Cô Nguyệt Minh lần đầu bị người ta đánh lén thình lình không kịp phòng bị, tuy nói y tâm thần lan man, vẫn không nên xảy ra tình huống như vầy, bởi y có xúc giác linh mẫn tựa như thú săn mồi, do đó có thể thấy kẻ đánh lén cao minh đến cỡ nào. Nhưng một mũi phi đao như vậy làm sao có thể làm khó được Cô Nguyệt Minh y. Những ý niệm đó lướt qua đầu như điện quang hỏa thạch, phán đoán ra địch nhân tất có sát chiêu càng lợi hại hơn, một mũi đao này chỉ là kế thanh đông kích tây. Cả đất trời trong suốt sáng rõ hẳn, sát na đó, Cô Nguyệt Minh vọt lên trạng thái đỉnh điểm, nhìn cũng không thèm nhìn, dùng hộ hoàn trên tả thủ đón đỡ phi đao. Quả nhiên không ngoài sở liệu, một bóng đen “vù” một tiếng từ rừng cây bên trái bay ra, lộn mình vài vòng, cuối cùng hai chân lăng không thi triển, hạ mình trước mặt y, mau mắn linh động như một làn khói mỏng, khiến người ta nảy sinh ảo giác ảo ảnh trùng trùng. “Keng!”. Phi đao đập vào thiết hộ hoàn văng xuống đất, hắc y nhân đằng trước phất song thủ quăng tám vật hình dáng như tiểu cầu, nhắm đầu y ụp xuống. Hai người bốn mắt chạm vào nhau, chính là nữ lang đã từng gặp ở bến đò. Nữ lang tuy dùng vải đen phủ trùm đầu, bất quá Cô Nguyệt Minh nhận ra là nàng qua thân hình thể thái. Cô Nguyệt Minh thủ đoạn gì mà chưa từng gặp qua, lập tức biết là vật như độc yên đạn, chỉ cần y tránh sang bên phải, không để đạn sau khi nổ phún ra khói độc bao phủ, đối phương chỉ lãng phí hao tổn hỏa khí mà thôi. Vấn đề là Khôi Tiễn đang ở đằng sau cách mười bước, nếu mình tránh né, nạn tai nào có khác gì sẽ ập lên mình nó, đó là chuyện Cô Nguyệt Minh tuyệt không cho phép, trước khi giết chết được y, không ai có thể làm tổn hại đến Khôi Tiễn. Một tiếng “rẻng” vang vọng, Cô Nguyệt Minh tả thủ rút kiếm khỏi vỏ, bước tới đâm xộc ra, thần tốc như ánh chớp, mắt người thường khẳng định không đuổi kịp thứ tốc độ đó, nhanh đến mức vượt quá cực hạn của thể năng. Như trên không trung thình lình xuất hiện thần tích, Cô Nguyệt Minh đâm vỡ hai trái độc khí đạn bay tới trước nhất, liền nổ thành hai vạt khói đen, còn chưa khuếch tán, Cô Nguyệt Minh dùng sống kiếm quật bay độc yên đạn bên phải, lại hồi kiếm chẻ xuống, trúng liền bốn trái độc yên đạn, chuẩn xác đến mức khó tin. Cô Nguyệt Minh ngã người ra sau, Bạch Lộ Vũ liên tục vít ra, vít hai trái độc yên đạn cuối cùng bắn ngược về phía nữ lang, đến lúc đứng thẳng người lại, y đã bị khói đen phủ kín hoàn toàn. Cô Nguyệt Minh hít một hơi, lập tức lòng kinh ngạc, khói đen không ngờ không có độc. Vô Song Nữ nhảy vọt lên trên, hai cước liên hoàn đá ra, trước sau đá trúng hai trái yên vụ đạn bị Cô Nguyệt Minh vít văng qua, liền hóa thành hai làn khói mờ mau chóng khuếch tán. Thứ yên vụ đạn không cần châm lửa mà bùng nổ khi có va chạm này là một trong những trò bán nghệ trong Bách Hí Đoàn của nàng, chỉ có thể duy trì một khoảng thời gian ngắn, nhưng nàng có thể dựa vào khói mù để hoàn thành mấy ngón lạ làm náo động khán giả. Cô Nguyệt Minh phóng nhanh ra khỏi khói mù, trường kiếm phá không đánh tới, kiếm thế thần tốc hung mãnh, vốn đáng lẽ đã thoát khỏi phạm vi khói mù, lại vì Vô Song Nữ làm nổ hai trái yên vụ đạn kia, biến thành chui lọt vào một cụm khói mù khác. Vô Song Nữ song thủ thò ra sau hông, vừa chạm đất đôi ngọc thủ đã nắm một đôi đoản kiếm chỉ dài khoảng nửa thước, xoay mình một vòng, dời đến bên phải Cô Nguyệt Minh, hữu thủ đoản kiếm tạt nhanh chỗ mũi kiếm Bạch Lộ Vũ của Cô Nguyệt Minh, tả thủ kiếm quét ngang yết hầu của Cô Nguyệt Minh, không chút lưu tình. Lúc này là lúc hai cụm khói mù kết hợp lại thành một, biến thành một vùng mù mịt bao trùm phương viên năm trượng, tinh quang nguyệt sắc không còn tác dụng gì nữa, kẻ bên trong có giơ tay cũng không thấy ngón tay. Một tuyệt kỹ khác của Vô Song Nữ là lấy vải đen che mắt, sau đó thuần bằng vào bản lãnh nghe tiếng gió nhận ra âm thanh để tránh thoát phi đao quăng về phía nàng. Vào giờ phút này dưới tình huống khói đen lan dần, nàng cứ như cá gặp nước, triển khai hết sở trường. “Keng”. Cô Nguyệt Minh trường kiếm biến chiêu, đổi đâm thành vít, vít trúng đoản kiếm của Vô Song Nữ trước khi bị đoản kiếm của nàng chém trúng, lúc thân người yêu kiều của nàng bị vít chấn động, y lách sang phía trái, đường tơ kẽ tóc tránh khỏi hữu thủ đoản kiếm hung hiểm của đối phương. Cô Nguyệt Minh cười khà khà: “Cô nương ghê gớm quá, nói vài câu được chứ?”. Vô Song Nữ không nói tiếng nào, như bóng theo hình, song kiếm chia hai đường trên dưới nhắm Cô Nguyệt Minh thi triển kiếm pháp linh động luồn lách vốn có thể phát huy uy lực đến mức cao nhất khi đấu đá nà sát người. Với năng lực của Cô Nguyệt Minh, nhất thời cũng không có cách phản kích, lại biết đối phương thuật bay nhảy chỉ có trên mình chứ tuyệt đối không thua kém, may là y quen chế địch thủ thắng trong hoàn cảnh đen tối, lợi dụng khoảng thời gian một hơi thở đó, kiếm thế toàn diện triển khai, cứng cỏi dùng ưu thế kiếm dài kháng cự Vô Song Nữ cách ngoài bốn thước. Nhất thời tiếng trường kiếm đoản kiếm va vào nhau vang vọng không ngừng, đã đỡ được mấy chục kiếm công kích của Vô Song Nữ. Cái làm cho Cô Nguyệt Minh kinh dị nhất là một nữ lang yêu kiều như đối phương lại kiếm nào kiếm nấy cũng chất chứa kình lực, khí mạch tuôn trào, hơn nữa mỗi một kiếm đều có thể dụng hết sức toàn thân, kiếm pháp biến hóa muôn ngàn, mỗi một khắc đều dời đến vị trí khác biệt, khiến cho góc độ công kích khó mà nắm bắt được, nữ tử lợi hại như vầy, y có nghĩ tới cũng chưa từng ngờ được. Khói mù mỏng dần. Vô Song Nữ quát một tiếng yêu kiều, lộn nhào liên tục sang vùng khói mù bên kia, nháy mắt đã đi xa. Đến khi Cô Nguyệt Minh ra khỏi vùng khói mù, Vô Song Nữ đã biến mất sâu tuốt trong khu rừng bên bờ Tương Thủy. Cô Nguyệt Minh tra kiếm vào vỏ, đến giờ mới phát giác ống tay áo tả thủ bị rạch rách, không cầm được phì cười, lại có cảm giác thỏa mãn, nếu có thể chết trong tay cô gái đó, dù sao cũng hay hơn nhiều so với để bị đám trộm cướp tàn ác làm thịt. Chúm môi huýt gọi, Khôi Tiễn đằng sau phóng tới bên cạnh y, Cô Nguyệt Minh phi thân lên ngựa, ghé bên tai Khôi Tiễn thốt: “Bọn ta rượt theo nàng, xem nàng tướng mạo ra sao chứ?”. Khôi Tiễn như hiểu tiếng người, lần theo con đường nhỏ nhắm phía nam đi tới, Khôi Tiễn tuy không biết tìm người, nhưng muốn tìm đồng loại vùng phụ cận lại là chuyện làm có thừa.
o0o Tiền Thế Thần khuôn mặt vì áo não mà dài thượt ra, ngồi trong đại sảnh đón khách Quý Tân Sảnh của Hồng Diệp Lâu mặc cho mụ quản gia Diễm Nương hết sức nói khôn nói khéo vẫn không thể an ủi được gã. Bốn tên hộ vệ theo hầu đứng canh lối vào đương nhiên không dám xen lời, không khí rất ngột ngạt. Tiếng cười từ ngoài cửa truyền vào, Tiền Thế Thần không cần nhìn cũng biết là Chu Bàn Tử của Hồng Diệp Lâu. Cái tên Chu Bàn Tử e rằng không mấy ai biết, lão cũng tự kêu mình là Chu Bàn Tử, kẻ khách khí gọi lão là Chu lão bản, cho dù có gọi lão là Chu Bàn Tử, lão cũng không bực tức gì. Lão là người trời sinh ăn dầu nói mỡ, thủ đoạn trơn tru, nhưng lại không giống mấy kẻ săn đón nịnh bợ đôi ba câu khác, mà rành rọt chăm chút giao tế với khách, thấy người nói tiếng người, gặp quỷ nói tiếng quỷ. Người chức cao quyền trọng như Tiền Thế Thần cũng cảm thấy nói chuyện với lão là một thứ lạc thú, không những có thể giải sầu, có lúc còn có thể dốc bầu tâm sự chất chứa ngứa ngáy. Bình thời chỉ cần nghe thấy tiếng cười của Chu Bàn Tử, cơn bực tức của gã đã có thể tiêu tán đi quá nửa, nhưng tâm tình đêm nay thật quá xấu. Lời trách quở của Quý Nhiếp Đề và lời khuyến cáo của Qua Mặc tối hôm qua chỉ là một nguyên nhân nhỏ khiến cho tâm tình gã buồn thảm. Nguyên nhân chính là vì sự hiện thân đột ngột của Tiết Đình Hao, làm cho tình huống gã lo sợ suốt mười năm qua đã biến thành sự thật. Gã rất hối hận. Nếu thời gian có thể trở ngược lại, gã tuyệt sẽ không thỉnh Qua Mặc xuất thủ tranh đoạt Sở hạp cho gã. Mười năm nay gã ưa phong hoa tuyết nguyệt, nguyên nhân gã khó mà thố lộ với Qua Mặc, là gã muốn gây mê cho chính mình, chạy trốn nỗi lo sợ đối với tương lai. Chu Bàn Tử y phục hoa lệ thân hình béo lùn lọt vào rèm mắt, cái làm cho người ta chú ý nhất là cái bụng thừ lừ như cái trống của lão, thắt lưng chỉ miễn cưỡng thắt giữ. Nhưng đối với một người mập mà nói, Chu Bàn Tử phải coi là hành động mẫn tiệp, chân tay linh hoạt. Chu Bàn Tử quay sang Diễm Nương nháy mắt, mụ ta liền đi ra cửa, lão đến ngồi bên cạnh Tiền Thế Thần như một bằng hữu thân thiết, thở dài: “Đứa con gái này của tôi thật không chịu nghe lời, nổi chứng là cả Thiên vương lão tử cũng không làm gì được. Nói ra sợ không ai tin, không biết có phải kiếp trước mắc nợ nó không, tôi cũng chịu đựng quá rồi”. Chu Bàn Tử là một lão mập rất dễ nhìn, ngoại trừ cặp môi hơi dày ra, da thịt trắng trơn thấu lộ màu hồng tươi khỏe, thần thái sáng lán, má phính đầy đặn, chót mũi tròn trĩnh, đôi mắt to bắn ra thần sắc thành khẩn dù biết rõ là giả vẫn khiến người ta không có cách nào hoài nghi. Tiền Thế Thần không thèm nhìn lão, buồn bực thốt: “Nàng vẫn không chịu đến sao?”. Chu Bàn Tử thấp giọng: “Nó đang câu lòng khao khát của Tiền đại nhân đó. Khà! Cái đạo nam nữ kỳ diệu không thể tả, có lúc đùa nghịch rào hoa lại càng khát khao hơn. Đúng không?”. Tiền Thế Thần cuối cùng đã nhìn sang Chu Bàn Tử, mặt lạnh như băng tuyết, cười lạnh: “Nàng không phải là câu lòng khao khát của ta, mà là đang đợi người”. Chu Bàn Tử ngạc nhiên: “Nó đang đợi ai?”. Tiền Thế Thần thật không có cách nào nổi trận lôi đình với Chu Bàn Tử, đến thanh lâu là gã muốn tìm niềm vui, mà Chu Bàn Tử lại là đồng bọn đối ẩm hầu cận tốt nhất mà gã có thể tìm ở Lạc Dương. Gã cười khổ: “Lão Chu ngươi có phải vừa mới xuống giường không? Cả chuyện oanh động toàn thành mà cũng không biết. Khoảng chính Ngọ hôm nay mấy tên đồng đảng của tên tiểu tử Thôi Minh công nhiên chặn xe của Bách Thuần trên đường cái, buông lời chọc ghẹo, gây cho Khâu Cửu Sư của Đại Hà Minh đang uống rượu gần đó nổi cơn, bị hắn xuất thủ giáo huấn, đánh té lăn cù, ôm đầu bỏ chạy. Con bà nó, Bách Thuần thấy Khâu Cửu Sư tên tiểu tử kia tướng tá hiên ngang cao to, không cầm được lòng hẹn hắn đến Hồng Diệp Lâu tương hội, cho nên đêm nay cự tuyệt không muốn gặp bất cứ một ai, bao gồm cả Tiền Thế Thần ta, lão Chu ngươi còn có thể nói gì hay ho cho nàng nữa?”. Chu Bàn Tử nghe đến cái tên Thôi Minh, lập tức thấu hiểu. Thôi Minh là đứa con nuôi của chánh thất phu nhân của Tiền Thế Thần, nếu chuyện này không phải có Tiền phu nhân đằng sau chống lưng, Thôi Minh sao dám làm phiền đến Bách Thuần. Chu Bàn Tử càng rõ hơn Tiền Thế Thần rằng bọn Thôi Minh thật quá may mắn, nếu không có Khâu Cửu Sư ra tay, mà Bách Thuần không thể không hoàn thủ, bọn Thôi Minh có muốn ôm đầu tháo chạy cũng đâu có được. Lần này Tiền Thế Thần cũng nghĩ Chu Bàn Tử phải á khẩu ngậm miệng, khó dùng lời để biện bác, nhưng Chu Bàn Tử lại không phải nghĩ ngợi gì, đáp liền: “Chuyện này Bố chính sứ ti đại nhân có thể hoàn toàn yên tâm, tôi hiểu con gái tôi nhất, như năm trước có một tiểu tử tướng mạo không tệ theo đuổi bám váy nó, lúc ban đầu nó cũng đối xử như là với Khâu Cửu Sư, bộ dạng chị chị em em ưa cười thích nói, nào hay uống được mấy tuần rượu với con thỏ đế kia, lại một cước đá hắn văng đi, cự tuyệt không gặp hắn nữa. Bách Thuần là vậy, cuối cùng vẫn phải xem tư chất, chỉ có người có văn hóa hàm dưỡng như Bố chính sứ ti đại nhân mới có thể thật sự thu hút nó. Nó thường hay tán tụng kiến thức thâm sâu quảng bác của đại nhân đối với văn hóa cổ trước mặt tôi”. Tiền Thế Thần nhíu mày: “Vấn đề ở chỗ Khâu Cửu Sư chính là người có tư chất. Ta đã từng gặp tiểu tử đó, ta khẳng định không ai dám coi thường sức hấp dẫn của hắn đối với Bách Thuần”. Chu Bàn Tử khẳng khái phấn chấn trần tình: “Bố chính sứ ti đại nhân vẫn chiếm thượng phong, bởi có tôi đứng một bên Bố chính sứ ti đại nhân, tôi sẽ toàn lực trợ giúp Bố chính sứ ti đại nhân giành được hoa khôi, có thể thành công hay không còn phải xem uy lực bắt tay hợp tác của bọn ta. Bố chính sứ ti đại nhân biết không có ai có thể miễn cưỡng Bách Thuần mà”. Tiền Thế Thần cười khổ: “Tử thi cũng có thể bị ngươi thuyết phục sống lại. Nhưng ta đêm nay phải làm gì đây?”. Chu Bàn Tử đáp: “Tôi đã nói đứng về phía đại nhân mà, đương nhiên một lời đáng giá ngàn vàng, bây giờ tôi đi gặp Bách Thuần, bất quá đại nhân cũng cần nhường nó một bước, đường đi nước bước ra sao để nó quyết định, như vậy tôi tin chắc có thể giúp đại nhân gặp nó đêm nay”. Tiền Thế Thần dựa mình vào ghế, thở dài: “Vậy còn không mau lăn đi tìm nàng đến hầu ta, có lẽ ta có biện pháp làm cho nàng không muốn bỏ đi”. Chu Bàn Tử giơ ngón tay cái khen gã: “Đại nhân quả là anh hùng số một, đi so bì với Khâu Cửu Sư bằng bản lãnh thật sự của mình. Nếu Khâu Cửu Sư đến, tôi sẽ nói cho Khâu Cửu Sư biết đại nhân đang nhâm nhi trò chuyện với Bách Thuần, để cho hắn biết điều mà lui”. Tiền Thế Thần vốn chỉ là thuận miệng nói vậy, bị Chu Bàn Tử một lời làm sực tỉnh, liền lộ thần sắc trầm tư mặc tưởng. Chu Bàn Tử thầm gạt mồ hôi lạnh, cáo lui đi lo chuyện, vừa đạp chân ra khỏi Quý Tân Sảnh, Diễm Nương đã chặn đường lão, đưa một trục đồ họa, Chu Bàn Tử mở ra xem, thất thanh: “Y vẽ ai vậy?”. Diễm Nương hằn học: “Tôi cũng cảm thấy đâu có giống Chi Hương, ài! Là tên thứ ba mươi rồi, bây giờ ai ai nghe đến hai chữ ‘họa sư’ là liền tìm chỗ trốn”. Chu Bàn Tử dường như không muốn liếc nhìn chút nào nữa, dùng hai tay vò bức họa thành một cục như để phát tiết, lại nhét lên tay Diễm Nương, mắng: “Nếu chị em của Hồng Diệp Lâu ta mà giống như trong mấy bức họa của tên họa sư ngược ngạo kia, đã sớm đóng cửa sạt nghiệp rồi. Lập tức kêu y cút đi, xéo liền về nhà của y đi”. Diễm Nương hỏi: “Trả y bao nhiêu tiền du hành để y đi đây?”. Chu Bàn Tử cả giận: “Họa công lại thành như vậy sao, còn phải trả tiền du hành nữa?”. Ngẫm nghĩ lại thở dài thốt: “Được rồi! Được rồi! Cho y một lượng đi!”. Tiếp đó phất tay áo bỏ đi.
o0o
Ô Tử Hư lần đầu nghĩ tới chạy trốn khỏi Lạc Dương. Muốn đơn độc tiếp xúc một Tiền Thế Thần tiền hô hậu ủng, cả đám binh vệ bảo hộ sát bên mình là chuyện gần như không thể nào, cơ hội duy nhất có lẽ là trong Hồng Diệp Lâu. Nhưng mình tự biết mình, đang lúc hành động, hắn không thể bước chân vào thanh lâu, đặc biệt là thanh lâu Bách Thuần đang có mặt. Mỗi lần đi vào thanh lâu, hắn lại hồi phục bản sắc thanh lâu lãng tử, mắt hoa tim nhảy đắm mê hương sắc. Hậu quả đương nhiên không dám tưởng tượng. Hơn nữa sự tình xảo hợp đến mức làm cho hắn rùng mình phát lãnh, một đầu quyết định tuyệt không đi quấy nhiễu Bách Thuần, đầu kia đã đứng trước Hồng Diệp Lâu, hơn nữa phát giác Hồng Diệp Lâu là chọn lựa tốt nhất của hắn. Mình nên làm gì? Hơn trăm lượng bạc còn lại có thể xài bao nhiêu ngày? Mình có nên giáng bậc từ một tên đại đạo trở thành một tên trộm vặt đi tứ xứ kiếm tiền hay không? Không! Ô Tử Hư hắn tuyệt không thể hụt hẫng đến mức đó, bắt đầu từ cái ngày quyết định trộm bảo vật kiếm sống, hắn từng thề thốt tuân thủ theo nguyên tắc “tam bất thâu”, nếu không hắn sẽ cảm thấy đối không đúng với mình, không xem trọng mình, sau này khó mà hưởng thụ cuộc đời trong lòng không một chút hổ thẹn. Nên làm gì đây? Vào lúc đó, một trung niên hán tử bộ dạng văn sĩ bị hai đại hán áp giải từ cửa lớn Hồng Diệp Lâu đi ra, văn sĩ này căm phẫn rướn cổ: “Cho dù không coi mấy bức họa của ta ra gì, cũng nên cho ta đủ tiền du hành để ta về nhà, một lượng bạc làm sao đủ chứ!”. Một đại hán ra sức đẩy một cái, văn sĩ bị đẩy loạng choạng lảo đảo bảy tám bước, suýt nữa đã té lăn trên đường xe ngựa”. Đại hán bên kia lý sự: “Ngươi coi như là may rồi đó, ai biểu ngươi là họa sĩ thứ ba mươi được tuyển mộ làm chi, tên kế tới nhất định chỉ được nửa lượng”. Đại hán xô y hung thần ác sát nói: “Cút! Lập tức cút đi! Còn chưa đi ta đánh gãy chân ngươi bây giờ”. Họa sư kia sợ đến tái xanh mặt mày, chỉ còn nước tự oán mình số khổ đã định. Hai đại hán nhìn nhau cười khổ, đều lắc đầu thở dài. Đại hán xô người nói: “Xem ra đại kế của lão bản muốn dùng mấy bức họa mỹ nhân ăn mừng kỷ niệm chu niên lần thứ mười của Hồng Diệp Lâu bọn ta phải vứt bỏ rồi, làm sao ngờ được mấy họa sư đến từ đủ mọi nơi lại tệ hại như vậy?”. Đại hán bên kia thốt: “Họa sư Lạc Dương mà không xong, họa sư chỗ khác giỏi tới cỡ nào chứ?”. Nói xong hay người quay đầu bỏ đi. Ô Tử Hư bắt đầu nổi da gà, lần này lại không phải lòng có ý sợ, mà là nghĩ đến kế hoạch nhất thạch nhị điểu, áo trời không kẽ hở.
o0o
Hồng Diệp Lâu chiếm một khu vực cực kỳ rộng lớn, tới hơn năm chục mẫu, lấy Quải Biều Trì danh chấn Lạc Dương làm trung tâm, năm nhóm đình viên dựa dọc hồ mà phân bố. Mặt nam hướng ra đường cái là ba khu lầu phòng kề cận, sắp đặt cao thấp có thứ tự, hoành tráng nhất là “Hồng Diệp đường” chính giữa, là địa điểm sảnh đường của Hồng Diệp Lâu, khách nhân ghé thăm trước hết đều phải đến khu sảnh đường này, tiếp nhận sự tiếp đãi và an bài nhiệt tình. Hai nhóm đình viện kia phân bố đông tây, mỗi bên có cửu tạ lưỡng các, hòa nhập vào Quải Biều Trì mặt nước trong xanh, sen súng trải kín. Đình, hành lang, phòng, lầu bố trí vây quanh hồ, lượn quanh nối liền, giả sơn thanh tú chất ngất, tùng liễu cao to, hoa lá cỏ cây sum suê um tùm, cầu nhỏ bắc qua dòng nước, hết lòng chiêu đãi hào khách thật sự biết vung tiền. Ba nhóm đình viện cuối cùng ở phía bắc hồ, hai nhóm tả hữu phòng ốc san sát, là chỗ trú thân của hơn hai trăm thanh lâu cô nương và gần bốn trăm nô tỳ bộc phó, kết hợp lại thành hơn trăm lâu phòng, quy mô cực lớn. Đặt nơi chính bắc là trụ sở của Chu Bàn Tử, ba gian phòng trệt, kiến trúc đơn sơ, cấu tạo thanh nhã. Mỗi lần Chu Bàn Tử qua lại giữa đình viện, đều cảm thấy được niềm tự hào trào dâng từ tận đáy lòng. Tâm huyết một đời lão đã đổ lên Hồng Diệp Lâu. Vốn trước đây Hồng Diệp Lâu chỉ là một trong số đông thanh lâu của Lạc Dương, dưới nỗ lực của lão, kết hợp bốn thanh lâu xung quanh, khuếch triển nên quy mô trước mắt đây, trở thành xứ sở trứ danh nhất Lạc Dương. Lạc Dương nhờ Lạc Dương Lâu mà danh vang thiên hạ, dẫn dụ các quan nhân quý nhân, tao nhân mặc khách, phong lưu danh sĩ các nơi coi lên Lạc Dương Lâu là trông đợi bình sinh, cũng giúp cho Hồng Diệp Lâu khách ghé như mây, nghiệp vụ càng ngày càng thăng tiến. Cái lão ôm ấp không còn là một tòa thanh lâu nữa, mà là một vương quốc thanh lâu. Chu Bàn Tử ngồi trên một chiếc kiệu đặc chế cho thể hình của lão, bốn đại hán khiêng đi như bay, đi dọc con đường lát đá vòng quanh hồ. Giờ này đêm mát như nước, tinh quang nguyệt sắc chiếu rọi ao sen, cảnh sắc mê hồn đến cùng cực. Bách Thuần không những là cô nương đỏ nhất, tài nữ trứ danh nhất Lạc Dương, ở Hồng Diệp Lâu còn có địa vị đặc thù. Tiểu thư nàng không muốn chung đụng với đám đông những người khác, Chu Bàn Tử đặc biệt chọn khu vườn giữa cho nàng, xây lên một tòa lầu các hai tầng có tường đá bao quanh, đặt tên là Tình Trúc Các, làm đầu cho Trung viên tứ các, ba tòa các kia là Phong Trúc Các, Vũ Trúc Các và Lộ Trúc Các, để nàng hưởng thụ sự an ninh không bị người khác quấy nhiễu. Chu Bàn Tử xuống kiệu trước Tình Trúc Các, bước lên bậc đá lên lầu, gõ cánh cửa đóng chặt, tiểu tỳ hầu cận Bách Thuần tươi cười nghênh đón. Chu Bàn Tử đi vào trong lầu, Bách Thuần thần thái ưu nhàn ngồi ở một góc, đang cầm sách đọc, lại không đứng dậy nghênh tiếp, còn không nhìn sang phía lão. Chu Bàn Tử cười khổ não, ngã mình lên cái ghế dựa bên kia cái kỷ nhỏ, thở dài: “Con đã hẹn tiểu tử Khâu Cửu Sư à? Tại sao phải che giấu người cha mập này chứ?”. Bách Thuần buông sách, đôi mắt đẹp sáng lên, lẩm bẩm: “Khâu Cửu Sư, thì ra là Khâu Cửu Sư. Thật hay!”. Chu Bàn Tử nhíu mày: “Con không biết hắn là ai sao?”. Bách Thuần nhún vai, thần thái lấp lửng không chối cũng không nhận, xem thần sắc của nàng là biết không để ý tới sắc mặt của Chu Bàn Tử. Chu Bàn Tử giọng điệu nặng nề: “Sau này con ra ngoài dẫn theo thêm một hai người được chứ? Hồng Diệp Lâu ta kiếm hảo thủ hơn người, tùy tùy tiện tiện cũng có thể chọn ra mười mấy hai chục tên, chỉ cần có bốn, năm đứa hộ giá trước sau, ai dám quấy nhiễu con chứ? Con luôn muốn làm ta lo cho con sao, sợ nhất là con nhẫn nhịn không nổi, tài nữ biến thành ác nữ, vậy đâu có tốt đối với hình tượng của Hồng Diệp Lâu bọn ta chứ!”. Bách Thuần cười “hắc” một tiếng yêu kiều, háy Chu Bàn Tử một cái, cho dù Chu Bàn Tử cả đời lăn lộn giữa chốn phong hoa định lực cực cao cũng phải chấn động thần hồn. Bách Thuần mỉm cười: “Lão Tiền đã đáp ứng điều kiện đêm nay gặp tôi sao?”. Chu Bàn Tử ngang nhiên: “Có người cha mập ta đích thân ra mặt, chuyện gì mà không làm được chứ”. Tiếp đó lại hạ giọng xuống nước: “Nói tốt nói xấu, lão Tiền vẫn là chúa tể Lạc Dương, nên cho người cha mập này chút thể diện, đừng mới gặp mặt là gật gật đầu bỏ đi liền, lúc đó cả lão Tiền lẫn ta đều không hạ đài được, ít ra đợi qua ba tuần rượu, chuyện trò vài câu rồi mới đi được không? Đây là ta xin con đó, nếu không ta sẽ rất khốn khó”. Bách Thuần chớp chớp mắt, dịu dàng thốt: “Nếu Khâu Cửu Sư vừa hay đến tìm tôi vào lúc đó, cha có đuổi hắn đi không?”. Chu Bàn Tử cười khổ: “Thẳng thắn mà nói, nếu chỉ là một tiểu tử tầm thường, ta sẽ kêu người quét hắn ra, còn cảnh cáo như hắn còn dám bước vào Hồng Diệp Lâu nửa bước, ta sẽ đập gãy chân chó của hắn. Chỉ tiếc đối phương lại là Khâu Cửu Sư, cả Tiền Thế Thần cũng không dám chính diện xung đột với hắn, chỉ dám than thở não nề với ta. Con gái ngoan hiểu tính khí của ta nhất, ta dám đuổi hắn đi sao? Thà đắc tội với quan phủ còn hơn là gây gổ với nhân vật bang hội. Nếu Khâu Cửu Sư xảo hợp đến tìm con ngay lúc đó, ta sẽ mời hắn vào Quý Tân Sảnh, thân hành chào đón hắn, bất quá xin thứ cho ta không thể đi thông tri cho con, bởi như vậy nào có khác gì là nói với lão Tiền ta đứng về phía con. Con gái ngoan sau khi an ủi lão Tiền thì thích gặp ai cũng được mà”.
o0o
Khôi Tiễn dậm vó hí dữ, Cô Nguyệt Minh bần thần nhìn vùng địa vực kỳ dị khuếch triển vô biên vô hạn đằng trước. Vân Mộng Trạch. Trăng sao trên trời ảm đạm mờ mịt, mặt đất tích tụ hơi nước chỗ mỏng chỗ dày, thị tuyến của y chỉ đạt được tới ngoài trăm bước, mọi thứ biến thành như ảo như thật, đầm nước lớn nhỏ bày bố an trí trùng điệp trên mảnh đất kỳ dị này, muôn ngàn loại thực vật kỳ quái sinh trưởng ven bờ đầm, hợp thành một thứ không khí khôn tả, làm cho người ta có cảm giác dấn thân vào quỷ vực. Khôi Tiễn tiễn lại hí lên. Cô Nguyệt Minh vỗ về cổ Khôi Tiễn, lòng nhớ đến câu Phụng công công hỏi y: “Ngươi có tin chuyện quỷ thần chăng?”. Y một mực không để ý nghĩ ngợi gì lắm về câu nói của Phụng công công, mãi cho đến giờ phút này. Khôi Tiễn tại sao lại có phản ứng dị thường như vậy? Năm năm qua, Khôi Tiễn đã chở y đi khắp chân trời góc biển, đi qua Đại sa mạc vùng Tái ngoại, thậm chí đối diện với bầy sói đói, Khôi Tiễn cũng không để lộ trạng thái kinh hoàng. Tại sao mảnh đất đầm lầy không một dấu chân người này có thể làm cho nó mất bình thường như vậy? Lẽ nào thật có sự tồn tại của quỷ thần, hơn nữa đang gởi mình trong khu tàn tích của một tòa cổ thành sâu ẩn trong khu đầm lầy này? Thình lình mọi sự biến thành không thể khẳng định được, duy có một chuyện chắc chắn là nữ lang kia đã tiến vào khu địa vực ly kỳ khó lường này, cực có thể đang chuẩn bị phục kích y đợt thứ nhì. Đang do dự không biết có nên tiếp tục tiến tới, hay là quay đầu về Lạc Dương đi tìm Tiền Thế Thần, xa xa bên phải sáng lên ánh lửa, chớp nháy sâu kín trong vùng sương mù. Cô Nguyệt Minh thầm nghĩ lẽ nào là quỷ hỏa, có khi là kế dụ địch của nữ lang kia, nghĩ đến đó, y vỗ vỗ Khôi Tiễn: “Ra ngoài đợi ta”.
o0o
Nhã tạ phong cảnh đẹp nhất Tây viện là Thư Hương Tạ, xây sát ra hồ, lầu cao hai tầng, lên đài lộ thiên tầng trên có thể thưởng lãm hết mỹ cảnh dưới đêm trăng của Quải Biều Trì. Tiền Thế Thần lúc này đang ngồi trên đài cao ôm trọn cảnh quan không nơi nào bì được này, nhìn Bách Thuần rót mỹ tửu vào chén của gã, lòng trào dâng cảm giác kỳ dị. Nếu mười năm trước mình không gặp phải Bách Thuần, khẳng định đâu có chủ ý muốn được Sở hạp. Gã con nhà cự phú, lại là con một, được cha mẹ cưng chìu, không biết trời cao đất rộng, lớn lên không coi ai ra gì, bao gồm cả Phụng công công. Không đoạt được Sở hạp là thất bại đầu tiên trong đời gã, cũng là thất bại nghiêm trọng nhất, làm cho gã tỉnh ngộ lại, Tiền Thế Thần gã cũng có thể thua, hơn nữa có thể thua đến mức nhà tan người mất. Bách Thuần sau khi châm đầy rượu cho Tiền Thế Thần, lại châm cho mình, nhẹ nhàng hỏi: “Nô gia hồi nãy tiến vào thấy đại nhân thần tình cổ quái, đại nhân đang nghĩ gì vậy?”. Tâm thần của Tiền Thế Thần hoàn toàn bị nàng thu hút, không có cách nào dời ánh mắt đi, gã chưa từng gặp nữ nhân nào mỹ lệ hơn nàng, biết ý hiểu ý hơn nàng. Tâm sự của mình đương nhiên không qua mắt được nàng. Tâm thần túy lúy đáp: “Bách Thuần có nghe nói tới Vân Mộng Trạch chứ?”. Bách Thuần ngồi đối diện gã, đôi mắt đẹp chăm chú nhìn gã: “Người trú ở Động Đình Hồ, đương nhiên biết Vân Mộng Trạch là cổ danh của Động Đình Hồ. Đại nhân muốn nói gì vậy?”. Tiền Thế Thần đâu có hiểu lầm thứ thần thái này của Bách Thuần đối với gã là thâm tình lo nghĩ tới mình, bởi Bách Thuần quá nổi tiếng câu dẫn nam nhân, chơi bỡn bọn họ, lại không có ai có thể làm cho nàng thật sự động lòng. Mà sức dụ hoặc của nàng tựa hồ còn lớn hơn cả Sở hạp, để được nàng, gã chịu bỏ ra bất kỳ một giá đắt nào, ít ra vào giờ phút này gã đang nghĩ như vậy. Mỉm cười thốt: “Đó là Vân Mộng Trạch cổ đại, Vân Mộng Trạch hiện tại thì ở đâu?”. Bách Thuần như bị dẫn dụ nỗi hứng thú, đôi mắt đẹp chớp chớp, điềm đạm nói: “Đại nhân muốn lưu giữ nô gia à? Sợ rằng không dễ đâu”. Tiền Thế Thần thích nhất là sự thẳng thắn trực tiếp của nàng, hoàn toàn không coi gã là trọng thần nắm đại quyền sinh sát ở địa phương này, đây là cảm giác rất mới mẻ. Muốn lưu giữ Bách Thuần, để tiểu tử kia biết điều mà lui, gã cần bỏ ra cố sự rực rỡ nhất. Gã trầm giọng: “Bách Thuần nếu chịu thề không đem nội dung cuộc đối thoại đêm nay của bọn ta tiết lộ cho người thứ ba biết, ta sẽ kể cho Bách Thuần nghe cố sự đẹp đẽ thê lương nhất có liên quan với Vân Mộng Trạch. Nếu Bách Thuần không có hứng thú nghe, giờ có thể lập tức ra đi, Tiền Thế Thần ta tuyệt không làm khó cố giữ, cũng sẽ không trách cứ Bách Thuần”. Bách Thuần như lần đầu quen biết gã, ngạc nhiên thốt: “Đại nhân tại sao đêm nay như biến thành một người khác vậy? Ài! Ngài thật khiến cho nô gia khó xử quá, cố sự đẹp đẽ thê lương, lại có liên quan đến Vân Mộng Trạch, hơn nữa là Vân Mộng Trạch của hiện tại, có thể tiết lộ vài câu nghe thử, để nô gia định xem có nên nghe hay không được chứ?”. Tim Tiền Thế Thần run bây bẩy, sau khi cha nói cho gã nghe bí mật liên quan đến Sở hạp, gã chỉ từng kể cho một mình Qua Mặc biết, bây giờ gã sắp nói cho người thứ nhì nghe, nó là một thứ cảm giác làm cho người ta bất an. Nhưng tiếp xúc với đôi mắt đẹp của Bách Thuần, tất cả mọi cảm giác khó chịu đều không cánh mà bay, thầm nghĩ chỉ cần ta giấu đi chìa khóa trọng yếu nhất, Bách Thuần nghe được bất quá chỉ là một cố sự thần thoại xảy ra thời xa xưa, không một chút quan hệ với hiện thực. Huống hồ gã rõ nàng là người thủ tín biết giữ lời hứa, sẽ không đem bất cứ một lời nào đã kể đêm nay truyền ra ngoài, đây là đạo đức nghề nghiệp mà tất cả các thanh lâu cô nương cần phải tuân thủ. Tiền Thế Thần thốt: “Ở phía đông Tương Giang, phía nam Động Đình, có một con sông quanh co ngoằn ngoèo, chảy qua vùng sơ dã Khâu Lăng chập chùng nhấp nhô như ba đào, người Sở cổ đại gọi là ‘Vô Chung Hà’, bởi nó thả mình được trăm dặm là quẹo vào sơn huyệt địa động chảy dưới lòng đất, kỳ thực nó rất có thể kêu là Vô Thủy Hà, bởi nó bắt nguồn từ dòng thác tuốt trên núi non chót vót phía tây Động Đình Hồ”. Bách Thuần nhịn không được hỏi: “Dòng sông kỳ quái như vậy, tại sao nô gia chưa từng nghe ai nhắc tới vậy?”. Tiền Thế Thần không đáp lời nàng, đôi mắt bắn ra thần sắc đắm mê sâu thẳm trong hồi ức, thản nhiên thốt: “Ở đoạn giữa của Vô Chung Hà, có một khối đá khổng lồ gọi là Tuẫn Tình Thạch, Tương phu nhân là nhảy từ tảng đá đó xuống sông, tự tử tuẫn tình vì Thuấn đế”. Bách Thuần hơi ngạc nhiên, thần thái hiện tại của Tiền Thế Thần nàng chưa từng thấy qua. Mấy tháng nay, Tiền Thế Thần chỉ cần có thể phân thân là liền đến Hồng Diệp Lâu tìm nàng, toàn là nói chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Nàng cố nhiên muốn giữ chút mặt mũi cho người cha mập, nhưng nhận thức uyên bác của Tiền Thế Thần đối với đồ cổ quý báu cũng khiến cho nàng cảm thấy hứng thú. Truyền thuyết thần thoại có liên quan đến Tương phu nhân, nàng chừng như đã thuộc nằm lòng qua miệng của đám văn nhân chí sĩ một dải Động Đình Hồ. Nghe nói Nghiêu đế có hai người con gái, chị là Nga Hoàng, em là Nữ Anh, đều gả cho Thuấn đế. Nga Hoàng Nữ Anh cùng cộng sự cho một chồng, trở thành giai thoại thiên cổ. Sau này Thuấn đế đi tuần du phương Nam, mất ở Thương Ngô, hai nàng nghe tin liền đến, bi thống không nguôi, ngày đêm khóc than, nước mắt của họ nhỏ trên thân trúc, nhuốm loang lổ không tan biến, trở thành loại Ban trúc đặc sản địa phương, sau này thay nhau tuẫn tử. Có nói họ nhảy xuống Tương Giang tự tận, cũng có chỉ nơi bọn họ chết ở giữa sông Tương, trở thành thần phối ngẫu trong lòng người bản địa. Do Nga Hoàng làm chính phi, được xưng là Tương quân, Nữ Anh được xưng là Tương phu nhân. Trong “Sở Từ – Cửu Ca” có hai bài thơ “Tương quân” và “Tương phu nhân”, chân núi phía đông Quân Sơn đảo trong Động Đình Hồ có mộ của nhị phi, là xây để tưởng niệm họ. Bách Thuần sực tỉnh ngộ: “Thì ra đại nhân muốn nói đến cố sự Tương phu nhân”. Tiền Thế Thần lộ nụ cười cao thâm khó lường, trầm giọng: “Tương phu nhân chỉ là khởi đầu của toàn cố sự. Bách Thuần có chịu thề không?”. Thấy vẻ đắc ý trong mắt Tiền Thế Thần, Bách Thuần lòng mâu thuẫn, cái gì Vô Chung Hà, Tuẫn Tình Thạch, Tương phu nhân, đối với nàng đều sinh ra sức hấp dẫn kỳ dị, thêm vào Tiền Thế Thần làm ra vẻ thần bí, lại kể lể rành rọt, làm cho nàng càng muốn biết thực hư, biết mình nếu bỏ qua cơ hội này, về sau Tiền Thế Thần khẳng định sẽ không nhắc lại chuyện này nữa, mình cũng không có cách nào mặt dày đi yêu cầu gã nói ra. Tiền Thế Thần tại sao lại muốn mình thề thốt? Bên trong bao hàm bí mật gì không thể cho người ta biết?
o0o
Vô Song Nữ một tay cầm đuốc, tay kia dẫn Hắc Nhi, lần theo một cái hồ nhỏ tiếp tục thâm nhập vùng đầm lầy. Sương mù càng lúc càng dày đặc, ánh đuốc chỉ có thể chiếu rọi khu vực phương viên ba trượng, bên ngoài nồng đậm hơi nước. Sâu kín trong lòng nàng trào dâng cảm giác khôn tả, mình khẳng định là lần đầu bước vào khu địa vực kỳ dị này, nhưng lại khơi khơi có cảm giác cổ quái như trở lại. Tại sao lại có cảm giác kỳ quái như vậy? Lẽ nào từng mộng du đến đây? Nhưng nàng chưa từng nằm mơ thấy khung cảnh như vầy mà. Trên sự thật từ lúc nàng đạp chân vào Vân Mộng Trạch, mọi thứ đều như khác biệt hẳn, như tiến vào một giấc mộng xa vời, giới hạn giữa hiện thực và mộng cảnh biến thành mơ hồ, nàng hãm mình trong một giấc mộng không có cách nào tỉnh dậy được. Hắc Nhi im lặng một cách kỳ lạ. Vùng đầm lầy kỳ dị này không còn do con người điều khiển nữa, mà chịu sự thao túng của một lực lượng thần bí. Nàng không rõ mình sao lại có ý tưởng vô lý không hợp lẽ như vậy, nhưng cảm giác khơi khơi lại là thế. Đầm lầy tựa như có một thứ dị lực gì đó, dẫn dắt tâm tình khó hiểu trong lòng nàng. Bí mật An Giới nói ra quả là biện pháp tìm đến cữu cữu. Sau khi cữu cữu giao nàng cho An Giới, nhắn lời trước hết sẽ ẩn náu năm năm, sau đó mỗi năm vào khoảng Quỷ tiết sẽ đến Vân Mộng Trạch, nếu muốn liên lạc với ông ta, có thể để lại ký hiệu bốn bề đền thờ Tương Phi trong khu rừng Ban trúc góc nam Vân Mộng Trạch, ông ta sẽ đến gặp vào giờ Tý. --- Nếu không có tiểu tử đáng ghét kia theo đuổi, mình nhất định sẽ trực tiếp đến đó, xem xem cữu cữu có đến sớm không. Nàng không muốn đợi nữa. --- Ta thề phải làm thịt tên tiểu tử kia.
Bạch Thuần nụ cười tươi sáng hẳn, làm cho nàng càng thêm phần diễm lệ, giơ một ngón tay thốt: “Thêm một câu nữa!”. Tiền Thế Thần lại mở miệng: “Ta chính là con cháu của dòng Sở vương thời đó”. Gã khoan thai nói một cách thống khoái. Chỉ có câu đó mới có thể lưu giữ Bách Thuần lại, sức hấp dẫn có căn có cứ vượt xa hư cấu không không. Bách Thuần lộ thần thái động hồn xưa nay, cầm chén rượu lên nói: “Bách Thuần dùng rượu này để thề, sẽ không đem lời nói hôm nay tiết lộ ra dù chỉ nửa câu. Bất quá tôi vẫn giữ quyền bỏ đi bất cứ lúc nào, đại nhân phải tuân thủ lời hứa. Bọn ta cạn một chén này”. Tiền Thế Thần nhấc chén hồi lễ, hai người vừa cạn rượu, đôi mắt đẹp mê hồn của Bách Thuần chăm chú nhìn, phòng tuyến trấn giữ bí mật của Tiền Thế Thần không thể không thoái lui ít nhiều: “Đoạn sông Tương phu nhân lao mình xuống đã xảy ra chuyện kỳ diệu vô cùng. Chuyện này sao lại xảy ra, không ai biết được, bởi phải đến sau khi dân tộc Kinh Sở bọn ta lập quốc mới ngẫu nhiên phát hiện”. Bách Thuần rất hứng thú, hỏi: “Thật ra đã phát sinh kỳ sự gì vậy?”. Tiền Thế Thần hít một hơi sâu, đôi mắt bắn ra thần sắc bồn chồn khao khát: “Chuyện này xin để ta nói sau, đó là vật thần dị vô cùng, nhưng đồng thời cũng đáng sợ phi thường. Lúc đó một dải Vô Chung Hà toàn là đầm lầy rừng rú hoang dã, còn chưa được khai hoang, thêm vào giao thông bất tiện, cho nên tuy oanh động, lại chỉ giới hạn những người xung quanh biết được. Lại trải qua mấy chục năm, dị sự của Vô Chung Hà cuối cùng truyền vào tai Sở vương đương thời, Sở vương vừa sợ vừa mừng, thân hành đi xem thử”. Bách Thuần dỗi hờn đáng yêu: “Thật ra chuyện gì làm cho Sở vương ngày nào cũng bận rộn quốc sự cũng phải di giá đi Vô Chung Hà vậy? Hơn nữa lại vừa sợ vừa mừng. Sao có thể có bí ẩn dụ hoặc đến thế, đại nhân thật là ranh mãnh mà”. Tiền Thế Thần bị thần thái động hồn hờn mát nũng nịu của nàng khiến con tim cơ hồ tan chảy hết: “Đó là một thần tích không có ai có thể giải thích được, không tận mắt chứng kiến thì không dám tin. Ài! Ta phải nói làm sao đây? Sở vương tuy có duyên tận mắt chứng kiến, lại không có duyên lấy được, trong lòng không phục, phái thủ hạ đại tướng ở Trúc thành gần Vô Chung Hà lo đảm trách việc canh giữ vật này, nghiên cứu cách lấy nó. Từ đó khu thành này được coi là cấm địa, dòng Sở vương gọi là Tiểu Vân Mộng”. Bách Thuần đôi mắt đẹp càng sáng lên, trông đợi: “Đó là Vân Mộng Trạch của ngày nay mà đại nhân đã nhắc tới. Nhưng Vô Chung Hà và cổ thành vẫn tồn tại sao?”. Tiền Thế Thần trầm ngâm không nói gì, thì ra gã phát giác đang lúc khí trời nóng bức như vầy, kể chuyện này lòng bàn tay không ngờ lại toát mồ hôi lạnh, nhớ khi tiết lộ bí mật cho Qua Mặc biết, cũng có tình huống như vầy, có thể biết bí mật này có sức ước thúc rất lớn đối với gã, làm cho gã sinh ra cảm giác rùng mình vì phạm cấm. Bất chợt Khâu Cửu Sư gì gì cũng biến thành không đáng lo ngại nữa, để Bách Thuần đi gặp hắn thì đã sao? Nếu Bách Thuần thật sự vừa gặp đã chung tình với hắn, đã dốc lòng cho hắn, bất kể cố sự gã kể ra có đẹp tới đâu, vẫn là chuyện vô bổ. Ở phương Nam, người có tư cách làm đối thủ của gã đâu có nhiều, Khâu Cửu Sư xảo hợp là một trong số. Một trong những điều kiện Phụng công công cất nhắc gã là ở lại làm quan địa phương vùng Động Đình Hồ, dễ bề tìm kiếm cổ thành trong Vân Mộng Trạch, bất quá chính sách của triều đình là không cho phép đại thần làm quan một chỗ quá năm năm, để tránh nắm quyền trường kỳ câu kết với các thế lực địa phương, ỷ thế lấn lướt. May sao Đại Hà Minh quật khởi, khiến cho Phụng công công không dám tùy tiện đổi gã. Nếu đổi phải hạng vô năng, Đại Hà Minh thanh thế càng khó khống chế; đổi thành hạng chí sĩ có tay, lại sẽ làm cho Đại Hà Minh nghĩ triều đình muốn thanh lọc bọn chúng, cho nên chức quan này đã ngồi mười hai năm. Lúc Tiền Thế Thần còn chưa ngồi vững ngôi vị, không ngờ đụng phải Phu Mãnh dẫn người đến tìm Sở hạp, Phu Mãnh đương nhiên không biết gia tộc của gã từ đời này qua đời nọ đều đang hết sức tìm kiếm Sở hạp. Họ Phu còn muốn được sự ủng hộ và hợp tác của người đất này, khiến cho gã cảm thấy đây là thời cơ tốt ông trời ban cho gã, bất chấp hậu quả đi thỉnh Qua Mặc xuất thủ tương trợ, dẫn tới khốn cục tiến thoái lưỡng nan ngày nay. Cho nên Khâu Cửu Sư là kẻ gã không đụng được, nếu ép Đại Hà Minh tạo phản, Phụng công công khẳng định sẽ không tha cho gã. Tiền Thế Thần dựa lưng lên ghế, nhắm chặt mắt hòng làm giảm bớt sức ảnh hưởng của Bách Thuần đối với gã, bất lực thốt: “Bách Thuần nếu muốn đi, bây giờ có thể đi rồi”. Bách Thuần hơi ngạc nhiên, thần thái động tĩnh của Tiền Thế Thần đêm nay khác hẳn ngày thường, đang nói huyên thuyên, đột nhiên lại đánh trống lui quân, dĩ nhiên càng làm cho lòng hiếu kỳ của nàng thêm dấy động. Lúc này nàng đã dồn hết tâm trí vào Khâu Cửu Sư, hờn mát: “Bách Thuần từ kinh sư đến Lạc Dương, chính là vì ngưỡng mộ Động Đình Hồ căn cội văn hóa Kinh Sở của các người. Vào thời Xuân thu Chiến quốc, văn hóa Tề và văn hóa Sở đều có khác biệt với các nước chư hầu khác, văn hóa tràn đầy sắc thái địa phương. Người Tề giàu trí tưởng tượng đến hoang đường, người Sở các người thì lãng mạn nhất, thủy tổ là Hỏa thần phiêu diêu cất cao, Hà thần là mỹ nữ thiên kiều bách mị, còn có lọng khổng tước văn hoa quyền quý, tiêu tương quế tửu thơm lừng, vu nữ quần là áo lượt. ‘Sở Từ’ truyền đời cũng uyển chuyển triền miên khác với ‘Thi Kinh’ chất phác thẳng thắn. Bây giờ nô gia vừa nghe được chuyện mới mẻ lý thú, ngài lại muốn đuổi người ta đi, có phải muốn người ta sau này đừng gặp đại nhân nữa không? Ngài sợ người ta không thủ tín phản lại lời thề sao?”. Tiền Thế Thần chưa từng thấy Bách Thuần nũng nịu hờn dỗi với mình như vậy, nhịn không được trợn tròn mắt, dưới ánh trăng, Bách Thuần càng đẹp đến mức khó bì, liền làm cho gã quên đi mọi sự.
o0o
Cô Nguyệt Minh thần tốc tiến tới trong vùng đầm lầy hơi nước đậm đặc bao trùm, đây là bản lãnh đặc thù của y, có thể đơn thuần bằng vào xúc giác linh dị mà nhận ra lối đi trong bóng tối giơ bàn tay ra cũng không thấy được. Lúc này đằng trước y truyền đến mùi vị của nước, giúp cho y biết được phía trước là đầm nước, bên phải là mùi lá mục. Chỗ có lá mục đương nhiên là đất bằng có thể bước đi. Y đuổi theo gần một canh giờ, ánh đuốc vẫn lúc ẩn lúc hiện đằng trước, tựa như đang dẫn dụ y truy bắt. Đối phương hiển nhiên quen thuộc hoàn cảnh Vân Mộng Trạch phi thường, nếu không đã sớm bị y đuổi kịp rồi. Lúc này y khẳng định đối phương không phải là nữ lang kia, bởi y ngửi thấy khí vị của một người khác, mà lại càng không phải là người tầm thường, không phải ý nói thân thủ của y, mà là khí tức y để lại, có khác với người thường.
o0o
Tiền Thế Thần không hồi đáp câu hỏi hồi nãy của Bách Thuần, nói tiếp: “Thành mới ở Tiểu Vân Mộng Trạch tên là Chuyên thành, người xung quanh đổi gọi nó là Vân Mộng Trạch. Thành chủ đời đầu trung thành cẩn cẩn với Sở vương, sau khi nhậm chức lãnh mệnh, trọn đời dốc hết sức tìm cách lấy được dị bảo trong Vô Chung Hà, lại thất bại qua đời, đến khi con trai của lão kế vị ngôi Thành chủ, sự tình mới có chuyển biến”. Bách Thuần nhíu mày: “Thật ra là vật gì vậy? Đại nhân càng nói càng làm cho nô gia hồ đồ”. Tiền Thế Thần thở dài: “Để ta nói từ từ có được không? Thành chủ đời thứ nhì là một nhân vật siêu trác, luận về binh pháp võ công thì đều là nhân vật đứng hạng nhất nhì trong đất Sở. Không biết có phải do sự an bài của số phận, vào một cơ hội ngẫu nhiên, trong kho tàng của một chư hầu nhỏ gần đó, phát hiện ra một vật có mối liên quan vi diệu với dị vật trong Vô Chung Hà, rất có thể là phương pháp duy nhất để giải quyết nan đề”. Bách Thuần bất mãn: “Lại là vật này vật nọ, đại nhân có thể nói rõ hơn chút được không?”. Tiền Thế Thần cười khổ: “Đó là một cái hộp vuông cổ quái có khảm dạ minh châu, chế ra từ chất liệu người ta chưa từng thấy qua, còn về lai lịch của cái hộp đó, có lẽ có liên hệ kỳ dị gì đó với linh vật của Vô Chung Hà, lại không biết phải bắt đầu nghiên cứu khảo nghiệm từ đâu”. Bách Thuần trực giác cảm thấy Tiền Thế Thần không nói thật lòng, gã nhất định biết được lai lịch của cái hộp cũng như quan hệ với linh vật dưới sông, chỉ là không muốn nói ra. Phương diện này bằng vào bản lãnh nghiêng ngả châm chích của nàng, sớm muộn gì cũng có thể cạy khỏi miệng Tiền Thế Thần, không cần phải gấp vội nhất thời. Nàng hỏi: “Dạ minh châu?”. Tiền Thế Thần trịnh trọng thốt: “Tuyệt không phải là cái gọi là dạ minh châu bình thường, mà là một kỳ bảo thật sự có thể hiển lộ kim quang mãnh liệt trong bóng tối, một viên dạ minh châu như vậy đáng giá liên thành”. Bách Thuần dịu dàng hỏi: “Đại nhân có thấy qua chưa?”. Tiền Thế Thần buồn bã lắc đầu: “Ước gì ta đã từng thấy nó, ta chỉ là nghe sử sách truyền miệng lại thôi”. Tiếp đó trầm giọng: “Nếu thuở đó có Ngũ Độn Đạo, lại chịu để Chuyên thành Thành chủ sai khiến, đi trộm hộp quý cho y, thì đâu thể xảy ra thảm sự về sau”. Bách Thuần ngạc nhiên: “Đại nhân tại sao lại đột nhiên nhắc tới Ngũ Độn Đạo vậy?”. Tiền Thế Thần đáp: “Ta chỉ là chợt nảy sinh ý tưởng thôi, Bách Thuần có đoán được Chuyên thành Thành chủ dùng phương pháp gì để được bảo hạp không?”. Bách Thuần hứng chí: “Tên đó đã muốn bội phản Sở vương, nếu không chỉ cần bẩm báo lên Sở vương, Sở vương có thể ra lệnh cho chủ nhân của cái hộp hiến dâng lên. Dưới sông thật ra có vật gì? Không ngờ lại có ma lực to tát như vậy”. Tiền Thế Thần cảm khái như mình đang trong hoàn cảnh đương thời. Mình chính vì Sở hạp mà bội phản Hoàng thượng, chỉ tức Qua Mặc không phải là Ngũ Độn Đạo, sắp được lại thất bại, chưa thể thành công đoạt bảo, còn để lại một cục trường lộn xộn rối rắm nữa.
o0o
Vô Song Nữ dẫn Hắc Nhi đi lên một tảng đá khổng lồ như đầu cá sấu nhìn trời, dưới ánh đuốc chiếu rọi, dòng sông rộng mấy trượng chảy rót ra từ trong vùng sương mù, lại chui biến trong sương mù, tựa như không có nguồn cũng không có kết, đang giữa mùa hạ, nước sông tràn đầy, dòng nước chảy siết. Cái khiến người ta không ngờ là trong Vân Mộng Trạch còn tàng ẩn một dòng sông như vậy. Đứng ở điểm cao nhất của bờ đá, cúi xuống nhìn dòng nước trôi qua bên dưới, cứ như đứng ở rìa vách đá hiểm trở chót vót, cảm giác cổ quái đến cực đoan, đặc biệt là ở địa vực kỳ dị bị hơi nước biến thành hư vô này. Vô Song Nữ lòng hoang mang thất thần, vốn nàng vẫn tin rằng một khi cha và cữu cữu đã có thể tìm đến cổ vực, thì nàng cũng có thể làm được, nhưng dấn thân vào kỳ cảnh, lòng tin của nàng đã dao động hẳn. Đây là một địa vực không thể suy tính theo lẽ thường. Hắc Nhi vụt dậm chân hí vang, thoái lùi ra sau. Vô Song Nữ liền kéo giữ nó, kêu lên: “Hắc Nhi đừng mà, xảy ra chuyện gì?”. Hắc Nhi đôi mắt bắn ra thần sắc kinh hoàng, trợn mắt nhìn sang bờ bên kia. Vô Song Nữ kinh hãi ngoái nhìn, lập tức nổi da gà, chỉ thấy dưới ánh hỏa quang chiếu rọi, bờ bên kia xuất hiện lấm tấm tinh quang màu vàng xanh, còn truyền sang tiếng thở khiến người ta kinh hồn khiếp vía, Vô Song Nữ gan dạ ngút trời mà cũng phải rùng mình phát lãnh. Định thần nhìn kỹ một chút, không ngờ là mười mấy con sói hoang thân hình to lớn, bọn chúng chắc là tuốt từ đằng xa bờ bên kia ngửi thấy hơi hướm người ngựa mà phóng tới, đang hổn hển hít thở, tụ tập đối diện bọn họ sát bờ bên kia, kỳ lạ là không gầm gừ hú gào, chỉ lẳng lặng trợn trừng nhìn bọn họ. Vô Song Nữ quay đầu nhìn ra phía sau mình, không thấy có con sói nào, mới thở phào một hơi. Nàng chưa từng nghĩ tới chướng ngại tìm kiếm cổ thành có thể là một bầy ác thú tính khí hung tàn kia. Càng khiến cho nàng hoảng kinh khiếp hãi là càng lúc càng có nhiều sói lang hiện thân trong vùng sương mù bờ bên kia, nháy mắt đã tụ tập hơn ba chục con ác lang. Nếu để bầy sói bao vây, nàng và Hắc Nhi khẳng định sẽ thành đồ ăn cho lũ sói đói. Vô Song Nữ dắt Hắc Nhi, chầm chậm thoái ra sau, cái nàng sợ nhất là bầy sói vọt xuống sông, lúc đó nàng chỉ có một chọn lựa, là nhảy lên lưng Hắc Nhi, dựa vào bản lãnh nhận ra đường xá trong đêm tối của Hắc Nhi mà chạy ra ngoài Vân Mộng Trạch. Vượt ngoài ý liệu của nàng, bầy sói không hiển lộ thần sắc hung ác gì, im ỉm đưa mắt tiễn đưa bọn họ thoái lui. Về đến đầm lầy, Vô Song Nữ đã mất đi dũng khí vượt sông, đổi sang đi về hướng nam, lúc này nàng chỉ hy vọng sớm đoàn tụ với cữu cữu, mấy chuyện khác chờ dịp hãy nghĩ cách.
o0o
Tiền Thế Thần thốt: “Đó là một dị vật không ai rõ được, thuở đó ai ai cũng tin rằng vật này bắt nguồn từ Tương phu nhân lao mình xuống sông tuẫn tình, là vật vượt quá sức liệu giải của người phàm”. Bách Thuần tròn đôi mắt đẹp: “Vậy là tiên phẩm rồi, thật ra là vật gì? Lẽ nào nhìn thấy lại không sờ đụng được? Nếu không sao lại không có cách nào lấy được? Hay là linh thú?”. Tiền Thế Thần thật không muốn nói ra, đằng hắng một tiếng: “Mặt đó không rõ mấy. Để bọn ta về lại cố sự đi, chủ nhân Chuyên thành nghĩ ra một biện pháp chiếm lấy bảo hạp, là cưới con gái chư hầu làm vợ, nói rõ muốn dùng bảo hạp làm của hồi môn, như vậy liền có thể qua mắt được người ta”. Bách Thuần gật đầu: “Kế hay không có sơ hở gì, hay cho y đã nghĩ được, sao lại có thể xảy ra vấn đề chứ?”. Tiền Thế Thần đáp: “Vốn là không nên có vấn đề, tiểu chư hầu tuy nhận ra lòng tham của Chuyên thành Thành chủ đối với bảo hạp của lão, lại không nghĩ tới sự tình quan hệ trọng đại, đương nhiên trong lòng không phục, nhưng dưới sự uy hiếp của Chuyên thành Thành chủ, chỉ đành đem dâng hai tay con gái và bảo hạp. Con gái tiểu chư hầu đẹp bách mị thiên kiều, hương sắc khuynh quốc khuynh thành, Chuyên thành Thành chủ thì anh tuấn hiên ngang, trẻ tuổi lại có quyền vị, vốn là trời ban kết hợp, chỉ tiếc Chuyên thành Thành chủ tâm thần hoàn toàn bị linh vật dưới sông thu hút, không còn cảm thấy hứng thú với chuyện nào khác, bao gồm cả một tuyệt sắc như vậy”. Bách Thuần hằn học thốt: “Nam nhân ngu xuẩn!”. Tiền Thế Thần chợt cảm thấy nàng tuy mắng Chuyên thành Thành chủ, trên sự thật là mắng cả chính mình đây, vẻ mặt liền mất tự nhiên hẳn, lại đằng hắng một tiếng: “Ân oán ràng buộc giữa bọn họ, sợ rằng phải là người trong cuộc mới rõ, chỉ biết quan hệ giữa phu thê bọn họ không ngừng ác hóa, đến khi cha của mỹ nữ chết vì quá căm phẫn bị khi dễ lấn hiếp cũng như con gái phải chịu khổ, mỹ nữ cuối cùng phát hiện chân tướng nguyên nhân Chuyên thành Thành chủ cưới nàng làm vợ, quyết định bất chấp tất cả để báo thù”. Bách Thuần ngạc nhiên: “Nếu đổi là tôi, sẽ chờ lúc ngủ say đâm cho y một đao, giết kẻ phụ lòng đó”. Tiền Thế Thần không để ý tới lời nói của nàng, thốt: “Nàng ta nghĩ ra một kế hoạch còn đáng sợ hơn, là lợi dụng cơ hội về nhà tống táng, viết một phong mật hàm, phái người đưa cho Sở vương. Sở vương phừng phừng nổi giận, lập tức ra lệnh cho Chuyên thành Thành chủ giao bảo hạp ra, đến lúc chủ nhân Chuyên thành cự lệnh không tuân, Sở vương phái một mãnh tướng tề danh cùng Chuyên thành Thành chủ đương thời dẫn tám ngàn đại quân công đả Chuyên thành, Chuyên thành Thành chủ vẫn không chịu khuất phục, dùng binh lực hai ngàn quân cố thủ, triển khai trường huyết chiến vây thành kéo dài tám năm”. Bách Thuần không nén cảm xúc: “Thì ra lại kích thích đến thế, thành bị công phá dưới tình huống ra sao?”. Tiền Thế Thần trầm giọng: “Chuyên thành đâu phải bị công hãm, đánh đổ thành này chính là ông trời”. Bách Thuần ngạc nhiên. Lúc này tiếng bước chân vang lên. Tiền Thế Thần lộ thần sắc không vui, nhìn sang người mới đến, thấy là một cận vệ theo hầu, ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì?”. Cận vệ đi thẳng đến bên gã, ghé vào tai gã nói: “Quý đại nhân đang ở quảng trường cửa chính chờ đại nhân”. Tiền Thế Thần chột dạ, lập tức biến sắc. o0o Kinh thành. Lân Hoa Cư. Hoa Mộng phu nhân lên xe ngựa, xe ngựa lập tức khởi hành, ra khỏi cửa lớn, mấy đại hán mặc thường phục giục ngựa theo sau. Hoa Mộng phu nhân ngồi xuống bên cạnh Ký Thiện, không vui thốt: “Chuyện gì đây? Trước chuyện lại không thông tri cho tôi biết, bắt ép tôi lên xe ngựa của ngài, công công càng lúc càng làm tới đó”. Ký Thiện bình tĩnh: “Phu nhân có phải rất khinh bỉ ta, không muốn dính líu kề cận ta chút nào phải không?”. Hoa Mộng phu nhân rùng mình, thầm nghĩ lẽ nào gã muốn giết mình, bất quá lúc này thịt đã đặt trên thớt, đâu đến phiên nàng tác chủ. Nàng trầm giọng: “Công công tại sao lại nói mấy lời như vậy?”. Ký Thiện thốt: “Ta từ nhỏ đã theo hầu Hoàng thượng, tận tâm tận lực, Hoàng thượng đối với ta cũng thân cận vô cùng, sủng ái hơn nhiều. Nhìn Hoàng thượng không ngừng trưởng thành, nỗi hân hoan trong lòng ta nào có ai biết chứ”. Hoa Mộng phu nhân hoàn toàn không hiểu dụng ý sau lưng mấy lời nói đó, gã như đắm chìm trong một đoạn ngày tháng nhớ nhung, giọng điệu bi sảng thương cảm, phối hợp với không khí rèm màn trong thùng xe thả phủ, làm cho người ta cảm thấy kỳ dị vô cùng. Giữa người đánh xe và thùng xe đậy kín, chỉ cần bọn họ không rướn cổ lớn tiếng, không có người thứ ba nào nghe được cuộc đàm thoại của bọn họ. Ký Thiện nói tiếp: “Đến khi Hoàng thượng được mười bảy, có một ngày người đuổi mấy người khác ra ngoài, đơn độc hỏi ta một câu, lúc đó ta thật không nghĩ ra đáp án, về nhà suy tư mấy ngày trời, cuối cùng đã có đáp án”. Hoa Mộng phu nhân thầm nghĩ đây là chuyện mười mấy năm trước, Ký Thiện nhắc lại chuyện cũ, khẳng định là có thâm ý. Nhưng coi như có thể an tâm rồi, xem tình hình Ký Thiện đâu phải muốn hạ độc thủ với mình, nếu không đâu cần nói vu vơ. Ký Thiện không nhìn nàng, thản nhiên thốt: “Câu hỏi của Hoàng thượng là làm sao để đánh đổ được Phụng công công. Ngày nào Phụng công công còn đó, Hoàng thượng không có cách nào thu hồi được quyền lực, cho dù bụng đầy hồng đồ đại kế để chấn hưng quốc gia, kế sách trị quốc an dân, cũng chỉ là hữu tâm vô lực. Lúc Hoàng thượng nói ra nguyện vọng trong lòng ngài, ta cảm động vô cùng, vào lúc đó, ta lập tức thề nguyền cho dù phải chết một cách thê thảm nhất, cũng phải ngọc thành nguyện vọng của Hoàng thượng”. Hoa Mộng phu nhân nghe vậy tê tái thần hồn, Ký Thiện thật là người như vậy sao? E rằng trong kinh thành không có một ai tin nổi. Lời nói của gã có thật hay không, chỉ có trong lòng Hoàng thượng mới có đáp án. Ký Thiện nói tiếp: “Ba ngày sau, ta quay lại nói với Hoàng thượng chỉ có một biện pháp hạ gục Phụng công công, là để ta trở thành tâm phúc của lão, hoàn toàn nắm bắt thế lực khổng lồ trong tay lão, đánh đổ lão từ trong nội bộ”. Hoa Mộng phu nhân thở gấp vài hơi: “Đây chắc là chuyện cơ mật nhất giữa Hoàng thượng và công công, tại sao phải để ngoại nhân như tôi biết đến?”. Ký Thiện điềm đạm thốt: “Phu nhân còn coi là người ngoài được sao?”. Cuối cùng nhìn sang nàng, nói một cách thống khổ: “Do đó ta đã thành chó săn của Phụng công công, đi làm đủ thứ chuyện thương thiên hại lý cho lão, khiến vô số người nhà tan cửa nát, ta cũng chịu đủ mọi khiển trách lương tâm, nhưng ta biết mình đang từng bước đi tới thành công, cần phải kiên trì mà làm. Mười năm trước, bọn ta vốn có một cơ hội thành công, Hoàng thượng gieo trồng bồi dưỡng được một Phu Mãnh, mà Phụng công công thì có Quý Nhiếp Đề, quan hệ giữa Phu Mãnh và Quý Nhiếp Đề chính là do Phu Mãnh tận miệng nói cho Hoàng thượng biết”. Xe ngựa chầm chậm lăn bánh trên đường cái trong bóng tối trước hừng đông, chỉ có tiếng vó ngựa bầu bạn. Ký Thiện thốt: “Hoàng thượng luôn luôn hoài nghi Phụng công công bày mưu hại chết Phu Mãnh, nhưng chuyến này Phụng công công thỉnh Nguyệt Minh ra mặt, đi tìm vật đã mất mười năm trước, lại khiến cho toàn sự kiện vụt trở nên mờ mịt khó hiểu”. Ngưng một chút lại nói: “Không ai hiểu rõ sự lợi hại của Phụng công công hơn ta, thế lực của lão thâm căn cố đế, không người nào có thể lung lay, sách lược của ta cũng không phải là đụng đầu chính diện với lão, mà là đấu xem ai sống dai hơn, tìm cách nắm rõ quyền lực lão đang có trong tay, lão tuổi tác đã cao, có rất nhiều chuyện không thể không giao cho ta làm, mà ta đã dần dần tiếp thu quyền lực của lão. Hiện tại vạn sự đã chuẩn bị, chỉ cần bọn ta trừ khử một người, ta tin chắc có thể đào bật gốc rễ tập đoàn quyền lực của lão. Phu nhân đừng nghĩ sau khi loại trừ Phụng công công thì ta có thể thay thế Phụng công công, trở thành kẻ hưởng lợi lớn nhất. Đó là chuyện không thể nào, bởi thanh danh của ta xấu lắm rồi, nếu có thể an hưởng quãng đời còn lại cũng là quá may mắn. Cái ta vì là Hoàng thượng, cái ta vì là quốc gia. Hy sinh cá nhân đâu đáng nói tới”. Hoa Mộng phu nhân thầm nghĩ nếu lời nói của gã là thật, Ký Thiện quả là một vĩ nhân. Gã có thể nào là người như vậy sao? Bất quá nàng quả không có cách nào nắm bắt được bất kỳ sơ hở nào từ lời nói của Ký Thiện. Bất kể nàng có muốn hay không, nàng đã bị Ký Thiện lôi vào vòng tranh đấu quyền lực giữa Hoàng thượng với Phụng công công. Biết rõ Ký Thiện sẽ cho mình biết chuyện Cô Nguyệt Minh không dám tiết lộ với mình, nàng vẫn muốn biết. Nàng thì sao chứ? Đã biến thành kẻ biết chuyện, nàng sẽ bị ép đứng cùng một trận tuyến với Ký Thiện, vinh nhục cùng chung. Mình thật chịu hy sinh tất cả vì Cô Nguyệt Minh sao? Người Ký Thiện để ý không phải là nàng, mà là Cô Nguyệt Minh. Chỉ có thông qua nàng mới có thể sách động Cô Nguyệt Minh. Nàng trực giác cảm thấy Ký Thiện không có biện pháp thuyết phục mình cam tâm để gã lợi dụng. Sự cao minh trong thủ đoạn của Ký Thiện nàng đâu có ngờ tới, không những khuyên nhủ quan hệ lợi hại, còn động tới tình cảm, làm cho nàng cảm thấy không phản bội lại nguyên tắc xử sự xưa nay của mình, đối đúng với lương tri. Nàng hỏi: “Vật mất mười năm trước là vật gì?”. Ký Thiện hạ thấp giọng: “Đó là một cái hộp từ đời xa xưa, giấu trong một tòa cổ thanh ly kỳ bờ đông Tương Giang, chỗ ly kỳ là trải qua một thời gian dài một ngàn năm trăm năm, tuy không ngừng có người đi tìm kiếm cổ thành, cổ thành lại như biến mất trong nhân gian. Khu vực chỗ cổ thành, bầy sói hoang tụ tập ẩn hiện, thợ săn xung quanh lại tin có quỷ sứ hoành hành, không ai dám tiến vào, hơn nữa có cấm kỵ không dám đề cập với người ngoài, sợ gây ra vận rủi. Phu Mãnh nắm được hết bí mật có liên quan đến cổ thành qua một người tên là Mâu Xuyên, bẩm báo lên Hoàng thượng, Hoàng thượng động long tâm, phái Phu Mãnh đi tầm bảo, chuyện này là giấu Phụng công công mà tiến hành, nào hay đoàn tầm bảo toàn quân bị diệt, Phu Mãnh và một thủ hạ tâm phúc thất tung một cách ly kỳ, Phụng công công tới lúc đó nhúng tay vào chuyện, giết hại gia đình của Phu Mãnh xử quyết hơn ba chục đại thần tướng lãnh có quan hệ mật thiết với Phu Mãnh, tiến một bước tước giảm quyền lực của Hoàng thượng, đem chuyện tìm kiếm bảo hạp đặt hết lên mình”. Hoa Mộng phu nhân không nhịn được hỏi: “Phu Mãnh sao có thể là người như vậy?”. Ký Thiện thở dài: “Phu Mãnh khẳng định không phải là hạng người như vậy, ít ra Hoàng thượng không chịu tin là vậy, ta không tin là vậy, sợ rằng cũng không có ai tin. Mà ta càng rõ ba ngày sau khi Phu Mãnh dẫn người rời kinh đi tìm cổ thành, Quý Nhiếp Đề cũng rời kinh Nam hạ, cho nên Hoàng thượng luôn hoài nghi chuyện xảy ra với đoàn tầm bảo có liên quan với Phụng công công. Kỳ quái là cùng một lúc Phụng công công giết cả nhà Phu Mãnh, lại bắt hết một trăm ba mươi lăm mạng trong gia tộc của Mâu Xuyên tống vào nhà lao, còn đích thân tra khảo, rồi đem toàn thể xử quyết, càng làm khó hiểu. Bảo hạp tựa hồ chưa lọt vào tay Phụng công công, hiện tại lão sai Nguyệt Minh đi Động Đình, càng chứng thực ý tưởng đó của bọn ta. Bên trong nhất định đã xảy ra những chuyện bọn ta còn chưa biết được”. Hoa Mộng phu nhân hít một hơi lạnh: “Đó thật ra là cái hộp gì vậy?”. Ký Thiện thở dài đáp: “Cái hộp tuy là bảo vật giá trị liên thành, nhưng chỗ then chốt là vật cất trong hộp, nó là cái gì? Mâu Xuyên và tộc nhân của y chắc là kẻ biết chuyện, lại không nói ra, chỉ nói tới một cố sự xảy ra từ xa xưa có thể làm cho bất cứ một ai động tâm. Hiện tại Mâu gia không còn ai sống sót nữa, e rằng chỉ có Phụng công công biết rõ về vật cất giấu trong hộp”. Hoa Mộng phu nhân toàn thân lạnh ngắt, sự hoang đường ly kỳ của chuyện này hoàn toàn vượt ngoài trí tưởng tượng của nàng, kinh hãi hỏi: “Phụng công công muốn Nguyệt Minh đi tìm cái hộp đó?”. Ký Thiện đáp: “Đại khái là vậy. Cô Nguyệt Minh là con cờ lợi hại nhất trong tay Phụng công công, chuyện Quý Nhiếp Đề làm không được, chỉ có y hoặc giả có hy vọng làm được. Nếu có tuyển chọn, Phụng công công sẽ không để Cô Nguyệt Minh ra mặt, bởi bọn ta đều rõ con người của Cô Nguyệt Minh ra sao, nhưng Phụng công công không còn có thể nhẫn nại chờ đợi được nữa, cũng khiến cho bọn ta có được một cơ hội khó gặp, còn là cơ hội mà Hoàng thượng và ta một mực chực chờ”. Hoa Mộng phu nhân hít sâu một hơi: “Công công muốn Nguyệt Minh giết ai?”. Ký Thiện bình tĩnh thốt: “Phu nhân vẫn chưa đoán ra sao?”. Hoa Mộng phu nhân thân người run lên: “Quý Nhiếp Đề?”. Ký Thiện trầm giọng: “Quý Nhiếp Đề đối với Phụng công công, có khác gì là Phu Mãnh đối với Hoàng thượng. Phu Mãnh vừa đi, Hoàng thượng biến thành hoàn toàn không còn sức phản kích Phụng công công. Chỉ cần trừ diệt Quý Nhiếp Đề, Phụng công công sẽ biến thành hổ già không nanh, ta tin chắc nhổ bạt được cả gốc rễ của Phụng công công. Mà đây còn là cách giữ mạng duy nhất của Cô Nguyệt Minh, đến khi Nguyệt Minh lấy được bảo hạp, Quý Nhiếp Đề sẽ giết y diệt khẩu, cho dù Nguyệt Minh có thoát khỏi độc thủ của Quý Nhiếp Đề, về đến kinh sư Nguyệt Minh vẫn khó tránh khỏi cái chết, Phụng công công sẽ không để y sống sót. Chim hết bẻ ná, số phận của Nguyệt Minh đã định sẵn, cũng là hình ảnh tương lai của Ký Thiện ta”. Hoa Mộng phu nhân tim đập thình thịch, hổn hển hỏi: “Công công muốn tôi làm sao?”. o0o Tiền Thế Thần đi xuống bậc thang đá ra cửa chính của Hồng Diệp đường, lập tức con tim co thắt lại. Ba mươi sáu cao thủ xưởng vệ đặc cấp theo Quý Nhiếp Đề xuống Nam, người nào người nấy vũ trang toàn thân, đứng sững bên chiến mã, bộ dạng như viễn hành. Ba mươi sáu người này, không ai không là tinh nhuệ trong số tinh nhuệ, cứ chọn đại ra một người, đều có thể là cao thủ hàng đầu về một phương diện, ba mươi sáu người hợp lại, cho dù bị thiên quân vạn mã trùng trùng vây đánh, e rằng vẫn có cơ hội đột vây chạy thoát, huống hồ kẻ chỉ huy bọn chúng là Quý Nhiếp Đề. Tiền Thế Thần đặc biệt lưu tâm đến cơ quan bắn tên nỏ giắt bên hông ngựa. Đó là vũ khí bí mật của xưởng vệ, có thể liên tục bắn ra bốn mũi tên nỏ, nghe đồn cực kỳ khó chế tạo, đến bây giờ chỉ mới chế được hơn bốn chục cái, mà trước mắt đã thấy ba mươi bảy cái, có thể biết Quý Nhiếp Đề lần này dốc hết toàn lực, quyết được mới thôi. Quý Nhiếp Đề thần sắc lãnh tĩnh đứng đằng trước đám thủ hạ, đang quan sát Tiền Thế Thần. Tiền Thế Thần phát lãnh, so với tình cảnh đối diện với tuyệt sắc vừa nãy, trước mắt là một thế giới khác hẳn, tràn đầy bạo lực, đao quang kiếm ảnh, máu lạnh và vô tình. Cước bộ đưa gã tới trưóc mặt Quý Nhiếp Đề. Quý Nhiếp Đề thấp giọng: “Nhãn tuyến bọn ta bố trí vòng ngoài Vân Mộng Trạch đã phát hiện Tiết Đình Hao, hắn hiện tại chắc đã tiến vào Vân Mộng Trạch rồi”. Tiền Thế Thần suýt nữa để lộ nét kinh hãi giấu trong lòng, liền ráng trấn áp tâm tình, lại nghĩ đến Qua Mặc đã đi trước một bước, cầu thần bái Phật hy vọng Qua Mặc có thể sát nhân diệt khẩu trước khi Quý Nhiếp Đề đến nơi, vội thốt: “Quý đại nhân phải hết sức cẩn thận, Vân Mộng Trạch không phải là chốn tầm thường, cả chó săn cũng kinh hoàng run sợ ở đó, không còn tác dụng gì nữa”. Gã biết rõ lời nói của mình không hợp với tâm địa. Trên thế gian này, hai người gã sợ nhất, đầu hết là Qua Mặc, thứ đến là Quý Nhiếp Đề. Mà vào giờ phút không nên nghĩ ngợi bậy bạ nhất này, gã lại chợt nảy sinh ý lạ, giả như hai người mình sợ nhất này chôn mình trong Vân Mộng Trạch hết, gã thề mình về sau sẽ không nghĩ tới Sở hạp nữa, sau này làm người an phận thủ kỷ. Gã thật đã chịu đựng quá đủ rồi. Quý Nhiếp Đề ánh mắt tinh quang loang loáng chằm chằm nhìn Tiền Thế Thần, nhìn đến mức gã nổi da gà, rồi mới thong dong nói: “Không ai dám coi thường một địa phương như vậy, ta bây giờ lập tức lên đường, ở đây giao cho ngươi. Thế Thần cần hợp tác với Khâu Cửu Sư cho tốt, đừng để Ngũ Độn Đạo thoát thân, rõ chứ?”. Không đợi gã đáp lời, Quý Nhiếp Đề phất tay ra dấu, ba mươi sáu chiến sĩ toàn thể phi thân lên ngựa, toàn quảng trường liền sát khí đằng đằng, có không khí đại chiến sắp bùng nổ. Tiền Thế Thần cúi đầu: “Mọi sự theo lời dặn của đại nhân”. Quý Nhiếp Đề nhấn bàn đạp lên ngựa, khoé môi hé lộ một nụ cười lãnh khốc, tiếp đó quát khẽ một tiếng, dẫn ba mươi sáu kỵ sĩ như cơn lốc cuộn ra cửa ngoại viện Hồng Diệp Lâu.
Ký Thiện đôi mắt lấp loáng ánh sáng kỳ dị, trầm giọng: “Ở tình huống bình thường, muốn giết Quý Nhiếp Đề là chuyện không thể nào, nhưng ở địa vực kỳ dị đó, thêm vào Cô Nguyệt Minh, Quý Nhiếp Đề lại không có dạ đề phòng, chuyện không thể nào nhất cũng sẽ biến thành có khả năng. Nguyệt Minh giết Quý Nhiếp Đề, không những vì phu nhân nàng, còn là vì chính mình, vì Hoàng thượng, vì phước phận của quốc gia nhân dân. Ta có thể bảo chứng cho Hoàng thượng, chỉ cần y giết Quý Nhiếp Đề, mọi sự sẽ theo sở nguyện của y”. Hoa Mộng phu nhân đã hiểu, Ký Thiện từ đầu đâu có hảo ý gì với mình, hơn nữa bố cục chặt chẽ, từng bước từng bước ép nàng vào tuyệt địa, nếu không y theo ý của gã mà làm, nàng sẽ chết rất thảm, Ký Thiện đương nhiên cũng không có kết cục tốt đẹp gì. Mà nàng, Cô Nguyệt Minh và Ký Thiện, thậm chí cả Hoàng thượng, bốn người đã bị lưỡi câu của số phận móc phải. Nàng căn bản không còn lựa chọn nào khác. Với thế lực của Phụng công công, cuối cùng giấy cũng không gói được lửa, nếu để Quý Nhiếp Đề hồi kinh, cơ hội sẽ vĩnh viễn không trở lại. Ký Thiện thốt: “Phu nhân trước hết đích thân viết một bức thư, bí mật dùng hệ thống phi cáp truyền thư đưa đến tay người của bọn ta ở Lạc Dương, người này rất có thân phận địa vị ở Lạc Dương, có thể trực tiếp gặp Chu Bàn Tử của Hồng Diệp Lâu. Họ Chu có thật có thể trông cậy như phu nhân đã nói chứ?”. Hoa Mộng phu nhân đáp: “Nhìn bề ngoài, quả không có ai nghĩ có thể trông cậy vào lão, nhưng chỉ là vì không tiếp xúc được con người thật của lão. Chu Bàn Tử là người có thể tín nhiệm tuyệt đối, nếu không tôi không thể để Bách Thuần đi giúp lão nâng cao tư cách của Hồng Diệp Lâu, càng không thể ủng hộ lão về mặt kim tiền. Công công an tâm đi”. Ký Thiện thốt: “Như vậy xin phu nhân động bút viết một phong mật hàm thứ nhì, để Nguyệt Minh hiểu rõ hoàn cảnh của y, vì phu nhân, ta tin Nguyệt Minh tuyệt không ngần ngại giết thêm một người”.
o0o Trời dần sáng. Cô Nguyệt Minh phát giác mình đang dấn thân trong khu rừng cổ thụ rậm rạp xanh rờn sương mù quẩn quyện, bất kỳ một cây cổ thụ nào trong số khẳng định cũng đã sống hơn trăm năm, thậm chí từ mấy trăm năm đến cả ngàn năm cũng có, chừng như đã tồn tại từ xa xưa, chứng kiến sự hưng suy của nhân thế, sự chuyển dời thương hải tang điền. Cổ thụ cao chọc tầng mây, có lẽ phải mười mấy người nối vòng tay mới có thể ôm vòng quanh gốc cây, thậm chí có một số uốn mình, hình thành ngàn vạn tư thế kỳ dị, hình thành nét tương phản mãnh liệt với vùng đầm lầy đêm hôm qua. Trong rừng cây ngập đầy sức sống đủ thức đủ dạng, khỉ vượn nhảy nhót giữa các nhành cây, chim chóc thú rừng ẩn hiện đó đây, là vùng đất lành xa rời nhân thế chưa từng có con người xâm lấn. Nguyên thủy, mộc mạc, u tĩnh, thần bí. Trong thế giới tựa như bị quên lãng này, không ngờ có một con đường dài phủ đầy lá mục thấp thoáng hiện hình, trải mình xuyên suốt giữa biển rừng mênh mông. Đây chắc là dịch lộ xây thời cổ đại, còn được bảo tồn như một kỳ tích. Một bầy linh dương sừng cong có cả trăm con đang đi ngang đằng trước, có vài con chăm chăm tròn mắt nhìn Cô Nguyệt Minh một cách giới bị, lại mau chóng biến mất sâu trong rừng rậm, phảng phất như nai thần vụt hiện bóng tiên. Cô Nguyệt Minh tặc lưỡi tán thán, một nơi tốt đẹp như vầy, tại sao không có bóng dáng loài người? Hoàn cảnh thiên nhiên xanh tươi phồn thịnh quá nhiều động vật hoang dã như vầy, đáng lẽ là vùng đất quý thợ săn giành nhau trổ nghề, sao có thể bỏ qua được? Chợt Cô Nguyệt Minh bị đống đống gì đó bên đường thu hút, ngồi xổm xuống quan sát, đến khi khẳng định là phân sói, tỉnh ngộ nghĩ rằng không lạ gì đêm hôm qua Khôi Tiễn sợ hãi bất an, thì ra Vân Mộng Trạch là lãnh thổ của bầy sói, mấy đống phân này chính là ký hiệu của bầy sói, cảnh cáo các loài khác không được xâm nhập, vụt lại nghĩ tới Khôi Tiễn từng đối diện với sói hoang vùng sa mạc mà đâu có lộ thần thái kinh hoàng, sao lại vì ngửi được hơi sói ở đây mà đâm hoảng loạn khẩn trương? Thật không có cách nào hiểu nổi, chỉ còn nước nuôi ngờ. Cô Nguyệt Minh tiếp tục thâm nhập, đề cao cảnh giác, cho dù y là kiếm thủ bậc nhất, đối với sói hoang vẫn không dám coi thường. Phụng công công nói đúng, chết có thể có nhiều cách khác biệt, nếu bị sói đói xé xác ăn tươi nuốt sống, mặc cho y coi chết như không tới cỡ nào, cũng cảm thấy không chịu đựng nổi. May là đi thêm cả canh giờ nữa vẫn chưa đụng phải ác lang, lúc này dịch lộ xa xưa đã đến ngoài bìa rừng, vùng gò hoang ngoài rừng nhấp nhô, xa xa là một mảng rừng trúc xanh rờ rỡ, thấp thoáng có phòng ốc ở giữa. Cô Nguyệt Minh kinh ngạc, địa phương không có dấu chân người này sao lại có thể có nhà cửa? Y trực giác cảm thấy nhân vật thần bí y truy tung cả đêm đang ở đó đợi y, y hoàn toàn không rõ mình tại sao lại có ý tưởng đó, nhưng y biết ý tưởng đó tuyệt không thể sai lạc.
o0o
Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân rời khỏi chỗ ở, nhắm phương hướng Ban Trúc Lâu cất bước, chỉ có hai thủ hạ đi theo. Lạc Dương đặc sắc một dòng sông hồ Giang Nam, dọc ngang kênh rạch, tàu thuyền bốn bề, đường sông cắt giao, cầu bắc nối liền. Dân cư đủ mọi ngành nghề cất nhà san sát sông nước, tường trắng ngói đen, rọi bóng giữa sóng dợn lăn tăn, cảnh trí mê hồn. Nguyễn Tu Chân như có thâm ý, hỏi: “Đêm hôm qua ngủ ngon chứ?”. Khâu Cửu Sư buồn bã đáp: “Trời sáng rồi ta mới miễn cưỡng ngủ được một chút. Nhưng đừng hiểu lầm, ta không phải là vì Bách Thuần mà mất ngủ, chỉ vì bị mấy lời nói của ngươi làm canh cánh, bất quá càng nghĩ càng hồ đồ, lẽ nào ngoài nhân thế này ra, quả là có lực lượng của quỷ thần đang thao túng số phận của con người? Như vậy làm người còn có ý nghĩa gì nữa?”. Nguyễn Tu Chân mỉm cười: “Thật cao hứng là ngươi không nghĩ tới Bách Thuần. Ý tưởng của ta lại vừa hay tương phản với ngươi, nếu ngoài nhân thế này quả có sự tồn tại của thần linh, cuộc sống này sẽ biến thành lý thú hơn nhiều, ít ra đại biểu ngoài vòng sinh tử còn có gì khác, ví như mấy chuyện kiểu luân hồi chuyển thế. Hiện tại cái bọn ta đối diện là lực lượng thần bí vượt ngoài tưởng tượng, mờ mịt khôn lường, ngươi không cảm thấy kích thích thú vị sao?”. Khâu Cửu Sư cười khổ: “Chuyện làm người ta phiền não trên nhân thế đã quá xá rồi, bọn ta còn phải khiêu chiến với đối thủ nhìn không thấy đụng không được sao? Bọn ta gánh nổi sao? Thật hy vọng tất cả chỉ là ảo giác của ngươi”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Đối thủ tuy vô ảnh vô tung, nhưng thắng bại của bọn ta lại rành rành phân minh, chỉ cần đợi được Ngũ Độn Đạo, bọn ta sẽ là kẻ chiến thắng trong trường tranh đấu này. Rõ chứ? Đừng hoài nghi phán đoán của ta, nếu không, không kềm nhịn nổi, ngươi sẽ không cưỡng được đi gặp Bách Thuần”. Khâu Cửu Sư thở dài: “Thật như vậy sao?”. Tiếp đó “ủa” một tiếng, dõi nhìn bốn phía. Lúc này hai người đã đến trước Ban Trúc Lâu, Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì?”. Khâu Cửu Sư đáp: “Tiểu tử bán mật rắn đâu rồi? Hắn còn lại nửa sọt rắn để bán, sao bê trễ dữ vậy”. Nguyễn Tu Chân quay sang nói với thủ hạ: “Đi tìm khắp nơi cho ta, xem xem hắn có phải bày bán ở đường lớn nào khác không, sau khi tìm thấy hắn dẫn hắn đến gặp bọn ta”. Tiếp đó cười nói: “Thật nhớ mật rắn của tiểu tử đó quá, đêm hôm qua ta ngủ một giấc ngon lành tới trời sáng, chưa từng sảng khoái được như vậy”. Khâu Cửu Sư mặt mày thần sắc hâm mộ, kéo Nguyễn Tu Chân lên lầu.
o0o
Cô Nguyệt Minh bước trên con đường nhỏ giữa cánh rừng, thâm nhập vào rừng. Đây là một mảnh rừng Ban trúc phủ trùm hơn một dặm, y dám khẳng định gần đây có người dọn dẹp đường rừng, con đường đá không thấy cỏ mọc chen, Ban trúc hai bên cũng có người tỉa tót, nếu không cành lá tua tủa hẳn đã bít kín đường. Sau khi quẹo qua một khúc quanh, một tòa nhà hình dáng tựa như đền thần giản dị cổ xưa tọa lạc tận cuối con đường nhỏ, đắp bằng đá tảng, tuy tường vách đại để đã hoàn hảo, lại hỗn tạp không đồng đều, có vẻ bị gió mưa xói mòn, tựa như đang kể lại những năm tháng vinh quang đằng đẳng. Phiến cửa nơi lối vào đã không còn tồn tại nữa, chỉ còn khung dáng, bên trên có một tấm biển đá, chữ phai tàn không còn phân biệt được. Nóc đền đã mục nát, bị Ban trúc ngả ngớn phủ trùm, phảng phất như một cái lọng màu xanh. Trước đền trái phải mỗi bên có ba con thú đá, nhưng vì năm tháng xa vời, biến thành sáu cục đá hình trạng cao nhọn, bất quá Cô Nguyệt Minh vẫn có thể tưởng tượng được khí phách hoành tráng của đền thần lúc xây xong. Đền này chắc phải có lịch sử trên ngàn năm, lẽ nào kiến tạo cùng một thời gian với Chuyên thành? Vụt lại thầm mắng mình, y căn bản không tin có một tòa cổ thành không tìm thấy được, tại sao lại khơi khơi muốn coi sự tồn tại của cổ thành là có thật? Cô Nguyệt Minh đưa mắt nhìn bốn phía, thầm nghĩ nếu đây là một cạm bẫy, mình đã hãm mình vào tuyệt địa, chỉ cần địch nhân phong tỏa lối ra, y không còn chỗ nào để chạy. Cái mũi thính của y ngửi thấy hơi hướm lợt lạt lúc có lúc không của thần bí nhân mình truy tung từ đêm hôm qua, đối phương đang đứng phía bên kia khung cửa của đền thần, đang chờ đợi y. Cô Nguyệt Minh không cảm thấy chút xíu sát khí nào, lại không rõ nguyên nhân đối phương dụ y đuổi theo suốt từ vùng đầm lầy đến đây. Cô Nguyệt Minh nhắm đền thần đi tới, giây phút bước chân qua khung cửa, hoàn toàn vượt ngoài ý liệu của y, tiếng xé gió vang lên, một vật giống như trường côn nhắm ngay ngực đâm tới, thần tốc như ánh chớp, lực đạo hừng hực, hơn nữa xảo hợp đúng lúc chân trước của y chưa chạm đất. Đổi lại là kẻ khác, khẳng định đã bị ép ra ngoài khung cửa. Cô Nguyệt Minh từng trải trăm trận, sóng gió gì mà chưa từng gặp qua, đã sớm nghĩ đến đủ thứ thủ đoạn của đối phương trước khi mình vào đền, tỷ như từ đằng xa bắn tên hoặc hỏa khí ám khí, hay bên trong cửa quăng lưới, hoặc dưới đất có gài hầm bẫy, chỉ là không ngờ đối phương dùng vật dài tới hai trượng công kích từ xa. Như vầy đối với đối phương mà nói, có lợi cũng có hại, nếu để mình tiếp cận, đối phương chết chắc, bất quá cần phải đợi đến khi gạt tránh khỏi đợt tấn công đầu của đối phương. Y đang bị kềm kẹp giữa khung cửa dày cỡ nửa thước, đã không kịp rút kiếm, càng không có cách nào lánh sang hai bên, về mặt chiến lược đã hoàn toàn lọt vào thế hạ phong, do đó cũng có thể thấy sự cao minh của đối thủ, nhưng vẫn khó đánh gục được y. Cô Nguyệt Minh cười lạnh một tiếng, hai tay vồng lên, chưởng hóa thành đao, triển khai một bộ công phu tinh xảo khéo léo, chẻ mạnh lên vũ khí đang đánh tới của đối phương, hơn nữa ẩn hàm chấn kình, chém cho vũ khí của đối phương mất đích chuẩn, không có cách nào đả thương y được, thủ vững khung cửa như tường đồng vách sắt, một tấc đất cũng không nhường. Lúc này y đã rõ cái đối phương dùng là một cành Ban trúc dài cỡ hai trượng rưỡi, chắc là mới bẻ xài đỡ. Đối phương có thể phát huy đặc tính trong cứng có mềm của cành trúc đến mức cùng cực lâm li, quả không phải đơn giản. Y rừng rực chiến ý, cảm thấy kích thích cực kỳ. Y thật không hiểu nổi mình, tựa hồ chỉ vào giờ phút giao tranh sinh tử như vầy, y mới có thể cảm nhận được ý nghĩa của sự tồn tại, giết người hay bị giết, không có chuyện gì khác có thể thay thế. Mà cái càng làm cho y khó hiểu là sau mỗi lần giết người, y lại cảm thấy hụt hẫng hết sức, đó là bí mật của y, không ai biết được tay săn lãnh thưởng vô tình lãnh khốc này lại có một mặt yếu đuối như vậy. Nhất thời thanh âm chưởng chém lên Ban trúc nổ lên liên miên, dày kín như đốt cả phong pháo, vang vọng không gian u tĩnh của rừng trúc đền cổ. Nhành Ban trúc vụt thoái hậu, Cô Nguyệt Minh kinh nghiệm chiến đấu phong phú, nhất thời vẫn không rõ đối phương đang định làm gì, chỉ ngờ vực là kế dụ địch. “Cạch!”. Nhành Ban trúc rơi xuống đất, người kia dang hai tay, biểu thị đình chiến. Lúc này Cô Nguyệt Minh đã làm quen với quang tuyến trong đền, định thần nhìn kỹ, không khỏi chấn động tâm thần, không ngờ kẻ đánh lén y lại là một người như vậy, đồng thời hiểu ra tại sao hơi hám của hắn khác với người thường, đều là vì đối phương là một hòa thượng ăn chay. Vị tăng này thân hình khá cao, tướng mạo thanh tú đến kỳ lạ, toàn thân vận tăng y trắng muốt, đôi mắt loang loáng kỳ quang, thần sắc bình tĩnh như nước lặng, không mừng cũng không sợ, nếu không phải đã cứng cỏi chịu mười mấy chiêu của hắn, chỉ xem vẻ mặt thì thật không dám tin hắn sẽ động can qua. Song thủ dang rộng của bạch y tăng chắp lại, khẽ niệm Phật hiệu, bình tĩnh thốt: “Quả nhiên là Cô Nguyệt Minh”. Cô Nguyệt Minh kinh ngạc, thấp thoáng đoán được đối phương là ai, nhưng đương nhiên lại càng rối đầu hơn, nhịn không được lên tiếng: “Ta đoán được đại sư là Tiết Đình Hao thì không lạ gì, nhưng đại sư làm sao biết tại hạ là Cô Nguyệt Minh? Đây là chuyện không thể nào”. Ánh mặt trời rải rắc xiên xéo qua kẽ lá trúc trên đỉnh đền mục nát, lá bị gió nhẹ khẽ lay in bóng trên bức tường phía tây. Cả tòa từ đường vuông vức ba trượng, sàn đá quét sạch bóng, thạch tượng trên tế đàn bị tàn phá không còn toàn vẹn, hình dáng tựa như nữ tử, không khí thần bí linh dị. Tiết Đình Hao ngồi khoanh gối dưới đất, cúi đầu nhắm mắt, bộ dạng cao tăng pháp tướng trang nghiêm. Hắn bình hòa thốt: “Có nhân tất có quả, nhân sinh ra từ quả, trong cõi U minh tựa như có nghiệp lực dẫn dắt. Đây là tuyệt địa, thí chủ cho dù có muốn làm dữ, không cần gấp vội nhất thời. Mời thí chủ ngồi”. Cô Nguyệt Minh tuy tức không thể lập tức chế ngự hắn, rồi dùng nghiêm hình bức cung chỗ hạ lạc của Sở hạp, lại bị thần thái tựa như nhìn thấu mọi sự của hắn đả động, phát giác rất khó động thủ như vầy. Bước tới một bước, cúi ngồi xuống, vẫn không thể không mở miệng: “Chuyện này là sao?”. Tiết Đình Hao nghiêm túc thản nhiên thốt: “Đã mười năm rồi, sự tình phải đến lúc liễu đoạn, bần tăng dẫn thí chủ đến đây, chính là muốn nói cho rõ chuyện xảy ra mười năm trước”. Cô Nguyệt Minh như tên khờ không hiểu gì hết, tuy thấp thoáng đoán được chuyện xảy ra trong Vân Mộng Trạch mười năm trước không phải hệt như lời kể của Phụng công công, nhưng chỗ không hiểu nổi quá nhiều, nhịn không được hỏi: “Đại sư sao lại biết tại hạ là Cô Nguyệt Minh?”. Biết rõ đối phương là Tiết Đình Hao, nhưng hắn bộ dạng cao tăng đắc đạo như vậy, tên tuổi tục gia đâu có cách nào kêu la lên. Tiết Đình Hao ngước đầu nhìn y, thong dong thốt: “Thí chủ hôm nay ngồi ở đây, là vì ta cố ý bộc lộ hành tung, để Phụng công công phái Quý Nhiếp Đề xuống Nam, đến khi Quý Nhiếp Đề dốc hết nhân lực vật lực mà vẫn không có cách nào đuổi bắt được bần tăng, Phụng công công không còn đường chọn lựa nào khác, chỉ còn nước cho liệp thủ số một của lão ra mặt, đi tìm bắt vật săn cho lão, quan hệ nhân quả trong việc này, thí chủ rõ rồi chứ?”. Cô Nguyệt Minh nghe vậy rùng mình, vẫn quá khó hiểu, ngạc nhiên hỏi: “Lúc ta xuất đạo, đại sư đã sớm mai danh ẩn tích, sợ bị người ta phát hiện hành tung, làm sao biết có một người như ta?”. Tiết Đình Hao điềm đạm đáp: “Phật môn tai mắt khắp thiên hạ, bần tăng không những biết có một người như thí chủ, hơn nữa còn rõ tác phong hành sự của thí chủ, trọng yếu nhất là thí chủ là người có duyên”. Cô Nguyệt Minh cau mày: “Ta một lòng đến đuổi bắt đại sư, có quan hệ gì với duyên phận có thể nói chứ?”. Tiết Đình Hao đáp: “Thí chủ không thấy lạ nơi đây toàn là chim chóc thú vật kỳ dị, lại không thấy bóng dáng thợ săn sao? Thí chủ có thể đến được cái đền này đã là một thứ duyên phận rồi”. Cô Nguyệt Minh lắc đầu: “Ta không hiểu”. Tiết Đình Hao thốt: “Vân Mộng Trạch là địa phương kỳ dị nhất mà ta từng đến, dã lang kết thành bầy thành đàn ẩn hiện, chó săn hung hãn nhất tiến vào địa vực này liền biến thành hoảng loạn hoang mang, chiến mã dậm vó hí sợ, làm cho thợ săn gần xa coi đây là vùng đất dữ có quỷ ma tác quái. Càng tiếp cận cổ thành, linh lực điều khiển Vân Mộng Trạch càng to tát, không phải là thứ sức người có thể kháng cự. Thí chủ có thể không sợ hãi không gặp nguy hiểm thoát qua Vân Mộng Trạch, đến Tương Phi Từ ngoài bìa đầm này, khẳng định là một thứ duyên phận”. Cô Nguyệt Minh thất thanh: “Cổ thành thật sự tồn tại sao?”.
o0o
Lạc Dương thành. Giờ Ngọ. Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân đang ngồi trong nhã tọa trên bình đài ngày hôm qua, sau khi ừ iệt qua loa với ông chủ tửu lâu nghe báo đến chào hỏi bọn họ, Nguyễn Tu Chân nhìn xuống con đường cái phồn hoa, cười nói: “Hy vọng hôm nay không có chuyện xảy ra, ngươi không cần phải nhảy xuống nữa”. Khâu Cửu Sư lắc đầu cười khổ: “Ta bây giờ cuối cùng đã hiểu tại sao có cái câu thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện, thật hy vọng hôm nay không có chuyện gì xảy ra”. Nguyễn Tu Chân trầm ngâm không nói gì. Khâu Cửu Sư ngạc nhiên: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”. Nguyễn Tu Chân lộ thần tình suy tư: “Suy tính theo lẽ thường, đổi lại ngươi hay ta là Ngũ Độn Đạo, thấy bọn ta hiện thân ở đây, đáng lẽ biết phải thoái lùi, trừ phi hắn thật biết độn thuật, nếu không sao còn dám nhắm vào ngọc kiếm?”. Khâu Cửu Sư không hiểu: “Nghe ngươi nói như vậy, ngươi khẳng định Ngũ Độn Đạo đang ở trong thành, nhưng có bằng cớ gì chứ?”. Nguyễn Tu Chân nhẹ nhàng đáp: “Hoàn toàn không có căn cứ, chỉ là một kiểu suy đoán. Từ tác phong của Ngũ Độn Đạo, có thể thấy hắn là một người ly kỳ, chỉ xem hắn cầm một lượng bạc cuối cùng vào đổ quán phóng tay một ván là biết hắn là người dị thường. Bằng vào thân thủ của hắn, muốn đi trộm năm trăm lượng bạc chắc là chuyện trở bàn tay, nhưng hắn khơi khơi lại bỏ dễ mà lấy khó, còn bất chấp bộc lộ thân phận. Thứ người này một khi đã định mục tiêu, tuyệt sẽ không bỏ qua”. Khâu Cửu Sư gật đầu: “Có lý”. Lúc này rượu thịt đã bưng lên bàn, đợi tiểu nhị đi khỏi, Nguyễn Tu Chân thuận miệng hỏi: “Ngươi muốn đi gặp Bách Thuần sao?”. Khâu Cửu Sư vui vẻ đáp: “Mỹ nhân với giang sơn, xem ra trong tâm tưởng ta cái sau trọng yếu hơn nhiều. Khà! Hôm nay đỡ hơn nhiều rồi, nhưng hôm qua thật không dễ gì chịu nổi, sợ nhất là thần linh ngươi nói tới căn bản đâu có hy vọng ta đi gặp nàng ta”. Nói còn chưa dứt, một cỗ xe ngựa chạy tới cửa chính Ban Trúc Lâu, hai người nhận ra người đánh xe, cũng nhận ra cỗ xe đó, nhất thời đưa mắt nhìn nhau, đều có cảm giác vạn sự không khống chế được.
o0o
Tiết Đình Hao lần đầu để lộ thần sắc trở về hồi ức, thở dài thốt: “Nếu không có cổ thành, bần tăng chắc vẫn đang lăn lộn giữa hồng trần, theo đuổi công danh phú quý. Cổ thành tuy cắt đứt hết mọi sở hữu của bần tăng, nhưng cũng khiến cho bần tăng vụt tỉnh ngộ, nhận ra trần thế chỉ bất quá là một ảo giác tập thể”. Cô Nguyệt Minh nghe vậy nổi da gà, nếu Tiết Đình Hao không phải nói láo, vậy lời nói của Phụng công công là thật rồi. Tiết Đình Hao tựa như bị khơi gợi tâm tình dĩ vãng, cúi đầu thốt: “Tương Phi Từ mà thí chủ hiện giờ đang dấn thân, còn có trước Chuyên thành tới ba năm, nhận lệnh của Sở vương thuở đó mà xây nên. Nghe truyền rằng Tương phu nhân từng khóc ròng ba ngày ba đêm ở đây, nước mắt rải rắc trên lá trúc, lưu lại dấu tích vĩnh viễn không tan biến, sau đó Tương phu nhân từ chỗ này đi lên phía bắc, đến Vô Chung Hà, lên tảng đá lớn, nhảy xuống sông tự tận, người đời sau còn nghĩ bà ta nhảy xuống sông Tương tuẫn tình, chỉ là đồn bậy thôi”. Cô Nguyệt Minh từng nghe qua thần thoại về Tương phu nhân, ngạc nhiên hỏi: “Sao đại sư biết được?”. Tiết Đình Hao đáp: “Là Mâu Xuyên kể, thí chủ biết y là ai chứ?”. Cô Nguyệt Minh gật đầu tỏ ý có biết. Tiết Đình Hao nói tiếp: “Phụng công công chắc đã nói cho thí chủ biết tình huống đại khái của ngày hôm đó, như vậy có thể bớt cho bần tăng không ít lời. Để ta tóm tắt lại, bọn ta y theo lời Mâu Xuyên, vào ngày mười bốn tháng bảy dùng Tuẫn Tình Thạch ở Vô Chung Hà làm khởi điểm, đi đường bộ thâm nhập bờ đông, tìm kiếm cổ thành, kỳ lạ là không đụng đầu một con sói nào hết, càng khó tin là cơ hồ không phí thời gian dò tìm gì hết, cổ thành đột nhiên xuất hiện trên một trái núi, mây mù quẩn quyện, như thật như ảo, phảng phất tựa ảo cảnh hải thị thần lâu”. Cô Nguyệt Minh lòng kêu má ơi, cái không hiểu nhất là Tiết Đình Hao sao lại chịu hợp tác như vầy, lẽ nào hắn thật là “kẻ bị hại”, muốn mình giải oan cho hắn. Tiết Đình Hao thốt: “Ta phụ trách giám thị Mâu Xuyên, thần tình của y biến thành cổ quái phi thường, đôi mắt bắn ra một thứ thần sắc khát vọng gần như cuồng điên, sau chuyện hồi tưởng lại, y biết được vật giấu trong Sở hạp, hơn nữa muốn chiếm cứ”. Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: “Trừ phi y thật đã biến thành người điên, hay y có bản lãnh giết chết các ngươi, nếu không y nên biết đó là chuyện không thể nào”. Tiết Đình Hao hiển nhiên đã từng suy tư về vấn đề này, trầm giọng: “Hay ví như y biết sau khi lấy được bảo vật trong hộp, có thể hoàn toàn xoay chuyển tình thế về mặt đó thì sao. Trên sự thật cái đêm đầu sau khi tiến vào Vân Mộng Trạch, y đã tiết lộ rất nhiều bí mật có liên quan đến Vân Mộng Trạch, chẳng hạn như Tương Phi Từ chỗ bọn ta đang có mặt hiện giờ, còn du thuyết sau khi bọn ta lấy được Sở hạp, trước hết cứ mở hộp xem thực hư, đề phòng vật cất bên trong không phải là vật chí bảo mà là chí độc, chỉ là bị Phu đại ca nghiêm khắc cự tuyệt, y mới vô kế khả thi”. Cô Nguyệt Minh không có lời phản bác, hỏi: “Các ngươi biết cách mở hộp sao?”. Tiết Đình Hao đáp: “Không ai nghĩ tới mở một cái hộp phải có phương pháp gì đặc biệt, quá lắm là ống khóa tinh xảo, chắc không làm khó được thợ nghề làm việc cho Hoàng thượng. Mãi cho đến khi bọn ta nhìn thấy Sở hạp, mới hiểu rõ mở Sở hạp tuyệt không dễ như mình tưởng tượng”. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Cái hộp đó ra sao?”. Tiết Đình Hao đáp: “Mấy năm đầu, mỗi đêm ta nhắm mắt là thấy nó. Nó là một cái hộp vuông mỗi cạnh khoảng một thước, rất nặng, bắt mắt nhất là bảy viên dạ minh châu khảm trên mặt hộp, giống như bắc đẩu thất tinh trên trời, đầu tiên trên mặt hộp là Thiên Xu tinh, sáu ngôi sao khác phân bố trên các mặt theo thiên tượng, thân hộp đầy chữ lờ mờ, chất liệu tựa như vàng mà không phải vàng, tựa như đồng mà không phải đồng, lại không thấy có kẽ hở, làm cho người ta muốn mở hộp cũng không biết phải bắt đầu từ đâu”. Cô Nguyệt Minh quên tuốt quan hệ đối địch với Tiết Đình Hao, hỏi: “Mâu Xuyên có nói phương pháp mở hộp không?”. Tiết Đình Hao đáp: “Phu đại ca căn bản không để y đụng tới Sở hạp, đại ca đem Sở hạp cất vào cái túi da đã chuẩn bị sẵn, đeo trên lưng. Quá trình tiến vào cổ thành và lấy được Sở hạp dễ đến mức vượt ngoài ý liệu của mọi người, sau chuyện hồi tưởng lại, thật có chỗ không hợp tình lý vô cùng, chỉ là vì quá vui mừng thành công che phủ đi mọi sự, không ai để ý”. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Có chỗ nào không hợp tình lý?”.
Bách Thuần mặc thường phục đạm nhã, áo ngắn tay áo rộng, quần tơ bó chân, trừ một cái vòng ngọc đeo trên cổ tay ra, không có mang trang sức gì khác, mặt không son phấn, lại vẫn kiều diễm sáng ngời. Nàng dáng dấp phong lưu khoé miệng hé xuân nồng, tự tự nhiên nhiên, thần thái nhàn nhã bước qua cánh cửa Nguyễn Tu Chân vừa mở, đến bên kia bàn, tươi tươi tắn tắn thốt: “Thì ra chàng là Khâu Cửu Sư”. Khâu Cửu Sư đứng dậy còn chưa kịp đáp trả, nàng lại xoay người về phía Nguyễn Tu Chân vừa về chỗ ngồi: “Nếu tôi đoán không lầm, vị này nhất định là mưu sĩ hàng đầu của Đại Hà Minh ‘Sách Sư’ Nguyễn Tu Chân Nguyễn tiên sinh”. Tiếp đó không chút khách khí ngồi bên kia bàn đối diện Khâu Cửu Sư. Khâu Cửu Sư không dám nhìn sang Nguyễn Tu Chân, vì sợ làm cho gã hoài nghi, mình tự biết mình, giây phút Bách Thuần bước ra khỏi xe ngựa, cả đất trời liền biến thành khác hẳn, ánh dương tựa như sáng hơn một chút, hiện tại đối diện nàng, càng bừng tỏa hơn nữa, hắn lại không muốn Nguyễn Tu Chân nhìn thấu hắn. Ài! Phải làm gì đây? Phòng tuyến của hắn đang lọt vào bến bờ sụp đổ nguy hiểm. Lúc này tiểu nhị hoang mang tiến vào hầu, đem thêm chén đũa cho Bách Thuần, hai người thừa cơ ngồi xuống. Nguyễn Tu Chân bưng bình trà, châm đầy chén của Bách Thuần. Sau khi tiểu nhị thoái khỏi sương phòng, Khâu Cửu Sư đằng hắng một tiếng, nói: “Đêm hôm qua...”. Bách Thuần nhẹ nhàng thốt: “Đương nhiên là có chuyện bận, đúng không? Hai nhân vật võ lâm giậm chân có thể làm chấn động Đại Giang, cùng nhau đến Lạc Dương, khẳng định không phải để du sơn ngoạn thủy, hoặc đến Hồng Diệp Lâu lãng phí thời cơ”. Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân cuối cùng đã hiểu, mỹ nữ khêu gợi này không phải đến đây để uống trà đơn giản như vậy, mà là đến tìm người. Nguyễn Tu Chân chợt phát giác dưới tình huống này, thật không đến phiên gã xen miệng, hơn nữa gã vẫn còn đang tê dại sởn gai ốc. Khâu Cửu Sư đâu muốn làm tổn thương Bách Thuần, không muốn nàng không vui, tức nhất là hắn không có cách nào nói ra nguyên nhân thật sự, nhất thời trong lòng mâu thuẫn đến cùng cực, cười khổ: “Nếu ta nói với cô nương rằng số phận khiến cho ta không có cách nào đi gặp cô nương, cô nương nghĩ thế nào?”. Nguyễn Tu Chân bàng quan thầm la hỏng bét, gã có nhận thức sâu xa về con người của Khâu Cửu Sư, vừa nhìn thấy thần tình của hắn, biết liền hắn đang ở trạng thái “không sợ”, song nhãn của hắn bắn ra tinh quang nhiếp hồn người, tình trạng như vầy, Nguyễn Tu Chân trước đây đã từng thấy qua ba lần, lúc Khâu Cửu Sư đối diện kình địch mạnh mẽ, sẽ vọt lên trạng thái đỉnh điểm, bình tĩnh chỉ huy thủ hạ tác chiến, mỗi lần đều đạt được thắng lợi huy hoàng. Giả như Khâu Cửu Sư coi Bách Thuần là “kình địch” tình trường, muốn “chinh phục” nàng, vậy bọn họ phải thua vào tay địch nhân vô hình trong cõi U minh rồi. Tình huống hiện tại Nguyễn Tu Chân gã càng không nên xen tay, gã còn ngồi ở đây đã là không biết điều lắm rồi. Bách Thuần đôi mắt đẹp sáng lên, dịu giọng: “Số phận! Thật ra là số phận cửa nào? Khâu công tử có thể nói rõ hơn một chút không?”. Nguyễn Tu Chân thầm thở dài một hơi, giơ tay vỗ vỗ vai Khâu Cửu Sư, đứng dậy đẩy cửa đi ra. Đợi cửa đóng lại, Khâu Cửu Sư thản nhiên đáp: “Khâu Cửu Sư sở dĩ có thể không sợ gì hết, phóng tay mà làm, đều là vì trong lòng hoàn toàn không có vương vấn trói buộc. Hiện tại thiên hạ vạn dân đang lọt vào dầu sôi lửa bỏng, kẻ có chí làm sao có thể tụ thủ không lý gì tới, đó là số phận đã định sẵn cho ta”. Bách Thuần nở một nụ cười như ánh dương phá tầng mây mù hiển hiện, ngời sáng chiếu rọi khắp mặt đất, dịu dàng thốt: “Thì ra là vậy, bất quá nô gia đã nghe nói chàng là người như vậy từ lâu rồi, không phải vậy mới là kỳ quái đó. Nhưng có gì phải sợ vậy? Nô gia lại không phải vừa gặp đã chung tình với chàng, không phải không gả cho chàng không được, chỉ là thấy chàng trượng nghĩa phù trợ, anh hùng quá sức, muốn kết giao với chàng, tiến một bước quen biết với chàng. Đời người phong phú nhiều vẻ mà! Nếu chỉ có một mục tiêu đơn nhất, bỏ lỡ cái khác, làm sao đúng với mình được? Hiềm kỵ của Khâu công tử đâu có tất yếu, chàng thích đến lúc nào, đi lúc nào, nô gia sẽ không nói nửa lời oán thán. Cho dù bọn ta thân thiện da thịt, nô gia chỉ coi đây là một đoạn lữ trình động hồn trong cuộc đời, sẽ không gào sống gào chết, đó tuyệt không phải là tác phong của nô gia. Khâu Cửu Sư dũng cảm vô địch đâu phải là kẻ khờ!”. Khâu Cửu Sư nghe vậy trợn tròn mắt, cơ hồ không có cách nào phản ứng. Mỹ nữ can đảm trực tiếp như vầy, hắn lần đầu đụng phải, cảm giác trước đây chưa bao giờ có trào dâng lên đầu. Tuy từ xưa đến nay hắn không để ý tới tình cảm nam nữ, nhưng hắn tuyệt không phải là quân tử điềm tĩnh ngồi yên, sức dụ hoặc của Bách Thuần đối với hắn giờ phút này đang gia tăng gấp bội. Hắn cười khà khà nói: “Vấn đề ở chỗ cô nương có lẽ là người như vừa nói, coi luyến ái nam nữ như du khách qua đường. Nhưng ta lại sợ xông vào ải tình, đặc biệt là vào lúc này ở chỗ này. Cô nương cười ta khờ cũng được, cái gì cũng được, ta bây giờ cần phải khắc chế lấy mình, xin cô nương tha thứ cho”. Bách Thuần vui vẻ thốt: “Được biết trong lòng công tử không phải không có nô gia, còn làm cho Khâu Cửu Sư đó giờ không sợ gì hết lòng sinh ý sợ, Bách Thuần có cảm giác vén gạt mây mù nhìn thấy trời xanh. Đêm hôm qua nô gia một mực chờ đợi chàng, thứ tâm tình khốn khổ đáng thương đó thật không biết có thể dốc tỏ cùng ai. Chàng muốn lo đại nghiệp nam nhi, không để ý tới tư tình nam nữ, chính là chỗ nô gia thưởng thức chàng nhất. Nhưng chàng lạ ghê! Sao có thể không nghĩ tới mặt mũi của con gái người ta như vậy, ít ra phái người đến thông tri cho tôi biết, tìm một lý do đường hoàng, để người ta hạ đài tốt đẹp. Hiện tại hại cho tôi từ chối mọi người, lại đợi không không, bị người ta chê cười”. Khâu Cửu Sư có cảm giác đấu không lại nàng. Thần tình hờn mát nũng nịu của nàng quả là động hồn tới cực điểm, mà phương thức giọng điệu ngang ngược không nói lý lẽ của nàng càng làm cho hắn cảm thấy kích thích mới lạ, sẵn sàng chịu đựng. Hắn cười khổ nói: “Mặt đó là ta không đúng, ta xin chịu lỗi với cô nương ở đây”. Bách Thuần cả người như phát sáng phát nóng, làm cho nàng càng tươi đẹp ngời ngời, đẹp đến mức không có gì bì được, mê hồn nhất là nàng tràn trề sinh khí khỏe mạnh, ngọc dung nét vẻ phong phú đa dạng, ánh mắt như có thể nói chuyện. Khâu Cửu Sư cảm thấy toàn thân nổi da gà, thầm kêu không hay, “sức đề kháng” của mình càng lúc càng bạc nhược, biết rõ bất kể sau này sự tình phát triển theo bất cứ phương hướng nào, hắn khẳng định không quên được nàng. Bách Thuần dâng một nụ cười mê hồn cho hắn: “Chịu lỗi làm sao có thể chỉ nói bằng miệng không không vậy được?”. Khâu Cửu Sư thoát miệng hỏi: “Vậy thì bằng cái gì?”. Lời nói ra khỏi miệng lập tức hối hận, nếu nàng nói đêm nay muốn hắn đến Hồng Diệp Lâu gặp nàng, hắn phải làm sao? Lại làm sao đối diện Nguyễn Tu Chân đây? Vào giờ phút đó, Ngũ Độn Đạo không còn tồn tại trong đầu óc của hắn nữa. Bách Thuần đáp như chuyện đương nhiên: “Xin lỗi đương nhiên phải phạt rượu, vậy tôi mới có thể xuống nước một bậc”. Khâu Cửu Sư thất thanh: “Uống rượu?”. Bách Thuần lộ vẻ không hiểu, nhíu chặt đôi mày, ngạc nhiên hỏi: “Uống rượu có vấn đề gì? Lẽ nào Khâu Cửu Sư tung hoành thiên hạ cũng không thể uống rượu, chưa từng rượu thấm đầu môi?”. Khâu Cửu Sư lần này thật sự á khẩu, đang không biết làm sao để ứng phó mỹ nữ phong thái say đắm hồn người, kiểu cách riêng biệt khác người này, cửa phòng chợt đẩy tung ra. Nguyễn Tu Chân xông thẳng vào, thần sắc nghiêm trọng: “Tiểu tử kia không thấy đâu nữa”. Nhất thời tâm tưởng của Khâu Cửu Sư không có cách nào kéo rời khỏi Bách Thuần, phải một hồi sau mới ngạc nhiên hỏi: “Tiểu tử nào?”. Nguyễn Tu Chân nhìn thấy Bách Thuần đang trừng trừng nhìn gã, hiển lộ nụ cười có lỗi, đáp: “Là tiểu tử bán mật rắn, có người nhìn thấy hắn sáng sớm hôm nay đội sọt tre bỏ đi qua cửa thành nam”. Khâu Cửu Sư vụt đứng dậy, như từ tiên giới rớt xuống phàm trần.
o0o
Tiết Đình Hao từ từ thốt: “Theo sử ký nhà Mâu Xuyên ghi lại, quân Sở tàn sát dân chúng trong thành để báo thù sau khi thành bị phá, lục lọi tìm kiếp Sở hạp khắp nơi mà không có thu hoạch, lại phóng hỏa đốt thành, thiêu trọn bảy ngày bảy đêm rồi mới bỏ đi”. Cô Nguyệt Minh không hiểu: “Thống soái của quân Sở sao lại làm bậy vậy, đáng lẽ nên giữ mạng sống tra khảo từng người, sao lại hỏi không được nơi hạ lạc của Sở hạp chứ. Ủa!”. Tiết Đình Hao nhìn sang phía Cô Nguyệt Minh đang lộ thần sắc kinh ngạc, gật đầu: “Thí chủ đã nghĩ đúng chỗ có vấn đề rồi. Lúc bọn ta tiến vào cổ thành, cổ thành rõ ràng có dấu tích bị lửa dữ thiêu đốt mãnh liệt, tất cả mọi phòng ốc đều cháy tới nóc, lại trải qua sự hủy hoại của năm tháng, tường thành kiên cố đã sụp lở quá nửa, nhưng dưới đáy sơn thành, bọn ta phát hiện một thông đạo, tận cuối là một cánh cửa đồng còn nguyên, trong cửa là một không gian rộng rãi sâu cỡ năm trượng, chắc đã từng đục đá dưới đáy sơn thành xây nên, bên trong có bài trí một cái giường đá”. Cô Nguyệt Minh tâm thần không biết làm sao, bị lời miêu tả của Tiết Đình Hao thu hút quá sức, chấn động hồn phách, thở dài một hơi: “Các ngươi có thể tìm được, quân Sở sao lại có thể sơ suất bỏ qua như vậy, thật là bất hợp lý”. Tiết Đình Hao thốt: “Đó là chỗ ta nói không hợp tình lý. Trong mật thất tựa lăng mộ đó, có hai bộ hài cốt, một ngồi trên giường, người kia quỳ phục bên cạnh giường đá, ôm nhau thật chặt, y phục của bọn họ đã rách nát, chạm vào là hóa thành tro bụi, nhưng hài cốt quỳ phục bên giường đá vẫn dùng hai tay bưng Sở hạp, bọn ta là lấy Sở hạp từ trên tay người đã chết ngàn năm đó”. Cô Nguyệt Minh cảm thấy toàn thân băng lãnh, thầm nghĩ có phải mình sợ không? Nhưng có gì đáng sợ chứ? Y hỏi: “Sau đó có xảy ra chuyện gì không?”. Tiết Đình Hao thần tình hoài niệm chuyện xưa, đáp: “Nghĩ lại lúc sau khi lấy được Sở hạp, tựa như có một thứ lực lượng không tránh khỏi thúc giục bọn ta đi làm như vậy. Tiền Thế Thần thả neo ba chiếc chiến thuyền ở bến tàu dựng tạm phía bờ đông Tương Thủy, chỉ cần bọn ta đem Sở hạp lên thuyền, lập tức khởi hành, sau khi đến Động Đình Hồ ra Đại Giang lên Vận Hà, chở Sở hạp về lại kinh sư, vậy là đã đại công cáo thành rồi”. Cô Nguyệt Minh không hiểu: “Sở hạp quan hệ trọng đại, trong đầm lại có sói hoang hoành hành, Tiền Thế Thần tại sao không điều binh vào đầm, bố phòng dọc đường, coi như là kế vạn toàn?”. Tiết Đình Hao đáp: “Đó vốn là ý tưởng ban đầu của bọn ta, lại bị Mâu Xuyên cực lực phản đối, y nói nếu đông người tạp nhạp, sẽ làm cho thần linh trấn thủ cổ thành phát giác. Bây giờ hồi tưởng lại, y chắc là có lòng riêng khác. Ngã Phật từ bi”. Cô Nguyệt Minh biết hắn đang nói đến chỗ then chốt nhất, không hỏi nữa, để hắn nói tiếp. Tiết Đình Hao thốt: “Sở hạp vào tay, Phu đại ca ra lệnh cho ta lập tức đi thông tri cho Tiền Thế Thần ở bờ đông Tương Thủy biết, kêu y dẫn binh vào đầm tiếp ứng. Ta lập tức rời khỏi cổ thành, lúc đó là sau Ngọ, đầm lầy bị sương mù bao bọc, không biết sao ta không ngờ lại lạc đường, đi kiểu nào cũng không có cách tới được Tương Thủy, la bàn của ta như bị hư, không ngừng xoay chuyển, làm cho ta không có cách nào định hướng, đến khi ta bỗng đụng phải một bầy dã lang, ta không đè nén được cơn sợ hãi trong lòng, quay đầu về cổ thành, nào hay... nào hay làm sao cũng tìm không ra, ta còn nghĩ mình đi sai đường, tìm kiếm tứ xứ, cái tìm được lại là thi thể của bọn họ, bao gồm cả Mâu Xuyên, chỉ không thấy Phu đại ca”. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Bọn họ có phải đã trúng kịch độc không?”. Tiết Đình Hao gật đầu: “Ai ai cũng thất khiếu rỉ máu, quả là tình huống đã trúng kịch độc. Lúc đó ta tâm thần tán loạn, một mặt ta khẳng định Phu đại ca không phải là hạng người đó, mặt khác lại cảm thấy chỉ có Phu đại ca mới có khả năng hạ độc với bọn họ, đại ca sai ta đi trước là vì niệm chút thân tình. Ài! Đầu óc ta không có cách nào suy nghĩ như thường, chỉ biết ở lại chỉ có một con đường chết, Hoàng thượng chịu tha thứ cho ta, Phụng công công cũng không chịu tha thứ”. Cô Nguyệt Minh vụt tỉnh ngộ: “Cho nên đại sư chạy về kinh sư, tìm lệnh tỷ và con gái của bà, vong mệnh thiên nhai, trốn tránh sự truy đuổi của Phụng công công”. Tiết Đình Hao thốt: “Đại khái là vậy, sau khi an bài cho hai mẹ con bọn họ xong, bần tăng quay trở lại Vân Mộng Trạch, y theo lộ tuyến năm xưa tìm kiếm cổ thành, lại không có cách nào tìm được nữa”. Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: “Đại sư không sợ bầy sói sao?”. Tiết Đình Hao trầm giọng: “Thần linh của Vân Mộng Trạch pháp lực vô biên, không những trấn thủ cổ thành, còn ngầm ngầm thao túng bầy sói, khiến người ta phải ngưng bước”. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Đại sư tin rằng Sở hạp đã lọt vào tay Phu Mãnh?”. Tiết Đình Hao điềm đạm thốt: “Thí chủ có tin không?”. Cô Nguyệt Minh lắc đầu: “Theo lời nói của đại sư, Phu Mãnh căn bản không có cách nào mở được Sở hạp, không biết bên trong giấu vật gì, không ai vì vật không biết mà mạo hiểm hủy gia diệt tộc”. Tiết Đình Hao đồng ý: “Phu đại ca quả không phải là hạng người đó, đại ca không những có nhân cách cao thượng, còn có hùng tâm tráng chí chấn hưng quốc gia, dẹp trừ phản loạn, bị Phụng công công coi là cái gai trong mắt. Nhưng Sở hạp hiển nhiên không lọt vào tay Phụng công công, khiến cho ý tưởng ta nghĩ Phụng công công bày bố tỉ mỉ để trừ khử cái gai trong mắt cũng phải lung lay”. Cô Nguyệt Minh nói: “Kẻ đoạt Sở hạp khẳng định là người khác, không liên quan gì tới Phụng công công, đây là độc kế đoạt bảo giá họa, chỉ cần Phu Mãnh thất tung, có thể đẩy hết lên mình Phu Mãnh, để ai ai cũng nghĩ Phu Mãnh ôm bảo vật trốn chạy”. Tiết Đình Hao thân người gầy gò giật nảy lên, đôi mắt bắn ra kỳ quang, chợt lại giơ tay áo che mặt, sau đó thốt: “Có lý! Người đó là ai? Phu đại ca là người cẩn thận vô cùng, mỗi lần ăn cái gì cũng đều dùng ngân châm dò thử, muốn giở mòi với đại ca đâu phải dễ”. Cô Nguyệt Minh nghĩ đến chuyện mình hai lượt bị tập kích, trầm ngâm thốt: “Chuyện này Tiền Thế Thần chắc không thoát khỏi quan hệ”. Tiết Đình Hao lộ thần sắc trầm tư. Cô Nguyệt Minh thốt: “Đại sư tại sao chịu đem hết chuyện này thẳng thắn kể ra, nói cho cùng ta cũng là người Phụng công công phái đến mà?”. Tiết Đình Hao bày tỏ thần thái vui vẻ thư thả đến xuất thần, như trên thế gian không còn chuyện gì có thể ngăn trở hắn thanh tu nữa, thản nhiên đáp: “Mất là do Vân Mộng Trạch, được cũng do Vân Mộng Trạch, nói ra thì dài dòng, xin cho phép bần tăng tóm lược. Bần tăng đem chuyện này nói hết cho thí chủ biết là hy vọng thí chủ có thể tìm được Sở hạp, khôi phục lại danh dự cho đại ca, như vậy bần tăng có thể an tâm buông tay về trời, trong lòng không còn chướng ngại gì nữa”. Cô Nguyệt Minh ngây người: “Đại sư muốn...”. Tiết Đình Hao hai má đỏ phừng phừng: “Trong Vân Mộng Trạch có cây mạn đà la. Hoa mạn đà la bình thường, lá lớn hoa trắng, kết trái như quả cà, đặc biệt hoa mạn đà la trong đầm trong trắng lại tỏ sắc tím, chứa đựng kịch độc kiến huyết phong hầu, vừa nãy ta đã ăn một đóa”. Cô Nguyệt Minh nhớ tới hồi nãy hắn giơ tay áo che mặt, thở dài hỏi: “Đại sư sao lại phải làm vậy?”. Tiết Đình Hao thần sắc bình tĩnh: “Lúc ta cố ý bộc lộ hành tung, đã sớm quyết ý liều mình, nguyên nhân bên trong thí chủ không cần tra cứu. Thí chủ nếu có thể để ta an nghỉ ở đây, bần tăng đã cảm kích phi thường rồi”. Nói xong câu cuối, đầu hắn bất lực gục xuống, lại vẫn giữ tư thế ngồi khoanh gối.
o0o
Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân giục ngựa theo cửa nam ra khỏi thành, lần theo quan đạo phi nhanh được nửa dặm, có thủ hạ xuất hiện bên đường, thu cương ghìm ngựa, nhìn theo hướng thủ hạ chỉ, quẹo trái tiến vào một khu rừng thưa, đến chỗ ba thủ hạ khác đang tụ tập, cái sọt tre đựng rắn của tiểu tử bán mật rắn kia không ngờ quăng trên cỏ, nắp sọt mở toang, biến thành một cái sọt không. Nguyễn Tu Chân nhún bàn đạp xuống ngựa, đi vòng quanh cái sọt tre một vòng, sau đó trầm giọng: “Các ngươi thoái ra đi”. Thủ hạ nghe lệnh quay lại quan đạo. Khâu Cửu Sư vẫn ngồi trên ngựa, đôi mắt thần quang loang loáng, bình tĩnh chăm chăm nhìn cái sọt không. Nguyễn Tu Chân hỏi: “Ngươi thấy sao?”. Khâu Cửu Sư song thủ khoanh trước ngực, đáp: “Chiếu theo tình hình bề ngoài, tiểu tử kia quăng bỏ sọt tre ở đây, phóng sinh cho mấy con rắn trong sọt, sau đó lẻn đi. Nhưng ta thật không hiểu, nếu tiểu tử đó vì sợ bọn ta mà bỏ chạy, tại sao không lập tức rời khỏi thành sau khi bán mật rắn cho bọn ta hôm qua, lại phải đợi cả nửa ngày một đêm rồi mới đi”. Nguyễn Tu Chân lại đi vòng quanh cái sọt tre thêm một vòng, nghĩ ngợi: “Tiểu tử đó có cần phải đi không?”. Khâu Cửu Sư thốt: “Đây là chỗ thứ nhì ta nghĩ không ra, hắn chắc biết bọn ta không nghi ngờ hắn chút nào, nói cách khác hành động che giấu thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn đã hoàn toàn thành công, đáng lẽ nên lợi dụng thân phận đó, tiến hành đại kế trộm bảo vật của hắn, sao khơi khơi lại bỏ đi vào lúc không nên đi, thật ra là chuyện gì đây?”. Nguyễn Tu Chân mỉm cười: “Nếu không phải bọn ta muốn mua thêm mật rắn, cho dù tiểu tử đó có trốn đi, sợ rằng nhất thời hỏi bọn ta cũng không để ý. Hiện tại lại như trong cõi U minh đã có an bài, khiến bọn ta biết được hắn rời khỏi thành mà đi, nếu ta đoán không sai, lực lượng vô hình kia quả là địch chứ không phải là bạn, chính đang ngấm ngầm trợ giúp tiểu tử đó”. Khâu Cửu Sư trầm giọng: “Tiểu tử đó thật đã lẻn đi sao?”. Nguyễn Tu Chân chợt ngửa mặt cười khà khà, tâm trạng cực kỳ hân hoan, sau đó lắc đầu thở dài: “Ngũ Độn Đạo ơi! Ngươi tuy ngon lành lắm, nhưng cuối cùng đã để cho ta khám phá được độn thuật của ngươi”. Khâu Cửu Sư không hiểu gì hết: “Độn thuật của hắn? Hắn có độn thuật gì?”. Nguyễn Tu Chân nghiêm mặt: “Bộ dạng của hắn có thể là giả, vết sẹo bị rắn cắn nơi cổ tay của hắn cũng có thể là giả, hơi hám của rắn và của thuốc rắn ai ai cũng có thể làm được, nhưng thủ pháp hắn bắt rắn và giết rắn cắt mật lại giả không được, về phương diện này hắn quả có nghề, hiển nhiên hắn đã từng có lúc hành nghề này”. Khâu Cửu Sư thở dài: “Quả là như vậy, nếu không bọn ta sao lại có thể bị hắn lừa được”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Mãi cho đến giờ, bất kể trước hay sau khi trộm bảo vật, không ai có thể khám phá thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn, hắn đương nhiên không phải hiểu biết dị thuật ngũ độn, lại có một thứ độn pháp khác, là giả gì đi nữa cũng không lộ ra bất kỳ một sơ hở nào, bởi hắn quả đã từng trong một khoảng thời gian về trước hành mấy nghề đó, ví như bán mật rắn, hay là y sư, thợ rèn, thợ may, thầy bói, thậm chí bất cứ một nghề nghiệp nào, hắn căn bản không cần phải giả, chỉ cần trở lại làm nghề đó là được, đó là độn thuật mà hắn dựa dẫm để tung hoành thiên hạ. Cho nên nếu hắn thật đã lẻn đi chỗ khác, cơ hội bọn ta có thể tìm được hắn cực nhỏ”. Khâu Cửu Sư nói: “Hắn chắc đã lẻn về thành”. Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: “Chính là như vậy. Trong nửa ngày một đêm hôm qua, hắn tìm được một thân phận càng có lợi cho hành động của hắn, cho nên quyết định bỏ bán mật rắn, đổi qua thân phận mới mà hành sự, còn cố ý quăng sọt tre không xa ngoài thành, bày bố trận nghi binh, ta dám khẳng định hắn vẫn còn trong thành”. Khâu Cửu Sư đôi mắt hổ sáng lên, hằn học nói: “Bất kể hắn giả làm người nào, chỉ cần ta gặp lại hắn, có thể nhận ra hắn liền”. Nguyễn Tu Chân điềm đạm thốt: “Đừng coi thường bản lãnh giả trang của hắn, về phương diện đó hắn là người có tài. Hiện tại bọn ta lại quay về vấn đề cũ, tại sao hắn biết rõ bọn ta biết mục tiêu trộm bảo vật của hắn mà vẫn chui đầu vào lưới? Hắn chắc rõ bọn ta sẽ thông tri cho Tiền Thế Thần biết, chỉ cần Tiền Thế Thần đề cao cảnh giác, hắn không thể nào trổ nghề, ở lại Lạc Dương còn có ý nghĩa gì chứ?”. Khâu Cửu Sư nhíu mày: “Lẽ nào bọn ta đã đoán sai đối tượng hắn muốn hạ thủ?”. Nguyễn Tu Chân thừa nhận: “Khả năng đó cực lớn”. Khâu Cửu Sư nói: “Bọn ta có phải nên tương kế tựu kế, giả như rời khỏi thành truy lùng hắn, làm cho hắn không phòng bị nữa?”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Hắn làm sao biết được bọn ta đã bỏ đi?”. Khâu Cửu Sư gật đầu đồng ý. Ngũ Độn Đạo chỉ có một mình, đã không có cách nào nắm bắt được mọi tình huống trong thành, càng không có cách nào để ý tới chuyện ngoài thành. Đang lúc khẩn trương thảo mộc giai binh như vầy, hắn đâu dám hoạt động trên đường tai mắt đủ mọi nơi, cho nên bất kể bọn họ có hành động gì, Ngũ Độn Đạo không thể nào biết được. Nguyễn Tu Chân thốt: “Đây là đấu pháp chưa từng có tiền lệ, Ngũ Độn Đạo không phải là hạng tầm thường, tài trí không kém bọn ta, cho nên cần phải bỏ hết thủ pháp quen dùng, đổi sang chọn thủ đoạn có tính ứng phó, mới có thể có hiệu quả”. Khâu Cửu Sư hỏi: “Bọn ta bây giờ nên làm gì?”. Nguyễn Tu Chân bộ dạng như đang hưởng thụ, thở dài một hơi: “Trò chơi bắt trộm càng lúc càng lý thú, thân phận mới nào có thể làm cho Ngũ Độn Đạo bỏ thân phận bán mật rắn, khẳng định phải càng có lợi cho hành động của hắn”. Khâu Cửu Sư hỏi: “Thân phận mới của hắn có phải sẽ giúp cho hắn có thể trà trộn vào Bố chính sứ ti phủ chứ?”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Ý tưởng của Cửu Sư hợp tình hợp lý nhất, chỉ có trà trộn vào chỗ nào đó không cần bước ra ngoài cửa nửa bước, mới có thể tránh khỏi tai mắt của bọn ta. Nếu hắn một dạ muốn lấy ngọc kiếm, vậy bọn ta chỉ cần đi gặp Tiền Thế Thần, để gã điều tra xem từ sáng sớm hôm nay cho đến bây giờ Bố chính sứ ti phủ của gã có người ngoài nào mới đến không, Ngũ Độn Đạo sẽ không còn chỗ lẩn mình. Nhưng nếu không có một người như vậy, đối tượng hạ thủ của Ngũ Độn Đạo liền không còn là Tiền Thế Thần nữa, mà là một người khác”. Khâu Cửu Sư tinh thần phấn chấn: “Ta lập tức đi tìm Tiền Thế Thần, nếu vẫn tìm không ra Ngũ Độn Đạo, thông qua Tiền Thế Thần đi tra dò tất cả các nhà phú hộ Lạc Dương có tư cách trở thành mục tiêu của Ngũ Độn Đạo, chuyến này ta thấy hắn có mọc cánh cũng khó mà bay thoát”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Có những chuyện ta còn phải dụng tâm suy tưởng, hiện tại bọn ta chia nhau hành sự, ngươi đi gặp Tiền Thế Thần, ta đi bái kiến bang hội địa phương, lợi dụng thời cơ Ngũ Độn Đạo trốn vào phủ trạch nào đó, bố trí một màn thiên la địa võng bao trùm toàn thành, chỉ cần bất kỳ một người ngoài nào thể hình gần sát Ngũ Độn Đạo, bảo đảm không tránh khỏi tai mắt của bọn ta”. Khâu Cửu Sư phấn khởi: “Ta còn muốn thỉnh Tiền Thế Thần tăng cường phòng vệ thành trì, tra xét kẻ lạ mặt như Ngũ Độn Đạo vào ra, xua rùa vào rọ, chuyến này xem xem Ngũ Độn Đạo có thể thoát khỏi nơi đây không?”.
Ô Tử Hư kéo vòng cửa, gõ vang cửa lớn Hồng Diệp Lâu. Lúc này hắn lắc mình biến hóa thành một bạch y văn sĩ, lưng đeo bao bự, dán râu dài năm chòm, không khom lưng gập hông nữa, da dẻ hồi phục một màu trắng nõn, vết thẹo trên mình biến mất không còn thấy nữa, đầu cột khăn vải, diện mạo hoàn toàn khác hẳn so với giả làm người bắt rắn, tư văn tiêu sái, phong độ bóng bẩy, phong lưu văn nhã khôn tả. Nhìn bề ngoài niên kỷ của hắn so với tuổi đời thật của hắn phải lớn hơn ít nhất cũng mười tuổi, chỉ một biến hóa đó đã khiến cho người ta không có cách nào đem hắn liên tưởng thành một với bộ dạng lúc bán mật rắn. Về thuật dịch dung, hắn dám nhận đệ nhị thì không có ai dám nhận đệ nhất. Quan trọng nhất là sự sửa đổi khí chất, thể thái, thần tình và giọng nói, nói cho cùng là cần biến thành một người hoàn toàn khác biệt. Đợi một hồi, cửa lớn “kẹt” một tiếng, lộ ra một cái cửa song nhỏ, một hán tử thò đầu nhìn qua song, nhìn lên nhìn xuống hắn hai lượt, bực bội hỏi: “Ngươi không nhìn thấy cửa đóng sao? Bây giờ là giờ gì, muốn quang cố thì đợi đến sập tối hãy đến”. Ô Tử Hư phát ra tiếng “chặc chặc” lạ lẫm, cười lạnh thốt: “Nói vậy mà nói được sao? ‘Họa Tiên’ Lang Canh ta từ kinh sư sang quý hạ mình đến cái phủ quận bé xíu của ngươi, mấy tên canh cửa các ngươi căn bản không đủ tư cách nghênh tiếp ta, mau kêu ông chủ của ngươi ra, bảo đảm lão phải lễ độ nghênh đón”. Đại hán giữ cửa không nghĩ gì hết, phá miệng mắng lớn: “Họa Tiên con mẹ ngươi, ta thấy ngươi không khác gì Họa Khất thì có, còn dám chọc giận lão tử nữa à”. Ô Tử Hư thấy hù gã không được, liền cải biến sách lược, ôm quyền thi lễ: “Thất kính thất kính! Thì ra vị đại ca này là người tính tình ngay thẳng, ta kính trọng nhất là hán tử trực tính như đại ca. Làm phiền đại ca thông truyền một tiếng, nói đệ nhất diệu bút ở kinh sư Lang Canh đã đến, bảo đảm ông chủ của ngươi sẽ không thất vọng”. Tiếp đó hạ thấp giọng: “Sau khi ta kiếm được ngân lượng, sẽ tặng vài chục lượng cho đại ca ngươi sử dụng, nếu bị ông chủ của ngươi đá ra, đương nhiên không liên quan gì tới đại ca ngươi, đây là mối kiếm tiền chắc chắn, tôn ý của đại ca thế nào?”. Đại hán giữ cửa chưa từng thấy ai trước xấc xược sau cung kính, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo như vậy, mau mắn đổi mặt đến mức cả gã là kẻ đã quen lăn lộn ở thanh lâu cũng phải thẹn mình không bằng, thừ người ra, nhất thời không biết nên dùng thái độ gì để đối đãi hắn. Ô Tử Hư thấy gã động lòng, đến gần một chút: “Vốn ta cùng không có hứng thú đến ứng thí làm họa sư, chỉ vì nhìn thấy mấy tên vô dụng hết kẻ này tới kẻ khác bị đá ra, làm mất hết mặt mũi nghề nghiệp của bọn ta, vì để trùng chấn uy danh hành nghề của bọn ta, khiến cho quý lâu không còn ngộ nhận nghiệp vụ của bọn ta không có kẻ có năng lực, cho nên đến gõ cửa. Ài! Để chứng minh thành ý của ta và sự tôn kính đối với đại ca ngươi, trước hết xin dâng hai lượng bạc, thỉnh đại ca tiếp nhận cho”. Vừa nói, tay phải vừa rút ngân lượng trong mình ra, đưa qua cái song nhỏ. Đại hán giữ cửa cũng không nghĩ ngợi gì, tiếp nhận liền. Ô Tử Hư lòng nhẹ nhõm, hắn đến ứng thí vào thời điểm không thích hợp như vầy là vì càng trốn mau vào Hồng Diệp Lâu thì càng an toàn, hắn rõ tâm trạng của người trong thanh lâu nhất, chỉ có tiền mới đả động được bọn họ. Đại hán giữ cửa lập tức vụt đổi thái độ: “Đừng trách ta không cảnh cáo ngươi trước, ngươi qua được cửa ải ông chủ vẫn vị tất đã qua được cửa ải Bách Thuần tiểu thư, tuyệt không thể nói cho bất cứ một ai biết ta đã thu hai lượng bạc của ngươi đó”. Tiếp đó đóng sập cái song nhỏ lại. Ô Tử Hư lòng ngầm đắc ý, đây là hậu quả tất nhiên, thông truyền một tiếng mà bỏ túi được hai lượng bạc, không ai có thể cự tuyệt. Còn nghĩ phải đợi một hồi, nào hay “kẹt” một tiếng, cửa lớn hé ra chút ít, đại hán giữ cửa thò đầu ra, nhìn lên nhìn xuống gã vài lượt, khẽ quát: “Tiến vào đi!”. Ô Tử Hư mừng khấp khởi, vội luồn vào trong.
o0o
Quý Nhiếp Đề một ngựa đi trước, dẫn thủ hạ toàn tốc phi nhanh. Bọn họ đã đổi ngựa hai lần, từ đây đến Vân Mộng Trạch, y đã thiết trí dịch trạm lâm thời cho quan viên, nhằm chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể dùng phương pháp nhanh nhất để đến Vân Mộng Trạch. Y dám khẳng định Tiết Đình Hao chạy không thoát thiên la địa võng của y, nhưng y lại không có tới một chút xíu cảm giác hưng phấn, tiếp nhận nhiệm vụ lần này, y từng tranh luận kịch liệt với Phụng công công, cuối cùng đương nhiên không gàn hơn Phụng công công được. Nhưng mãi cho đến giờ phút này, Quý Nhiếp Đề vẫn nghĩ mình đúng, Phụng công công chẳng phân nặng nhẹ. So với Đại Hà Minh, Sở hạp chỉ là chuyện nhỏ không cần phải nói tới. Hiện tại uy hiếp lớn nhất đối với triều đình là Đại Hà Minh. Đem nhân lực vật lực lãng phí tìm kiếm Sở hạp, là bỏ gốc mà đuổi theo ngọn. Bất kể bên trong Sở hạp giấu vật gì, chỉ là vật ngoài thân, mà bảo vật gì đi nữa cuối cũng cũng không đáng một xu, bởi nếu bị Đại Hà Minh thành công lật đổ triều đại, y và Phụng công công đều phải chết không đất chôn thân, bảo vật đối với người chết có hữu dụng gì nữa chứ? Trừ làm vật chôn chung ra. Quý Nhiếp Đề căn bản không tin chuyện cổ thành. Nhưng y cũng không có cách nào tìm một giải thích hợp lý cho chuyện xảy ra năm xưa. Y là lần thứ ba đến Vân Mộng Trạch. Sau hơn một canh giờ, bọn họ sẽ đến bến đò Tương Quân Độ của Tương Thủy, rồi dùng bè gỗ qua sông. Y thật hy vọng có thể bắt sống Tiết Đình Hao, từ miệng của hắn tra ra chuyện xảy ra năm xưa, y rất muốn biết chân tướng, bởi y biết rõ Phu Mãnh tuyệt không phải là hạng người như Phụng công công nghĩ. Y và Phu Mãnh từng là bằng hữu tốt nhất.
o0o
Diễm Nương dựa ngã mình trên ghế, hưởng thụ khoảng thời gian thỏa dạ nhất hàng ngày. Lúc này ả vừa tỉnh ngủ, tinh thần sung mãn, sau khi rửa ráy là đến Quý Tân sảnh của Hồng Diệp Lâu, tiếp kiến các nhân viên chấp sự trong thanh lâu, nghe kể tình huống trong ngày, phân phát chỉ lệnh, để mọi sự có thể tiến hành thuận lợi sau khi mở cửa. Hai tên bộc phó cường tráng đang xoa bóp cho ả, máu huyết lưu thông. Cũng chỉ có vào giờ này, ả cảm thấy mọi sự nắm chắc trong lòng bàn tay của mình. Lúc Đàm Đức giữ cửa tiến vào nói cho ả biết lại có họa sư đến, phản ứng ban đầu của ả là muốn kêu Đàm Đức đuổi hắn đi, đến khi Đàm Đức nói họa sư kia tựa như khác mấy tên trước đây, là danh sư từ kinh sư đến, ả cuối cùng miễn cưỡng đáp ứng chịu gặp hắn. Toàn bộ kế hoạch là do Bách Thuần nghĩ ra, là dạm mời họa sư cao minh chọn tám vị cô nương đỏ nhất để vẽ chân dung, đến lúc Hồng Diệp Lâu mở điển tiệc ăn mừng mười năm ngày thành lập sẽ treo hai bên Hồng Diệp đường, để cho khách nhân viết đôi dòng thi phú bên bức họa. Theo ý nghĩ của Bách Thuần, chỉ cần có một bài thơ trong số truyền tụng bốn phương, có thể nâng Hồng Diệp Lâu lên địa vị tầm cỡ Lạc Dương Lâu, như Lạc Dương Lâu trong “Lạc Dương Lâu ký”. Chỉ tiếc không có họa sư nào qua được cái ải Chu Bàn Tử, nói gì đến Bách Thuần yêu cầu còn cao hơn nữa. Hiện tại khoảng thời gian đến khánh điển còn chưa đến mười ngày, toàn sự vụ đâu thể nào trì trệ được, nếu quả họa sư này lại không ra gì, chỉ còn nước bỏ hết kế hoạch. Đàm Đức dẫn họa sư tiến vào sảnh đường, Diễm Nương vừa liếc thấy, lập tức thầm chửi. Phương pháp ả nhìn nam nhân rất giản đơn, chỉ chia làm bốn loại người, có tiền hay không có tiền, đẹp trai hay không đẹp trai. Mà căn cứ theo kinh nghiệm phong phú tích lũy bao lâu nay của ả, sự phân loại của ả không sai vào đâu được. Bất kể là loại người nào, cuối cùng cũng có căn tính xấu, cho dù y bề ngoài đạo mạo cao cả tới cỡ nào, hay bộ dạng như một sắc quỷ, không có căn tính xấu thì đâu có đến thanh lâu ăn xài ngả ngớn. Họa sư trước mắt có thể quy vào loại dễ nhìn, lại khẳng định là nghèo khố rách áo ôm, cho nên mới ngàn dặm xa xôi từ kinh sư đến đây. Ả không nhịn được mắng thầm, là vì khám phá tên tiểu tử này là một con quỷ hiếu sắc, hơn nữa là tay già dặn trăng hoa, giây phút đôi mắt láo liên ve vãn kia vừa nhìn thấy ả, liền tuần sát trên dưới, trước hết căng mắt nhìn đùi và hông ả, cuối cùng mới nhìn lên mặt ả. Diễm Nương cố ý giả như không nhìn thấy hắn, vẫn gục mặt xem tờ danh sách rượu thịt đồ ăn trên tay. Họa sư cúi mình thi lễ, cung kính thốt: “Kinh thành ‘Họa Tiên’ Lang Canh, đặc biệt đến thỉnh an chào hỏi đại quản gia”. Diễm Nương thầm nghĩ động tác của tên tiểu tử này khá là tiêu sái dễ nhìn, giọng nói lại rất êm tai, đáng tiếc vẫn chỉ là một họa sư nghèo hèn tự cho mình là phong lưu, vẫn không thèm nhìn hắn, cau mày: “Họa Tiên Họa Thánh gì, là ngươi tự thếp vàng trên mặt mình hay là người ta dâng tặng cho ngươi đó?”. Lang Canh không chút hổ thẹn, chằm chặp mê mẩn nhìn bộ ngực đầy đặn của ả: “Tôi là Họa Tiên hay là cây cọc bôi sáp bạc, đại quản gia thử là biết liền, bảo đảm, hàng thiệt giá thiệt, già trẻ gì cũng không chê”. Diễm Nương xém chút đã không nhịn được cười phá lên, miễn cưỡng nghiêm mặt, mắng: “Mặc ngươi là hàng gì, sao dám đùa cợt với lão nương, bộ muốn ta quét ngươi ra sao?”. Lang Canh hoang mang: “Đại quản gia đừng giận. Tại hạ đâu dám có lỗi với nữ nhân xinh đẹp, xin đại quản gia tha thứ”. Lại nhe hai hàm răng đều đặn trắng như tuyết, nụ cười sáng lạn thốt: “Bất quá đại quản gia có thể yên tâm, con người của tại hạ công tư phân minh nhất, công tác là công tác, hiểu nhất là giữ quy củ. Tại hạ chuyến này đến xin làm họa sư là vì muốn đem lại niềm tự hào cho kẻ dùng hội họa để sinh sống bọn tôi, không để bị người ta coi là hạng lường gạt”. Diễm Nương bực bội: “Ba tháng nay ta đã gặp không ít hơn ba chục tên cùng nghề với ngươi, có một tên khoe khoang mình là thiên hạ vô địch, vẽ lại toàn là thứ không vào đâu đáng xấu hổ. Ngươi bớt lải nhải trước mặt ta đi”. Trên sự thật ả đã tăng chút hảo cảm đối với tên họa sư háo sắc này, hắn lộn vòng luồn cúi khen mình đẹp, nịnh bợ rất đúng chỗ. Lang Canh không những không để ý sự châm chọc của ả, còn tựa như chịu thụ giáo quá sức, mặt dày thốt: “Tài vẽ của tại hạ ra sao, không có cách nào gạt được đại quản gia, chỉ cần đại quản gia kêu người đem đến giấy bút thủy mặc, để tại hạ phẩy bút vẽ một tấm mỹ nữ nằm cho đại quản gia, đại quản gia biết liền tại hạ tài tình tới cỡ nào”. Diễm Nương cuối cùng đã nhìn hắn, trừng mắt nói: “Đừng bày trò quái quỷ nữa. Cái ông chủ yêu cầu là vẽ hình mỹ nhân màu mè, không có nhan liệu làm sao vẽ được? Ngươi không phải đến đây lộn xộn đó chứ?”. Lang Canh chắp hai tay sau lưng, nghiêm nghị thốt: “Chỉ cần ông chủ lớn của quý lâu thông hiểu nghề họa, có thể nhận ra công phu của tại hạ từ tranh họa thủy mặc!”. Diễm Nương thấy bị hắn lẩn quẩn tốn không ít thời gian, không còn hứng thú lắng nghe nữa, ngắt lời hắn: “Ngươi cút ra ngoài cửa đợi ta phát lạc”.
o0o
Vô Song Nữ dắt Hắc Nhi theo, cước bộ nặng nề rời khỏi Ban Trúc Lâm, thi thể của cữu cữu đặt trên lưng ngựa đã được nàng dùng áo ngoài bao lại. Dưới những tia sáng còn rơi rớt lại của ánh mặt trời đang lặn mình, nàng bước trên con đường dịch đạo xuyên qua cánh rừng cổ thụ đến vùng đầm lầy, lòng bần thần trống trải. Nàng ôm hy vọng đến đây, bây giờ tất cả mọi hy vọng đều đã hóa thành bọt nước, trước đây nàng một mực tin tưởng có thể khám phá sự tình, hiểu rõ chân tướng, đến giờ phút này mới biết đó chỉ là ý tưởng mong mỏi một chiều. Nàng từng dự tưởng vô số khả năng, lại chưa từng nghĩ tới sau khi đến chỗ muốn đến lại tìm thấy cữu cữu bị người ta hạ độc hại chết. Cha đã rủi nhiều may ít, người có thể là thân nhân duy nhất còn lại của nàng lại đã bỏ nàng ra đi, trời cao tại sao lại vô tình với mình như vậy? Kiếp trước mình có phải đã thắt kết oan nghiệt không giải khai được, đến đời này cần phải chịu đựng một mình? Từ khi cữu cữu đem phó thác nàng cho An Giới, nàng ngày đêm nỗ lực học tập thao luyện, từ công phu nhào lộn, kỹ xảo dùng miệng, trò đu nhảy, xoay mình như chong chóng, múa kiếm, đi trên xà, đi trên dây, leo thang, nhún đàn hồi, diễn kịch, cho đến ảo thuật khói lửa và ảo thuật đèn đuốc, thành tựu trên mỗi một món đều khiến cho một An Giới xưng là “vua kịch xiếc” cũng phải trố mắt không theo kịp, thiên phú của nàng về mặt đó đâu còn phải ngờ vực. Chỉ tức mọi nỗ lực đều vì chuyện cữu cữu bị hại mà có cảm giác buồn xót lãng phí hết tâm cơ, trôi theo dòng nước. Chuyện duy nhất nàng có thể làm hiện giờ là giết chết hung đồ đã hạ độc hại cữu cữu, khẳng định là tên ưng khuyển của triều đình đã một mực từ Đại Giang truy tung mình đến Vân Mộng Trạch, bởi nàng phát hiện ra dấu chân của y ngoài Tương Phi Từ, bất kể y trốn đến chân trời góc biển nào, nàng phải bắt y lấy mạng đền món nợ máu này. Vô Song Nữ vụt dừng lại, đôi mắt sáng loang loáng, trừng trừng nhìn về đằng trước. Một đại hán khôi ngô niên kỷ trên dưới bốn chục, lưng đeo trường kiếm, thân vận y phục vải gai, đi chân không, tướng mạo giản dị đứng chặn phía trước, sự xuất hiện của hắn đột ngột vô cùng, vừa hoa mắt một cái, đã bị hắn chặn đường. Con người này thân thể tràn đầy một thứ hơi hám yêu tà, thâm trầm lãnh tĩnh đến mức tựa như không có tình cảm con người, mục quang băng lãnh, bất kỳ một ai bị hắn chăm chú nhìn cũng phải phát lãnh rùng mình. Vô Song Nữ lạnh lùng thốt: “Cút sang một bên! Nếu không đừng trách ta không khách khí”. Kẻ chặn đường chính là Qua Mặc, hắn là đại hành gia truy tung, đi theo dấu chân của Cô Nguyệt Minh, nàng và Hắc Nhi đuổi thẳng đến đây, thầm nghĩ nếu tử thi trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, vậy thì quá là lý tưởng. Nghe tiếng tâm tình cực kỳ khoái trá đáp: “Chỉ cần cô nương cho ta xem người nằm trên lưng ngựa là ai, bản nhân quay đầu đi liền, tuyệt không làm khó dễ”. Vô Song Nữ một tay tựa như muốn chỉnh sửa mái tóc đẹp, hơi lướt qua tóc mai, khẽ quát: “Ta nói cút sang một bên”. Qua Mặc lộ nụ cười âm hàn. Vô Song Nữ vụt phất tay tới trước, ánh sáng nhoáng lên, nhắm ngay mặt Qua Mặc bắn tới. Qua Mặc đứng bất động, tay dời lên trên, kẹp tia sáng giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi kéo đến trước mũi nhìn kỹ, không ngờ là một thiết châm đen bóng, vốn cắm bên đầu tóc của Vô Song Nữ, sẵn sàng cho nàng dùng làm ám khí. Thủ pháp phóng châm của Vô Song Nữ hung mãnh khôn cùng, nhưng thủ pháp Qua Mặc chộp lấy ám khí càng thần kỳ làm sao, thật khiến người ta khó tin. Vô Song Nữ hơi biến sắc, chỉ một chiêu của Qua Mặc đã đủ cho nàng tự than không bì nổi, đương nhiên nàng đâu có sợ, đọ võ tranh thắng, đến cuối cùng hươu chết về tay ai còn phải xem tận tường. Qua Mặc quăng châm lên trên đầu, hỏi: “Cô Nguyệt Minh đâu?”. Vô Song Nữ trầm giọng: “Ta không biết ngươi đang nói gì”. Châm lại lọt giữa hai ngón tay của Qua Mặc, lập tức lại biến thành lợi khí sát nhân nguy hiểm. Qua Mặc lòng kinh ngạc, câu nói của hắn đâu phải là hỏi đại, nếu thi thể trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, sức chú ý của Vô Song Nữ sẽ dời ra sau, đó là phản ứng tự nhiên, bằng vào thuật nhìn người tinh diệu nhập thần của Qua Mặc, có thể từ sự biến hóa thần tình vi diệu của đối phương mà truy ra đầu mối, nào hay Vô Song Nữ hoàn toàn không máy động, vẫn toàn thần chăm chú quan sát hắn. Qua Mặc cười lạnh: “Đừng gạt ta là ngươi không biết Cô Nguyệt Minh, ngươi và hắn chung một đám, nếu không sao lại cùng một thuyền qua sông?”. Vô Song Nữ lòng chấn động, cuối cùng đã biết được tên họ của cừu nhân giết chết cữu cữu, lại nghĩ đến cao thủ cực kỳ đáng sợ trước mắt chính là kẻ đã bắn mũi tên tẩm độc từ dưới nước đánh lén Cô Nguyệt Minh, cho nên mới hiểu lầm như vầy, do hắn lúc đó núp dưới nước, từ góc độ bên dưới nhìn lên, cho nên có thể thấy được dung mạo của nàng. Mà người này giờ đây không sợ bộc lộ thân phận, hiển nhiên là đã quyết định giết mình diệt khẩu, cho nên không sợ nói ra. Tâm niệm láy chuyển, cười lạnh thốt: “Thì ra ngươi là tên bỉ ổi muốn dùng ám tiễn hại người. Chưa đụng phải y sao? Y chắc đang ở quanh đây”. Qua Mặc cười lạnh: “Cô nương có thể gạt bất cứ một ai, lại đừng hòng gạt được ta, y đã đi Lạc Dương, có đúng không?”. Vô Song Nữ biết hắn sắp động thủ, hé môi phát ra một tiếng rít, tay trái thủ thế, cùng một lúc, hữu thủ phất ra, một luồng bạch quang mãnh liệt nổ ra giữa nàng và Qua Mặc, lóa mắt cực kỳ, với năng lực của Qua Mặc, nhất thời cũng không nhìn thấy rõ. Qua Mặc quát lớn một tiếng, thiết châm trong tay vọt về phía Vô Song Nữ, bất quá hắn biết đã đánh mất tiên cơ, cử động liên hoàn của Vô Song Nữ là muốn ứng phó thiết châm trên tay hắn. Thật khó trách Qua Mặc được, một cao thủ đồng hạng với hắn như Cô Nguyệt Minh cũng phải chịu kém dưới tay Vô Song Nữ pháp bảo đầy mình, quỷ biến khôn lường, hiện tại Vô Song Nữ biết đánh không lại hắn, toàn lực bỏ chạy, Qua Mặc tri kỷ mà không tri bỉ đương nhiên phải chịu lỗ. Hắc Nhi chở thi thể của Tiết Đình Hao trước hết thoái ra sau hơn trượng, sau đó vọt ngang vào khu rừng cổ thụ. Tuyệt kỹ mà Vô Song Nữ học được từ An Giới, bao gồm kỹ nghệ thuần ngựa và cưỡi ngựa, lúc này có thể thuận dòng trổ ngón. Vô Song Nữ lộn ba vòng, như bánh xe quẹo vào khu rừng, cách rời dịch đạo, ba quả hắc yên đạn lần lượt nổ vang, địa vực phương viên bốn năm trượng lập tức lọt vào vùng khói đen. Qua Mặc thầm kêu không hay, như ánh chớp lao mình vào vùng khói mù, thuần bằng vào thính giác nghe ngóng vị trí của Vô Song Nữ, một kiếm đâm tới. Tiếng xé gió từ dưới xéo lên, một kiếm của Qua Mặc đâm hụt, đang lúc thầm la không xong, sau ót tiếng rít vang dậy, Qua Mặc nhắm đằng trước vọt xuống, có một vật rạch qua lưng hắn, đau rát nóng bỏng. Đến khi Qua Mặc tỉnh ngộ đối phương dùng một loại vũ khí dài kiểu nhuyễn tiên, bên trên truyền vọng tiếng vạt áo phần phật, đối phương căn bản không cần hạ mình xuống, cứ nhún nhảy trên cành cây mà đi. Qua Mặc búng người lên, thầm nghĩ ngươi muốn so bì sức nhẫn nại với ta, khẳng định là tự chuốc lấy khổ, đang tính đuổi theo, chợt phương hướng Vô Song Nữ bỏ đi truyền đến tiếng sói gầm gừ dễ sợ. Qua Mặc kinh hãi, vội thoái lùi ra sau, chạy ra ngoài phạm vi làn khói đen, về lại dịch đạo. Khói mù từ đậm đặc mỏng dần, Vô Song Nữ và ngựa đã biến mất trong cánh rừng cổ thụ từ lâu, cái khiến cho Qua Mặc không hiểu nổi là không thấy có con sói nào nhảy ra. Lẽ nào ả kia giả sói gừ? Một nữ tử phản ứng lanh lợi như vậy, đủ thứ kỹ xảo như vậy, bất kể là tài trí hay võ công đều thuộc hàng nhất đẳng như vậy, hắn lần đầu đụng phải.
o0o Ô Tử Hư theo sau ả tỳ nữ xinh đẹp, đi trên hành lang dọc Quải Biều Trì, tiến vào khu vườn chính giữa. Rảo bước theo sau là hai hán tử thể hình chắc nịch, hiển nhiên là phụ trách giám thị hắn, có lẽ Diễm Nương nhận ra hắn là sắc quỷ, hay sợ hắn là kẻ điên. Nói thật ra, hắn không hiểu nổi mình. Mỗi lần đạp chân vào chốn thanh lâu hương sắc, hắn lại chết đuối bên trong, liều cái mạng già đi chinh phục hoa sắc, chừng như muốn dựa vào đó để khỏa lấp cho một khiếm khuyết nào đó trong cuộc đời, mà mỗi một lần hắn đều phải thất vọng. Cứ như tỳ nữ xinh đẹp trước mắt, tuy không mê hồn hấp dẫn, tràn trề sức sống và sức yêu đương bằng Bách Thuần, lại mộc mạc mỹ lệ làm sao, thể thái khỏe mạnh, đôi mắt to tròn đen láy sáng bừng, là một tiểu mỹ nhân khuynh đảo người người, nhan sắc chắc không kém đa số các cô nương trong Lâu, chỉ là làm ra vẻ lãnh đạm băng sương, khiến người ta khó tiếp cận. Ô Tử Hư nguyện ý hiến dâng một nửa số của cải hắn hiện có để đổi lấy một nụ cười ngọt ngào của ả. Tính tình của hắn trong thanh lâu là vậy, quăng vàng như không. Hồng Diệp Lâu quy mô to tát, hoàn toàn vượt ngoài tưởng tượng của hắn, cứ như một thế giới khác trong Lạc Dương thành, làm cho hắn chấn động chưa từng thấy, khiến cho hắn cao hứng đến mức nhiệt huyết bừng bừng, xém chút đã quên đến đây là có mục đích khác, đầu óc mơ màng thật là hoa không mê hoặc người mà người tự đắm mê. Lang thang thanh lâu luôn luôn là một lạc thú lớn nhất trong lối sống mạo hiểm của hắn, ở đó hắn có thể biến thành một người khác, tràn trề cảm giác hạnh phúc khoái lạc, không lo không rầu, ít ra có tâm tình vui vầy trước khi tỉnh mộng phong lưu. Nhìn bóng dáng yểu điệu của tỳ nữ xinh đẹp, Ô Tử Hư ngứa ngáy trong lòng, không kềm được đi nhanh hơn, đến gần ả hỏi: “Vị đại thư này không biết xưng hô sao đây?”. Ả tỳ nữ xinh đẹp vụt đứng lại, hại cho Ô Tử Hư đi vượt qua mặt, chỉ còn nước xoay người lại, ngạc nhiên nhìn ả, không rõ tại sao ả lại có phản ứng như vậy. Hai đại hán đằng sau không lộ vẻ ngạc nhiên chút nào, như đã sớm biết sẽ có hậu quả dừng bước như vầy, thần thái đứng bên kia bờ xem lửa cháy, tìm vui trong tai họa. Ả tỳ nữ xinh đẹp mặt lạnh như nước trừng mắt nhìn hắn, lộ thần sắc không ưa, lạnh lùng thốt: “Tên ta là gì, không quan hệ gì với ngươi, ta chỉ phụ trách dẫn ngươi đến Phong Trúc Các để ngươi vẽ hình, một canh giờ sau ta quay lại đem bức họa của ngươi cho Diễm Nương xem, vẽ không xong thì ngươi phải cút đi, minh bạch chưa?”. Một đại hán hừ lạnh từ đằng sau, ra vẻ cảnh cáo. Ô Tử Hư cảm thấy thú vị, lòng trào dâng tư vị nóng bỏng mới lạ. Trong quá khứ hắn bước chân vào thanh lâu với vị trí thân phận hào khách, dùng kim tiền mua lấy nụ cười và sự tôn trọng, người trong thanh lâu từ trên xuống dưới chỉ sợ không hầu hạ hắn được chu toàn. Hiện giờ đổi lại thành đi kiếm tiền của thanh lâu, không còn được tình ý giả trá nữa, ví như bị từ chối một cách đau điếng như bây giờ. Ô Tử Hư liền nói: “Minh bạch rồi, minh bạch rồi rồi! Hì! Có phải Bách Thuần cô nương đến làm đối tượng cho bức họa của ta không?”. Hai đại hán đằng sau đồng thời phát ra tiếng cười trào lộng. Ả tỳ nữ xinh đẹp bực bội: “Ngươi đừng có lắm trò nữa, không những đại tiểu thư không đến, căn bản không có ai đến, ai ai nghe thấy hai chữ ‘họa sư’ đều bịt tai bỏ chạy rồi. Ngươi tự mình nghĩ ra cái gì đó mà vẽ đi! Chỉ cho ngươi một canh giờ thôi đó, ngươi phải ráng đi”. Ô Tử Hư gãi đầu: “Đại quản gia không nói cho bọn họ biết tôi là Họa Tiên Lang Canh đến từ kinh sư sao?”. Hai đại hán đằng sau làm sao nhịn được nữa, buông tiếng cười hềnh hệch.
o0o
Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân kẻ trước người sau về đến Bát Trận Viên chỗ tạm trú, trao đổi tin tức trong tiểu đình của hoa viên, hoàn cảnh ở đây im ắng u nhã, không lo bị người ta nghe thấy lời đối thoại của bọn họ. Thái dương vừa xuống núi, bầu trời sụp tối đã xuất hiện bóng dáng các chòm sao. Nguyễn Tu Chân hỏi: “Thuận lợi chứ?”. Khâu Cửu Sư hân hoan đáp: “Tiền Thế Thần hợp tác lắm. Gã đồng ý với lối nhìn của bọn ta, Ngũ Độn Đạo nếu vẫn dám ở lại Lạc Dương thành, chắc không phải ngắm nghía ngọc kiếm của gã, bởi đó nhất định là tìm chết, mà là một mục tiêu khác. Gã nói phú hộ Lạc Dương tuy nhiều, nhưng kẻ cất giấu đồ cổ quý báu có đem ra cho người ta xem chỉ chín mười người, gã sẽ nội trong đêm nay tra cứu mọi người, nếu phát hiện có nhân vật khả nghi, lập tức thông tri cho bọn ta biết, kêu bọn ta ở đây đợi tin tốt của gã”. Nguyễn Tu Chân thốt: “Tốt vô cùng. Ta có gặp qua thủ lãnh Mã Công Thành của Lạc Dương bang, hắn bảo đảm chỉ cần có người nào tướng tá cỡ Ngũ Độn Đạo mà lại lạ mặt xuất hiện, bất kể Ngũ Độn Đạo có giả làm Thiên vương lão tổ hay là yêu quái sơn tinh, hắn cũng lập tức thông báo”. Khâu Cửu Sư vươn vai lười biếng, mỉm cười: “Sau khi bắt được Ngũ Độn Đạo, bọn ta lập tức rời khỏi địa phương quỷ quái này, hy vọng từ nay về sau mọi sự hồi phục lại như thường, không cần cả ngày nghi thần nghi quỷ, ngủ không an giấc nữa”. Nguyễn Tu Chân điềm đạm hỏi: “Không từ biệt Bách Thuần sao?”. Khâu Cửu Sư thần tình khổ não: “Lại chọc ta rồi”. Nguyễn Tu Chân lại không chịu bỏ qua cho hắn: “Ngươi có hứa hẹn gì với Bách Thuần không?”. Khâu Cửu Sư cau mày: “Mấy lời đã nói với nàng ta trong tửu lâu, không phải đã kể hết cho ngươi nghe sao?”. Nguyễn Tu Chân không chịu buông tha, hỏi truy: “Ta muốn biết lúc ngươi đưa tiễn nàng ta lên xe ngựa, có nói mấy lời đại loại như chịu nhận lỗi với nàng nữa không?”. Khâu Cửu Sư đầu hàng: “Nói cho ngươi biết nè! Ta đã đáp ứng sau khi hoàn thành chuyện quan trọng sẽ đến Hồng Diệp Lâu bái phỏng nàng, tuyệt không có thề non hẹn biển gì. Đây là phong độ tối thiểu rồi, đối với tài nữ hàng đầu Lạc Dương, ta cũng phải giữ chút mặt mũi lễ nghĩa chứ, huống hồ lúc đó đã giải quyết xong vấn đề Ngũ Độn Đạo, không còn hiềm kỵ gì nữa”. Nguyễn Tu Chân điềm đạm hỏi: “Giải quyết không được thì sao?”. Khâu Cửu Sư ngạc nhiên: “Có khả năng sao?”. Nguyễn Tu Chân trầm ngâm: “Giả như đến ngày mai vẫn hoàn toàn chưa có tin tức về Ngũ Độn Đạo, nỗi lo của ta sẽ biến thành sự thật”. Khâu Cửu Sư thốt: “Ta chỉ sẽ nghĩ Ngũ Độn Đạo thật đã trốn chạy rồi”. Nguyễn Tu Chân nói: “Ta vẫn tin chắc hắn còn ở trong thành, mà cơ hội duy nhất để bắt hắn của bọn ta cũng là trong Lạc Dương thành. Bách Thuần ít ít nhiều nhiều có mối quan hệ vi diệu với Ngũ Độn Đạo, nếu không, đôi tay vô hình kia không thể an bài cho ngươi và Bách Thuần dây dưa quấn quít hoài”. Khâu Cửu Sư không đồng ý: “Bách Thuần có thể có quan hệ gì với hắn chứ? Ai cũng biết được Bách Thuần đến từ kinh sư, là tiểu sư muội của danh kỹ Hoa Mộng phu nhân ở kinh sư, hai người đều được chân truyền của thanh lâu kỳ nhân Kim Thời Nhật, thân thế thanh bạch, tuyệt đối không thể là đồng đảng của Ngũ Độn Đạo, huống hồ Ngũ Độn Đạo luôn luôn độc lai độc vãng, đâu có đồng bọn”. Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên: “Ai nói cho ngươi biết vậy? Ta hỏi Mã Công Thành, hắn không biết tí gì về lai lịch xuất thân của Bách Thuần”. Khâu Cửu Sư hơi bẽn lẽn đáp: “Là Tiền Thế Thần nói”. Nguyễn Tu Chân không thừa cơ hỏi tới, mà nói: “Ta không phải nghi thần nghi quỷ, mà là dùng chuyện để luận chuyện. So với địch thủ vô hình của bọn ta, bọn ta đang ở vị trí bất lợi vô cùng. Ưu thế lớn nhất của chốn U minh, trừ ra có thể ảnh hưởng tới tâm tưởng của bọn ta, lợi hại nhất là có năng lực quan sát toàn cục, một chuyện bọn ta nhìn nhận tựa như không có quan hệ gì, trong kế hoạch tổng thể của cõi U minh lại có thể là mắt xích trọng yếu có tác dụng mấu chốt. Dùng chiến trường mà ngươi rành rọt làm thí dụ, bọn ta hãm mình trong sương mù tầm nhìn chỉ thấy được trăm bước là cùng, cõi U minh lại có thể nhìn thấy biến hóa của toàn chiến trường. Lão ca ngươi nói cho ta biết coi, một trận đánh như vậy có khó đánh không”. Khâu Cửu Sư ngây người một hồi, thở dài thốt: “Minh bạch rồi!”. Nguyễn Tu Chân nói: “Ngươi không đi gặp Bách Thuần, Bách Thuần lại có thể đến gặp ngươi, sự tình không khác biệt gì hết, mọi sự hoàn toàn thao túng trong tay chốn U minh. Nó thật ra muốn bọn ta làm sao? Không ai biết được. Mục đích cuối cùng của chốn U minh là gì, chỉ có U minh và ông trời biết rõ. Nhưng bọn ta cần phải phụng bồi, bởi bắt được Ngũ Độn Đạo, tất cả coi như xong”. Khâu Cửu Sư cười khổ: “Quả là như vậy”. Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: “Đây là một trận đánh khác hẳn đó giờ, dũng lực và trí tuệ bình thường đều không có tác dụng gì hết, cho nên đừng trách ta nghi thần nghi quỷ, cũng chỉ có nghi thần nghi quỷ, bọn ta có lẽ còn một tia hy vọng giành phần thắng”. Khâu Cửu Sư hỏi: “Bây giờ bọn ta nên làm sao?”. Nguyễn Tu Chân đáp: “Cái gì cũng đừng nghĩ tới, đi nghỉ cho khỏe. Nếu sở liệu của ta không sai, Tiền Thế Thần đêm nay sẽ không được gì, mà bọn ta có thể đem đối tượng giám thị ấn định lên mình Bách Thuần, thậm chí cả tòa Hồng Diệp Lâu. Thủ đoạn của cõi U minh chỉ có thể thông qua người sống mà thực hiện, chỉ cần có liên quan với con người, bọn ta có thể tìm ra manh mối”. Khâu Cửu Sư kinh hãi: “Vậy nào có khác gì muốn tiếp tục dây dưa với Bách Thuần?”. Nguyễn Tu Chân thở dài: “Cho nên mới nói bọn ta đang ở thế kém, bị cõi U minh dắt mũi, minh bạch chưa?”. - o O o -