
Tôi ngẩng đầu, đắn đo gọi một tiếng: “Mộ ca ca”.
Chân Mộ Ngôn hình như vấp phải vật gì, người hơi chúi về trước, tôi vội làm ra vẻ muốn chạy lại đỡ, may chàng không ngã, chàng đi đến vừa đưa tôi trở về phòng vừa hỏi: “Ai dạy em vậy?”.
Tôi xoa mũi, “Dục Đường chẳng phải gọi chàng như vậy sao?”. Ngoẹo đầu mắt không nhìn chàng, “… lại còn gọi rất thân mật nữa”.
Chàng cười nói: “Quân muội muội”.
Tay tôi hơi run: “A… A Phất là được rồi…”.
Tất cả đều yên ổn, chỉ có Công Nghi Huân khiến tôi lo lắng, tính ra đã nửa tháng không gặp, sau khi tôi tỉnh lại gia nhân của cô mang đến biếu hai củ nhân sâm quý nhưng cô không đến thăm.
Tôi hỏi người hầu, được biết cô vẫn thế, chỉ có điều hầu như không ra khỏi cửa .
Tôi thầm nghĩ, bề ngoài lạnh băng của Công Nghi Huân đâu có dễ để người khác đoán ra tâm trạng, có điều không ra ngoài đã đủ nói lên rất nhiều điều. Nhưng đây không phải chuyện tôi cần lo lắng quan tâm.
Tôi chờ cô đến tìm tôi, nhưng lòng biết, nếu nửa tháng cô không đến nghĩa là sẽ không đến nữa. Xem ra tính hiếu kỳ muốn biết những ký ức đẹp trong cuộc đời trước của cô đã tiêu tan.
Nhưng đúng lúc tôi cảm thấy dường như cô đã hiểu ra, không còn day dứt về cuộc đời trước của mình, an phận sống như bao người thì tối hôm đó, con người tưởng đã nghĩ thông mọi chuyện đó lại đến tìm tôi. Nửa tháng trước cô nói không muốn biết những ký ức không vui, nửa tháng sau cô đứng dưới bóng trăng lặng lẽ nhìn tôi: “Tôi muốn biết, năm xưa rốt cuộc tôi chết thế nào”.
Chuyện này không thể cho Mộ Ngôn biết, nhưng giấu chàng lại không làm được. Thực ra tôi đã khỏe hẳn, có thể hoạt động bình thường nhưng vẫn bị cấm không được thế này không được thế kia, nếu lúc này dám nói định dùng Hoa Tư dẫn giúp người, chàng nhất định không đồng ý. Suy nghĩ một lát, đành tìm Quân Vỹ nhờ giữ chân Mộ Ngôn, để cho tôi và Công Nghi Huân có chút thời gian.
Công Nghi Huân nói muốn biết mình chết thế nào, tôi cũng muốn biết, có gì có thể khiến người ta hiếu kỳ hơn là bí mật của một gia tộc lừng danh? Không ai bằng lòng với một nửa bí mật.
Cơ hội đến rất nhanh, tối hôm sau có sứ giả từ nước Triệu đến, Mộ Ngôn phải nghị sự với họ. Chàng vừa đi khỏi, tôi đã điểm huyệt cô hầu được cử đến phục vụ tôi, mặc áo của cô, lén ra khỏi cửa.
Công Nghi Huân đã chuẩn bị xong xuôi, phải tranh thủ thời gian, vừa lau mồ hôi trán, tôi đã khởi động giao châu đi vào ý thức của cô.
Vừa định bước vào, tay đã bị túm lại. Tôi cứng người quay đầu, cười gượng: “A ha, Mộ Ngôn, chàng cũng tản bộ đến đây sao. Thật khéo”. Nói xong đã thấy ký ức bị phong ấn của Công Nghi Huân hiện ra.
Mộ Ngôn lạnh lùng nhìn tôi, giọng cũng lạnh đến phát run: “Làm thế nào thoát ra được?”.
Tôi nghĩ có lẽ chàng kéo tay tôi đúng lúc viên giao châu đã khởi động, nếu không, sao chàng có thể theo vào, thầm mắng Quân Vỹ vô dụng, cúi đầu nói khẽ: “Khi Công Nghi Huân tỉnh mới thoát ra được”.
Chàng giơ tay ôm trán, “Em đúng là. Không để người ta được yên chút nào”.
Tôi thầm liếc chàng, cảm thấy hình như chàng cũng không giận lắm, lập tức tấn công: “Để người ta được yên không phải là chuyện tốt”.
Chàng không dao dộng: “Lý lẽ vớ vẩn gì thế?”.
Tôi nản lòng: “Chẳng có lý lẽ vớ vẩn nào cả, thân mẫu em luôn để cho người ta được yên, cho nên cha em mới lấy nhiều mỹ nữ như vậy”. Lại bổ sung thêm: “Đằng nào em cũng là người hay sinh sự, hay là sau này chàng cũng lấy thật nhiều mỹ nữ, ngày ngày em cằn nhằn bên chàng, khiến đầu chàng nảy đom đóm”.
Chàng bật cười: “Em định cằn nhằn tôi thế nào?”.
Tôi cân nhắc một lát, buồn bã quay đầu đi: “Nếu có ngày đó, em sẽ bỏ chàng mà đi”.
Chàng cau mày, “Ai cho em nói thế?”. Tôi nheo mắt nhìn chàng, xoa mũi nói: “Chẳng ai hết, nhưng hôm nay chàng cảm thấy em hay sinh sự, nhất định chàng bắt đầu ghét em rồi”.
Nói xong lại quay đi, chàng để cán quạt dưới cằm tôi từ từ nâng lên, giống như những công tử nhà giầu phóng đãng đùa giỡn con gái nhà lành, còn làm bộ hứng thú nhìn tôi một lượt từ đầu xuống chân.
Lát sau, chàng thong thả buông quạt lắc đầu: “Lại giở trò trẻ con gì đây, môi mím thành sợi chỉ rồi, tôi ghét em bao giờ?”.
Tôi lẩm bẩm: “Vậy chàng nói đi, chàng rất bằng lòng để em chạy ra ngoài làm việc này”. Không đợi chàng trả lời, lại bổ sung “Nếu không nói tức là ghét em”.
Chàng nhìn tôi không nói, lát sau mới thong thả phán: “Em rất biết cách đối phó với tôi. Nhưng chỉ lần này thôi, lần sau không được thế”.
Tôi cúi nhìn mũi giày: “Chàng vẫn chưa nói, có phải chàng giận rồi không?”.
Chàng làm bộ lạnh nhạt: “Em nói xem?”.
Tôi sịt mũi, giơ tay định lau nước mắt, tay vừa giơ đã bị chàng nắm lấy: “Thôi, tôi không giận”.
Tôi liếc trộm chàng, thấy ánh mắt chàng di chuyển đến lại vội cúi đầu: “Vậy… vậy chàng gọi em là ‘bảo bối’ nghe nào”.
Vừa nói xong cằm lại bị nâng lên, lần này không dùng cán quạt, mắt chàng như cười: “Em định trêu chọc tôi phải không?”.
“… Bị chàng lật tẩy rồi”.
Mải phân trần với Mộ Ngôn không dám phân tâm quan sát cảnh trước mắt, khi định thần theo dõi ký ức của Công Nghi Huân thì phát hiện đã đến đoạn nửa năm sau lễ cưới của Công Nghi Phỉ và Công Nghi San. Lần trước mới đến cảnh hôn lễ của hai người.
Mộ Ngôn nhìn vẻ bần thần tiếc rẻ của tôi, đứng bên giải thích: “Cũng không có chuyện gì lớn, chỉ là sau khi nạp thiếp Công Nghi Phỉ chuyển ra khỏi phòng tân hôn, từ đó hai người không gặp lại. Còn nữa, Công Nghi San sinh con trai”.
Tôi nghĩ có lẽ chàng không biết chuyện, chần chừ một lát, kể cho chàng nghe nhân duyên của Công Nghi Phỉ và Khanh Tửu Tửu. Một câu chuyện ly kỳ như vậy, chàng lại không ngạc nhiên chút nào: “Họ là ruột thịt, có thể kịp thời nhận ra như thế cũng tốt”.
Tôi không tán thành: “Cũng chưa hẳn đúng là ruột thịt, em lại thấy chuyện này có uẩn khúc”. Ngừng một lát lại tiếp: “Chàng đã được nhìn thấy con bọ ngựa tết bằng cỏ lau, con chim yến cắt bằng giấy bóng vàng chưa?”. Tôi giơ tay phác ra kích cỡ hai món đồ chơi: “Chính là ngày trước Công Nghi Phỉ tự tay làm cho Khanh Tửu Tửu”.
Mắt chàng nhìn phía trước: “Có phải những thứ kia không?”.
Thuận theo ánh mắt chàng nhìn ra, trước mắt là cảnh trăng nước khói phủ, tất cả như ẩn sau màn sương lạnh, những ký ức được phong ấn đang hiện ra cảnh Công Nghi Huân đến thăm Công Nghi San vừa ở cữ, còn con bọ ngựa và con chim yến mà tôi vừa nhắc với Mộ Ngôn đang để trên chiếc bàn nhỏ cạnh đầu giường Công Nghi San.
Công Nghi Phỉ đang ngồi một bên, thong thả mở nắp cốc trà. Hầu nữ Họa Vị tay bưng chiếc hộp đựng một chiếc khoá ngọc chế tác tinh xảo, Khanh Tửu Tửu nghiêng người nhìn đứa trẻ ngủ say, đón chiếc khóa ngọc từ tay Họa Vị để bên cạnh đứa trẻ: “Không có quà gì, đánh một chiếc khóa ngọc bình an tặng tiểu công tử, cốt nhục của Công Nghi gia nhất định phải được chăm sóc thật tốt”. Mắt liếc những món đồ chơi trên bàn, giọng nhẹ nhàng, “Mấy hôm trước Họa Vị thu dọn phòng tìm thấy những đồ chơi này, nó rất đẹp nên mang đến cho tiểu công tử chơi”.
Ánh mắt Công Nghi San thoáng hốt hoảng, cũng phải thôi, ẩn ý những câu nói vừa rồi của Khanh Tửu Tửu dường như rất rõ, vừa như biết hết mọi chuyện vừa như không, Công Nghi San không lo sao được.
Bàn tay Công Nghi Phỉ đang nâng cốc trà dừng lại rất lâu, trong phòng yên tĩnh khác thường, chàng khẽ cười hướng về mấy hầu nữ: “Đại phu nhân đã nói thế, các người còn đứng ngây ra đấy, mau thay nhị phu nhân mang đồ cất đi”.
Tam thê tứ thiếp thường là thế, thiếp bao giờ cũng được sủng ái, Công Nghi San về làm thiếp, vốn không có tư cách gọi là phu nhân, nhưng lúc này Công Nghi Phỉ lại gọi cô là nhị phu nhân, phòng càng yên tĩnh, chỉ có kẻ gây sự vẫn bình thản uống trà, sắc mặt Khanh Tửu Tửu trắng như tuyết, nhưng cũng có thể tôi nhìn nhầm, cô vốn đã trắng, hơn nữa ở khoảng cách hơi xa.
Thời gian nửa năm tiếp theo, cảnh trong ký ức lướt qua rất nhanh. Nhưng con đường sụp đổ của Công Nghi gia từng bước cơ hồ nằm trong tính toán của Khanh Tửu Tửu, con người ta chúng quy cần lựa chọn. Tôi đã đánh giá thấp cô, chưa bao giờ cô quên mình phải làm gì.
Tháng chín mùa thu mát mẻ, Khanh Tửu Tửu được gả vào Công Nghi gia một năm có lẻ, chưa có chuyện gì xảy ra, còn Công Nghi San hưởng phúc nhờ con, sống ở cư gia tộc trưởng như cá gặp nước, mặc dù những người trong cuộc đều biết lai lịch đứa trẻ đó.
Dần dần lan ra tin đồn, nói rằng phụ thân Công Nghi San ngầm liên thủ với các vị trưởng lão trong họ tộc khuyên Công Nghi Phỉ bỏ vợ, với lý do một nửa quyền thế của gia tộc rơi vào tay người đàn bà không thể sinh con nối dõi. Một thời gian, mọi người trong nhà đều nhìn Khanh Tửu Tửu với con mắt thương cảm, nhưng không ai biết chính cô tung ra tin đồn đó.
Mặc dù xem ra nhị thúc của Công Nghi Phỉ luôn nhòm ngó ngôi cao, cũng đích thực muốn đuổi Khanh Tửu Tửu ra khỏi Công Nghi gia, để con gái trở thành chính thê, nhưng trong chuyện này quả thực ông ta bị oan.
Lời đồn quả có sức mạnh ghê gớm, nhị thúc vốn không có động tĩnh gì bức bối bởi lời đồn mới tương kế tựu kế đi trước một bước, ngồi chờ tai họa giáng xuống chi bằng ra tay trước. Trong một đêm mưa to gió lớn cuối tháng chín, Khanh Tửu Tửu khoác áo choàng trắng bước vào cổng lớn cư gia tam thúc lúc này vẫn còn đang để tang con gái.
Âm mưu cơ mật này được thực thi rất nhanh.
Những việc cô muốn làm, việc cô đã làm cuối cùng tôi đã hiểu, mặc dù trước đây cũng dự đoán nhưng lúc này mới tin, quả nhiên cô đến báo thù Công Nghi gia. Từ lợi dụng cái chết của Công Nghi Hàm, khiến hai vị thúc thúc huyết hải thâm thù, đến cưỡng ép buộc Công Nghi Phỉ nạp Công Nghi San làm thiếp, từng bước dẫn tới cục diện hôm nay, tất cả đều được tính toán tỉ mỉ đâu vào đấy.
Người ngoài chỉ biết Khanh Tửu Tửu không sinh được con, còn Công Nghi San được Công Nghi Phỉ sủng ái, rốt cuộc thật giả thế nào không ai biết, họ chỉ cảm thấy người kế vị trưởng tộc sẽ là con trai của Công Nghi San.
Hai vị thúc thúc ngấm ngầm tranh giành đã lâu, nhưng cũng không có xung đột lớn, bởi họ vẫn nhớ câu chuyện ngụ ngôn “cò vạc tương tranh, ngư ông đắc lợi”, dưới sự sắp xếp cơ mật của Khanh Tửu Tửu, Công Nghi gia rõ ràng hình thành hai phe đối lập, hai vị ngư ông đều bị kéo xuống nước. Một người bị cò cướp đi, người kia đến tìm vạc làm hậu thuẫn cho mình.
Tam thúc đồng ý giúp Khanh Tửu Tửu, ở đời, trong thế tương tranh, kẻ này thịnh ắt kẻ kia suy, nhị thúc đắc thế, tam thúc đương nhiên thất thế, huống hồ hai bên còn có mối thâm thù là cái chết của Công Nghi Hàm.
Nhưng tôi nghĩ họ đã bị Khanh Tửu Tửu lợi dụng, họ cho rằng loại bỏ đối phương là mình sẽ đứng đầu, hơn nữa thời cơ cuối cùng đã đến, nhưng lại quên mất đạo lý bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ đi ngay sau, họ không biết có một người đứng ngoài mong đợi họ huynh đệ tương tàn, lại không ai quy định một người đã là ngư ông thì không thể làm chim sẻ.
Hai phe đã tranh giành đến lúc này, nếu tôi là Khanh Tửu Tửu, ôm mối hận như vậy đến nơi này, mục đích chỉ là tiêu diệt Công Nghi gia, sực nhớ tới trận đại hỏa hoạn của Công Nghi gia bảy năm trước, bỗng giật mình, có lẽ cuối cùng cô đã hoán gọi được hộ thần Thiên Hà đó…
Người bỗng cứng đờ, Mộ Ngôn ngồi bên nắm chặt tay tôi, khẽ nói: “Chuyện đã xảy ra, còn lo làm gì cho mệt”.
Tôi dựa vào chàng: “Công Nghi Phỉ nhất định đã tiên liệu được cô ta muốn hủy gia tộc của chàng ta, tại sao không ngăn cản?”.
Chàng cười nói mập mờ: “Có lẽ cái cũ không hủy, cái mới khó nảy sinh”.
Lá trên cây rụng dần, trời chuyển sang đông. Thời gian thấm thoát trôi đi, chớp mắt đã đến ngày mồng bốn tháng chạp, ngày tế tổ của Công Nghi gia, cũng là ngày khởi sự của Khanh Tửu Tửu.
Đêm mồng ba, canh khuya trăng lạnh, Công Nghi Phỉ sau khi nạp thiếp chưa từng quay lại tiểu viện của chính thê giờ lại rẽ hoa, giẫm ánh trăng bước vào viện môn quạnh quẽ. Gió lạnh thổi bật cánh cửa chính đường, trùng trùng rèm sa phấp phới, thấp thoáng nhìn thấy một mỹ nhân ngồi trước đài trang sau những bức rèm, giống như chìm trong màn sương mỏng, toát ra hàn khí yêu dị. Còn bóng hoa in lên cửa sổ trông giống những chữ tròn khéo léo cắt ra từ câu đối.
Gió cuốn cao bức rèm, lộ ra Khanh Tửu Tửu toàn thân xiêm áo đỏ thẫm, cặp mày dài thanh mảnh tựa nét vẽ trên băng, môi hồng, giữa trán điểm một đóa tử kim hoa đỏ chói, ngay đêm tân hôn cũng không thấy cô trang điểm lộng lẫy như vậy.
Tiếng tinh tang phát ra từ bức rèm châu ngũ sắc, trong ánh nến lay động, cô từ từ chìa tay về phía Công Nghi Phỉ sắc mặt dửng dưng đứng ở cửa phòng, cô hơi nhướn mi, ánh mắt dịu dàng xôn xao như sóng.
Công Nghi Phỉ sững sờ, nhưng không bước đến nắm bàn tay chìa ra đó, ánh mắt dừng lại trên gương mặt dịu dàng hiếm hoi của cô, “Đã là canh hai, phu nhân còn chưa ngủ, cho Họa Vị mời ta đến có việc gì gấp gáp?”.
Cô bước ra mấy bước, chiếc váy dài xúng xính sát đất, hơi nghiêng đầu nhìn chàng: “Tôi tưởng đệ không đến, nhưng đệ đã đến, đến rồi cũng không dám nắm tay tôi”. Cô cúi đầu cầm tay chàng, ấp vào ngực mình, nhích dần lên trên, như muốn bàn tay đó ôm ấp má mình, nhưng lại dịch sang bên dừng lại ở tai. Cô đăm đăm nhìn chàng: “Đang run”, trong mắt có gì lóe qua, “… Tôi đáng sợ thế sao?”.
Cô nhìn chàng rất lâu, giơ tay vuốt trán, như đầy nghi hoặc: “Uống say không tốt sao? Lúc nhỏ tôi ở lầu xanh, nhìn thấy khách mua vui nếu thấy cô gái nào bị chuốc say họ sẽ rất vui”. Cô ngẩng nhìn chàng, hơi nghiêng đầu, “Còn đệ, A Phỉ, tôi say rồi đệ có thấy vui không?”.
Trong phòng yên tĩnh, chàng cười khẽ: “Cô muốn kéo tôi quay lại chăng?”.
Đôi môi đỏ của cô hơi mím.
“Tôi đã đoán sai?”. Chàng cười gật đầu, “Phải, sao cô có thể muốn kéo tôi quay lại, ngày xưa tôi thích cô, cô đã phát buồn nôn, hôm nay làm đến nước này, tôi lại cản đường cô ư?”. Nói đoạn bước tới trước đài gương, cầm lên bình rượu bằng ngọc, “Hôm nay muốn chuốc cho tôi say để làm gì? Muốn làm tôi ngủ say như chết, hay là hôn mê bất tỉnh?”. Nhìn ngắm bình rượu trong tay, mặt hiện ra nụ cười kỳ quái, ngoái đầu nhìn cô: “Chắc không đến nỗi định giết tôi chứ?”.
Mặt cô cứng đờ, sắc hồng trên má tiêu tan, chỉ có cặp môi đầy đặn thắm đỏ như đóa anh đào đầu cành giữa trời tuyết, một khuôn mặt đẹp như băng tạc, nụ cười lạnh từng tấc: “Thì ra đệ nghĩ tôi như thế”.
Chàng nhướn mi, môi hơi cong dịu dàng như cười, lời nói ra lại sắc như lưỡi dao: “Có lúc tôi đã nghĩ rốt cuộc cô có gì tốt, nghĩ suốt nửa năm”.
Chàng nâng cằm cô, giống như đánh giá món đồ trang sức trong cửa hiệu, “Hồi đó sao tôi lại thích cô nhỉ?”.
Chàng tiến lại gần cô, “Tôi đã nói rồi, bất luận cô làm gì tôi đều không ngăn cản”. Nộ sắc từ đáy mắt lan ra, chỉ thoáng qua, thần thái lại ung dung, “Nhưng tại sao cô luôn muốn gây chuyện với tôi?”.
Cô ngây người: “Nếu tôi nói lần này thì không, đệ có tin?”.
Chàng buông cô ra, lắc đầu cười: “Cô luôn nghĩ tôi dễ đánh lừa, cô nói gì tôi cũng tin, nhưng bây giờ không phải là một năm trước”.
Chàng quay người bước thẳng ra khỏi cửa, không hề lưu luyến, bóng khuất sau viện môn, trời có tuyết nhỏ, giống như muôn cánh hoa bé xíu từ mặt trăng rơi xuống. Gió to làm tắt mấy ngọn nến, trong ánh nến tàn, cô cầm lên bình rượu, từng ngụm uống cạn bình.
Đó là lần cuối cùng hai người ở bên nhau.
Ngày bốn tháng chạp, tuyết rơi dày. Cành cây khô oằn xuống bởi tuyết đọng, thỉnh thoảng có cành gãy rơi xuống.
Trước cửa tông miếu của Công Nghi gia, gia nhân bận rộn đi lại, hương thơm, nước sạch đã bày sẵn lên hương án, ba tiếng trống đồng ngân vang, đại lễ tế tổ bắt đầu.
Ngày tế tổ mồng bốn tháng chạp của Công Nghi gia nghe đồn là cát nhật được một thuật sư bấm tính từ bảy trăm năm trước. Nhưng ngày hôm đó, từ sắc trời u ám đến bầy quạ rào rào trước tông miếu đều báo hiệu điềm không lành.
Giờ tốt đã đến, đại tế mỗi năm một lần nhưng nhị thúc lại vắng mặt, tam thúc không thấy đâu, Công Nghi San như có linh cảm gì, ôm chặt đứa bé trong lòng, vẻ căng thẳng, tay mỗi lúc càng run, càng xiết chặt.
Chủ tế đốt nến, thắp hương, tiểu công tử trong tay Công Nghi San đột nhiên khóc một tiếng, trưởng lão cau mày, đang định nhắc nhở, Công Nghi Phỉ đã giơ tay đón đứa trẻ trong lòng Công Nghi San. Khanh Tửu Tửu hơi ngẩng đầu, mắt liếc qua, rửa tay trong tịnh bồn gần đó, thản nhiên lấy ba nén nhang, thong thả châm lửa, không cắm vào bát hương tiên tổ, lại cắm ngay ngắn trước bài vị của Ung Cẩn Công chúa, phu nhân tộc trưởng đời trước.
Tàn hương rơi trúng tay cô, người khẽ run, Công Nghi Phỉ lạnh lùng theo dõi mọi cử động của cô, khi ánh mắt cô liếc lại, chàng dửng dưng ngoảnh mặt đi.
Chủ tế đọc văn tế, tụng ca công đức bảy trăm năm của liệt tổ liệt tông, giữa thời khắc xem ra rất mực bình yên đó, cánh cửa tông miếu bị đẩy “rầm” một tiếng, một người áo xám loạng choạng lao vào, bất chấp lễ tiết thần sắc hốt hoảng bước vội đến bên nói với Công Nghi Phỉ: “Xảy ra chuyện lớn rồi, nhị lão gia và tam lão gia đánh nhau, cả hai đều đem theo rất đông gia nhân nô bộc, có vẻ quyết đấu đến cùng, đại nhân…”.
Chưa bẩm xong, Công Nghi San bên cạnh đã lao ra cửa, Công Nghi Phỉ kéo lại: “Định đi đâu?”.
Công Nghi San hai mắt đỏ hoe, một tay bịt miệng, nén khóc cầu xin: “Đừng ngăn em, em phải đi tìm cha!”. Chàng trầm giọng: “Đợi ta cùng đi”. Tiểu công tử giao cho trưởng lão, Công Nghi Phỉ lướt qua Công Nghi Huân, nắm tay Công Nghi San, bước vội khỏi tông miếu.
Lát sau Khanh Tửu Tửu cũng mượn cớ bỏ đi. Đàn quạ đen trước cửa đã bay mất tăm, loài chim ăn xác thối đó chắc đã đánh hơi thấy mùi chết chóc.
Công Nghi gia có một chiếc đài cao gọi là Phù Vân đài, cao ba ngàn bậc đá, trên đài có ngôi đình Phù Vân cột bằng bạch ngọc, từ đó nhìn ra có thể nhìn khắp cả mười dặm vuông.
Bốn bề yên tĩnh, tuyết rơi lả tả như lông ngỗng, Khanh Tửu Tửu đứng trên Phù Vân đài, tóc đen, áo trắng giống như một nét bút đầy thi vị trong tờ tuyên biểu trắng tinh.
Trên cao như vậy vẫn có thể nghe thấy tiếng hô giết chóc, cô cúi đầu nhìn thảm cảnh do tay mình gây ra, đôi mắt đen thất thần. Họa Vị bên cạnh khẽ nói: “Công Nghi gia đến nước này vận số đã hết, tiểu thư hà tất hao tâm tổn lực, nhất định hoán gọi hung thú Thiên Hà, găng với Phỉ thiếu gia như thế, quả thực không cần thiết”.
Cô giơ tay ra, hoa tuyết lọt qua kẽ ngón tay rơi xuống: “Chắc ngươi đã nghe câu nói cà cuống đến chết còn cay. Phải triệt để hủy hoại Công Nghi gia, nhất định phải thế”.
Cô nói như vậy thực ra tôi có thể hiểu, nghe nói trưởng tộc Công Nghi cả đời chỉ có thể hô gọi Thiên Hà một lần, vị hộ thần đó cũng chỉ có thể tung hoành trên trần gian một canh giờ. Nếu Công Nghi gia vận số vẫn còn, cho dù hô gọi được Thiên Hà cũng không hoàn toàn hủy diệt được họ. Điều cô muốn chính là lợi dụng Thiên Hà giáng cho Công Nghi gia một đòn chí mạng, kết thúc vận số của họ.
Họa Vị vội nói: “Nhưng nếu làm thế thật, Phỉ thiếu gia sẽ không tha thứ cho tiểu thư”.
Nói xong tự biết lỡ lời, nhưng vẫn không kìm được, tiếp tục khuyên can: “Ngày trước, ngoài phục thù trong mắt tiểu thư không có gì khác, nhưng bây giờ, chẳng phải tiểu thư rất coi trọng Phỉ thiếu gia…?”.
Bàn tay Khanh Tửu Tửu sững lại trên không, chầm chậm thu về: “Có phải ngươi cảm thấy tiểu đệ đó của ta rất vô dụng?”. Ống tay áo cô gió lùa căng phồng lên như con bướm khổng lồ giương cánh, “Trong cuộc đời phù phiếm này, mọi người đều đang tranh giành, tranh hư danh, tranh hư lợi, người thắng ít, người thua nhiều, có biết tại sao không?”.
Cô thu tay áo, chậm rãi tự trả lời: “Bởi vì người ta thường khinh địch”.
Lát sau cô ngẩng đầu nhìn bầu trời hoa tuyết bất tận, “Cậu ta không ngăn ta, không phải không ngăn được, chỉ là việc ta muốn làm, cậu ta cũng muốn. Ta vì phục thù, cậu ta muốn là kim thiền thoát xác, để gia tộc thoát khỏi sự khống chế của Trần vương, làm lại cuộc đời. Mấy năm nay tài sản của Công Nghi gia có thể di chuyển được, cậu ta đều lạnh lùng di chuyển hết, những người tài, mưu sĩ Công Nghi gia không thể thiếu cũng bị cậu ta phân tán đến các nước, Công Nghi gia bây giờ chỉ còn cái khung rỗng. Ta không phải không biết, chỉ là…”.
Cô dừng lại, “Ta có thể giả bộ không biết”.
Họa Vị tay nắm chặt gấu áo, mặt kinh ngạc chấn động.
Cô vẫn đứng quay lưng lại, tay bám vào lan can bạch ngọc, thong thả nói: “Trước giờ ta vẫn cho rằng, không có sự phản bội huyết thống nào có thể tha thứ, cũng không có sự phản bội tình yêu nào đáng bận lòng, ngươi thấy A Phỉ thuộc loại nào?”.
Họa Vị thầm thì: “Những cái tốt của Phỉ thiếu gia đối với tiểu thư có vẻ không phải là giả”.
Lát sau cô nhẹ giọng: “Khi chúng tôi gần nhau nhất là trong bụng mẹ, hai bên tựa vào nhau, ta không biết ta là ai, cậu ta không biết cậu ta là ai, sự ra đời của người khác là để đoàn tụ, sự ra đời của chúng tôi là để chia ly”.
Tiếng hô “giết” bên dưới đài vẫn không dứt, cô hơi ngẩng đầu nhìn tuyết rơi bên ngoài, “Tất cả đã là định mệnh”.
Phía xa, dãy núi u ám, dòng đại hà như một con mãng xà khổng lồ màu trắng nằm vắt ngang Bối Trung tuyết ngập trời.
Thời khắc cuối cùng đã đến.
Lúc này tôi mới nhìn rõ, bộ y phục trắng muốt trên người Khanh Tửu Tửu hôm nay long trọng khác thường. Gió lồng lộn quần đảo trên đầu, rít lên như tiếng thú gầm. Khanh Tửu Tửu khép mắt, hai tay đặt trước ngực tạo một thủ ấn phức tạp, môi mấp máy, lời hoán truyền xa xăm vang lên, lan trong không trung.
Từng hồi chuông không biết từ đâu vọng đến, tôi nắm chặt tay Mộ Ngôn, nghĩ tới hung thú Thiên Hà say ngủ bao năm dưới đáy sông bị đánh thức, không biết sẽ là kỳ quan thế nào.
Nhưng kỳ lạ là lời hoán gọi đã niệm sắp hết, hộ thần Thiên Hà trong truyền thuyết lại chưa thấy phá sóng, tung nước vọt lên, Khanh Tửu Tửu mắt mở to, chớp đảo, môi mím chặt, lời hoán truyền cuối cùng đã tan trong gió tuyết.
Tôi sững người, cô và Công Nghi Phỉ là chị em song sinh, theo lý Thiên Hà nhất định nghe lời hoán gọi của cô nhưng lại không thành công, lẽ nào hung thú ngày xưa không phân biệt được song sinh giờ đột nhiên tiến bộ?
Tôi nói ra suy nghĩ đó với Mộ Ngôn, chàng trầm ngâm, lát sau khẽ nói: “Có lẽ Khanh Tửu Tửu không phải là chị của Công Nghi Phỉ”. Tôi à một tiếng, nghi hoặc ngoái đầu, lập tức hiểu ra đây mới là đáp án có khả năng nhất.
Tôi không nghĩ đến điều đó bởi vì trước giờ Công Nghi Huân vẫn đinh ninh như vậy, hơn nữa đã làm mọi việc cực đoan như thế, không phải bởi vì Công Nghi Phỉ là tiểu đệ của cô sao?
Tuyết đã phủ một lớp dày trên Phù Vân đài, Khanh Tửu Tửu sắc mặt trắng bệch, loạng choạng bước đi như đột nhiên không thể gượng được nữa, Họa Vị vội chạy đến đỡ, giọng run run: “Tiểu thư, thử lại lần nữa xem sao, lời hoán truyền dài như vậy, liệu có…”.
Cô ngắt lời: “Không sai, một chữ không sai”. Người đứng không vững nhưng lại đẩy Họa Vị ra, mắt nhìn xuống cuối đài, bỗng giật mình. Theo ánh mắt cô nhìn ra, thấy Công Nghi Phỉ đang đứng trong gió, không biết đã đứng bao lâu, tóc đen, áo trắng phấp phới trong gió lộng.
Hai người nhìn nhau từ hai mé đài cao, giữa họ là màn tuyết rơi. Lát sau, Công Nghi Phỉ từng bước đi đến, dừng hai bước trước mặt cô, giơ tay vuốt má cô, nhìn đôi môi tím ngắt của cô, khóe miệng nhếch ra nụ cười giễu cợt, lạnh lùng cất tiếng: “Nàng cho rằng mình là chị ta, bởi vì phụ thân nàng nói thế, bởi vì khuôn mặt nàng có vài phần giống ta, thiên hạ không hiếm người giống nhau, nhưng hôm nay, Khanh Tửu Tửu, nàng còn dám khẳng định nàng là chị ta không?”.
Cô lùi xa chàng hai bước, vẻ bàng hoàng đã tiêu tan. Xưa nay cô vẫn giỏi che giấu tình cảm, khi ngẩng đầu, đôi mắt đen đã lại trở nên băng lạnh, dường như lại trở về là Khanh gia trưởng nữ trước khi gả về Công Nghi gia, cho dù đi ngang qua chàng cũng không dừng bước.
Cô lạnh lùng nhìn chàng: “Tôi không phải là chị của chàng, chẳng phải chàng nên vui sao? Chàng hãy nói đi, thế nào là yêu, thế nào là hận, ai đã nói tình yêu không phải muốn cho là cho được, muốn lấy lại là lấy được?”.
Chàng từ từ kéo cô lại gần, đôi mắt bùng nộ khí: “Sự đã đến nước này, những điều nàng muốn nói với ta chỉ có thế sao? Nàng không bận lòng chút nào ư?”.
Cô để chàng nắm vạt áo mình, “Tại sao chàng lại giận như vậy?”. Hai tay nắm tay chàng, để trước ngực mình, mắt nhìn thẳng vào mắt chàng: “Bởi vì tôi không phải là chị của chàng, không thể hoán gọi Thiên Hà, chàng cũng muốn hủy diệt gia tộc này, nhưng lại không nhẫn tâm ra tay…”.
Tôi tưởng với câu nói gây tổn thương như vậy, có lẽ Công Nghi Phỉ lập tức đánh cho cô một trận, nhưng kết quả khiến tôi thất vọng, ánh mắt Công Nghi Phỉ vừa tràn nộ khí bỗng trở nên ngơ ngác thất thần, hai tay dưới ánh mắt điều khiển của Khanh Tửu Tửu đã kết thành thủ ấn phức tạp.
Tôi bỗng lặng người, nếu không đoán nhầm, thần sắc này của Công Nghi Phỉ có lẽ là đang bị thôi miên. Trong truyền thuyết, thuật thôi miên này gây tổn hại không nhỏ đối với người thực thi phép thuật, nhưng nếu thành công lại có thể khống chế hành vi và tư tưởng của người khác, khiến người đó làm theo ý mình.
Không ngờ Khanh Tửu Tửu lại biết bí thuật đó, cô làm vậy có phải muốn Công Nghi Phỉ đích thân hoán gọi Thiên Hà? Mới nghĩ đến đó, những lời hoán truyền cổ xưa một lần nữa được hô lên. Giống như một vùng đất hoang phong ấn đã lâu đột nhiên khai động, mọi văn minh đều không tồn tại, mây đen cuồn cuộn phía chân trời, ào ào chuyển động như thoát khỏi sức hút của tinh cầu, khiến toàn bộ vùng Bối Trung chớp mắt tối đen như mực.
Ba vì sao ló ra từ tầng mây đen kịt, rõ ràng là ban ngày trên bầu trời lại chỉ thấy ánh sao. Một tiếng gầm từ xa lan tới, mặt đất rung chuyển, đột nhiên thêm một tiếng gầm từ phía dòng đại hà như phá tầng không ập đến, luồng ánh sáng trắng chói chang nóng như lửa chiếu rực nửa vùng trời. Tôi mở to mắt, chăm chú nhìn dị vật vọt ra từ luồng sáng trắng đó, sừng vàng, vảy bạc, giống ngựa nhưng lại có vảy, giống rồng nhưng lại có bốn chân, chính là… thần thú Thiên Hà.
Tiếng động quá mạnh, không nghe rõ Công Nghi Phỉ ra mệnh lệnh gì, chỉ nhìn thấy bốn vó của Thiên Hà tung lên, nửa bầu trời tức thì bùng lên chùm tia sét như vạn móc câu, luồng ánh sáng phía sau là gió lửa, tuyết bị hơi nóng làm tan thành mưa, bỗng chốc mưa trút xuống.
Đó không phải là điều Công Nghi Phỉ muốn mà là Khanh Tửu Tửu muốn, chàng đang cố vùng vẫy thoát khỏi thôi miên. Tôi không biết tại sao, cô không phải là con gái của Ung Cẩn công chúa, những đòn báo thù đó chẳng có ý nghĩa gì, Công Nghi gia không nợ cô, cô đã biết vậy nhưng vẫn cố tình muốn hủy hoại Công Nghi gia, rốt cuộc là vì sao?
Chùm sáng từ miệng Thiên Hà phun ra, móc vào cơ thể con người giống như mũi tên, khoét ra những lỗ hổng chi chít đầy máu. Tiếng thét thê thảm như tiếng quỷ khóc chốn địa ngục. Một cảnh tàn sát thảm khốc chưa từng có.
Tôi nép vào lòng Mộ Ngôn, chỉ hé mắt tiếp tục quan sát thảm cảnh, một địa ngục trần gian dưới Phù Vân đài, trên đài lại vẫn có tuyết rơi.
Cuối cùng Công Nghi Phỉ vùng vẫy thoát khỏi thuật thôi miên đẩy Khanh Tửu Tửu ra, ánh mắt lướt qua những thi thể dưới Phù Vân đài rồi quay lại nhìn Khanh Tửu Tửu, “Tôi tức giận vì cô không hoán gọi được Thiên Hà ư? Tôi không nhẫn tâm tự ra tay ư? Cô rất biết tìm cho mình cái cớ!”.
Chàng đứng dậy, từ trên cao nhìn xuống: “Dù cô không giết họ, những người đó hôm nay cũng khó thoát khỏi cái chết, nhưng cô, một ngoại nhân, có tư cách gì giết người của Công Nghi gia? Tôi cứ nghĩ cô bản tính lạnh lùng, thì ra tôi đã đánh giá thấp cô, báo thù gì? Cô chỉ là một kẻ ác tâm, một kẻ thú tính”.
Họa Vị rơi nước mắt đỡ Khanh Tửu Tửu đang gục trên đất, hiểu tính chủ nhân, vừa đỡ đứng lên là vội buông tay, nhưng đã bị cô níu lại. Bí thuật thôi miên chỉ dùng một lần tinh lực tổn thương tám phần, xem ra cô không còn sức đứng lên nữa.
Tay bám lấy Họa Vị, cô ho mấy tiếng, lấy ống tay áo che miệng, rồi lại chắp tay sau lưng, sắc mặt vẫn trắng bệch, khẽ nói: “Tôi có lỗi với chàng, sau khi chuyện kết thúc, hãy cho tôi một khế ước chia tay”.
Chàng cười khẩy một tiếng, mắt lóe hận như muốn bóp chết cô: “Cô tưởng làm thế coi như bù đắp cho tôi sao? Ngoài chạy trốn, cô còn biết làm gì?”.
Cô chưa trả lời, tôi nghĩ không phải cô không muốn trả lời mà là không có sức lực, phía xa đột nhiên lại bùng nổ một tiếng động phá trời, ngẩng nhìn, thấy một tia sáng hình mũi tên từ miệng Thiên Hà phun ra không hiểu sao lại bay về phía Phù Vân đài.
Tôi lập tức đoán ra, nhưng cảm thấy mũi tên hình như hơi lệch hướng, tôi kêu lên một tiếng, biến cố xảy ra trước mắt khiến người ta tức thở. Tất cả chỉ trong chớp mắt, thấy Công Nghi San tay ôm đứa trẻ đột nhiên từ bậc đá trên cùng bước lên Phù Vân đài, mũi tên ánh sáng đang nhằm cô lao tới.
Mọi người còn chưa kịp phản ứng, thân hình dong dỏng của Công Nghi Phỉ đã lao đến chắn trước Công Nghi San. Nhưng sau khi tia sáng lóe lên, mũi tên đó cuối cùng lại xuyên qua ngực Khanh Tửu Tửu.
Nguyên nhân không có gì khác, trong chớp mắt Công Nghi Phỉ lao ra cứu Công Nghi San, là cô đã kịp thời lao đến chắn trước chàng. Công Nghi San kêu thét một tiếng ngất đi, đứa bé trong lòng không hiểu sao không khóc. Công Nghi Phỉ dường như vô thức đỡ lấy Khanh Tửu Tửu, chùm tia sáng hình mũi tên từ trên không bay vút tới, hung khí tuyệt đẹp đó giống như một chùm pháo hoa, nhưng khi tới gần chàng lại tan thành những điểm sáng lóng lánh. Chàng nắm chặt tay cô, đôi môi tái nhợt vừa rồi còn lạnh lùng thốt ra những lời độc địa như lưỡi dao đâm vào tim cô cho hả hận, lúc này lại run run không thốt lên lời.
Họa Vị cũng bị thương, gắng gượng bò đến nhưng không thể chạm tới gấu váy chủ nhân.
Chàng ôm riết Khanh Tửu Tửu vào lòng với một vẻ chiếm hữu, xiêm y trắng muốt trên người cô đã nhuộm máu đỏ. Màu trắng chỉ còn điểm xuyết, giống như mấy đóa mai trắng nở trên mảnh đất đỏ, đẹp vô cùng, cũng lạnh vô cùng.
Cô thở dốc từng hơi trong lòng chàng, sau mấy tiếng ho, máu từ miệng phun ra, nhưng vẫn cố nói: “Bất chấp tính mạng của mình cứu cô ta, chàng thực sự thích cô ta!”.
Giọng chàng khàn đặc, hơi run, liên tục dùng tay áo lau vết máu bên miệng cô: “Đừng nói bừa, ta đưa nàng đi tìm đại phu”.
Nhưng máu vẫn không ngừng tuôn, ướt đẫm vạt áo cô. Cô vẫn gắng gượng muốn nói, lời vẫn rõ ràng mạch lạc, giống như vết thương chí mạng kia chỉ là vết thương giả.
Có lẽ đây là lần duy nhất yếu đuối trong đời cô. Nhưng thần trí cô đã bắt đầu mê man, nếu không cô đã không hỏi chàng câu này: “Tại sao chàng không thích em nữa, chàng có biết những lời của chàng làm em buồn biết mấy”.
Lúc này đôi đồng tử của cô đã giãn ra, không còn in được hình bầu trời bao la tuyết, không in được hình khuôn mặt trắng bệch và ánh mắt đau đớn điên dại của chàng, nhưng cô lại cất tiếng: “Chàng nói em là kẻ ác tâm, nhưng trong định mệnh phải có một trận tàn sát, em đến ra tay không phải càng tốt sao, chỉ cần một người xấu là đủ”.
Một giọt nước từ khóe mắt cô lăn xuống, “Em không biết thì ra em xấu xa như vậy. Nhưng, cũng không sao, chưa bao giờ em nghĩ, em có thể sống qua ngày hôm nay”. Giọng nhỏ nhẹ, trầm tĩnh, nhưng lại như mũi dao nhọn, từng lời, từng câu chích vào lòng người.
Tay chàng run run vuốt ve má cô, khi nhích lên chạm vào vệt nước ở đuôi mắt cô lại càng run lẩy bẩy như bị lửa đốt nhưng vẫn không rụt tay về.
Chàng ôm tấm thân đẫm máu của cô, áp mặt vào trán cô: “Nàng không có gì xấu hết, những lời ta nói lúc trước chỉ là do quá giận mà thôi. Nàng đến Công Nghi gia tất cả đều rất tốt, duy nhất không tốt chỉ là không chịu sinh cho ta một đứa con”.
Mắt chàng như cười, tay nắm tay cô, “Nhưng không sao, ta cũng không bận lòng”.
Cô tựa vào chàng ho mãi, hàng mi đọng nước mắt, lại bật cười: “Cuộc đời em thật nực cười, bị cha mẹ bỏ rơi, bị cha nuôi lừa gạt, lại đi lừa người, cuối cùng bản thân… trận tuyết rơi này rất tốt, mọi hoen ố đều bị vùi lấp, tất cả đều kết thúc trong ngày hôm nay…”.
Cô nhìn chàng, mắt thoáng có ánh sáng lướt qua, giọng thoảng như tiếng gió: “Sự đã đến nước này, chàng vẫn an ủi em như vậy, em rất vui”. Run run giơ tay, như muốn vuốt nếp nhăn trên trán chàng, cuối cùng không đủ sức tay thõng xuống, lời thốt ra tan trong gió tuyết: “A Phỉ, chàng hãy sống thật vui”.
Tuyết vẫn rơi không ngớt, tuyết đọng trên Phù Vân đài tan chảy dưới sức nóng của chùm mũi tên ánh sáng, lộ ra những phiến đá ngọc thạch lóng lánh, trong sắc màu long lanh của máu đỏ pha lẫn tuyết trắng ánh lên hai bóng người áp sát vào nhau.
Chàng muốn bế cô lên nhưng lại ngã khụy, nước mắt lã chã rơi trên mặt cô, nhưng cô đã không còn cảm thấy được nữa. Chàng cố giữ giọng bình tĩnh để cô nghe thật rõ: “Ta không dối nàng, người ta thích vẫn luôn là nàng, ta cứu Công Nghi San bởi vì mũi tên của Thiên Hà không giết được chủ nhân của nó, nàng không phải chị ta, ta rất vui, những lời khiến nàng buồn chỉ là nói dối”.
Nhưng cô đã không thể đáp lời. Môi chàng áp sát môi cô, giọng nhẹ nhàng như thể cô vẫn đang còn sống, chàng lay gọi cô, nói với cô nỗi tủi trong lòng: “Rốt cuộc nàng nhìn nhận ta thế nào? Tiểu đệ của nàng hay một người đàn ông?”. Nhưng cô đã không thể trả lời.
Mây đen tan dần, Thiên Hà đã ngủ dưới lòng sông.
Khanh Tửu Tửu đã chết như vậy, đó chính là ký ức cuối cùng được phong ấn của Công Nghi Huân, cảnh cuối cùng chúng tôi nhìn thấy trước khi tất cả chìm trong đêm tối là dưới bầu trời tuyết vô tận của Bối Trung, Công Nghi Phỉ ôm Khanh Tửu Tửu loạng choạng lê bước trong tuyết, như thể thế gian chỉ còn lại hai người.
Thoát ra khỏi ký ức của Công Nghi Huân, cô vẫn đang ngủ. Bên cạnh chiếc giường mây, ngọn nến an thần đã cháy được một nửa, mặc dù không ngửi thấy hương nến, nhưng nhìn sắc diện Công Nghi Huân là biết hương nến tác dụng rất tốt.
Tôi rất đắn đo có nên nói với cô kết cục đó. Thực ra mục đích của cô ngay từ đầu không phải là để người khác giải đáp bí ẩn cho cô, cô nói muốn biết mình chết thế nào chẳng qua là do trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, cuối cùng cô trở nên hoài nghi đối với sự tồn tại của mình mà thôi.
Cô vốn cho là mình nhập hồn trở lại là để báo đáp, nhờ tôi xem giúp ký ức cũ cũng chỉ là muốn xác nhận, nếu mọi ân oán tình thù đều đã kết thúc ở cuộc đời trước, vậy thì sự tồn tại hôm nay của cô là vô nghĩa, cô hy vọng tôi nói với cô, suốt cuộc đời cũ từ đầu đến cuối cô đều có lỗi với Công Nghi Phỉ, cô nợ chàng ta rất nhiều.
Tôi biết điều đó là do khi đi vào ký ức của cô, có một thời khắc nào đó thần trí của chúng tôi tương thông, tôi đọc được điều đó.
Nhưng sự thực không phải thế, những gì cô phụ lòng Công Nghi Phỉ, Khanh Tửu Tửu cuối cùng đã lấy cái chết để trả. Cô lưu luyến nhân gian cũng không phải là do cô nợ chàng.
Cũng may sau năm năm, cô đã trở lại, nhưng rất khó lý giải tại sao sau khi cô trở lại, thái độ của Công Nghi Phỉ lại như thế, chẳng phải đến lúc cô chết chàng vẫn yêu cô sâu nặng hay sao? Lẽ nào một tình yêu dù sâu nặng đến mấy cũng không chống lại được sự tàn phá của thời gian?
Trầm ngâm hồi lâu, tôi để lại cho Công Nghi Huân mảnh giấy, nói với cô thảm cảnh Công Nghi gia bị cô hủy hoại bảy năm trước, còn cô bị chết bởi mũi tên của hung thú Thiên Hà trong cơn gia biến đó.
Rất nhiều vấn đề còn khúc mắc, cho nên nếu lúc này tôi đường đột giải thích với cô sẽ chỉ khiến cô tự hủy hoại bản thân, là một hồn ma tái sinh để trả ơn, cô không cần quá tỉnh táo, nhưng cũng không thể quá hồ đồ, cho dù vốn không nên sống chỉ để trả nợ, trước tiên tạm thời cho là thế cũng được, ít nhất cũng để tôi có thời gian làm rõ chuyện này.
Tôi vừa suy nghĩ vấn đề nghiêm túc đó vừa ra khỏi tiểu viện, định trở về vẽ sơ đồ các liên hệ bên trong sự việc để tiện phân tích, hoàn toàn quên bên cạnh còn có Mộ Ngôn, vừa không chú ý là đã va vào người chàng, tôi xoa trán, chàng xoa tay cúi nhìn tôi: “Chẳng phải em nói khi Công Nghi Huân tỉnh lại chúng ta mới có thể thoát ra sao?”.
Tôi sững người, bỗng nhớ ra nửa canh giờ trước đã lừa chàng thế nào, trước sự thực rành rành, mọi biện bạch đều vô ích, lúc này ngoài dĩ bất biến ứng vạn biến không còn cách nào khác.
Tôi trấn tĩnh nói: “Chàng nghe nhầm”.
Chàng nhướn mày: “Sao?”.
Tôi gật đầu: “Đúng, chàng nghe nhầm”.
Chàng bật cười: “Lại còn biết chối nữa, rất tốt”.
Tôi ưỡn ngực, hiên ngang: “Chàng nói em chối cãi, có chứng cớ gì không”.
Chàng rút trong tay áo một con búp bê bằng ngọc tạc rất đẹp, thoạt nhìn hơi giống tôi, nói nhẹ như gió: “Tối qua được miếng ngọc rất đẹp, tạc cái này vốn định tặng em”.
Tôi không ưỡn ngực nữa, níu cánh tay chàng “Từ nay em không bao giờ cãi chàng nữa, đúng là em không tốt, em quá xấu”. Nhận sai xong giơ tay cướp con búp bê.
Chàng giơ cao tay, cười cười: “Cầu xin đi”.
Tôi nói ngay: “Cầu xin chàng!”. Thấy chàng không có phản ứng, túm ống tay áo chàng: “Cầu xin, cầu xin chàng!”.
Chàng ngẩn ra, vừa đỡ lấy người tôi kiễng lên túm áo chàng, đặt tôi đứng xuống, vừa để con búp bê vào lòng bàn tay xòe ra của tôi: “… Em có nên không kiên định như vậy?”.
Tôi chăm chú ngắm nghía con búp bê bằng ngọc, phát hiện quả nhiên hơi giống mình, lòng rất vui, sực nhớ lời chàng vừa nói, ngẫm nghĩ: “Thế thì phải kiên định một chút vậy, tối nay chàng không nên ngủ trên giường nữa, ngủ dưới đất đi”.
Mộ Ngôn: “…”.
Tôi cảm thấy tôi nên làm nghề bán mộng, cái nghề này nghe vừa thần bí vừa cao sang, nhưng những việc làm gần đây chẳng việc nào liên quan đến bán mộng, những việc đã làm chỉ loanh quanh ngoài rìa câu chuyện mà thôi.
Mấy ngày trước tình cờ gặp Quân Vỹ, từ ngày xưa Quân Vỹ luôn cho rằng nhất định có ngày tôi sẽ trở thành Bách Hiểu Sinh(5), cái gì cũng biết, mở một phòng thám tử tư, chuyên điều tra phá án, cho rằng vừa hoạt động đã có thể nổi tiếng khắp Cửu Châu.
Tôi nghĩ tương lai thế nào quả thực khó đoán, quan trọng là hiện tại, tôi phải làm thế nào để biết Công Nghi Phỉ rốt cuộc đang nghĩ gì? Để Quân Vỹ đi quyến rũ có vẻ không ổn, Công Nghi Phỉ hình như không có hứng thú về khoản đó… không, hay là để anh ta đi quyến rũ phu nhân Công Nghi Phỉ?
Tôi trằn trọc trên giường, suy nghĩ nên nói thế nào để Quân Vỹ đồng ý làm việc này, một tia sáng lóe ra trong đầu, đột nhiên nghĩ ra một câu thuyết phục rất thần kỳ, vội vàng xuống giường ghi ra giấy.
Mộ Ngôn đang ngồi tựa đầu giường đọc sách, tóc để xõa, mình vận áo ngủ bằng tơ, một chân hơi co chắn ở mép giường. Tôi nhón chân nhón tay đang định bò qua chân chàng, bị chàng kéo lại, ngẩng đầu khỏi trang sách, “Đứng ngồi không yên như vậy hình như đã khỏe hẳn rồi?”.
Tôi đỏ mặt, giả bộ đau khổ ho hai tiếng, giọng yếu ớt: “Chưa, chưa đâu…”. Nhưng vẫn muốn xuống giường, quả thực tôi nhớ rất kém, lúc này không ghi lại, sáng mai ngủ dậy có khi lại quên. Nhân lúc chàng không để ý lại lén nhích dần về phía cuối giường.
Chàng làm như không nhìn thấy động tĩnh của tôi, tay vẫn giở sách, đột nhiên hỏi: “Chuyện của Công Nghi Huân em nhất định phải quan tâm?”.
Tôi ngớ người: “Sao chàng biết em quan tâm?”.
Chàng bật cười nhìn tôi: “Em có gì mà tôi không biết?”.
Tôi bĩu môi: “Chuyện hồi nhỏ của em chàng không biết”.
Chàng gập sách, co chân lên, tay chống cằm: “Vậy em kể ta nghe”.
Nếu bình thường tôi đã phấn khởi chuyển hướng câu chuyện, nhưng lần này thì khác.
Tôi nhìn thấy Công Nghi Huân giống như nhìn thấy bản thân mình, không thể tưởng tượng, nếu trong ngực không có viên giao châu, cho dù tôi có thể phục sinh cũng chỉ có thể là hồn ma nhập vào thân xác, không biết gì về cuộc đời trước của mình, không nhớ được Mộ Ngôn cũng như cô ấy không nhớ được Công Nghi Phỉ.
Tôi gục đầu vào gối Mộ Ngôn, khẽ nói: “Em muốn giúp Công Nghi Huân. Có lẽ em là người duy nhất trên đời có thể giúp được cô ấy, chàng nghĩ xem, nếu ngay em cũng không chịu giúp cô ấy, nếu có ngày em cần ai đó giúp nhưng người duy nhất có thể làm được lại không bằng lòng giúp thì biết làm sao?”.
Nến cháy to, bóng lửa chập chờn hắt lên bức bình phong, yên lặng rất lâu, tôi cảm thấy có lẽ không thuyết phục được chàng, giọng chàng từ trên đầu vọng xuống: “Để em vất vả ngược xuôi như vậy chi bằng tôi nói cho em biết”.
Tôi kinh ngạc ngẩng đầu, nhìn thấy chàng nghiêng người thổi nến ở đầu giường, trước giường chỉ còn ánh trăng, chàng quay người kéo tôi vào chăn, đắp cẩn thận, chuẩn bị cho giấc ngủ xong xuôi, mới chậm rãi nói: “Chuyện Công Nghi Huân được nhập hồn hai năm trước do Trần thế tử Tô Dự giúp, có lẽ em đã biết”.
Đầu tôi gối lên cánh tay chàng gật gật tỏ ý biết.
Chàng hỏi: “Theo em tại sao Trần thế tử Tô Dự lại giúp cô ấy?”.
Tôi đáp: “Nghe nói Ung Cẩn công chúa, thân mẫu của Công Nghi Phỉ là tiểu muội của Trần vương, vợ chồng Công Nghi Phỉ tính ra là biểu huynh, biểu tỷ của Tô Dự”, lại tiếp, “… nhưng điều đó cũng chưa đủ, vương gia không giống thường gia, đâu có sự giúp đỡ thân thích đơn giản như vậy”.
Chàng tỏ ra tán đồng: “Em nói đúng, vương gia không có sự giúp đỡ thân thích đơn giản như vậy. Tô Dự chịu giúp Công Nghi Huân là bởi vì mấy ngày trước khi Công Nghi gia xảy ra sự biến, nhận được thư của cô ấy, trong thư gửi kèm bí thuật đúc kiếm gia truyền của Công Nghi gia, cô ấy trả công bằng cái đó, muốn Tô Dự nghĩ cách để cô ấy tái sinh. Muốn sống một cuộc đời nữa để báo đáp Công Nghi Phỉ. Giá trị của bí thuật đúc kiếm bằng mấy tòa thành, Tô Dự đồng ý vụ trao đổi này, lấy tài sản trị giá bằng một tòa thành mời thuật sĩ cao tay bỏ thời gian năm năm khiến cô ấy tái sinh, đưa trở về bên Công Nghi Phỉ”.
Đám sương mù lẩn quất trước mắt cơ hồ cuối cùng hé ra một tia sáng, nhưng nghĩ lại cảm thấy không ổn, tôi ranh mãnh liếc chàng: “Đây là chuyện cơ mật, sao chàng biết rõ thế?”.
Chàng cười: “Chuyện này đương nhiên do tôi làm”.
Thấy tôi không có ý bắt bẻ, lại tiếp: “Tái sinh là chuyện không dễ, ngay thuật sĩ cũng không dám chắc, cho nên chuyện này phải giấu Công Nghi Phỉ. Vốn tưởng lúc đó chỉ cần đưa người đến trước mặt anh ta, sẽ là một niềm vui bất ngờ to lớn đối với anh ta, không ngờ năm năm sau, Công Nghi Phỉ đã không nhận ra cô ấy”.
Tôi kinh ngạc: “Sao có thể, mới năm năm, hình dạng cô ấy cũng không thay đổi nhiều”.
Chàng dường như rơi vào trầm tư nào đó, rất lâu mới sực tỉnh, khẽ nói: “Anh ta đã uống thiên nhật vong”.
Tôi không hiểu: “Thiên nhật vong?”.
Chàng giải thích: “Đó là một loại kỳ dược, uống vào sẽ quên nhiều chuyện. Công Nghi Phỉ uống kỳ dược đó, đã quên Khanh Tửu Tửu”.
Tôi há mồm kinh ngạc, Mộ Ngôn trở mình nằm nghiêng, tôi gối đầu lên cánh tay chàng, lập tức biến thành tư thế nằm gọn trong lòng chàng. Tôi nhích ra, lùi về sau, bị chàng kéo lại, cười: “Định trốn hả?”.
Nhưng chàng không tiếp tục đùa tôi như mọi khi, chỉ điều chỉnh tư thế, giọng như kể chuyện: “Đó thực ra cũng là lời đồn, nghe nói hai trăm năm trước Tô gia từng có ơn đối với Công Nghi gia, để trả ơn, Công Nghi gia đã có thệ ước thề đời đời phụng sự Tô gia. Về sau thiên tử phong chư hầu, họ Tô được phong làm Trần vương đất Trần, Trần vương cần một số văn thần võ tướng làm mưu sĩ, cần đội quân bí mật rải khắp nơi, Công Nghi gia chính là đội quân bí mật đó”.
Chàng ngừng lại, “Công Nghi gia ở Bối Trung là một đội quân ngầm tuyệt mật của Trần vương, dùng vào những vụ ám sát tuyệt mật nguy hiểm nhất. Người của gia tộc này đi ám sát người, cũng bị người ám sát, trưởng tộc các đời không có ai sống quá bốn mươi tuổi, đến đời Công Nghi Phỉ có lẽ anh ta muốn gia tộc thoát khỏi số mệnh đó, mới xảy ra những chuyện em đã nhìn thấy trong ký ức của Công Nghi Huân”.
Tôi trầm ngâm một lát, buồn bã nói: “Nhưng cái giá phải trả quá lớn”.
Chàng hơi cúi đầu, hơi thở thoảng qua tai tôi, người tôi lại nóng bừng, giọng chàng vẫn bình thường: “Cái giá đó thực ra không lớn, chỉ là nhìn nhận ở những góc độ khác nhau. Công Nghi Phỉ có lẽ không ngờ Khanh Tửu Tửu sẽ chết, chung quy là do hai người không thật hiểu nhau. Những gia sản của Công Nghi gia đã được di chuyển nếu không dựa vào Công Nghi Phỉ thì không thể duy trì, nhưng có lẽ cái chết của Khanh Tửu Tửu đã khiến anh ta suy sụp hoàn toàn. Nghe nói sau hôm đó, Công Nghi Phỉ đóng cửa không tiếp khách, suốt ngày mượn rượu giải sầu, sự vụ trong tộc không cai quản, Công Nghi San cực chẳng đã mới tìm mọi cách mời thánh dược Bách Lý Việt luyện thiên nhật vong, ép anh ta quên Khanh Tửu Tửu.
Tôi cảm thấy kỳ lạ, dứt khoát trườn ra khỏi chăn, chỉ trích chàng: “Nhưng rõ ràng các người đã thu ký ức của Khanh Tửu Tửu, tại sao lại đem phong nó lại? Về sau khi cô ấy đã trở về bên Công Nghi Phỉ, các người cũng không để cho Công Nghi Phỉ nhớ lại chuyện cũ!”.
Chàng giơ tay tóm lấy tôi, kéo xuống: “Còn động đậy lung tung, bắt dậy chép tam tự kinh bây giờ”.
Thấy tôi bị dọa, ngoan ngoãn không động đậy nữa, mới khẽ nói: “Giúp Khanh Tửu Tửu lấy ra ký ức đó là do Tô Dự không biết họ là chị em, về sau được biết họ song sinh, cảm thấy ký ức đó quá đau khổ, mới đem phong ấn vào hai viên ngọc châu để vào mắt Khanh Tửu Tửu, lúc đó đã mang cái tên mới là Công Nghi Huân. Công Nghi Phỉ uống thiên nhật vong nên đã quên hết, tưởng rằng Khanh Tửu Tửu sau khi được nhập hồn chính là Công Nghi Huân, cốt nhục lưu lạc bên ngoài của Công Nghi gia, một lòng coi cô ấy là đại tỷ của mình, cô ấy cũng tưởng anh ta là tiểu đệ, quan hệ ruột thịt thuần túy đó thực ra chẳng phải cũng tốt sao?”. Không đợi tôi trả lời, chàng than thở: “Ít nhất lúc đó xem ra cũng ổn, nhưng không ngờ hai người họ thật ra không phải chị em”.
Tôi nghĩ một lát, cảm thấy chàng nói có lý, nhất thời không nói gì.
Bức rèm trước giường được vén lên, ánh trăng vàng lặng lẽ chiếu qua, dịu dàng trải lên tấm chăn gấm uyên ương. Mộ Ngôn cúi đầu nhìn tôi: “Sự việc Công Nghi Phỉ coi như xong, sao em lại ngoẹo đầu ngoẹo cổ như không muốn nhìn ta… là thế nào?”.
Tôi hơi dịch ra ngoài, giọng đắn đo: “Chàng đừng nói bên tai em, em… em sẽ căng thẳng”. Nói xong len lén hé mắt nhìn chàng.
Chàng ngây người mỉm cười, nhấc tay khỏi trán tôi, tôi đang lấy làm buồn đã bị chàng ấn vào chăn.
Muốn cựa quậy nhích ra cũng khó, lòng băn khoăn tự hỏi, lẽ nào đêm nay phải hoàn tất việc động phòng? Lại nghe thấy giọng chàng như cười: “Thì ra đúng là căng thẳng thật”.
Tôi giận dỗi, rõ ràng đang giỡn người ta, định đẩy chàng ra, tay chàng đã lại mân mê vết sẹo trên trán tôi, dịu giọng: “Ngày mai ta phải khởi hành đi nước Triệu nhưng không thể đưa em đi cùng”.
Bàn tay giơ ra định đẩy cuối cùng chống vào ngực chàng, ánh trăng rất sáng, thậm chí có thể nhìn rõ bóng mình in trong mắt chàng. Lại là chia ly. Mặc dù nghe nói tiểu biệt thắng tân hôn, nhưng đang tân hôn đã phải tiểu biệt, thực quá tàn nhẫn.
Trong khoảng không êm ả giữa những bức rèm ngăn, những bông tuyết phù dung nở trên đỉnh màn, người nằm bên tôi có khuôn mặt tuyệt đẹp và nụ cười dịu dàng ẩn dưới hàng mi là nỗi lưu luyến không thể từ bỏ của tôi ở nhân gian.
Tôi nói khẽ: “Tân phòng của chúng ta sau này nhất định phải có một cái giường thật lớn, phải có rất nhiều rất nhiều rèm che, giống như một nơi ngăn cách với trần thế không ai biết, chỉ có hai chúng ta”. Chàng gật đầu, môi dán lên môi tôi, tôi nhắm mắt, ôm chặt cổ chàng,
Lúc ra đi, Mộ Ngôn để Chấp Túc lại cho tôi, nghe nói là tối qua cô mới đến Cô Trúc sơn, lại còn thêm mấy hộ vệ thân thủ cao cường, bên cạnh mình tự dưng có thêm bao nhiêu người như vậy, cảm thấy quá phức tạp, phiền hà, ở Công Nghi gia còn được, rời khỏi Công Nghi gia, làm thế nào giải quyết ngày ba bữa ăn cho đám người này?
Tôi suy nghĩ mãi, đành để họ tự giải quyết, tôi có thể giả bộ không biết có hộ vệ đi theo.
Mộ Ngôn nói không muốn tôi tiếp tục nhúng tay vào chuyện của Công Nghi Phỉ, lại cho đông người như thế bảo vệ tôi, xem ra chàng không tin tôi sẽ ngoan ngoãn ngồi đợi chàng ở Cô Trúc sơn.
Tôi cũng không định tiếp tục lưu lại đây. Chàng nói chuyện của Công Nghi Phỉ coi như xong, tôi không cho rằng mọi chuyện nên kết thúc ở đây, tối hôm qua trước lúc ngủ tôi đã quyết định, đợi chàng đi khỏi tôi sẽ kéo Bách Lý Tấn rời Công Nghi gia, đi tìm ông ngoại Bách Lý Việt của anh ta xin thuốc giải thiên nhật vong.
Thực ra là tôi hay quan tâm những chuyện không đâu, rõ ràng làm trái triết lý xử thế trong thời loạn sư phụ đã dạy, không phải do có lòng tốt, chỉ là khi hạ quyết tâm đột nhiên nghĩ tới Công Nghi Huân.
Cô nói: “Con người không nên sống vì quá khứ, mà nên sống vì có người cần mình, nếu trong cuộc đời trước có ai đó thực sự cần tôi, thế cũng tốt rồi”.
Không biết khi Khanh Tửu Tửu viết bức thư nhờ Tô Dự giúp cô tái sinh, tâm trạng thế nào, thời gian như bóng câu qua cửa, chớp mắt đã bảy năm, khó khăn bền bỉ mãi mới nhập hồn trở lại trở thành Công Nghi Huân, cô vẫn đang đi tìm ý nghĩa sự tồn tại của mình ở trên đời, nếu không có ai cần cô, cô sẽ không do dự tự hủy bản thân.
Ngày thứ hai sau khi Mộ Ngôn ra đi, tôi chuẩn bị ít hành lý từ biệt Công Nghi Phỉ, cố nhiên mang theo Tiểu Hoàng, Quân Vỹ và Bách Lý Tấn.
Công Nghi Phỉ cũng không níu giữ nhiều, tôi nhìn chàng ta mấy lần, định nói lại thôi, cuối cùng vẫn không mở miệng. Những chuyện đó cho dù nói ra, bây giờ chàng ta cũng không tin, cũng không cần thiết nói với Công Nghi Huân, đợi khi lấy được thuốc giải thiên nhật vong tất cả sẽ tốt đẹp. Lúc đó tôi đã lạc quan nghĩ như vậy.
Phóng ngựa một mạch, bảy ngày sau đã đến thành Tùy Viễn, tìm đến một sơn cốc, chính là nơi ẩn cư của Bách Lý Việt, nơi ẩn cư của cao nhân thần bí chắc chắn phải qua lớp lớp thành lũy tường cao hào sâu, đứng thẳng mà vào, nằm ngang mà ra, tôi đang tưởng tượng Tiểu Hoàng vốn bò ngang vào liệu có thể đứng thẳng đi ra, nhưng chẳng gặp gì hết, nhất lộ hanh thông không trở ngại gì, rất bình an suôn sẻ đứng trước mặt Bách Lý Việt.
Quá trình xin thuốc giải cũng vô cùng thuận lợi, hoàn toàn không gặp phải những yêu cầu mà một cao nhân nhất định nêu ra, ví dụ, “Muốn tôi cứu một người thì phải giết một người”. Hoặc là “Muốn tôi cho thuốc giải phải để lại đây một người phục vụ tôi mười sáu năm” vân vân…
Xem ra thế đạo này vẫn chưa đến nỗi khiến người ta tuyệt vọng, về sau Quân Vỹ nói đây hoàn toàn là do tôi có cao kiến kéo Bách Lý Tấn cùng đi, đột nhiên lại thấy thế đạo này quả nhiên vẫn khiến người ta tuyệt vọng.
Có được thuốc giải, cơ hồ đi suốt ngày đêm về Bối Trung, không kịp tắm rửa lập tức đi tìm Công Nghi Phỉ.
Gia nhân đưa tôi đến một ngôi đình hóng mát, dưới trời nắng oi, màn mưa như bức rèm chảy theo mái hiên xuống, thì ra nơi này cũng có Tự Vũ đình. Vén rèm mưa bước vào, Công Nghi Phỉ đang một mình uống rượu vẽ tranh, ngẩng đầu nhìn tôi một cái, không chào hỏi gì.
Tôi cảm thấy có gì không ổn, nhưng không kìm được niềm vui cuối cùng đã lấy được thuốc giải mang về, vội vàng lấy chiếc bình sứ nhỏ đựng thuốc giải để lên mặt bàn đá, “Mang về cho huynh một thứ rất tuyệt”.
Chàng ta vẫn cắm cúi vẽ, tôi đẩy cái bình đến trước mặt: “Chẳng phải huynh vẫn luôn muốn biết Công Nghi Huân nhìn nhận huynh thế nào ư? Uống cái này, tự huynh đi hỏi cô ấy”.
Mãi chàng mới ngẩng đầu: “Cô đến tìm Huân tỷ?”. Khuôn mặt vốn luôn tươi cười đó lúc này không chút cảm xúc, “Tỷ ấy chết rồi”.
Tôi há miệng, cảm thấy như nằm mơ: “Sao?”.
Chàng ta dừng bút, nhưng không nhìn tôi: “Tỷ ấy chết rồi, chín ngày trước”.
Tôi cắn môi, “Sao có thể?”.
Chàng khẽ nhắc lại: “Sao có thể?”. Đột nhiên bật cười, “Tôi được lệnh đi giết thừa tướng Khương quốc Bùi Ý, nhiệm vụ rất nguy hiểm, nhất định phải thành công, Công Nghi gia ngoài tôi không ai làm được, tỷ ấy lo cho tôi, đi thay tôi, chuyện là thế”.
Chàng cúi đầu nhìn bức họa trước mắt: “Tỷ tỷ làm rất tốt, tự hủy dung mạo, quyết hành thích bằng được Bùi Ý, không để lại manh mối nào, họ đem thi thể treo trên cổng thành, mưa tuôn nắng xối, ba ngày sau đem thiêu rắc tro tế trước mộ Bùi Ý, tôi không thể làm gì được, vì Trần quốc thậm chí không thể bảo toàn di thể tỷ tỷ, cũng không thể tổ chức một tang lễ cho tỷ tỷ”.
Chân tôi như nhũn ra, bám lấy bàn đá, rất lâu mới mở miệng: “Huynh đang… hối hận? Cô ấy chết rồi, chết thảm như vậy, huynh lại chỉ có hối hận thôi ư?”.
Thần sắc chàng ta băng lạnh: “Nếu tôi biết tỷ ấy đi làm việc đó, tôi sẽ ngăn cản”.
Tôi lắc đầu: “Đương nhiên huynh không biết, lâu quá rồi huynh không quan tâm đến cô ấy”.
Vốn tưởng câu nói sẽ khiến Công Nghi Phỉ nổi giận, nhưng chàng ta lại như không nghe thấy, ánh mặt trời xuyên qua màn mưa trước đình, chiếu lên khuôn mặt trắng bệch của chàng ta, một hồi lâu, giọng chàng ta nhỏ nhẹ: “Cô nói đúng, tôi không quan tâm tỷ tỷ từ lâu rồi. Ngày cuối cùng đó, tỷ tỷ đến tìm tôi, nói là tôi đã từng nhớ giúp tỷ ấy một điệu vũ, có phải tôi đã quên. Có những lúc tỷ tỷ hơi khác thường, nhưng chưa bao giờ như hôm đó, tôi nên nhận ra mới phải, nhưng tôi lại trách mắng tỷ tỷ, lúc ra đi tỷ tỷ rất đau lòng. Tôi không biết tỷ tỷ nói gì, vũ điệu tỷ tỷ múa vào ngày lễ hội săn thú sao tôi không nhớ, mỗi biểu cảm động tác của tỷ tỷ tôi đều nhớ. Vừa nhìn thấy, tôi đã biết tỷ tỷ là một mỹ nhân”.
Chàng ta hơi ngẩng đầu, mắt lại trống rỗng, “Có lúc, tôi rất hận tỷ ấy là tỷ tỷ của tôi”.
Tôi kinh ngạc, những lời nói của Công Nghi Huân mà Công Nghi Phỉ vừa nhắc tới chứng tỏ cô đã nhớ ra chuyện cũ, tôi không xác định lần cuối cùng khi sử dụng ảo chi đồng, liệu có bất cẩn mở ra phong ấn của cô.
Nhưng cô đã chết.
Tôi nhìn chàng ta: “Cho dù huynh đối tốt với cô ấy, huynh cũng nhất định không biết lòng cô ấy nghĩ gì, cô ấy nói với tôi, huynh rất ghét cô ấy, coi cô ấy là vật thừa, nhiều việc huynh không chấp với cô ấy là bởi cho rằng đầu óc cô ấy có vấn đề, bị huynh nói như vậy, cô ấy bắt đầu cảm thấy bản thân có vấn đề thật. Cô ấy cũng không biết sống để làm gì, cô ấy đã mệt mỏi rồi”.
Chàng ta ngây người nhìn tôi, sắc máu trên môi biến mất dần: “Tỷ tỷ đã nói như vậy ư?”.
Tôi đẩy bình sứ lại gần chàng ta, thong thả nói: “Ngày trước tôi gặp một cô gái bị chồng phụ bạc, tôi rất bất bình cho cô ấy, rất ghét người chồng đó”.
Nghĩ tới tất cả những chuyện đó, bỗng dưng cảm thấy sự nghiệt ngã đáng sợ của số phận, bất luận nỗ lực thế nào, cuối cùng vẫn không thoát khỏi bàn tay vô tình của nó. Tôi đứng lên, cúi đầu nhìn chàng ta một lát, “Nhưng tôi không ghét huynh, suy cho cùng, mọi người đều bị số phận giày vò, huynh và Khanh Tửu Tửu, cả hai đều đáng thương”.
Nghỉ ngơi ở nhà Công Nghi Phỉ đúng ba ngày, Quân Vỹ mang đến bức thư của Quân sư phụ do chim bồ câu đưa tới, Trần vương thất có động tĩnh mới, có lẽ đã đến lúc khởi sự.
Tôi nên ở đây đợi Mộ Ngôn đến đón nhưng lại không thể làm trái lời hứa với Quân sư phụ, suy nghĩ rất lâu, lưu lại một bức thư cho Mộ Ngôn, định nhờ Công Nghi Phỉ chuyển giúp. Nhưng không gia nhân nào biết chàng ta ở đâu, cuối cùng lại là Công Nghi San đường đột xuất hiện chủ động đưa tôi đi gặp chàng ta.
Càng đi con đường này càng thấy quen, hai bên đường nhỏ lát đá xanh, hoa phật tang vẫn nở, cuối thảm hoa trải dài là một ngôi viện lợp ngói xanh, đó là tiểu viện của Công Nghi Huân.
Tôi còn nhớ viện nội trồng rất nhiều hoa tử vi lả lướt trong gió đêm như sóng. Đẩy cổng vào quả nhiên nhìn thấy hoa tử vi đầy vườn đung đưa trong gió, mới không lâu trước Công Nghi Huân còn nằm ngủ dưới gốc cây bên sân, bây giờ hoa vẫn thế, cây vẫn còn đây, chỉ có người không thấy.
Đi qua những khóm tử vi, nhìn thấy cửa chính đường đóng chặt, Công Nghi San nhìn tôi khẽ hất hàm, tôi hồ nghi đẩy cửa, ánh mặt trời rọi vào căn phòng tối om, giống như mở ra một chặng quá khứ xa xưa, xung quanh phòng vải đen che kín, tít cuối phòng có một ngọn đèn dầu.
Tôi đứng ở cửa ngây người nhìn Công Nghi Phỉ áo trắng bên cạnh ngọn đèn dầu, trong tay chàng cầm một con dao khắc, có giọt máu nhỏ từ chuôi dao rớt xuống đất, trước mặt chàng là… tôi cơ hồ bịt miệng kêu lên, định thần mãi mới phát hiện đó chỉ là bức tượng của Khanh Tửu Tửu, một bức tượng có hồn như thật, mái tóc thả dài chấm gót chân, nửa bàn tay lộ ra dưới ống tay áo cầm chiếc ô cán trúc.
Công Nghi Phỉ thất thần đứng mãi, như sực nhớ ra, rút trong ống tay áo chiếc vòng ngọc màu đen, chìa ra trước bức tượng gỗ, nhẹ nhàng: “Chiếc vòng này có phải của cô nương?”.
Âm thanh trống rỗng vang lên trong căn phòng mờ mờ ánh đèn, nhưng không thấy tiếng trả lời. Chàng ta lại không bận tâm, ánh mắt tươi cười, giọng vẫn nhẹ: “Hình như tại hạ đã gặp cô nương ở đâu?”.
Nghe đến đây tôi đã biết câu sau chàng ta sẽ nói gì.
Đó là cảnh tượng lần đầu họ gặp nhau, cuối cùng chàng ta vẫn uống thuốc giải thiên nhật vong. Quả nhiên chàng ta nắm tay cô nói khẽ: “Tại hạ là Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, dám hỏi quý danh cô nương”.
Như có tiếng thanh thanh vẳng lại: “Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu”. Nhưng tất cả đã không thể quay trở lại.
Nhìn cảnh Công Nghi Phỉ rơi nước mắt, Công Nghi San bên cạnh giơ tay bịt miệng, quay người bỏ chạy như không thể chịu đựng hơn. Tôi từ từ khép cửa.
Bên ngoài chợt một trận gió mạnh thốc tới, hoa tử vi trên cây rụng lả tả như một trận tuyết rơi.
Bối Trung tháng chín, trận tuyết rơi màu tím. Ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh ngắt, giữa tầng mây trắng dường như thấp thoáng bóng áo trắng, tôi ngửa mặt thốt lên: “Khanh Tửu Tửu, rốt cuộc cô yêu chàng thế nào?”.
Nước mắt ứa ra, có lẽ đây là lần duy nhất tôi rơi nước mắt vì khách hàng của mình.
Chú thích:
(5) Nhân vật trong tiểu thuyết của Cổ Long, là một người hiểu rộng, biết nhiều.