Tào Tặc Tác giả: Canh Tân
Chương 255: So sư cũng phải có lý
Nhóm dịch: Nghĩa Hiệp
Nguồn: metruyen
Đêm cuối xuân tiết trời nhiều thay đổi.
Khi vạn vật bắt đầu nảy nở, người người cùng nhộn nhịp đi lại trên đường, phiên chợ rộn ràng có thể thấy được từ ngay đầu đường. Đúng giờ tuất, trời đã sẩm tối. Cửa hàng hai bên đường phố đốt đèn đuốc sáng trưng thắp lên bao thú vui ban đêm chốn đô thành.
Tào Bằng không cưỡi Chiếu Dạ Bạch mà ngồi trên một chiếc xe bò.
Cửa xe mở, gió đêm thổi hiu hiu.
Ngồi trong xem Tào Bằng quên đi mọi phiền muộn.
Hạ Hầu Lan cưỡi ngựa đi bên cạnh. Một gã Phi Mạo đánh xe, Sử A đã đi trước. Đoàn người thong thả đi dọc con đường dài, ngắm cảnh trí hai bên hiện ra trước tầm mắt.
Tào Bằng ngồi trên xe cũng hết sức nhàn nhã, ung dung.
Nhai tự Kim Cương nghe ra thì có vẻ rất xa lạ.
Nhưng nếu nhắc đến cái tên đời sau của nơi này, có lẽ không có ai là không biết: Chùa Bạch Mã! Chùa Bạch Mã là cái tên rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, là một trong ba chùa lớn có đầu tiên của trung Quốc, bao gồm: Huỳnh Dương động lâm tự, Long Môn Hương sơn tự, và chùa Bạch Mã. Tuy lúc đầu, tên của chùa Bạch Mã vốn là Kim Cương nhai tự, ý nói đến ý chí vững vàng như kim cương.
Tương truyền, Hán Minh đế Lưu Trang đêm ngủ ở Nam Cung, nằm mộng thấy một vị thần nhân màu sắc vàng kim, trên thân tỏa ra ánh hào quang màu trắng, ánh sáng này bao phủ hết cả cung điện. Ngày hôm sau, bậc đế vương biết được vị kim thần trong mộng chính là kim cương trong Phật môn, vì thế bèn phái các sứ giả là Thái Âm, Tần Cảnh tới Tây Vực cầu phật. Lúc này, Phật giáo còn được gọi là Phù Đồ giáo, được truyền từ Tây Hán vào Trung Nguyên, nhưng vốn không có nhiều người thừa nhận tôn giáo này. Tuy nhiên ở Tây Vực lại có rất nhiều quốc gia nhìn nhận phật giáo là quốc giáo.
Như Ô Tôn, Sơ Lặc, Quy Tư còn lấy Phù Đồ làm thuật trị quốc.
Hai người họ Thái và Tần kia gặp được một vị tăng nhân của Thiên Trúc là Già thập Ma Đằng (tên là Nhiếp Ma Đằng) và Trúc Pháp Lan. Vì thế, bọn họ bèn mời hai người này đến Lạc Dương để giảng giải về Phật hiệu. Đây cũng chính là câu chuyện xưa nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo: Vĩnh Bình cầu pháp. Tuy nhiên, đó chẳng qua cũng chỉ là ghi chép trong sử sách của Phật giáo, không ai biết được rốt cuộc mọi chuyện có đúng như thế không. Dù sao, Già thập Ma Đằng và Trúc Pháp Lan tới đây cũng là để giảng giải cho Lưu Trang nghe Phật hiệu. Sau này, Hán Minh đế liền sắc lệnh xây một ngôi chùa dựa theo kiểu dáng ở Thiên Trúc, nằm ở giữa núi Bắc Đặng và Tuy Thủy, chọn một ngôi chùa để tu sửa lại.
Chính vì thế lúc ban đầu, chùa Bạch Mã vốn là “Quan thự” ( hay “tự” - tức nơi quan chức làm việc), rồi trở thành nơi quản lý tất cả các tăng nhân tới Trung Nguyên truyền pháp.
Nếu muốn truyền pháp, nhất định phải chịu sự kìm kẹp của chùa Bạch Mã, nếu không được triều đình bảo hộ sẽ bị quan phủ coi là tà giáo.
Chủ trì chùa Bạch Mã gọi là Bạch Mã Tự khanh, không có phẩm hàm trong triều đình nhưng mỗi tháng đều lĩnh bổng lộc của triều đình.
Già thập Ma Đằng và Trúc Pháp Lan ở chùa Bạch Mã lúc đầu gọi nơi này là Kim Cương nhai tự. Sau này, khi hai người ở đây, khổ tâm biên dịch cuốn “Tứ thập nhị chương kinh” trở thành cuốn kinh văn Hán ngữ đầu tiên được biên dịch trong nước. Sau khi “Tứ thập nhị chương kinh” được biên dịch xong, Hán Minh đế liền nhân chuyện con ngựa bạch mã chở kinh Phật năm ấy, lấy cớ đó mà sửa Kim Cương nhai tự làm chùa Bạch Mã. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người quen gọi nơi này là Kim Cương nhai tự.
Kiếp trước, Tào Bằng cũng từng tới chùa Bạch Mã.
Nhưng thật ra, ngoài chuyện nhìn thấy một đống người, hắn cũng chỉ bỏ tiền dâng hương, không hề lĩnh ngộ chút gì gọi là Phật pháp cao thâm cả.
Mà những năm cuối thời Đông Hán, do ảnh hưởng của chiến loạn, chùa Bạch Mã sớm đã không còn chịu sự quản thúc của triều đình mà trở thành một ngôi chùa độc lập. Những người tín Phật, đặc biệt sau khi Đổng Trác rời đô, hầu hết mọi người ở Lạc Dương bắt đầu thờ phụng đức Phật, trở thành tín đồ Phật môn, cống hiến gia sản.
Chính vì thế, trong chiến tranh, chùa Bạch Mã không bị ảnh hưởng nhiều lắm, thậm chí còn trở nên hưng thịnh hơn nữa.
Khi Tào Bằng đến chùa Bạch Mã, Sử A đã chờ bên ngoài tự được khá lâu. Vừa thấy Tào Bằng, gã tức thì hăng hái tiến lên đón:
-Công tử, sao giờ mới đến đây?
-Trên đường ta mải mê thưởng thức cảnh đêm, thế nên mới đến chậm. Sử đại hiệp chớ trách cứ.
-Công tử khách khí rồi. Hôm nay vừa đúng có mấy người hảo bằng hữu ở đây, nghe đại danh công tử, bọn họ đều muốn tiếp kiến. Sử A mạo muội làm chủ, mong rằng công tử thứ lỗi cho.
Trên đường đến chùa Bạch Mã, Tào Bằng đã nghĩ tới chuyện này rồi, thế nên cũng không quá để ý.
Hắn khẽ mỉm cười:
-Sử đại hiệp, ngươi cũng quá khách khí rồi!
Chu Tán nói không sai, bản thân hắn hiện đang phải mưu cầu thanh danh, mỗi hành động, lời nói đều cần phải thật chú ý.
Sử A này quá nặng khí của kẻ giang hồ.
Chính vì thế, khi giao tiếp với gã phải thật thận trọng.
Không thể quá thân thiết cũng không thể gây xích mích với gã được. Về phương diện này, Tào Bằng cần phải hiểu rõ một chữ “Độ”, nhưng chung quy hắn cũng khá giỏi trong việc này.
Sử A thoải mái cười to, lôi kéo Tào Bằng, bước về phía ngôi chùa.
Ở thời hậu thế, chùa Bạch Mã vốn có một vài danh lam thắng cảnh. Ví như nhị tăng mộ, Tề Vân tháp, Thanh Lương đài và các phong cảnh khác…Tuy nhiên ở cuối thời Đông Hán, những cảnh trí này vẫn còn chưa xuất hiện. Nhị tăng mộ chính là hai ngôi mộ, phía trước mộ có dựng hai tấm bia đá, nhìn rất đơn sơ, cổ kính.
Tào Bằng đi theo Sử A đến một nơi cao ước chừng sáu mét, đáy là một bản trúc chống xuống đất, phía trên còn có đài cao rải đá.
Ở thời hậu thế, tòa đài cao này được gọi là Thanh Lương đài, là một trong những phong cảnh nổi tiếng nhất chùa Bạch Mã, còn được người gọi là đình viên trên không.
Nhưng hiện giờ, đình viện trên không mới chỉ ở dạng sơ khai, ước chừng rộng một trăm ba mươi mét vuông, có lâu các với lớp lớp mái hiên.
Đời sau tương truyền rằng nơi này là nơi Lưu Trang từng đọc sách tránh nắng khi còn bé, sau sửa lại làm nơi biên dịch kinh văn.
Tuy nhiên, Tào Bằng vốn không tin chuyện này. Dịch kinh đài như lời Sử A nói rõ ràng là được xây dựng sau khi Già thập Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Lạc Dương. Lúc ấy, Lưu Trang đã đăng cơ từ lâu rồi. Chắc là Phật giáo vì muốn nhấn mạnh sự cao siêu của bổn pháp, nên mới bịa ra tích chuyện như thế. Kỳ thật, những lời nói dối như vậy có thể thấy được trong rất nhiều đoạn kinh phật, mục đích chính đều là dùng tôn giáo để tranh thủ tín đồ, chính vì thế mới được cố ý lưu truyền tới nay.
Kiếp trước, Tào Bằng vốn là người vô thần.
Đối với tôn giáo, hắn không phản đối, nhưng cũng không bài xích.
Đạo giáo cũng tốt, Phật giáo cũng được, ngay cả Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, hắn đều không có ác cảm. Đặc biệt sau khi biết được nhà mình còn có vị lão sử giả thần giả thánh vang danh, vô hình trung Tào Bằng càng hướng đạo giáo nhiều hơn.
Trong lầu các, cửa sổ ở bốn mặt đã mở. Bên trong có bảy, tám người đang ngồi.
-Sử huynh, sao giờ mới tới?
Một người tướng mạo hào sảng vừa thấy Sử A đi vào, lập tức cười lớn, đứng dậy.
Sử A nói:
-Chúc huynh, ta giới thiệu với huynh. Vị này chính là Tào Bát Bách, người làm ra bài “Lậu thất minh” và “Bát bách tự văn”, Tào Bằng, Tào công tử.
Tào Bát Bách?
Tào Bằng nghe thấy thế ngẩn ra.
Vị hán tử hào sảng kia bước lên trước, vừa nghe thấy Sử A giới thiệu liền hơi cúi người, chắp tay thi lễ.
-Sử huynh, huynh tới đúng lúc lắm. Hôm qua, ta ở đổ phường của huynh thua thảm bại. Hôm nay huynh đã đến thì Chúc mỗ nhất định phải tiêu pha thêm một trận nữa mới có thể giải được mối hận trong lòng.
Xem bộ dáng của y dường như không hề chú ý tới Tào Bằng.
Tào Bằng cũng không hề để ý, chỉ thầm bằng lòng với lời giới thiệu của Sử A vừa rồi.
Gã không hề giới thiệu hắn là ông chủ đứng sau đổ phường Thịnh Thế, có thể nói Sử A đúng là người biết chừng mực. Một người biết tiến biết thoái, hiểu được chừng mực, luôn có thể khiến người khác thấy hảo cảm. Nếu lúc trước, Tào Bằng khách khí với Sử A bởi người này là do Tào Chân giới thiệu, còn do lão sư của người này lại là kiếm khách đệ nhất đương thời Vương Việt, là thầy dạy kiếm cho Hán Linh Đế. Bản thân Sử A cũng là thầy dạy kiếm cho Tào Phi hai năm liền, chính vì thế Tào Bằng không thể không kính trọng. Như vậy, hiện tại, Sử A rất khéo léo lại khiến hắn thêm hảo cảm hơn. Chẳng trách khi đó đại ca tiến cử Sử A, người này quả nhiên là một người có mắt nhìn.
-Người này tên là Chúc Đạo, là địa đầu xà nổi tiếng ở Tuy Dương.
Nguyên quán của y vốn là ở Tuy Dương, hơn nữa còn là một tay hảo kiếm sĩ, trong nhà lại có rất nhiều của cải, tài sản. Thế nên ở Tuy Dương, y cũng có chút ảnh hưởng.
Chúc Đạo?
Chưa từng nghe nói đến a!
Tào Bằng gãi gãi mũi, tỏ vẻ mình tự biết nói.
Sử A không nói gì thêm nữa, chỉ dẫn Tào Bằng đi giới thiệu với mọi người mà thôi.
Bạch Mã Tự Khanh đương nhiệm vốn có họ Viên.
Khi Đổng Trác rời đô thành Trường An, cũng dẫn luôn Bạch Mã tự khanh lúc đó đi. Năm Sơ Bình thứ ba, Đổng Trác bị Lã Bố giết chết, Lý Thôi giục Quách Tỷ vây công Trường An, khiến Trường An đại loạn. Huyền Thạc cầm ấn tín và dây đeo triện của Bạch Mã tự khanh tiền nhiệm, trở về Tuy Dương, tiếp chưởng chùa Bạch Mã, trở thành Bạch Mã tự khanh đời kế tiếp.Tuy nhiên, chức Bạch Mã tự khanh này là do y tự phong, cũng không được triều đình chấp thuận. Ngẫm ra thì, lúc ấy, triều đình đang rối ren, tiểu Hoàng đế đến mạng còn khó giữ, ai còn nhàn nhã, thoải mái mà để ý đến chức Bạch Mã tự khanh này?
Mà lúc ấy, chùa Bạch Mã cũng đã quá hoang tàn, cũng không có ai tình nguyện gánh vác trách nhiệm.
Nếu có Viên Huyền Thạc tự nguyện đảm nhận chức Bạch Mã tự khanh, dĩ nhiên cũng chẳng có ai phản đối.
Thoáng cái, bảy năm đã qua.
Chùa Bạch Mã so với trước phồn thịnh lên rất nhiều lần, mọi người cũng dần nhìn nhận Huyền Thạc.
Đồng thời, Huyền Thạc lại có tài học sâu biết rộng, lại tinh thông cầm, kỳ. Bảy năm ở Tuy Dương, y kết giao không ít bằng hữu, dần dần đứng vững ở nơi đây.
Nghe Sử A giới thiệu, Huyền Thạc vội vã chắp tay thi lễ.
-Hóa ra Tào Bát Bách đang ở trước mặt ta.
Lại là Tào Bát Bách?
Tào Bằng giờ đã chú ý đến ý nghĩa của cái tên Tào Bát Bách kia.
Chắc là dựa theo bài tự Bát Bách tự văn kia, cũng giống như Thái Ấp được gọi là Thái Phi Bạch vậy. Thái Ấp nhờ Phi Bạch thư mà dương danh thiên hạ, chính vì thế mới được gọi là Phi Bạch. Tào Bát Bách cũng như vậy, cách xưng hô này biểu trưng cho sự tán dương của người đương thời với Tào Bằng. Danh hiệu Tào Bát Bách có từ trước tiết thanh minh, chẳng qua Tào Bằng mải lo chuyện xuất hành nên chưa từng chú ý đến cách xưng hô của bên ngoài mà thôi.
Chỉ có điều, cái tên Tào Bát Bách này quả có phần khó nghe.
Nhưng những chuyện như thế hắn cũng không thể quyết được, nên chỉ đành cười khổ, chấp nhận cái tên này mà thôi.
-Vị này chính là Trương Lương - Trương Nguyên An, Trương công tử.
Sử A chỉ một thanh niên, tiếp tục giới thiệu với Tào Bằng.
Trương Lương?
Đó không phải giáo chủ Thái Bình giáo sao?
Người này chẳng ngờ lại dám đặt tên tự cùng tên với phản tặc.
Thân hình gã cao lớn, dáng người vạm vỡ, lực lưỡng, tướng mạo oai hùng.
-Ta từng được Bàng Nguyên An tiên sinh ở Kinh Châu dạy bảo, không ngờ hôm nay lại được gặp một vị Nguyên An nữa. Xem ra, ta rất có duyên với người tên Nguyên An a.
Trương Lương ngẩn ra, chợt cười ha ha.
Bàng Nguyên An chính là Bàng Quý, phụ thân của Bàng Thống.
Thật không ngờ Tào Bằng lại đem bản thân gã đánh đồng với danh sĩ nổi tiếng thiên hạ, thiện cảm của Trương Lương với Tào Bằng tức thì tăng lên gấp bội.
-Đây là tộc đệ của Nguyên An, tên là Trương Thái, tự Tử Du. Tào công tử, Trương công tử là môn sinh của Đỗ Quỳ tiên sinh, tinh thông âm luật, là bạn tri kỷ của tiên sinh Huyền Thạc.
Trương Thái nhìn hết sức nho nhã, yếu ớt.
Nhưng gương mặt y lại có vẻ kiêu ngạo. Y chắp tay vái Tào Bằng.
-Nghe danh học thức của Tào Bát Bách xuất chúng, tài văn chương lại hơn người. Không biết lão sư của Tào công tử là ai?
Định so sánh lão sư ư?
Tào Bằng hơi chắp tay, khiêm nhường nói:
-Tại hạ tài sơ học thiển, đến nay chưa từng được danh sư chỉ dạy. Cũng chính vì thế Tào Tư không mới tiến cử tại hạ đến Lục Hồn sơn, bái Hồ Chiêu - Hồ Khổng Minh tiên sinh làm thầy. Lần này, ghé qua Lạc Dương mục đích chính là đến Lục Hồn sơn bái sư.
Nếu không hiểu rõ lắm về chuyện Hồ Chiêu, Tào Bằng chưa chắc đã nói như vậy.
Nhưng hắn đã từng hỏi thăm qua, Hồ Chiêu là nhân vật nổi danh cùng với Chung Diêu, Hàm Đan Thuần và Vệ Khải. Hàm Đan Thuần thì Tào Bằng không rõ lắm, nhưng Vệ Khải hiện là quan đô hộ, đương kim danh sĩ. Còn Chung Diêu lại càng khó lường hơn, chưa nói đến chuyện y xuất thân là gia thế, thanh danh vang vọng, mà bản thân y cũng là người hiếm có người có thể sánh bằng. Nếu như Hồ Chiêu có thể vang danh ngang với những người này, đủ biết ông ta cũng là nhân tài kiệt xuất.
Không phải Tào Bằng chê Đỗ Quỳ tài sơ học thiển.
Đỗ Quỳ là người Dĩnh Xuyên, từng làm quan Nhã Nhạc lang, đến năm Trung Bình mới cáo bệnh từ quan.
Sau này chiến loạn xảy ra, Đỗ Quỳ trốn xa khỏi Kinh Tương, sống nhờ dưới trướng Lưu Biểu. Chính vì thế, nếu nói về danh vọng, Đỗ Quỳ và Hồ Chiêu rõ là hai nhân vật ở hai cấp độ khác nhau.
Vị thế của hai người hiện nay hoàn toàn không giống nhau.
Trương Thái tự cho bản thân là đệ tử của Đỗ Quỳ để dương dương tự đắc, có chút không coi ai ra gì.
Nào ngờ đâu, một câu nói này của Tào Bằng khiến gã nghẹn họng, mà chết khiếp.
Hồ Chiêu lánh đời ở Lục Hồn sơn, lập lên thư viện, truyền dạy cho ba trăm đệ tử ở Lục Hồn sơn. Nhưng trên thực tế, người có thể thực sự trở thành môn đệ của Hồ Chiêu chỉ có mấy người ít ỏi mà thôi. Nói cách khác, đệ tử của Hồ Chiêu chia ra làm đệ tử ngoại môn và đệ tử chính.
Trong thư viện kia phần lớn là đệ tử ngoại môn của Hồ Chiêu. Nếu muốn trở thành đệ tử thân truyền của Hồ Chiêu, thật sự khó hơn lên trời.
Tào Bằng phụng lệnh của Tào Tháo bái Hồ Chiêu làm sư phụ, hiển nhiên hắn sẽ không phải là đệ tử ngoại môn, mà chắc chắn là đệ tử thân truyền. Nếu không, chắc chắn sẽ không cần Tào Tháo phải ra mặt như thế.
Gương mặt Trương Thái thoáng chốc đỏ rần.
Gã không biết nên đáp lời thế nào cho phải.
Những lời này của Tào Bằng rõ ràng là để cảnh cáo gã: Đừng có giở mặt với ta, trên lão tử còn có người khác. Đến Tào Tháo - Tào tư không còn đích thân ra mặt tìm lão sư cho ta. Sư phụ của ngươi là Đỗ Quỳ thì sao, so với lão sư của ta còn chưa đáng, không kém quá nhưng cũng đừng chọc ta làm gì.
-Huyền Thạc cư sĩ, có khách quý đến nhà sao không cho ta biết?
Ngay khi Trương Thái còn đang đỏ mặt tía tai, không biết nên nói gì mới tốt, bên ngoài lầu các đã vang đến giọng nói mềm mại của nữ tử.
Một nữ tử mặc y phục màu đen nhẹ chân đi vào lầu các.
Nữ tử này vừa đi vào lầu các tức thì khiến mắt người nào người nấy đều sáng rỡ.
Sao lại có người rạng rỡ như vậy?
Nữ tử này có mái tóc như mây, buông xõa buông bờ vai mảnh mai. Chân mày nàng cong cong, yểu điệu quyến rũ, khuôn miệng anh đào nhỏ nhắn khiến người nhìn chỉ muốn cắn vào đó. Bộ y phục màu đen rộng thùng thình che giấu dáng người yểu điệu thướt tha nhưng lại càng làm nàng thêm phần hấp dẫn.
-Quan cư sĩ, ta đang định mời cư sĩ đến, nào ngờ cư sĩ đã đến đây rồi.
Huyền Thạc cười ha ha nói, giọng có vẻ hơi khàn.
Y xoay người, thấp giọng nói với Tào Bằng:
-Đây là Nhạc Quan cư sĩ, am chủ Cúc Hoa am dưới chân núi Bắc Đặng.
Dứt lời, Huyền Thạc cười, tiến lên trước:
-Quan cư sĩ tới vừa đúng lúc. Ta xin giới thiệu với cư sĩ một thiếu niên anh tuấn tài năng. Vị này chính là Tào Bằng - Tào Bát Bách đã làm ra bài thơ “Lậu thất minh” và “Bát Bách tự văn” cách đây không lâu. Hôm qua, cư sĩ còn nói “Không thấy Tào Bát Bách, có thành Phù đồ (Phật) cũng uổng công. Ha ha, giờ đã thấy Tào Bát Bách ngay trước mặt cư sĩ rồi, cư sĩ giờ có thể thành phù đồ rồi.
Đôi mâu quang của Nhạc Quan như nước, đảo qua nhìn Tào Bằng.
Không biết vì sao, Tào Bằng chợt giật mình.
Những năm cuối thời Đông Hán, Phật giáo vẫn chưa phát triển rầm rộ.
Chính vì thế, bên trong chùa chiền vẫn còn chưa có đủ loại thanh quy, giới luật như sau này, tổ chức hãy còn rời rạc. Người xuất gia không nhất định phải cạo trọc đầu, cũng vẫn có thể tu hành. Nhạc Quan chắc hẳn cũng là như vậy, chính vì thế khi Huyền Thạc giới thiệu chỉ gọi nàng là cư sĩ, am chủ.
Tào Bằng không hiểu rõ lắm về sự phát triển của Phật giáo nhưng ít nhiều hắn cũng biết rằng cái gọi là “Am” trong phật giáo là để chi nơi ni cô tu hành. Tuy nhiên, ở thời đại này, mọi người đều có thói quen gọi là sư.
Chính vì thế, Nhạc Quan cũng có thể gọi là sư quan.
Chỉ có điều, bên cạnh chùa Bạch Mã tại sao lại có một tòa ni cô am như vậy?
Tào Bằng không có chút ấn tượng nào về chuyện này.
Ít nhất, trong trí nhớ của kiếp trước của hắn, khi hắn du ngoạn chùa Bạch Mã, chưa từng nghe nói đến một tòa Ni cô am kỳ lạ như thế.
Có đất chùa chiền, tất có ni cô am.
Tào Bằng lén quan sát Nhạc Quan, chỉ cảm thấy tiểu ni cô này không giống người xuất gia, ngược lại còn phong tình vạn chủng, từng cái giơ tay, bước chân đều có ý hút hồn người.
Thật là một tiểu ni cô lẳng lơ, quyến rũ!
Tào Bằng không nén được lại quay sang nhìn Huyền Thạc, lại nhìn Nhạc Quan, thầm suy đoán: “Phải chăng hai người này có tình cảm với nhau?”
Người ở hậu thế cũng từng có những chuyện như thế này, thế nên Tào Bằng không có gì trách cứ cả.
Tuy nhiên nhìn diện mạo của Huyền Thạc, Tào Bằng chợt không còn ý nghĩ này nữa. Vì sao? Vì diện mạo của Huyền Thạc thực sự là khó nhìn, làn da đen nhánh, gương mặt không biết có phải bị phỏng không, vết thương nhăn nhúm, khiến người khác không muốn nhìn lâu.
Vị ni cô phong tình kia chắc chắn sẽ không để mắt đến Huyền Thạc.
-Lần đầu được gặp Tào công tử, ni thất lễ rồi!
“Ni” là dịch từ âm tiếng Phạn, có nghĩa chỉ nữ nhân. Nếu dịch ra, có thể hiểu đại khái là “tiểu nữ thất lễ rồi”. Đây là cách xưng hô của các sư, người thường không sử dụng đến. Mà từ ni cô ở thời đại này vẫn còn chưa xuất hiện, mãi cho đến thời kỳ Đông Tấn mới có chữ “Ni cô”. Tuy nhiên, ni cô lúc ấy là từ để chỉ các vị sư có phẩm chất cao quý của đức Phật.
Nhạc Quân nói giọng Lạc Dương, dịu dàng, ôn nhu, khiến người nghe mê đắm.
Tào Bằng vội vàng đáp lễ:
-Không biết cư sĩ đến, thật là Tào Bằng đã thất lễ rồi.
-Cúc Hoa Tiên, nàng bày ra dáng điệu như thế là vì coi trọng gã công tử bột này sao?
Tào Bằng nhìn theo phía phát ra giọng nói, chỉ thấy Chúc Đạo đang cười ầm ĩ.
Ngọc diện của Nhạc Quan trầm xuống, nàng chợt cười lạnh:
-Chúc Công, sao không làm bạn với Ngọc Lâm Nhi của ngươi mà lại chạy tới chùa Bạch Mã uống rượu với cư sĩ thế này?
Gương mặt của Chúc Đạo tức thì đỏ bừng, thoáng có chút giận dữ.
Đây là mối quan hệ lung tung, lộn xộn gì thế này?
Ngọc Lâm Nhi là ai?
Tào Bằng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng sự phẫn nộ đối với Chúc Đạo trong lòng hắn lại tăng thêm mấy phần.
Đã có 3 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của ♎ Sói Ngây Thơ
Sử A cũng thấy mất mặt, lạnh giọng nói:
-Chúc Công, hôm nay những người ngồi đây đều là nhân sĩ cao minh, ngươi nói chuyện nên chú ý một chút. Nếu không ta chẳng ngại đuổi ngươi ra khỏi đây đâu.
Dù sao người đương thời đều biết kiếm khách tiếng tăm lừng lẫy địa đầu xà ở đất Tuy Dương này.
Sử A nổi giận khiến mọi người đều xìu xuống.
Chúc Đạo tuy rằng tùy tiện, lại khiếm nhã nhưng bị Sử A quát một tiếng cũng đành phải ngậm miệng lại. Ai chẳng biết Sử A này là người giết người không chớp mắt. Nhớ khi xưa Vương Việt còn sống, Sử A chủ trì Anh hùng lâu ở Tuy Dương, bảo kiếm trong tay không biết đã giết bao nhiêu kẻ gây rối. Lần này, trở về Tuy Dương, Sử A càng ngang ngược hơn trước. Mùa đông năm Kiến An thứ hai, gã hẹn người ở Tuy Thủy đấu kiếm. Đối phương dẫn mười mấy người đến, cuối cùng chỉ còn một mình Sử A sống sót trở về. Sau đó, tàn bộ thành Tuy Dương không còn một kẻ nào dám khiêu khích Sử A nữa.
-Niên huynh, làm gì mà tức giận thế. Lão Chúc chẳng qua hay nói giỡn, chỉ là nói giỡn mà thôi!
Huyền Thạc bước lên phía trước, chen vào nói. Chúc Đạo tuy khó chịu nhưng trước sức ép mạnh mẽ của Sử A cũng không thể không cúi đầu xin lỗi.
Nhạc Quan cười lạnh nói:
-Thật đúng là hạng người nhát gan.
Giọng nói của nàng không to, nhưng mọi người trong các đều nghe thấy rõ ràng.
-Cúc Hoa Tiên, sao ngươi cứ cố ý mang vận xui đến cho ta thế?
Nhạc Quan nói:
-Kẻ nào tìm ta gây sự thì có chịu xui xẻo cũng đúng thôi, cũng chẳng biết người nào sinh sự trước?
-….
Chúc Đạo giận tím mặt, nhanh chân bước về phía trước.
Nhưng Chúc Đạo còn chưa kịp làm gì, một thanh niên trong bữa tiệc lắc mình đi ra, đứng chắn trước mặt Nhạc Quan.
Tuổi tác của người thanh niên này không lớn lắm, chừng hai mươi. Người này răng trắng môi hồng, tuấn tú phi phàm. Người này mặc y phục màu xanh, phong thái nổi bật. Y nhìn Chúc Đạo, lạnh giọng nói:
-Chúc Công, ngươi uống cũng nhiều rồi, tốt nhất nên trở về nghỉ ngơi, đừng ở đây mất mặt nữa.
-Xích Trung, ngươi cũng muốn che chở cho tiểu ma đầu này phải không?
Chúc Đạo còn chưa dứt lời, người thanh niên tên Xích Trung kia đã nổi giận, quát một tiếng, ngắt ngang lời gã.
Một đạo hàn quang chém không xuất hiện, đâm thẳng về phía Chúc Đạo. Sử A nhíu mày, chân khẽ nhích, lắc mình dịch chuyển, thanh trường kiếm nhỏ hẹp vẫn đang lao tới. Chợt một tiếng va chạm đinh tai vang lên, hai thanh kiếm sắc cùng đâm vào một chỗ. Thanh bảo kiếm trong tay Xích Trung tức thì thay đổi phương hướng, chân bước lảo đảo, suýt chút nữa ngã xuống.
-Xích công tử, cẩn thận!
Nhạc Quan nhẹ giọng la lên, vội vàng đỡ lấy Xích Trung.
Gương mặt trắng trẻo của Xích Trung nhất thời đỏ ửng.
-Bá Dư, nể mặt ta, dừng ở đây đi, thế nào?
Sử A có phần tức giận, quay đầu nói với Chúc Đạo:
-Chúc huynh, ngươi hôm nay quả thật nên về nghỉ ngơi đi là hơn.
Khuôn mặt Chúc Đạo đỏ bừng. Gã nhìn Xích Trung và Nhạc Quan, lại nhìn nhìn Sử A.
Đám người Trương Lương, Trương Thái mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, miệng nhìn tim, như lão tăng thiền định, lại như chẳng biết gì.
-Được, Xích Bá Dư, chuyện này ta không để yên đâu.
Xích Trung cười lạnh, nói:
-Bất cứ lúc nào ta cũng sẵn lòng bồi tiếp.
Một cảnh tượng khôi hài liền hạ màn xuống như thế.
Chúc Đạo phẫn nộ bỏ đi, mọi người trong các đều cất tiếng cười to.
-Công tử, đây là Xích Trung – Xích Bá Dư ở Kinh Triệu, là hậu duệ của vọng tộc Tam Phụ.
Sử A chờ Chúc Đạo đi mới giới thiệu với Tào Bằng.
-Xích? Xích gì cơ?
-Chính là con trai của Đế Dự, Xích của Ân Khế.
Tào Bằng giờ mới hiểu ra, chữ “Xích” này chính là màu đỏ. Họ Xích là một dòng họ có từ rất lâu đời, nguyên họ Nguyệt Cơ xuất phát từ chữ “Khế” của con của Hoàng đế Tằng Tôn Đế, là họ do đế vương ban cho.
Tương truyền, Hoàng Đế Tằng Tôn Đế Dự và Nữ Giản vừa gặp đã yêu nhau, sinh ra Ân Khế.
Thuấn Đế rất cao hứng, liền ban cho Ân Khế làm con, lại xưng là Xích thị. Hậu duệ sau này của họ liền lấy Xích thị làm họ, cái tên này tồn tại trong lịch sử đã lâu. Tuy nhiên, những năm cuối thời Đông Hán, Xích thị bị chia làm ba nhánh, ở Tây Xuyên, Kinh Triệu và Tịnh Châu. Xích Trung xuất thân từ Xích thị ở Kinh Triệu, nhưng gia cảnh sớm suy tàn. Người này võ công cao, lại có hiệp khí, kiếm thuật tuyệt đỉnh, cũng là một trong những danh kiếm thủ lẫy lừng ở Tuy Dương.
Hiện giờ Tuy Dương có ba đại kiếm thủ, người đứng đầu đương nhiên chính là Sử A.
Người tiếp theo chính là Chúc Đạo vừa mới bỏ đi, người còn lại là Xích Trung. Hai người này sàn sàn như nhau, hơn nữa lại luôn không hòa thuận với nhau.
Xích Trung và Tào Bằng chào hỏi nhau xong, y liền ngồi xuống.
Tào Bằng lại phát hiện ánh mắt của Xích Trung nhìn Nhạc Quan có hơi kỳ lạ.
Có ái mộ, có sùng bái, còn có một chút gì đó khó có thể nói ra được. Nhưng Nhạc Quan dường như lại không cảm nhận thấy.
-Tuyết Liên, còn không mang hạnh hoa tửu thơm ngon ta mới ủ tới.
Nhạc Quan cười khanh khách, ngồi xuống một bên.
Theo giọng nói của nàng, chỉ thấy một vị sư cầm một vò rượu đi vào.
Vị sư này tuổi tác nhỏ hơn Nhạc Quan một chút, chừng mười bảy, mười tám tuổi. Nàng rất xinh đẹp, thanh tú. Bị mọi người nhìn, nàng dường như có chút ngượng ngùng, đem bình rượu đặt xuống.
-Am chủ còn gì chỉ bảo không?
-Cứ lui ra đi.
-Quan Quan, đã bao lâu không gặp, Tuyết Liên càng ngày càng xinh a.
Trương Lương cười ha ha, nói, nhìn theo vị nữ ni kia rời khỏi các.
Đôi mắt xinh đẹp của Nhạc Quan khẽ nheo, liếc mắt nhìn Trương Lương một cái:
-Trương Nguyên An, Tuyết Liên một lòng tu hành, ngươi cũng đừng có phá tâm của nàng đấy.
-Ha ha, nếu Quan Quan đã có lời, Trương Lương sao có thể không nghe theo được?!
Tào Bằng thiếu chút nữa sặc.
Đây mà là người tu hành sao?
Tại sao lão tử lại có cảm giác cô ta cứ như tú bà trong hộp đêm vậy?
Hắn nhìn Nhạc Quan, lòng không khỏi kỳ quái: “Hay là Cúc Hoa am này chính là một nơi treo đầu dê bán thịt chó, mạo danh trá hình đây?”
-Công tử, đừng dại trêu chọc Cúc Hoa Tiên kia. Thủ đoạn của nàng rất cao minh, nếu không cẩn thận sẽ bị nàng làm cho mê mẩn đấy. Ta vốn định giới thiệu cho công tử vài đoàn đầu ở đây, nào ngờ…
Đoàn đầu là các gọi bọn đầu lĩnh du côn, lưu manh ở thời Hán Đường, cũng có nghĩa là đại ca của các bang phái hắc ám.
Tào Bằng gật gật đầu, hạ giọng nói:
-Ta không thích loại nữ nhân này, còn không bằng tiểu Loan và tiểu Hoàn nhà ta, cùng lắm cô ta chỉ có cái lẳng lơ mà thôi.
Sư A nghe thấy thế, nhất thời mỉm cười.
-Công tử nói không sai, Cúc Hoa Tiên đúng là như thế.
-Nếu Quan cư sĩ đã mang hạnh hoa tửu tới, Tử Du sao không đánh một khúc đàn, lấy vẻ đẹp của Quan cư sĩ làm đề tài vậy?
Trương Thái chợt hăng hái, uống một hớp rượu lớn:
-Huyền Thạc tiên sinh đã có lệnh, Tử Du sao dám không theo. Chỉ có điều, xin nhờ Huyền Thạc tiên sinh mang Phượng Thủ cầm tới.
-Chuyện đó nào có đáng gì.
Huyền Thạc nói xong liền vỗ tay ba cái.
-Mạc Ngôn, đem Phượng Thủ cầm của ta tới.
-Tuân lệnh.
Từ bên ngoài vang lên tiếng đáp lại, tiếng bước chân dần đi xa.
Nhạc Quan uống một ngụm rượu, gương mặt phấn ửng đỏ, dáng người yểu điệu duỗi eo. Sau đó, nàng ta lại cởi một chiếc cúc trên bộ não y rộng thùng thình, để lộ làn da trắng nõn. Cái cổ thon dài, bộ ngực sữa trắng mịn. Trương Lương, Trương Thái không nhịn nổi, nuốt một miếng nước bọt, lộ vẻ thèm thuồng. Nhưng Xích Trung lại khẽ cau mày, hừ nhẹ một tiếng, cúi đầu, cố gắng chăm chú uống rượu, không nói gì nữa.
Huyền Thạc cũng không có phản ứng, hoặc có lẽ y đã quen rồi chăng?
Gương mặt xấu xí của y thoáng nụ cười thản nhiên, y nâng chén mời rượu Tào Bằng. Tào Bằng chắp tay, kính rượu Huyền Thạc từ xa, uống một hơi cạn sạch chén.
Ngày hôm nay, trên đài Dịch Kinh của chùa Bạch mã quả thật có chút cổ quái.
Nhưng chuyện cổ quái nhất không phải là Xích Trung, cũng không phải là Nhạc Quan, mà là vị Bạch Mã Tự khanh nhìn có vẻ đạo hạnh cao thâm kia, Viên Huyền Thạc.
Vì sao lại nói như vậy?
Tào Bằng cảm thấy Huyền thạc không phải là tăng nhân bình thường.
Hắn lại càng cảm giác thấy Huyền Thạc này có vẻ giống mưu sĩ hơn. Y là một người trầm tĩnh, thân lại ở địa vị cao, là người nắm trong tay đại cục. Khí độ như thế này Tào Bằng từng thấy ở Quách Gia, cũng từng thấy trên người Tuân Du. Đương nhiên, Huyền Thạc không sánh được với những người như Quách Gia, Tuân Du. Nhưng từng hành động của y đều không phải là của một tăng nhân thông thường. Người này cũng là người từng trải, phía sau cũng có một câu chuyện gì đó!
Tào Bằng vừa nghĩ tới đây, bên ngoài chợt vang lên tiếng bước chân.
Một tăng nhân trẻ tuổi cầm một cây đàn cổ đi vào trong các.
Người này hơi nhỏ, gầy gò, cũng không cao lắm. Đôi tròng mắt lúng liếng liên tục đảo quanh, lộ vẻ thông minh, lanh lẹ.
-Tiểu Mạc, gần đây thế nào?
Trương Lương cười ha ha, hỏi.
Xem ra gã rất quen thuộc vị tăng nhân này.
-Tiểu tử này tên là Mạc Ngôn, cũng là người lanh lẹ. Trước kia, hắn vốn là một tên tiểu tặc ở Tuy Dương, sau không biết làm sao lại đến chùa Bạch Mã tu hành. Nhưng tiểu tử này rất thích đánh cuộc, lại thiếu chúng ta mấy ngàn quan tiền. Nếu không nể mặt Huyền Thạc tiên sinh, lão tử đã sớm đánh gãy cái chân chó của hắn rồi. Hắn đúng là kẻ cơ trí, nhưng phẩm hạnh thật quá…
Sử A ngồi bên cạnh Tào Bằng, nhẹ giọng giới thiệu với hắn.
Tào Bằng cười cười, không nói gì.
Mạc Ngôn dường như rất ngượng ngùng, cũng rất nhát gan. Đặt cây đàn cổ xuống, hắn quay qua Trương Lương nói:
-Phiền công tử phải nhớ rồi.
Rồi sau đó, hắn không dám liếc nhìn Sử A lấy một cái, cúi đầu đi ra ngoài.
Tào Bằng không khỏi nghĩ thầm: “Chùa Bạch Mã này thật đúng là nơi cổ quái.”
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của ♎ Sói Ngây Thơ
Trương Thái ngắm cây đàn một chút, điều chỉnh lại dây đàn, ngồi nghiêm chỉnh lại. Bộ dáng phóng đãng của y lúc trước tức thì biến mất, thay vào đó là sự tĩnh lặng. Một lát sau, ngón tay y khẽ lướt trên dây đàn, tiếng đàn du dương vang lên trong các. Trong thời gian này, Tào Bằng được Hoàng Nguyệt Anh chỉ dẫn, cũng đã hiểu được chút nhạc lý. Bảo hắn đánh đàn, quả thật hắn chẳng biết gì nhưng nếu bảo hắn nghe thì cũng có thể biết được chút ít.
“Phượng cầu nhi” là bài đàn do Tư Mã Tương Như soạn ra như chim phượng tìm chim hoàng.
Tào Bằng quay đầu nhìn lướt qua Sử A, phát hiện Sử A đang nhẹ nhàng nhịp theo tiếng đàn, thưởng thức.
Đây đúng là thời đại phong lưu, ngay đến tên đầu lĩnh con mẹ nó lưu manh còn có thể nghe hiểu nhạc luật. Lão đại từ đời sau đến thật đúng là phục các ngươi sát đất.
Khúc đàn kết thúc, mọi người cùng trầm trồ khen ngợi.
Trương Thái dường như cũng hồi phục lại một chút tự tin, thoáng đắc ý nhìn Tào Bằng.
-Quan cư sĩ thấy thế nào?
-Tài cầm kỹ của Tử Du quả là xuất thần nhập hóa.
Trương Thái cười, nói với Tào Bằng:
-Tào công tử, nghe nói Khổng Minh tiên sinh cầm kỳ thư họa đều trác tuyệt. Nếu công tử đã bái làm môn hạ của Khổng Minh tiên sinh, tài cầm kỹ chắc hẳn cũng không tồi. Hôm nay, mọi người đã có duyên gặp nhau, sao công tử không đàn một khúc, để ta và mọi người được thưởng thức đi?
Hiển nhiên y đang khiêu khích.
Sử A nheo mắt, ánh mắt gã chợt trở nên sắc bén.
Tào Bằng nhẹ vỗ lên cánh tay gã, ra hiệu gã chớ nóng nảy.
-Tài cầm của Tử Du quả là rất tuyệt diệu, tuy nhiên cũng chỉ là nhờ vào kỹ xảo, sự thành thục, vận khí quá nặng. Bằng không rành về nhạc luật nhưng từng được nghe một người đánh đàn. Khi đó, Tuân Hưu Nhược ở Dĩnh Xuyên, Trương Tử Bố ở Bành Thành, Lỗ Tử Kính của Đông Thành, còn có Vương Cảnh Hưng của Hội Kê đều ở đó đều không ngớt lời tán dương. Lúc ấy, Hưu Nhược tiên sinh từng đánh giá rằng sau Bá Ngô, đây quả là nhân tài kiệt xuất.
Ngươi muốn cùng ta so tài nhạc luật sao? Hừ, lão tử và ngươi cùng chơi đùa một chút. Người nghe đàn với ta hoặc là danh sĩ khắp thiên hạ, hoặc là người tay nắm trọng quyền, hoặc có địa vị cao trong tay. Ngươi có chút tài nhạc là có tư cách bắt ta đánh đàn sao? Chỉ mấy cái tên này thôi cũng đủ hù chết ngươi rồi.
Những người đang ngồi đây nào phải kẻ ngốc.
Nghe Tào Bằng nói xong, cả đám người đều lộ vẻ kính trọng.
Trong những cái tên Tào Bằng nói ra, Lỗ Túc tiếng tăm còn chưa có mấy. Nhưng những người khác như Tuân Diễn, Trương Chiêu, quả thật tiếng tăm lừng lẫy.
Trương Thái đỏ bừng mặt, không nói nổi một câu nào.
Còn Sử A lại tươi cười cổ quái.
Miệng lưỡi của Tào công tử quả là lợi hại, dù là Tô Tần, Trương Nghi có sống lại cũng phải bái phục.
Trương Thái ngày thường to mồm hò hét, mắt cao hơn trán. Hôm nay, y bị công tử làm nhục một phen, thật là khiến người sảng khoái, thật quá sảng khoái a.
Tào Bằng nhàn nhã thong dong, Trương Thái mặt đỏ tía tai.
Cao thấp người nhìn là biết ngay. Trương Thái chỉ là kẻ co đầu rụt cổ trong thành Lạc Dương hoang tàn, cùng đám người rảnh rỗi sống phóng túng. Trong khi đó, Tào Bằng nhỏ hơn y bảy tám tuổi đã ngồi cùng chiếu với các danh sĩ đại nho, cùng đàm luận chuyện đời…
Đã như thế Trương Thái lấy gì để so sánh đây?!
-Xin hỏi người đánh đàn kia là ai?
Tuy nhiên, Trương Thái vẫn không chịu khuất phục, ngang ngạnh hỏi.
Tào Bằng uống một ngụm hạnh hoa tửu, thoải mái nói:
-Giang Đông có câu: “Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố”. Người kia chính là Chu Du - Chu Công Cẩn. Đúng rồi, dường như Chu Lang và Tử Du tuổi cũng xấp xỉ nhau, đều là tuấn kiệt trẻ tuổi, là tấm gương cho ta học theo, quả là người ta mong được trở thành.
Mọi người nghe thấy thế đều lặng ngắt như tờ.
Tăm tiếng của Chu Du giờ đã vang xa. Sau chuyện năm trước khi cướp lấy Đan Dương, tướng quân Minh Hán, Ngô hầu Tôn Sách từng phong Chu Du làm Trung hộ quân, là thái thú Giang Hạ.
Gương mặt Tào Bằng toát lên vẻ khinh thường.
Nhìn đi, người ta cũng là người giỏi nhạc luật, “Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố”, thanh danh của người ta vang dội biết bao nhiêu?! Nhưng người ta không chỉ giỏi âm nhạc, mà còn văn võ toàn tài. Tuổi tác chẳng chênh lệch với ngươi là bao đã tay nắm thực quyền, làm thái thú hưởng hai ngàn thạch bổng lộc, có phải như ngươi đâu?
Trương Thái nghẹn họng, một câu cũng nói không nổi.
Tào Bằng phát hiện gương mặt Huyền Thạc chợt sáng lên, rồi lại thoáng lúng túng, rồi lại trở về dáng điệu bình tĩnh như trước.
Huyền Thạc này không đơn giản!
Trong mâu quang của y hình như nhớ lại chuyện gì đó, lại dường như không cam lòng chuyện gì đó.
Có lẽ cảm nhận được sự chú ý của Tào Bằng, Huyền Thạc khẽ mỉm cười, nâng chén rượu mời, Tào Bằng đáp lễ, uống một hơi cạn sạch chén rượu.
-Trong thiên hạ lại có những nhân vật như vậy sao?
Nhạc Quan không nén nổi tiếng cảm thán, rồi lại khẽ thở dài.
Xích Trung chợt nói:
-Nghe nói Tào công tử nhờ Bát Bách tự văn mà vang danh thiên hạ, tài văn chương xuất chúng. Chúng ta đã có duyên đoàn tụ, sao công tử không phú một bài thơ?
Hả?
Xích Trung tủm tỉm cười:
-Chi bằng lấy đề tài là Quan cư sĩ, thế nào?
-Lấy ta làm đề tài?
Nhạc Quan hơi sửng sốt, rồi sau đó lại mỉm cười.
Nụ cười của nàng khiến mắt của mọi người trong các đều sáng rỡ. Trương Lương, Trương Thái lại càng lộ ra bản tính phóng đãng. Hai người cùng nuốt nước miếng, rồi sau đó cùng trầm trồ khen hay.
Đối với Trương Thái mà nói, y cần cứu vãn thể diện.
Đối với Trương Lương mà nói, y muốn cứu vãn cho người anh em.
Còn Xích Trung…
Tào Bằng khẽ liếc mắt nhìn Xích Trung một cái.
Chỉ thấy Xích Trung ngoài mặt ra vẻ không liên quan đến mình, nhưng khóe mắt lại dừng trên người Nhạc Quan.
A, ngươi vì muốn giai nhân vui lòng mà đem ta ra làm một vị công tử điêu toa sao, thật là…
Sử A nhìn ra Tào Bằng không vui, liền thấp giọng định nói gì đó.
Tào Bằng khoát tay áo, nhìn Xích Trung, lại nhìn vẻ mặt chờ đợi của Nhạc Quan, chợt nảy ra ý định giễu cợt.
Hắn đứng lên, thong thả bước đi trong phòng.
Đám người Trương Thái, Nhạc Quan tức thì nín thở, lẳng lặng nhìn Tào Bằng.
Khóe miệng của Huyền Thạc cũng vẽ lên một nụ cười. Y hiếu kỳ quan sát Tào Bằng, chờ đợi đáp án của hắn.
Một bước, hai bước, ba bước…
Tào Bằng đi được bảy bước, chợt dừng chân lại.
-
Cúc hoa ổ lý cúc hoa am
Cúc hoa am hạ cúc hoa tiên
Cúc hoa tiên nhân chủng cúc thụ
Hựu trích cúc hoa mại tửu tiễn.
-Vế bằng trắc có tương xứng, nhưng câu thơ nghe rất bình thường, không cho là hay.
-Đừng sốt ruột. Hãy nghe vế dưới đã.
Huyền Thạc nói:
-Có lẽ Bát Bách công tử còn có câu hay chưa ra, ngươi và ta cần gì phải sốt ruột chứ?
Lời còn chưa dứt, đã nghe Tào Bằng ngâm tiếp.
-
Tửu tỉnh chích tại hoa tiền tọa,
Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên
Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật
Hoa lạc hoa khai niên phục niên
Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian
Bất nguyện cúc cung xa mã tiền
Xa trần mã túc quý giả thú
Tửu trản hoa chi bần giả duyên
Nhược tương phú quý tỉ bần giả
Nhất tại bình địa nhất tại thiên
Nhược tương bần tiện tỉ xa mã
Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn
Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên
Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên
Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ
Vô hoa vô tửu sừ tác điền.
Tào Bằng ngâm xong, liền nắm lấy chén đồng, lảo đảo đi đến trước bàn của Nhạc Quan. Chỉ thấy hắn giơ tay, đỡ lấy cánh tay trắng mịn của Nhạc Quan:
-Cúc Tiên Hoa, ta kính nàng một chén.
Cánh tay ngọc của Nhạc Quan trắng nõn nà, mềm mại, tựa như không xương.
Lúc đầu, nghe Tào Bằng làm thơ, nàng chỉ mỉm cười, không nói gì.
Nhưng càng về sau, nàng càng không khỏi say đắm, thật không ngờ bài thơ này lại nói về chính mình.
Đôi mắt đẹp như làn thu ba lưu chuyển, bàn tay mềm mại của Cúc Hoa Tiên nắm lấy chén đồng dài, mảnh mai. Nàng khẽ cắn đôi môi đỏ mọng, má lúm đồng tiền ửng hồ, nàng thấp giọng nói:
-Đa tạ công tử.
Dứt lời, nàng nâng chén định uống rượu.
Chẳng ngờ lại bị Tào Bằng cản lại.
-Cúc Hoa Tiên, uống rượu như thế không thú vị. Chi bằng nàng và ta cùng ngoắc tay uống chén này đi?
Vừa nói, Tào Bằng vừa liếc mắt nhìn Xích Trung một cái.
Ngươi đẩy ta xuống nước, lão tử liền đùa giỡn với người trong lòng ngươi. Tay hắn vắt ngang qua tay Nhạc Quan, rồi đặt chén rượu đồng lên môi. Thân người khẽ nghiêng nghiêng, Tào Bằng đã dán người lên trước ngực Nhạc Quan.
Đôi má lúm đồng tiền của Nhạc Quan bị phương thức uống rượu này của Tào Bằng làm cho đỏ hồng thêm. Chén rượu giao bôi này nàng uống một hơi cạn sạch, hơi thở theo đó mà dồn dập hơn. Đôi bờ ngực trắng nõn, mềm mại theo đó mà phập phồng, chạm vào cánh tay của Tào Bằng.
Gương mặt của Xích Trung đằng đằng sát khí.
............
*Chú thích: Bài Cúc Hoa am ca Tào Bằng vừa ngâm thực chất là bài Đào Hoa am ca của Đường Dần - Đường Bá Hổ. Dịch nghĩa của bài thơ là:
Ở thôn đào có am hoa
Trong am có một vị tiên hoa thuở nào
Tiên hoa trồng cội hoa đào
Lại đem hoa hái đổi bầu rượu thơm
Tỉnh cơn ngồi cạnh gốc hương
Say thời nằm dưới cội đơm ngủ vùi
Tỉnh say ngày lại qua ngày
Hoa tàn hoa nở năm tày nối năm
Nguyện cùng hoa rượu chết nằm
Chẳng mong khom gối trước dằm ngựa xe
Người vui xa mã xênh xê
Kẻ nghèo ta đấy duyên tề rượu hoa
Bần hàn, phú quý so ra
Trời cao, đất lạnh sánh mà được sao
Ngựa xe tranh với thanh cao
Người thời tất bật, ta cầu thong dong
Người cười ta kẻ điên khùng
Ta cười người đấy, người chừng hiểu chăng?
Thấy không hào kiệt Ngũ Lăng
Mộ nào hoa rượu, đất san ruộng cày.
Tào Bằng không nén được cảm giác sảng khoái, tiếp tục giữ tay Nhạc Quan dạo quanh bữa tiệc.
Cảnh xuân quang của thành Lạc Dương quả là đẹp, có thể thấy được cả lớp áo lót xuân phơi phới kia a.
Trân trọng chủ nhân tâm,
Tửu thâm tình diệc thâm.
Tu sầu xuân luận đoản,
Mạc tố kim bôi mãn.
Ngộ tửu thả a a,
Nhân sinh năng kỷ hà!
Thật sảng khoái, thật sảng khoái a!
(Trân trọng lòng chủ nhân, rượu nồng lại tình thâm.
Buồn giọt xuân ngắn ngủi,
Chén rượu đầy chi đỗi.
Say rượu hát nghêu ngao,
Đời người được có bao.)
Có thể thấy được đôi mắt quyến rũ của Nhạc Quan đầy vẻ mê đắm gần như dán lên người Tào Bằng.
Gương mặt Xích Trung u ám, trắng bạch, y cúi đầu, không nói lời nào.
-Hôm nay, được cùng mọi người tham dự bữa tiệc này, Tào Bằng rất vui nhưng mấy ngày tới ta còn phải tới Lục Hồn, nên phải nghỉ ngơi sớm. Mọi người, nếu có duyên chúng ta còn gặp lại. Đến lúc đó, ta nguyện nghe đại sư giảng Phật hiệu, nghe tiên tử diệu âm, đương nhiên còn có khúc tiên nhạc của Tử Du.
Tào Bằng uống ba chén lớn rồi cáo từ, rời đi.
Sử A vội vàng đứng dậy, theo sát phía sau Tào Bằng.
Mọi người cũng bị khí phách phóng khoáng của Tào Bằng làm cho cảm động, đều rời khỏi chỗ ngồi. Cho dù là Xích Trung đang bất mãn giờ cũng chỉ có thể cố gắng mỉm cười.
Ngay đến nhân vật như Huyền Thạc nghe thấy tiếng cười sang sảng của Tào Bằng xa dần cũng chỉ biết cảm thán.
Nhìn lướt qua vẻ mặt xuân tình của Nhạc Quan, y chợt cười lạnh trong lòng, Nào ai biết được Tào Bằng làm bộ dáng lão thần tiên cười to sảng khoái rời đi rồi, đến khi lên xe, hắn vẫn không nhịn nổi, tiếp tục cười cười.
Cũng không biết sau này, Đường Bá Hổ còn có thể ra oai được nữa không? Một khúc Cúc Hoa Am ca kia hôm nay coi như đã biến Cúc Hoa Tiên thành một vị tiên hoa cúc rồi.
Không biết ở hậu thế, cây hoa cúc còn có những thâm ý sâu xa nào nữa.
Đến khi đó, mọi người sẽ bình luận về vị Cúc Hoa Tiên tử này như thế nào đây?
Càng nghĩ, Tào Bằng lại càng cảm thấy thú vị, không nhịn nổi cười mãi trên xe. Bên ngoài xe, Hạ Hầu Lan và hai gã vệ sĩ Phi Mạo đều mù mờ, không hiểu chuyện gì. Bọn họ cũng muốn biết tại sao đang yên đang lành, Tào Bằng lại ngồi trong xe cười mãi như thế? Chẳng lẽ chùa Bạch Mã có chuyện cười gì hay lắm?! Nhưng chuyện của chủ nhân, thân là gia tướng sẽ không hỏi, cũng vì thế, bọn họ chỉ biết giấu trong lòng mà thôi.
Ra khỏi chùa Bạch Mã, đoàn xe men theo con đường lớn mà đi thẳng về hướng đông.
Trong bóng đêm, núi Bắc Đặng nguy nga, như một tấm lá chắn thật lớn.
Tào Bằng ngưng cười, hít một hơi thật sâu, dựa vào thành xe, hơi mơ màng.
Uống rượu vào thật nóng!
Ba chén cuối cùng kia khiến toàn thân hắn nóng bừng lên!
Tào Bằng uống không nhiều, nhưng hắn thật không ngờ rượu Đông Hán dù chưa trải qua quá trình chưng cất, chỉ uống bảy tám chén rượu này lại có tác dụng tuy chậm nhưng lại không nhẹ chút nào.
Gió khẽ thổi qua, Tào Bằng cảm giác thấy hơi rượu đang dâng lên.
-Dừng xe, dừng xe!
Tào Bằng nhảy từ trên xe ngựa xuống, ôm lấy một gốc cây, nôn ọe.
Thật sự là mất mặt a!
Nhưng cũng may là hắn không nôn ở chùa Bạch Mã, ngay trước mặt mọi người mà phun rượu, nếu không càng thêm mất mặt a.
-Tử U, về rồi không được nói lung tung đấy.
Hạ Hầu Lan nhịn cười, liên tục gật đầu, nói:
-Công tử yên tâm, ta biết làm sao mà.
Giờ Tào Bằng mới thoải mái trở lại. Hắn đứng ở bờ sông, ưỡn ngực. Hắn ngẩng đầu, tham lam hít sâu một hơi ngập hương hoa. Ở thời hậu thế khó có thể thưởng thức bầu không khí nhẹ nhàng, lại khoan khoái như thế này. Tào Bằng gãi gãi đầu, thở dài một cái, xoay người chuẩn bị trèo lên xe. Đúng lúc này, chợt thấy một chiếc xe đẩy từ một bên đường nhỏ chạy ngược đến.
Một người ngồi trên xe, hai người ở phía sau đẩy xe. Hóa ra là nông dân trong vùng về nhà…
Tào Bằng vốn không để ý tới, nào ngờ chiếc xe đẩy kia vừa tới bên bờ sông, người đẩy xe chợt dừng lại, bất thình lình đẩy xe dựng lên. Người ngồi trên xe tức thì văng xuống sông. Chỉ nghe bùm một tiếng, hai nam tử đẩy xe cùng đổi đầu xe định bỏ đi. Tào Bằng giật mình, trong đầu chợt nảy ra một suy nghĩ: “Giết người rồi.” Hắn vội vàng hô:
-Mau bắt kẻ đang chạy trốn đi!
Vốn dĩ người đẩy xe không nhìn thấy Tào Bằng, chính vì thế vẫn chưa hề để ý.
Nhưng vừa nghe thấy tiếng kêu của Tào Bằng, hai gã nam tử vứt cả xe, mỗi người chạy một hướng.
-Tử U, tóm lấy bọn họ!
Hạ Hầu Lan vội thúc ngựa đuổi theo, nhưng không ngờ hai gã nam tử vừa thấy y cưỡi ngựa đuổi liền tức thì rúc đầu chui vào rừng rậm.
Tào Bằng dẫn theo mấy tên vệ sĩ Phi Mạo, chạy tới bên bờ sông.
-Cứu người, mau cứu người!
Hai gã Phi Mạo này đều là người Đan Dương.
Chính vì thế, kỹ năng bơi của bọn họ cũng không kém. Nghe thấy Tào Bằng la lên, hai người tức thì tung người nhảy xuống sông. Tào Bằng đứng trên bờ, đầu vẫn váng vất.
Chuyện này quả thực khiến người toát mồ hôi lạnh.
Lúc này, hơi rượu tức thì hoàn toàn biến mất. Hắn vỗ nhẹ nhẹ lên trán, xoay người đi đến bên chiếc xe, cẩn thận quan sát.
Đây là một chiếc xe đẩy cực kỳ bình thường, không có bất cứ ký hiệu gì.
Hạ Hầu Lan thúc ngựa trở về, xấu hổ nói:
-Công tử, hai kẻ kia chạy mất rồi.
-Chạy?
-Đúng vậy, bọn họ dường như rất quen thuộc địa hình. Vừa vào trong rừng liền một rẽ đông, một rẽ tây, thoáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Ta tuy có chiến mã nhưng.
-Được rồi, ta hiểu rồi.
Tào Bằng giờ đã trấn tĩnh lại nhiều. Hắn đứng dậy, trầm ngâm không nói.
-Tử U, ngươi lập tức tới quan thự, mời tứ ca dẫn người tới đây.
-Tuân lệnh!
Hạ Hầu Lan chắp tay tuân lệnh, giơ roi đi luôn. Tào Bằng tiếp tục ở lại bên bờ sông, quan sát địa hình bốn phía. Cách đó không xa chính là núi Bắc Đặng, sông Lạc Thủy lại ôm trọn lấy ngọn núi này, xung quanh có không ít thôn xóm. Hạ Hầu Lan nói hai người kia rất quen thuộc địa hình, chắc hẳn bọn họ là người vùng này. Tào Bằng vỗ vỗ trán, mải mê suy nghĩ, chợt nghe có tiếng nước từ phía lòng sông vang lên. Hai gã vệ sĩ Phi Mạo thở hổn hển, đi lên bờ sông.
-Người đâu?
-Công tử, không có ai cả.
-Hả?
-Chúng ta đã tìm cả dưới đáy sông rồi, không hề phát hiện thi thể nào hết. Ngoài nước bùn chỉ có nước bùn mà thôi.
Tại sao lại có thể như vậy?
Tào Bằng vừa nghe thấy, tức thì ngây ngẩn cả người.
Hắn tận mắt nhìn thấy hai người kia đem người trên xe ném xuống sông, sao có thể không thấy thi thể được? Hắn bước nhanh đi đến bên bờ sông, nhìn nước sông. Một lát sau, Tào Bằng hỏi:
-Liệu có phải là nước sông chảy xiết cuốn trôi người đi không? Chính vì thế, các ngươi mới không tìm thấy?
-Không thể nào, nước sông này không xiết lắm. Nếu là nước trên thượng nguồn còn có khả năng. Nhưng dòng nước như thế này không thể cuốn người đi được. Lý Quang, chi bằng chúng ta xuống xem lần nữa đi?
Một vệ sĩ Phi Mạo mở miệng nói.
Người tên Lý Quang gật đầu:
-Vậy thì chúng ta chia ra. Đại Nha, ngươi hướng lên trên, ta đi xuống dưới. Công tử, ngài thế thế nào?
-Vậy ta chờ các ngươi.
Lý Quang và Đại Nha nghỉ ngơi trong chốc lát, lại nhảy xuống dòng nước.
Tào Bằng đứng trên bờ, khoanh tay nhíu mày, lẳng lặng chờ đợi.
Xa xa, vang lên tiếng người hò hét, tiếng ngựa hý vang.
Hạ Hầu Lan trở về quan thự bắc bộ úy liền đánh thức Chu Tán dậy. Chu Tán nghe thấy thế, lập tức dẫn hơn mười tên dịch đãi vội vàng đi cùng Hạ Hầu Lan.
-Hữu Học, tình hình như thế nào?
Chu Tán từ rất xa đã la lên.
Tào Bằng quay người lại, vẫy vẫy tay với Chu Tán.
-Tứ ca, ngại quá, đã trễ thế này còn bảo huynh gọi người tới.
-Nói gì thế, ta là bắc bộ úy Lạc Dương, nơi này thuộc đất ta cai quản. Có người gây án, ta sao có thể không quan tâm được. Rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra? Hung thủ đâu? Thi thể đâu?
-Hung thủ chạy rồi, nhưng theo lời Tử U thì người này chính là người ở quanh đây, sẽ không chạy quá xa đâu. Thi thể đến giờ vẫn chưa tìm thấy. Ta tận mắt nhìn thấy bọn họ đem người thả mạnh xuống sông, nhưng cũng không biết vì sao, ta phái người xuống vớt lại không phát hiện chuyện gì cả. Đúng rồi, còn có chiếc xe này nữa, là do hung thủ lưu lại nhưng lại không có bất cứ manh mối gì cả.
Ào!
Đại Nha từ phía hạ du dòng sông thò đầu lên:
-Công tử, vẫn không có gì.
-Công tử, phía bên thuộc hạ cũng không tìm được gì.
Tào Bằng nhíu mày, cao giọng nói:
-Đại Nha, Lý Quang, các ngươi lên bờ trước đã.
Hắn nói xong liền xoay người nói tiếp với Chu Tán:
-Vẫn không tìm được thi thể. Ta lệnh cho Đại Nha và Lý Quang tìm xung quanh nhưng không hề phát hiện bất cứ cái gì. Tứ ca, chuyện này có vẻ kỳ lạ, chỉ bằng huynh sai người người xuống xem thử có phát hiện điều gì không?
Chu Tán ngẫm nghĩ một chút, gật đầu nói:
-Cứ làm như thế đi.
Rồi sau đó, y cười nói:
-Được rồi, chuyện bên này ta sẽ quan sát. Xem ra ngươi uống không ít rượu rồi, cứ về trước nghỉ ngơi đi. Ngày mai còn phải xuất phát nữa. Tử U, ngươi cùng công tử ngươi về trước đi. A Phúc, ngươi cứ yên tâm, ta sẽ tiếp tục sai người vớt xác.
Tào Bằng gắng sức gật gật đầu.
-Vậy xin nhờ tứ ca!
Tuy nhiên, sau khi trở về quan thự, Tào Bằng vẫn không ngủ được.
Hắn nằm trên giường, lăn qua lăn lại, trằn trọc đến hơn nửa đêm. Mãi đến giờ sửu, hắn mới miễn cưỡng khép mắt lãi. Cũng không biết đã ngủ được bao lâu, Tào Bằng chợt nghe bên ngoài vang lên tiếng ồn ào. Hắn mở mắt, ngồi dậy, khoác áo đi ra ngoài phòng khách.
Chỉ thấy vẻ mặt Chu Tán hết sức mỏi mệt, y đang nói chuyện với Hạ Hầu Lan.
-A Phúc, đánh thức ngươi dậy rồi.
-Tứ ca, tình hình như thế nào?
Chu Tán cười khổ, lắc lắc đầu:
-Vẫn chưa phát hiện điều gì cả.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của ♎ Sói Ngây Thơ
Rõ ràng nhìn thấy người rơi vào lòng sông, chẳng ngờ lại chẳng có chút tung tích nào.
Chuyện này thực sự quá ly kỳ, chính vì thế Tào Bằng không khỏi nghĩ mãi. Phải biết rằng, hắn đã tận mắt nhìn thấy người nọ bị hất văng ra khỏi xe đẩy, vậy như thế nào y lại biến mất kỳ lạ, không chút dấu vết như thế? Máu hình sự từ kiếp trước lại sôi trào, Tào Bằng không nén nổi sự hiếu kỳ.
-Tứ ca.
Tào Bằng vừa định mở miệng nói, đã bị Chu Tán cản lại.
-A Phúc, ta biết ngươi muốn làm gì, nhưng trời đã sáng, ngươi còn phải đến núi Lục Hồn nữa. Lần này, ngươi có thể bái kiến trở thành môn hạ của Khổng Minh tiên sinh, có thể nói là đại phúc đại khí, ngàn vạn lần chớ nên bỏ qua. Còn chuyện này ta sẽ dốc sức điều tra. Đã có người bị đẩy xuống sông, chắc chắn phải có tử thi. Sau khi trời sáng hẳn, ta sẽ báo cáo huyện lệnh Tuy Dương phong tỏa toàn bộ đường sông Tuy Thủy, nhất định có thể tra được rõ ràng. Việc cần kíp của ngươi lúc này là thu dọn đồ, chuẩn bị sẵn sàng xuất phát. Từ đây đến núi Lục Hồn còn mất hai ngày đường nữa.
Tào Bằng ngẫm nghĩ một chút, gật đầu đáp ứng.
Bất kể như thế nào hiện hắn cũng chỉ có danh Kỵ đô úy, không có đến nửa phần thực quyền. Nói khó nghe một chút thì vụ án mạng này xảy ra ở Tuy Dương, là việc của huyện lệnh Tuy Dương và Chu Tán. Nếu như hắn quá nhiệt tình, chẳng phải nói bọn Chu Tán vô năng sao?
Tuy nói hắn và Chu Tán là huynh đệ kết nghĩa, nhưng chưa chắc Chu Tán đã vui lòng.
Chuyện này không chỉ là vấn đề về trách nhiệm và quyền lợi mà còn bao gồm cả thể diện của quan lại Tuy Dương từ trên xuống dưới.
Án mạng xảy ra dĩ nhiên là phải do quan viên Tuy Dương phụ trách, ngươi là một Kỵ đô úy lại chạy tới chỉ trỏ là có ý gì?
Ở thời hậu thế cũng thường xảy ra chuyện này.
Cục cảnh sát nói là sẽ hợp tác, nhưng thực tế nếu vụ án xảy ra ở địa phương nào thì cảnh sát địa phương đó chắc chắn sẽ không vui vẻ gì nếu có cảnh sát nơi khác đứng đó chỉ trỏ hay nhúng tay vào.
Tào Bằng không ngốc, Chu Tán tuy không nói rõ ràng nhưng hắn đã chú ý tới ý tứ trong lời nói của y.
Gãi gãi đầu, hơi xấu hổ cười cười, Tào Bằng nói:
-Tứ ca, huynh yên tâm. Ta chỉ đứng xem thôi. Hừng đông ta sẽ đi.
Chu Tán vỗ vỗ bờ vai của Tào Bằng, không nhiều lời nữa.
Quách Hoàn và Bộ Loan ở một bên thu dọn đồ đạc. Hạ Hầu Lan dẫn theo người chuẩn bị ngựa xe.
Tào Bằng đứng trên bậc thang tiền đình của dinh thự Bắc bộ úy, nhìn hai tên dịch đãi đẩy mạnh chiếc xe đẩy tới. Hắn liền nhảy xuống bậc thang, đi tới chỗ bọn họ.
-Chờ chút!
Dịch đãi vội vàng thi lễ.
Tào Bằng nói:
-Đây chính là chiếc xe bên bờ sông đúng không?
-Đúng ạ.
Hắn đi quanh chiếc xe đẩy hai vòng, chợt nhìn chăm chú, bốc lên một chút bùn đất trên xe.
-Các ngươi nói thử xem sao trên xe này lại có bùn vậy?
Hai tên dịch đãi nhìn nhau. Một tên cười nói:
-Công tử, chiếc xe đẩy này vốn là công cụ chở đồ linh tinh, có đôi khi chở nhiều thứ đồ được đặt chất đống trên đất. Có dính bùn đất cũng là chuyện bình thường thôi. Nhà của ta cũng có một chiếc xe đẩy còn bẩn hơn thế này cơ.
-Vậy sao?
Tào Bằng ngẫm nghĩ một chút, gật gật đầu, xem như công nhận câu trả lời này.
-Công tử, chúng ta đem vật này vào nhà kho trước đã.
-Thứ này để ở nhà kho sao?
-Đúng vậy, thật ra cũng không hẳn là nhà kho, chỉ là một gian phòng cất đồ thôi, rất lộn xộn. Chu bắc bộ úy nói giá tiền chế tạo chiếc xe đẩy này không thấp. Người nào bị mất nhất định sẽ đến lĩnh, cho nên trước mắt cứ cất giữ đã, sau đó sẽ dựa vào tình hình rồi quyết định.
-Cũng tốt, vậy cẩn thận một chút.
Tào Bằng cười cười, xoay người rời khỏi đây.
Thật đúng là con mẹ nó khó phân biệt a. Tuy nhiên bằng vào khả năng của tứ ca lại có mọi người ở Tuy Dương giúp đỡ, chắc việc tìm ra hung thủ cũng không khó khăn lắm.
Nói ra thì quan phủ muốn lập án cần tìm được thi thể trước đã.
Chỉ cần tìm được thi thể kia, chân tướng mọi chuyện đều sẽ rõ cả thôi.
-Công tử, mọi thứ đã thu dọn xong rồi.
-Vậy chúng ta chuẩn bị đi thôi.
Tào Bằng day day mũi, cất bước đi vào trong nhà.
Lúc này, trời đã tờ mờ sáng. Chu phu nhân cũng đã thức dậy, ôm lấy đứa nhỏ chuẩn bị đi ra.
Chu Tán không có ở nhà, nghe nói là ra ngoài tìm huyện lệnh Tuy Dương để báo án, đồng thời xin viện trợ. Chu phu nhân nói khi Chu Tán đi có nói sẽ không tiễn được Tào Bằng, muốn hắn đi đường cẩn thận. Sau khi đến núi Lục Hồn, nhất định phải học thật tốt, đừng để làm mất mặt tiểu bát nghĩa.
Nói xong, Chu phu nhân còn sai người lấy một cái gói đưa cho Tào Bằng.
-Đây là đồ tứ ca chuẩn bị cho đệ. Lúc nào tới Lục Hồn, nếu có gì cần, thì cứ báo một tiếng. Dù sao Tuy Dương cách đó cũng không xa lắm, có cần cái gì cũng tiện hơn.
Trong cái gói đó có một tập giấy, cùng một quyển sách.
-Tứ ca đệ nghe nói đệ thích đọc Luận ngữ, cho nên sai người tìm cuốn “Luận ngữ” này, tặng cho đệ làm lễ vật bái sư. Nghe huynh ấy nói, quyển “Luận ngữ” này là do Thái Ấp biên soạn. Lúc trước, nó cũng được cất trong tàng thư, tứ ca đệ mất rất nhiều công sức mới tìm được nó đấy.
Một quyển “Luận ngữ” thắm đượm tình cảm anh em.
Có lẽ, Chu phu nhân không hiểu được sự quý giá của cuốn “Luận ngữ” do Thái Ấp biên soạn, nhưng Tào Bằng hiểu rất rõ.
Ở đời sau, Luận ngữ có rất nhiều phiên bản nhưng phần lớn đều là do Trịnh Huyền soạn ra, về sau lại dần dần phát triển thêm nữa. Hầu hết mọi người không biết rằng những năm cuối thời Đông Hán, Thái Ấp thanh danh chẳng hề kém đại sư kinh học Trịnh Huyền là bao. Ông viết ra Luận ngữ lại càng được nhiều người xem hơn, còn được hoàng thất cất giấu. Chỉ có điều, những cuốn sách do Thái Ấp soạn gần như thất truyền. Chính vì thế, cuốn Luận ngữ do Thái Ấp soạn ra không có nhiều người biết, ngay cả Tào Bằng cũng không hiểu rõ lắm.
Nhưng hắn biết rằng vật như thế hiển nhiên là vô cùng quý giá. Sao hắn có thể không cảm kích cho được?
Chu Tán là người nghiện làm việc, nếu y đã nói như thế thì hắn cũng không cần phải đợi nữa.
Vì thế, Tào Bằng liền ngồi lên Chiếu Dạ Bạch. Quách Hoàn và Bộ Loan cùng ngồi lên xe ngựa. Mọi người chắp tay từ biệt với Chu phu nhân ngoài cửa quan thự Bắc bộ úy rồi vung roi ngựa đi.
Trời đã sáng, hai mươi cửa thành của thành Tuy Dương đều đã mở.
Tào Bằng đi dọc theo con phố, thẳng hướng đến Ung môn. Bên ngoài Ung môn, Sử A mang theo một hộp đồ ăn, đang chờ đoàn người của Tào Bằng.
-Sử đại hiệp, sao đại hiệp lại ở đây?
-Công tử, đường đi Lục Hồn rất xóc. Sử A cũng không có gì để tặng công tử nên chuẩn bị chút điểm tăm đặc biệt của Tuy Dương, trên đường đi công tử có thể thưởng thức một chút.
Lần này tới Tuy Dương quá gấp gáp, Sử A không thể tiếp đãi công tử tốt được.
Lần sau, công tử lại đến Tuy Dương, nhất định phải để Sử A được dốc lòng tiếp đón một phen.
Hộp đồ điểm tâm vẫn còn nóng hổi, hiển nhiên là vừa ra lò.
Sử A này tuy là người giang hồ nhưng không thể không nói gã là người trọng tình trọng nghĩa, hơn nữa rất chu đáo.
Tào Bằng cũng không khách khí, nhận lấy hộp đồ ăn trong tay Sử A, đưa cho Bộ Loan giữ.
-Sử đại hiệp, lần sau ta đến Tuy Dương, nhất định sẽ quấy quả đại hiệp một phen.
-Nhất ngôn cửu đỉnh.
Tào Bằng lại lên ngựa, chắp tay từ biệt Sử A.
Nhìn đoàn người của Tào Bằng đi càng lúc càng xa, Sử A thở phào một cái.
-Sư phụ, Tào Bằng kia chẳng qua chỉ là một Kỵ đô úy không có thực quyền, sao ngài phải coi trọng hắn như thế? Trước đây, không phải nhị công tử còn phái người truyền tin nói là mời ngài về Hứa đô dạy ngài ấy kiếm thuật sao? Có nhị công tử rồi, ngài hà tất phải để ý đến một Kỵ đô úy nho nhỏ chứ?
Nhị công tử chính là Tào Phi.
Sử A tuy nói là tiếp nhận đổ phường Thịnh Thế nhưng không tiếp nhận danh hiệu thầy dạy kiếm cho Tào Phi.
Xuất thân của gã, và những việc gã từng làm buộc gã không thể làm quan được. Nhớ lúc trước, lão sư Vương Việt của Sử A thân là lão sư kiếm thuật của Hoàng đế, một đời cầu quan, kết quả vẫn là tay trắng. Sử A không bằng Vương Việt nhưng có một điểm gã hơn Vương Việt đó là gã thích làm hiệp khách hơn.
Rất nhiều con cháu thế tộc quyền quý đều muốn làm hiệp khách, khiến cho những người làm hiệp khách nhìn qua rất nở mày nở mặt.
Nhưng trên thực tế, hiệp khách chân chính lại không quan tâm đến những chuyện như thế. Đen là đen, dù có như thế nào cũng không thể biến thành màu trắng được. Không có xuất thân tốt, làm hiệp khách chẳng khác nào tuyệt đường làm quan. Cho nên, ngay từ đầu, Sử A đã không muốn lăn lộn lẫn vào chốn quan trường.
Thà rằng cai quản Anh hùng lâu, kết bạn với anh hùng trong thiên hạ.
Sử A cảm thấy rất thoải mái.
Người vừa nói chuyện là đồ đệ của Sử A, tên là Miêu Húc.
Sử A cười cười, hạ giọng nói:
-Nhị công tử là nhị công tử, Tào công tử là Tào công tử. Ngươi không hiểu được đạo lý huyền diệu trong chuyện này đâu.
Miêu Húc mờ mịt, chẳng hiểu gì!
Tháng ba năm Kiến An thứ tư, Viên Thuật bại trận lùi về Giang Đình.
Trong lịch sử ghi lại, y chết vào tháng sáu.
Nguyên nhân chính là sau khi Lưu Bị một lần nữa chiếm lấy Từ Châu, mặc dù phụng mệnh ngăn chặn Viên Thuật nhưng bản thân gã lại không hề có ý định dốc toàn lực. Mà nay, Lưu Bị chạy trối chết ở Thanh Châu, hoảng sợ như chó nhà có tang vậy. Đặng Tắc và Trần Đăng liên kết, chia binh làm hai đường, dốc sức truy đuổi Viên Thuật dồn dập, không lúc nào thả lỏng.
Đến nỗi, khi Viên Thuật trốn tới Giang Đình, trong tay y chỉ còn lại ba mươi hộc lương thảo.
Y rất tức giận, rất muốn xả cho hết con giận này, nhưng nguyện vọng nho nhỏ này cũng không thể nào thực hiện nổi.
Ngồi trên giường, Viên Thuật hét lớn:
-Viên Thuật ta cũng có ngày hôm nay.
Trút ra cơn oán giận xong, lửa giận bốc lên hừng hực, y hộc máu bỏ mạng. Đường đường là gia tộc tứ thế tam công đến cuối cùng lại có kết cục thê lương như thế, thật chẳng ai có thể ngờ được. Sau khi Viên Thuật mất, tòng đệ là Viên Dận không dám trở về Thọ Xuân, liền dẫn theo bộ khúc, hộ tống linh cữu cùng vợ con của Viên Thuật định đến Lư Giang. Nào ngờ lúc này Lư Giang đã bị Tôn Sách chiếm lấy. Sau khi thành bị công phá, Lưu Huân chẳng biết đã đi đâu.
Đoàn người của Viên Dận rơi vào tay Tôn Sách!
Tôn Sách có được Lưu Giang, Đan Dương rồi, lực lượng tăng vọt.
Cuối tháng ba, hắn dẫn binh đóng quân ở Đan Đồ, luôn rình rập Quảng Lăng.
Nhất thời, Lưỡng Hoài lại dậy sóng. Tào Tháo vội vàng sai đại tướng Chu Linh dẫn quân đóng ở Bái huyện, luôn sẵn sàng tiếp viện Trần Đăng. Đồng thời, y lại lệnh cho đồn điền đô úy Hải Tây Đặng Tắc tuyển mộ binh mã. Ngày hai mươi bảy tháng ba, binh lính của Tôn Sách chia làm hai đường, từ Đan Đồ, Lư Giang đánh tới Quảng Lăng.
Dọc đường, Tôn Sách đích thân dẫn quân, đánh chiếm Giang Thủy.
Một đường khác do Tôn Hà thống lĩnh, lấy Đan Đồ trưởng là Lã Mông làm tiên phong, công chiếm Đông Lăng Đình, ý đồ hai mặt giáp công huyện Quảng Lăng, định chiếm lấy nơi này.
Nông đô úy Quảng Lăng Vương Mãi khẩn cấp xin viện binh của Hải Tây cho Hải Lăng!
Chiến tranh Giang Hoài nổi lên, nhưng Tào Bằng hoàn toàn không biết gì.
Lúc này, hắn đang trên đường tới Núi Lục Hồn.
Núi Lục Hồn còn có tên khác là Không Tang. Thời Xuân Thu, Tần Tấn đã đổi tên nơi này thành Lục Hồn. Thời kỳ Chiến quốc, nơi đây từng là thủ đô của nước Chúc Hàn. Sau thời Hán đại, huyện Lục Hồn ra đời, thuộc quyền quản lý của quận Hoằng Nông. Trên đường đi, Tào Bằng đi cũng khá chậm, nên vừa đi vừa có thể thưởng thức cảnh sắc ven đường. Khi đến được Lục Hồn, trời đã tối. Chính vì thế, hắn và Hạ Hầu Lan bèn hỏi nơi nghỉ ngơi của huyện lệnh huyện Lục Hồn và của Hồ Chiêu. Đêm đó, cả đoàn người nghỉ ngơi trong quan dịch của huyện Lục Hồn.
Trong khoảng cách ba trăm dặm, núi Lục Hồn có nước bao quanh.
Muốm tìm được Hồ Chiêu trong núi lớn bao la, cách tốt nhất là thông qua quan phủ đã.
Sáng sớm hôm sau, Tào Bằng liền rời khỏi quan dịch của Lục Hồn, đi thẳng đến Ngọa Long cốc. Thanh danh của Hồ Chiêu rất vang dội, lại thêm ông đã xây dựng thư viện ở núi Lục Hồn này, nên muốn hỏi thăm tin tức cũng không hề khó.
Chỉ có điều, Tào Bằng cảm thấy hết sức kỳ quái.
Hai vị Khổng Minh đều có hiệu là Ngọa Long, đều vừa làm ruộng vừa dạy học. Một Ngọa Long ở đồi Nam Dương, một thì ở đất Ngọa Long, núi Lục Hồn. Chẳng lẽ hai Ngọa Long này có mối liên hệ gì với nhau ư?
Cũng có thể nói người tên Khổng Minh đều thích hai chữ Ngọa Long chăng?
Tào Bằng nghĩ vậy rồi không khỏi mỉm cười.
Ngọa Long cốc ở phía đông Lục Hồn, cách Tuy Dương chừng ba trăm dặm, nằm ở giữa núi Lục Hồn.
Tào Bằng vừa đi vừa hỏi thăm, chẳng mấy chốc đã tìm được vị trí của Ngọa Long cốc. Ngọa Long cốc này quả thực rất lớn. Cái gọi là Hồ Chiêu ở Ngọa Long cốc thật sự là một khái niệm hết sức mơ hồ. Đi vào Ngọa Long cốc, suối nước uốn quanh, gập ghềnh giống như rắn uốn người.
Cây cỏ trong rừng cao chót vót, xanh ngút ngàn, thỉnh thoảng lại thấy có đầm đá nhỏ, cảnh sắc tươi đẹp.
Trong đầm nước ngoài đá cát ra, chỉ có bóng cá.
Chiếc xe đã không thể đi tiếp được nữa, vì thế Quách Hoàn và Bộ Loan đều phải xuống xe. Đám người Tào Bằng cũng xuống ngựa, tiếp tục đi bộ. Hai cô gái có lẽ chưa từng thấy cảnh sắc đẹp dường ấy nên đi đường cười vang không ngớt, thỉnh thoảng lại nghỉ chân đùa giỡn.
Tào Bằng cũng không thúc giục, chỉ đứng một bên nhìn.
Cứ như vậy, đoàn người đã đi qua Hắc Long đầm, Điếu đầm, Bạch Long đầm, hang Lão Hữu.
Cảnh trí trước mặt chợt nhiên thay đổi, sáng rỡ.
Trong thâm cốc, có một thôn xóm yên tĩnh, lặng lẽ nằm bên cạnh đầm Ngọa Long.
Thôn trang này nhìn qua thì không thấy lớn lắm, ước chừng chứa được khoảng mười hộ gia đình. Thôn trang có vẻ hơi hỗn độn, vừa loằng ngoằng, lại vừa rải rác bên đầm Ngọa Long, có vẻ rất u tĩnh.
-Lão trượng, xin hỏi Hồ Chiêu tiên sinh có ở nơi này không?
Hạ Hầu Lan chặn một tiều phu lại, lễ phép hỏi.
Tiều phu khẽ mỉm cười:
-Công tử đến bái sư Khổng Minh tiên sinh ư?
-A, sao lão trượng biết?
Lão tiều phu cười ha ha:
-Ngọa Long thôn này ở nơi thâm sơn cùng cốc, là nơi cực kỳ hẻo lánh. Vị công tử bên kia mặc dù quần áo nhìn giản dị nhưng khí độ phi phàm. Các người đến đây nhiều người như thế lẽ nào lại là du sơn ngoạn thủy chăng? Ngoài chuyện tiếp kiến Khổng Minh tiên sinh còn có việc gì được nữa? Tiểu ca, nói với công tử nhà ngươi là Khổng Minh tiên sinh có thể thu đồ đệ nhưng hết sức nghiêm khắc. Hai năm nay không ít công tử phú gia đến bái sư, nhưng đều bị đuổi đi hoặc cùng lắm là đệ tử ngoại môn. Nếu chỉ là vì cầu danh, ta thấy cũng không cứ. Khổng Minh tiên sinh tuyển chọn đồ đệ rất nghiêm. Hai năm nay, cũng chỉ có một người có thể nhập môn. Các ngươi nên bảo trọng.
Người miền sơn cước rất chất phác, lời nói cũng có vài phần lễ phép.
Tào Bằng đứng một bên nghe thấy thế không khỏi thấy kỳ lạ.
Hạ Hầu Lan tạ ơn vị tiều phu kia xong, liền quay lại bên cạnh Tào Bằng.
-Công tử, xem ra vị Khổng Minh tiên sinh này không dễ đối phó a.
Tào Bằng không nói gì, nhìn xuống thôn trang bên cạnh đầm nước u tĩnh kia. Một lát sau, hắn chợt nhoẻn miệng cười, một tay nắm dây cương, một tay cầm một cây trượng trúc, nhanh chân bước về phía chân núi. Cả đám người Hạ Hầu Lan đều ngẩn ra, vội vàng rảo bước theo sau.
Công tử vung tay vung chân đi thế kia hoàn toàn chẳng có chút khiêm tốn nào cả.
Vị tiều phu kia đã nói Khổng Minh tiên sinh lựa chọn môn đồ cực kỳ nghiêm khắc. Nếu công tử cứ tùy tiện đi như thế, dù có Tư không dẫn tiến nhưng chưa chắc có thể được Khổng Minh chấp thuận.
Vậy nên làm như thế nào cho phải đây?
Sự yên tĩnh của thôn trang nhỏ trong núi bỗng chốc bị phá vỡ.
Một đám người ngựa đi vào trong thôn khiến không ít người hiếu kỳ. Nhưng thôn dân rất nhanh đã đoán được mục đích đến đây của đoàn người. Đầm Ngọa Long vốn là một thôn trang nhỏ, hẻo lánh nhưng từ khi Hồ Chiêu chuyển nhà đến đây, lập nên thư viện, khiến thôn nhỏ trong núi này không còn lại sự hoang vắng năm nào nữa. Trên thực tế, năm nào cũng có mấy người đến nơi này tìm Hồ Chiêu bái sư. Có người là sĩ tử hàn môn, cũng có người là con cháu nhà quan cao cửa rộng. Người người qua lại, mọi người có thấy cũng chẳng thể trách cứ được. Chính vì thế, rất nhanh người dân trong thôn đều quay lại làm việc của mình.
Thư viện của đầm Ngọa Long chính là nguyên nhân khiến đầm Ngọa Long nổi tiếng.
Đoàn người của Tào Bằng tìm thấy thư viện này rất dễ dàng.
Thư viện nằm bên đầm Ngọa Long, diện tích không lớn lắm, ước chừng hai ngàn mét vuông.
Phòng trúc thanh nhã, tô điểm cho cảnh non nước xung quanh. Đầu hồi có bức tường cao hai thước, nghe nói là do người dân trong thôn tự xây. Cửa chính dùng gậy trúc làm thành, nhìn hết sức tao nhã, lịch sự. Bậc thang thấp thấp, ở góc có chút rêu xanh mơ hồ. Cả thư viện khiến người nhìn vào cảm thấy yên lặng, tĩnh mịch.
-Các ngươi ở đây chờ ta.
Tào Bằng dứt lời, cất bước đi lên bậc thang.
Đúng lúc này, cánh cửa mở ra.
Mấy người thanh niên đi từ trong thư viện ra, người đi đầu thân hình cao lớn, mặc bộ y phục màu tro bằng vải bao bố. Người này mày rậm, mắt to, khá oai hùng. Nhưng nếu cẩn thận quan sát, sẽ thấy ấn đường của y rất hẹp, môi hơi mỏng, ánh mắt cũng có vẻ hung ác, nham hiểm.
-Ngươi là ai?
Người thanh niên ngăn cản Tào Bằng, trầm giọng hỏi.
-Tại hạ là Tào Bằng, đến để bái kiến Khổng Minh tiên sinh.
-Tiên sinh không có ở đây. Ngươi đi đi.
-Vậy khi nào thì tiên sinh về?
-Sao ta biết được?!
Người thanh niên có vẻ không kiên nhẫn được nữa:
-Lâu nhất là hai năm, chậm thì cũng bảy, tám tháng. Chuyện của tiên sinh sao bọn ta có thể biết được.
Nơi này không chào đón ngươi, ngươi nên nhanh đi đi là hơn.
Tào Bằng nhíu mày, chợt nói:
-Niên huynh, huynh có biết nói dối chính là tội lớn không. Nếu còn có kiếp sau, rất có thể sẽ bị hóa thành súc sinh đấy.
Hắn cảm thấy được khi người thanh niên đuổi hắn, khóe mắt y không ngừng quét về phía trong thư viện.
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của ♎ Sói Ngây Thơ
Tào Tháo đã có lời với Hồ Chiêu, vả lại ông ta cũng đồng ý rồi. Nếu đã đồng ý, ông ta hẳn sẽ không đi vào thời điểm này. Nếu không, bằng vào tính tình của Hồ Chiêu, rất có thể sẽ cự tuyệt Tào Tháo thẳng thừng. Căm cứ vào những tin tức Tào Bằng đã hỏi thăm dọc đường tới đây, Hồ Chiêu là một người rất hào sảng. Nghe Tào Chân từng giới thiệu lúc trước, Hồ Chiêu là người thẳng thắn. Nói một là một, hai là hai. Ta không muốn, ngươi có giết ta, ta cũng không chịu khuất phục. Nhưng nếu ta đã đồng ý, dù trời có sập, ta cũng không dễ dàng thay đổi ý định của bản thân.
Nhà nho thời Hán rất chú trọng việc tu dưỡng, phẩm hạnh.
Cái gì gọi là phẩm hạnh?
Nếu dựa theo tiêu chuẩn của thời đại này thì đó chính là trung, hiếu, thê, nặc.
Trong quân lấy trung, đối đãi với cha mẹ lấy hiếu, huynh đệ đối đãi với nhau bằng thê, bằng hữu đối đãi với nhau qua lời hứa.
Người có thể làm được bốn điểm này về cơ bản chính là người đạt được đạo đức nhân nghĩa điển hình. Dù sao cũng không nên coi thường bốn điểm này, nghe thì có vẻ rất dễ dàng, làm được lại rất khó.
Cổ nhân có thành ngữ lời hứa đáng giá ngàn vàng, đủ thấy được độ tin cậy của lời hứa là như thế nào.
Người thanh niên tức thì trầm mặt xuống, y vừa định mở miệng nói tiếp lại bị Tào Bằng ngắt lời.
-Ngươi có biết những lời ngươi vừa nói có ảnh hưởng gì tới tiên sinh không? Chuyện này nếu truyền ra ngoài, thì tên tuổi của tiên sinh thật đã bị hủy hoại trong tay ngươi rồi. Ngươi là học sinh của tiên sinh, thế mà chẳng biết quan tâm đến thanh danh của tiên sinh sao? Chẳng nhẽ ngươi không biết xấu hổ sao? Hành vi này của ngươi thật không xứng làm người. Thanh danh của Khổng Minh tiên sinh bị hủy trong tay ngươi thực chẳng ra sao cả.
Người thanh niên tức thì giận dữ, lớn tiếng quát:
-Tiểu tử, ngươi muốn chết sao?
Tào Bằng mỉm cười:
-Ta đến là để bái sư, không phải đến tìm cái chết. nếu ngươi muốn tìm cái chết thì cứ thử xem.
Thứ sát khí mờ ảo quanh quẩn bao phủ lấy thân Tào Bằng. Hắn là người đi từ chiến trường ra, còn người thanh niên kia chẳng qua chỉ là thích tranh đấu trong thôn trang mà thôi. Đừng thấy y cao hơn Tào Bằng, thân thể có vẻ khỏe mạnh hơn hắn. Khi Tào Bằng để lộ sát ý, người thanh niên tức thì cảm thấy tim đập nhanh hơn, gương mặt tức thì trắng bệch.
-Nếu như ngươi còn không bẩm báo, ta đây có làm gì cũng không thể biết được đâu.
Nếu ngươi cứ khăng khăng quyết ý như thế, ta cũng nói luôn cho ngươi biết bằng vào hành vi của ngươi, chiếu theo Hán luật mà nói, dù ta có giết ngươi cũng không có gì quá đáng.
-Chu Kỳ, đừng có làm loạn!
Người bạn đồng môn đứng phía sau người thanh niên nuốt nước miếng, nhẹ giọng khuyên bảo.
-Vị công tử này, vừa rồi Chu Kỳ chỉ muốn nói giỡn với ngươi thôi, ngươi không cần bận tâm làm gì.
Tiên sinh vẫn chưa đi xa đâu, hiện người đang ở thư phòng xem sách. Như vậy đi, ta đi bẩm báo cho ngươi, xin công tử quên đi chuyện vừa rồi, được không?
Tào Bằng tức thì mỉm cười.
Nụ cười này của hắn khiến người khác phải cảm thấy mới lạ.
Lúc trước, sát khí của Tào Bằng lẫm liệt, khiến người khác buộc phải cúi đầu khuất phục; giờ hắn lại cười tươi tắn, chẳng khác nào cây cối gặp gió xuân, chẳng khác nào gia đình sau bao năm chờ đợi tự nhiên có một bé trai. Mấy người thanh niên đứng đó không khỏi run người, như trút được gánh nặng trong lòng vậy.
Tiểu hài nhi này không giống với vị công tử mới rồi a!
Người thanh niên kia nhìn Chu Kỳ, chắp tay, rồi nhanh chân chạy vào thư viện.
Tào Bằng lùi xuống bậc thang, khoanh tay mà đứng.
Lúc này, mấy người thanh niên mới nhìn thấy có một đội nhân mã đứng cách đó không xa.
Hai thiếu nữ thiên kiều bá mị khe khẽ nói thầm, gương mặt tươi cười rạng rỡ. Đầm Ngọa Long nằm ở giữa núi Lục Hồn, là nơi hoang vu hẻo lánh. Những người như Chu Kỳ đều là người địa phương, từ nhỏ đã lớn lên trong núi, làm sao từng gặp những nữ tử như vậy. Tất cả đều trợn tròn mắt, há hốc mồm.
-Đúng rồi, xin hỏi đại danh của công tử là gì, công tử từ đâu đến?
Một người thanh niên mở miệng hỏi.
-Tại hạ là Tào Bằng, từ Hứa Đô đến đây.
-Tào Bằng? Xin hỏi công tử có quan hệ thế nào với Tư không đại nhân đương triều?
Tào Bằng cười:
-Mỗ phục vụ dưới trướng của Tào Tư không, đảm nhiện chức Kỵ đô úy.
Người thanh niên kia không khỏi hít một hơi lạnh, những người còn lại mặt càng u ám, khó coi thêm. Bọn họ thực không ngờ rằng chức Kỵ đô úy của Tào Bằng chẳng qua chỉ là cái danh, là một chức vụ không có thực quyền.
Trong mắt bọn họ, Kỵ đô úy dường như còn lớn hơn cả huyện lệnh.
Hai người thanh niên thầm cảm thấy may mắn: “Ta đã nói rồi mà, vị công tử này vừa nhìn đã thấy không giống những ngừoi khác, quả nhiên là người có lai lịch. Nếu Chu Kỳ động đến hắn chẳng phải là tự tìm phiền toái sao? Nếu làm hắn bị thương, chắc chắn sẽ khiến quan phủ ra tay, đến lúc đó, tiên sinh cũng chẳng cứu được.
Nghĩ đến đây, người thanh niên trừng mắt nhìn Chu Kỳ một cái.
Chu Kỳ cúi đầu, lặng im không nói gì.
-Xin hỏi, Tào Bát Bách - Tào công tử đã đến rồi sao?
Từ trong thư viện truyền đến một tiếng cười sang sảng. Theo sau tiếng cười là tiếng bước chân gấp gáp, một người thanh niên nhanh chân đi từ trong thư viện ra.
Gương mặt Chu Kỳ càng u ám hơn, nhưng y vẫn đứng tránh sang một bên.
Tào Bằng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy người kia lớn tuổi hơn hắn, ước chừng hơn hai mươi tuổi. Người này cao tám thước, tướng mạo tuấn lãng, mũi cao thẳng tắp, con mắt long lanh có thần. Y mặc một bộ thường phục màu trắng, lưng đeo đai ngọc, tay áo phấp phới, bay bay, rất có phong độ.
Tào Bằng bước lên trước, chắp tay nói:
-Tại hạ
chính là Tào Bằng.
-A, Tào công tử, cuối cùng công tử cũng tới rồi. Lão sư nói chỉ trong một hai ngày này công tử sẽ tới, cho nên luôn ở phía sau thư viện chờ.
Đám người Chu Kỳ lại biến sắc, cùng lùi lại một bước theo bản năng.
Người thanh niên nhìn đám người Hạ Hầu Lan bên ngoài, nhíu mày, thấp giọng nói:
-Tào công tử, những tùy tùng của công tử nên thu xếp thế nào đây?
Thấy Tào
Bằng lộ vẻ nghi hoặc, người thanh niên vội nói:
-Thư viện có quy định đệ tử của thư viện chỉ có một người được vào. Tùy tùng không thể đi theo được. Nếu công tử muốn giữ bọn họ lại thì phải tự thu xếp ổn thỏa. Chỉ có điều nhiều người như vậy trong thôn chưa chắc đã thu xếp được.
-Vậy làm sao bây giờ?
-Hoặc công tử bảo bọn họ đi, hoặc là…
Người thanh niên tỏ vẻ xấu hổ.
Tào Bằng hiểu được ý tứ của y.
Người thanh niên muốn nói hoặc là bảo bọn Hạ Hầu Lan đi đến ở huyện thành ngoài núi, hoặc là đích thân Tào Bằng phải giải quyết.
Tào Bằng ngẫm nghĩ một chút:
-Để ta tự giải quyết đi.
-Cũng tốt!
Người thanh niên cũng là người thoải mái, thấy Tào Bằng muốn tự quyết, y cũng không nói nhiều nữa. Y nghiêng người, nói:
-Tào công tử, mời đi theo ta.
-Mời sư huynh đi trước.
Tào Bằng nho nhã lễ độ bước lên bậc thang.
Đám người Chu Kỳ thấy Tào Bằng đi vào thư viện cũng thở phào nhẹ nhõm.
Bọn họ nhìn ra ngoài, vừa lấy Chiếu Dạ Bạch của Tào Bằng lại tấm tắc khen ngơi. Người tới nơi này bái sư nhiều, con cháu danh gia vọng tộc cũng có, hàn môn sĩ tử cũng có nhưng không người nào có được một con ngựa tốt như Tào Bằng. Chuyện này cũng giống như ở trường đại học ở thời hậu thế, nếu bạn đi một chiếc xe Santafe đến trường sẽ khiến người đố kỵ vậy. Nhưng nếu bạn bước ra từ một chiếc Bugatti Veyron thì người khác sẽ không đố kỵ, mà là tôn kính. Chiếu Dạ Bạch của Tào Bằng trong mắt đám người Chu Kỳ chẳng khác nào Bugatti Veyron cả.
Càng như thế càng chứng tỏ rằng Tào Bằng không giống người thường.
Chưa kể vừa rồi hắn để lộ sát khí, khiến đám người Chu Kỳ càng khiếp sợ hơn.
Nhưng lúc này, sự sợ hãi đã hóa thành tôn kính.
Vốn dĩ bọn họ không cùng một đẳng cấp, có gì phải so sánh đây?
Đừng thấy hắn nhỏ bé mà coi thường, chắc chắn hắn đã từng giết người, kinh qua chiến tranh. Bảo mã lương câu, giai nhân theo hầu, Hổ Bí phụng lệnh, sao bọn họ có thể sánh được đây?
So về chức quan, Tào Bằng là Kỵ đô úy, là mệnh quan triều đình. Bọn họ lại càng không thể sánh nổi.
Nghe những lời nói vừa rồi, vị Tào công tử này dường như còn là một vị danh nhân, vậy bọn họ lại càng không thể đắc tội được.
Người có thực lực cao hơn một chút sẽ khiến người khác ghen tị, nhưng thực lực cao hơn cả trăm, ngàn lần thì khiến người khác không dám sinh lòng ghen tị nữa.
-Chu Kỳ, về sau đừng trêu chọc Tào công tử nữa, nếu không sẽ chuốc lấy rắc rối đấy.
Chu Kỳ gật gật đầu, ánh mắt lộ vẻ phức tạp.
-Đúng rồi, ta còn chưa thỉnh giáo đại danh của sư huynh?
Trên đường đến thư viện bái kiến Hồ Chiêu, Tào Bằng tò mò hỏi.
Người thanh niên ôn hòa cười:
-Đại danh thì không dám nhận. Tại hạ là Tư Mã Ý ở Ôn huyện.
-Hóa ra là Tư Mã Sư Nhân.
Tào Bằng sửng sốt, chợt nhiên dừng bước.
Hồi sinh trên thế gian này được hơn ba năm, Tào Bằng đã gặp khá nhiều danh nhân. Ban đầu, hắn vốn còn cảm thấy khiếp sợ ví như Ngụy Diên, ví như Điển Vi, nhưng hôm nay, gặp người này, hắn cũng chỉ lặng người đi một chút mà thôi. Đến cháu trai ngoại của mình còn biến thành Đặng Ngải, hắn còn gì phải khiếp sợ đây?
Nhưng lúc này, hắn thực sự rất kinh ngạc!
Đã có 2 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của ♎ Sói Ngây Thơ