Cô Nguyệt Minh thúc ngựa phóng nhanh trên quan đạo ngày đêm không ngừng, liên tục đến bảy ngày sau, lúc này chỉ còn một giờ nữa là đến Đại Giang. Lời Phụng công công nói, câu nào thật, câu nào giả? Cô Nguyệt Minh không xác định được. Từ lúc ra đời đến nay, lần đầu tiên y cảm thấy bối rối, lời Phụng công công nói rất khó tin. Phu Mãnh là kẻ phản bội Hoàng thượng, hay chỉ là kẻ bị hại? Cô Nguyệt Minh nhớ lúc Phụng công công mới nói đến nhiệm vụ này, cả người lão như trẻ ra ba, bốn chục tuổi, mắt lão chứa đầy sự mong đợi và khát vọng. Điều này không hợp lý, lão chỉ phụng mệnh Hoàng thượng hành sự, Sở hạp có chứa kỳ trân hiếm có gì thì cuối cùng cũng không thuộc về lão, mà thuộc về Hoàng thượng. Điểm khó lý giải hơn nữa, là nếu Phụng công công nói thật, thì chính lão cũng không biết bên trong Sở hạp có chứa vật gì, làm thế nào khao khát một vật mà không biết nó là gì. Hay là Phụng công công biết rõ đó là vật gì, thậm chí muốn chiếm làm của riêng? Giả sử sự thật là như vậy, ngay khi giao Sở hạp cũng là lúc Phụng công công sẽ giết y diệt khẩu. Cô Nguyệt Minh thầm cười lạt: “Nếu lão có chủ ý như ta suy đoán, thì lão đánh giá ta quá thấp, lúc ấy quyền chủ động trong tay ta, chẳng phải do lão thao túng nữa. Nếu ta không vì cả đại gia tộc thì càng chẳng có gì cố kỵ, muốn bỏ đi là đi”. Chỉ tiếc gia tộc của y là một trách nhiệm không thể vứt bỏ được. Lại nghĩ qua Sở hạp, bên trong ấy có bảo bối gì mà có thể khiến Phụng công công động lòng, trong khi lão thừa sức lấy bất cứ bảo vật nào trong quốc khố. Bất giác Cô Nguyệt Minh nhớ đến thần kiếm “Thất Phản” treo bên mình ngựa, đến lúc này y vẫn không buồn lấy kiếm ra xem, chẳng chút hứng thú. Mưa phùn lất phất, quan đạo tối mờ mờ, với cặp mắt đã từng khổ luyện của Cô Nguyệt Minh, cũng không thể thấy xa hơn ba trượng, cảnh tượng này khiến y có cảm giác giữa trời đất chỉ mình y đơn thân độc mã, tâm tư rung động không gì so sánh được. Ngay lúc ấy, Cô Nguyệt Minh cảm nhận có sát khí ở phía trước, đấy là khả năng linh cảm của một kiếm thủ siêu cấp qua nhiều năm khổ công tu luyện, khó giải thích được. Cô Nguyệt Minh không chút kinh sợ, chỉ thầm ngạc nhiên, kẻ nào có thể biết được y sẽ đi qua đây vào lúc này? Theo thói quen của y, đúng ra không ai có thể nắm rõ hành tung của y, tuy nhiên sự thật trước mắt cho thấy ưu thế của y đã không còn. Cô Nguyệt Minh thúc ngựa chạy mau hơn, bỗng phía trước một bóng người xuất hiện, đứng chắn giữa quan đạo, thân hình khôi vĩ, đầu đội nón rộng vành có chóp nhọn, toàn thân chìm trong hắc bào rộng, một tay cầm trường côn cao quá thân người, tay kia để phía sau, chỉ nhìn khí thế trầm tĩnh trực lập, đủ biết đây là một cao thủ bậc nhất. Cô Nguyệt Minh đã gặp không ít kỳ nhân dị sĩ trong thiên hạ, nhưng lần đầu mới gặp một kẻ như người này. Cô Nguyệt Minh cười nhạt một tiếng nhưng không giảm tốc độ, thúc ngựa xông thẳng đến kẻ đứng chận đường phía trước. Trong mình y máu huyết như sôi lên, cảm giác kích thích chạy toàn thân, song não bộ tinh thần lại bình tĩnh, lạnh như băng tuyết. Y thích cảm giác gần sự sống chết này, không phải người chết thì ta vong mệnh. Giết hay bị giết, đối thủ này có tư cách giết y. Trong thiên hạ những kẻ dùng côn, không ai hơn mãnh tướng của Đại Hà Minh là Khâu Cửu Sư, tám mươi mốt đường Phong Thần Côn pháp của họ Khâu, tương truyền không ai có thể chịu được quá năm mươi, phát huy uy lực nhất trong lúc đấu nhiều người. Thành tích trứ danh nhất của Khâu Cửu Sư là một mình xâm nhập tổng đàn Đại Ba Bang, hạ sát gần sáu chục địch nhân kể cả bang chủ Cừu Phương Giáp nổi tiếng hung ác, trận chiến ấy đưa Phong Thần Côn của Khâu Cửu Sư lên ngôi vị thiên hạ đệ nhất côn. Song Cô Nguyệt Minh biết rõ kẻ chận đường phía trước không phải Khâu Cửu Sư, tuy vóc dáng và khí phách phù hợp với lời đồn về họ Khâu. Nguyên do là vì binh khí trong tay kẻ chận đường chắc chắn không phải là trường côn. Đây là trực giác lâu năm qua nhiều lần vào sinh ra tử, y nhận thấy thủ pháp và tư thế cầm côn của đối phương hơi gượng gạo, chưa thể đạt đến cảnh giới thân người và côn hợp nhất. Nhờ có cảm ứng tinh tế, y bắt được nhược điểm của đối thủ. Cách hai trượng. Hai người cùng di động. Kẻ chận đường nghiêng người như sắp né sang bên tả, cuối cùng lại xẹt sang bên hữu, thân pháp xảo diệu, chỉ cần sai một khắc phán đoán là có thể ôm hận tại chỗ. Một trượng. Tay tả Cô Nguyệt Minh đưa ra sau như muốn rút kiếm khỏi vỏ, lúc này trường côn của đối phương đã từ dưới đánh thốc lên, tấn công vào vùng ngực bên hữu của y. Cô Nguyệt Minh có một bí mật, đó là y thành danh với kiếm pháp sử dụng bằng tay trái, chưa có kẻ nào còn sống nhìn thấy y dùng kiếm bằng tay phải, sự thật là tuy bẩm sinh y thuận tay trái, nhưng tay phải sử được nhiều kiếm thuật hơn, thậm chí có thể phân tâm cùng lúc hai tay thi triển hai kiếm pháp khác nhau. Chỉ thấy kẻ chận đường tấn công dựa theo tả thủ kiếm của y, thì biết kẻ này nhắm đúng mục tiêu là y, tuyệt đối không phải kiếm lầm người. Cô Nguyệt Minh thu hồi tay trái, tay phải nhanh như chớp rút kiếm khỏi vỏ, nhắm chính xác ngay đầu côn đối phương đâm vào, vận kình khéo léo nhanh nhẹn, khiến người không khỏi có cảm giác không thể tránh kịp. “Phụt!”. Trường kiếm ghim vào đầu côn, sâu nửa tấc. Đối phương toàn thân chấn động, hiển nhiên không ngờ kiếm của Cô Nguyệt Minh bén nhọn, tốc độ nhanh kinh người như thế, càng không ngờ được kiếm đâm xuyên đầu côn. Kiếm và côn cùng bị giảm lực, treo giữa chừng, tuy chỉ trong chớp mắt nhưng nhìn rất quỷ dị. Cô Nguyệt Minh đã dò ra đối phương sức lực kinh người, không thua chính mình, chỉ vì mình chiếm ưu thế từ trên đánh xuống mới tạo được tình thế có lợi trước mắt. Tuấn mã vẫn tung vó, trường kiếm kéo theo trường côn, Cô Nguyệt Minh cất tiếng cười dài, lộn mình xuống ngựa, kiếm và côn mới rời ra. Người kia thu hồi trường côn không nói tiếng nào. Cô Nguyệt Minh rời khỏi con ngựa đang phóng nhanh và đáp xuống đất, chỉ lúc này mới thấy rõ thân thủ hơn người của y. Chân vừa chạm đất, Cô Nguyệt Minh xẹt đến đối phương, kiếm trong tay như linh xà chuyển động tấn công vào trường côn của đối phương. Y chiếm ưu thế vì đối phương không phải sử dụng binh khí sở trường nên không quen thuộc côn cách. Người kia không hổ là cao thủ, chẳng tỏ ra khiếp sợ, tuy không thể không lui nhưng chẳng chút hoảng loạn, y đổi thành hai tay cầm côn, dùng hai đầu côn chống đỡ những thế kiếm như cuồng phong của Cô Nguyệt Minh. Tiếng côn kiếm đánh nhau vang liên tục. Giữa tiếng vó ngựa chạy xa dần, Cô Nguyệt Minh tấn công một hơi bảy kiếm, mỗi thế đều vận đủ kình đạo, góc độ hiểm ác không bỏ sót phía nào, song đối phương im lặng đỡ đủ bảy kiếm, thủ rất vững vàng. Lần đầu Cô Nguyệt Minh mới gặp một đối thủ cao cường như vầy, y cảm thấy thống khoái, kích thích vô cùng. Y nhắm đúng ngay lúc trường côn bị kiếm đánh bật ra, nhanh như tên bắn đẩy kiếm chọc thẳng vào yết hầu đối phương, bất kể đầu côn của đối phương phản công lại. Thể chất Cô Nguyệt Minh hơn người thường, tính cách hết mực kiên nghị, mới trở thành kiếm thủ vang danh thiên hạ. Chẳng những y có khả năng chịu đựng và hồi phục mau hơn người khác, nhưng đáng sợ nhất vẫn là tác phong lấy mạng đòi mạng, y không những muốn giết người mà còn muốn tìm cái chết, sinh mệnh đối với y chỉ là gánh nặng và thống khổ, y giết người không chùn tay, càng không sợ tử vong. Cho đến lúc này Cô Nguyệt Minh vẫn chưa thấy chân diện mục của đối thủ, vì kẻ kia có đeo một tấm lưới từ trên đỉnh nón tre rũ xuống, che mất gương mặt, chứng tỏ đối phương cố ý che giấu lai lịch. Kẻ kia vẫn không đổi thế tấn công, cũng có thể đánh gãy tay Cô Nguyệt Minh, nhưng chắc là yết hầu sẽ bị xuyên thấu. Đến lúc này kẻ kia vẫn không tỏ ra hoảng loạn, chỉ lộn sang bên dùng đầu côn chấm đất mượn lực nhảy ra cánh rừng thưa bên đường. Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm: “Ngươi muốn thi thân pháp cước lực với ta, chỉ là tìm chỗ chết”. Đang định đuổi theo, bỗng thấy trước mắt tối sầm, y giật mình lui gấp ra sau, mới thấy rõ là đối phương tung hắc bào phủ đầu, nên che mất tầm nhìn của y. Hắc bào rơi nhẹ xuống đất, tiếng chân kẻ đánh lén mau chóng rời xa, chỉ sẩy một khắc, đối phương trở thành kẻ đầu tiên có thể sống sót trốn khỏi đường kiếm của Cô Nguyệt Minh. Vó ngựa từ xa đến gần, tuấn mã đến sau lưng y, thân thiết ngửi sau gáy chủ nhân, như hân hoan vì chủ lại một lần nữa thắng lợi. Cô Nguyệt Minh tra kiếm vào vỏ, song chẳng có cảm giác thắng lợi chút nào cả, lần này thắng là may mắn, nếu đối phương dùng binh khí sở trường, ai thắng ai bại cũng chưa biết. Nhân vật đáng gờm này là ai? Có liên quan gì đến nhiệm vụ lần này chăng?
o0o
Nguyễn Tu Chân bước thẳng vào đại sảnh, Hoàng Phủ Thiên Hùng một mình ngồi ăn sáng, vẻ mặt dàu dàu không vui, vẫn chìm đắm trong nỗi đau mất con. Hoàng Phủ Thiên Hùng ngẩng đầu lên, nhìn thấy Nguyễn Tu Chân liền nói: “Ngồi đi! Tiên sinh ăn sáng chưa, lấy một phần như ta chứ?”. Nguyễn Tu Chân ngồi xuống bên cạnh long đầu, trầm giọng nói: “Có tin tức Ngũ Độn Đạo rồi!”. Hoàng Phủ Thiên Hùng tinh thần đại chấn, vội hỏi: “Đã tóm cổ hắn chưa?”. “Sắp bắt được rồi! Tên tiểu tặc này y phục tơi tả xuất hiện phía nam Động Đình Hồ, trong một thị trấn tên Bách Thúy, hắn đứng trước một đổ quán do dự một chốc rồi mới bước vào”. Hoàng Phủ Thiên Hùng nhíu mày: “Chẳng phải hắn đã thua sạch tiền? Còn lấy tiền đâu đi đánh bạc?”. “Hắn còn lại một lượng bạc cuối cùng. Sự tình diễn ra sau đó rất cổ quái, Ngũ Độn Đạo thắng liên tiếp bảy ván, thắng được bốn trăm chín mươi chín lượng bạc, cộng thêm một lượng làm vốn ban đầu là vừa đúng năm trăm lượng”. “Không ai thấy hắn gian lận sao?”. Nguyễn Tu Chân thần sắc kỳ dị: “Hắn không hề gian lận, mà là người của đổ trường ăn gian. Sau khi Ngũ Độn Đạo thắng liên tục ba ván, liền khơi sự chú ý của đổ quán, chủ phái người đến cung phụng hắn, dưới bao nhiêu cặp mắt của mấy chục người, người của đổ trường dùng mọi ngón nghề, mà vẫn bị hắn thắng thêm bốn bàn. Lúc ấy thần sắc Ngũ Độn Đạo trở nên rất cổ quái, như nửa mừng nửa sợ, tái mặt định thu tiền rời đi. Người của đổ trường có thể khẳng định là hắn không giở trò lừa gạt, theo tôi thấy thì hắn vốn không hiểu cách đánh bạc, nếu hiểu thì trong quá khứ hắn đã không thua nhiều như vậy, cách giải thích duy nhất là hắn được ông trời đặc biệt chiếu cố”. Hoàng Phủ Thiên Hùng thốt: “Người của đổ trường làm sao chịu nhận thua, gặp kẻ xa lạ đến, giết chết hắn cũng không ai để ý”. Nguyễn Tu Chân nói: “Điều đó hẳn đương nhiên, đặc biệt là Ngũ Độn Đạo y phục không chỉnh tề, da vàng gầy nhom, râu đầy mặt, người của đổ trường làm sao chịu để hắn lấy bạc đi. Hai bên lời qua tiếng lại thành động thủ, hơn mười tay biết võ đều bị Ngũ Độn Đạo đánh văng hết, hắn lấy năm trăm lượng bạc rời đi. Nếu không nhờ trận náo nhiệt ấy, e rằng không ai nghĩ ra hắn là Ngũ Độn Đạo”. Ngừng một chút Nguyễn Tu Chân lại nói: “Bọn ta muốn lập bẫy bắt sống Ngũ Độn Đạo, do đó treo giải thưởng ở phía nam Đại Giang, chỉ phái người liên lạc các bang hội địa phương phía ấy, hòng bí mật hành sự. Khi người của ta đến Bách Thúy trấn, Ngũ Độn Đạo đã rời khỏi trấn được năm ngày. Theo báo cáo đưa về, sau khi hắn rời khỏi trấn, bèn đến huyện kề cận ăn uống thỏa thuê, lại mua y phục mới, không ghé chỗ nào mà đang đêm rời đi, sau đó không ai gặp hắn nữa”, Hoàng Phủ Thiên Hùng đổi sắc, lạnh lùng hỏi: “Thân thủ của hắn thế nào?”. “Lần này mới là lần đầu có người nhìn thấy Ngũ Độn Đạo động thủ với kẻ khác, do đó huynh đệ của ta báo cáo khá tường tận, qua sự phân tích của tôi, võ công của Ngũ Độn Đạo cũng cao minh như thâu thuật của hắn. Đáng ngạc nhiên là hắn không có môn pháp, chỉ có thể hình dung là tùy cơ ứng biến, bất cứ vật gì cầm vào tay liền biến thành võ khí hữu hiệu nhất, hắn lại tinh thông phương vị kinh huyệt trên thân người. Hắn có một đôi tay vô cùng linh xảo, công phu đằng không phóng nhảy xuất thần nhập hóa, cả hơn mười người không cách gì đụng được góc áo của hắn, còn hắn đánh người chỉ vừa ngã là ngưng, những kẻ bị hắn đánh ngã chỉ bị đau sơ sài ngoài da. Theo quy củ giang hồ, người ta thủ hạ lưu tình, đổ quán chỉ có thể tự than bị xui xẻo, không đuổi theo hắn”. Hoàng Phủ Thiên Hùng hiển nhiên đang nghĩ đến việc Ngũ Độn Đạo đối với con trai lão không thủ hạ lưu tình, lão hừ lớn một tiếng. Nguyễn Tu Chân thong dong nói: “Ngũ Độn Đạo sau khi thắng bảy ván, lộ vẻ kinh sợ, đủ biết hắn cũng không hiểu vì sao mình được đổ vận hanh thông. Đối với dân cờ bạc, bỗng đâu chuyển hảo vận thì khiến người không dám tin, lại sợ không phải điều tốt, rất có thể là chuyển sang tử vận, cũng như trước khi hành hình được ăn mỹ vị phong phú, do đó Ngũ Độn Đạo mới lo sợ bất an như thế”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đầy sát cơ, hỏi: “Bọn ta nên bố trí thế nào?”. “Tri kỷ tri bỉ, là điểm then chốt trong việc thắng bại. Bọn ta tuyệt đối không thể xem thường Ngũ Độn Đạo, chỉ xem cách hắn cho khổ chủ đem tiền chuộc sau khi trộm bảo vật, đủ thấy hắn không phải đạo tặc tầm thường, mà là một thiên tài. Từ lúc hắn xuất đạo đã làm được bảy chuyến, lần nào cũng thành công, một cú là trúng, chưa bao giờ để cho ai tóm được đuôi, chứng tỏ hắn chuẩn bị đầy đủ trước khi hành sự, vạch rõ kế hoạch trốn đi sau khi xong việc, để không ai truy tìm”. Hoàng Phủ Thiên Hùng gật đầu đồng ý, lão lão luyện giang hồ, thừa biết hậu quả xem thường kẻ địch, tuy nhiên lão không hài lòng khi nghe Nguyễn Tu Chân tán dương kẻ địch. Nguyễn Tu Chân lại nói: “Hắn là người rất theo nguyên tắc, tuy chỉ còn lại một lượng bạc, nhưng vẫn không chịu phạm ba điều kiện trộm đồ của mình, mà đem lượng bạc cuối cùng đi đánh bạc, để lấy tiền làm chi phí hành sự”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trợn mắt nghiến răng nói: “Đồ bất hảo này lại sắp trộm đồ, lần này hắn định trộm bảo vật của nhà nào?”. Nguyễn Tu Chân hạ giọng: “Lạc Dương là đại thành giàu có nhất phương Nam, nơi nhiều phú hộ tập trung. Theo tác phong của Ngũ Độn Đạo, mục tiêu đương nhiên là đệ nhất phú gia tại Lạc Dương...”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đập bàn: “Ấy là Tiền Thế Thần, người này gia tài vạn quán, nghe đồn y trả cho Phụng công công một ngàn lượng vàng để mua chức quan cho mình. “Trấn gia chi bảo của Tiền Thế Thần, không gì khác hơn là Thiên Nữ Ngọc Kiếm danh truyền thiên hạ, điều này ai cũng biết, Ngũ Độn Đạo có thể đỡ tốn công điều tra, với tình trạng không nhà của hắn hiện tại, không còn mục tiêu nào lý tưởng hơn”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm: “Bọn ta có nên chờ hắn trộm báu xong đi tìm tay buôn của trộm, rồi mới hành động?”. Nguyễn Tu Chân lắc đầu: “Tiền Thế Thần không giống các cự phú khác, bản thân võ công cao cường, lại là đại quan địa phương, chỗ y ở là bố chính sứ ti phủ được phòng vệ nghiêm mật, dù Ngũ Độn Đạo có trộm báu thành công, thì nội vùng phía Nam e rằng không ai dám nhận mối vì sợ đắc tội Tiền Thế Thần, do đó Ngũ Độn Đạo nếu quả thật hạ thủ tại tư gia Tiền Thế Thần, tất hắn sẽ tự ra mặt đòi tiền chuộc báu với họ Tiền, lấy xong ngân phiếu là trốn lên phương Bắc tiếp tục ăn chơi phong lưu. Vì vậy bọn ta cần được sự hợp tác của Tiền Thế Thần mới có cơ hội bắt được Ngũ Độn Đạo”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm chốc lát, bèn hỏi: “Chuyện Tiết Đình Hao có đầu mối gì chăng?”. “Bọn ta đã xuất toàn lực thám thính, lại tìm những kẻ có quan hệ với Phật môn, nhờ nghe ngóng giùm hành tung của hòa thượng giả này, nay chứng thực ngôi chùa mà y dừng chân sau cùng là một ngôi chùa trên núi gần huyện Hàn Sơn ở phía bắc Động Đình Hồ, năm ngày trước hắn rời chùa đi đâu chẳng biết. À! Lại là Động Đình Hồ, thật trùng hợp!”. Hoàng Phủ Thiên Hùng không để ý: “Lập tức truyền tin này bằng phi cáp truyền thư đến Quý Nhiếp Đề, sau đó ta sẽ thảo một lá thư đưa cho Khâu Cửu Sư đem đi gặp Quý Nhiếp Đề, Tiền Thế Thần thế nào cũng phải nể mặt Quý Nhiếp Đề, còn về phần họ Quý, việc dễ dàng này nhất định y sẽ giúp ta”. Nguyễn Tu Chân điềm đạm nói: “Nếu đại long đầu cho phép, Tu Chân tôi hy vọng tự đứng ra xử lý việc này”. Hoàng Phủ Thiên Hùng ngơ ngác nhìn Nguyễn Tu Chân. Hai mắt Nguyễn Tu Chân lấp lánh, gã thở dài: “Ngũ Độn Đạo có thể là một đại đạo xuất sắc nhất từ trước đến nay, lại là một kẻ rất giảo hoạt, tôi mong có vinh dự bắt sống được hắn, hy vọng đại long đầu chuẩn cho, tôi tin chắc có thể trói hắn đem đến trước mặt cho long đầu tự tay xử trị”. Lần đầu tiên Hoàng Phủ Thiên Hùng mới thấy vị quân sư trầm tĩnh như Thái Sơn này tỏ lộ khát vọng, đủ thấy Ngũ Độn Đạo đã kích thích lòng tranh thắng của Nguyễn Tu Chân. Do dự một chút, lão gật đầu: “Được! Giao việc Ngũ Độn Đạo cho tiên sinh toàn quyền thay ta xử lý. Đúng là ta không thích hợp để đối phó hắn, vì ta sẽ bị lòng hận thù che mất lý trí. Nếu có Khâu Cửu Sư trợ giúp tiên sinh, ta sẽ an lòng hơn nhiều”. Nguyễn Tu Chân hân hoan: “Tôi sẽ thương lượng cùng Cửu Sư, sau đó lập tức đi Lạc Dương”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đăm chiêu, chậm rãi nói: “Nếu có cơ hội, tiên sinh giúp ta khuyên Cửu Sư, vì ta cự tuyệt việc chống đối triều đình, mà Cửu Sư cứ một mực giữ hoài bão đó”. Nguyễn Tu Chân nhẹ nhàng thốt: “Cửu Sư là một người có chí lớn, mắt nhìn triều đình hủ bại không chịu được, lại thương dân chúng khốn khổ lây, nên hy vọng...”. Hoàng Phủ Thiên Hùng ngắt lời họ Nguyễn: “Chính vì triều đình quá hủ bại, ta mới không muốn tiếp lấy một cục diện hỗn tạp, e thiên hạ đại loạn, ngoại tộc sẽ thừa cơ xâm nhập, chỉ là Cửu Sư không hiểu khổ tâm của ta”. Y lại nhíu mày hỏi: “Tiên sinh nói bênh Cửu Sư, phải chăng có cùng quan điểm với hắn?”. Nguyễn Tu Chân cẩn thận đáp lời: “Vấn đề không phải tôi có đồng ý với Cửu Sư hay không, mà là vấn đề tiên phát chế nhân. Bang ta năm năm gần đây phát triển mau chóng, bất luận bọn ta kềm chế đến đâu, vẫn ảnh hưởng đến uy lực của triều đình. Với tính khí của Phụng công công, chẳng thể nào cho phép bang ta tiếp tục bành trướng, chuyện lão đối phó bọn ta chỉ là sớm muộn mà thôi. Nếu bọn ta không chuẩn bị, không chừng nội trong một đêm có thể bị triều đình nhổ tận gốc. Một núi không dung hai hổ, Phụng công công sẽ không cho phép một thế lực khác cùng tồn tại. Ngồi không chờ chết, chi bằng nắm thế chủ động khởi sự trước, lúc ấy chưa chắc phe nào thua phe nào”. Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ vẻ nghiêm nghị, bỗng chuyển sang thở dài. Nguyễn Tu Chân phấn khởi thốt: “Bổn bang bang chúng đến năm vạn người, ai ai cũng nguyện xả thân, có thể nói vạn chúng đồng tâm. Thanh thế bổn bang rất tốt, chỉ cần bang chủ phất tay lên tiếng, bảo đảm thiên hạ theo tùng”. Hoàng Phủ Thiên Hùng cảm xúc dâng trào: “Mấy năm nay nhờ nỗ lực của Tu Chân cùng Cửu Sư, bọn ta đích thực có được thành tích tốt”. Bỗng lão nghiêm mặt nói: “Giết xong Ngũ Độn Đạo, ta sẽ nhượng chức đại long đầu cho Cửu Sư”. Nguyễn Tu Chân thất kinh: “Đại long đầu xin chớ có lối suy nghĩ này, tôi và Cửu Sư một lòng trung thành với long đầu, chỉ có long đầu mới có tư cách và uy danh ngồi lên ngôi cửu ngũ của tân triều”. Hai mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ vẻ mệt mỏi: “Ta nói thật đấy, Hoàng mỗ chỉ là một kẻ bất hiếu trong dòng họ Hoàng Phủ, khiến gia môn tuyệt hậu. Ta đã già rồi, chẳng còn tinh lực đi tranh thiên hạ, tương lai nên thuộc về lớp người mới tràn đầy nhuệ khí như các ngươi. Vài năm trước ta ghé qua vùng Ba Thục, thấy một nơi sơn minh thủy tú, trong lòng rất thích, nơi ấy để lại ấn tượng sâu, tâm nguyện duy nhất của ta bây giờ là báo thù cho con, rồi thoái ẩn về phương ấy, không để tâm đến chuyện gì khác nữa. Ý ta đã quyết, Tu Chân khỏi mất công khuyên giải, hãy tìm Ngũ Độn Đạo về đây cho ta, để ta bằm hắn ra trăm mảnh, những việc khác chớ nói nữa”.
Cô Nguyệt Minh dắt ngựa đi dọc theo bờ sông về phía bãi thuyền, trong đầu suy nghĩ miên man. Ánh nắng sớm mai thờ ơ chiếu lấp lánh trên mặt Đại Giang, so với cảnh quan đạo đêm qua thật là một trời một vực. Trong đầu y có một dấu hỏi lớn. Đêm qua kẻ đánh lén dùng kế kim thiền thoát xác tuy rất ngoạn mục, nhưng lý do chính khiến y lỡ mất thời cơ đuổi theo, là y cảm giác “trước mắt tối sầm”, dù hắc bào có phủ đầu y, y cũng không thể có cảm giác kỳ dị ấy, nó gần như một dạng yêu pháp, đánh vào tinh thần của mình. Tay thích khách cố ý che giấu lai lịch, chắc chắn có liên quan đến nhiệm vụ kỳ này, ít nhất kẻ ấy biết rằng Cô Nguyệt Minh đang trên đường đến Lạc Dương. Nhưng làm sao đối phương nắm được lộ trình của y? Chẳng lẽ nhờ vào yêu pháp? Nếu là vậy, đây là lần đầu tiên y gặp phải một kình địch võ công không thua y, lại biết dùng yêu pháp. Máu huyết Cô Nguyệt Minh cuộn lên, có lẽ người này có thể hạ sát được y, một kẻ chưa có đối thủ. Lối suy nghĩ này khiến y đột nhiên cảm thấy như hồi sinh. Thời điểm lâu nay mong đợi cuối cùng sắp đến. Giết người hay bị giết, sinh mệnh như vậy mới có ý nghĩa, còn những thứ khác chẳng có gì quan trọng. Tuy nhiên chỉ cần y gặp lại người này, bất luận đối phương biến đổi ra thể nào, y cũng nhận ra không sai, vì y đã ngửi được hơi của đối phương từ chiếc trường bào bỏ lại, đây là một trong số những bản lãnh hơn người của Cô Nguyệt Minh, một chiếc mũi đặc biệt. Tại bãi thuyền có đủ loại người, xe đến người đi, có người bên kia sông đỗ bến bên đây, có người chuẩn bị lên thuyền sang sông, bốn bến thuyền bằng gỗ từ bờ nhô ra ngoài sông, khách bộ hành và xe ngựa di động trên sàn gỗ, tạo ra đủ loại âm thanh, xen lẫn tiếng người nói, tạo ra một không khí tràn đầy sinh hoạt thường nhật. Trên bờ từng đống hàng hóa chất cao, cách bến hơn trăm bước là một dãy hơn mười căn lều bán thức ăn, không ít người ghé vào, tiếng xào xáo tạo quang cảnh náo nhiệt. Một chiếc thuyền chở hàng vừa cặp vào một bến, những kẻ đợi thuyền tuy đã nóng lòng, nhưng cũng theo lệ chờ đến phiên mình lên thuyền. Cô Nguyệt Minh đứng nhìn, biết mình đã lỡ chuyến này nhưng không bận tâm, vì y rất kiên nhẫn, một sự kiên nhẫn kiểu thợ săn rình con mồi, y thích thưởng thức cảm giác chờ đợi như thế. Một người bước vào tầm mắt Cô Nguyệt Minh, người này tay dắt tuấn mã đen tuyền, đầu đội nón tre che nắng, kéo xuống thật thấp che ngang mũi, toàn thân bọc trong áo choàng rộng màu tro, dáng ung dung tạo cho người nhìn ấn tượng ốm thon ưu nhã. Cô Nguyệt Minh theo trực giác nhận ra người này là phái nữ, hoặc có thể vì người này mặc đồ giống thích khách đêm qua nên gây sự chú ý của y; cũng có thể vì nữ nhân này đang đứng trước một bảng cáo thị, trông bắt mắt hơn người qua lại chung quanh. Cô Nguyệt Minh nhìn bảng cáo thị, trên bảng dán đủ giấy cáo thị lớn nhỏ, song đập vào mắt nhất là một bức họa hình người treo giải thưởng ngay trung tâm. Cô Nguyệt Minh lập tức cảm thấy ngứa nghề, nghĩ ngay nếu thuận tay bắt một vài tên trộm vặt chắc rất thống khoái, nhưng y biết mình không thể bỏ mặc nhiệm vụ, nên thầm nghĩ đáng tiếc. Vừa nghĩ vừa đi, Cô Nguyệt Minh đã đến sau lưng nữ nhân cách hai bước. Hắc mã của nữ nhân phản ứng trước, hí nhỏ một tiếng, ái mã của Cô Nguyệt Minh cũng lên tiếng đáp. Nữ nhân không hề để ý, vẫn chuyên chú nhìn hình người trong bức họa treo giải thưởng. Cô Nguyệt Minh thầm ngạc nhiên, theo lẽ thường một nữ nhân đơn thân đi đường, đương nhiên phải nhất nhất đề phòng, không lý do gì có nam nhân đến sát bên, mà vẫn không quay lại nhìn, bất giác y quay sang nhìn nữ nhân. Y chỉ nhìn thấy phần mặt từ ngang mũi trở xuống. Thân hình tự nhiên cân đối rất xinh, điểm thu hút y nhất là đôi môi mềm đỏ mọng mang chút nét trẻ con, sóng mũi cao, làn da mịn, tất cả khiến người xem phải thốt lời khen khí chất ưu nhã của nữ nhân. Trong lòng Cô Nguyệt Minh tự dưng dấy lên một tình cảm chính y cũng không giải thích được, cũng chưa bao giờ trải qua. Đó là một cảm giác xa xưa, xa đến như trăm ngàn năm trước đã xảy ra trong một tiền kiếp nào đó, cái miệng dễ thương kia chừng như đã từng nói với y một câu, nhưng không sao nhớ được câu nói ấy là gì. Thế mà y vẫn chưa thấy hết cả dung mạo của nữ nhân. Cô Nguyệt Minh không thể nhìn đi nơi khác, chưa từng có nữ nhân nào có thể làm động lòng y, nhưng vị cô nương có nửa khuôn mặt vẫn giấu trong nón tre đã khuấy động tình tự của y. Hít sâu một hơi, nén xuống sóng lòng đang giao động, y miễn cưỡng lấy lại bình tĩnh và lên tiếng hỏi: “Cô nương có quen biết kẻ bị treo giải thưởng tróc nã này không?”. Phản ứng của nữ nhân hoàn toàn bất ngờ đối với y, nàng hừ nhạt một tiếng, vô cùng bất mãn Cô Nguyệt Minh bắt chuyện với mình, tỏ vẻ bất bình dắt ngựa bỏ đi, để lại y với cảm giác sượng sùng vì bị cự tuyệt. Cô Nguyệt Minh bật cười, lắc lắc đầu thầm bảo mình sao lại biến thành lãng tử hiếu sắc, tự nhiên bắt chuyện với một cô gái không quen, thật là vô vị. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng sợi tình cảm kỳ lạ mà cô gái đánh động vẫn khó xua đi, cứ bám theo y như oan hồn. Y lơ đễnh nhìn sang bức họa hình treo giải, hình vẽ một nam nhân tuổi độ thanh niên, không có nét đặc biệt gì, xem đến giá tiền thưởng là hai trăm lượng vàng, y mới chú ý, thầm nghĩ: “Chẳng biết đại đạo nào đáng giá như vầy?”. Vội xem kỹ bản văn, y lập tức tròn mắt như khó tin nổi. Nếu trên thế gian này có một đại đạo mà Cô Nguyệt Minh không muốn hạ sát nhất, chắc chắn phải là Ngũ Độn Đạo. Cô Nguyệt Minh chẳng những thưởng thức tài của hắn, mà còn thấy hắn rất thú vị, chỉ nghe giới điều “tam bất thâu” của hắn cũng đủ thấy độc đáo. Lại nữa Ngũ Độn Đạo chưa từng đả thương ai, nghề trộm qua tay hắn đã trở thành một nghệ thuật, không thể xếp hắn chung hàng với các đại đạo cùng hung cực ác. Ngũ Độn Đạo là một quân tử giữa phường đạo tặc. Cô Nguyệt Minh kêu thầm: “Ngũ Độn Đạo ngươi chuyến này đã làm gì mà luân lạc đến nỗi này, bị người điểm mặt, chân diện mục bị cáo thị khắp nơi, phe xuất giải thưởng lại là Đại Hà Minh uy chấn Đại Giang”. Tuy Cô Nguyệt Minh thích tác phong hành sự của Ngũ Độn Đạo, song oan có đầu nợ có chủ, đây không phải việc y nên nhúng tay vào, cũng không rảnh mà để ý đến. Thở ra một hơi, y dắt ngựa đi xuống bãi để chờ qua sông. Bước chân xuống bến, chỉ thấy rải rác có vài người đứng chờ, nữ lang kia cùng hắc mã đứng ngay vị trí bước lên thuyền, trong lòng Cô Nguyệt Minh lại rộn lên cảm giác kỳ dị kia, y vội dằng xuống, thầm nghĩ hôm nay sao kỳ lạ, chẳng lẽ y thấy sắc đẹp nên động lòng? Nghĩ kỹ lại thì không phải thế, y chưa bao giờ đeo đuổi tình cảm nam nữ, càng không tin có tình ái vĩnh cữu, đời người chỉ là một con đường ngắn ngủi khó đi, mỗi người đều là khách qua đường, mà y mong muốn nhất là nhìn thấy kết thúc của đoạn hành trình này. Y không hiểu chính mình, song quả thật không có người hay sự việc nào có thể tạo cho y hứng thú, ngoại trừ sự tử vong. Mải suy nghĩ, Cô Nguyệt Minh dường như không tự chủ, lại tới sau lưng cô gái. Nữ lang không quay đầu lại, hô nhỏ: “Ngươi còn tiếp tục đi theo ta thì ta không lịch sự nữa đâu”. Thanh âm êm ái vui tai, hết sức hấp dẫn, nghe một lần đã khó quên. Cô Nguyệt Minh nhún vai đáp: “Cô nương chớ hiểu lầm, tại hạ cũng giống cô nương đang chờ lên thuyền sang sông”. Nữ lang trầm giọng: “Vậy thì xéo đi, cách xa ta chút”. Lần đầu tiên Cô Nguyệt Minh gặp phải một “ác nữ” cấm người đến tiếp cận, y tự thấy mình tướng mạo không quá tầm thường, song đối phương chẳng nhìn đến nửa mắt. Định nói thêm, bỗng y nghe tiếng bước chân của vài người vang lên từ phía sau, bước đi đều đều, tạo một không khí đầy áp lực. Cô Nguyệt Minh đầy kinh nghiệm giang hồ nên biết sắp có phiền phức, lúc chưa xuống bến thuyền, y đã phát giác nhiều có đại hán mặc khinh phục màu đen, ngoài khoác trường bào màu tro, trước ngực thêu hình phi ưng, tiêu ký của Đại Hà Minh. Nhóm đại hán này trà trộn giữa đám đông, hiển nhiên Đại Hà Minh huy động bang chúng canh kỹ mọi bãi thuyền, đương nhiên mục đích là vây bắt Ngũ Độn Đạo. “Xin hỏi bằng hữu cùng cô nương từ đâu đến, và định đi đâu?”. Nữ lang cuối cùng quay đầu lại, xuyên qua nón tre liếc Cô Nguyệt Minh một cái, rồi chuyển mục tiêu sang năm đại hán của Đại Hà Minh đang tiến về phía hai người. Nàng lạnh nhạt thốt: “Hắn và ta không có chút quan hệ gì cả”. Nói xong nữ lang dắt ngựa sang chỗ khác đứng. Cô Nguyệt Minh quay lại, bực bội nói: “Tại hạ nhìn giống Ngũ Độn Đạo lắm sao? Chư vị đại ca đừng mất thì giờ với tại hạ được không?”. Năm đại hán tập trung tinh thần dò xét Cô Nguyệt Minh, hẳn là muốn xem kỹ mặt y có hóa trang chăng, nên không lưu ý việc nữ lang bỏ đi. Nhìn một hồi, trang hán dẫn đầu ôm quyền nói: “Công tử không phải người chúng tôi muốn tìm. Tại hạ Giang Đức, phân đà hương chủ Đại Hà Minh, lỡ đắc tội, xin công tử bỏ qua”. Cô Nguyệt Minh thầm khen, bang hội lớn quả nhiên có phong cách riêng, chỉ một hương chủ nhỏ nhoi, cũng nói năng đủ lễ khiến người nghe mát dạ. Tuy nhiên đối phương báo tính danh chức vị, theo giang hồ quy củ, y cũng nên đáp lễ cho biết lai lịch của mình, vấn đề dĩ nhiên là vì y đeo trường kiếm, ra dáng cao thủ, khiến đối phương không dám khinh thị. Từ trước đến nay Cô Nguyệt Minh đi lại một mình, đến nói chuyện cũng không muốn nói thừa một câu, làm thế nào có thể tùy tiện bộc lộ lai lịch, nghĩ thế y liền thong thả kéo áo choàng sang một bên, để lộ lệnh thông hành đang treo nơi thắt lưng. Cả năm đại hán đổ dồn mắt vào lệnh phù. Mỗi lần quan chức từ kinh đô đến địa phương làm việc, lệnh phù và công văn đều không thể thiếu, để cho quan phủ địa phương nhận biết lai lịch. Lệnh phù chia ra bốn cấp, cao nhất là Kim long phù, biểu thị trực tiếp nhận lệnh của Hoàng thượng làm sứ giả đặc biệt của vua đến địa phương thi hành mệnh lệnh của vua. Dù là đại thần bản địa, nhìn thấy lệnh phù này cũng phải khom người thi lễ, chẳng dám lơi là. Ngay lúc này, Cô Nguyệt Minh cảm giác được nữ lang thần bí đang đứng bên kia cũng phóng tia nhìn về phía y, vội nhìn sang thì đối phương vừa quay đầu đi, không chịu chạm mắt với y. Cô Nguyệt Minh chợt nghĩ: “Nữ lang vốn không chú ý bất cứ ai, nay nhìn sang đây là thế nào?”. Giang Đức lộ thần sắc chấn động, ngẩng đầu nhìn Cô Nguyệt Minh. Cô Nguyệt Minh buông tay cho trường bào rũ xuống che lại lệnh phù, đưa mắt ra hiệu với Giang Đức, thị ý chớ nên quảng bá điểm này. Giang Đức gật đầu chứng tỏ đã hiểu rõ. Có tiếng động lớn, thuyền vừa cặp bến. Cô Nguyệt Minh cùng ái mã đứng gần phía mũi thuyền, im lặng chờ thuyền rời bến, có tiếng vó ngựa truyền lại, y không cần nhìn cũng biết nữ lang thần bí lạnh lùng kia đang đến bên cạnh. Y không phải biết trước, mà vì nữ lang né tránh Cô Nguyệt Minh nên từ vị trí đứng đầu tụt xuống đứng giữa. Một bên thuyền đã chứa đầy hàng hóa và khách, nữ lang đành theo lời người thu tiền đi sang phía còn chỗ trống, thẳng đến cạnh Cô Nguyệt Minh, đúng như câu “ngõ hẹp đụng oan gia”. Cái mũi rất thính của Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, mùi hương lành mạnh của nữ lang xông vào mũi, như vào tận ruột gan, khiến Cô Nguyệt Minh có cảm giác khó hình dung được, bất giác y thầm than: “Ta làm sao thế này?”. Y từng gặp cô gái này chưa? Chắc chắn là chưa, vì trí nhớ y rất tốt, người nào y đã tiếp xúc đều để lại một ấn tượng không bao giờ tan, huống chi là một cô gái xuất chúng như vậy. Nữ lang chăm chú nhìn mặt sông, con hắc mã đứng một bên cứ ngóc đầu sang phía con ngựa của Cô Nguyệt Minh mà hí nhỏ, như đang vui mừng, nhưng ngựa của y lại làm ngơ giống như nữ lang, hai bên chủ và ngựa tạo nên hai thái cực thú vị. Cô Nguyệt Minh nhìn kỹ con hắc mã của nữ lang, khẽ lên tiếng hỏi: “Con ngựa của cô nương có phải là giống Khất Đan ở phương Bắc?”. Nữ nhân lạnh lùng đáp: “Không mắc mớ gì đến ngươi. Còn tiếp tục múa mép, ta sẽ đập cho ngươi một trận, đừng trách ta không cảnh cáo trước”. Cô Nguyệt Minh chẳng những không giận, mà còn cảm thấy thích thú, y cũng đoán sẽ bị nói xóc, mà không dễ gì cô gái chịu mở miệng, nên y cảm thấy vui vui. Thuyền rời bến đi. Đột nhiên Cô Nguyệt Minh thấy tim đập mạnh, là trực giác của một kiếm thủ, song không liên quan gì đến nữ lang đứng cạnh, đang còn suy nghĩ, bỗng tiếng nỏ bắn vang lên, một mũi tên từ mặt sông phía trước lao thẳng đến trước ngực y. Mọi việc xảy ra quá nhanh và quá bất ngờ, Cô Nguyệt Minh vừa nhìn thấy thì mũi tên chỉ cách ngực không đầy bốn thước, không còn kịp rút kiếm. Nữ lang phản ứng mau lẹ, hô lên một tiếng, nhìn sang Cô Nguyệt Minh. Thần sắc y không đổi, tay trái thu thành quả đấm, vung lên đỡ mũi tên. “Keng!”. Không phải tay y đánh trúng mũi tên, mà là cổ tay có bọc sắt giấu trong tay áo, mũi tên bị đánh bật ngược ra rơi xuống sông. Tiếng động gây sự chú ý của những kẻ đứng gần, đều quay sang nhìn hai người bên này, chỉ thấy cả hai thần thái như thường nên không lưu ý. Cô Nguyệt Minh có cảm giác kẻ bắn tên ám toán lặn xuống đáy thuyền, sang bên kia rời đi, y biết dù có nhảy xuống sông cũng khó đuổi kịp, đành dẹp bỏ ý định. Nữ lang ngưng thần, xuyên qua nón tre nhìn y. Cô Nguyệt Minh nhìn sang nàng, mỉm cười: “Cô nương có nhận ra đầu tên tẩm chất kịch độc chăng?”. Nữ lang quay sang hướng khác, không nhìn y nữa. Cô Nguyệt Minh nhìn xuống nước, thầm nghĩ không nói cũng biết là tay thích khách đêm qua lại đến ám toán mình. Tựu trung là ai muốn hạ sát y? Thích khách tinh thông độc dược, có thể nào liên quan đến vụ hai mươi bốn người trong đoàn tìm bảo vật của Phu Mãnh bị trúng độc mà chết chăng? Hay là thích khách này chính là Phu Mãnh. Nhưng Cô Nguyệt Minh mau chóng loại bỏ giả thuyết này. Phu Mãnh tuyệt đối không có cách nào biết y phụng mệnh xuống phương Nam. Nếu Phu Mãnh còn sống, thì hắn chỉ tìm cách ẩn cư chứ không đi khắp nơi giết người. Trong óc Cô Nguyệt Minh hiện ra cảnh lúc Phụng công công đặt Thất Phản kiếm trên bàn. Phụng công công muốn y phụ trách nhiệm vụ này, chắc hẳn đã có dự mưu trước, rất có thể đã báo trước cho Tiền Thế Thần hoặc Quý Nhiếp Đề, do đó hai kẻ này mới biết việc y xuống phương Nam. Thích khách đáng gờm này chắc chắn có liên hệ với một trong hai kẻ. Nghĩ đến đây, tâm cơ rúng động. Nếu y theo kế hoạch dự định ban đầu, đến thẳng Lạc Dương, hành trình sẽ rơi vào dự tính của kẻ địch, sẽ mất ưu thế chủ động mà trở thành thế bị hại. Có cách gì biến thế bị động thành chủ động chăng? Thuyền đi chậm lại, thì ra đã đến bờ bên kia.
o0o
Cô Nguyệt Minh thúc ngựa rong ruổi trên quan đạo, đi về hướng nam. Lúc nãy vừa lên bờ, nhìn nữ lang lên ngựa đi, Cô Nguyệt Minh như bị thôi thúc rất muốn đuổi theo, y cố hết sức nén xuống ý niệm ngu xuẩn này, càng không hiểu có phải mình bỗng phát điên hay chăng, tự dưng nảy sinh ý quyến luyến với một nữ nhân không quen chỉ là bình thủy tương phùng. Y tự nhận mình là một kẻ vô tình, đối với ai cũng thế, tại sao bỗng dưng thay đổi? Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng trong lòng cứ bất an, như mất một thứ gì. Thích khách kia nhất thời mất cơ hội đánh lén y, trừ phi hắn mọc cánh bay theo kịp. Ám toán dưới nước bất thành, đối phương tất phải lội ngược trở lại bắc ngạn, rồi tìm cách qua sông đuổi theo y, lúc này y đã lên bờ phía nam, còn chờ đối phương một hồi, không thấy ai cả nên y mới thúc ngựa đi mất. Y sẽ đi qua Lạc Dương nhưng không vào thành, mà đến vùng Động Đình trước, lại vòng qua Động Đình đi về hướng tây đến đầm Vân Mộng thuộc vùng Tương Thủy. Y sẽ thăm dò cho rõ Vân Mộng Trạch là một nơi như thế nào, rồi sau đó trở lại Lạc Dương sau. Nhiệm vụ kỳ này nhất quyết không đơn giản như Phụng công công nói, y ngửi thấy mùi âm mưu, Tiền Thế Thần và Quý Nhiếp Đề đều là những kẻ đáng nghi ngờ, bởi y bị phục kích đến hai lần. Dám dây vào Cô Nguyệt Minh này là chán sống rồi, bất kể người ấy quyền thế cỡ nào.
o0o
Ô Tử Hư giật mình tỉnh giấc, ngồi dậy giữa rừng sâu, thở gấp dữ dội, toát mồ hôi lạnh toàn thân. Khiếp quá. Hắn vốn hiếm khi nào nằm mộng, lần trước gặp mỹ nhân đứng trên cỗ chiến xa đến nay, hắn vẫn chưa biết rõ là mộng hay thật, nhưng đêm qua rõ ràng là một cơn ác mộng. Hắn thấy mình ở một nơi cổ quái, người chết khắp nơi, đi đến đâu cũng thấy tử thi, nam có nữ có, gồm cả tráng đinh phụ ấu. Ấn tượng sâu sắc nhất là tại một căn nhà cả gia đình lớn nhỏ hơn mười người chết nằm chất đống. Xác chết không có thương tích gì rõ ràng, xem ra như bị bệnh mà chết chứ chẳng phải bị đồ sát, giống như bị ôn dịch. Từ khi bắt đầu sinh nhai làm Ngũ Độn Đạo, hắn chưa từng bị thụ động như bây giờ. Những tưởng có được dạ minh châu, vận xui sẽ hết. Hắn đem lượng bạc sau cùng đi đánh bạc với lòng tin này. Chưa bao giờ hắn thắng liền tay như lần này, đến lúc thắng được năm trăm lượng bạc, mới dứt cơn máu mê mà tỉnh táo trở lại, trong lòng phát sinh một nỗi sợ run, chấn động hồn phách. Năm trăm lượng bạc đúng là kinh phí cho mỗi lần trộm báu, sự việc xảy ra khéo đến mức hắn không thể nào cho là trùng hợp. Sự thật là từ lúc xảy chân rớt xuống dòng nước xiết, đến khi nhặt được dạ minh châu, mơ hồ như có một động lực đang thao túng vận mệnh của hắn, hơi giống tình trạng bị quỷ mê theo như truyền thuyết. Chẳng những hắn bị mê, mà cả đổ trường cũng bị mê, đến nỗi đối phương dùng thủ thuật nào cũng không xong, để cho hắn thắng liên tiếp bảy ván. “Trời ạ! Rốt cuộc là chuyện gì đây? Ngài đang chọc tôi hay đang giúp tôi? Phải làm sao đây?”. Hắn phảng phất tự biết câu trả lời. Hắn không có sự chọn lựa nào khác, phương pháp lúc trước bây giờ không dùng được, dù trộm được bảo vật, chẳng những không ai dám nhận mua, mà còn có thể hại hắn. Tất cả hy vọng của hắn, tương lai của hắn, toàn bộ ký thác nơi viên dạ minh châu cất trong mình.
o0o Khâu Cửu Sư đứng nơi mũi thuyền, gió sông thổi áo hắn bay lồng lộng, nhìn uy vũ như thiên thần. Nguyễn Tu Chân đến bên cạnh, lên tiếng: “Cửu Sư như có tâm sự?”. “Tôi đang nghĩ đến ba quẻ mà tiên sinh đã gieo, có phải có liên quan đến việc long đầu muốn nhường chức?”. Nguyễn Tu Chân nhíu mày đáp: “Cửu Sư hoài nghi dụng tâm của long đầu chăng?”. Khâu Cửu Sư lắc đầu nói: “Tôi không khi nào hoài nghi thành ý của long đầu. Từ lúc công tử mất đi, long đầu thỉnh thoảng để lộ vẻ chán chường, tôi hiểu rõ long đầu là người như thế nào, lời đã nói ra không bao giờ rút lại. Trong tình cảnh này, tôi phải bắt sống cho được Ngũ Độn Đạo để báo đáp ân tình long đầu dành cho bọn ta, và hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của long đầu”. Nguyễn Tu Chân gật đầu: “Bây giờ bọn ta chớ nghĩ chuyện gì khác, chỉ tập trung tinh thần bắt sống Ngũ Độn Đạo, lần này hắn có cánh cũng khó bay. Vậy Cửu Sư đi gặp Quý Nhiếp Đề được chăng?”. Khâu Cửu Sư ngỡ ngàng hỏi: “Chẳng phải đã nói rõ là tiên sinh sẽ thân hành bái phỏng Quý Nhiếp Đề hay sao?”. Nguyễn Tu Chân hứng gió sông hít sâu một hơi rồi đáp: “Vì tôi có việc quan trọng hơn cần làm”. Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: “Còn có việc nào quan trọng hơn việc bắt sống Ngũ Độn Đạo? Nguyễn Tu Chân điềm nhiên đáp: “Đương nhiên là không, tôi cần đến đổ trường ấy tại Bách Thúy trấn, hỏi cho rõ bảy canh bạc kia thua như thế nào”. Khâu Cửu Sư nhíu mày: “Chẳng phải đã hỏi rõ ràng? Việc vặt này đâu cần tiên sinh thân hành tra xét”. Nguyễn Tu Chân nghiêm túc đáp: “Bởi vì để người khác làm không xong, chỉ có tôi mới biết cần hỏi cái gì, xem thử có thể tìm ra manh mối về vụ quỷ hào tề động”. Như Khâu Cửu Sư dũng mãnh không dễ khiếp sợ, mà cũng cảm thấy rợn người. Nguyễn Tu Chân chẳng phải kẻ thích suy đoán lung tung, nghi thần nghi quỷ, gã tinh thông thiên văn địa lý, nếu gã xem trọng việc kỳ quái xảy ra tại đổ trường, chắc chắn phải có mục đích. Nếu việc thắng lớn của Ngũ Độn Đạo quả có liên hệ quỷ thần, thì muốn bắt được hắn không dễ như dự tính, mà kết quả chẳng ai liệu được.
o0o
Kinh thành, Lân Hoa Cư. Hoa Mộng phu nhân mời Ký Thiện vào phòng, ngồi xuống bàn, chờ nữ tỳ dâng trà lui ra xong, chỉ còn lại hai người. Ký Thiện vẫn cùng một vẻ hòa hoãn, nhưng Hoa Mộng phu nhân thừa biết chỉ là kiểu tiếu lý tàng đao, nàng cảm thấy rất bất an. Ký Thiện phen này đến để làm gì? Hay lại do Phụng công công phái đến? Ký Thiện nâng chén trà uống cạn, không màn trà nóng, thư thả lên tiếng hỏi: “Phu nhân đã truyền tin cho Nguyệt Minh chưa?”. Hoa Mộng phu nhân ung dung đáp: “Thưa chưa! Xin công công thứ lỗi”. Ký Thiện không mấy lưu tâm, hỏi tiếp: “Có thể xin phu nhân cho biết nguyên do chăng?”. Hoa Mộng phu nhân so vai: “Khi chưa có cách chứng thực tin này, thiếp không thể truyền tin cho Nguyệt Minh, trừ phi công công thuyết phục được thiếp”. Ký Thiện ngạc nhiên hỏi: “Phu nhân đêm nay cớ sao thay đổi, trở nên cứng rắn thế?”. Hoa Mộng phu nhân mỉm cười: “Sau khi công công đi về, nô gia bỗng thức tỉnh ra mình có một chỗ tựa rất vững, công công không có sự chọn lựa nào khác, nếu không sẽ không cần đối phó nô gia”. Ký Thiện chẳng chút giận dữ, ung dung nói: “Chỗ tựa vững nào mà đến Ký Thiện ta cũng phải nể ba phần?”. Hoa Mộng phu nhân nói tỉnh như không: “Nguyệt Minh được chăng? Ký Thiện phá lên cười: “Cô Nguyệt Minh đương nhiên là chỗ tựa quá vững, chỉ cần Cô Nguyệt Minh còn có mặt thì Phụng công công cũng phải suy xét lại, có ai dám xem thường sự trả thù của Cô Nguyệt Minh. Song ta có thể thẳng thừng nói cho phu nhân hay, ta không lo ngại chút nào, vì ngay từ đầu ta không hề có ý nghĩ hãm hại phu nhân, mà còn muốn tận lực bảo vệ phu nhân, vì chỉ qua phu nhân, ta mới có thể giúp Nguyệt Minh thắng được chuyến này, chỉ có thắng lợi hoàn toàn, thì Ký Thiện này mới bảo toàn tính mệnh. Phu nhân nghĩ lần này ta đến vì chuyện gì? Ta muốn báo cho phu nhân biết, thiên hạ đệ nhất dụng độc cao thủ là ai, mà kẻ này cũng sinh sống ven vùng Lưỡng Hồ”. Hoa Mộng phu nhân nghe đến lạnh gáy. Ký Thiện để ý quan sát phản ứng của nàng, thân tình hỏi: “Phu nhân còn muốn biết nhiệm vụ kỳ này của Nguyệt Minh chăng?”. Hoa Mộng phu nhân thật không biết đáp sao, chỉ biết mình đã đánh giá thấp Ký Thiện, cứ tưởng gã chỉ là một tay chân trung thành của Phụng công công, sự thật không phải vậy, mà chính nàng đang bị gã kéo vào vòng tranh đấu quyền lực ác liệt của triều đình. Ký Thiện thở ra một hơi: “Lần trước trước khi đến thăm phu nhân, ta chưa thể xác định được nhiệm vụ của Nguyệt Minh có phải như ta đoán chăng. Ta rất cảm ơn phu nhân đã giúp ta chứng thực dự đoán là đúng”. Hoa Mộng phu nhân cả sợ hỏi: “Công công không phải phụng mệnh Phụng công công đến gặp nô gia sao?”. Hai mắt Ký Thiện lấp lánh, gã thong thả đáp: “Phu nhân quả là huệ chất lan tâm, biết hiểu ý người, chẳng trách Nguyệt Minh thích tìm phu nhân để thố lộ tâm sự”. Hoa Mộng phu nhân lòng dạ rối bời, hỏi lại: “Tại sao lão gia muốn phản Phụng công công?”. Ký Thiện hạ nhỏ giọng đáp: “Bởi vì ta cần giữ mạng sống của mình. Giữa Hoàng thượng và Phụng công công, ta phải có sự chọn lựa, bây giờ phu nhân hẳn thấu hiểu sự chọn lựa của ta”. Hoa Mộng phu nhân hiểu ra. “Bây giờ phu nhân nên hiểu rõ rồi, lợi ích của phu nhân, Nguyệt Minh và Ký Thiện này đã hợp thành một, nếu Nguyệt Minh thất bại trong nhiệm vụ kỳ này, Ký Thiện ta sẽ chết thảm, phu nhân sẽ lãnh đại họa, Hoàng thượng sẽ mất cơ hội duy nhất đoạt lại quyền lực từ tay Phụng công công”. Hoa Mộng phu nhân lắc đầu: “Thiếp không hiểu, nhiệm vụ của Nguyệt Minh tại sao có ảnh hưởng lớn đến thế?”. “Sẽ có ngày phu nhân hiểu hết những chi tiết bên trong, bây giờ chưa đúng lúc. Phu nhân lúc này nên tin và hợp tác với ta, cùng đưa tin tức chính xác nhất cho Nguyệt Minh, bằng không với khả năng của y trong tình trạng không rõ việc, e khó có thể sống sót trở về”. Hoa Mộng phu nhân thở gấp hơn, một lúc sau mới trở lại bình thường, rồi hỏi: “Công công muốn nô gia phải làm như thế nào?”.
Ô Tử Hư đầu đội lồng tre, vai đeo bọc to, bước chân vững vàng đi trên quan đạo về phía Lạc Dương, chẳng chút e ngại ánh mắt của người qua lại, thỉnh thoảng còn lên tiếng chào hỏi. Hắn có lý do không sợ, lúc này dù có gặp người đang cố công tìm hắn, cũng không ai nhận ra. Sở dĩ hắn trở thành một đại đạo vô ảnh vô hình, là do hắn có một sở trường không ai bì được, ấy là hắn đóng vai gì cũng không có một chút sơ hở, vì hắn đã từng làm qua nghề đó. Nói đúng ra, hắn không cần giả dạng, chỉ cần biến mình trở lại tay thợ năm xưa là đủ, như là thợ sắt, thợ mộc, mã phu, lái buôn ngọc thạch, thầy xoa bóp nắn xương, hoặc là đầu bếp, ngư phu, nông phu, thợ hàng thịt, giang hồ thuật sĩ. Bởi thế hắn có thể dễ dàng che giấu thân phận, chưa bao giờ bị người nhận diện. Có nghề nào hắn chưa thử qua? Hắn tùy cơ hóa thân, bám theo mục tiêu điều tra kỹ lưỡng, sau đó mới ra tay đoạt báu. Không may hắn có một nhược điểm lớn nhất, ấy là hắn chỉ thích trở lại bản sắc thật của chính mình. Có ngân lượng trong tay, hắn sẽ trở lại chân diện mục, như vậy mới tận tình hưởng thụ cuộc sống, cảm giác mình còn sống trên đời. Chính điểm đó đã gây thất bại lần này. Bây giờ hắn đang giả dạng một tay bắt rắn lấy mật bán, trong lồng tre chứa hơn mười con rắn độc đã bị hắn bẻ nanh, đều do chính tay hắn bắt được dọc đường. Bất kỳ ai xem hắn lành nghề cho tay vào lồng bắt rắn độc giết lấy mật, không người nào có thể liên tưởng hắn với Ngũ Độn Đạo. Lại thêm hắn nói rặt khẩu âm vùng Vân Quý, sau khi dịch dung thấy rõ da đen đúa vì sạm nắng, lưng gù, mắt nửa nhắm nửa mở, toàn thân bốc mùi thuốc rắn, đến chính hắn soi bóng dưới nước cũng khó nhận ra bản thân. Chỉ cần hắn lẻn được vào trong thành Lạc Dương, hắn sẽ có cách. Tuy nhiên làm thế nào tiếp xúc Tiền Thế Thần? Điểm này thì không dễ dàng, nhưng hắn tự tin có thể làm được. Ngày mai vào lúc hoàng hôn chắc tới thành Lạc Dương, “mệnh vận” sẽ đặc biệt chiếu cố hắn, hay ngoảnh mặt làm khó hắn?
o0o Lạc Dương Thành. Bố chính sứ ti phủ. Quý Nhiếp Đề ngồi ghế chủ, chuyên chú đọc truyền thư của Phụng công công. Tiền Thế Thần ngồi cạnh, vị đại thần địa phương có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Nam này, niên kỷ xấp xỉ Quý Nhiếp Đề, mười ngày trước vừa qua sinh nhật bốn mươi ba tuổi. Vóc người gã không cao, nhưng cho người xem cảm giác tráng kiện linh hoạt, cổ và vai hàm chứa sức mạnh, nếu đôi tay lớn thô của gã cầm trường thương, hẳn có uy thế không ai đỡ nỗi. Diện mạo Tiền Thế Thần khá kỳ lạ, mắt dài mà nhỏ, khiến người nghĩ đến mũi dao bén nhọn, tròng mắt chiếu sáng như có vẻ thâm trầm. Khuôn mặt rộng, cằm bạnh, nhưng khác hẳn Quý Nhiếp Đề, gã biểu lộ tình cảm, có thể cười vui đón khách, nhưng bất thần cũng có thể biến ra sát khí đằng đằng. Lúc này Tiền Thế Thần đang mím chặt cặp môi dầy, tỏ vẻ không phục, như một đứa trẻ hư đang vùng vằng. Quý Nhiếp Đề để thư trên bàn, nhắm mắt dưỡng thần, y vừa đến Lạc Dương, Tiền Thế Thần lập tức đưa truyền thư của Phụng công công cho y đọc. Tiền Thế Thần bực tức nói: “Quý đại nhân nói thử xem! Đại công công phái người tới đây như vầy, chẳng phải cho rằng bọn ta không có khả năng giải quyết việc này là gì?”. Quý Nhiếp Đề vẫn nhắm hai mắt, dựa ra lưng ghế, thư thả nói: “Ta biết Cô Nguyệt Minh, một kẻ đáng sợ nhất mà ta bình sinh đã gặp, không những y là một kiếm thủ siêu cấp, mà còn là một kẻ không sợ chết. Y là vũ khí đáng sợ nhất của đại công công, sở trường của y là bản lãnh truy tầm và điều tra, về mặt này ta tin rằng y có khả năng thiên phú”. Tiền Thế Thần nhíu mày: “Quý đại nhân không nghĩ nếu để cho y thành công bắt được Tiết Đình Hao, thì công lao của bọn ta bị y lãnh trọn hết sao? Dù không tính công, ít nhất cũng sẽ cho thấy bọn ta bất lực”. Quý Nhiếp Đề mở mắt chăm chú nhìn Tiền Thế Thần, trơ như gỗ đá: “Công lao ai lớn hơn, ta không tính. Ta chỉ quan tâm là làm thế nào tìm được Sở hạp. Đại công công phái Cô Nguyệt Minh đến đây, là để tăng cường thực lực của bọn ta. Cô Nguyệt Minh đến Lạc Dương không phải để đối đầu, mà để trợ giúp bọn ta. Trong một số tình huống, có nhiều người chưa chắc hữu dụng, nếu không bọn ta đã bắt được Tiết Đình Hao từ lâu. Song Thế Thần nên nhớ kỹ, Cô Nguyệt Minh không phải đến đây làm thủ hạ của bọn ta, vì cả đại công công cũng không thể khống chế cách hành sự độc lai độc vãng của Cô Nguyệt Minh”. Tiền Thế Thần bị Quý Nhiếp Đề nói một hơi, đành im lặng không dám phản đối. Ánh mắt Quý Nhiếp Đề ngưng tụ, phát ra tinh quang, thong thả thốt từng chữ: “Có lẽ Thế Thần vẫn chưa tự giác mình đang đi trên một con đường rất nguy hiểm, đó là hoài nghi dụng tâm của đại công công, năm chục năm qua, tất cả những ai hoài nghi đại công công đều không một người có kết thúc tốt đẹp”. Tiền Thế Thần cúi đầu, sợ hãi nói: “Thế Thần này tuyệt đối không có ý niệm đó, thỉnh Quý đại nhân giữ kín giùm, hạ thần xin tận tâm tận lực làm việc của đại công công giao phó”. Quý Nhiếp Đề lại nhắm mắt. Lúc này người hầu vào báo có Khâu Cửu Sư cầu kiến Quý đại nhân. Quý Nhiếp Đề mở hai mắt, trong mắt chứa đầy sát cơ, y lên tiếng: “Thế Thần không cần tránh đi. Mời họ Khâu vào đây”.
o0o
Quý Nhiếp Đề xem xong thư của Hoàng Phủ Thiên Hùng gửi, tiện tay đưa qua cho Tiền Thế Thần để gã xem qua, rồi nhìn Khâu Cửu Sư đang ngồi phía bên kia bàn và nói: “Lần trước ta gặp Hoàng Phủ bang chủ, đã cảm thấy thần sắc bang chủ khác thường, thì ra xảy ra chuyện bất hạnh như vậy, Cửu Sư an tâm! Bọn ta sẽ tận lực phối hợp quý bang, lần này Ngũ Độn Đạo dù có cánh cũng khó thoát”. Tiền Thế Thần ném thư xuống bàn, cả giận nói: “Hắn dám đụng đến Tiền mỗ, quả là chán sống rồi”. Khâu Cửu Sư vội vã cảm tạ, lại nói: “Theo dự đoán của bọn tôi, mục tiêu thuận tiện nhất của Ngũ Độn Đạo là ‘Thiên Nữ Ngọc Kiếm’, tương truyền trấn gia chi bảo của Tiền đại nhân, cũng theo thói quen của Ngũ Độn Đạo, hắn là một kẻ thông minh nhưng dại dột thích làm chuyện khó khăn, không thể nào không mê thích Thiên Nữ Ngọc Kiếm, còn những bảo vật khác hắn không thèm ghé mắt”. Quý Nhiếp Đề nhìn như dò xét Khâu Cửu Sư: “Cửu Sư nắm vững tính cách Ngũ Độn Đạo, miêu tả khá sinh động, thuyết phục được cả Quý mỗ, Ngũ Độn Đạo rất có thể đến tìm Thế Thần. Song ta có một chuyện vẫn nghĩ chưa thông, là dù hắn trộm được Ngọc Kiếm, rồi làm thế nào bán ra? Ai cũng biết đó là bảo vật của Thế Thần?”. Khâu Cửu Sư từ tốn đáp: “Hắn có thể thân hành đến đòi tiền Tiền đại nhân”. Tiền Thế Thần lắc đầu: “Điều này không thể xảy ra được, dù hắn có ba đầu sáu tay, mà bọn ta chuẩn bị chờ sẵn, hắn dám đến thì kể như tự đâm đầu vào lưới”. Quý Nhiếp Đề thốt: “Do đó bọn ta tuyệt đối không thể để cho hắn cảnh giác rằng bọn ta đang bày trận chờ hắn vào, như vậy chỉ làm hắn sợ trốn mất”. Khâu Cửu Sư thầm nghĩ, so sánh ra thì bất luận tài trí kiến thức, Quý Nhiếp Đề đều vượt xa Tiền Thế Thần, đáng sợ nhất là y hỉ nộ vô hình, không giống như Tiền Thế Thần bao nhiêu tình cảm hiện lên mặt hết. Khâu Cửu Sư nói: “Thủ đoạn hay nhất của Ngũ Độn Đạo là độn thuật. Do đó mỗi lần hắn trộm báu xong, khổ chủ mới giật mình nhận ra bản thân đã thành mục tiêu của hắn. Qua đây có thể thấy hắn có một bản lãnh che giấu lai lịch, qua mắt mọi người. Bất kể khổ chủ cất bảo vật kỹ đến đâu, hắn cũng có cách tìm được”. Quý Nhiếp Đề gật đầu: “Quý bang quả thật đã điều tra Ngũ Độn Đạo rất kỹ”. Tiền Thế Thần ra vẻ không quan tâm, gã nói: “Ngón nghề của Ngũ Độn Đạo, làm sao ra tay trong ti phủ được? Chỉ nội đám chó canh phủ tổng cộng mười hai con, bảo đảm hắn chỉ vô chứ không có đường ra”. Khâu Cửu Sư thốt: “Nghe một số khổ chủ kể lại, họ đều có nuôi chó dữ, nhưng trong khoảng thời gian Ngũ Độn Đạo trộm báu, chẳng có con nào lên tiếng, như là chúng không biết”. Tiền Thế Thần tự tin: “Để ta kể cho Quý đại nhân và Cửu Sư biết một bí mật, ngọc kiếm của ta có bản thật và giả, bình thường treo ở chủ đường là bản mô phỏng do ta tìm thợ khéo tay chế ra, gặp lúc có lễ lớn thì mới đem vật thật ra. Do đó nếu Ngũ Độn Đạo dám đến trộm báu, rất có thể bị nhầm đồ giả. Nhưng dù là đồ giả, ít nhất cũng đáng vài trăm lượng vàng, do đó ta đặc biệt gắn cơ quan trong giá để ngọc kiếm, chỉ cần kiếm rời khỏi giá, lập tức chuông báo động kêu lớn, có thể khiến Ngũ Độn Đạo không kịp trốn”. Quý Nhiếp Đề và Khâu Cửu Sư cùng khen độc đáo. Tiền Thế Thần dương dương đắc ý: “Bọn ta không cần làm gì cả, ti phủ cứ ra vào bình thường, thành Lạc Dương cũng chẳng cần tăng cường canh gác hay tuần tra, Ngũ Độn Đạo không đến thì thôi, hễ đến thì nhất định rơi vào thiên la địa võng của bọn ta”. Khâu Cửu Sư hân hoan: “Nếu Ngũ Độn Đạo đến đoạt báu như bọn ta dự liệu, thì đây là lần đầu từ lúc hắn xuất đạo bị người biết trước hành động của hắn”. Ngưng một chút hắn nói tiếp: “Tuy nhiên để tránh sơ sót, bọn tôi có một loại phấn tên là ‘thần bộ’, chỉ cần hòa tan trong nước, thoa lên cả hai thanh ngọc kiếm giả và thật, mùi như có như không, có thể để đến vài tháng không phai, nhưng người nào tiếp xúc với phấn này sẽ bị dính mùi, lúc ấy trừ phi Ngũ Độn Đạo biết cả ngũ hành độn thuật, bằng không sẽ giống như cá trong lưới, chỉ nhờ chó săn đánh hơi là có thể tìm ra hắn”. Quý Nhiếp Đề và Tiền Thế Thần cùng lúc thay đổi nét mặt, kế này quả là không chỗ sơ hở, chẳng sợ Ngũ Độn Đạo không mắc bẫy. Quý Nhiếp Đề hỏi: “Kế này ai nghĩ ra?”. Khâu Cửu Sư đáp: “Đây là thủ pháp bổn bang quen dùng để theo dấu kẻ địch”. Sự thật thì đây là diệu kế mà Nguyễn Tu Chân nghĩ ra để đối phó Ngũ Độn Đạo, nhưng Khâu Cửu Sư không muốn Quý Nhiếp Đề sinh lòng úy kỵ Nguyễn Tu Chân, nên mới nói sơ qua mà thôi. Tiền Thế Thần trầm ngâm: “Ngũ Độn Đạo có cảnh giác là quý bang đã biết lai lịch của hắn chưa?”. Khâu Cửu Sư nghĩ đến những lời phân tích của Nguyễn Tu Chân về Ngũ Độn Đạo, liền đáp: “Ngũ Độn Đạo tinh thông nhiều ngón nghề giang hồ, bản thân hắn chắc chắn là một kẻ thông minh tuyệt đỉnh, hắn chắc chắn biết đã kết thâm thù với Đại Hà Minh, với nhân lực của chúng tôi rất dễ dàng dò được chân tướng của hắn, do đó hắn phải biết tình cảnh của hắn thế nào”. Tiền Thế Thần hoài nghi: “Vậy mà hắn vẫn dám đến sao? Nguy hiểm nhiều quá”. Quý Nhiếp Đề cả quyết: “Chỉ cần có phân nửa cơ hội, bọn ta cũng phải xem như hắn nhất định sẽ đến, đây có thể là cơ hội duy nhất để bắt được Ngũ Độn Đạo. Chuyện của Hoàng Phủ bang chủ cũng quan trọng không kém chuyện của bọn ta, tuyệt đối không thể lơ là”. Khâu Cửu Sư thầm thở dài, phen này mang nợ họ Quý là chắc rồi, nhưng không làm vậy thì có mà bắt sống Ngũ Độn Đạo. Với tính cách của chính hắn, sau này dù Quý Nhiếp Đề có trở thành kẻ địch, thì ân này vẫn phải trả. Hắn vội thốt: “Ân tình của Quý đại nhân và Tiền đại nhân, tệ bang trên dưới đều không bao giờ quên được”. Tiền Thế Thần nói: “Cửu Sư có chỗ nghĩ chân tại Lạc Dương chưa? Nếu không ngại, ta có thể dành một viện riêng trong phủ cho Cửu Sư nghĩ ngơi, bảo đảm ra vào tiện lợi, mà ta cũng trọn tình chủ nhà”. Khâu Cửu Sư vội từ chối khéo, ba người thương lượng kỹ lại các chi tiết cần phối hợp, sau đó Khâu Cửu Sư cáo từ ra về. Đối với họ, Ngũ Độn Đạo lọt lưới chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi, không ai nghĩ sự tình sẽ nảy thêm nhiều thứ khác, hoàn toàn vượt ngoài dự liệu của họ. o0o
Vô Song Nữ ngước nhìn bầu trời đầy sao, trong lòng cảm thấy mờ mịt. Hắc nhi đang thong thả ăn cỏ bên bờ sông nhỏ, nó là quà sinh nhật năm nàng mười sáu tuổi của An thúc tặng, tình cảm An thúc dành cho nàng như cha thương con, nhưng An thúc không thể thay thế vị trị của thân phụ trong tim nàng. Sáng nay người mà nàng gặp lúc qua sông rất có thể là người của quan phủ, nếu không Đại Hà Minh thủ hạ đã không trở nên cung kính khi nhìn thấy vật bên trong trường bào của người ấy. Chỉ nhìn thần thái không bấn loạn của người ấy lúc đỡ tên, phản ứng mau lẹ bình tĩnh, đủ biết y là một hảo thủ bậc nhất. Mà kẻ ám toán cũng không thể xem thường, nàng chưa bao giờ thấy thân thủ như thế. Bất giác hiện lên trong trí Vô Song Nữ hình họa thanh niên bị Hoàng Phủ Thiên Hùng treo giải thưởng hai trăm lượng vàng. Cô biết chắc mình chưa từng gặp hắn, thì tại sao hắn lại gợi cho nàng một cảm giác gì đó rất khó hình dung? Cảm giác như đã từng quen biết. Thôi! Không nghĩ lộn xộn nữa. Nguyện vọng duy nhất của nàng là đến Vân Mộng Trạch, tìm được cữu phụ. Dù sự thật thế nào, nàng cũng thề phải truy cho rõ, nàng nhất định không tin cha mình là hạng người như thế.
o0o
Ô Tử Hư ngồi trên đỉnh núi, ngắm xa xa cảnh đèn sáng huy hoàng trong thành Lạc Dương. Thành trì này sẽ là khởi điểm mới của hắn, hay là kết thúc, hắn không dám chắc. Đối với Đại Hà Minh, hắn úy kỵ nhất không phải Hoàng Phủ Thiên Hùng, mà là hai người dưới trướng Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư. Nếu Nguyễn Tu Chân đúng là tay cơ trí, sẽ đoán được hắn cần làm một chuyến buôn bán mới có đủ tiền ẩn náu một thời gian. Trong tình cảnh của hắn, không có mục tiêu nào hơn Thiên Nữ Ngọc Kiếm của Tiền Thế Thần. Trong tình thế đó, Đại Hà Minh sẽ đến Lạc Dương giăng bẫy, chỉ cần hắn lộ hành tung, nhất định là không chỗ nào trốn được, vì thật sự hắn hoàn toàn không biết ngũ hành độn pháp. Nếu có sự chọn lựa, hắn sẽ không khi nào vào thành Lạc Dương, nhưng tất cả mọi hy vọng của hắn đều ký thác nơi viên dạ minh châu. Mấy năm gần đây thế lực Đại Hà Minh bành trướng, đã khiến triều đình úy kỵ, còn Tiền Thế Thần là một đại thần tại địa phương, hẳn cũng nghi ngờ bang hội này, sẽ không bắt tay hợp tác cùng Đại Hà Minh. Ngày mai hắn sẽ là kẻ đầu tiên bước vào thành Lạc Dương, hắn sẽ quên đi chính mình, hoàn toàn hòa mình vào cuộc sống của người thợ bắt rắn bán mật. Còn chiếc bọc lớn chứa đủ các dụng cụ thì đã giấu trong rừng phía ngoài thành, để chờ lúc cần sẽ dùng. Nghĩ đến đây, máu huyết hắn sôi lên. Hắn thích cảm giác kích thích như thế, như vậy cuộc sống mới có màu sắc.
o0o
Cô Nguyệt Minh phi thân xuống ngựa, bước đến bãi cỏ bên giòng sông nhỏ, mùi hương quen thuộc xông vào mũi, trong đầu y lại hiện lên bóng dáng nữ lang kia. Nàng có vẻ rất kiên cường độc lập, phong tư uyển ước, toàn thân đầy nét thần bí, như có một bí mật không thể nói cho ai biết, khiến nàng xa lánh mọi người. Tuy nhiên đó không phải nguyên do hấp dẫn Cô Nguyệt Minh, vậy thì cái gì hấp dẫn y? Y không trả lời được. Nữ lang mới rời đi cách đây độ nửa giờ, nhưng Cô Nguyệt Minh biết muốn đuổi theo nàng không dễ, vì ngựa của nàng là giống quý, không thua ngựa của y. Rất nhiều người cho rằng Cô Nguyệt Minh là một kẻ vô tình, nhưng y tự biết mình, thật ra y là một người có nhiều tình cảm, nếu không sẽ chẳng cảm thấy trách nhiệm nặng nề của cuộc sống, cảm thấy con đường này thật khó đi. Làm người rất khổ, nhưng nỗi khổ lớn nhất, là y không hiểu được tại sao mình phải đau khổ như thế. Y không có lý do gì phải cảm thấy như vậy. Nhưng khi trên đời không có sự việc gì khiến mình hứng thú, làm sao vui nỗi? Nữ lang đã đi đâu? Lúc rời bến sông, nữ lang lên đường đi về hướng Thường Đức, theo phía tây Đại Giang, nhưng chỉ là kế nghi binh, nàng lại vòng lại Động Đình Hồ. Nếu y không tốn nửa giờ ở bên sông chờ thích khách kia, để xem đối phương có ngu xuẩn đến độ theo y sang sông chăng, thì nữ lang chẳng thể nào đi trước y. Hành tung tránh né của nữ lang, làm Cô Nguyệt Minh càng tin rằng nàng có việc không thể cho ai biết. Nàng phải giấu ai? Rất có thể là chính y. Nàng nhìn phản ứng của thủ hạ Đại Hà Minh lúc ở bến thuyền bên kia sông, hẳn đã đoán y là người thuộc quan phủ. Từ sâu trong nội tâm Cô Nguyệt Minh dâng lên một sự run sợ. Nếu mục đích cuối cùng của nữ lang là Vân Mộng Trạch, và bí mật của nàng có liên hệ đến Sở hạp, thì đó giống như một định mệnh không tránh khỏi, đã chủ định họ gặp gỡ bên sông, cái võng mệnh vận kéo họ vào cùng một chỗ. Cô Nguyệt Minh không nghĩ mình đã đem lòng yêu nữ lang kia, không phải chuyện đó, nhưng nàng quả thật đánh động tình tự của y. Y có phải từng quen biết nữ lang chăng? Nàng đã từng nói với y câu gì? Điều này không thể xảy ra được. Con ngựa Khôi Tiễn đến bên Cô Nguyệt Minh, y nhảy lên ngựa, phục xuống ghé bên tai ngựa nói nhỏ: “Ta và ngươi đuổi theo một người”. Hú một tiếng, y thúc ngựa đi.
o0o
Tiền Thế Thần tiến vào hoa viên ở vườn phía đông, đến trước một thạch thất, so với những chỗ khác trong ti phủ, đây là một không gian riêng biệt, như đứng riêng khỏi trần thế, tĩnh lặng mà cô tịch. Thạch thất khác xa với các khu phòng hoa lệ khác trong phủ, có vẻ giống như một căn nhà dân miền núi để nguyên mà đưa vào trong phủ, tường xám ngói xanh, tầm thường không xa hoa, nhưng lại hòa nhập trong lâm viên, khiến người có cảm giác quên đi cảnh phàm. “Vào đi!”. Giọng nói bình hòa đôn hậu, hàm lực khiến người tùng phục. Tiền Thế Thần lộ vẻ cung kính, đẩy cửa bước vào. Bên trong ngoại trừ trong góc có để một cái rương to, chỉ có hai tấm chiếu lớn. Một người đang xếp bằng ngồi trên tấm chiếu sát tường, vì không có đèn nên người ấy như hòa mình trong bóng tối. Nhờ ánh trăng lọt vào qua cửa sổ phía đông, có thể thấy người này tóc dài chấm vai, thân ốm, hai bàn chân để trần, đang tĩnh tọa bất động, cho người cảm giác trấn định như tòa núi, nhưng cũng tạo ra không khí âm u, đáng sợ. Tiền Thế Thần cung kính gọi “sư huynh”, rồi ngồi xuống chiếc chiếu đối diện, hạ giọng: “Sư huynh đã về, tình hình thế nào?”. Tiền Thế Thần từ từ quen với bóng tối trong phòng, dung mạo của người kia trở nên rõ hơn, đôi mắt đối phương như chứa đầy trí tuệ, đang loé sáng rừng rực nhìn gã chăm chú. Người kia lạnh nhạt: “Rất khéo, Cô Nguyệt Minh quả nhiên danh bất hư truyền, không phải kẻ hư danh, ta phục kích y hai lần, lần đầu y nhận ra thứ ta dùng không phải binh khí sở trường, suýt bị thua, nếu ta không kịp thời thi triển Đạo thuật, e khó an toàn thoát thân. Sau đó ta nhân lúc y đón thuyền sang sông, từ dưới nước dùng nỏ bắn tên, cũng bị y dùng hộ hoàn giấu trong tay áo đánh rơi, Cô Nguyệt Minh tuyệt đối không phải kiếm thủ tầm thường, quả là một kỳ sĩ”. Tiền Thế Thần giật mình hỏi: “Với khả năng của sư huynh cũng không thể đả bại y ư?”. Người kia bình tĩnh đáp: “Nếu công bằng mà đấu kiếm, Qua Mặc ta chỉ có năm phần mười cơ may giết được y, nhưng nếu ta phối hợp Đạo thuật, thì y chắc chắn toi mạng”. Tiền Thế Thần trong lòng lại dâng lên cảm giác đặc biệt mỗi lần gặp Qua Mặc trong quá khứ, ấy là khi vị sư huynh này nhìn gã, như thể đang dùng một cặp mắt khác dò tìm bí mật trong nội tâm gã. Khi nghe gã nói, Qua Mặc chừng như đang dùng một đôi tai khác để nghe những âm thanh mà người khác không nghe được. Tuy sư huynh đang đứng trước mặt gã, nhưng con người thật của sư huynh như đang ở một tầng cao hơn. Tiền Thế Thần ít sợ ai, nhưng đối với vị sư huynh này thì một lòng kính sợ thật sự. Tiền Thế Thần thè lưỡi nói: “Cô Nguyệt Minh ghê gớm đến thế sao? Vậy bọn ta phải làm sao?”. Qua Mặc trầm giọng: “Phụng công công phái y đến đây, chứng tỏ Phụng công công đã hết nhẫn nại, quyết dồn hết vào một canh bạc định ăn thua, vì Cô Nguyệt Minh không chịu sự khống chế của ai, kể cả Phụng công công. Cách làm việc một mình tới lui của Cô Nguyệt Minh, và bản lãnh điều tra truy tầm của y sẽ là nguy hiểm lớn nhất cho bọn ta, nếu y tìm được Tiết Đình Hao trước bọn ta, hậu quả không thể tưởng tượng. Cách duy nhất bây giờ, không phải là hạ sát Cô Nguyệt Minh, mà phải tìm ra Tiết Đình Hao, xem thử hắn biết chuyện năm xưa nhiều ít, sau đó giết hắn diệt khẩu”. Tiền Thế Thần thất vọng: “Nhưng mà Tiết Đình Hao cứ như đã biến mất, sư huynh dùng thông thần thuật vẫn không cách nào biết được hắn ở đâu”. Qua Mặc lạnh lùng thốt: “Tiết Đình Hao đã vào Vân Mộng Trạch”. Tiền Thế Thần ngẩn ngơ hỏi: “Sư huynh xác định chưa?”. Qua Mặc nói: “Chỉ ở Vân Mộng Trạch, Đạo thuật của ta mới không thi triển được, nếu không phải thế, năm xưa ta đã không mất cơ hội được Sở hạp. Bên trong Vân Mộng Trạch có một lực lượng kỳ dị của thần linh cổ xưa, họ bảo vệ cổ thành, canh gác Sở hạp. Tuy nhiên ta có cảm giác là lực lượng ấy đang xuất hiện dao động. Nếu ta đoán không sai, quỷ tiết năm nay, cổ thành sẽ mở ra một lần nữa, đến lúc ấy sẽ biết rõ ràng Sở hạp ở đâu. Tiết Đình Hao vì ở bên trong Vân Mộng Trạch, nên tránh khỏi sự truy tìm của thần thông thuật”. Hơi thở Tiền Thế Thần gấp lên, hai mắt đầy khát vọng, gã hỏi: “Sư huynh phải chăng chuẩn bị vào Vân Mộng Trạch?”. Qua Mặc không trực tiếp trả lời gã, mà hỏi: “Phần Quý Nhiếp Đề thế nào?”. Tiền Thế Thần khổ sở đáp: “Lão cáo già này thật khó dò tâm ý, song tiểu đệ cứ cảm thấy y có cách nhìn khác về chuyện xảy ra năm xưa, áp lực của y đối với bọn ta không dưới Cô Nguyệt Minh. Lần này đi theo y còn có ba mươi sáu cao thủ tinh nhuệ của xưởng vệ, người nào cũng võ nghệ cao cường, dù đệ có dốc toàn lực, cũng khó mà giết được y”. Qua Mặc thốt: “Giết Quý Nhiếp Đề là đại hạ sách, trừ phi ngươi quyết định từ bỏ tiền tài, quyền thế và chức vị”. Hắn ngưng một chút lại nói tiếp: “Ta nhìn sắc diện của ngươi, mí mắt tụ ám khí, phải chăng vì tửu sắc quá độ?”. Tiền Thế Thần biết Qua Mặc có thể nhìn mọi vật trong bóng tối rõ như ban ngày nên không chút ngạc nhiên vì gã đã quá quen, chỉ cười gượng đáp: “Cứ nghĩ đến việc Sở hạp suýt chút vào tay mình, tiểu đệ càng cảng thấy buồn bực, muốn kiếm chỗ giải buồn. Tài phú, quyền lực, mỹ nữ, đối với đệ thiếu mất thứ nào cũng làm cuộc sống thiếu trọn vẹn, có bao nhiêu người có thể như sư huynh, xem những thứ này như bùn đất”. Qua Mặc bất mãn “Ta không trách hành vi của ngươi về mặt này, tuy nhiên tửu làm thay đổi tính tình, sắc có thể hại thân, bất cứ thứ gì cũng cần có chừng mực, biết tiết chế mới có thể hưởng thụ các lạc thú”. Tiền Thế Thần như bỏ ngoài tai, lẩm bẩm: “Thật muốn dẫn sư huynh đi gặp một người”. Hai mắt Qua Mặc hiện ý khinh rẻ, nhưng không nói gì. Tiền Thế Thần vẫn một vẻ mê say, tự nói tiếp: “Đệ muốn dẫn sư huynh đi gặp Bách Thuần cô nương tại Hồng Diệp Lâu, nàng chẳng những đẹp mà còn linh lợi xinh xắn, đôi mắt đầy tình ý, lúc nhiệt tình vẫn có đôi chút thẹn thùng, hấp dẫn thật là hấp dẫn, thật muốn xem thử sư huynh có vì nàng mà phá giới chăng”. Qua Mặc trầm giọng: “Đừng trách ta không biết thưởng thức, bây giờ cận ngày mười bốn tháng bảy, ngươi cần giữ cảnh giác, nếu có sơ sót gì, hậu quả ngươi gánh không nổi đâu. Ngươi muốn lấy được Sở hạp? Tốt nhất làm theo lời ta”. Tiền Thế Thần nghĩ thầm đêm nay không biết gặp vận gì, hết Quý Nhiếp Đề đến Qua Mặc đều trách cứ gã, bực tức mà không dám nói, gã vội chuyển đề tài: “Sư huynh định khi nào vào Vân Mộng Trạch?”. Qua Mặc bình tĩnh đáp: “Tọa vong độ một canh giờ, sau đó ta sẽ đi Vân Mộng Trạch ngay. Ngươi nên cẩn thận mà ứng phó Cô Nguyệt Minh, y là kẻ khó dây vào nhất, rất có thể là đối thủ duy nhất hiện nay của Qua mỗ”. Tiền Thế Thần ngạc nhiên hỏi: “Tọa vong? Đây là Đạo pháp gì?”. “Do suy nghĩ mà được, do suy nghĩ mà quên; bỏ hình lấy trí, nhập cùng đại đạo, ấy là tọa vong. Nói thẳng ra, những lời ta nói ngươi nghe vào cũng như đàn khảy tai trâu. Tâm lạnh như tro, thì việc gì cũng định; thân hòa cùng đạo, thì pháp nào cũng thông. Tiết Đình Hao không còn là một kẻ tầm thường nữa, mà đã thành một cao tăng đắc đạo, nếu ta không thể nhập trạng thái tối cao, sẽ mất cơ hội duy nhất để hạ sát hắn. Ngươi lui ra đi!”. Tiền Thế Thần biết điều, vội cáo lui rời đi.
Bát nguyệt hồ thủy bình Hàm hư hỗn thái thanh Khí chưng Vân Mộng Trạch Ba hám Lạc Dương thành.
Mặt hồ tháng tám phẳng bằng Nước trời hỗn hợp một vùng trong xanh Hí đầm Vân Mộng vây quanh Trồng trềnh sóng lượn lay thành Lạc Dương. (Thơ Mạnh Hạo Nhiên, bản dịch Trần Trọng Kim)
o0o
Lạc Dương có cổ danh là Ba Khâu, hoặc Ba Lăng, triều đình thiết lập ra Lạc Dương phủ, vị trí tại giao điểm Động Đình Hồ và Đại Giang, do nằm phía nam Thiên Lạc Sơn mà thành tên . Thời Tam Quốc, Đông Ngô đại tướng Lỗ Túc phòng thủ Ba Khâu, xây thành Ba Khâu, dựng đài duyệt binh, đến đầu đời Đường năm thứ tư, Trung thư lệnh Trương Thuyết mở rộng thêm đài duyệt binh, gọi là lầu Nam, về sau đổi tên là lầu Lạc Dương, lại chiêu tập học sĩ văn nhân lên lầu làm thơ. Tới thời Bắc Tống, Phạm Trọng Yêm viết “ký sự lầu Lạc Dương”, tên lầu nhờ văn chương mà được biết đến, văn chương nhờ có lầu mà phổ biến, Lạc Dương do đó vang danh khắp thiên hạ. Nguyễn Tu Chân vào thành trước giờ Ngọ, đoàn tùy hành có tám cao thủ trong bang, người người vóc dáng kiêu dũng, võ công cao cường, do Khâu Cửu Sư đặc biệt chọn ra để theo bảo vệ vị thư sinh nho nhã này. Cả chín người cỡi ngựa vào thành, chen chúc theo giòng người và xe trên đại lộ phồn hoa náo nhiệt dẫn từ cửa chính, thẳng đến lầu Ban Trúc thì xuống ngựa. Nơi đây nổi danh về món cua đặc sản tại Động Đình Hồ. Khâu Cửu Sư đã đứng chờ ngoài cửa, hắn dẫn cả đoàn vào trong, lên thẳng lầu hai đến sương phòng giáp mặt đường. Tám vệ thủ lưu lại ngoài sảnh đường dùng cơm, riêng hai người ra chỗ ngồi lý tưởng nơi lan can lầu Ban Trúc, gọi xong thức ăn và rượu, cả hai nhìn nhau, bỗng cảm thấy không khí có chút kỳ dị. Nguyễn Tu Chân nở nụ cười cổ quái. Khâu Cửu Sư ngơ ngác hỏi: “Chuyện gì thế?”. Nguyễn Tu Chân như đang lắng tai nghe, thư thả đáp: “Nghe không? Có người đang rao bán mật rắn, nghe nói dùng mật rắn nhúng rượu, có công hiệu trừ phong thấp thần kỳ, tôi thật muốn mua dùng thử, vừa đến vùng Động Đình thì tôi cũng bị hơi mỏi lưng đau vai”. Khâu Cửu Sư mỉm cười: “Tôi gọi người xuống mua mật rắn cho tiên sinh nhé?”. Nguyễn Tu Chân ngăn lại: “Phải tự đi mua mới thú, nếu không hiệu nghiệm chỉ tự trách mình nhãn quang không đủ giỏi”. Khâu Cửu Sư than: “Đừng vẽ trò nữa, tiên sinh điều tra được kết quả gì chăng?”. “Hay là Cửu Sư nói trước chuyện Quý Nhiếp Đề đi”. Khâu Cửu Sư tường thuật việc đi gặp Quý, Tiền hai người, đoạn nói: “Tôi thấy hai kẻ đó không hòa hợp cho mấy, lúc tôi đến, họ đang nói chuyện, sắc diện Tiền Thế Thần có vẻ khó coi, như đang bị Quý Nhiếp Đề quở trách”. Nguyễn Tu Chân nhìn qua lan can xuống đại lộ náo nhiệt, dưới ánh nắng chói có cảm giác như cảnh vật hơi nhòe đi. Gã thốt: “Nội vụ Phu Mãnh và Tiết Đình Hao không đơn giản như Quý Nhiếp Đề nói đâu, mãi đến ngày nay Quý Nhiếp Đề vẫn không đề cập đến nguyên do họ Phu và họ Tiết bội phản hôn quân kia. Có sự việc gì quan trọng đến mức y phải thủ khẩu như bình?”. Khâu Cửu Sư nói: “Việc này không can dự đến bọn ta, trước mắt bọn ta chỉ cần tận lực phối hợp để đổi lấy sự hợp tác của họ”. Nguyễn Tu Chân khẽ gật đầu, song vẫn ra chiều suy nghĩ, khiến Khâu Cửu Sư không biết gã có đồng ý cách nhìn của mình không. Bỗng Nguyễn Tu Chân nhìn sang Khâu Cửu Sư, chậm rãi thốt: “Bọn họ bị quỷ mê hoặc rồi”. Khâu Cửu Sư ngẩn người hỏi: “Ai bị quỷ mê?”. “Là bốn đổ bác cao thủ tự nhận là tứ đại thiên vương tại đổ trường. Hôm trước, sau khi Ngũ Độn Đạo thắng liên tục ba ván, bốn kẻ kia thay phiên nhau ra tay, kết quả vẫn là đại bại. Bọn họ thua rất kỳ quái, ví dụ rõ ràng phải bắt được mười hai điểm mới thắng, nhưng trong đầu cứ nghĩ phải bắt số thấp hơn mười hai điểm, làm cho họ thua mà chẳng hiểu vì sao, không phải bị quỷ mê thì là gì?”. Khâu Cửu Sư nhíu mày suy nghĩ, gật đầu: “Đúng là kỳ lạ quá, tuy nhiên cũng không cần nghĩ chi thần bí, có thể Ngũ Độn Đạo tinh thông vu pháp, hay biết dị thuật nuôi ngải, nói cho cùng chỉ là thủ đoạn thấp hèn trên giang hồ, chẳng phải chính phái”. Nguyễn Tu Chân hai mắt phát sáng, hạ giọng thốt: “Từ nhỏ tôi rất hiếu kỳ, hỏi người nhà hoài không chán. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu nghiên cứu dịch lý thuật số, vì các loại sách bách gia chư tử không mấy hứng thú, chỉ thích loại huyền thuật thần bí. Còn nhớ lần đầu bốc quẻ đoán việc hôm sau, chẳng ngờ ứng nghiệm, cảm giác như mở ra một chân trời mới, đến bây giờ tôi vẫn chưa quên”. Khâu Cửu Sư ngỡ ngàng nhìn Nguyễn Tu Chân, tuy không hiểu tại sao tiên sinh lại chuyển đầu đề, song hắn biết rõ lòng hiếu kỳ chính là động lực thúc đẩy Nguyễn Tu Chân tiến lên và trở thành một học sĩ quảng bác và một trí giả đa mưu. Nguyễn Tu Chân trầm ngâm, đoạn nói tiếp: “Tôi thường nghĩ, mình xem quẻ được ứng nghiệm, thật sự là vì có linh cảm tàng ẩn, hay có quỷ thần thao túng? Bây giờ có thể tôi đã có câu trả lời. Ngũ Độn Đạo chắc chắn không biết vu pháp, ít nhất hắn không biết loại vu pháp mà có thể giúp hắn thắng đổ cuộc, đương nhiên hắn càng không biết thuật nuôi quỷ, bằng không ngày trước hắn không phải bị thua bao nhiêu lần, đúng chăng?”. Khâu Cửu Sư cảm thấy Nguyễn Tu Chân phân tích quá rõ, không cách gì phản bác, y cười gượng: “Tiên sinh có đáp án như thế nào?”. Nguyễn Tu Chân có chút phấn khởi thốt: “Ngoài thế giới hiện hữu trước mắt bọn ta, còn có những vật khác, bọn ta gọi chung là quỷ thần. Chuyện lạ như Ngũ Độn Đạo thắng liên tục bảy ván, cho bọn ta thấy một điểm rất quan trọng, đó là tuy quỷ thần không thể ảnh hưởng số điểm của con xúc xắc, song có thể ảnh hưởng tinh thần của người đổ xúc xắc, khiến họ đổ ra số sai. Một người cũng vậy, bốn người cũng vậy, thì không còn là ngẫu nhiên thất thủ nữa”. Khâu Cửu Sư hỏi: “Nếu tâm chí đủ kiên định, có thể không bị ảnh hưởng của quỷ thần chăng?”. “Ai mà biết được”. “Tiên sinh nói làm tôi cũng rùng mình. Bây giờ bọn ta phải làm sao?”. “Vì có yếu tố không lường được này, bọn ta tuy bề ngoài chiếm thượng phong, nhưng việc bắt Ngũ Độn Đạo thật sự là tốt xấu khó liệu, bọn ta nên có chuẩn bị”. “Có nên mời đạo sĩ pháp lực cao cường đến đuổi ma trừ quỷ?”. Nguyễn Tu Chân im lặng suy nghĩ. Khâu Cửu Sư nói: “Nếu nói về bản lãnh bắt quỷ, không ai hơn Đạo gia Qua Mặc, nghe nói người này học được thiên thư thần bí của Nguyên Thủy Thiên Tôn, vị thần cao nhất trong Đạo giáo, hắn tinh thông phù chú, biết pháp lực khó dò. Lúc trước tôi chẳng khi nào nghe mấy lời đồn này, bây giờ lại hy vọng có thể mời được hắn đến giải nghi vấn này. Chỉ có điều người này hành tung vô định, hiện tại không biết nên đi đâu tìm hắn”. Nguyễn Tu Chân cười gượng: “Chớ có lẫn lộn. Nguyên Thủy Thiên Tôn sinh trước thái nguyên, nhưng cuốn kinh xưa nhất của Đạo giáo là Thái Bình kinh lại không đề cập, phải đến thời Đông Tấn trong cuốn ‘Chấm Trung Thư’ của Cát Hồng mới thấy xuất hiện những ghi chép về ‘Nguyên Thủy Thiên Hoàng’, chừng ấy đủ biết Nguyên Thủy Thiên Tôn chỉ là một danh xưng như Ngọc Hoàng Đại Đế. Chỉ điểm này cũng đã khiến tôi khó tin Qua Mặc. Cầu người chi bằng cầu chính mình, tôi vẫn theo câu nói ‘tận nhân sự, thính thiên mệnh’. Không thể không thừa nhận, càng lúc tôi càng thích trò đuổi bắt Ngũ Độn Đạo này”. Khâu Cửu Sư đang định nói, tiếng vó ngựa chợt vang lên, hai người cùng nhìn xuống đường. Sáu con ngựa từ xa phóng đến gần, qua mặt những xe, ngựa trên đường, có lúc thậm chí lấn lên cả lối của người đi bộ, khiến người người lo tránh, gây nguy hiểm cho đám đông trên đường. Sáu kỵ sĩ đều khoảng hai mươi tuổi, mình mặc võ phục, đao đeo ngang hông, bên mình ngựa treo cung tên, nhìn như một đoàn người nai nịt đi săn, nhưng không biết tại sao không xuất thành mà lại chạy ngược vào trong thành. Nhóm người này có vẻ ngạo mạn không nể ai cả, nếu không phải con nhà quyền thế, thì cũng thuộc nhà giàu có, mới dám hoành hành bá đạo, không kể đến sự an nguy của người khác. Còn cách lầu Ban Trúc chừng một trăm bước, nhóm người này như tìm được mục tiêu theo đuổi, cùng hô lên, tung roi quất ngựa, lập tức ngựa phóng nhanh hơn, vượt qua ba chiếc xe lừa chở hàng vào thành, chạy lên chận đầu một cỗ xe có hai ngựa kéo. Một người trong nhóm đưa tay nắm lấy dây cương của ngựa kéo xe, bắt xe ngựa dừng gấp lại. Tên phu đánh xe sợ tái mặt không biết làm gì. Những người khác trong nhóm lục tục tới nơi, vây quanh cỗ xe ngựa dừng bên đường kêu lớn như vô cùng phấn khởi. Các xe khác đến sau chỉ có cách đi vòng một bên mà vượt qua, chẳng ai dám nói một tiếng, đừng nói chi dừng chân can thiệp. Người đi bộ cũng vội vã né một bên đi qua, không ai dám dừng lại xem, hẳn là sợ liên lụy vô cớ. Sáu kỵ sĩ đồng nhảy xuống ngựa, hai người trong nhóm bước đến trước cửa xe, một kẻ cúi mình thi lễ một cách khoa trương, cất giọng quái dị xướng lên: “Lạc Dương lục công tử thỉnh an Bách Thuần cô nương”. Người bên cạnh tiếp lời: “Nhóm tại hạ đang định xuất thành, nghe được Bách Thuần cô nương định đến Đông miếu dâng hương cầu phúc, vội quay ngược trở lại, muốn mời cô nương cùng xuất thành đi săn. Mời không bằng ngẫu nhiên gặp gỡ, Bách Thuần cô nương xin chớ cự tuyệt”. Người phía sau lại cười nói: “Bách Thuần cô nương cầu quẻ gì? Nếu là cầu duyên, tại hạ sẳn sàng giải quẻ cho cô nương”. Cả bọn nghe xong cùng cười hô hố. Bách Thuần trong xe chưa có cơ hội phản ứng, bỗng từ phía trên truyền xuống một tiếng hừ lạnh lùng, một giọng nói hùng tráng vang vang: “Sáu tên nhãi ranh dưới đó, mau câm miệng và cút đi, chớ làm ta mất tửu hứng”. Lạc Dương lục công tử cùng nổi cơn thịnh nộ, tại Lạc Dương có ai dám vuốt râu hùm của họ? Mười hai con mắt lộ hung quang nhìn lên phía trên. Chỉ thấy trên lầu Ban Trúc bên lan can có hai người đang ngồi, phong thái nhàn nhã, đang nhìn họ dò xét như chẳng có gì đáng kể. Lục công tử đồng thanh chửi mắng, hai người trong bọn đang muốn xông vào tửu quán, từ trên lầu cách mặt đường độ nửa trượng, đại hán mặc võ phục cất tiếng cười dài, vươn mình đứng dậy, phóng qua lan can đáp xuống đất vững vàng. Hắn đưa tay nói: “Cần chi nhọc công lên lầu? Ta chịu khó chạy xuống đây này?”. Lục công tử bị chọc tức tóe khói, đồng loạt vung đao xông đến đánh đại hán. Kẻ ra tay nghĩa hiệp đương nhiên là Khâu Cửu Sư, gặp chuyện bất bình hắn không nhịn được, biết rõ là náo động như vầy sẽ lộ hành tung, sẽ gây bất lợi cho việc đuổi bắt Ngũ Độn Đạo, song hắn vẫn không thể làm ngơ. Một chiếc túi da dài ba thước đeo sau lưng hắn, bên trong là cây Phong Thần côn danh chấn thiên hạ của hắn, lúc vung ra có thể dài đến sáu thước, thu xếp sáu tiểu tử này chẳng phí sức chi cả. Tuy nhiên hắn không thể dùng côn vì như thế sẽ cho mọi người trong thành biết Khâu Cửu Sư đã đến. Khâu Cửu Sư cười khanh khách, chân bước vào khoảng trống giữa lằn đao một cách dễ dàng. “Bình!”. Một tiếng rú lên, một người trong nhóm Lục công tử văng ra ngoài, thì ra gã bị Khâu Cửu Sư đá trúng bụng dưới, chẳng những đao vuột khỏi tay, mà còn té bò càng dưới đất không dậy nổi. Một kẻ khác nhắm vào vai Khâu Cửu Sư chém tới, nào hay bỗng thấy hoa mắt, đối phương đã dời đến bên gã, chẳng những vừa tránh khỏi thế công của những kẻ khác, mà còn đưa tay chộp lấy cổ tay cầm đao của gã như gọng sắt siết chặt, xương vừa gãy thì đao của gã cũng bị đối phương đoạt mất, lồng ngực bỗng đau nhói, thì ra gã bị trúng chưởng của đối phương, đau đớn rú lên một tiếng quỳ gục sang bên. Tiếp theo đó tiếng đao chém vang lên không ngớt, trong chớp mắt bốn công tử còn lại đều bị Khâu Cửu Sư dùng đao vừa đoạt được đánh văng trường đao, gần gãy xương tay, vội ôm tay lui ra bốn phía, người người mặt cắt không còn giọt máu, lộ vẻ không thể tin được những gì vừa xảy ra. Khâu Cửu Sư vẫn một vẻ thong dong, quay sang tên công tử quỳ bên cạnh đang sợ tái mặt, thuận tay tra đao vào vỏ đao trên mình gã, miệng cười bảo: “Trả cho ngươi!”. Lại vỗ tay nói: “Công phu dường này mà cũng dám chường mặt ra giang hồ, mau cút ngay đi, chớ để ta gặp mặt lần nữa”. Kẻ đầu tiên lên tiếng ghẹo Bách Thuần, xem ra kẻ đứng đầu nhóm, run run môi cất tiếng: “Có gan thì lưu lại tính danh xem!”. Khâu Cửu Sư nhún vai bật cười thốt: “Các ngươi chưa đủ tư cách hỏi tên ta, có đủ bản lãnh thì đi dò xem ta trọ ở đâu, nếu chuyện vặt ấy cũng không làm được, thì chờ sáng mai đến lầu Ban Trúc kiếm ta”. Hai mắt hắn chiếu thẳng vào kẻ phát ngôn, hừ một tiếng: “Việc này ta đã lãnh, theo quy củ giang hồ, từ nay các ngươi không được quấy nhiễu Bách Thuần cô nương. Nếu ta biết được các ngươi làm càn không theo quy củ, thì bất luận các ngươi trốn đến chân trời góc bể nào, ta cũng nắm cổ lôi ra được, chừng ấy các ngươi sẽ biết thủ đoạn của ta, không còn thủ hạ lưu tình như hôm nay. Cút đi!”. Lục công tử tự biết không đấu lại Khâu Cửu Sư vì chênh lệch quá xa, chẳng dám nói gì thêm, tức tối lên ngựa rời đi. Khâu Cửu Sư hướng về phía xe ngựa phủ rèm châu thốt: “Đáng tiếc đã làm cô nương kinh sợ!”. Hắn bảo người phu xe còn chưa định thần: “Còn không mau đánh xe đi! Mau đưa cô nương về nhà”. Nói xong hắn quay lưng bỏ đi. Một giọng nói dịu ngọt, trong như tiếng chim hót, từ bên trong rèm châu vọng ra: “Xin tráng sĩ dừng bước”. Khâu Cửu Sư không quay đầu lại nhưng ngưng bước, lạnh nhạt thốt: “Chỉ là chuyện nhỏ, cô nương không cần để tâm. Danh xưng tráng sĩ chỉ thêm thẹn, cô nương về nhà đi nhé!”. Tiếng rèm khua lên phía sau Khâu Cửu Sư, thanh âm mê hoặc của Bách Thuần vang lên: “Công tử quả thật anh hùng, thi ân bất vọng báo, có thể nào quay lại cho nô gia xem tường tận dung mạo chăng?”. Khâu Cửu Sư chẳng ngờ Bách Thuần lại bạo dạn trực tiếp như thế, hắn ngạc nhiên quay lại, bỗng thấy trước mắt sáng rực lên. Rèm châu vén lên, hiện ra một dung mạo mỹ lệ, đôi mắt to ủy mị vừa đen vừa sáng, đuôi mắt hơi xếch lên, mày mảnh như tơ, trông vô cùng hấp dẫn, có thể khuấy động khát vọng sâu kín nhất của bất cứ nam nhân nào, khiến người cảm thấy chủ nhân của đôi mắt chắc chắn phải là phần thưởng lớn nhất của thượng đế. Trong chốc lát Khâu Cửu Sư quên cả chú ý đến chiếc mũi xinh xắn, bờ môi mọng đỏ, da thịt căng mềm của nàng. Bách Thuần e thẹn mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đều, hân hoan nói: “Đến Hồng Diệp Lâu là tìm được nô gia, chỉ cần công tử xưng là vị công tử trước lầu Ban Trúc, Bách Thuần sẽ hết lòng tiếp đãi, hy vọng đêm nay có thể gặp lại công tử”. Dứt lời rèm châu hạ xuống, xe ngựa lăn bánh. Ô Tử Hư và Khâu Cửu Sư cùng một lúc nhìn thấy dung mạo đầy tính kích thích của Bách Thuần, đều bị sắc đẹp của nàng làm chấn động. Tuy hắn đứng xa hơn Khâu Cửu Sư hai chục bước, nhưng nhờ nhãn lực hơn người hắn nhìn rõ mỹ nhân, khiến hắn nhớ lại kiều nữ tuyệt sắc trên cỗ chiến xa, mà đến giờ hắn vẫn chưa rõ là cảnh thật hay mộng. Hắn chưa từng gặp mỹ nữ nào khiến người động lòng hơn Bách Thuần, ngoại trừ cổ mỹ nhân kia. Tim hắn đau nhói, tình hình trước mắt không cho phép hắn động lòng, vì hắn đã nhận ra tay anh hùng cứu mỹ nhân kia là ai. Cuộc đời sao cứ gặp thất bại và chuyện bất khả kháng? Kiếp trước hắn đã tạo nghiệp chướng gì mà kiếp này phải trả nợ? Mệnh vận gì thế này? Khâu Cửu Sư nhìn xe ngựa đi xa dần, máu huyết toàn thân vẫn còn đảo lộn, thầm than khắp thiên hạ có nữ nhân nào đầy ý vị hơn thế. Ôi! Chỉ rất tiếc... Nguyễn Tu Chân đến bên cạnh Khâu Cửu Sư, tám vệ thủ từ trong lầu Ban Trúc bước theo ra đứng tản ra sau lưng y, khí thế oai phong như vậy, ai cũng nhìn ra họ chẳng phải phận tầm thường, không sợ bất cứ ai kể cả quan phủ. Khâu Cửu Sư nhíu mày hỏi: “Làm như vầy phải chăng quá khoa trương?”. Nguyễn Tu Chân không đáp, mỉm cười thốt: “Mỹ nhân tạ ân, công tử trước lầu Ban Trúc đêm nay có đúng hẹn chăng?”. Khâu Cửu Sư cười gượng: “Tiên sinh cũng trêu tôi, kẻ này chí tại sa trường, da ngựa bọc thây, chẳng dám đa mang chuyện nhi nữ tư tình. Tôi tuyệt đối không tìm gặp nàng đâu. Tiên sinh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi”. Nguyễn Tu Chân hai mắt linh hoạt, bình tĩnh đáp: “Ngay lúc Cửu Sư nhảy xuống mặt đường, tôi có cảm giác rất kỳ diệu, như có một động lực nào đang thao túng bọn ta. Này nhé, tại sao lục công tử không chận đường xe ngựa ở chỗ nào khác, mà ngay tại đây dưới chân bọn ta? Tôi cảm thấy sau khi xảy ra việc này, vận mệnh tương lai của Cửu Sư đã bị dẫn sang một hướng khác”. Khâu Cửu Sư nhíu mày: “Tiên sinh nên xem chừng cách suy nghĩ của mình đến gần mức tẩu hỏa nhập ma đấy, luận việc đơn giản thành phức tạp. Sự thật vẫn như cũ, giữa tôi và Bách Thuần sẽ không phát sinh chuyện gì cả, duyên gặp nàng chỉ là giây phút khi nãy mà thôi”. Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: “Cửu Sư bị tôi nói đâm ra có ý sợ rồi, mới cảnh cáo tôi như thế. Song vấn đề của Cửu Sư là không dám đối diện với sự thật không thể lý giải được. Ba lần gieo quẻ đều là ba quẻ quỷ hào tề động, chỉ vì do tôi nói nên Cửu Sư khó tin được”. Khâu Cửu Sư lúng túng nói: “Tiên sinh phải biết rằng tôi tuyệt đối tín nhiệm tiên sinh, làm sao có thể nghĩ thế được”. “Vấn đề không nằm chỗ Cửu Sư tín nhiệm tôi hay không, mà là cho đến giây phút này, Cửu Sư vẫn chưa thể chấp nhận quái sự xảy ra ngay trước mắt”. Khâu Cửu Sư bực tức: “Tiên sinh bảo tôi đối đầu thiên binh vạn mã thì tôi làm được, vì tôi tin mình có thể đánh thắng. Nhưng nếu đối thủ là quỷ thần, bọn ta nằm trong thế bị động, không thể hoàn thủ. Nếu tôi thực sự tin vào ‘cảm giác’ của tiên sinh, thì tôi đâu cần làm việc gì nữa?”. Nguyễn Tu Chân ung dung thốt: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất bại, phép quân lược này dùng để đối phó quỷ thần cũng thế. Tôi có nói lực ấy chỉ có thể ảnh hưởng tinh thần của con người, chứ không thể ảnh hưởng kết quả của con xúc xắc, do đó lực quỷ thần vẫn là hữu hạn. Luận như vầy tức là tri bỉ”. Ánh mắt Khâu Cửu Sư nhìn ra đường, một chiếc xe chở lương thực dùng một con la kéo đi qua, kẻ đánh xe là một nam nhân, phía sau lưng có một đứa trẻ ngồi trên đống hàng chất cao như núi, đang đong đưa hai chân, miệng hát nghêu ngao, cả hai xem chừng như là cha con. Giữa ban ngày, quang cảnh này rất thường thấy, rất sinh động chân thực. Nhưng nghe xong lời Nguyễn Tu Chân nói, dù trên đường người, xe, ngựa vẫn qua lại tấp nập, song hắn có cảm giác mình và Nguyễn Tu Chân đang ở riêng trong một thế giới khác, khiến hắn cảm thấy rợn người. Lời Nguyễn Tu Chân nói có phải là sự thực, hay chỉ là cảm giác sai lầm? Nguyễn Tu Chân nói tiếp: “Đây là nguyên do ‘tam quỷ tề động’. Bọn ta phải đối phó không chỉ riêng Ngũ Độn Đạo, mà còn cả lực lượng đã khiến hắn thắng liên tiếp bảy lần, ấy là một dạng dị lực có thể lay chuyển tâm ý bọn ta. Từ lúc Ngũ Độn Đạo khai sát giới một cách ly kỳ, hạ sát ái tử độc nhất của Đại long đầu bổn bang, thì lực lượng ấy một mực chi phối bọn ta. Lực này vô hình vô ảnh, chỉ lộ dấu vết trong ba lần gieo quẻ của tôi và trong lần thắng đổ trường của Ngũ Độn Đạo, tất cả những kẻ có liên quan đến việc này đều bị kéo vào, đặc biệt là Cửu Sư và tôi, thậm chí có thể kiêm luôn cả Quý Nhiếp Đề và Tiền Thế Thần. Bọn ta đang bị dẫn từng bước một đến một kết quả nào đó, mà kết quả ấy bọn ta hoàn toàn không khống chế được, vì kẻ đang thao túng là lực lượng ấy chứ không phải bọn ta. Tất cả bọn ta bị hãm trong vòng mệnh vận nào đó, do tâm không tự chủ mà hóa ra thân không tự chủ được, ngày nào bọn ta chưa phá được cục diện này, thì bọn ta không có cách gì cầm chắc sự thành bại”. Khâu Cửu Sư yếu ớt hỏi: “Vậy bọn ta có thể làm được gì?”. Nguyễn Tu Chân đáp: “Bất cứ bố cục nào có liên lụy nhiều người, cũng cần vòng nối vòng như mắt xích, bất kỳ vòng nào xảy ra sơ sót thì sẽ ảnh hưởng toàn bộ cục diện, cũng như màn lưới vận mệnh có một lỗ lủng. Nếu một trong bốn kẻ đánh bạc cùng Ngũ Độn Đạo lúc ấy phục hồi được sức tự chủ, thắng hết ngân lượng của Ngũ Độn Đạo, thì sự việc sẽ không phát triển theo hướng hiện tại. Do đó bọn ta chẳng phải hoàn toàn không thể hoàn thủ, chỉ cần bọn ta đừng để bị ảnh hưởng, ắt có cơ hội phá cục, và quyền chủ động sẽ rơi vào tay bọn ta, lúc ấy mệnh vận của Ngũ Độn Đạo sẽ do bọn ta định đoạt”. Khâu Cửu Sư nghe đến phấn chấn tinh thần: “Tiên sinh nghĩ ra cách phá cục chưa?”. “Trước hết phải xem thử bọn ta có thể nhận biết bố cục của đối thủ chăng. Ngay lúc Cửu Sư nhảy xuống đây, tôi có cảm giác mơ hồ rằng lực lượng ấy đang dẫn bọn ta, đến khi Bách Thuần vén rèm nói chuyện, lưu lại lời hẹn tái ngộ, thì cảm giác mơ hồ trở nên rõ ràng, đối phương muốn Cửu Sư cùng Bách Thuần tạo dây tình ái để thay đổi Cửu Sư hoàn toàn, dùng nữ sắc chôn anh hùng. Tuy bọn ta không biết làm như vậy được mục đích gì, song ta có thể cảm nhận được đây là một mắc xích quan trọng của cả bố cục, nhưng nếu Cửu Sư có thể không bị lay chuyển thì bọn ta có thể phá cục”. Khâu Cửu Sư cảm thấy phiền toái: “Nhưng bọn ta làm thế nào biết đối phương muốn tôi nghiêng về Bách Thuần, hay là cự tuyệt nàng?”. “Điều đó còn tùy vào tâm ý của Cửu Sư, nếu đối phương muốn Cửu Sư nghiêng theo Bách Thuần, thì bằng đủ mọi cách Cửu Sư sẽ cảm thấy sức hấp dẫn của nàng mỗi lúc một mạnh, không chấp nhận Bách Thuần sẽ trở thành một nỗi khổ khó có thể chịu nỗi. Nhưng nếu Cửu Sư có thể xem như chuyện vừa rồi chưa từng xảy ra, trong lòng như chưa từng biết qua một nàng Bách Thuần, thì bọn ta xem như đã thắng trận này”. Trên mặt Khâu Cửu Sư lộ vẻ kiên quyết, khẽ gật đầu, như muốn dùng động tác này giúp mình hạ quyết tâm. Nguyễn Tu Chân thốt: “Sáu tiểu tử bị trừng trị lúc nãy, tuy là vô danh tiểu tốt trên giang hồ, nhưng vẫn là bọn côn đồ nổi tiếng tại Lạc Dương này, việc này rồi sẽ truyền khắp thành, với bản lãnh thám thính tinh vi của Ngũ Độn Đạo, lại thêm hắn biết bọn ta đang truy bắt hắn, ắt sẽ đoán ra là Cửu Sư xuất thủ tương trợ, nên có khoa trương hay không cũng không thành vấn đề nữa. Thật ra, bọn ta đã lộ hành tung, mà đây cũng là một mắc xích khác trong kế hoạch của đối phương. Ý tôi nói vòng kết vòng là thế”. Khâu Cửu Sư nói không nên lời. Nguyễn Tu Chân thở dài: “Nếu bắt không được Ngũ Độn Đạo, với tính cách của Cửu Sư, dù Long đầu có chịu nhượng vị, Cửu Sư cũng nhất định không muối mặt mà tiếp nhận, thế thì tất cả công lao trong quá khứ của Cửu Sư sẽ đổ ra biển cả. Mưu đồ bá nghiệp gì cũng kể như không. Do đó giữa mỹ nhân và giang sơn, tướng quân chỉ có thể chọn một. Tôi thực không muốn nói ra điều này, nhưng chẳng thể không nói”. Hai người đang đứng giữa đại lộ phồn hoa tại thành Lạc Dương, mà bàn chuyện tạo phản, lật đổ triều đình hủ bại. Khâu Cửu Sư lấy lại thần sắc bình tĩnh thường ngày, đặt tay lên vai Nguyễn Tu Chân, mỉm cười nói: “Quỷ thần không có thần thông quảng đại như bọn ta tưởng tượng đâu, bằng không thiên hạ đã đại loạn, tuy nhiên bất kể thế nào, tôi xin nghe lời khuyên của tiên sinh, không đi tìm Bách Thuần. Nào! Để tôi tặng tiên sinh một cái mật rắn ngâm rượu”. Vừa nói hắn vừa đẩy Nguyễn Tu Chân đi về phía Ô Tử Hư, đang đứng bên đường rao bán mật rắn. Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: “Khỏi mất công, lúc nãy tôi chỉ cố ý nói lảng để có thêm thời gian suy nghĩ, chứ không phải thực sự muốn mua mật rắn”. Khâu Cửu Sư cười đáp: “Nhưng tiên sinh quả có bị phong thấp, mà tôi cũng nghe nói mật rắn trừ phong thấp hiệu nghiệm thần kỳ, thử một phen đâu có sao”. Ô Tử Hư vừa bán xong một cái mật rắn, lúc này hắn đã hoàn toàn nhập vai, thì thấy hai người bước đến, liền mừng rỡ đưa ngón tay cái về phía Khâu Cửu Sư, giọng khàn khàn nói lớn: “Vị đại gia này quả là công phu số một, tiểu nhân đi khắp nam bắc Đại giang, cũng chưa gặp ai có thân thủ mau như thế, giữa đường gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ, đúng là bậc hiệp nghĩa mà kẻ này kính trọng, mật rắn của tiểu nhân bán lấy nửa giá cho đại gia vậy”. Nguyễn Tu Chân tức cười thốt: “Lão huynh thật là biết cách làm ăn”. Khâu Cửu Sư tỉnh queo hỏi: “Lão huynh hôm nay buôn bán thế nào?”. Ô Tử Hư tự hào đáp: “Lạc Dương thành nhiều người dư tiền nhất, nếu hai vị chịu mua mật rắn, tổng cộng bán ra bốn cái, là hôm nay kẻ này có thể dẹp hàng sớm”. Nguyễn Tu Chân vụt hỏi: “Lão huynh ở trọ quán nào?”. Khâu Cửu Sư lộ nét ngạc nhiên trong mắt, thầm nghĩ chẳng lẽ Nguyễn Tu Chân nghi ngờ hán tử này. Ô Tử Hư than thở: “Mang theo lồng rắn độc, toàn thân hôi mùi rắn, có quán nào chịu cho ở? Tôi tìm đại chỗ nào đó, nằm xuống được thế là nhà, tôi đã quen cách sinh nhai này, cảm thấy sống như vầy tự tại hơn những kẻ nhà giàu”. Nguyễn Tu Chân gật đầu không nói. Khâu Cửu Sư nói: “Ta muốn mua loại mật rắn có thể trị phong thấp nhức mỏi, tốn bao nhiêu?”. Ô Tử Hư chẳng hề nhìn xuống, mở nắp lồng thọc tay vào bắt ra một con rắn toàn thân sắc vàng sậm lẫn điểm trắng dài độ năm thước, cười nói: “Con này tên là Hoa Bạch Dong, sống trong núi sâu, chỉ về đêm mới xuất hiện, rất khó bắt, cả đời tôi mới bắt được lần này là con thứ ba, cực kỳ khó kiếm, bảo đảm dùng xong thấy hiệu nghiệm ngay, nếu không ứng nghiệm, chỉ cần tôi chưa rời thành thì xin hoàn tiền. Nguyên giá mười lượng, giờ bán năm lượng cho hai vị đại gia, coi như vừa bán vừa cho. Cần nhớ là phải nuốt sống chung với rượu, mà phải là rượu hạng tốt như Thiêu Đao Tử, mới có thể lưu thông huyết dịch mà trừ bệnh”. Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân nhìn nhau cười, cùng cảm thấy kẻ này đúng là tay lão làng, biết là hắn nói phóng đại nhưng không thiếu sức thuyết phục. Khâu Cửu Sư bảo: “Vậy ta mua con này”. Ô Tử Hư kéo thẳng con rắn trong tay, cầm đầu rắn đưa đến trước mắt, miệng niệm chú, sau đó quỳ một chân đè lên đuôi rắn, tay cầm đầu rắn giơ cao cho thân rắn thẳng tắp, tay kia lấy con dao nhọn bên cạnh lồng tre, mổ bụng rắn lấy mật để vào chén để dưới đất. Nguyễn Tu Chân nhíu mày: “Không thể giết rắn trước khi lấy mật sao?”. Ô Tử Hư vừa bỏ xác rắn còn đang quằn quại vào bao vải, vừa nói: “Nếu rắn bị thương chí mạng, sẽ phát ra tử khí và giảm công hiệu của mật rắn rất nhiều, thế nên cần phải mổ sống lấy mật. Đại gia quả có từ tâm. Yên tâm đi! Tôi đã niệm chú vãn sinh cho nó, không chừng kiếp tới nó được đầu thai làm người, còn tôi vì sát nghiệp quá nặng, kiếp tới phải làm rắn, biết đâu bị nó giết lại không chừng”. Nói xong hắn đứng dậy, hai tay cầm chén được mật rắn cung kính trao cho Khâu Cửu Sư. Hắn tiếp lấy chén, tay kia trả tiền, cười nói: “Nếu không thấy công hiệu, ta sẽ tới tìm ngươi thanh toán đấy”. Hai người vui vẻ rời đi, bước về phía lầu Ban Trúc, các thủ hạ đã chuẩn bị ngựa đứng chờ. Khâu Cửu Sư không nhịn được lên tiếng hỏi: “Tiên sinh phải chăng nghi ngờ hắn? Nhưng xem ra rất khó giả dạng được”. Nguyễn Tu Chân trầm ngâm nói: “Rất kỳ quái, lúc nãy tôi bỗng nghĩ, nếu kẻ trước mắt là Ngũ Độn Đạo giả dạng, thì độn thuật của hắn quả là không chỗ sơ hở. Điều không làm ai nghi ngờ được là cổ tay hắn có mấy vết sẹo cũ, chứng tỏ hắn đã từng bị rắn cắn. Khâu Cửu Sư đồng ý: “Nếu độn thuật của Ngũ Độn Đạo cao minh như thế, thì bất kỳ ai ngoài đường cũng có thể là hắn, chắc chắn không tìm được dấu vết. Tuy nhiên tôi nghĩ bọn ta đánh giá hắn quá cao, vì từ trước đến nay, ưu điểm lớn nhất của hắn là không ai biết hắn sẽ đánh cắp bảo vật của nhà nào, còn bây giờ hắn đã mất ưu điểm đó”. Hai người lên ngựa, Khâu Cửu Sư bỗng biến sắc. Nguyễn Tu Chân ngơ ngác hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”. Khâu Cửu Sư quay đầu nhìn theo hướng Ô Tử Hư, hắn đang thu xếp đồ nghề chuẩn gì dẹp hàng. Hắn trầm giọng nói: “Tiên sinh nói đúng, tà lực kia đang ảnh hưởng tâm tôi, tự dưng tôi nảy sinh cảm giác bất định hoang mang, tôi chưa bao giờ có cảm giác như được lại mất như vầy”. Nguyễn Tu Chân cười gượng: “Trận đấu này không dễ đâu, ngày nào chưa bắt được Ngũ Độn Đạo, thì tướng quân không thể uống rượu, rượu vào tính loạn, bọn ta sẽ không tự chủ được”. Khâu Cửu Sư thở dài một tiếng, thúc ngựa đi trước, Nguyễn Tu Chân theo sát phía sau, tám tay thủ hạ lần lượt phi thân lên ngựa, đuổi theo hai người đi mất. Phía bên kia, Ô Tử Hư đổ mồ hôi trán, mau chóng lẩn đi nơi khác.
Dưới ánh nắng chiều, Cô Nguyệt Minh cùng ngựa dừng trên một sườn núi nhỏ, đơn thân độc mã, chỉ có chiếc bóng ngã dài dưới đất làm bạn, trông thêm phần hoang vắng tịch mịch. Phía tây nam dãy núi nối liền mấy chục dặm, ở giữa có một giòng sông uốn khúc vắt ngang, dưới ánh tà huy rực rỡ, nước xanh in bóng núi, cảnh sơn thủy như thi như họa, khiến người mơ hồ tưởng đang ở nơi giáp giới tiên cảnh. Tương Thủy. Ôi! Tương Thủy. Nữ lang kia rất có thể vào Vân Mộng Trạch. Từ đáy lòng Cô Nguyệt Minh trỗi lên cảm giác lạnh người trước vận mệnh. Tình cờ gặp gỡ nơi bến đò, truy tầm theo cả trăm dặm, dường như có một đôi tay vô hình đẩy hai người lại với nhau. Nửa giờ trước đây, y theo đến bên bờ suối thì mất dấu nữ lang, không chừng nàng đã phát hiện bị theo dõi, nên bước xuống nước đi để che dấu vết vó ngựa. Y lại hy vọng mất luôn dấu nữ lang, từ nay không gặp lại nữa, chứ không mong bị mệnh vận trói chung hai người. Thời gian sẽ làm phai mờ tất cả, đến một ngày kia, nữ lang ấy chỉ còn là một ký ức mơ hồ trong đời y. Nhưng y biết mình sẽ không quên được nữ lang, không quên được cảm giác thâm khắc ấy. Y cảm nhận được nữ lang sẽ đi vào Vân Mộng Trạch, nàng có liên quan đến Sở hạp. Cô Nguyệt Minh lại thở dài, đưa tay vuốt nhẹ ngựa quý Khôi Tiễn, tay vô tình chạm trúng chiếc túi dài đựng kiếm Thất Phản cùng mật lệnh của Phụng công công. Tâm tư dấy động, y mở túi da, đưa tay vào cầm trúng ống tre đựng mật lệnh, bèn bỏ lại trong túi, rồi lấy ra cây thần kiếm Thất Phản mà Phụng công công hình dung là có thể trừ yêu trấn ma. Y cầm kiếm nhìn kỹ, liền thấy ngờ vực. Đó là một thanh đoản kiếm dài nửa thước không vỏ, chuôi kiếm tròn loe to phần đầu, thân chuôi thon, đốc kiếm lõm, thân kiếm phía mũi uốn cong lên, làm bằng đồng pha sắt, song chỉ có một vài dấu vết đồng, hiển nhiên không giống loại kiếm đồng thường thấy, nhưng vẫn cho người cảm giác rất bén nhọn và cứng rắn. Cô Nguyệt Minh nhìn đến khó hiểu, đây rõ ràng là một thanh kiếm được chế tạo từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, kiểu cổ xưa, so với kiếm thời nay rất khác biệt về hình thể và chất liệu chế tạo, tại sao Phụng công công lại bảo tên kiếm là Thất Phản. Nói đến “thất phản cửu hoàn”, ấy là danh từ tu luyện của người trong Đạo môn, mà Đạo môn chưa xuất hiện vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại sao Phụng công công nói dối lai lịch tên kiếm, chẳng lẽ Phụng công công không biết y là đại hành gia sử dụng kiếm sao? Về lai lịch danh kiếm, Cô Nguyệt Minh có kiến thức khá sâu rộng. Cô Nguyệt Minh cầm kiếm thuận tay múa vài đường. Khôi Tiễn như cảm ứng điều gì, quay đầu lại nhìn, cất tiếng hí nho nhỏ. Cô Nguyệt Minh bỗng chấn động toàn thân, vội ngưng ngay, nhưng cảm giác dị thường lan khắp châu thân. Sao thế nhỉ? Cầm thanh đoản kiếm chuyển động, y có cảm giác như đang sử dụng thanh Bạch Lộ Vũ đeo bên mình, rất quen thuộc, tự nhiên, chẳng có một chút cảm giác mới lạ khi thử kiếm. Chừng như y có thể biết trước làm thế nào phát huy uy lực của thanh kiếm này trong nhiều tình huống khác nhau, như thể y hoàn toàn nắm được đặc tính của cổ kiếm. Cảm giác ấy gây rúng động, tay của y cùng cổ kiếm nối nhau, thì như hợp thành một thể. Cô Nguyệt Minh nhìn kỹ cổ kiếm, cảm giác quen thuộc càng mạnh hơn. Thừ người ra một lúc sau, Cô Nguyệt Minh cất cổ kiếm vào túi da, trong lòng có cảm giác không đành, hết sức quái lạ. Y không hiểu nổi. Tất cả mọi chuyện xảy ra gần đây, đều khiến y có cảm giác bối rối hoang mang, cũng như nữ lang kia, và thanh kiếm này. Cô Nguyệt Minh đi xuống núi, Khôi Tiễn đi theo phía sau cách chừng mười bước, hướng về phía khoảng rừng thưa dưới chân núi. Qua khoảng rừng thưa thì đến đông ngạn sông Tương, ven theo bờ đi thêm hai giờ, rồi rẽ sang hướng đông là đúng chỗ Vân Mộng Trạch, nơi ấy là một vùng đất kỳ dị như thế nào?
o0o
Ô Tử Hư chiếm một bàn riêng trong quán ăn, hắn gọi một bình Nữ Nhi Hồng, lại kêu thêm món lươn nướng nổi tiếng vùng Động Đình, ra chiều hưởng thụ khoan khoái như thể vừa tìm được chút giờ rãnh giữa lúc bận rộn sinh kế. Đến bây giờ hắn mới thấy nhẹ nhõm. Sau khi thu dọn hàng, hắn tìm đến một ngôi miếu rất ít người viếng, trả chút ngân lượng đổi lấy chỗ tá túc, rồi thả bộ khắp Lạc Dương Thành để nắm vững địa bàn. Đây là thói quen trước nay của hắn, mà cũng là nguyên tố thành công của hắn. Trong mắt người chung quanh, Ô Tử Hư ăn uống khá cầu kỳ, sự thực không phải thế, vì hắn không có thói xấu kén ăn, mà hầu như thứ gì ăn được hắn đều cảm thấy ngon, do đó dù là món ngon đắt giá hay món rất bình dân, hắn đều chịu ăn. Hắn tự nhận là một kẻ cổ quái, trong lúc đang tiến hành kế hoạch trộm báu, hắn sẽ hóa thân làm nhiều nghề khác nhau, hắn hoàn toàn nhập vai từ cách sống đến cách suy nghĩ, kể cả những thói quen do nghề nghiệp mà có, như thể hắn biến thành nhiều người khác nhau, mà qua đó cuộc sống đơn điệu trở nên phong phú, nhiều màu sắc và đầy cảm giác mới lạ. Có lúc hắn hoài nghi bản thân phải chăng là một kẻ đa nhân cách. Hắn thích nhất là đóng vai một hào khách vung tiền như nước, để nhìn thấy ánh mắt sáng rỡ của kỹ nữ khi nhận tiền trọng thưởng của hắn, cảm giác ấy không cách nào hình dung được. Hắn không bận tâm đối phương có chân tình hay giả ý, chỉ thích cảm giác lúy túy trụy lạc tầm hoan trong chốc lát để quên khuấy mọi thứ. Sau đó hắn sẽ cảm thấy rất vô vị, chỉ muốn mau chóng rời bỏ nữ nhân xa lạ đang nằm cạnh. Chẳng được bao lâu sau, hắn lại tiếp tục tìm đến một nữ nhân khác, để che lấp sự trống rỗng trong tim. Hắn biết mình gan nhỏ, điểm mâu thuẫn là hắn đam mê cách sinh nhai đầy mạo hiểm, đầy tính kích thích vì có thể bị người bắt bất cứ lúc nào. Nhưng khi hắn “biến” ra Ngũ Độn Đạo, lẻn vào nhà giàu có người canh và chó dữ để trộm báu, hắn lại hết sợ mà bình tĩnh ra tay, suy tính chu đáo tường tận, sau khi xong việc thường nghĩ lại, hắn cảm thấy lúc ấy hắn khác thường như thể đã “biến” ra một kẻ khác hoàn toàn. Cứ nghĩ sẽ có một ngày thất thủ bị bắt, hắn càng muốn hưởng thụ cuộc sống hiện tại, “hảo hoa kham chiết trực tu chiết, mạc đãi vô hoa không chiết chi ”. Nếu hái được đóa hoa tươi Bách Thuần, khi tỉnh dậy hắn có phá lệ lần đầu, không muốn bỏ đi chăng? Ô Tử Hư tự cảnh cáo, trước khi bán được dạ minh châu, hành động hái đóa hoa kia sẽ là một việc làm vô cùng ngu xuẩn chẳng khác nào tự nạp mạng cho quan phủ. Theo quy luật hắn tự đặt cho bản thân, trước khi trộm được bảo vật tuyệt đối không thể phóng túng, sau khi xong việc thì phải rời xa nơi trộm báu, không bao giờ trở lại, do đó chỉ có thể gặp Bách Thuần một lần trong đời, không còn có lần khác. Khâu Cửu Sư cùng Nguyễn Tu Chân xuất hiện tại thành Lạc Dương, đúng với dự đoán của hắn, kẻ địch cho rằng hắn muốn ra tay trộm Ngọc kiếm của Tiền Thế Thần, hẳn đã bố trí thiên la địa võng chờ hắn đâm đầu vào. May là hắn còn có một ưu điểm, ấy là hắn không cần đột nhập Bố chính sứ ti phủ để trộm đồ, mà chỉ cần tìm cơ hội gặp riêng Tiền Thế Thần, nên có thể gặp bất cứ nơi đâu. Hắn ngồi tại đây để chờ một cơ hội như thế, bằng không hắn đã trốn đi từ lâu. Khâu Cửu Sư còn chưa dùng đến Phong Thần côn uy chấn thiên hạ, mà thân thủ của họ Khâu đã khiến hắn giật mình, hắn biết chắc nếu công bình mà đấu với Khâu Cửu Sư là tự tìm tử lộ. Người này quả là danh bất hư truyền. Chỗ quán ăn hắn đang ngồi cách Bố chính sứ ti phủ bên trong thành khoảng vài ngàn bước, không thể trực tiếp theo dõi tình hình ngựa, xe ra vào cổng chính của phủ, phải đi qua khu kỹ viện phía bắc thành, nếu Khâu Cửu Sư phái người theo dõi chung quanh phủ thì sẽ không bắt được gì. Nguyễn Tu Chân có mưu trí đến đâu cũng sẽ tính sai, không thể nào biết hắn chẳng cần dò xét địa bàn sứ ti phủ. Bách Thuần! Một mỹ nữ hấp dẫn như thế bình sinh hắn mới thấy lần đầu, nếu không hái được hoa này, thì các hoa khác phải chăng sẽ trở nên vô vị? Nghĩ đến đấy, trong tim hắn lại hiện lên mỹ nữ trên cỗ chiến xa, so với nàng, Bách Thuần như kém bớt vài phần. Ngay lúc ấy, một đoàn người ngựa đi ngang qua. Ô Tử Hư chú ý nhìn ra, vội mừng vận may, vì hắn đã nghe ngóng rất rõ về dung mạo và ngoại hình của Tiền Thế Thần, nên vừa nhìn đã nhận ra họ Tiền trong đoàn người. Hắn vội trả tiền rời quán, bám theo đoàn người.
o0o
Khâu Cửu Sư bước đến tiểu đình ngoài vườn, Nguyễn Tu Chân ngồi ngay bàn đá, như đang thừ người. Ai đã quen Nguyễn Tu Chân đều biết đây là thói quen của gã, mỗi ngày đều cần thời gian biệt lập để suy nghĩ sự việc. Khâu Cửu Sư ngồi xuống trước mặt gã và nói: “Ngũ Độn Đạo có thể chưa vào thành”. Nguyễn Tu Chân gật đầu: “Có thể lắm, phải chăng Cửu Sư điều tra đã có kết quả?”. “Người của bọn ta đã tuần tra các tiệm hàng sắt lớn nhỏ, hỏi qua các chỗ chế dụng cụ tiểu xảo nổi danh và vô danh, tất cả đều không thấy người lạ nào ghé vào trong vòng mười ngày qua. Tôi lý giải thế này, thuốc hóa trang hay thuốc tránh chó thì có thể mua được ở các hương trấn lân cận, hay vào núi hái và chế biến được, nhưng nếu muốn có đồ nghề leo tường vượt rào, thì chỉ có ở thành thị lớn như Lạc Dương mới kiếm được. Hay là Ngũ Độn Đạo thực sự chưa vào thành? Tôi ngại nhất là đoán sai mục tiêu của hắn, chẳng những phí thời giờ chờ hắn, mà còn để hắn trốn đi mất”. Nguyễn Tu Chân chăm chú dò xét Khâu Cửu Sư một lát rồi hỏi: “Cửu Sư cảm thấy vô vị ư?”. Khâu Cửu Sư cười gượng: “Tôi biết tiên sinh đang nghĩ gì, nhưng tôi quả tình không phải như tiên sinh nghĩ đâu, từ trước đến nay hễ quyết định là tôi không khi nào dao động, tiên sinh phải tin tưởng tôi chứ”. “Tại sao mới có hơn một ngày mà Cửu Sư đã mất kiên nhẫn?”. “Có thể vì sự việc trọng đại, có liên quan đến hoài bão lớn nhất trong đời tôi, nên dễ lo sự được mất”. Cặp mắt Nguyễn Tu Chân sáng rực, trầm giọng thốt: “Cửu Sư chớ lo, tôi khẳng định rằng tình huống này đang phát triển ứng theo quẻ đã bốc, Ngũ Độn Đạo nhất định có mặt tại thành Lạc Dương, tôi gần như biết chắc lúc này hắn đang ở nơi nào trong thành, điều này chủ định phải xảy ra, nhân lực nào cũng khó đổi dời”. Khâu Cửu Sư thẫn thờ im lặng, Nguyễn Tu Chân chưa bao giờ thấy họ Khâu có nét mặt như vậy. Nguyễn Tu Chân mỉm cười hỏi: “Vẫn cảm thấy khó chấp nhận, đúng không? Khâu Cửu Sư chìa tay ra: “Tôi còn nói được cái gì?”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Trận đấu này khác biệt, tướng quân chẳng những phải kháng cự ham muốn đi gặp Bách Thuần, mà còn phải đối phó với cảm giác vô vị không biết mình đang làm gì. Ai cũng muốn mình sống sao cho có ý nghĩa, tướng quân định mục tiêu cho mình là vì hy vọng sẽ có cuộc sống nhiều màu sắc, không uổng một đời. Song mỗi ngày thức dậy thì lại không biết làm thế nào cho vừa, ngày nào cũng như ngày nấy, nhìn không thấy sờ chẳng được đối thủ, kẻ có ý chí kiên định nhất cũng sẽ chùng bước. Do đó trận đấu này chẳng phải dễ dàng, bây giờ tướng quân hẳn đã hiểu rất rõ”. Khâu Cửu Sư không phục: “Tôi chưa đến mức vô dụng như tiên sinh hình dung”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Những lời vừa rồi không phải nói riêng với Cửu Sư, mà nói chung mọi người, kể cả tôi. Cũng tựa như ông trời đang tra khảo mình, bọn ta đều biết dù người kiên định đến đâu cũng có lúc bùng nổ, chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi”. Hít sâu một hơi, gã nói tiếp: “Bây giờ tà lực ấy đang hành hạ Cửu Sư, khiến Cửu Sư gặp được một nữ nhân đáng động lòng, mà chỉ cần mình muốn là có thể tiếp cận nàng làm quen, để có cảm giác ấm lòng, nhưng Cửu Sư nhất định phải quên nàng đi, cự tuyệt nàng”. Khâu Cửu Sư cười gượng: “Tình huống chưa tồi tệ đến mức ấy, tuy nhiên ít nhất tiên sinh nói đúng một câu, nàng ấy đích thực để lại ấn tượng khó phai trong tôi. Lắm lúc tôi càng hoài nghi cách nhìn của tiên sinh đối với sự việc này, sự thật có phải như tiên sinh đoán chăng, hay tiên sinh suy diễn quá mức?”. Nguyễn Tu Chân mỉm cười: “Đây là lần đầu tướng quân nghi ngờ phán đoán của tôi”. Khâu Cửu Sư vội nói: “Xin thứ lỗi, nhưng lời nói của tiên sinh làm tôi khó chịu quá”. Nguyễn Tu Chân bình thản thốt: “Nói cho cùng, tướng quân vẫn muốn đi gặp Bách Thuần”. Khâu Cửu Sư lắc đầu đáp: “Về mặt này tôi vẫn còn sức tiết chế. Nói thẳng ra, suy đoán của tiên sinh thì dựa theo sự thật đã xảy ra, mà hiện nay việc tróc nã Ngũ Độn Đạo là việc quan trọng hàng đầu, lo toan việc khác không phải là viễn kiến. Do đó tôi đồng ý với cách suy nghĩ của tiên sinh, bằng không bây giờ tôi đã không ngồi đây, mà ngồi ở Hồng Diệp Lâu”. Hắn đổi đề tài, hỏi: “Mật rắn Hoa Bạch Dong công hiệu thế nào? Ngày mai tôi có cần đi kiếm tiểu tử kia đòi tiền lại chăng?”. Nguyễn Tu Chân nói: “Rất thần kỳ! Đêm qua tôi còn ngủ không ngon vì bị đau chân, nhưng theo lời hắn chỉ uống mật rắn, thì cả người nhẹ hẳn ra, thậm chí các chỗ đau kinh niên cũng không cánh mà bay”. Khâu Cửu Sư lộ vẻ bất ngờ, bảo: “Chẳng ngờ tiểu tử ấy không nói dóc, nếu gặp lại hắn tôi sẽ đưa thêm kim lượng nhờ hắn đi bắt Hoa Bạch Dong, để phòng khi tiên sinh cần dùng”. Nguyễn Tu Chân gật đầu đồng ý, tư lự thốt: “Hắn chẳng những là cao thủ bắt rắn, mà còn là một kẻ kỳ dị, nhìn ánh mắt của hắn thì hiểu được hắn không cam tâm chỉ bán mật rắn, mà như thể hắn đang khao khát chờ kỳ tích xuất hiện”. Khâu Cửu Sư biết gã có tài xét đoán người, vui vẻ nói: “Nếu kỳ tích mà hắn ao ước cũng giống như tôi, thì tôi có thể thu nạp hắn dùng làm thuyết khách hùng biện, để liên kết chí sĩ khắp thiên hạ”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Tướng quân hãy về ngủ một giấc cho ngon, sáng mai bọn ta đến lầu Ban Trúc ăn sáng, bằng không nếu sáu tiểu tử tìm người không được, lại cho rằng tướng quân sợ chúng”. Khâu Cửu Sư cười khanh khách như thấm ý, đứng dậy rời đi.
o0o
Nữ lang ấy là ai? Cô Nguyệt Minh vượt qua khu rừng thưa thì đến một con đường nhỏ ngoằn nghoèo đầy dấu chân và phân trâu, cách phía hữu sông Tương khoảng ba đến bốn dặm. Cô Nguyệt Minh thả bộ ven rừng, để cho Khôi Tiễn nghỉ ngơi, mấy hôm nay nó đã làm việc khá nhiều. Cả hai đi dọc theo bờ sông về phía nam, ngựa đi sau chủ cách xa hơn mười bước, như hoàn toàn hiểu thấu tính cách cô độc của Cô Nguyệt Minh. Nữ lang kia có liên quan gì đến Sở hạp? Cô Nguyệt Minh bình tĩnh phân tích tất cả những người có liên hệ đến sự việc này, Phụng công công, Quý Nhiếp Đề, Tiền Thế Thần, Qua Mặc, Phu Mãnh, Tiết Đình Hao, Tiết Nương... Trời! Hay nữ lang kia chính là con gái Phu Mãnh, ước tính ra tuổi nàng cũng lớn dường ấy rồi. Cô Nguyệt Minh cảm thấy tim mình thắt lại, y biết điều mình rất không muốn xảy ra cuối cùng đã phát sinh. Nữ lang và y sắp trở thành kẻ địch, mà nút thắt không đường tháo gỡ là Tiết Đình Hao. Không bắt được Tiết Đình Hao, thì không có cách gì tìm được Sở hạp, mà không có Sở hạp, thì y sẽ phải ra chiến trường. “Ta không khi nào cho phép tình trạng ấy xảy ra, cần phải tìm được Sở hạp”, Cô Nguyệt Minh thầm quát lên. “Nhưng ta có nhẫn tâm hạ thủ giết nữ lang chăng? “Cách giải quyết tốt nhất là nàng ta tự sát, như vậy thì sẽ không liên can gì đến ta. Nàng ta có bản lãnh này chăng?”. Nghĩ đến đây, đột nhiên một mũi phi đao từ phía tả cánh rừng bắn thẳng vào người y. o0o Ô Tử Hư đứng nhìn Tiền Thế Thần đi vào Hồng Diệp Lâu, hắn cảm thấy rùng mình lạnh cả người. Tại sao lại khéo như vậy, Hồng Diệp Lâu chẳng phải là chỗ ở của Bách Thuần sao? Bất giác hắn lại nhớ đến vụ thắng liên tục bảy ván ở sòng bạc và được vừa đúng năm trăm lượng.