Mầm mống phân tranh giữa hai họ Trịnh Nguyễn đời Lê Trung Hưng đã có từ ngày Nguyễn Hoàng vào trấn giữ Thuận Quảng (1558), nhưng cho mãi đến khi con của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức xong việc phòng thủ ở Phương Nam, họ Nguyễn mới ra mặt chống nhau thật sự với Trịnh. Để có thể diệt trừ âm mưu chống đối của họ Nguyễn, họ Trịnh bày mưu ép vua Lê sắc phong cho Nguyễn Phúc Nguyên chức Thái Phó, tước Thụy quận công lãnh Thuận Quảng Tiết Độ Sứ và sau đó sẽ triệu Nguyên về Thăng Long chuẩn bị đi đánh Mạc. Nếu Nguyên về thì nhân đó bắt giết đi, nếu không về là mắc tội phản nghịch họ Trịnh sẽ có cớ đưa đại binh vào đánh Nguyễn.
Nhận được sắc phong, chúa Nguyễn rất bối rối bèn họp triều thần hỏi mưu kế đối phó với Trịnh. Đào Duy Từ đã dâng kế và được chúa Nguyễn chuẩn y.
Từ cho làm một cái mâm đồng hai đáy, khoãng giữa để sắc thư đã nhận lần trước, trên mâm sắp phẩm vật đem ra Thăng long tạ Ơn họ Trịnh. Lại Văn Khuông được cử làm chánh sứ chuyến này. Để giúp cho Khuông hoàn thành nhiệm vụ, Từ nghĩ saÜn mười điều vấn đáp để dặn sứ giả phòng khi ứng đối.
Đến Kinh, Văn Khuông vào yết kiến dâng lễ vật làm ra vẻ rất cung kính. Trịnh Tráng hỏi câu gì Văn Khuông đều đáp trôi chảy minh bạch, các bộ hạ nhà Chúa ai cũng phải khâm phục. Chúa hậu đãi Khuông lắm, truyền báo đến dịch xá nghỉ ngơi. Văn Khuông đi thăm Kinh thành chờ xem Chúa Trịnh có dạy bảo thêm điều gì nữa không. Khuông bỗng nhớ đến một cái cẩm nang mà Đào Duy Từ trao cho liền mở ra xem và sau đó cả đoàn tùy tùng cùng với Văn Khuông lẻn trốn về Nam bằng đường thủy. Thấy sứ đoàn Đàng Trong đột ngột trốn về, Chúa Trịnh hết sức nghi hoặc. Chúa sai soạn phẩm vật, thấy mâm hai đáy liền cho tách mâm thì thấy tờ sắc trước kèm theo một cánh thiếp trên có viết bốn hàng chữ đen, nét bút già giặn, đẹp đẽ:
"Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch".
Nghĩa là:
"Cái xà mâu không có mấu,
Tìm không thấy dấu.
Yêu rơi cả lòng ruột,
Sức đến thì cùng đánh".
Chúa Trịnh Tráng đọc không hiểu và cả Triều thần cũng không biết ra sao. Sau Trịnh Tráng phải nhờ đến quan Trạng Phùng Khắc Khoan. Khắc Khoan đọc xong tờ thiếp trợn mắt nói ngay:
- "Đây là kiểu chơi chữ nếu không phải Đào Duy Từ thì không ai ở Thuận Quảng có thể làm được như thế này".
Trịnh Tráng nóng ruột giục Phùng giải thích. Phùng cầm tờ thiếp giơ ra trước mặt nói:
- "Chữ mâu không có nách tức là cái phẩy thì thành chữ dư (ta); chữ mịch mà không có chữ kiến thì còn chữ bất (không); chữ átmà rơi mất lòng ruột (tức là chữ lâm) thì còn là chữ thụ (nhận) chữ lực với chữ lai địch nhau thành chữ sắc. Cái thiếp này có nghĩa là "Ta không nhận sắc".
Nghe xong Trịnh Tráng biết mình bị lừa, đùng đùng nổi cơn thịnh nộ ra lịnh cho người tìm bắt Văn Khuông, nhưng may thay Văn Khuông đã theo lời dặn của Đào Duy Từ xa chạy cao bay rồi. Để trừng phạt họ Nguyễn. Trịnh Tráng định đưa đại quân vào đánh Thuận Quảng. Không ngờ lúc ấy ở Cao Bằng và Hải Dương có loạn, Trịnh Tráng đành ngậm đắng nuốt cay hủy bỏ cuộc nam chinh này.
Đoàn sứ giả hoàn thành nhiệm vụ và về Thuận Hoá an toàn được Chúa Nguyễn trọng thưởng, "mưu sĩ" Đào Duy Từ được thăng chức làm Cái Hạp. Từ đó; họ Nguyễn ở Đàng Trong không chịu sắc phong của triều đình Lê Trịnh nữa. Cuộc nội chiến bắt đầu.
Đầu năm Mậu thìn (1868) sĩ tử ba miền Trung Nam Bắc tập trung về Kinh đô Huế dự thi Hội. Họ họp mặt ở khu vực nhà trọ gần Trường Thi ở phương Ninh Bắc (thuộc địa phận Phú Xuân) đoán xem đầu bài văn sách sẽ ra về vấn đề gì. Nhiều người đoán già đoán non phát biểu huyên thuyên nhưng thiếu cơ sở không được các sĩ tử nghe theo. Cuối cung có ông Vũ Duy Tuân (sinh năm 1840) có hiểu biết về tinh hình trong nước phát biểu ý kiến:
- Theo ngụ ý, năm nay quân Pháp, ngoài những hành động khiêu khích ra, họ còn xây thành đắp lũy ở các nơi, xây soái phủ ở Gia Định, đặt binh trại rãi rác chung quanh Kinh Thành, có ý dòm ngó Triều đình ta, tôi chắc kỳ văn sách khoa nầy thế nào Đức Kim thượng cũng hỏi về công thủ chi sách (Kế sách đánh hay hòa), anh em nghĩ sao?
Các sĩ tử nghe có lý vỗ tay tán đồng. Họ bàn nhau nếu đầu bài ra đúng như thế thì sẽ nhất tề luận theo thế công, nhất quyết xin vua Tự Đức nhất quyết đánh để tỏ lòng bất khuất của sĩ phu.
Hôm vào thi văn sách, quả như lời họ Vũ đã dự đóan, đề ra: "Quân xâm lăng hiện nay càng ngày càng thêm gây hấn, đồn lũy dựng lên khắp dân gian, vậy nay mình đánh hay nên hoà?" sĩ tử mừng rỡ, khâm phục sự đoán của họ Vũ, họ cùng làm bài xin Triều đình khởi thế công.
Trong quyển văn của Vũ Duy Tuân có câu:
- "Triều đình ủng bách vạn chi tinh binh, khiến nghĩa bất vi vô dũng dã" (Triều đình hiện có hàng trăm vạn lính tinh nhuệ, theo việc nghĩa thì nên đánh quân xâm lăng, thế mà không đánh thật là không dũng cảm chút nào?).
Đọc bài ấy quan duyệt quyển là Phan Đình Bình đệ lên cho vua Tự Đức đọc. Nhà vua buồn rầu châu phê bên cạnh câu văn trên rằng:
- "Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, tương trí trẩm ư hà địa?" (Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh, nếu đánh mà thua, thì đặt trẫm ngồi ở nơi nào?).
Các khảo quan căn cứ lời châu phê như thế mà chấm bài. Những người đề nghị đánh phần lớn hỏng. Riêng Vũ Duy Tuân là một bậc tài trí không thể hỏng nhưng chỉ đỗ được cái Phó bảng. Trong đám sĩ tử có cử nhân Dương Khuê, khi họp bàn thì dạ dạ vâng vâng một lòng xin đánh, nhưng đến lúc vào trường lại viết xin hòa. Làm bài trúng ý quan trường nên họ Dương đỗ Tiến sĩ. Điều đó đã làm cho các sĩ tử phẫn nộ, họ kết án họ Dương là bội ước. Đến hôm sau họ Dương vinh quy, các sĩ tử đón đường đánh. May sao họ Dương biết trước ôm áo mão vua ban trốn ra khỏi Kinh thành trong đêm nên tránh được một cuộc làm nhục.
Mặc dầu chỉ đỗ Phó bảng, trong con mắt các sĩ tử họ Vũ vẫn là người chiến thắng về sĩ khí, danh dự hơn họ Dương đỗ Tiến sĩ nhiều. Kỳ thi xong, các sĩ tử họp nhau cổ vũ họ Vũ nhiệt liệt. Họ tặng Vũ Duy Tuân câu đối:
Minh đình sách vấn kim tam đối,
Giáp đệ thâu nhân chỉ nhất hòa.
(Triều đình hỏi về kế sách thì ông đối đáp được mọi điều; thế mà giáp đệ chỉ đỗ Phó bảng thua người khác chỉ tại một chữ hòa (Vì ông cứ xin đánh).
Vũ Duy Tuân quả cảm, cương trực: Ông làm quan đến chức Ngự sử Đô sát viện. Ông được các quan, triều thần kính phục, nể vì.
Nguyễn Hàm Ninh tuy hồi ấy phẩm hàm còn nhỏ, nhưng là kẻ bầy tôi phẩm hạnh nhất của vua Minh Mạng. Lúc tiễn Nguyễn đi Hà Nội chấm thi (khoa Ất Dậu 1825), Tùng Thiện Vương con thứ mười của Minh Mạng có tặng một câu thơ:
"Thảng ước lương viên tích du lữ,
Giang sơn xứ xứ hữu đề danh".
Nghĩa là "Nếu nhớ đến những bạn thơ rượu ngày xưa vui chơi với nhau ở vườn Lương Viên thì trong đất nước ta đâu đâu cũng có người thi đỗ", đại ý nói rằng hễ gặp ai hay thơ hay rượu trong đám sĩ tử ứng thi khoa này thì nên lấy đỗ để đem về Kinh cùng nhau chén tạc chén thù câu xướng câu họa cho vui.
Khoa ấy sĩ tử Hà Nội có một người thi cử hoài không đỗ vì tội quen viết chữ thảo, không đúng trường qui. Nếu phải ngồi viết cho chân phương đúng thể lệ thì hết giờ, vì thế mà thi hoài không đỗ. Anh đã định không thèm thi cử nữa, nhưng người đời gièm pha cho rằng nhà anh phúc bạc nên đến khoa Ất Dậu anh quyết tâm thi cho đậu.
Anh vào trường cắm trại vừa ngồi uống rượu vừa ung dung viết bài, viết một cách thong thả kỹ lưỡng. Viết xong nghe trống đánh nộp quyển anh cũng không nộp, khi mọi người nộp quyển xong ra khỏi trường anh vẫn nằm ôm quyển, mỉm cười tự bảo mình:
"Ta cứ nằm yên chắc chi cũng có người tới nhận quyển cho ta!".
Chiều hôm ấy, sau khi các thí sinh đã về hết, quan giám sát đi hết các vi trong trường xem còn ai lảng vảng đấy nữa không? Chợt thấy một người đang nằm ôm quyển rên hư hử, quan giám sát liền đến dắt đưa về nhà thập đạo đang có đủ mặt các quan trường. Hỏi ra mới người ấy tên là Nguyễn Văn Siêu, quê ở Sơn Tây, viết bài xong thì bị ngộ gió đau bụng không đi nộp quyển được, đành xin chịu hỏng, không hề trách gì phận, giận gì duyên. Nghe thế Nguyễn Hàm Ninh, nhớ lời dặn của Tùng Thiện Vương nhảy ra xin nhận quyển cho Nguyễn Văn Siêu. Hàm Ninh nói với Siêu:
- "Anh là Nguyễn mà tôi đang tìm đây!"
Bài của Nguyễn Văn Siêu rất giỏi đáng lẽ phải được xếp đỗ giải nguyên, nhưng vì chữ viết ngượng ngập không đều nên phải sếp xuống Á nguyên (nghĩa là đỗ cử nhân thứ hai). Năm sau Nguyễn Văn Siêu vào Huế thi Hội, Nguyễn Hàm Ninh đã đón về chơi nhà Tùng Thiện Vương và báo cho Vương biết Nguyễn Hàm Ninh đã hoàn thành hai sứ mạng mà Vương đã ủy thác cho mình, tình bạn của những người nổi tiếng thơ văn bắt đầu từ ấy.
Nguyễn Văn Siêu và Tùng Thiên Vương là hai trong bốn người văn tài quán thế, được vua Tự Đức nhắc đến trong câu thơ:
"Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường".
Vào một buổi sáng yên ắng dưới thời Tự Đức, trống Đăng Văn (nơi đặc Tỳ Bà Viện hiện nay) bỗng nổi lên ba tiếng thật mạnh rồi kéo theo một hội giục giã rộn ràng. Sống ở Kinh thành người dân cấm không được đánh trống để cho nhà vua dự trong Đại Nội khỏi nghe nhầm với trống Đăng Văn. Mỗi lần nghe trống giục trong Thành ra đến ngoài phố ai ai cũng cảm thấy rợn người và thốt lên:
- Ôi lại có người bị Oan đang đến xin minh oan!
Trống Đăng Văn treo ở ty Tam pháp - một cơ quan gồm đại diện bộ Hình, Viện Đô Sát và Đại Lý Tự chuyên nhận đơn khiếu nại cua những người bị bộ máy nhà nước xử oan. Ty chỉ làm việc ba ngày trong một tháng (ngày 6, 16 và 26). Hôm ấy không phải ngày họp nên người thường trực của ty liền ra "tiếp dân". Vào phòng treo trống người thường trực thấy một người đàn bà nước mắt sụt sùi trên đầu đội một lá đơn miệng không ngớt kêu van:
- Bẩm lạy ba toà quan lớn! Bẩm lại ba tòa...!
Người thường trực gặn hỏi thì được biết người đàn bà ấy tên Nguyễn Thị Tồn vợ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa vừa chèo ghe bầu từ Nam Bộ ra xin minh oan cho chồng. Theo lệ thường, bà Tồn bị trói ngay, và trong lúc lá đơn của bà đệ lên được vua châu phê thì bà bị nhốt vào một nơi đã quy định để đề phòng chuyện chồng bà có tội mà vẫn đến kêu oan làm rối loạn chốn triều nghi.
Đọc lá đơn vua Tự Đức biết có người đang bị trói ngồi chờ minh oan nên ông phê ngay và cho trực thần chuyển xuống Ty Tam Pháp kịp thời xét nghị.
Nội vụ được kể đàu đuôi ra sau:
Bùi Hữu Nghĩa là thủ khoa trường Gia Định khoá năm 1835, năm 1836 ông ra Huế thi Hội nhưng không đỗ ông lui về làm tri phủ Phước Long(Biên Hoà). Vốn là một nhà nho liêm khiết, trung thực, ông không chịu luồn cúi và tư vị một người nào. Bọn con ông cháu cha ỷ lại quyền thế hà hiếp nhân dân thường bị Ông trừng tri đích đáng. Lúc bấy giờ có tên em vợ của bộ chánh Truyện hay hống hách, ông cũng không nể nang. Một hôm nhân một cử chỉ vô lễ của hắn ông cho lính đánh một trận nên thân. Như thế cũng chưa vừa, ông đánh thêm năm roi nữa để gửi về phụ huynh cảnh cáo hành vi không biết dạy con cái. Bố chánh Truyện cảm thấy tri phủ Bùi làm thế là dằn mặt mình, hắn giận lắm và quyết tâm trả thù cho thật đã đời.
Thế rồi cơ hội để bố chánh Truyện được hả giận đã đến. Nguyên địa phương của tri phủ phụ trách có rạch Lang Thé thuộc đất Trà Vang - nơi vua Thế Tổ lúc bị quân Tây Sơn đuổi chạy đã đến ẩn và được địa phương che chở nuôi sống. Khi thành công lên ngôi nhà vua nhớ ơn xưa đã tha thuế rạch Lang Thé cho dân địa phương. Quyền lợi đó được duy trì qua nhiều đời. Đến đời Tự Đức bọn Hoa kiều thấy nguồn lợi lớn liền đem tiền đút lót cho tổng đốc Uyển và Bố Chánh Truyện để được độc quyền đắp đập khai thác. Bị cướp mất nguồn sống, dân địa phương thảo đơn kiện lên cửa phủ Phước Long. Bùi Hữu Nghĩa nghị xét và trong một buổi nói chuyện với dân, ông có bảo:
- Rạch Lang Thé vua Thế Tổ cho các ngươi không lấy thuế, các ngươi cứ giữ lấy. Nay có ai lớn hơn vua Thế Tổ phê giấy bán rạch ấy thì các ngươi hãy cam chịu. Con nếu ai nhỏ hơn vua đứng ra phê giấy bán rạch ấy thì có chem đầu nó cũng không sao!
Được tri phủ đứng về phía mình, nhân dân địa phương nổi lên chống người Hoa kiều vừa đến chiếm rạch Lang Thé. Hai bên giành nhau, tám người Hoa kiều bị đánh chết. Nhiều người dân bị bắt khai rằng sở dĩ có cuộc tranh đấu ấy vì lời xữ của tri phủ Bùi. Bố chánh Truyên căn cứ vào đó cho lính bắt đóng gông Bùi Hữu Nghĩa và giải về Gia Định. Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện cò dâng sớ về Kinh đô buộc cho Bùi vao tội chết vì đã kích dân làm loạn và giết người.
Đứng trước nỗi oan của chồng, bà Nguyễn Thị Tồn không ngại đường xa nguy hiểm chèo ghe bầu ea Huế đánh trống Đăng Văn để xin minh xét cho chồng.
Khi sự thực được phanh phui, vua Tự Đức phê: "Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội".
Nghe có người đàn bà thương chồng đến thế, bà Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức - cho người mời bà thủ khoa vào Nội khen ngợi và ban cho một tấm biển đề "Liệt phụ khả gia".
Cứu được chồng bà thủ khoa chèo đò trở lại quê nhà. Ít lâu sau, có lẽ vì mệt nhọc sau một chuyến đi dài trên biển, bà thủ khoa ngoa. bịnh và mất ở Biên Hoà. Ở xa nghe tin Vợ mất ông Bùi Hữu Nghĩa rất đau khổ. Hôm về nhà ông làm một bài văn tế, trong bài văn có mấy câu nhắc đến sự việc bà thủ khoa đã ra đến Huế đánh trống Đăng Văn để kêu oan cho ông.
"Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biên bạch này, oan ức nọ, đấng hiền lương mắt thấy hẳn đau lòng;
Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bằng đằng tay nghe đều mất vía".
Tự Đức là một ông vua hay chữ, giỏi thơ và tự cho mình là giỏi hơn thiên hạ. Không hiểu thế nào, trong một buổi họp các quan, nhà vuavui cười kể lại rằng:
- Đêm qua Trẫm nằm chiêm bao thấy mình bật ngâm hai câu thơ, thơ là chữ Hán nhưng cứ mỗi câu lại chen vào hai chữ tiếng nôm thật lạ lùng. Nhà vua ngâm:
"Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm rơi".
Nghĩa là:
Trong vườn tiếng oanh hót khề khà,
ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Các quan bàn tán khen ngợi hai câu thơ ấy lạ thật, Chu Thần Cao Bá Quát thấy đó là một dịp trêu vua Tự Đức chơi, ông bèn tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, hai câu thơ ấy không có gì lạ. Đó là hai câu tam tứ trong một bài thơ mà hạ thần đã được nghe. Vua Tự Đức hỏi toàn bài thơ như thế nào. Chu Thần liền ứng khẩu đọc ngay:
"Bảo mã tây phong huếch hoác lạt,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhập bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhà.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn lú tài".
Nghĩa là:
"Ngựa báu theo gió tây huếch hoác lại,
Huênh hoang người tự theo về.
Trong vườn tiếng oanh hót khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng thấy sương xuân rơi lộp bộp,
Trời thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Khù khờ câu thơ đã nhiều người biết,
Còn khệng khạng đem hỏi các nhà văn học".
Quả thật Chu Thần đã bịa ra bài thơ này để trêu chọc vua Tự Đức chơi, nhất là hai câu cuối, cái ý ngạo mạn của ông bộc lộ không cần che giấu. Nhà vua biết mình bị trêu chọc ức lắm, nhưng ông không có bằng chứng gì để quở phạt Chu Thần được, ngược lại ông cũng phải băm bụng khen cái tài biện bác của Chu Thần.