Thi hài trưởng lão Zoxima đã được chuẩn bị để mai táng theo nghi lễ đã định. Khi các thầy tu và các nhà tu khổ hạnh từ trần, người ta không tắm rửa thi hài, điều đó ai cũng biết. "Khi một thầy tu về với Chúa (trong cuốn sách Lễ đồ sộ có nói), thầy tu được giao trách nhiệm khâm liệm dùng nước nóng lau mình người chết, trước hết cầm miếng bọt biển vạch dấu chữ thập trên trán trên ngực, tay, chân và đầu gối người chết, chỉ thế thôi".
Cha Paixi đích thân làm tất cả những việc ấy. Sau đó, Cha mặc cho trưởng lão bộ áo thầy tu và bọc ngoài bằng tấm áo choàng lễ; theo quy định, tấm áo lễ bị rạch ra một chút để bọc chéo hình chữ thập. Cha đội lên đầu trưởng lão chiếc mũ phía sau gắn hình chữ thập tám nhánh. Mặt thì phủ tấm sa đen, mũ để lộ ra ngoài. Người ta đặt vào tay trưởng lão bức ảnh tượng Đấng Cứu thế.
Đến sáng, thi hài khâm liệm như thế được nhập quan (quan tài đã làm sẵn từ lâu). Người ta định quàn quan tài suốt ngày trong trai phòng (căn phòng lớn mà trước đây trưởng lão vẫn tiếp các giáo đồ và khách thế tục), bởi vì người quá cố mang chức sắc ieroxkhimonac(1) nên các thầy tu và thầy tế lễ không đọc Thánh thi mà đọc Phúc âm trong lễ tang. Ngay sau lễ cầu siêu, Cha Ioxif đọc kinh. Cha Paixi muốn sau đó đọc tiếp suốt ngày và suốt đêm, nhưng lúc này Cha rất bận và rất lo ngại cùng với Cha bề trên tu xá, bởi vì trong số giáo đồ của tu viện và những người thế tục ở khách xá của tu viện và từ thành phố kéo đến từng đám đông, người ta bỗng nhận thấy có cái gì lạ thường, càng về sau càng rõ rệt hơn, một sự xôn xao chưa từng thấy và "bất nhã", một sự chờ đợi nôn nóng. Cha bề trên và Cha Paixi gắng hết sức tìm mọi cách trấn an những người đang xốn xao đến như vậy.
Khi đã sáng rõ, có một số người ở thành phố đến, chậm chí mang theo người nhà ốm đau, đặc biệt là trẻ em; dường như họ chỉ đợi lúc này để làm việc ấy, rõ ràng họ hy vọng có một pháp lực tức thời chữa khỏi bệnh mà họ tin là sẽ thể hiện ra ngay. Đến, bây giờ mới thấy rõ ràng khi trưởng lão còn sống, người ta đã quá quen cho rằng Cha đích thực là vị thánh vĩ đại. Số người đến đây không phải chỉ toàn là dân thường. Sự mong chờ thiết tha của các tín đồ bộc lộ ra một cách vội vã và lộ liễu, thậm chí nôn nóng, Cha Paixi coi đó là chước cám dỗ hiển nhiên, tuy Cha đã cảm thấy trước từ lâu, nhưng thực ra vẫn không ngờ nó lại đến như thế. Gặp những thầy tu quá xúc động, Cha Paixi thậm chí quở trách họ: "Sự chờ đợi nôn nóng đến như thế về một cái gì trọng đại sẽ xảy ra tức thời là thái độ nông nổi chỉ có thể có giữa những người thế tục, không xứng với chúng ta". Nhưng người ta chẳng mấy để ý đến lời Cha nói, thấy thế Cha lo lắng, mặc dù chính bản thân Cha (nếu nhớ lại mọi việc một cách chân thực), tuy bực bội về sự chờ mong quá nôn nóng, coi đó là nông nổi và phù phiếm, nhưng trong thâm tâm Cha cũng thầm mong như họ, điều mà Cha không dám tự thú nhận với mình. Tuy nhiên Cha đặc biệt khó chịu về một số cuộc gặp gỡ khơi gợi trong Cha những ngờ vực lớn qua một linh cảm nào đó. Trong đám đông chen chúc ở phòng người quá cố, Cha ghê tởm trong lòng khi thấy (điều này Cha cũng tự trách mình) Rakitin chẳng hạn, hay ông khách phương xa - ông thầy tu ở Obdorsk vẫn còn lưu lại tạii tu viện, và không hiểu vì sao Cha Paixi cho rằng cả hai người này đều khả nghi, tuy không phải chỉ có họ nom khả nghi. Trong số tất cả những người tỏ ra xúc động, ông thầy tu Obdorsk xem ra chộn rộn nhất. Có thể thấy ông ta ở khắp nơi, chỗ nào cũng có mặt: ở đâu ông ta cũng hỏi han, cũng lắng nghe, cũng thì thầm với vẻ bí ẩn đặc biệt. Vẻ mặt ông ta hết sức sốt ruột, thậm chí dường như cáu kỉnh vì điều mong đợi mãi không xảy ra. Còn về Rakitin thì sau này mới rõ ràng anh ta có mặt trong tu xá từ sớm, theo sự uỷ thác đặc biệt của bà Khokhlakova. Bà tà tốt bụng, nhưng tính tình nhu nhược, bà không được phép vào tu xá, nên vừa thức giấc và biết tin trưởng lão qua đời, bà tò mò không chịu nổi, liền phái Rakitin đến tu xá để quan sát mọi việc và viết tường trình gửi ngay về cho bà, cứ nửa giờ một lần, về tất cả mọi chuyện xảy ra. Bà coi Rakitin là một thanh niên sùng đạo và giàu đức tin biết đối xử khéo léo với tất cả mọi người và với mỗi người, anh ta biết tỏ ra mình là người đúng như ý người ta muốn, miễn là anh ta thấy rằng làm như thế có chút ít lợi lộc cho mình: Hôm ấy đẹp trời, trong số người hành hương tới đây có nhiều người tụ tập bên các nấm mồ ở tu xá, những nấm mồ này nhiều nhất là xung quanh nhà thờ, ngoài ra còn rải rác khắp tu xá. Khi đi vòng quanh tu xá, Cha Paixi bỗng nhớ tới Aliosa, đã lâu Cha không nhìn thấy anh, gần như từ đêm tới giờ. Vừa nhớ đến thì Cha thấy anh ở một góc xa nhất trong nl xá, bên bức tường xây, ngồi trên tấm bia mộ của một thầy tu mất tự đời nảo đời nào, nổi tiếng về công đức tu hành. Anh ngồi quay lưng về tu xá, dường như ẩn sau phần mộ. Đến sát tận nơi, Cha Paixi thấy Aliosa hai tay bưng mặt khóc không thành tiếng, nhưng hết sức đau xót, toàn thân rung lên theo tưng cơn nức nở. Cha Paixi đứng cạnh anh một lát.
- Thôi đi con thân yêu, thôi đi, anh bạn. - Cuối cùng Cha nói, giọng đầy tình cảm, - con làm sao thế? Phải vui lên, đừng khóc. Hay con không biết hôm nay là ngày trọng đại nhất trong đời Thầy? Bây giờ Thầy ở đâu, lúc này, chỉ cần nhớ tới điều đó!
Aliosa toan ngước lên nhìn Cha, để lộ khuôn mặt khóc sưng húp, nom như mặt trẻ thơ, nhưng anh không thốt lên lời nào, lập tức quay đi và lại đưa hai tay ôm mặt.
- Nhưng có lẽ thế là phải. - Cha Paixi trầm ngâm thốt lên, - có lẽ cứ khóc đi, Chúa Kito cho con những giọt nước mắt ấy. "Những giọt lệ thương cảm của con chỉ làm cho tâm hồn thư thái và làm vui lòng người Thầy thân yêu của con" - Cha thầm nhủ bỏ đi và trìu mến nghĩ đến Aliosa. Cha đi vội vàng, vì cảm lấy rằng nhìn Aliosa, có lẽ Cha cũng khóc mất thôi. Thời gian vẫn trôi, lễ tang và lễ cầu siêu vẫn tiếp diễn chỉn chu, Cha Paixi lại thay Cha Ioxif bên quan tài và tiếp tục đọc Phúc Âm.
Nhưng gần ba giờ chiều đã xảy ra điều mà tôi đã nhắc đến ở cuối quyển trước, điều không ai ngờ và trái ngược với hy vọng của mọi người, đến nỗi mà, tôi xin nhắc lại, mãi đến bây giờ ở thành phố chúng tôi và khắp các vùng lân cận người ta vẫn hết sức sôi nổi hồi tưởng lại tỉ mỉ câu chuyện phù phiếm về sự việc đã diễn ra. Ở đây một lần nữa tôi xin thêm một ý kiến riêng: tôi hầu như tởm lợm khi nhớ đến cái chuyện phù phiếm và quái gở ấy, thực ra là một việc tầm phào và rất tự nhiên, và cố nhiên tôi muốn bỏ qua không nhắc gì đến trong câu chuyện của tôi, nếu như nó không có ảnh hưởng hết sức mạnh và rõ ràng đến tâm hồn và trái tim nhân vật chính, tuy sau này mới trở thành nhân vật chính trong câu chuyện của tôi là Aliosa, tạo nên một sự đột biến và đảo lộn trong tâm hồn anh, khiến cho lý trí của anh bị xáo động lớn và trở nên vững vàng hẳn, vững vàng suốt đời và hướng tới một mục đích nhất định.
Vậy xin kể chuyện ấy. Trời chưa sáng, thi hài người quá cố, đã khâm liệm chu tất, được nhập quan, người ta đưa quan tài sang phòng thứ nhất, trước đấy là phòng tiếp khách, khi ấy giữa những người ở bên quan tài xảy ra câu hỏi: có cần mở các cửa sổ không? Nhưng câu hỏi này, do một người không rõ như buột miệng thốt lên, không được ai trả lời và hầu như chẳng ai để ý, trừ có một vài người nhẹ nhàng trách người đó, và trong thâm tâm họ cũng nghĩ như thế, đại ý là: cho rằng thi hài một người như thế có thể rữa nát và bốc mùi thì thật vô lý, đáng tiếc (nếu không phải là đáng cười), vì người hỏi câu đó quả là ít đức tin và nông nổi. Bởi thế người ta chờ đợi điều trái ngược hẳn lại.
Quá trưa một lát, đã xảy ra một việc mà những người vào ra đểu nhận thấy nhưng vẫn im lặng, thậm chí không dám nói với bất cứ ai ý nghĩ vừa nảy ra trong đau mình, nhưng tới ba giờ chiều thì cái đó đã rõ rành rành, không thể nào bác bỏ được, đến nỗi tin đó tức khắc bay khắp tu xá và những người hành hương đến thăm tu xá, lọt tới cả tu viện, khiến cho tất cả mọi người trong tu viện phải ngạc nhiên, và cuối cùng, sau một thời gian rất ngắn, đã truyền đến thành phố, làm cho cả người tin đạo lẫn không tin đều xúc động. Người không tin đạo khoái chí, còn trong số những người tin đạo, có một số người còn khoái chí hơn cả những người không tin, vì "người đời thích thấy bậc công chính sa ngã và bị ô nhục", như chính trưởng lão quá cố đã nói trong một lần thuyết giáo. Số là từ trong quan tài dần dần có mùi hôi thối bốc ra, càng về sau càng rõ hơn, tới ba giờ chỉều thì đã nồng nặc và mỗi lúc một gớm ghiếc hơn. Đã lâu chưa từng có, thậm chí nhớ lại toàn bộ đời sống trước kia của tu viện cũng không thể tìm ra một sự việc nào quái quỷ, thô bỉ hết mức đến như thế, đến độ trong bất cứ trường hợp nào khác cũng không thể có chuyện như vậy, mà lại bộc lộ ra liền ngay sau biến cố ấy, cho dù ngay giữa các thầy tu đi nữa. Rồi sau đó, thậm chí nhiều năm sau, một số thầy tu có đầu óc, khi nhớ lại tỉ mỉ toàn bộ ngày hôm đó, vẫn ngạc nhiên và khiếp sợ không hiểu làm sao hiện tượng quái đản ấy lại có thể đạt tới mức độ như thế. Bởi vì trước đây có những thầy tu rất mực đạo hạnh và đạo hạnh của họ lồ lộ trước mắt mọi người, những trưởng lão rất kính Chúa mà khi chết, từ quan tài khiêm nhường của họ vẫn xông ra mùi hôi thối tự nhiên như mọi tử thi khác, thế nhưng điều đó không trở thành hiện tượng quái quỷ như thế này và không gây nên mảy may xúc động. Cố nhiên cũng có những người đã qua đời từ lâu mà ở tu viện người ta vẫn còn nhớ rất rõ về họ và theo lời truyền tụng, xác họ không bốc mùi, điều đó có một ảnh hưởng cảm động và bí ẩn đối với giáo đoàn và người ta nhớ mãi, coi đó là điều cao cả và huyền diệu, là lời hứa rằng trong tương lai, phần mộ của họ sẽ càng vinh hiển hơn, nếu như ý Chúa muốn thế. Trong số những người ấy, đặc biệt người ta ghi nhớ trưởng lão Jov, sống tới một trăm linh năm tuổi nhà khổ tu nổi tiếng, người ăn chay và kiêng nói vĩ đại, tạ thế đã lâu, từ những năm thứ mười của thế kỷ này, tất cả những người hành hương lần đầu tiên đến đây đều được người ta chỉ cho xem mộ của ông với niềm tôn kính đặc biệt, phi thường, đồng thời nhắc nhở một cách bí ẩn về những hy vọng cực kỳ lớn lao. (Đấy chính là nấm mồ mà ban sáng Cha Paixi bắt gặp Aliosa ngồi trên đó). Ngoài vị trưởng lão đã tạ thế từ lâu ấy, người ta vẫn nhớ như in một đức cha cực kỳ cao trọng mới mất gần đây, trưởng lão Varxonofi, chính là người mà Cha Zoxima đã kế chân trưởng lão, người mà lúc còn sống, tất cả những người hành hương đến tu viện đều cho rằng đây đích thị là vị thành hài. Người ta vẫn truyền tụng rằng cả hai vị nằm trong quan tài như người còn sống và lúc đem mai táng, xác hoàn toàn không bốc mùi, gương mặt dường như rạng rỡ hẳn lên. Một số người thậm chí còn một mực nói rằng theo họ nhớ thì thi hài các vị ấy toả ra mùi hương trầm thơm phức. Nhưng mặc dù có những sự xác nhận long trọng như thế, vẫn khó giải thích được nguyên nhân trực tiếp khiến cho bên quan tài trưởng lão Zoxima lại có thể xảy ra một hiện tượng phi lý và tai ác như thế. Riêng tôi cho rằng ở đây có nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đồng thời.
Chẳng hạn trong số đó có cả sự thù địch thâm căn cổ đế đối với thể chế trưởng lão, coi như một sự đổi mới tai hại, ở tu viện sự thù địch ấy ẩn sâu trong trí óc nhiều thầy tu. Cuối cùng, cố nhiên là tâm trạng ghen tỵ về đức thánh thiện của người đã khuất ngay khi Cha còn sống đức thánh thiện ấy đã vững vàng đến nỗi dường như không được phép phản đối, chỉ vì mặc dù vị trưởng lão đã quá cố thu phục được tình cảm của nhiều ngươi, bằng phép lạ thì ít, mà bằng tình yêu thì nhiều hơn, và đã tạo dựng được quanh mình cả một thế giới những người ái mộ mình, tuy nhiên, thậm chí chính vì thế mà tự chuốc lấy những kẻ ghen tỵ, và tiếp đó cả những kẻ thù dữ dội, công khai và giấu mặt không chỉ trong tu viện, mà cả ở ngoài đời. Chẳng hạn, Cha không làm hại ai, nhưng: "Vì sao ông ta được coi là thánh?" Chỉ vì một câu hỏi ấy, lặp đi lặp lại nhiều lần, rốt cuộc sản sinh ra cả một vực thẳm hận thù không đáy. Tôi cho rằng chính vì thế mà nhiều người khoái chí vô cùng khi nghe tin xác Cha bốc mùi, mà lại chóng vánh như thế, - Cha chết chưa được một ngày; đồng thời trong số những người trung thành với trưởng lão và cho đến lúc ấy vẫn tôn sùng Cha, có những người coi biến cố đó như sự sỉ nhục đối với cá nhân mình. Sự việc diễn ra dần dần như sau:
Ngay từ khi xác chết bắt đầu bốc mùi, chỉ nhìn những thầy tu vào phòng đặt quan tài cũng có thể biết họ đến đó làm gì. Họ vào, đứng một lúc, rồi đi ra để mau mau xác nhận tin ấy với đám đông xúm xít ở bên ngoài. Trong số những người đứng chờ, có những người gật đầu đau xót, số khác thậm chí không buồn che giấu niềm vui sướng của mình lồ lộ trong ánh mắt long lên dữ tợn. Chẳng ai trách họ, chẳng ai lên tiếng bênh vực, người quá cố, kể thì cũng lạ, vì người trung thành với trưởng lão vẫn chiếm đa số trong tu viện. Nhưng rõ ràng là lần này Chúa Trời để cho thiểu số tạm thời thắng thế. Chẳng mấy chốc cả những người thế tục cũng đến để do thám, phần lớn là những người có học. Dân thường ít người vào, tuy họ tụ tập rất dông ở cổng tu xá. Hiển nhiên là chỉ từ sau ba giờ chiều, số người thế tục đổ đến mới nhiều hẳn lên, đấy chính là do cái tin đầy sức cám dỗ. Những người đó hôm ấy có lẽ sẽ hoàn toàn không đến và không có ý định đến, bây giờ họ chủ tâm đến, trong đó có một số nhân vật quyền cao chức trọng. Tuy nhiên, bề ngoài sự trang nghiêm vẫn chưa bị phá vỡ, Cha Paixi vẻ mặt nghiêm nghị, tiếp tục đọc Phúc âm bằng giọng rắn rỏi, rành rọt, dường như không để ý gì đến việc đã xảy ra, tuy từ lâu Cha đã nhận thấy điều gì khác thường. Nhưng rồi những tiếng nói thoạt đầu rất khẽ, nhưng dần dần trở nên dứt khoát và hào hứng, đã đến tai Cha: "Vậy là sự phán xét của Chúa không như sự phán xét của người trần". - Cha Paixi bỗng nghe thấy. Thốt lên câu ấy trước lên là một người thế tục, một viên chức thành phố, đã đứng tuổi, được tiếng là người rất ngoan dạo, nhưng nói ra câu đó, chẳng qua ông ta chỉ lặp lại điều mà các thầy tu vẫn ra tai nhau từ lâu. Các thầy tu đã buông lời thất vọng từ lâu, nhưng tệ hại nhất là cứ mỗi lúc họ càng có vẻ đắc chí hơn khi nói ra điều đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, ngay cả sự trang nghiêm cũng bắt đầu bị phá vỡ, và dường như tất cả mọi người thậm chí đều cảm thấy mình có quyền làm như thế. "Tại sao lại đến nỗi như vậy, - một vài thầy tu nói, thoạt đầu có vẻ lấy làm tiếc, thân hình không lớn, gầy đét, chỉ có da bọc xương, làm sao lại đã có mùi?" - "Như vậy là Chúa chủ ý chỉ vạch ra", - những người khác vội vã nói thêm, ý kiến của họ được chấp nhận tức thời, bởi vì người ta lại vạch ra rằng nếu xác bốc mùi tự nhiên như mọi người trần tục sau khi chết thì cũng phải chậm hơn, chứ không quá chóng vánh như thế, ít nhất cũng phải qua một ngày đêm, còn đây thì lại "đi trước cả diễn biến của tự nhiên", thành thử ở đây hẳn phải có ngón tay của Chúa Trời chứ không còn ai khác Chúa muốn chỉ rõ. Ý kiến ấy không thể bác lại được. Cha thủ thư Ioxif, con người củ mỉ cù mì được người quá cố yêu mến, lên tiếng bác lại một số kẻ độc mồm rằng "không phải ở đâu cũng thế", trong đạo chính thống việc xác người công chính không bốc mùi không phải là một tín điều, mà chỉ là dư luận, thậm chí cả trong những nước theo đạo chính thống, như vùng Atox chẳng hạn, ở đây người ta chẳng bối rối gì lắm về mùi xác chết, việc xác chết không bốc mùi chẳng phải là dấu hiệu chủ yếu làm sáng danh những người được cứu rỗi, mà là màu xương, khi xác họ vùi dưới đất đã nhiều năm, thậm chí đã tiêu hết thịt, "và nếu như xương ngả màu vàng như sắp ong thì đấy là dấu hiệu quan trọng nhất tỏ rằng Chúa Trời ngợi khen người công chính đã qua đời, còn nếu xương không vàng, mà đen lại thì nghĩa là Chúa Trời xét rằng người đó không xứng được sáng danh", - ở Atox là như thế, tại xứ sở bao la này, tự cổ xưa đạo chính thống vẫn là bất khả xâm phạm, vẫn được giữ gìn hết sức trong sáng" - Cha Ioxif kết luận. Những lời lẽ của Cha như gió thoảng ngoài tai, không gây được ảnh hưởng gì, thậm chí còn bị chế giễu: "Đấy toàn là lối phô trương sự thông thái và mới lạ, chẳng đáng nghe làm gì ", - một số thầy tu bụng bảo dạ. "Chúng ta theo lối cũ, bây giờ nảy nòi ra khối cái mới, cái gì cũng theo được ư?" - số khác nói thêm. "Chúng ta có nhiều đức cha thánh thiện không ít hơn họ. Họ ở dưới ách bọn Thổ Nhĩ Kỳ nên đã quên ráo cả rồi. Ở họ, đạo chính thống đã bị vẩn đục từ lâu, họ còn không có cả chuông nữa kia", những người mạnh mồm giễu cợt nói thêm. Cha Ioxif bỏ đi, trong lòng chua xót, nhất là bản thân Cha nói lên ý kiến của mình không lấy gì làm cả quyết lắm, dường như bản thân Cha cũng chẳng tin gì mấy. Nhưng Cha bối rối vì thấy trước
rằng một cái gì tệ hại đang bắt đầu diễn ra, thậm chí sự không tuân lời đang cất đầu dậy. Dần dần, tiếp sau Cha Ioxif, mọi tiếng nói hợp lý đều câm bặt. Và cứ như thể có sự phối hợp, tất cả những người yêu mến trưởng lão đã quá cố và đã từng ngoan ngoãn, cảm động phục tùng thể chế trưởng lão bỗng vô cùng khiếp sợ điều gì không rõ khi gặp nhau chỉ rụt rè nhìn mặt nhau. Những người thù địch thể chế trưởng lão, coi đó như một sự đổi mới, thì cất cao đầu kiêu hãnh. "Trưởng lão Varxonofi khi qua đời không những xác không nặng mùi, mà còn toả hương thơm, - họ hí hửng nhớ lại, - nhưng không phải vì Cha là trưởng lão mà được như vậy mà bởi vì bản thân Cha là bậc công chính". Tiếp đó vị trưởng lão vừa qua đời phải hứng chịu những lời chê bai, thậm chí cả những lời kết tội tới tấp: "Cha truyền dạy điều bất chính, chủ trương rằng đời sống là lạc thú vô cùng lớn lao, chứ không phải là sự khuất luỵ đẫm nước mắt" - một số trong những kẻ đần độn nhất nói. "Cha tin theo mốt mới, Cha không thừa nhận ở địa ngục có lửa thiêu thật sự", - một số kẻ còn đần độn hùa theo. "Cha không nghiêm ngặt trong việc ăn chay, Cha tự cho phép mình dùng của ngọt. Cha uống trà với mứt anh đào, rất thích món đó, các bà gửi biếu Cha. Nhà khổ tu có được phép uống trà không chứ?" - một số kẻ ghen tị nói. "Cha ngồi chễm chệ dương dương tự đắc, - những kẻ độc bụng nhất tàn nhẫn nhớ lại. - Cha tự coi mình là thánh, người ta quỳ trước Cha, Cha cho như thế là phải". "Cha lạm dụng bí tích xưng tội", - những người chống đối thể chế trưởng lão kệch liệt nhất hằn học rỉ tai nhau, trong số này thậm chí có những thầy tu già lão nhất, nghiêm ngặt nhất trong sự sùng tín, những người chay tịnh và kiêng nói chân chính, vẫn im lặng khi trưởng lão còn sống, bây giờ bỗng mở miệng, đấy mới thật là ghê gớm, vì lời nói của họ có ảnh hưởng mạnh đối với các thầy tu trẻ còn chưa vững vàng hẳn. Ông khách Obdorsk, thầy tu ở tu viện Thánh Xilvextr, lắng tai nghe hết những điều đó, lắc đầu thở dài: "Không, rõ ràng là hôm qua Cha Ferapont xét đoán đúng" - ông ta nghĩ bụng, vừa đúng lúc ấy Cha Ferapont xuất hiện; dường như ông ta đến đây chính là để làm cho tình trạng chấn động càng trầm trọng thêm.
Ở trên tôi đã nói rằng hiếm khi ông ta ra khỏi phòng tu bằng gỗ của mình ở khu nuôi ong, thậm chí đã từ lâu ông ta không đến nhà thờ, người ta bỏ qua điều ấy cho óng vì coi ông là người điên gàn, không buộc ông phải theo phép tắc chung mà ai nấy đều phải theo. Nhưng nếu nói cho hoàn toàn đúng sự thật thì người ta bỏ qua cho ông tất cả những điều ấy còn là vì một lý do cần thiết. Bởi vì một người ăn chay và kiêng nói phi thường như thế, ngày đêm cầu nguyện (thậm chí có khi ngủ mà vẫn quỳ gồi) thì ai mặt mũi nào mà dám bắt người đó cứ phải theo quy phép chung, nếu như người ta không muốn theo. "Cha thánh thiện hơn tất cả chúng ta và tu khắc khổ hơn cả mọi quy định, - các thầy tu chắc sẽ nói như vậy, - còn Cha không đi nhà thờ thì như vậy là Cha biết khi nào phải đến, Cha có phép tắc riêng của mình". Vì ngại nhưng điều tiếng như vậy nên người ta để Cha Ferapont được yên. Cha Ferapont hết sức không ưa trưởng lão Zoxima, chuyện ấy ai cũng biết. Thế mà bỗng nhiên có tin lọt đến tai Cha, dội đến phòng tu của Cha: "Sự phán xét của Chúa không như sự phán xét của người trần, thậm chí là đi trước diễn biến của tự nhiên". Cần nói rằng ông thầy tu Obdorsk hôm qua đã đến thăm Cha và khiếp sợ khi rời khỏi Cha ra về, là một trong những người đầu tiên báo tin ấy cho Cha. Tôi cũng đã nói rằng Cha Paixi, tuy vẫn kiên gan đứng đọc Phúc âm bên quan tài, không gì lay chuyển được, mặc dù Cha không thể nghe thấy và nhìn thấy những gì diễn ra ở bên ngoài, nhưng trong lòng Cha đã đoán được đích xác tất cả những điều chủ yếu, bởi vì Cha biết thấu đáo giới thầy tu của mình. Cha, không bối rối, mà chờ đợi tất cả những gì còn có thể xảy ra, không sợ hãi, dùng con mắt thấu suốt theo dõi kết cục sắp tới của sự xáo động mà tầm nhìn trí tuệ của Cha đã thấy được. Bất đồ tiếng ồn ào lạ thường phá tan bầu không khí nghiêm trang ở phòng ngoài đập vào tai khiến Cha sửng sốt. Cửa mở toang và Cha Ferapont xuất hiện ở ngưỡng cửa, đấng sau ông ta, như đã nói, thậm chí từ trong phòng cũng thấy rõ, có nhiều thầy tu đi theo đang xúm xít bên bậc tam cấp, trong đó có cả những người thế tục. Nhưng những người này không theo Cha Ferapont lên bậc tam cấp, mà dừng lại chờ xem Cha sẽ nói gì và làm gì nữa, vì họ linh cảm thấy, thậm chí hơi sợ hãi, mặc dù tất cả sự táo tợn của họ, rằng Cha Ferapont đến đây không phải là vô cớ.
Cha Ferapont dừng lại ở ngưỡng cửa, giơ hai tay lên, và dưới cánh tay phải của Cha ló ra cặp mắt nhỏ sắc sảo và tò mò của ông khách Obdorsk, người duy nhất không nén được và chạy theo Cha Ferapont lên bậc thềm vì quá đỗi tò mò. Ngoài ông ta ra, những người khác, trái lại, ngay khi cửa mở bung ra đánh rầm một tiếng, đã chen nhau lùi lại phía sau một chút vì cảm giác sợ hãi bất ngờ. Sau khi giơ hai tay lên, Cha Ferapont thốt nhiên gào to: "Tôi đuổi con quỷ!" - và lập tức lần lượt quay về khắp bốn phía, đưa tay làm dấu chữ thập cho bốn bức tường và bốn góc phòng. Những người đi theo hiểu ngay hành động đó của Cha Ferapont; bởi vì họ biết rằng bất kể vào nơi nào Cha cũng làm thế. Cha sẽ không ngồi và không nói lời nào khi chưa trừ ma quỷ.
- Quỷ sa tăng, cút xéo đi, quỷ Sa táng, cút xéo đi! - Cứ mỗi lần làm dấu, Cha đều lặp lại. - Tôi đuổi quỷ! - Cha lại gào lên.
Cha mặc bộ áo chùng thô kệch, thắt lưng bằng dây thừng. Dưới tấm sơ mi bằng vái gai ló ra bộ ngực trần đầy lông trắng bạc. Hai chân đi đất. Cha vừa giơ tay lên thì có tiếng va động loảng xoảng của những sợi xích đeo dưới áo thụng. Cha Paixi ngừng đọc, đến về phía trước, đứng trước mặt Cha Ferapont, chờ đợi.
- Cha đến đây làm gì, trình đức Cha đáng kính? Vì sao Cha làm mất sự trang nghiêm? Cha làm náo loạn bầy chiên ngoan ngoãn để làm gì? - Cuối cùng Cha Paixi thốt lên, nghiêm nghị nhìn Cha Ferapont.
- Đến làm gì ấy hả. Cha hỏi làm gì? Cha tin cái gì? - Cha Ferapont quát lên, như điên khùng. - Đến để đuổi khách khứa của Cha ở đây, lũ quỷ nhơ nhớp. Tôi đến xem xem vắng tôi, Cha tụ tập chúng lại đây có nhiều không? Tôi muốn dùng chổi lá bạch dương quét ráo cả đi.
- Cha đuổi quỷ, nhưng có lẽ chính Cha lại phụng thờ quỷ, - Cha Paixi nói tiếp, không chút sợ sệt, - ai đã tự xưng: "Ta là thánh?" Có phải Cha không, thưa đức Cha?
- Tôi là kẻ nhơ nhớp, chứ không phải là thánh. Tôi không ngồi vào ghế bành để người ta tôn thờ mình như một thần tượng - Cha Ferapont lại gào lên. - Ngày nay người ta đang huỷ diệt tín ngưỡng thiêng liêng. Người chết kia, vị thánh của các người. - Cha quay về đám đông, trỏ tay vào quan tài, - không thừa nhận là có quỷ, ông ấy đã cho thuốc uống để trừ quỷ: Vì thế ở chỗ các người, quỷ mới sinh sôi nảy nở như nhện trong các góc nhà. Còn ở đây thì bản thân ông ta bốc mùi hôi thối. Chúng ta đang nhìn thấy sự chỉ bảo nghiêm trọng của Chúa.
Điều đó quả thật đã có lần xảy ra trong đời Cha Zoxima. Một thầy tu bắt đầu nằm mơ thấy quỷ, rồi cuối cùng thấy thực. Khi thầy tu đó quá sợ hãi bộc lộ với trưởng lão, Cha khuyên ông ta liên tục cầu nguyện và ăn chay thật khe khắt. Nhưng cách đó không ăn thua gì, trưởng lão khuyên ăn chay và cầu nguyện đồng thời dùng một thứ thuốc. Hồi ấy, nhiều người khó chịu về chuyện đó và lắc đầu bàn tán với nhau, bực tức nhất là Cha Ferapont, ngay hồi ấy một số kẻ gièm pha đã vội mách ngay với Cha về cách chữa trị "lạ thường" đó của trưởng lão trong trường hợp đặc biệt ấy.
- Cha đi đi! - Cha Paixi nới với giọng oai nghiêm. - Con người không có quyền phán xét, đấy là quyền của Chúa. Có lẽ ở đây chúng ta đang thấy một "sự chỉ bảo" mà cả Cha cũng như tôi và bất cứ ai khác đều không thể hiểu nổi. Cha đi đi, đừng làm náo loạn bầy chiên! - Cha Paixi bền bỉ nhắc lại.
- Trưởng lão không ăn chay theo đúng phép tác khổ tu, vì thế mới có sự thể này. Chuyện rành rành ra đấy, giấu giếm là có tội!
Ông thầy tu cuồng tín không chịu thôi, nhiệt tâm của ông ta đã quá bốc khiến ông ta mất cả khôn ngoan.
- Cha thích ăn kẹo, các bà thủ trong túi mang đến cho Cha, Cha uống trà với kẹo, Cha hy sinh cái bụng, nhồi cho đầy của ngọt ngào, do đó trí óc Cha đầy ắp những ý nghĩ cao ngạo… Bởi thế Cha chuốc lấy sự ô nhục như thế…
- Cha nói năng đến là bộp chộp, thưa Cha! - Cha Paixi cũng cất cao giọng. - Tôi khâm phục phép ăn chay và khổ tu của Cha, những lời Cha nói ra thật là bộp chộp, chẳng khác gì lời lẽ của một người phàm tục trẻ tuổi tính khí thất thường và ngu dại. Cha đi đi, tôi ra lệnh cho Cha đấy. - Cha Paixi kết luận, nói oang oang.
- Ừ, thì thôi đi! - Cha Ferapont đáp, dường như hơi luống cuống, nhưng vẫn hung hăng. - Các người thì thông thái rồi! Cậy học vấn nhiều, các người lên mặt với kẻ hèn kém này! Khi đến đây tôi là kẻ ít học, trong thời gian ở đây tôi đã quên sạch những gì tôi biết, chính Chúa Trời đã giữ gìn cho kẻ nhỏ bé như tôi khỏi bị ảnh hưởng bởi sự anh minh của các người…
Cha Paixi vẫn đứng trước ông ta, chờ đợi với vẻ kiên quyết.
Cha Ferapont im lặng một lát, rồi đột nhiên trở nên rầu rĩ, đưa tay phải lên ấp vào má, vừa nhìn quan tài trưởng lão vừa nói bằng giọng ngân nga:
- Sáng mai người ta sẽ hát bài thánh ca "Đấng Cứu giúp và Che chở" để ngợi khen ông ta, còn khi tôi chết, người ta sẽ chỉ ngâm bài thơ xoàng xĩnh "Đời vui thú biết bao"(2) - Cha nói bằng giọng thảm thiết và tiếc rẻ. - Các người kiêu căng và vênh váo đây là một chốn hoang vu! - Cha bỗng gào lên như người điên, rồi vung tay quay ngoắt đi và bước nhanh xuống bậc tam cấp.
Đám đông đứng chờ ở dưới ngập ngừng; có những người lập tức đi theo Cha, còn Cha Paixi theo Cha Ferapont ra bậc tam cấp vẫn đứng quan sát. Nhưng ông già hăng máu chưa chịu chấm dứt hẳn: đi được mười bước, ông ta bỗng quay về phía mặt trời lặn, giơ hai tay lên cao, rồi như cái cây bị phạt gốc, ông đổ vật xuống đất, gào toáng lên:
- Chúa của tôi đã thắng! Đấng Kito đã thắng mặt trời lặn! - ông gào như điên như cuồng, giơ hai tay về phía mặt trời, úp mặt xuống đất, khóc nức nở như đứa con nít, toàn thân run lên trong tiếng khóc và hài tay đang ra trên mặt đất. Lập tức mọi người đâm bồ đến chỗ Cha, tiếng kêu than, tiếng nức nở… Tất cả mọi người đều như lên cơn cuồng loạn!
- Đây mới là vị thánh! Đây mới là bậc công chính! - Tiếng reo hò nổi lên, không còn biết sợ nữa. - Người như thế mới đáng được tôn làm trưởng lão. - Một số khác nói thêm, coi bộ càng dữ tợn hơn.
- Cha sẽ không làm trưởng lão… Chính Cha sẽ khước từ… Cha sẽ không theo cái lối mới đáng nguyền rủa ấy… Cha sẽ không bắt chước việc làm ngu xuẩn của họ.
Tiếng những người khác nói đế vào sự thể sẽ đi đến đâu, khó mà tưởng tượng được, nhưng đúng lúc ấy có tiếng chuông gọi đi lễ. Mọi người nhất tề làm dấu thánh. Cả Cha Ferapont cũng đứng lên, làm dấu thánh, rồi đi về phòng mình, không hề ngoái nhìn lại, vẫn không ngừng la lên, những lời nói không còn mạch lạc gì nữa. Một số người đi theo Cha, ít thôi, đa số tản đi, vội vàng đến dự lễ. Cha Paixi chuyển cho Cha Ioxof đọc Phúc âm và xuống bậc tam cấp, tiếng hò la điên loạn của những người cuồng tín không làm Cha nao núng, nhưng Cha bỗng buồn não lòng và đặc biệt nhớ nhung một cái gì không rõ, Cha cảm thấy điều đó. Cha dừng lại và bỗng tự hỏi: "Vì sao ta buồn đến suy sụp tinh thần như vậy?" - và Cha ngạc nhiên hiểu ngay rằng nỗi buồn ấy của Cha rõ ràng do một duyên cớ rất nhỏ nhặt và riêng biệt: trong đám đông vừa nãy xúm xít ở gần cửa phòng. Cha bỗng nhận thấy Aliosa giữa những người khác đang xốn xao và Cha nhớ lại rằng nhìn thấy anh, lập tức Cha cảm thấy đau lòng. "Lẽ nào chàng trai này giờ đây chiếm vị trí lớn lao như thế trong trái tim ta?" - Cha bỗng ngạc nhiên tự hỏi.
Vừa hay Aliosa đi qua gần đấy, như vội vả đi đâu, nhưng không đi về phía nhà thờ. Luồng mắt hai người gặp nhau. Aliosa quay mắt đi ngay và nhìn xuống đất, chỉ qua bộ dạng của chàng trai, Cha Paixi đã đoán ra lúc này ở anh đang diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ dường nào.
- Cả con cũng sa chước cám dỗ ư? - Cha Paixi đột nhiên kêu lên. - Cả con cũng ngã theo những người kém đức tin ư! - Cha Paixi chua xót nói thêm.
Aliosa dừng lại và nhìn Cha Paixi, cái nhìn hơi vu vơ, rồi quay mặt đi ngay và lại gằm mặt xuống đất. Anh đứng xoay nghiêng và không quay mặt về phía người hỏi. Cha Paixi chăm chú quan sát.
- Con vội đi đâu vậy? Có chuông lễ đấy? - Cha lại hỏi, nhưng Aliosa không trả lời.
- Con sẽ ra khỏi nhà tu chăng? Mà lại không xin phép, không được ban phép lành ư?
Aliosa đột nhiên nhếch mép cười gượng gạo, và một cách kỳ lạ rất kỳ lạ, anh ngước mắt lên nhìn vị cha đạo vừa hỏi anh: vị giáo đạo trước đây của anh, người đã từng làm chú trái tim và khối óc của anh, trưởng lão yêu quý của anh, trước khi qua đời đã giao phó anh cho đức cha này. Vẫn như lúc trước, anh không trả lời, phẩy tay dường như chẳng bận tâm gì đến lễ độ, rảo bước đi ra khỏi cổng nhà tu.
- Con sẽ còn trở lại! - Cha Paixi lẩm bẩm, nhìn theo Aliosa, vừa ngạc nhiên, vừa đau xót.
Chú thích:
(1) Một hàng giáo phẩm trong đạo chính thống (N.D). (2) Khi đưa thi hài một thầy tu bình thường từ phòng tu đến nhà thờ, hay sau tang lễ, đưa từ nhà thờ ra nghĩa địa, người ta ngàm bài "Đời vui thú biết bao…". Còn nếu người quá cố là ieroxkhimonac thì hát bài thánh ca: "Đấng Cứu giúp và Che chở" (chú thích của F. Dostoievsky).
Cha Paixi cố nhiên đã không lầm khi nói quyết rằng "chú bé dễ thương" của Cha sẽ trở lại, thậm chí có lẽ Cha đã hiểu (dù không hoàn toàn nhưng vẫn cứ là sáng suốt) tâm trạng thực của Aliosa. Tuy nhiên, tôi xin thành thật thú nhận rằng bây giờ chính tôi cũng rất khó lòng truyền đạt rõ ràng ý nghĩa đích thực của khoảnh khắc lạ lùng và mập mờ đó trong đời của nhân vật còn quá trẻ trung ấy mà tôi rất đỗi yêu mến. Đáp lại câu hỏi đau buồn của Cha Paixi nêu ra với Aliosa: "Hay con ngả theo những người kém đức tin" - cố nhiên tôi có thể thay Aliosa trả lời dứt khoát: "Không, anh ấy không ngả theo những người kém đức tin". Hơn nữa, còn ngược hẳn lại là khác: tất cả sự bối rối của anh chính là bởi anh đã tin nhiều. Nhưng đúng là có bối rối, điều ấy đã xảy ra, và rất đỗi đau khổ, đến nỗi sau này, mãi sau này, Aliosa vẫn coi cái ngày đau buồn ấy là một ngày nặng nề nhất và tai ác nhất trong đời mình. Nếu người ta hỏi thẳng: "Chẳng lẽ anh ta buồn lo như thế chỉ là vì thi hài trưởng lão đáng lẽ phải lập tức bộc lộ phép lạ chữa bệnh thì lại sớm có mùi hay sao?" thì tôi sẽ trả lời ngay không ngần ngừ: "Vâng, quả là như thế". Tôi chỉ yêu cầu bạn đọc đừng vội chê cười quá đáng tấm lòng trong trắng của chàng trai ấy của tôi. Bản thân tôi chẳng những không có ý định xin tha thứ cho anh ta, hay thay anh ta mà xin lỗi, hay bào chữa cho lòng tin chất phác của anh ta, viện cớ anh ta tuổi trẻ non nớt chẳng hạn, hay viện cớ anh ta chẳng tấn tới gì lắm trong việc học hành trước đây, v.v… nhưng thậm chí tôi sẽ làm ngược lại và tuyên bố dứt khoát rằng tôi thành thực kính trọng bản chất trái tim anh ta. Chắc chắn là một thanh niên khác dè dặt tiếp nhận những xúc động tình cảm, biết cách yêu không nồng cháy, mà chỉ yêu một cách đầm ấm, đầu óc tuy đúng đắn, nhưng so với tuổi thì quá chín chắn (vì vậy là rẻ tiền), một thanh niên như thế, tôi xin nói với các bạn là sẽ tránh được tình cảm đã xảy ra với chàng trai của tôi, nhưng trong một số trường hợp, quả thực là để mình bị lôi cuốn vào cuộc đam mê tuy là cuồng dại, nhưng do tình yêu lớn lao thôi thúc thì còn đáng trọng hơn là không đam mê gì hết! Nhất là trong thời tuổi trẻ bởi vì một thanh niên luôn luôn chín chắn thì chẳng hay ho gì và là thứ đồ rẻ tiền - ý kiến của tôi là như vậy! Một số người chuộng lẽ phải có lẽ sẽ kêu lên: "Nhưng không phải thanh niên nào cũng có thể tin vào một thành kiến như vậy, và chàng trai của ông chẳng có quyền gì bắt mọi người phải theo anh cả". Tôi sẽ trả lời như sau: Vâng, chàng trai của tôi tin, tin một cách thiêng liêng, không gì lay chuyển nổi nhưng tôi vẫn không xin tha thứ cho anh ta.
Các bạn ạ, tuy ở trên tôi đã tuyên bố (có lẽ là quá hấp tấp) rằng tôi sẽ không thanh minh, không xin lỗi và bào chữa cho nhân vật của tôi, nhưng tôi thấy vẫn cần làm sáng tỏ một điều để độc giả tiếp tục hiểu câu chuyện của tôi. Tôi xin nói thế này: đây không phải là chuyện chờ mong phép lạ. Không phải là việc nôn nóng chờ mong phép lạ một cách nông nổi. Aliosa cần phép lạ không phải đế giành phần thắng cho những niềm tin nào đó của mình, không phải để cho một định kiến nào đó có sẵn từ trước mau mau thắng một định kiến khác, không, hoàn toàn không: trong toàn bộ sự việc này trước hết, ở vị trí hàng đầu là một gương mặt hiện lên trước mắt anh, chỉ là một gương mặt - gương mặt trưởng lão yêu quý của anh, gương mặt của bậc công chính mà anh tôn thờ đến độ. Đúng là hồi ấy và suốt một năm trước, tất cả tình yêu ẩn sâu trong trái tim non trẻ và trắng trong của anh đối với "mọi người và mọi sự" có lúc chỉ tập trung vào một người, - có lẽ như vậy là không đúng lắm - ít ra là trong những lúc tình cảm bồng bột nhất, tất cả tình yêu của anh tập trung vào vị trưởng lão yêu dấu nay đã qua đời.
Thực ra, suốt một thời gian dài, đối với anh con người đó là lý tưởng tuyệt đối, mọi sinh lực tuổi trẻ của anh không thể không khao khát chỉ hướng về lý lường đó, thậm chí có những lúc anh quên hết cả "mọi người và mọi sự". (Sau này anh nhớ lại rằng trong ngày đau buồn ấy, anh quên bẵng cả anh Dmitri thế mà hôm trước anh hết sức lo âu và buồn nhớ anh: anh cũng quên mang cho bố Iliusetrka hai trăm rúp, thế mà hôm trước anh hăm hở định thực hiện ngay việc đó). Nhưng vẫn không phải là anh cần phép lạ, mà chỉ là cần "công lý tối cao", nhưng theo niềm tin của anh thì công lý ấy đã bị phá hoại, do đó trái tim anh bị giáng một đòn tàn bạo và bất ngờ. Nhưng cớ gì trong sự mong đợi của Aliosa, bản thân tiến trình sự việc lại khiến cho công lý ấy mang hình thức phép lạ mà người ta trong chờ thể hiện ra ngay ở thi hài đấng giáo đạo mà anh tôn thờ? Nhưng mọi người trong tu viện đều nghĩ như thế và mong chờ điều đó, kể cả những người mà Aliosa khâm phục trí tuệ của họ, như Cha Paixi chẳng hạn, còn Aliosa không gợn chút hoài nghi, cũng chung niềm mơ ước với tất cả mọi người. Hơn nữa điều đó đã bắt rễ trong tim anh qua cả một năm sống trong tu viện, và trái tim anh đã có thói quen chờ mong như thế. Nhưng anh khao khác công lý, công lý chứ không phải chỉ là phép lạ! Thế những người mà anh hy vọng sẽ phải được tôn cao hơn ai hết trên cả cõi thế gian này thì đáng lẽ được vinh hiển xứng đáng, lại bị lật nhào và chịu nhục. Vì lẽ gì? Ai phán xét? Ai có thể phán xét như thế? - đấy là những câu hỏi giày vò trái tim non trẻ trong trắng của anh. Anh không thể không cảm thấy bị xúc phạm, thậm chí tức giận trong lòng khi thấy bậc công chính nhất trong những người công chính phải chịu sự nhạo báng chua cay hằn học của đám đông nông nổi và thấp kém hơn đấng ấy quá nhiều như vậy. Ừ thì không có phép lạ gì đi nữa, ừ thì chẳng có gì huyền nhiệm và điều người ta mong đợi chẳng thể hiện ra ngay tức thời, sao lại nhục nhã như thế, sao lại bốc mùi sớm như thế, "đi trước cả sự diễn biến tự nhiên", như những thầy tu ác độc đã nói? Sao lại có và sao họ lại tin rằng họ có quyền làm như thế? Đấng tối cao ở đâu và ngón tay Ngài ở đâu? Sao Ngài lại giấu ngón tay của Ngài đi "vào lúc cần thiết" (Aliosa nghĩ như vậy), như thể Ngài tự ý muốn phục tùng quy luật tự nhiên mù quáng, câm lùng và tàn nhẫn.
Vì thế tim Aliosa rỉ máu, và cố nhiên, như tôi đã nói, nguyên nhân trước hết ở đây là vì con người mà anh yêu quý nhất trần đời bị "ô nhục", bị "ô danh". Cứ cho rằng sự oán thán đó của chàng trai của tôi là nông nổi và vô lý đi, nhưng tôi nhắc lại lần thứ ba (và tôi xin đồng ý trước rằng như thế cũng là nông nổi): tôi lấy làm vui sướng rằng chàng trai của tôi không phải lẽ lắm trong lúc như thế này, nhưng với một người không đần thì thế nào rồi cũng có lúc lẽ phải đến với người đó, nhưng nếu vào một giây lát phi thường như thế mà tình yêu vẫn không nảy sinh trong trái tim chàng trai trẻ thì bao giờ nó sẽ đến? Tuy nhiên, trong trường hợp này, tôi không muốn lờ đi một hiện tượng hơi lạ lùng, tuy là chỉ thoáng qua, nhưng đã bộc lộ ra trong trí óc Aliosa vào cái phút ác hại làm anh rối loạn. Điều mới mẻ thoáng hiện ấy là: cảm giác dằn vặt vì bây giờ Aliosa không ngừng nhớ tới cuộc nói chuyện hôm qua với anh Ivan. Chính là bây giờ. Ồ, không phải là trong số những niềm tin nền tảng, tự phát, nếu có thể nói như vậy, trong tâm hồn anh đã có cái gì lung lay. Anh yêu Chúa Trời của mình và có niềm tin bất di bất dịch vào Chúa, tuy bất ngờ anh đã oán thán Chúa.
Nhưng, nhớ tới cuộc nói chuyện hôm qua với anh Ivan, một cảm tưởng mơ hồ nhưng đau khổ và tai ác bây giờ lại động đậy trong tâm hồn anh và mỗi lúc càng dòi nổi lên bề mặt. Khi trời đã tối hẳn, Rakitin đi qua vạt rừng thông từ tu xá đến tu viện bỗng thấy Aliosa nằm dưới gốc cây, úp mặt xuồng đất và không động đậy, như đang nằm ngủ.
- Anh ở đây ư, Alecxei? Chẳng lẽ anh… - Anh ta thốt lên, ngạc nhiên, nhưng không nói hết câu, mà ngừng lại. Anh ta muốn nói: "Anh mà cũng đến nỗi như thế ư". Aliosa không nhìn anh ta, nhưng qua một cử động của anh, Rakitin đoán ra ngay rằng Aliosa nghe thấy và hiểu anh ta.
- Anh làm sao thế chứ? - Anh ta tiếp tục ngạc nhiên, nhưng trên mặt anh ta sự ngạc nhiên đã bắt đầu nhường chỗ cho nụ cười mỗi lúc một rõ nét giễu cợt. - Này, tôi tìm anh đã hơn hai tiếng rồi đấy. Tự dưng anh biến mất. Anh làm gì ở đây vậy? Có chuyện gì không hay xảy đến với anh vậy? Ngẩng lên nhìn tôi một tí nào…
Aliosa ngẩng đầu lên, ngồi dậy, tựa lưng vào cái cây. Anh không khóc, nhưng vẻ mặt đau khổ, còn ánh mắt giận dữ. Nhưng anh không nhìn Rakitin, mà nhìn đi chỗ khác.
- Này, mặt anh nom khác hẳn. Không còn mảy may cái vẻ nhu mì trứ danh trước kia của anh. Anh giận ai phải không? Họ trêu chọc anh ư?
- Thôi đi! - Aliosa đột nhiên thốt lên, vẫn không nhìn Rakitin và xua tay mệt mỏi.
- Ồ bọn ta là như thế đấy! Cũng la hét hệt như những người trần tục khác! Vậy mà dự vào hàng thiên thần đấy. Này, Aliosa, anh làm tôi ngạc nhiên, anh nên biết điều đó, nói thực đấy. Đã lâu ở đây tôi không hề ngạc nhiên gì hết. Bởi vì tôi vẫn cho anh là người có học mà…
Cuối cùng Aliosa nhìn anh ta, nhưng hơi có vẻ lơ đãng, dường như vẫn chưa hiểu tí gì.
- Chẳng lẽ chỉ vì thi hài ông già của anh bốc mùi ư? Lẽ nào anh thực bụng tin rằng ông già sẽ làm phép lạ? - Rakitin kêu lên, lại chuyển sang sự ngạc nhiên hết sức thành thật.
- Tôi đã tin, vẫn tin và sẽ còn tin, anh còn muốn gì nữa? - Aliosa la lên một cách cáu kỉnh.
- Không muốn gì hết, bạn thân yêu ạ. Quái quỷ, điều đó thì bây giờ ngay đến đứa học trò mười ba tuổi cũng không tin. Thế nhưng, đồ quỷ… Thế là bây giờ anh tức giận Chúa Trời của anh, anh nổi loạn: anh không được thăng bậc, ngày lễ anh không được tặng huân chương! Rõ chán với anh!
Aliosa nheo mắt nhìn Rakitin hồi lâu và mắt anh bỗng lóe lên… nhưng không phải là căm tức Rakitin.
- Tôi không nổi loạn chống lại Chúa Trời của tôi, tôi "chỉ không chấp nhận thế giới này" của Chúa. - Aliosa bỗng mỉm cười gượng gạo.
- Không chấp nhận thế giỏi này là thế nào? - Rakitin hơi băn khoăn về câu trả lời của Aliosa, - nói vớ vẩn gì thế?
Aliosa không đáp.
- Thôi chuyện tầm phào đủ rồi, bây giờ vào việc thiết thực: hôm nay anh ăn chưa?
- Tôi không nhớ… hình như ăn rồi.
- Anh cần bồi bổ sức khỏe, mặt anh nom thể kia kìa. Nhìn anh mà thương hại. Đêm vừa rồi anh không ngủ, tôi nghe nói có cuộc chầu lễ gì đó. Rồi tiếp đến vụ náo động ấy… Chắc là anh mới chỉ ăn một mẩu bánh thánh. Trong nồi tôi có xúc xích dây, khi ở thành phố về tôi mang theo để phòng xa, nhưng xúc xích thì anh lại không…
- Đưa xúc xích đây.
- A ha! Thì ra anh thế đấy! Như vậy là hoàn toàn nổi loạn, dựng chiến luỹ chống đối! Hà, người anh em ạ, việc này không nên coi thường. Đến tôi đi… Lúc này tôi muốn làm một hớp vodka, mệt chết đi được. Chắc anh không dám uống… hay anh sẽ uống?
- Đưa cả vodka ra.
- Ái chà - chà! Kỳ lạ đấy, người anh em ạ! - Rakitin ngớ ra nhìn. - Gì thì gì, xúc xích hay vodka thì cũng là táo bạo cả, tốt thôi, không thể bỏ lỡ dịp, ta đi thôi.
Aliosa lẳng lặng đứng lên đi theo Rakitin.
- Anh Vanetrka nhà anh mà thấy thế này thì hẳn là ngạc nhiên lắm! Mà này, anh Ivan Fedorovich nhà anh sáng nay đi Moskva, anh biết không?
- Biết! - Aliosa nói bằng giọng thờ ơ và bỗng nhiên hình ảnh anh Dmitri thoáng qua trong óc anh, nhưng chỉ thoáng qua thôi, và tuy anh có nhớ đến một điều gì, một việc gì cấp bách không thể hoãn lại một phút, một bổn phận, một trách nhiệm gì ghê gớm, nhưng sự nhớ lại đó không gây cho anh một cảm tưởng nào, không thấu động đến trái tim anh, nó lập tức bay biến và bị quên đi. Mãi về sau, Aliosa vẫn nhớ lại chuyện ấy.
- Anh Vanetrka nhà anh có lần đã bảo tôi là "phường giá áo túi cơm, bất tài và tự do chủ nghĩa". Anh cũng có lần không nén được và tỏ cho tôi hiểu rằng tôi là kẻ "bất lương"… Cũng được đi! Bây giờ tôi sẽ xem tài năng và sự chính trực của anh như thế nào (Rakitin thì thầm và thốt lên câu này, chỉ nói riêng với mình). Hừ, nghe đây! - Anh ta lại nói to. - Ta bỏ qua tu viện đi, đi đường mòn về thẳng thành phố. Hừm. Tôi có việc phải ghé qua nhà bà Khokhlakova. Anh tưởng tượng xem: tôi đã viết cho bà ấy về tất cả những chuyện đã xảy ra, bà ấy tức khắc viết cho tôi một lá thư ngắn, bằng bút chì (cái bà này rất thích viết những lá thư ngắn), rằng bà ta "không thể nào ngờ được một vị trưởng lão đáng kính như Cha Zoxima lại có hành vi như thế!" Bà ta viết thế đấy: hành vi!". Bà ta cũng tức giận. Ôi chao, tất cả các người! ấy khoan! - bất thần anh ta lại quát lên, ngừng lời, đạt tay lên vai Aliosa, ngăn anh lại.
- Này Aliosa, - anh ta nhìn vào mắt Aliosa nói với vẻ dò xét, một ý nghĩ mới mẻ bất ngờ choán hết tâm trí anh ta, anh ta hớn hở hẳn lên, tuy bề ngoài anh ta cười cợt, nhưng rõ ông anh ta không dám nói ra ý nghĩ mới mẻ bất ngờ ấy, đến nỗi anh ta vẫn chưa thề tin vào cái trạng thái kỳ lạ và bất ngờ của Aliosa mà anh ta nhìn thấy bây giờ. - Aliosa, anh có biết bây giờ ta đi đâu hay hơn cả không? - Cuối cùng anh ta nói, giọng rụt rè có ý thăm dò.
- Đi đâu cũng được… tuỳ ý anh.
- Ta đến Grusenka, được không? Anh đi chứ? - Cuối cùng Rakitin nói, trong lòng vẫn run vì phấp phỏng chờ đợi.
- Thì đến Grusenka. - Aliosa lập tức điềm tĩnh trả lời, điều đó thật bất ngờ đối với Rakitin, sự ưng thuận mau chóng và bình tĩnh như thể khiến anh ta suýt nhảy về phía sau.
- Chà!… Thế chứ! - Anh ta suýt kêu lên vì ngạc nhiên, nhưng đột nhiên, anh ta khoác chặt tay Aliosa, lôi Aliosa đi thật nhanh trên con đường mòn, vẫn hãi rằng quyết tâm của bạn sẽ tan biến.
Hai người lẳng lặng đi, Rakitin thậm chí không dám lên tiếng.
- Cô ấy sẽ vui mừng biết mấy, vui mừng lắm… - Anh ta lẩm bẩm, rồi lại im bặt. Nhưng anh ta lôi Aliosa đến Grusenka không phải để làm vui lòng nàng. Anh ta là con người nghiêm túc và không bao giờ làm một việc gì mà không nhằm mục đích có lợi cho mình. Bây giờ anh ta nhắm hai mục đích cùng một lúc: thứ nhất là để trả thù tức là nhìn thấy "sự ô nhục của bậc công chính", "sự sa ngã" có thể xảy ra của Aliosa, việc anh "từ ông thánh biến thành kẻ tội lỗi", điều mà mới nghĩ đến anh ta đã cảm thấy khoái trá, hai là anh ta có một mục đích vật chất rất có lợi cho anh ta, dưới đây tôi sẽ nói đến.
"Vậy là đã có được một phút như thế. - Anh ta vui vẻ nghĩ thầm trong bụng một cách hiểm độc - vì vậy ta phải chộp ngày lấy dịp này, vì nó rất thích hợp cho chúng ta".
Grusenka ở một nơi nhộn nhịp nhất trong thành phố, gần quảng trường Nhà thờ Lớn, nhà bà Morozova, vợ goá một thương gia. Nàng thuê một gian nhà gỗ nhỏ đầu hồi, liền với sân. Nhà Morozova là một toà nhà đã rộng lớn, hai tầng, đã lâu đời và rất xấu xí, ở đó có bà chủ đã già với hai cô cháu gái đã đứng tuổi mà không chống, họ sống tách biệt với bên ngoài. Bà ta chẳng cần phải cho thuê gian nhà phụ ở sân nhưng mọi người đều biết rằng bà ta cho Grusenka ở (từ bốn năm trước) chỉ để chiều lòng người họ hàng của mình là thương gia Xamxonov, ông già công khai nuôi bao Grusenka. Người ta nói rằng khi đưa "ái phi" của mình đến, ông già hay ghen muốn nhờ con mắt soi mói của bà lão theo dõi hành vi của cô gái mới đến thuê nhà.
Nhưng con mắt soi mói chẳng bao lâu hoá ra vô ích, rốt cuộc Morozova thậm chí ít khi gặp Grusenka và chẳng để mắt làm rầy nàng nữa. Thực ra, đã bốn năm qua kể từ khi ông già đưa cô gái mười tám tuổi, rụt rè bẽn lẽn, mảnh dẻ, gầy nhom, tư lự và buồn rầu từ tỉnh lị về nhà này, từ bấy đến nay đã bao nhiêu nước chảy qua. Thế nhưng ở thành phố chúng tôi ai chẳng rõ mấy lai lịch cô bé này, ngay thời gian gần đây người ta cũng chẳng biết gì hơn, thậm chí cả khi đã rất nhiều người để ý đến "trang tuyệt sắc" này, qua bốn năm Agrafena Alecxandrovna đã trở thành một mĩ nhân như thế đấy. Chỉ nghe đâu rằng hồi mới mười bảy tuổi, nàng đã bị một kẻ nào lừa dối, đâu như một gã sĩ quan, sau đó gã bỏ rơi luôn. Gã sĩ quan bỏ đi và lấy vợ ở đâu không rõ, còn Grusenka lâm vào cảnh nhục nhã và bần cùng.
Nghe nói tuy Grusenka được ông già cứu ra khỏi cảnh cùng túng, nhưng nàng vốn là con nhà tử tế, hình như thuộc giới tăng lữ, nàng là con gái một viên trợ tế tạm nghĩ việc hay đại loại như thế. Thế rồi trong bốn năm trời, cô bé mồ côi đa cảm, tủi hận, đáng thương đã trở thành một phụ nữ Nga xinh đẹp, hồng hào, đẫy đà, tính tình bạo dạn và cương quyết, kiêu căng và trâng tráo, thạo kiếm tiền, keo kiệt và thận trọng, không rõ bằng cách ngay thẳng hay lừa lọc, nhưng theo người ta nói thi đã gây được một khoản vốn riêng. Có một điều mọi người đều biết chắc: khó mà gần được Grusenka, ngoài ông già bao nàng thì trong suốt bốn năm trời chưa có lấy một người nào có thể khoe là đã được nàng ban ân huệ. Đấy là sự thật hiển nhiên, vì đã có nhiều người theo đuổi phải bỏ cuộc, đặc biệt hai năm gần đây. Mọi mưu toan đều uổng công, một số người chẳng những phải tháo lui mà còn bị chê cười và mang nhục do sự khước từ cương quyết và cợt nhạo của cô nàng trẻ tuổi khó tính. Người ta còn biết rằng cô nàng, đặc biệt năm gần đây, đã bắt đầu chạy "phe", và về mặt này nàng có khả năng lạ thường, thành thử rốt cuộc nhiều người gọi nàng là ả Do Thái thực thụ. Không phải nàng cho vay lãi, người ta biết rằng có thời gian nàng cùng với Fedor Pavlovich Karamazov mua hối phiếu với giá rẻ mạt, bằng một phần mười giá trị của nó, rồi sau đó có những lần lại bán được nguyên giá. Xamxonov ốm yếu, năm gần đây hai chân sưng phù không đi lại được, goá vợ, một bạo chúa đối với các con tin đã trưởng thành, nhà tư bản lớn, một người keo kiệt và khe khắt, nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh của cô gái được ông ta bao bọc, thoạt đầu ông ta rất nghiệt ngã với nàng, bắt nàng sống kham khổ, "ăn chay tu đạo", như những kẻ hay giễu cợt đã nói. Nhưng Grusenka đã tự giải phóng, đồng thời vẫn làm cho ông già tin tưởng vô hạn ở sự chung thuỷ của nàng. Ông già này là một nhà kinh doanh lớn (bây giờ đã qua đời), cũng là một người có tính cách khác thường, cái chính là keo kiệt và sắt đá, tuy Grusenka đã chinh phục được ông ta đến mức ông ta không thể sống không có nàng (chẳng hạn hai năm gần đây là như thế) nhưng ông ta vẫn không cho nàng một khoản vốn lớn, thậm chí nàng doạ bỏ ông ta, ông ta cũng không lay chuyển. Nhưng ông ta cũng cho nàng một khoản vốn nhỏ, khi biết điều đó mọi người ngạc nhiên. "Cô khá tinh khôn, - ông ta nói khi cho nàng tám ngàn đồng, - cô tự lo liệu lấy mà làm ăn, nhưng nên biết rằng ngoài số chu cấp hàng năm như trước, cho đến khi tôi chết cô cũng không được thêm gì đâu, và trong di chúc tôi cũng không cho gì nữa". Ông ta giữ lời: khi chết ông ta để lại tất cả cho các con trai mà suốt đời ông ta vẫn bắt phải ở với mình, coi ngang hàng như bọn đầy tớ, cùng với vợ con họ, còn Grusenka thậm chí không được nhắc đến trong di chúc. Những chuyện đó sau này người ta đã biết. Bằng cách khuyên nàng sử dụng "vốn riêng" như thế nào, ông ta đã giúp nàng khá nhiều và chỉ dẫn "công việc" cho nàng. Khi Fedor Pavlovich Karamazov thoạt đầu có quan hệ với Grusenka do một "phi vụ" tình cờ, sau lại đâm ra mê nàng đến mất trí - điều mà chính ông ta không ngờ - thì ông già Xamxonov, lúc ấy đã kề miệng lỗ, cười nhạo thoả thích. Đáng chú ý là suốt thời gian Grusenka có quan hệ với ông già của mình, nàng dường như hoàn toàn thật lòng với ông ta, và đây dường như là người duy nhất trên đời mà nàng đối xử thật tâm như vậy. Gần đây nhất, khi Dmitri Fedorovich xuất hiện với mối tình của mình, ông già không cười nữa. Trái lại, có lần ông đã nghiêm trang khuyên Grusenka: "Nếu chọn một trong hai người, bố hay con trai, thì hãy chọn ông già, nhưng nhất định phải bắt lão già đểu giả cưới cô hẳn hoi, mà trước hết là phải cho cô một khoản vốn. Nhưng đừng thân mật quá với gã đại uý, kẻo rồi không thoát ra được đâu". Đấy là lời ông già dâm đãng nói với Grusenka khi ông ta cảm thấy mình sắp chết đến nơi và quả nhiên, năm tháng sau ông ta từ trần. Xin nói qua rằng mặc dù trong thành phố chúng tôi nhiều người biết sự kình địch lố lăng, quái đản giữa hai cha con nhà Karamazov vì Grusenka, nhưng không mấy người hiểu ý nghĩa thực sự của mối quan hệ giữa ông già và con trai. Ngay cả hai người đầy tớ gái của Grusenka (sau khi đã xảy ra thảm hoạ mà sau này tôi sẽ nói đến) đã khai trước toà rằng Agrafena Alecxandrovna tiếp Dmitri Fedorovich chỉ vì sợ, bởi chàng "doạ giết" nàng. Nàng có hai đầy tớ gái, một bà nấu bếp rất già, trước hầu hạ trong gia đình cha mẹ nàng, bà ta ốm yếu và gần như điếc, và cháu gái bà ta, một cô bé mười hai tuổi linh lợi, là hầu phòng của Grusenka.
Grusenka sống rất tằn tiện và nhà cửa bày biện rất thanh bạch. Gian nhà phụ nàng ở chỉ có ba phòng, kê những bàn ghế cổ lỗ bằng gỗ hồng sắc kiểu những năm hai mươi, của bà chủ nhà cho mượn. Khi Rakitin và Aliosa vào thì đã sẩm tối, nhưng nhà chưa lên đèn, Grusenka nằm trong phòng khách, trên chiếc đi văng lớn thô kệch, lưng tựa làm giả màu gỗ hồng sắc, đi văng cứng với lớp da bọc cũ nát, thủng lỗ. Nàng ngả đầu lên hai chiếc gối trắng nhồi lông chim. Nàng nằm ngửa, đuôi dài, không nhúc nhích, hai tay đệm dưới đầu. Nàng mặc tùng phục như đang chờ đón ai, áo dài lụa đen, đầu đội chiếc mũ nhẹ viện đăng ten gài chiếc kim vàng nặng nề. Đúng là nàng đang chờ ai, nom buồn bã và bồn chồn, mặt hơi tái, môi và mắt hừng hực, ngón chân phải nóng nảy gõ vào tay đi văng. Rakitin và Aliosa vừa đến, trong nhà đã hơi hoảng loạn: nghe tiếng động ở phòng ngoài, Grusenka nhảy ngay xuống khỏi đi văng và sợ hãi la lên: "Ai đấy?" Nhưng cô hầu gái đã đón khách và lập tức trả lời chủ:
- Không phải cậu ấy đâu ạ, mấy người khác, khách này thì không sao ạ.
"Cô ấy có chuyện gì vậy?" - Rakitin lẩm bẩm, cầm tay Aliosa kéo vào phòng khách. Grusenka đứng bên đi văng, dường như vẫn sợ hãi. Một mảng tóc tết bím màu hạt dẻ sẫm đổ ra khỏi mũ, xoã xuống vai bên phải, nhưng nàng không để ý đến và không sửa lại, cho đến khi nhìn kỹ hai người khách và nhận ra họ.
- A, anh đấy ư, Rakitin? Anh làm tôi hết hồn. Ai đi với anh thế? Trời ơi, anh đưa ai đến thế này! - Nhận ra Aliosa, nàng kêu lên.
- Thắp nến lên đi! - Rakitin nói, vẻ suồng sã ra dáng một người thân thuộc có quyền sai bảo trong nhà.
- Nến… cố nhiên là thắp nến… Fenia, đem cây nến đến đây… Ồ lại chọn lúc này mà đưa anh ấy đến! - Nhưng lại kêu lên, gật đầu với Aliosa và quay về phía tấm gương, nhanh nhẹn đưa hai tay lên sửa lại bím tóc. Dường như nàng không hài lòng.
- Không vừa ý cô ư? - Rakitin hỏi, gần như mếch lòng.
- Anh làm tôi hoảng sợ, Rakitin ạ, thế thôi. - Grusenka mỉm cười quay về phía Aliosa. - Anh đừng sợ tôi, Aliosa thân mến ạ, anh đến tôi mừng quá đi, anh là người khách bất ngờ của tôi. Còn anh làm tôi sợ quá, Rakitin ạ, tôi cứ tưởng Mitia xộc vào. Thế này nhé, ban nãy tôi đánh lừa anh ấy và bắt anh ấy thề danh dự là tin tôi, thế nhưng tôi đã nói dối anh ấy. Tôi bảo anh ấy rằng tôi đến Kuzma Kuzmitr, ông già của tôi, tôi sẽ đi suốt buổi tối, cùng với ông già tính tiền đến đêm. Tuần nào tôi cũng đến ông ấy tính toán sổ sách suốt một buổi tối. Chúng tôi ở trong buồng khoá cửa lại: ông ấy gảy bàn tính, còn tôi ngồi ghi sổ, ông ấy chỉ tin tôi thôi. Mitia tin rằng tôi ở đấy, thế mà tôi lại đóng cửa ngồi nhà, chỉ chờ một tin đưa đến. Sao Fenia lại cho các anh vào kia chứ! Fenia, Fenia! Chạy ra mở cổng nhìn xung quanh xem đại uý có lảng vảng quanh đâu đây không? Có lẽ anh ấy nấp rình, tôi sợ chết đi được!
- Không có ai đâu, cô Agrafena Alecxandrovna ạ, vừa nãy cháu đã nhìn khắp xung quanh, chốc chốc cháu lại đến nhòm qua khe cửa chính cháu cũng sợ run lên đây này.
- Cửa chớp có đóng không, Fenia? Mà buông rèm xuống đi, thế này này! - Nàng tự tay buông những tấm rèm nặng, - kẻo thấy có ánh sáng, anh ấy xông vào đấy. Hôm nay tôi sợ anh Mitia nhà anh. Aliosa ạ, - Grusenka nói to, lo lắng, nhưng tuồng như có phần hân hoan.
- Tại sao hôm nay cô lại sợ Mitenka? - Rakitin hỏi. - Mọi khi cô có sợ anh ta đâu, anh ta van chịu cho cô sai khiến kia mà.
- Tôi đã bảo với anh là tôi đang đợi một tin báu ngọc mà, vì thế bây giờ tôi chẳng can gì đến Mitenka. Với lại anh ấy cũng không tin rằng tôi đến Kuzma Kuzmitr, tôi cảm thấy điều đó. Hẳn là bây giờ anh ấy đang phục trong vườn phía sau nhà Fedor Pavlovich để rình tôi. Nếu anh ấy đã phục ở đó thì tức là sẽ không đến đây, vậy thì càng hay! Quả thật là tôi đã đến Kuzma Kuzmitr, Mitia cùng đi với tôi đến đấy, tôi bảo với anh ấy rằng tôi sẽ ở đấy đến nửa đêm và lúc ấy nhất định anh ấy phải đến đưa tôi về. Anh ấy về tôi ngồi ở chỗ ông già khoảng mươi phút rồi về đây, tôi sợ quá chạy hộc tốc để khỏi gặp anh ấy.
- Thế cô diện như thế này để đi đâu? Cô đội cái mũ gì kỳ vậy?
- Sao anh lại tò mò thế, Rakitin! Tôi bảo với anh là tôi đang chờ tin mà. Nhận được tin là tôi vút đi ngay, các anh sẽ không còn thấy mặt mũi tôi đâu nữa. Tôi mặc đẹp để sẵn sàng đi ngay.
- Cô đi đâu?
- Biết nhiều chóng già đấy.
- Gớm chưa. Nom vui mừng hớn hở… Chưa bao giờ tôi thấy cô như thế. Diện như đi vũ hội. - Rakitin nhìn nàng từ đầu đến chân.
- Anh có hiểu gì mấy về vũ hội.
- Cô thì hiểu lắm à?
- Tôi đã từng xem vũ hội. Hơn hai năm trước Kuzma Kuzmitr cưới vợ cho con trai, tôi đứng ở hàng lan can nhìn xem. Nhưng mà Rakitin ạ, nói chuyện với anh làm quái gì, khi có một ông hoàng như thế này đang đứng đây. Một vị khách quý! Aliosa thân mến, tôi nhìn anh mà không tin; trời ơi, anh mà lại đến nhà tôi mới lạ chứ! Thực tình mà nói, tôi không sao ngờ tới, trước đây tôi không bao giờ tin rằng anh có thể đến nhà tôi. Kể thì đến bây giờ không phải lúc, nhưng tôi rất vui mừng! Ngồi xuống đi văng đi chỗ này này, thế, vầng trăng non của tôi ơi. Nói thực là tôi vẫn chưa hiểu rõ… Chà - chà, Rakitin, giá như hôm qua hay hôm kia anh đưa anh ấy đến thì hay biết mấy!… Nhưng thôi, thế này tôi cũng mừng lắm rồi. Mà có lẽ bây giờ lại càng hay, giữa lúc này, chứ không phải hôm kia…
Nàng ngồi thụp ngay xuống đi văng cạnh Aliosa, nhìn anh, vẻ thán phục ra mặt. Quả thật nàng vui mừng, nàng không nói dối. Mắt nàng rực lên, môi nàng cười, nhưng là cái cười hiền hậu, vui vẻ. Aliosa thậm chí không ngờ nét mặt nàng đôn hậu thế… Trước ngày hôm qua anh ít gặp nàng, anh có một quan niệm ghê sợ về nàng, còn hôm qua anh bàng hoàng kinh hãi về cái trò quỷ quyệt và độc ác của nàng chống lại Ekaterina Ivanovna và rất đỗi ngạc nhiên vì bây giờ bỗng nhiên anh thấy nàng khác hẳn, thật bất ngờ. Mặc dù lòng trĩu nặng nỗi đau xót riêng; vô tình mắt anh chăm chú nhìn nàng. Mọi cử chỉ của nàng dường như cũng khác hẳn hôm qua, dễ thương hơn: lối nói hầu như không còn cái giọng đường mật hôm qua, cử động không ẻo lả và kiểu cách như thế nữa… mà tất cả đều giản dị, hồn nhiên, động tác nhanh gọn, tin cậy, nhưng nàng có vẻ xúc động lắm.
- Trời ơi, tất cả những điều ấy đều xảy đến hôm nay, thật thế. - Nàng lại thủ thỉ. - Tại sao thấy anh đến tôi lại vui sướng như thế, chính tôi cũng không biết nữa, Aliosa ạ. Anh có hỏi, tôi cũng không biết!
- Cô không biết tại sao cô vui sướng à? - Rakitin nhếch mép cười - Trước đây cớ gì cô cứ nài tôi: dẫn anh ấy đến đi, tôi có mục đích riêng.
- Trước đây tôi có mục đích khác, bây giờ thì thôi rồi, không phải lúc nữa rồi. Tôi sẽ thết đãi các anh, thế đấy. Bây giờ tôi trở nên tốt bụng. Rakitin ạ. Anh ngồi xuống đi. Rakitin, đứng làm gì? Anh đã ngồi rồi ư? Ai chứ Rakitin thì không quên bản thân mình đâu. Aliosa ạ, bây giờ anh ta đang ngồi trước mặt chúng ta, vậy mà còn bực bội là làm sao, tôi không mời anh ta ngồi trước khi mời anh. Rakitin, tôi dễ mếch lòng lắm, đến là dễ mếch lòng! - Grusenka bật cười. - Đừng cáu. Rakitin, lúc này tôi hiền thôi mà. Sao anh nom buồn thế, Aliosa, hay anh sợ tôi? - Nàng nhìn vào mắt anh với vẻ giễu cợt vui vẻ.
- Anh ấy đang có sự đau xót. Không được thăng bậc.
- Cấp bậc gì?
- Trưởng lão của anh ấy bốc mùi khó ngửi.
- Bốc mùi sao kia? Anh định nói chuyện vớ vẩn, nhảm nhí gì vậy.… Im đi, đồ ngốc. Aliosa, cho tôi ngồi lên đùi anh nào, thế! - Nàng tức khắc nhỏm người và vừa cười vừa ngồi tót lên đùi Aliosa, như con mèo nũng nịu, tay phải âu yếm choàng lấy cổ anh. - Tôi sẽ làm anh vui thú, anh chàng ngoan đạo của tôi ạ! Ồ không, anh cho phép tôi ngồi trên đùi anh mà không giận thực ư? Anh bảo một câu là tôi nhảy xuống ngay.
Aliosa lặng thinh. Anh ngồi không dám động đậy, anh nghe thấy lời Grusenka nói: "Anh bảo một câu là tôi nhảy xuống ngay", nhưng anh không trả lời, như chết lặng đi. Nhưng anh không có cái cảm giác mà Rakitin chờ đợi và tưởng tượng ra cho anh trong lúc này: anh ta ngồi ở chỗ của mình hau háu nhìn bằng con mắt dâm đãng. Nỗi đau xót ghê gớm trong tâm hồn nuốt chửng mọi cảm giác có thể nảy sinh trong cảm Aliosa, và như lúc này anh có thể hoàn toàn hiểu rõ mình thì hẳn anh sẽ đoán ra rằng anh được bọc một lớp giáp sắt hết sức vững chắc chống lại mọi sự cám dỗ. Tuy nhiên, mặc dù lúc này tâm hồn anh đang rối loạn đến tê dại và trong lòng hết sức đau xót, bất giác anh vẫn ngạc nhiên về một cảm giác mới mẻ kỳ lạ: người phụ nữ này, người phụ nữ "đáng sợ" này bây giờ chẳng những không làm anh sợ như trước, nỗi sợ nảy sinh trong anh trước đây mỗi khi tơ tưởng đến phụ nữ, nếu như một mơ ước như thế thoáng hiện trong tâm hồn anh, nhưng trái lại, người phụ nữ này, mà anh sợ hơn hết thảy, đang ngồi trên đùi anh và ôm anh, bây giờ bỗng nhiên lại khơi dậy trong anh một tình cảm hoàn toàn khác, bất ngờ và đặc biệt, một cảm giác tò mò hơi lạ thường, hết sức mãnh liệt và chân tình đối với nàng, và không một chút sợ hãi, không một chút kinh hoàng như trước kia, đấy là điều quan trọng nhất bất giác làm anh ngạc nhiên.
- Thôi chuyện trò nhăng nhít thế đủ rồi. - Rakitin lớn tiếng nói. - Đưa sâm banh ra đây thì hơn, cô nợ tôi đấy, cô thừa biết đi rồi!
- Đúng là tôi nợ anh, Aliosa ạ, tôi có hứa rằng nếu anh ta rủ được anh đến thì ngoài mọi cái khác ra, tôi sẽ khao sâm banh. Ừ, thì sâm banh, tôi cũng sẽ uống! Fenia, Fenia, đưa sâm banh ra đây lấy cái chai Mitia để lại ấy, chạy nhanh lên. Tôi tuy bủn xỉn, nhưng cũng bỏ ra một chai không phải để mừng Rakitin đâu, anh là cây nấm, còn Aliosa là ông hoàng! Tuy bây giờ tôi chẳng bụng dạ đâu nghĩ đến chuyện ấy, nhưng thôi được, tôi sẽ uống với các anh, tôi muốn phá phách một chầu!
- Cô nói "lúc này" là thế nào, "tin" gì vậy, có bí mật không đấy? - Rakitin lại tò mò chêm lời, cố làm ra vẻ không để ý gì đến những lời châm chọc tới tấp phóng vào anh ta.
- Ồ chẳng phải là điều bí mật, chính anh cũng biết đấy, - Grusenka nói với vẻ lo ngại, quay đầu về phía Rakitin và hơi ngã người tách khỏi Aliosa, tuy vẫn ngồi trên đùi anh, một tay quàng cổ anh. - Chàng sĩ quan trở về, Rakitin ạ, chàng sĩ quan của tôi trở về.
- Tôi có nghe nói, nhưng đã về gần đến thế rồi kia à?
- Hiện giờ ở Mokroe và sẽ báo tin đến đây ngay, anh ấy đã viết thư cho tôi, tôi vừa nhận được ban nãy. Tôi đang chờ tin đây.
- Lạy Chúa! Sao lại ở Mokroe?
- Kể thì dài lắm, mà thôi miễn anh đi!
- Bây giờ thì sầu cho Mitenka! Anh ta có biết không?
- Biết thế nào được! Chẳng biết tí gì! Biết thì anh ấy giết. Nhưng bây giờ tôi cũng chẳng sợ gì nữa, bây giờ tôi không sợ mũi dao của anh ấy. Im đi. Rakitka, đừng nhắc đến Dmitri Fedorovich: anh ấy làm tan nát trái tim tôi. Lúc này tôi không muốn nghĩ gì đến chuyện ấy. Nhưng tôi có thể nghĩ tới Aliosa, tôi đang nhìn Aliosa đây này… Mỉm cười với tôi đi, bạn thân yêu, vui lên đi, hãy mỉm cười đi về sự ngu ngốc của tôi, về niềm vui sướng của tôi… Anh ấy mỉm cười rồi! Mỉm cười rồi! Anh ấy nhìn mới âu yếm làm sao. Anh Aliosa ạ, tôi vẫn cứ tưởng anh giận tôi về chuyện xảy ra hôm kia với cô tiểu thư ấy. Tôi là đồ chó má, thế đấy… Có điều như thế vẫn là hay. Bất kể như thế là xấu hay tốt - Grusenka bỗng nhếch mép cười, và một nét tàn bạo thoáng hiện trong nụ cười của nàng. - Mitia kể lại với tôi rằng cô ả gào lên: "Phải cho nó ăn đòn!". Tôi đã chọc cô ta một vố điếng người. Cô ta mời tôi đến vì muốn thắng tôi, định phỉnh tôi bằng một miếng sôcôla… Không, như vậy tốt thôi. - Nàng lại mỉm cười - Thế mà tôi vẫn cứ sợ anh giận tôi.
- Mà có thế thật. - Rakitin chen vào, ngạc nhiên thật sự. - Aliosa ạ, hoá ra cô ta sợ anh thật đấy, mặc dù anh chỉ là chú gà con, với anh thì anh ấy mới là chú gà con, Rakitin ạ… bởi vì anh không có lương tâm, thế đấy! Còn tôi, anh biết không, tôi yêu anh ấy bằng tâm hồn, thế đấy! Aliosa, anh có tin là tôi yêu anh bằng tất cả tâm hồn không?
- Cô là đồ trơ trẽn! Cô ta tỏ tình với anh đấy, Alecxei ạ!
- Thì sao, tôi yêu anh ấy đấy.
- Thế còn anh chàng sĩ quan? Thế còn cái tin báu ngọc từ Mokroe?
- Chuyện ấy khác, chuyện này khác.
- Đúng là miệng lưỡi đàn bà!
- Đừng chọc tức, Rakitin, - Grusenka sôi nổi đáp, - việc ấy khác việc này khác. Tôi yêu Aliosa một cách khác. Của đáng tội, Aliosa ạ, trước đây tôi có một ý định ranh ma với anh. Tôi là đứa hèn hạ, cuồng bạo thật, nhưng có những lúc tôi coi anh là lương tâm của tôi, Aliosa ạ. Tôi vẫn cứ nghĩ: "Ta là một đứa xấu xa, con người như thế hẳn phải khinh bỉ ta". Hôm kia, khi từ nhà cô ả chạy về đây, tôi nghĩ như thế. Tôi đã để ý đến anh từ lâu, Aliosa ạ Mitia cũng biết, tôi đã nói với anh ấy. Mitia thì anh ấy hiểu. Anh có tin không chứ, Aliosa ạ, quả thật là đôi khi nhìn anh tôi thấy xấu hổ, tôi xấu hổ về bản thân tôi… Tại sao tôi cứ nghĩ đến anh và từ bao giờ, tôi không biết và không nhớ…
Fenia vào, đặt lên bàn chiếc khay có chai rượu đã mở nút và ba cốc đã rót rượu.
- Sâm banh đây rồi! - Rakitin reo lên. - Cô xúc động và mất bình tĩnh, Agrafena Alecxandrovna ạ. Cô uống một cốc rồi sẽ khiêu vũ cho mà xem. Chà-chà, có cái việc này mà bọn họ cũng không biết làm, - anh ta nhìn chỗ sâm banh, nói thêm, - bà già rót sẵn rượu ở bếp, chai thì mở nút, rượu lại ấm nữa chứ. Nào thôi, uống tạm đi vậy.
Anh ta tới gần bàn, cầm lấy cái cốc, uống cạn một hơi và tự rót cho mình cốc nữa.
- Mấy khi được thưởng thức sâm banh, - anh ta vừa liếm mép vừa nói, - nào, Aliosa, cầm lấy cốc đi, ra mặt tài trai đi chứ.
- Chúng ta uống mừng cái gì nhỉ? Mừng cổng thiên đàng ư? Cầm cốc lên, Grusa, cô cũng uống mừng cổng thiên đàng đi!
- Cổng thiên đàng nào kia?
Nàng cầm cốc. Aliosa cầm lấy cốc của mình nhắp một ngụm, rồi đặt xuống.
- Không, tôi không uống thì hơn! - Anh mỉm cười hiền lành.
- Thế mà đã huênh hoang! - Rakitin quát lên.
- Nếu vậy thì tôi cũng không uống, - Grusenka nói, - mà tôi cũng chẳng muốn uống kia. Uống đi, Rakitin, một mình uống hết cả chai đi. Aliosa có uống thì tôi mới uống.
- Bắt đầu làm nũng rồi đấy! - Rakitin trêu chọc. - Mà nàng vẫn ngồi trên đùi chàng kia mà! Anh ta đang đau xót, còn cô thì có sao đâu? Anh ta nổi loạn chống lại Chúa Trời của mình, định chén xúc xích…
- Sao lại thế?
- Trưởng lão chết hôm nay, trưởng lão Zoxima, một vị thánh.
- Trưởng lão Zoxima chết rồi! - Grusenka kêu lên. - Trời ơi, thế mà tôi không biết! - Nàng sùng kính làm dấu. - Trời ơi, thế mà tôi đang làm gì đây, tôi ngồi trên lòng anh ấy!
Nàng bỗng bật dậy như sợ hãi, từ trên đùi Aliosa nhảy ngay xuống, đến ngồi xuống đi văng. Aliosa ngạc nhiên nhìn nàng một lúc lâu, gương mặt anh dường như sáng lên.
- Rakitin, - anh bỗng nói to và cương quyết, - đừng trêu chọc tôi bảo tôi nổi loạn chống lại Chúa Trời của tôi. Tôi không muốn gây thù oán gì với anh, vậy anh cũng nên tốt bụng hơn mới phải. Tôi đã mất một của báu mà anh chưa bao giờ có, vì thế bây giờ anh không thể phán xét tôi được. Tốt hơn hết là hãy nhìn chị ấy đây này: anh có thấy chị ấy thương tôi như thế nào không? Tôi đến đây tìm một tâm hồn độc ác, nhưng tôi tìm thấy người chị chân tình, một tâm hồn biết yêu… Bây giờ chị ấy thương tôi, Agrafena Alecxandrovna, tôi nói về chị đấy. Giờ đây chị đã vực dậy tâm hồn tôi.
Môi Aliosa run run, hơi thở nghẹn lại. Anh ngừng lời.
- Làm như cô ấy đã cứu anh không bằng! - Rakitin cất tiếng cười hằn học. - Vậy mà cô ấy muốn ăn, tươi nuốt sống anh đấy, anh có biết thế không?
- Thôi đi, Rakitin! - Grusenka bỗng bật dậy. - Cả hai anh đều im đi. Bây giờ tôi sẽ nói hết: Aliosa, anh đừng nói nữa, bởi vì lời anh nói làm tôi xấu hổ, bởi vì tôi độc ác, chứ không phải tốt bụng, tôi thế đấy. Còn anh, Rakitin, anh im đi, bởi vì anh nói dối. Đúng là tôi đã có ý định đê mạt, tôi muốn ăn tươi nuốt sống anh ấy, còn bây giờ thì anh nói dối, bây giờ hoàn toàn không phải thế… tôi không muốn nghe anh nói gì nữa, Rakitin ạ! - Tất cả những điều đó Grusenka nói với vẻ xúc động lạ thường.
- Cả hai đều nổi điên! - Rakitin rít lên ngạc nhiên nhìn cả hai người, - như những kẻ loạn trí, cứ như thể ta lọt vào một nhà điên. Họ làm cho nhau mủi lòng, họ sẽ oà khóc bây giờ đây!
- Tôi sẽ khóc, tôi sẽ khóc! - Grusenka lẩm bẩm. - Anh ấy gọi tôi là chị, tôi sẽ không bao giờ quên điều đó! Có điều là, Rakitin ạ, tôi cay độc ác nhưng đã có lần tôi cho người khác một nhánh hành.
- Nhánh hành nào kia? Hừ, quái quỷ, đúng là anh ấy loạn trí rồi!
Rakitin ngạc nhiên thấy hai người hoan hỉ và anh ta bực tức, đáng ra anh ta có thể hiểu được rằng đối với cả hai người này, tất cả những gì có thể làm rung động tâm hồn họ đều trùng khớp nhau, điều không mấy khi xảy ra trong đời. Nhưng Rakitin vốn rất nhạy với tất cả những gì đụng chạm đến anh ta, lại rất thô bạo khi hiểu tình cảm và cảm giác của người khác, một phần vì tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, một phần vì anh ta hết sức ích kỷ.
- Này Aliosa thân mến ạ, - Grusenka bỗng phá lên cười một cách nóng nảy, nói với Aliosa, - ấy là tôi đã khoe với Rakitin là tôi đã từng cho một nhánh hành, nhưng với anh thì tôi không khoe khoang đâu, tôi kể với anh nhằm một mục đích khác. Đấy chỉ là một chuyện ngụ ngôn, nhưng là một chuyện ngụ ngôn hay, hồi còn bé tôi đã được Matriona kể cho nghe, Matriona là người nấu bếp cho tôi bây giờ ấy mà. Chuyện thế này này: Ngày xưa có một người đàn bà cực kỳ độc ác. Mụ chết đi không để lại một đức tính tốt nào cả. Quỷ bắt mụ ném xuống hồ lửa. Vị thần hộ mệnh của mụ nghĩ mãi: phải nhớ ra một đức tính tốt của mụ để trình với Chúa Trời: mụ đã nhổ một nhánh hành trong vườn ra đem cho một phụ nữ hành khất. Chúa Trời phán truyền: hãy lấy chính nhánh hành ấy đưa cho mụ ở dưới hồ, bảo mụ bám lấy nếu ngươi kéo được mụ lên thì mụ được lên thiên đàng, nếu nhánh hành đứt thì mụ cứ ở đấy. Thần chạy đến chìa cho mụ nhánh hành: này, mụ kia, nắm lấy - thần nói. Và thần thận trọng kéo mụ lên và đã gần kéo hẳn được mụ lên bờ, nhưng những kẻ tội lỗi khác ở dưới hồ thấy mụ được kéo lên liền bám cả lấy mụ đề cùng được thoát nạn. Mụ đàn bà này độc ác vô cùng, mụ dùng chân đạp họ: "Thần kéo ta lên, chứ không kéo các người, nhánh hành của ta chứ không phải của các người". Mụ vừa nói câu đó thì nhánh hành đứt liền. Mụ rơi tõm xuống hồ và bị lửa thiêu đến tận bây giờ. Thần khóc và bỏ đi. Câu chuyện ngụ ngôn ấy như thế đấy Aliosa ạ, hãy ghi lòng tạc dạ, vì tôi chính là mụ đàn bà cực kỳ độc ác ấy. Tôi khoe với Rakitin rằng tôi đã có một nhánh hành, còn với anh thì tôi sẽ nói khác: cả đời tôi chỉ cho được có một nhánh hành, tất cả đức hạnh của tôi chỉ có thế. Vậy thì anh đừng có khen tôi, Aliosa ạ, đừng cho là tôi tốt bụng, tôi độc ác độc ác hết sức, anh mà khen tôi là làm cho tôi xấu hổ đấy. Thôi được, tôi sẽ thú nhận hết. Anh nghe đây, Aliosa: tôi rất mong nhử được anh đến đây và đã nài Rakitin, hứa trả cho anh ta hai mươi nhăm rúp nếu anh ta lôi được anh đến. Khoan, Rakitin, đợi đấy! Nàng bước nhanh đến gần bàn, mở ngăn kéo, lấy ví tiền, rút ra tờ hai mươi nhăm rúp.
- Tầm bậy! Quá ư tầm bậy! - Rakitin sững sờ, kêu lên.
- Cầm lấy đi, Rakitin, xong nợ nhé, chắc là anh không khước từ đâu, chính anh đòi hỏi kia mà. - Và nàng quẳng cho anh ta tờ giấy bạc.
- Tội gì mà không lấy, - Rakitin nói bằng giọng trầm lặng, rõ ràng là ngượng ngập, nhưng vẫn làm ra bộ hiên ngang để che giấu sự hổ thẹn, - sẽ có ích cho chúng ta, đời có những đứa ngu ngốc chỉ là để làm lợi cho người thông minh.
- Còn bây giờ thì anh im đi, Rakitin, tất cả những điều tôi sắp nói bây giờ không phải để cho lỗ tai anh đâu. Ngồi vào góc này và im mồm đi, anh không yêu chúng tôi, thế thì im đi.
- Cớ gì tôi phải yêu các người kia chứ? - Rakitin cằn nhằn, không che giấu sự hằn học. Anh ta nhét tờ hai mươi nhăm rúp vào túi hết sức sạn mặt với Aliosa. Anh ta trù tính sẽ lấy tiền công sau này, như thế Aliosa sẽ không biết gì, bây giờ vì xấu hổ mà anh ta tức giận. Cho đến lúc này anh ta vẫn thấy rằng khôn nhất là đừng cãi lại Grusenka, mặc dù tất cả những lời châm chọc của nàng, vì nàng vẫn có một quyền lực nào đó đối với anh ta. Nhưng bây giờ thì anh ta cáu:
- Vì lẽ gì mà yêu các người kia chứ, cả hai anh chị đã làm gì cho tôi?
- Yêu là yêu thế thôi, như Aliosa đây này.
- Anh ta yêu cô như thế nào và đã có gì chứng tỏ rằng anh ta luôn luôn nghĩ đến cô?
Grusenka đứng giữa phòng, nói một cách hăm hở, giọng phấn khích như loạn thần kinh:
- Anh im đi, Rakitin, anh không hiểu gì về chúng tôi đâu! Và không được gọi tôi bằng cô, tôi không cho phép, sao anh dám cả gan như thế! Ngồi vào góc kia và im đi, như thằng hầu của tôi ấy. Còn bây giờ, Aliosa ạ, tôi sẽ nói hết sự thật chỉ với anh thôi, để anh thấy tôi là đồ súc sinh như thế nào! Tôi không nói với Rakitin đâu, mà nói với anh đấy. Tôi muốn làm hại đời anh, Aliosa ạ, đấy là một sự thật lớn lao, tôi đã quyết như thế. Ý muốn ấy của tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi đã bỏ tiền ra mua Rakitin để anh ta đưa anh đến đây. Vì sao tôi muốn như thế? Aliosa ạ, anh chẳng biết gì hết, thấy tôi anh quay mặt đi, khi đi qua gần tôi, anh gằm mặt xuống, còn tôi thì trước đó tôi đã nhìn anh một trăm lần, tôi đã hỏi mọi người về anh. Gương mặt anh khắc sâu trong tim tôi: "Anh ta khinh mình, tôi nghĩ, thậm chí anh ta không buồn nhìn mình". Cuối cùng chính tôi cảm thấy ngạc nhiên về bản thân tôi: vì sao ta sợ chú bé này? Ta sẽ ăn tươi nuốt sống gã và cười vui thoả thích. Tôi tức tối lắm, điều này chẳng biết anh có tin không: Ở đây không ai dám nói và nghĩ tới chuyện đến Agrafena Alecxandrovna để bờm xơm giăng gió, tôi chỉ có ông già ấy thôi, tôi bị ràng buộc với ông ta và bán mình cho ông ta, quỷ Sa tăng buộc chúng tôi có duyên nợ với nhau, ngoài ra không còn ai khác Nhìn anh, tôi quyết định: ta sẽ nuốt sống anh chàng này. Sẽ nuốt sống và cười thoả thích. Anh thấy đấy, tôi là con chó dữ, vậy mà anh gọi tôi bằng chị! Bây giờ thì người đàn ông mà tôi oán hận đã về, bây giờ tôi ngồi đợi tin. Anh có biết người đó đã gây cho tôi nỗi oán hận như thế nào không? Năm năm trước Kuzma đã đưa tôi về đây, tôi chỉ ngồi lì một chỗ, tránh mặt mọi người, để không ai nhìn thấy tôi và nghe tiếng tôi, tôi khẳng khoeo, ngốc nghếch, chỉ ngồi khóc, suốt nhiều đêm không ngủ, tôi nghĩ: "Bây giờ anh ta ở đâu, anh chàng đã gây cho tôi nỗi oán hận ấy? Hẳn là bây giờ anh ta đang cùng ả khác chế nhạo tôi, tôi nghĩ, miễn là có lúc gặp được anh ta: tôi sẽ trả thù anh ta, trả thù ghê gớm!". Ban đêm tôi úp mặt vào gối khóc nức nở và cứ nghĩ mãi về chuyện ấy, tôi cố tình vò xé trái tim tôi, gặm nhấm mối căm giận anh ta cho nguôi nỗi lòng: "Ta sẽ trả thù anh ta, sẽ trả thù thật ghê gớm!". Đôi khi tôi thét lên như vậy trong bóng tối. Cứ chợt nhớ lại rằng tôi chẳng làm gì anh ta mà bây giờ anh ta chế nhạo tôi, và có lẽ đã quên hẳn tôi, không còn nhớ gì đến tôi nữa là tôi từ trên giường, nhảy xuống sàn, nước mắt chan hoà vì cảm thấy mình bất lực, run lên bần bật cho đến rạng sáng. Buổi sáng trở dậy, tôi càng như con chó dữ, tôi sẵn lòng nuốt tươi cả thế giới. Rồi sau đó, anh biết không: tôi bắt đầu dành dụm một số vốn, tôi đâm ra tàn nhẫn, thân hình đẫy ra, chắc anh tưởng tôi đã khôn lên chứ gì? Ồ không, điều này cả vũ trụ không ai nhìn thấy và biết được: khi bóng đêm buông xuống, vẫn như một con nhóc năm năm về trước, đôi khi tôi nằm nghiến răng suốt đêm: "Ta sẽ trả thù gã, ta sẽ trả thù gã, - tôi nghĩ". Anh có nghe tôi nói không đấy? Vậy thì bây giờ anh hiểu tôi: một tháng trước đột nhiên tôi nhận được lá thư: anh đã goá vợ, anh ta về đây, muốn gặp tôi. Lúc ấy tôi nghẹt thở, trời ơi, và tôi bỗng nghĩ: anh ta đến, huýt một tiếng sáo gọi tôi và tôi sẽ như con chó con bò lết đến với anh ta, con chó bị đánh, biết lỗi. Tôi nghĩ điều đó và không tin mình nữa: "Ta có phải là kẻ đê hèn hay không, ta có chạy đến với gã không". Suốt tuần nay tôi tự giận mình ghê gớm, còn tức giận hơn cả năm năm trước. Bây giờ, Aliosa ơi, anh có thấy tôi dữ tợn, điên ruột như thế nào không, tôi nói hết sự thật với anh rối đấy! Tôi giỡn Mitia để khỏi chạy đến đấy. Im đi, Rakitin, không phải anh có quyền phán xét tôi, tôi không nới với anh. Trước khi các anh đến, tôi nằm đây chờ đợi, nghĩ ngợi, quyết định số phận của mình, và không bao giờ các anh biết được tâm tình tôi lúc ấy thế nào. Không, Aliosa, hãy nói với cô tiểu thư ấy đừng tức giận về chuyện hôm kia… Cả thế gian không ai biết được lúc này tôi thế nào và không thể biết được… Có lẽ hôm nay tôi sẽ mang theo con dao, tôi vẫn chưa quyết định…
Nói ra điều "ai oán" ấy, Grusenka không nén lòng được, không nói hết lời đã đưa hai tay lên bưng mặt, gieo mình xuống đi văng, úp mặt vào gối khóc nức nở như trẻ nhỏ. Aliosa đứng dậy và đến gần Rakitin.
- Misa, - anh nói - đừng giận. Chị ấy xúc phạm anh, nhưng đừng giận. Anh có nghe chị ấy nói đấy chứ? Không thể đòi hỏi quá nhiều ở con người, phải nhân từ hơn…
Aliosa nói điều đó trong tâm trạng kích động không sao kìm nén được. Anh cần nói ra lời và anh nói với Rakitin. Nếu như không có Rakitin, anh sẽ kêu lên một mình. Nhưng Rakitin nhìn với vẻ giễu cợt, và Aliosa bỗng ngừng lại.
Đấy là vì ban nãy người ta đã làm cho đầu óc anh đầy ắp trưởng lão của anh và bày giờ anh phóng trưởng lão của anh vào tôi, Aliosa người của Chúa ạ. - Rakitin nói, mỉm cười căm hờn.
- Đừng chế nhạo, Rakitin, đừng giễu cợt khi nói về người quá cố: Cha cao cả hơn tất cả mọi người trên trái đất này! - Aliosa la lên, giọng nghe như khóc. Tôi nói với anh không phải như một phán quan xét xử anh, mà như một bị cáo hèn hạ nhất. Tôi là gì trước chị ấy? Tôi đến đây để tự huỷ hoại mình và nói: "Thôi được mặc!", là vì tôi hèn nhát, còn chị ấy đau khổ suốt năm năm, thế mà một người vừa đến nói với chị ấy một lời thành thật, chị ấy đã tha thứ hết, quên hết và khóc! Người gây cho chị ấy mối hận lòng đã trở lại, gọi chị ấy, và chị ấy tha thứ hết cho anh ta, vui sướng mau mau đến với anh ta, chị ấy sẽ không mang theo con dao đâu, không mang đâu! Không, tôi không cao cả được như thế! Tôi không biết anh có được như thế không, Misa ạ, nhưng tôi thì không! Hôm nay tôi vừa thâu nhận được bài học ấy. Chị ấy cao hơn chúng ta và có tình yêu… Trước đây anh có từng được nghe những gì chị ấy vừa kể với chúng ta không? Không, chưa từng được nghe; nếu được nghe thì anh đã hiểu hết từ lâu rồi cả người phụ nữ bị xúc phạm hôm nọ cũng sẽ tha thứ cho chị ấy! Người phụ nữ ấy sẽ tha thứ, nếu nàng biết chuyện… và nàng sẽ biết… Tâm hồn ấy vẫn chưa nguôi dịu, cần nương nhẹ nó… và trong tâm hồn ấy có lẽ úềm đàng một kho báu…
Aliosa im tiếng, bởi vì anh nghẹn thở. Rakitin, mặc dù tức giận tràn hông, cũng ngạc nhiên trân mắt nhìn. Anh ta không ngờ Aliosa hiền lành lại tuôn ra một tràng như vậy.
- Một trạng sư mới ra mắt! Anh mê cô ta chăng? Phải, ông thầy tu của chúng ta quả thực đã mê cô, cô thắng rồi! - Anh ta gào lên, cất tiếng cười trơ trẽn.
Grusenka cất đầu khỏi gối, nhìn Aliosa với nụ cười cảm kích ngời sáng trên khuôn mặt bỗng nhiên húp lên vì khóc.
- Mặc anh ta, Aliosa ạ, anh là thiên thần của tôi, anh biết anh ta thế nào rồi đấy, nói với anh ta làm gì, Mikhail Oxipovich ạ, - nàng nói với Rakitin, - tôi muốn xin lỗi vì đã mắng mỏ anh, nhưng bây giờ tôi lại không muốn nữa. Anh Aliosa, đến đây với tôi, ngồi xuống đây, anh hãy nói cho tôi biết (nàng lại cầm tay Aliosa, mỉm cười và nhìn vào mắt anh), anh hãy nói với tôi đi: tôi có yêu người đó không? Tôi có yêu con người phụ bạc ấy không? Trước khi anh đến đây, tôi nằm trong bóng tối, luôn luôn chất vấn trái tim mình: ta có yêu người ấy không? Anh giải đáp cho tôi đi. Aliosa, đã đến lúc rồi; anh định thế nào thì sẽ nên thế. Tôi có nên tha thứ cho anh ta không?
- Chị đã tha thứ rồi còn gì? - Aliosa mỉm cười nói.
- Quả thật là tôi đã tha thứ. - Grusenka trầm ngâm thốt lên. - Một trái tim hèn hạ biết bao! Mừng cho trái tim hèn hạ của tôi! - Nàng bỗng chộp lấy cốc rượu trên bàn, uống một hơi, rồi thẳng tay ném xuống sàn. Chiếc cốc vỡ tan, tiếng loảng xoảng dội lên.
Một nét tàn bạo thoáng hiện trong nụ cười của nàng.
- Mà có lẽ tôi chưa tha thứ đâu, - nàng bỗng nói bằng giọng dậm doạ, mắt gằm xuống đất, như thể tự nói với mình. - Có lẽ trái tim chỉ mới có ý định tha thứ. Tôi sẽ còn chống cưỡng lại con tim. Anh Aliosa ạ, tôi quá yêu những giọt lệ năm năm qua của tôi… Có lẽ tôi chỉ yêu nỗi oán giận của tôi, chứ không phải là yêu anh ta!
- Tôi không muốn ở địa vị anh ta tí nào! - Rakitin lầu bầu.
- Anh sẽ không bao giờ được ở địa vị như anh ta đâu, Rakitin ạ. Anh sẽ khâu giầy cho tôi, Rakitin, tôi sẽ dùng anh vào việc như thế người phụ nữ như tôi không bao giờ cái ngữ anh hòng mong được đâu… Mà ngay cả anh ta có lẽ cũng không hòng…
- Anh chàng kia ấy ư? Thế thì cô diện ngất như thế để làm gì? - Rakitin châm chọc cay độc.
- Đừng chê trách tôi mặc đẹp, Rakitin, anh chưa biết hết nỗi lòng tôi đâu! Nếu tôi muốn, tôi sẽ vứt bỏ bộ cánh này, bỏ ngay lúc này. - Nàng quát lên, giọng sang sảng. - Anh không biết bộ cánh này để làm gì đâu, Rakitin! Có thể tôi sẽ đến gặp anh ta và nói: "Anh đã thấy tôi như thế này bao giờ chưa?". Khi anh ta bỏ tôi, tôi chỉ là một con bé mười bảy tuổi, khẳng khiu, ốm o, hay khóc mà. Tôi sẽ đến ngồi sát vào anh ta, quyến rũ anh ta, khơi bùng lên ngọn lửa tình trong anh ta: "Anh thấy bây giờ tôi như thế nào rồi đấy, - tôi sẽ nói, - thôi, chịu suông tình suông vậy nhé, tôn ông của tôi ơi, của ngon không đến miệng ngài đâu!" có lẽ bộ cánh này là để dùng vào việc ấy đấy, Rakitin ạ. - Grusenka kết thúc với tiếng cười hằn học. - Tôi là kẻ dữ dội, cuồng bạo, Aliosa ạ. Tôi sẽ vứt bỏ bộ cánh đẹp, tôi sẽ huỷ hoại bản thân, huỷ hoại sắc đẹp, tôi sẽ đốt cháy mặt, dùng dao rạch mặt, rồi sẽ đi ăn xin. Nếu tôi muốn, bây giờ tôi sẽ không đến với ai hết, nếu tôi muốn thì ngày mai tôi có thể gửi trả Kuzma tất cả những gì ông ta tặng tôi, tất cả tiền nong của ông ta, còn tôi sẽ suốt đời đi làm thuê công nhật… Anh nghĩ rằng tôi sẽ không làm như thế, không dám làm như thế phải không, Rakitin? Tôi sẽ làm, tôi sẽ làm, tôi có thể làm ngay bây giờ, miễn là đừng chọc tức tôi còn anh chàng kia thì tôi sẽ đuổi cổ đi, gí nắm tay vào mũi hắn, hắn đừng hòng tơ màng gì đến tôi!
Mấy lời sau cùng nàng gào lên trong cơn thác loạn, nhưng rồi lại không nén lòng được, đưa hai tay lên bưng mặt, nhào xuống úp mặt vào gối và run lên trong tiếng nức nở. Rakitin đứng dậy.
- Về thôi, - anh ta nói, - muộn rồi, người ta sẽ không cho vào tu viện đâu.
Grusenka bỗng bật dậy.
- Anh về ư, Aliosa! - Nàng kêu lên, đầy vẻ ngạc nhiên chua xót - Anh đối xử với tôi như thế sao: anh làm xáo động tâm hồn tôi, giày vò nó, thế rồi đêm nay tôi vẫn chỉ trơ trọi một mình.
- Anh ta ngủ đêm ở nhà cô sao được? Nhưng nếu anh ta muốn thì tuỳ! Tôi về một mình! - Rakitin bỡn cợt cay độc.
- Im đi, kẻ tâm địa độc ác, - Grusenka cuồng nộ quái lên. - Chưa bao giờ anh nói được với tôi những lời như anh ấy vừa nói.
- Anh ta đã nói gì đặc biệt với cô nào? - Rakitin làu nhàu vẻ cáu kỉnh.
- Tôi không biết, tôi không rõ, tôi chẳng rõ anh ấy đã nói với tôi điều gì khác thường, nhưng trái tim tôi rung động, anh ấy đã làm đảo lộn trái tim tôi… Anh ấy là người đầu tiên, người duy nhất thương tôi, thế đấy! Thiên thần của tôi ơi, sao trước đây anh không đến, - nàng bỗng quỳ thụp trước Aliosa, như trong cơn thác loạn, suốt đời tôi chờ mong một người như anh, tôi biết rằng một người như thế sẽ đến và tha thứ cho tôi. Tôi biết sẽ có một người nào đó yêu tôi, dù tôi là đứa con gái nhơ nhuốc, yêu tôi không phải vì sự ô nhục của tôi.
- Tôi đã làm được điều gì đáng kể cho chị đâu? - Aliosa mỉm cười cảm động, trả lời, cúi xuống gần nàng và dịu dàng cầm tay nàng. - tôi đã cho một nhánh hành, một nhánh hành nhỏ xíu, chỉ thế thôi, chỉ thế thôi…
Nói xong, anh bật khóc. Đúng lúc ấy ở phòng ngoài có tiếng ồn ào, có người nào vào nhà. Grusenka chồm dậy, như trong cơn sợ hãi khủng khiếp. Fenia sầm sập chạy vào, reo lên:
- Thưa cô cô yêu quý ơi, người đưa tin đã đến! - Cô hầu reo lên vui vẻ, thở hồng hộc. - Có xe ngựa từ Mokroe đến đón cô, Timofei đánh cỗ xe tam mã, họ sẽ đổi ngựa ngay bây giờ… Có thư, thư, thưa cô, thư đây này!
Cô bé cầm lá thư, vừa reo vừa vung lên. Grusenka giằng lấy lá thư và đem lại gần cây nến. Đấy chỉ là mẩu thư ngắn, có mấy dòng, nàng đọc xong trong nháy mắt.
- Anh ấy gọi! - Nàng la lên, mặt tái mét, méo xệch đi trong một nụ cười đau đớn, - anh ấy huýt sáo! Bò lết lại đây, con chó con!
Nhưng nàng chỉ lưỡng lự giây lát; bỗng nhiên máu dồn lên đầu và hai má nàng đỏ lựng.
- Tôi sẽ đi! - Nàng bỗng kêu lên. - Năm năm của tôi! Vĩnh biệt! Vĩnh biệt Aliosa, số phận đã định rồi… Các anh đi đi, đi đi, rời khỏi nhà tôi đi, để tôi khỏi nhìn thấy các anh nữa!… Grusenka đã bay vào cuộc đời mới… Anh cũng đừng để bụng oán giận tôi, Rakitin ạ. Có lẽ tôi đi đón cái chết! Ôi chao! Tôi như say rượu.
Nàng đột nhiên chạy vào phòng ngủ, bỏ mặc hai người.
- Hừ, bây giờ cô nàng thiết gì chúng ta nữa! - Rakitin càu nhàu - Ta đi đi, không thì tiếng la hét của đàn bà sẽ lập tức đập vào tai bây giờ, tôi chán ngấy nhưng tiếng la hét đầy nước mắt ấy lắm rồi…
Aliosa thẫn thờ để cho mình bị kéo đi. Ngoài sân có cỗ xe, người ta đang tháo ngựa, đi đi lại lại trong ánh sáng của cây đèn lồng, bận rộn ríu rít. Một cỗ xe tam mã mới được đưa vào cổng.
Nhưng Aliosa và Rakitin vừa xuống khỏi tam cấp thì cửa sổ buồng ngủ của Grusenka bỗng mở ra và nàng hét với theo Aliosa, giọng ngân vang:
- Aliosa thân mến, gửi anh lời chào Mitenka, nói với anh ấy đừng để bụng oán giận con bé độc ác này. Hãy nhắn hộ tôi nói với anh ấy rằng: "Grusenka đã về tay một thằng xỏ lá, chứ không thuộc về anh, một con người cao quý!". Và hãy nói thêm rằng Grusenka đã yêu anh ấy trong một giờ, vẻn vẹn có một giờ thôi, nhưng từ nay anh ấy hãy nhớ suốt đời một giờ ấy, hãy bảo rằng Grusenka ra lệnh cho anh ấy nhớ suốt đời…
Nàng dứt lời, giọng đầy tiếng nức nở. Cửa sổ sập lại.
- Hừm! Hừm! - Rakitin vừa cười vừa lẩm bẩm. - Ả đã cắt cổ Mitenka mà lại còn ra lệnh cho anh ta phải nhớ suốt đời. Đúng là thú dữ!
Aliosa không trả lời gì cả, tuồng như không nghe thấy. Anh rảo bước đi cạnh Rakitin, như thể vội vã lắm. Anh dường như mê man, bước đi như cái máy. Rakitin bỗng cảm thấy đau buốt như thể có ai thọc ngón tay vào vết thương còn mới nguyên của anh ta. Vừa rồi, khi đưa Aliosa đến nhà Grusenka, anh ta không ngờ đâu như thế; sự thể hoàn toàn không đúng như anh ta hết sức mong muốn.
- Gã sĩ quan ấy của cô ta là người Ba Lan. - Anh ta nói, cố nén lòng. - Bây giờ gã hoàn toàn không phải là sĩ quan, mà là một viên chức thuế quan ở Sibir, tại một nơi nào vùng biên giới với Trung Quốc, thằng cha Ba Lan này hẳn là một gà hèn kém. Đâu như gã đã mất chỗ làm. Bây giờ gã nghe nói Grusenka đã có vốn tiếng, vì thế gã trở lại, tất cả phép lạ là ở đấy.
Aliosa lại như thể không nghe thấy, Rakitin không nén nổi nữa:
- Sao, anh đã làm cho một kẻ tội lỗi tin theo đạo rồi hả? - Rakitin cười với Aliosa một cách độc ác. - Anh đã làm cho một con điếm trở lại con đường chính đạo phải không? Anh đã đuổi được bảy con quỷ rồi chứ gì? - Thì ra những phép lạ mà chúng ta chờ đợi là thể nó đã diễn ra!
- Thôi đi, Rakitin. - Lòng đầy đau khổ, Aliosa đáp.
- Bây giờ anh "khinh" tôi về chuyện hai mươi nhăm rúp ban nãy chứ gì? Mi đã bán người bạn chân chính, ý anh muốn nói thế. Nhưng anh không phải là Chúa Kito, còn tôi không phải là Juda.
- Ơ kìa, Rakitin, tôi cam đoan với anh rằng tôi đã quên chuyện ấy rồi. - Aliosa kêu lên. - Chính anh lại nhắc đến…
Nhưng Rakitin đã điên tiết lên:
- Quỷ xé xác tất cả các người đi! - Anh ta bỗng tru tréo lên. - Quái lạ, tôi lại dây vào với anh làm gì kia chứ! Từ nay trở đi tôi không thèm biết đến anh nữa. Anh đi một mình đi, con đường của anh đây này!
Anh ta quay ngoắt sang phố khác, bỏ mặc Aliosa một mình trong bóng tối. Aliosa ra khỏi thành phố, vượt qua cánh đồng về tu viện.
Khi Aliosa về đến tu xá thì đã muộn lắm rồi theo nếp sinh hoạt trong tu viện, người coi cổng cho anh vào qua một đường riêng. Chuông đã điểm chín giờ, giờ này ai nấy đều nghỉ ngơi yên tĩnh sau một ngày xáo động đến như thế. Aliosa rụt rè mở cửa và vào phòng trưởng lão, nơi đang quàn linh cữu. Ngoài Cha Paixi đọc Phúc âm một mình trước linh cữu, và anh chàng tập tu Porfin mệt mỏi vì cuộc chuyện trò đêm qua và sự tất bật hôm nay, đang ngủ say lì trên sàn ở phòng bên, trong phòng này không còn ai. Cha Paixi có nghe thấy Aliosa vào, nhưng không nhìn về phía anh. Aliosa đi vào góc phòng phía bên phải cửa quỳ xuống và cầu nguyện. Tâm hồn anh đầy ắp những cảm giác mơ hồ, không một cảm giác nào nổi bật lên, bộc lộ rõ ràng, trái lại cái nọ chen lẫn cái kia trong một vòng luân chuyển thầm lặng, đều đặn. Nhưng trong lòng cảm thấy thư thái, và điều lạ lùng là Aliosa không lấy thế làm ngạc nhiên. Anh lại nhìn thấy cỗ linh cữu ấy trước mặt mình, cái thi hài quý báu đối với anh mà giờ đây đã được bao bọc kín mít nhưng trong tâm hồn anh không còn sự thương cảm sướt mướt, nhức nhối, đau khổ như sáng nay nữa. Giờ đây, bước vào phòng, anh quỳ trước linh cữu như trước một thánh tích, nhưng trong trí óc và trái tim ngời ngợi niềm vui. Một cửa sổ phòng đã mở, không khí tươi mát, lành mạnh - "như vậy là mùi bốc ra nặng hơn vì thế người ta mới quyết định mở cửa sổ", - Aliosa nghĩ. Nhưng ý nghĩ ấy về mùi xác chết, mới gần đây anh còn cảm thấy là khủng khiếp và ô nhục, thì giờ đây không còn gợi lên trong anh nỗi buồn phiền và phẫn nộ như trước nữa. Anh bắt đầu khe khẽ cầu nguyện như cái máy. Nhưng mẩu ý nghĩ thoáng hiện, bừng lên như những ngôi sao rồi tắt ngay, thay thế nhau, nhưng trong tâm hồn có một cái gì toàn vẹn, vững chắc, thư thái, anh ý thức được điều đó. Đôi khi anh bắt đầu cầu nguyện nhiệt thành, anh rất muốn ngợi khen và yêu mến… Nhưng khi đã bắt đầu cầu nguyện, anh bừng chuyển sang một cái gì khác, bắt đầu nghĩ ngợi, quên cả cầu nguyện, quên cả mình ngừng ở đoạn nào. Anh bắt đầu lắng nghe Cha Paixi đọc, nhưng quá mệt mỏi, anh dần dần ngủ chập chờn…
"Ba ngày sau tại thành Cana xứ Galilei có đám cưới. - Cha Paixi đọc, - và mẹ Chúa Jesus cũng có mặt ở đó. Đức Chúa Jesus và các môn đồ được mời đến dự"(1).
Đám cưới ư? Cưới… là cái gì… - ý nghĩ ấy như cơn lốc trong trí óc Aliosa. - nàng cũng có hạnh phúc… nàng đi ăn tiệc… Không, nàng sẽ không mang theo con dao, sẽ không mang theo con dao… Đấy chỉ là lời "ai oán"… lời nói ai oán thì nên tha thứ, nhất định phải tha thứ. Những lời ai oán an ủi tâm hồn… không có những lời đó thì nỗi đau xót của người ta quá nặng nề. Rakitin rẽ vào ngõ hẻm. Chừng nào Rakitin còn nghĩ về nhưng điều xúc phạm đến mình thì anh ta sẽ còn đi vào ngõ hẻm… Nhưng còn đường cái… con đường lớn thẳng tắp, sáng sủa, ngời sáng như pha lê, và mặt trời ở cuối con đường ấy… Gì thế nhỉ? Người ta đang đọc gì thế?
"Vừa khi thiếu rượu, mẹ Đức Chúa Jesus nói với Ngài rằng, người ta không còn rượu…" - Aliosa nghe thấy đoạn ấy.
"À phải, ta bỏ sót một quãng, mà ta không muốn bỏ sót, ta thích đoạn này: đấy là thành Cana ở Galilei, phép lạ thứ nhất… A, phép lạ ấy, a, phép lạ đáng yêu ấy! Chúa Kito đến không phải để nhìn thấy nỗi đau xót, mà để thấy niềm vui sướng của con người… "Ai yêu người đời thì cũng yêu niềm vui sướng của họ…". Trưởng lão đã quá cố vẫn luôn miệng nhắc lại điều này, đấy là một trong những ý nghĩ chủ chốt của Người… không thể sống không có niềm vui sướng. Mitia vẫn nói thế… Đúng, Mitia… Tất cả những gì chân chính và đẹp đẽ bao giờ cũng tràn đầy sự tha thứ tất thảy - vẫn chính Mitia đã nói điều đó…".
"Jesus nói với mẹ, hỡi người đàn bà kia, sự này là thế nào đối với tôi và với bà, giờ của tôi chưa đến. Mẹ Ngài nói với những người hầu: Ngài báo sao cứ thế mà làm".
"Cứ thế mà làm… Niềm vui sướng, niềm vui sướng của những người nghèo, rất là nghèo… Cố nhiên là họ nghèo, vì thế ngay cả đám cưới mà cũng thiếu rượu… các sử gia viết rằng quanh hồ Jenezaret và các vùng lân cận, dân chúng toàn là hạng nghèo khổ nhất mà trí tưởng tượng có thể hình dung ra được… Và một trái tim cao cả khác của một người cao cả khác cũng có mặt tại đây, trái tim của Mẹ Ngài, Mẹ biết Ngài đến đây không phải chỉ để thực hiện công ích vĩ đại ghê gớm của Ngài, mà tại tim Ngài cảm nhận được sự vlủ vẻ của những con người tối tăm, tối tăm và chất phác đã ân cần mời Ngài đến dự đám cưới nghèo nàn của họ". Giờ của tôi chưa đến! - Ngài nói, miệng mỉm cười hiền từ (nhất định Ngài mỉm cười hiền dịu với Mẹ)…
Thực vậy đâu phải Ngài xuống trần để làm tăng thêm rượu cho nhưng đám cưới nhà nghèo? Vậy mà Ngài đã đến và làm theo ý Mẹ… A, Cha lại đọc".
"Jesus báo họ, đổ nước vào các hũ và đổ cho đầy, và bảo họ: bây giờ múc đem ra cho người chủ trì bữa tiệc, họ đem ra.
Người chủ trì bữa tiệc nếm nước lã đã thành rượu, và người chủ trì bữa tiệc không biết rượu này ở đâu ra, nhưng nhũng người hầu đã múc nước thì biết rõ, ông ta gọi chú rể lại.
Và bảo chú rể: Ai cũng rót rượu ngon trước, đến khi khách đã uống nhiều rồi thì mới đãi rượu kém hơn ra, còn anh lại giữ rượu ngon đến bây giờ".
Nhưng gì thế này, gì thế này? Tại sao căn phòng lại rộng ra… A phải, đây là đám cưới, tiệc cưới… Ừ, cố nhiên. Còn kia là khách khứa, cặp vợ chồng trẻ ngồi kia, và đám đông vui vẻ… còn người chủ tiệc sáng suốt đâu rồi? Nhưng ai kia? Ai? Căn phòng lại rộng ra… Ai đứng lên sau chiếc bàn lớn kia nhỉ? Sao thế? Cả Thầy cũng ở đây ư? Thầy ở trong quan tài kia mà?… Nhưng Thầy ở đây… Thầy đứng dậy, nhìn thấy ta, Thầy đang đến đây… Trời ơi!…
Đúng, Thầy đến chỗ anh, ông già nhỏ bé gày gò, mặt chi chít nếp nhăn li ti, vui sướng và cười hiền lành. Không còn cỗ quan tài, và Thầy vẫn mặc bộ quần áo hôm qua, khi khách khứa đến thăm Thầy. Gương mặt vẫn hồ hởi, mắt long lanh. Thế là thế nào, vậy ra Thầy cũng đến dự tiệc, Thầy cũng được mời đến dự đám cưới ở Cana xứ Galilei…
- Con yêu quý, ta cùng được mời, được mời và được gọi tới, - tiếng nói hiền từ của Cha vang lên phía trên đầu anh. - Tại sao con ẩn vào đó để người ta không thấy con… rồi con cũng sẽ đến với chúng ta, tiếng nói của Cha, của trưởng lão Zoxima… Sao lại không phải là Cha, khi Cha đang gọi? Trưởng lão đưa một tay ra nâng Aliosa dậy, Aliosa đang quỳ liền đứng lên.
- Chúng ta đang dự cuộc vui, - ông già nhỏ bé gày gò nới. - chúng ta uống rượu nho mới, rượu của niềm vui mới, lớn lao; con thấy không, bao nhiêu là khách. Kia là chú rể và cô dâu, kia là người chủ tiệc sáng suốt, ông ta đang nấu rượu nho mới. Tại sao thấy ta con ngạc nhiên? Ta đã cho một nhánh hành, vì thế ta ở đây. Nhiều người có mặt ở đây chỉ vì đã cho một nhánh hành, chỉ một nhánh hành nhỏ… Sự nghiệp của chúng ta là cái gì? Con hiền lành của ta, chú bé nhu mì của ta, hôm nay con cũng đã đưa nhánh hành cho một người phụ nữ đang khao khát sự cứu giúp đó. Hãy bắt đầu sự nghiệp của con đi, con thân yêu, con hiền lành của ta! Con có thấy mặt trời của chúng ta không, con có thấy không?
- Con sợ… Con không dám nhìn… - Aliosa lẩm bẩm.
- Đừng sợ Ngài. Ngài uy nghi đến đáng sợ, cao siêu kinh khủng, nhưng lòng lành vô cùng, về tình yêu Ngài giống chúng ta và cùng vui với chúng ta, Ngài biến nước thành rượu nho để khách khỏi mất vui, Ngài đang chờ những người khách mới. Ngài không ngừng mới gọi khách mới và lần này là gọi đi mãi mãi. Kìa, người ta đưa rượu nho mới đến, thấy không, người ta mang đến những vò rượu…
Có cái gì rực cháy trong tim anh, một cái gì bỗng tràn đầy tim anh đến độ đau đớn, những giọt lệ hân hoan từ tâm hồn anh ứa ra… Anh đang rộng hai tay, kêu lên một tiếng và tỉnh dậy…
Lại cỗ quan tài, khung cửa sổ mở và tiếng đọc Phúc âm khe khẽ, trịnh trọng, rành rọt. Nhưng Aliosa không còn nghe thấy đọc gì nữa. Điều kỳ lạ là anh ngủ thiếp đi lúc đang quỳ, vậy mà bây giờ anh lại đứng, và bỗng nhiên, như bật khỏi chỗ, anh rảo chân tiến ba bước vững chắc tới sát quan tài. Thậm chí anh đụng vai vào Cha Paixi và không để ý đến. Cha ngừng đọc, ngước mắt lên nhìn anh một thoáng, nhưng lập tức quay đi nơi khác, vì hiểu rằng có điều gì kỳ lạ xảy đến với chàng trai. Aliosa nhìn cỗ quan tài chừng nửa phút, nhìn thi hài liệm kín, bất động, nằm dài, ảnh thánh trên ngực, đầu dội chiếc mũ có cây thập giá tám nhánh. Mãi đến bây giờ anh mới nghe thấy tiếng nói của Thầy, tiếng nói ấy vẫn còn vang trong tai. Anh vẫn còn lắng tai nghe, vẫn còn chờ đợi những âm thanh… nhưng bất thần anh quay ngoắt đi, ra khỏi phòng.
Anh không dừng ở bậc tam cấp, mà đi nhanh xuống. Tâm hồn anh tràn đấy niềm hân hoan, khao khát tự do, không gian rộng rãi. Trên đầu anh, vòm trời trải rộng bao la, chi chít những vì sao hiền hoà lấp lánh. Dải ngân hà chẻ đôi trải dài từ thiên đỉnh tới chân trời, lúc này vẫn còn mờ mờ. Đêm tươi mát và thanh vắng hoàn toàn bất động, chùm lên trái đất. Những ngọn tháp màu trắng và những nóc nhà thờ bọc vàng lấp lánh trên nền trời xa xa. Những đám hoa mùa thu lộng lẫy trong những bồn hoa quanh nhà thiếp ngủ cho đến sáng. Cái tĩnh lặng của thế gian dường như hoà với cái tinh lặng của bầu trời, bí mật của thế gian tiếp cận với bí mật của tinh tú… Aliosa đứng nhìn và bỗng nhiên đổ vật xuống đất.
Anh không biết vì sao anh ôm lấy đất, anh không hiểu rõ tại sao một ý muốn không thể cưỡng lại được thôi thúc anh hôn đất nhưng anh vừa hôn vừa khóc nức nở, nước mắt như mưa, và với tình cảm cuồng nhiệt, anh thề sẽ yêu đất, yêu mãi mãi. "Hãy tưới cho đất những giọt nước mắt vui của con và hãy yêu những giọt nước mắt ấy…" - mấy lời đó ngân vang trong tâm hồn anh.
Anh khóc gì? Ôi, trong trạng thái xuất thần, anh khóc cả những vì sao trên bầu trời không sâu thẳm đang lấp lánh với anh, và "không xấu hổ về sự cuồng nhiệt ấy". Dường như những sợi chỉ từ vô vàn thế giới ấy của Chúa đều tức thời hội tụ lại trong tâm hồn anh, và tâm hồn anh run lên vì "tiếp xúc với các thế giới khác. Anh muốn tha thứ cho tất cả, về mọi sự và muốn cầu xin tha thứ. Ôi, không phải xin tha thứ cho mình, mà cho mọi người về mọi sự, còn "những người khác cũng cầu xin cho tôi", - những lời đó lại âm vang trong tâm hồn anh. Nhưng mỗi lúc anh càng cảm thấy rõ ràng, dường như sờ mó thấy, một cái gì ràn chắc, kiên cố như vòm trời này nhập vào (âm hồn anh. Một ý tưởng gì không rõ ngự trị trong trí óc anh, lần này thì suốt đời, mãi mãi. Khi sụp xuống đất, anh là một chàng trai yếu ớt. Khi đứng lên anh đã là một chiến sĩ cứng rắn, anh bỗng ý thức được và cảm thấy điều đó trong phút xuất thần ấy của mình. Sau này, suốt đời Aliosa không bao giờ quên được phút ấy. "Giờ ấy có người nào đã viếng thăm tâm hồn tôi", - sau này anh nói, và tin chắc ở lời mình nói.
Ba ngày sau anh rời khỏi tu viện, đúng như lời trưởng lão đã quá cố bảo anh "lưu lại đời trần tục".
Chú thích: (1) Phúc âm theo thánh Gioan, II, 1-10 (N.D)
Khi Grusenka tung cánh bay vào cuộc đời mới, và gửi lời chào cuối cùng đến Dmitri Fedorovich đồng thời dặn chàng hãy nhớ mãi một giờ yêu đương nàng đã dành cho chàng thì đúng lúc ấy, Dmitri không hề hay biết gì về sự việc xảy ra với nàng, chàng cũng đang bối rối ghê gớm và lo âu kinh khủng.
Hai ngày gần đây, chàng lâm vào một trạng thái như thể thực sự có thể bị viêm não, sau này chàng nói như vậy. Sáng hôm trước, Aliosa không sao lùng tìm được chàng, còn anh Ivan hôm ấy không thể hẹn gặp chàng ở quán ăn.
Chủ nhà theo lời dặn của Dmitri, giấu kỹ không cho biết chàng đi đâu. Trong hai ngày ấy đúng là chàng lồng lộn khắp bốn phương, "đấu tranh với số phận và tự cứu mình", như cách nói của chàng sau này, thậm chí chàng biến khỏi thành phố mấy tiếng vì có việc khẩn cấp, mặc dù chàng rất sợ phải rời khỏi thành phố, không để mắt tới Grusenka dù chỉ một lúc. Tất cả những điều đó sau này đã được xác minh hết sức tỉ mỉ và ghi thành biên bản, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ chỉ nêu ra điều cần thiết nhất trong câu chuyện về hai ngày ấy trong đời Dmitri, hai ngày trước thảm hoạ ghê gớm bất thần ập xuống đầu chàng.
Grusenka tuy quả thực có yêu chàng chân thành trong một giờ, đấy là sự thật, nhưng đôi khi cũng nhẫn tâm hành hạ chàng, đến là tàn bạo. Cái chính là chàng không đoán được gì về ý định của nàng, cũng không có đủ khả năng moi điều bí mật ấy bằng sự âu yếm hay bằng sức mạnh: không đời nào nàng lộ ra, mà chỉ nổi giận và đoạn tuyệt hẳn với chàng, chàng hiểu điều đó. Chàng hồ nghi - và hồ nghi hoàn toàn đúng - rằng chính nàng đang tự đấu tranh, đang phân vân lạ thường, đang quyết định một việc gì mà không thể quyết được, vì thế chẳng có lý do để cho rằng đôi lúc hẳn là nàng căm thù chàng với sự say đắm của chàng, cứ nghĩ thế là tim chàng lịm đi. Có lẽ đúng như thế, nhưng Grusenka buồn vì chuyện gì thì chàng vẫn không hiểu được. Thực ra toàn bộ câu hỏi dằn vặt chàng rút lại chỉ là nàng chọn ai: "Chàng, Mitia, hay Fedor Pavlovich". Ở đây cần ghi nhận một điều chắc chắn: chàng tin chắc rằng Fedor Pavlovich nhất định sẽ đề nghị (nếu không phải là đã đề nghị rồi) chính thức cưới Grusenka làm vợ và không lúc nào chàng tin rằng ông già dâm đãng hy vọng đạt được ý nguyện chỉ bằng giá ba ngàn rúp. Biết Grusenka và tính cách của nàng, chàng suy luận như vậy. Vì thế, có những lúc chàng tưởng rằng Grusenka bị giày vò và phân vân chỉ vì nàng không biết chọn ai trong hai người, chọn ai có lợi cho nàng hơn.
Còn về việc "chàng sĩ quan" sắp trở về, gã sĩ quan có vai trò ác hại trong đời Grusenka mà nàng đang rất đỗi hồi hộp và lo sợ chờ anh ta tới, thì kỳ lạ thay, trong những ngày ấy Dmitri không hề nghĩ đến. Sự thật dù mấy ngày gần đây nhất, Grusenka tuyệt không nói gì với chàng về chuyện ấy. Tuy nhiên chàng đã được nàng cho biết về lá thư nàng nhận được cách đây một tháng do kẻ đã từng quyến rũ nàng gửi đến, chàng cũng biết một phần nội dung lá thư. Lần ấy, trong một lúc tức giận, Grusenka đã cho chàng xem lá thư gần như chằng có giá trị gì. Rất khó giải thích tại sao: có lẽ chỉ đơn giản là đang buồn phiền vì phải lao vào cuộc tranh chấp quái gở và khủng khiếp với cha để giành giật người phụ nữ này, chàng không thể quan niệm được điều gì đáng sợ và nguy hiểm hơn cho mình, ít ra là trong lúc ấy. Chàng không tin là có gã chồng chưa cưới tự đâu bỗng xuất hiện sau năm năm biệt tăm, đặc biệt là việc gã sắp trở về. Hơn nữa trong lá thư đầu tiên của "gã sĩ quan" mà chàng đã được xem, việc kẻ tình địch mới này sẽ về chỉ được nói đến một cách hết sức vu vơ: thư viết hết sức mơ hồ, rất đỗi khoa trương, đầy giọng đa cảm.
Cần lưu ý rằng lần ấy Grusenka giấu chàng mấy dòng cuối lá thư có nói rõ ràng hơn một chút về việc gã sĩ quan trở lại. Thêm nữa, sau này Mitenka nhớ lại rằng lúc ấy hình như chàng nhận thấy gương mặt Grusenka bất giác lộ vẻ khinh bỉ kiêu kỳ đối với bức thông điệp từ Sibir gửi tới. Sau đó Grusenka không hề cho biết gì về mọi quan hệ tiếp theo với người tình địch mới này của Mitenka. Như vậy dần dần chàng quên bẵng viên sĩ quan. Chàng chỉ nghĩ đến chuyện bất kể sự thể xoay chuyển thế nào, cuộc đụng độ quyết liệt với bố xảy ra đến nơi rồi và hẳn là phải được giải quyết trước mọi việc khác. Lòng chết lặng đi, từng phút chàng chờ đợi quyết định của Grusenka và vẫn tin rằng nó sẽ xảy ra dường như bất ngờ, theo cảm hứng. Ngộ nhờ nàng sẽ bảo: "Đưa em đi, em mãi mãi là của anh" - thế là xong hết, chàng sẽ lập tức đưa nàng đến tận cùng trời cuối đất. Ồ, sẽ lập tức đưa đi thật xa, nếu không phải là cùng trời cuối đất thì cũng là nơi góc bể chân trời nào của nước Nga, rồi sẽ cưới nàng ở đấy và cùng nàng sống incognito(1), không để ai hay biết gì về hai người, ở đây cũng như ở đấy, chàng mơ ước cuồng nhiệt về cuộc đời ấy, một cuộc đời khác, đổi mới và "đức hạnh" (nhất định, nhất định là "đức hạnh"). Chàng khao khát sự phục sinh và đổi mới ấy. Cái vũng xoáy nhơ nhớp mà chàng tự ý sa vào đã hút chàng quá chặt, và cũng như rất nhiều người trong những trường hợp như thế này, chàng tin nhiều nhất vào sự thay đổi địa điểm: miễn là không phải nhưng con người ấy, miễn là không phải hoàn cảnh ấy miễn là bay ra khỏi chốn đáng nguyền rủa này - thế là tất cả sẽ phục hlng, sẽ đổi mới! Chàng tin như thế và khắc khoải mong như thế.
Nhưng đấy chỉ là trường hợp xảy ra giải pháp thứ nhất, giải pháp may mắn. Còn một giải pháp, một kết cục khác, một kết cục khủng khiếp. Ngộ nhỡ nàng sẽ bảo: "Anh đi đi, bây giờ tôi quyết định chọn Fedor Pavlovich và sẽ lấy ông ấy, tôi không cần anh", khi ấy thì… khi ấy… Tuy nhiên Mitia không biết khi ấy sẽ thế nào, cho đến giờ phút cuối cùng chàng vẫn không biết, về điểm này nên thể tất cho chàng. Chàng không có ý định rõ rệt, không mưu toan giết người. Chàng chỉ theo dõi, dò xét và đau khổ, nhưng vẫn chỉ chờ đón cái kết thúc thứ nhất, may mắn cho đời mình. Thậm chí chàng xua đuổi mọi ý nghĩ khác. Nhưng ở đây đã bắt đầu một nỗi khổ tâm khác, đến đây đã xuất hiện một vấn đề mới, ngoài rìa, nhưng cũng tai ác và không thể giải quyết được. Ấy là nếu như nàng nói với chàng: "Em là của anh, hãy đưa em đi" thì làm thế nào đưa nàng đi được? Lấy đâu ra phương tiện, đào đâu ra tiền? Đúng vào lúc ấy, tất cả mọi khoản mà Fedor Pavlovich thí cho đều đặn từ nhiều năm nay đã cạn sạch.
Cố nhiên Grusenka có tiền, nhưng về mặt này Mitia khái tính lắm: chàng muốn đưa nàng đi và cùng nàng sống cuộc đời mới bằng tiền của mình, chứ không phải bằng tiền của nàng. Chàng không thể tưởng tượng mình sẽ lấy tiền của nàng, ý nghĩ ấy làm cho chàng đau khổ đến độ ghê tởm, quằn quại. Ở đây tôi sẽ không nói nhiều về việc này, không phân tích kỹ, mà chỉ ghi nhận: trạng thái tâm hồn chàng lúc ấy là như thế. Tất cả những điều đó một cách gián tiếp và vô thức, có thể là do sự giày vò ngấm ngầm của lương tâm về số tiền đã lén lút chiếm đoạt của Ekaterina Ivanovna: "Với một người phụ nữ ta là thằng đểu cáng, với người phụ nữ kia ta cũng lại là thằng đểu cáng, - chàng nghĩ, như tự thú với mình, - Grusenka mà biết thì nàng cũng chẳng thèm lấy một thằng đểu cáng như thế". Vậy thì làm cách nào, lấy đâu ra số tiền tai ác ấy? Không có tiền thì hỏng hết, chẳng nên cơm cháo gì, "tất nhiên chỉ vì thiếu tiền, ôi nhục nhã".
Tôi xin nói trước: nói cho đúng, có lẽ chàng biết phải xoay tiền ở đâu, biết số tiền ấy nằm ở đâu. Lần này tôi sẽ không nói gì kỹ hơn, bởi vì rồi sau mọi việc sẽ sáng tỏ; nhưng đây là điều gay go nhất cho chàng, và tôi xin nói ra điều đó, tuy là không thật rõ ràng: để lấy được khoản tiền đó ở một chỗ nào đó, để có quyền lấy số tiền ấy, trước hết cần trả lại ba ngàn đồng cho Ekaterina Ivanovna - nếu không thì "ta là tên móc túi, ta là thằng đểu cáng, mà ta không muốn là thằng đểu cáng khi bước vào cuộc sống mới". Mitia quyết định, bởi vậy chàng quyết đảo lộn cả thế giới nếu cần, nhưng dù thể nào trước hết cũng phải trả cho Ekaterina Ivanovna ba ngàn đồng ấy. Quá trình dứt khoát đi đến quyết định ấy diễn ra có thể là trong những giờ cuối cùng của cuộc đời chàng, chính trong cuộc gặp gỡ cuối cùng với Aliosa hai ngày trước vào một buổi tối, trên đường, sau khi Grusenka lăng nhục Ekaterina Ivanovna, còn Mitia, sau khi nghe Aliosa kể lại chuyện ấy đã thừa nhận mình là kẻ đểu cáng và bảo em nói lại với Ekaterina Ivanovna như vậy, "nếu điều đó có thể làm cho nàng nguôi lòng chút ít". Đêm hôm ấy, khi chia tay với em, trong lúc phẫn chí, chàng cảm thấy chẳng thà "giết người, cướp của mà trả được nợ cho Chúa" còn hơn. "Chẳng thà đối với kẻ bị giết và bị cướp cũng như đối với mọi người, ta là kẻ giết người và trộm cướp và sẽ phải đi Sibir còn hơn là để Katia có quyền nói rằng ta phản bội nàng, ta ăn cắp tiền của nàng và dùng tiền của nàng trốn đi với Grusenka để bắt đầu cuộc sống mới hạnh phúc! Ta không thể như thế được!" Mitia nghiến răng thốt lên và quả thực có lúc chàng tưởng tượng rằng cuối cùng chàng sẽ bị viêm não mất. Nhưng tạm thời chàng vẫn đấu tranh…
Điều lạ lùng là: khi quyết định như vậy, dường như chàng chỉ còn tuyệt vọng mà thôi; bởi vì lấy đâu ra số tiền lớn như vậy, nhất là một kẻ kiết xác như chàng? Tuy thế mà suốt thời gian ấy chàng vẫn một mực hy vọng sẽ xoay được số tiền ấy, nó sẽ tự đến với chàng, như thế tự trên trời sa xuống. Nhưng đấy là tâm trạng thường có của những người như Dmitri Fedorovich suốt đời chỉ biết phung phí tiền của được thừa kế, chứ không hề biết kiếm tiền được bằng cách nào. Giờ đây, sau khi chia tay với Aliosa ngày hôm kia, một cơn lốc kỳ quái quay cuồng trong đầu óc chàng, làm rối tung mọi ý nghĩ. Vậy là chàng đã bắt đầu bằng một mưu đồ man rợ. Mà có lẽ chính trong tình thế như vậy, những con người như thế lại cho rằng những mưu đồ hoang đường nhất lại có nhiều khả năng thực hiện nhất. Đột nhiên chàng quyết định đến thương gia Xamxonov, người nuôi bao Grusenka và đề nghị với ông ta một "kế hoạch", nhờ đó mà moi được ở ông ta luôn một lúc toàn bộ số tiền cần có. Về khía cạnh thương mại, chàng không nghi ngờ gì ở kế hoạch của mình, chỉ nghi ngại về việc Xamxonov nhìn nhận hành động đột ngột của chàng như thế nào nếu ông ta không chỉ nhìn từ khía cạnh thương mại. Mitia tuy biết mặt thương gia này, nhưng không quen ông ta, thậm chí chưa lần nào nói chuyện với ông ta. Nhưng không hiểu sao, thậm chí đã từ lâu, chàng tin chắc rằng lão già dâm đãng đã một chân trong mồ có lẽ lúc này hoàn toàn không chống đối, nếu Grusenka tìm cách nào đó sống cuộc đời lương thiện, lấy một người chồng "đáng tin cậy". Ông ta chẳng những sẽ không chống đối, mà còn mong muốn điều đó, và gặp dịp thuận tiện thì chính ông ta sẽ giúp một tay. Theo lời đồn hay đôi ba lời do chính Grusenka nói ra, chàng kết luận rằng ông già thích Grusenka lấy chàng hơn là lấy Fedor Pavlovich. Có lẽ nhiều bạn đọc truyện này sẽ cho rằng việc Dmitri Fedorovich trông mong vào sự giúp đỡ của ông già và định tiếp nhận vợ chưa cưới của mình, nếu có thể nói như vậy, từ tay lão già nuôi báo cô ta thì thật là thô lỗ và không biết tởm. Tôi chỉ có thể lưu ý rằng Mitia coi quá khứ của Grusenka là đã vùi sâu hẳn. Chàng nhìn quá khứ đó với niềm thông cảm vô hạn và với tất cả niềm đam mê bốc lửa của mình, chàng quyết định rằng một khi Grusenka sẽ nói rằng nàng yêu chàng và lấy chàng thì lập tức nàng sẽ là một Grusenka hoàn toàn mới, và cùng với nàng, chàng cũng sẽ là một Dmitri Fedorovich hoàn toàn mới, không còn một thói xấu nào, chỉ toàn là đức hạnh: hai người sẽ tha thứ cho nhau và sẽ bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới. Còn về Kuzma Xamxonov thì chàng coi là một người có vai trò ác hại trong quãng đời xui xẻo trước đây của Grusenka, nàng chưa bao giờ yêu ông ta, mà điều chủ yếu là ông ta cũng đã "lùi vào dĩ vãng", đã hết đời, thành thử coi như không còn ông ta nữa. Thêm nữa, bây giờ thậm chí Mitia không thể coi ông ta là người, bởi vì trong thành phố, ai nấy đều biết đấy chỉ là tấm thân tàn ốm yếu, giữ quan hệ có thể nói là chỉ trên tình cha con với Grusenka, chứ hoàn toàn không phải trên cơ sở như trước kia, và đã từ lâu như thế, ngót một năm rồi. Dùsao, về phần Mitia, như vậy cũng là quá chất phác, bởi vì mặc dù tất cả thói xấu của mình, chàng là một người rất chất phác. Vì chất phác, chàng thực sự tin chắc rằng ông già Kuzma sắp sửa sang thế giới bên kia giờ đây thành thật hối hận về quá khứ của mình với Grusenka, và bây giờ Grusenka không có người bảo trợ và người bạn nào trung thành hơn ông già đã trở nên vô hại này.
Hôm trước nói chuyện với Aliosa ở cánh đồng và sau đó gần suốt đêm Mitia không ngủ, thì hôm sau chàng đến nhà Xamxonov vào quãng mười giờ sáng và bảo gia nhân vào trình ông chủ. Đây là ngôi nhà cũ kỹ, ảm đạm, rộng thênh thang, hai tầng, có nhà phụ quanh sân và một gian nhà ngang. Ở tầng dưới gồm có hai người con trai của Xamxonov cùng với vợ con của họ, người em gái già khụ của ông ta và người con gái không có chồng. Ở nhà ngang có hai người quản lý cùng con gái sống chật chội trong những căn phòng của họ, còn ở tầng trên chỉ có một, mình ông già, thậm chí ông không cho người con gái cùng ở tầng trên, bà ta chăm nom ông và vào những giờ nhất định cũng như bất kỳ lúc nào ông gọi đều phải chạy lên gác, mặc dù bà ta đã từ lâu mắc chứng khó thở. "Tầng lầu" ấy gồm vô số phòng lớn bầy biện theo kiểu cổ của thương gia, với những dãy dài ghế bành và ghế dựa thô kệch bằng gỗ hồng sắc kê dọc chân tường, nom tẻ nhạt, với những chùm đèn pha lê bọc lụa, với những tấm, gương ủ ê trên các khoảng tường giữa các cửa sổ. Tất cả những căn phòng đó đều trống không, không có người ở, vì ông già ốm yếu chỉ thu mình trong một buồng ngủ nhỏ ở cuối tầng, hầu hạ ông ta ở đây có một mụ già đầu bịt tấm khăn và một "cậu bồi" thường ngồi trên chiếc rương lớn ở phòng ngoài. Ông già hai chân sưng húp, hầu như không đi được nữa, chỉ thỉnh thoảng đứng dậy khỏi chiếc ghế bành da, và mụ già dìu ông ta đi một vài lượt trong phòng. Ông ta nghiêm khắc và ít nói ngay cả với mụ già này. Khi gia nhân trình với ông ta rằng có "viên đại uý" đến thăm, ông ta lập tức ra lệnh từ chối. Nhưng Mitia khăng khăng xin gặp và người nhà trình lại lần nữa. Kuzma Kuzmir hỏi kỹ gã bồi: có việc gì, nom gã thế nào, có say rượu không? Gã có làm ầm ĩ không? Và được trả lời là "ông ta không say, nhưng không chịu ra về", ông già lại ra lệnh từ chối. Mitia đã dự đoán trước sự tình này, nên lần này chàng mang theo giấy và bút chì, chàng viết lên mẩu giấy một dòng rõ nét: "Việc hết sức khẩn cấp có quan hệ thiết thân đến Agrafena Alecxandrovna" và gửi mẩu giấy cho ông già. Nghĩ một lát, ông già bảo đưa khách vào phòng lớn và sai mụ già xuống bảo người con trai út phải lên ngay chỗ ông có việc. Người con trai út này cao ngót hai mét, sức vóc phi thường, cạo râu và mặc theo kiểu Đức. (Xamxonov thì mặc áo kaftan(2) và để râu), anh ta lên ngay và chẳng nói chẳng rằng. Con cái ông ta người nào đến trước mặt bố cũng run sợ. Ông bố gọi chàng dũng sĩ này lên không phải vì sợ gã đại uý, ông ta đâu phải người non gan, mà chỉ để phòng xa, cái chính là cho có người làm chứng. Có cậu con trai dìu đỡ và gã bồi một bên, ông ta rốt cuộc cũng lê được ra phòng khách. Hẳn là ông ta có một cảm giác tò mò khá mạnh. Căn phòng nơi Mitia ngồi chờ cực kỳ rộng lớn, âm u, khiến người ta buồn chết cả cõi lòng, có hai dãy cửa sổ dãy nọ trên dãy kia, có bao lơn dành cho ban hát, tường giả đã hoa cương, có ba chùm đèn pha lê lớn bọc lụa. Mitia ngồi trên chiếc ghế dựa cạnh cửa ra vào, nôn nóng chờ đợi số phận của mình. Khi ông già xuất hiện ở phía đối diện, cách chỗ Mitia ngồi chừng mươi xagien(3), chàng đột nhiên bật dậy và bước rắn rỏi kiểu nhà binh đến về phía ông già. Mitia ăn vận lịch sự. Áo dài cài cúc, hai tay đi găng đen cầm chiếc mũ tròn, hệt như ba ngày trước ở tu viện, tại phòng trưởng lão, trong cuộc họp mặt gia đình với bố và các em. Trịnh trọng và nghiêm nghị, ông già đứng đợi chàng tới gần, ông ta đã quan sát chàng từ đầu đến chân. Mitia cũng sửng sốt vì thời gian gần đây mặt Kuzma Kuzmir húp lên ghê quá: môi dưới của ông ta vốn đã dầy bây giờ xệ hẳn xuống. Ông ta chẳng nói chẳng rằng, trình trọng nghiêng mình chào khách, đưa tay chỉ cho khách chiếc ghế bành cạnh đi vàng, còn ông ta vịn tay người con trai, rên rỉ một cách đau đớn, ngồi xuống đi văng đối diện với Mitia, còn Mitia nhìn thấy những cố gắng đau đớn của ông ta, lập tức chàng cảm thấy ân hận và hổ thẹn một cách tế nhị về thân phận hèn mọn của mình lúc này trước nhân vật quan trọng như thế bị mình quấy quả.
- Thưa ông, ông cần gì ở tôi? - Sau khi đã ngồi xuống, ông già nói chậm rãi, rành rẽ, nghiêm nghị nhưng lễ độ.
Mitia giật mình, toan bật dậy, nhưng lại ngồi xuống. Liền đó chàng lên tiếng, nói to và nhanh, nóng nảy làm điệu bộ, hết sức kích động và kiên quyết. Rõ ràng con người này đã cùng đường, mạt vận, đang tìm một lối thoát cuối cùng, và nếu không thành công thì sẵn sàng trẫm mình tức khắc. Tất cả những điều đó có lẽ ông già Xamxonov đã hiểu ngay trong khoảnh khắc, nhưng nét mặt ông vẫn không thay đổi và lạnh như tượng.
- Kính thưa cụ Kuzma Kuzmir, chắc cụ đã nhiều lần nghe nói về những cuộc va chạm giữa tôi và ba tôi, ông già nhà tôi đã chiếm đoạt phần tài sản tôi được thừa kế của mẹ tôi… bởi vì cả thành phố đã đồn inh lên về việc đó… thiên hạ vẫn hay bàn tán về những chuyện không nên bàn tán mà… Ngoài ra, có thể cụ đã nghe qua Grusenka… xin lỗi, Agrafena Alecxandrovna… cô Agrafena Alecxandrovna mà tôi hết sức côn kính… - Mitia mở đầu như vậy và ngừng lại. Nhưng chúng tôi sẽ không dẫn ra đúng nguyên văn lời nói của chàng, mà chỉ trình bày lại. Số là từ ba tháng trước, Mitia đã chú tâm hỏi ý kiến một luật sư ở tỉnh lị.
"Một luật sư danh tiếng, thưa cụ Kuzma Kuzmir, ông Pavel Pavlovich Komefodov, chắc cụ cũng biết tiếng chứ ạ? Trán rất rộng, một đầu óc chính khách… ông ấy cũng biết cụ… hết lời ca ngợi cụ…" - Mitia lại ngừng bặt. Nhưng không phải chàng chịu thôi hẳn, chàng lập tức nhảy sang chuyện khác và đi xa hơn.
Chính ông Komefodov ấy, sau khi hỏi kỹ mọi chi tiết và xem tất cả những giấy tờ mà Mitia có thể đưa ra cho ông ta (về giấy tờ thì Mitia nói một cách mập mờ và đặc biệt vội vã ở chỗ này), ông ta đưa ra ý kiến rằng về làng Tresniasnia mà lẽ ra Mitia phải được thừa kế của mẹ thì có thể phát đơn kiện và như vậy sẽ làm cho ông già xấu nết kinh hoảng… "bởi vì không phải mọi cánh cửa đã đóng kín và bộ máy tư pháp biết đường luồn lách". Tóm lại có thể hy vọng đòi Fedor Pavlovich phải trả thêm sáu ngàn rúp thậm chí bảy ngàn, mà có thể là hai mươi tám, "ba mươi, ba mươi, cụ Kuzma Kuzmir ạ, vậy mà cụ tưởng tượng xem, tôi mới moi được của ông già tàn bạo ấy chưa đến mười bảy ngàn!… "Vậy mà tôi đã bỏ qua việc đó, vì tôi không biết kiện tụng, nhưng khi về đây, tôi bàng hoàng hay tin ông già lại phản tố tôi (đến đây Mitia lại lúng túng và chuyển hướng đột ngột): vậy thưa cụ Kuzma Kuzmir rất mực cao quý, cụ có ưng để tôi nhượng cho cụ mọi quyền của tôi đối với ông già quái quý ấy, còn cụ chỉ cần đưa cho tôi ba ngàn rúp thôi… Cụ không đời nào bị thua thiệt, tôi lấy danh dự thề với cụ như vậy, mà trái hẳn lại, cụ có thể kiếm được sáu hay bẩy ngàn chứ không phải là ba ngàn… Cái chính là phải làm xong "ngay hôm nay". Tôi sẽ nhượng quyền cho cụ ở chỗ chưởng khế hoặc giả… Tóm lại, tôi sẵn sàng làm mọi việc, trao cho cụ mọi giấy tờ cụ muốn, tôi sẽ ký kết… chúng ta sẽ làm giấy tờ ngay bây giờ, nếu có thể được, nếu như có thể được, ngay sáng hôm nay… Giá như cụ đưa cho tôi ba ngàn đồng… bởi vì ở thị trấn này chẳng ai đọ được với cụ… như vậy là cụ sẽ cứu tôi khỏi… tóm lại là cụ sẽ cứu được kẻ khốn khổ này để hắn làm một việc hết sức cao quý, một việc vô cùng cao cả, có thể nói như vậy… vì tôi có tình cảm hết sức cao quý với một người mà cụ biết rất rõ và được cụ chăm sóc như con đẻ. Nếu không phải là cụ coi người đó như con thì tôi đã không đến đây. Cụ có thể coi là ở đây có ba người chạm trán với nhau, bởi vì số mệnh đúng là con quái vật đáng sợ, cụ Kuzma Kuzmir ạ! Đầu óc hiện thực, cụ Kuzma Kuzmir ạ, cần có đầu óc hiện thực. Bởi vì cụ thì đáng xếp ra một bên từ lâu rồi, vậy còn lại hai cái trán cụng nhau, tôi diễn đạt có thể là vụng về, nhưng tôi đâu phải là nhà văn. Một cái trán là của tôi, còn cái kia là của ông già ác ôn nọ. Vậy cụ chọn đi: tôi hoặc lão già ác ôn kia. Bây giờ tất cả ở trong tay cụ: ba số phận và hai vận mạng… Xin cụ thứ lỗi, tôi nói lung tung, nhưng cụ hiểu cho… nhìn cặp mắt đáng kính của cụ tôi thấy là cụ đã hiểu… Còn nếu cụ không hiểu thì ngay hôm nay tôi sẽ gieo mình xuống nước, thế là xong!
Mitia chấm dứt đoạn diễn từ lố lăng của mình bằng câu "thế là xong", và chờ câu trả lời cho đề nghị dớ dẩn của mình. Nói xong câu cuối cùng, chàng bỗng tuyệt vọng cảm thấy hỏng cả rồi, nhất là chàng đã phun ra những lời lảm nhảm quái gở. "Lạ thật, khi đến đây mình tưởng đâu mọi chuyện sẽ êm đẹp, thế mà bây giờ thì lại đâm ra lảm nhảm như vậy" - một ý nghĩ thoáng qua trong đầu óc thất vọng của chàng. Suốt thời gian chàng nói, ông già ngồi không nhúc nhích, dõi nhìn chàng bằng ánh mắt giá băng.
Để cho Mitia phải chờ chừng một phút, rồi Kuzma Kuzmir nói bằng giọng hết sức kiên quyết và buồn rầu:
- Xin lỗi ông, chúng tôi không làm những loại công việc như thế.
Mitia bỗng cảm thấy hai chân bủn nhủn.
- Thế thì tôi biết làm thế nào bây giờ, cụ Kuzma Kuzmir. - Chàng nói lí nhí, môi tái nhợt mỉm cười. - Chết tôi rồi, cụ nghĩ sao?
- Xin lỗi ông…
Mitia vẫn đứng và trân mắt nhìn, bỗng nhiên chàng nhận thấy một diễn biến gì đó trên mặt ông già. Chàng rùng mình.
- Ông ạ, những việc loại đó không ở trong tầm tay chúng tôi, - ông già nói một cách chậm rãi. - Rồi là ra hầu toà, luật sư, thật là vô phước! Nếu ông muốn thì ở đây có một người mà ông có thể nhờ cậy được…
- Trời ơi, ai vậy?… Cụ hồi sinh cho tôi, thưa cụ Kuzma Kuzmir. - Mitia bỗng lắp bắp.
- Ông ta không phải người ở đây, và bây giờ ông ta cũng không có mặt ở đây. Ông ta gốc gác nông dân, buôn gỗ, biệt hiệu là Liagavyi. Đã một năm nay ông ta thương lượng với ông cụ nhà ông về khu vườn ở Tresniasnia, chưa ngã ngũ, chắc ông có nghe nói. Bây giờ ông ta vừa trở lại đấy và trú chân ở nhà Cha Ilinxki, cách ga Volovia đâu khoảng mười hai dặm, làng Ilinxki. Ông ta có viết thư cho tôi về việc ấy, tức là về khu rừng nọ, hỏi ý kiến tôi. Fedor Pavlovich định đích thân đến gặp ông ta. Vậy nếu như ông đến trước khi cụ Fedor Pavlovich gặp và đề nghị với Liagavyi điểu ông vừa nói với tôi thì có lẽ ông ta sẽ chấp nhận…
- Thật là cao kiến! - Mitia hân hoan reo lên. - Tôi đang cần chính một người như thế, chính một người như thế! Ông ta đang mặc cả, người ta đòi giá cao, vậy mà tôi đem đến cho ông ta giấy tờ để sở hữu chính cái đó, ha-ha-ha! - Mitia bỗng bật ra tiếng cười cụt lủn, nhạt nhẽo, bất ngờ đến nỗi Xamxonov ngất đầu ra phía sau.
- Tôi biết tạ ơn cụ thế nào đây, cụ Kuzma Kuzmir. - Mitia sôi nổi la lên.
- Có gì đâu. - Xamxonov nghiêng đầu…
- Cụ không biết chứ, cụ đã cứu tôi, linh tính đã xui khiến tôi tìm đến cụ… Tôi đến ông cha đạo ấy thôi!
- Chẳng đáng phải cảm ơn.
- Tôi bay đi ngay đây. Tôi đã lạm dụng sức khỏe của cụ. Suốt đời tôi sẽ không quên, một người Nga nói với cụ điều ấy đấy, cụ Kuzma Kuzmir ạ, một người Nga!
- Không dám.
Mitia toan bắt tay ông già, nhưng có vẻ gì ác ý thoáng hiện trong mắt ông ta. Mitia rụt tay lại, nhưng lập tức tự trách mình đa nghi. "Ấy là bởi ông ta mệt…" - chàng thoáng nghĩ.
- Đấy là vì nàng! Vì nàng, thưa cụ Kuzma Kuzmir! Cụ cũng hiểu là vì nàng! - Chàng bỗng gào vang khắp phòng, cúi chào, quay ngoắt đi và sải dài bước như ban nãy, vội vả đi ra cửa, không hề ngoái lại. Chàng hoan hỉ đến run lên. "Mọi chuyện hỏng cả rồi, thế mà thần hộ mệnh đã cứu ta. - Chàng nghĩ thầm. - Một người kinh doanh như ông già này (một ông già tu mực cao quý và phong thái mới đường bệ làm sao) mà đã vạch đường chỉ lối thì… đương nhiên đó là con đường chắc ăn. Phải vút đi ngay thôi. Đêm nay ta sẽ trở về, đêm nay ta sẽ trở về, sẽ thành công thôi. Lẽ nào ông già lại chơi xỏ ta?". Mitia thốt lên khi bước vào phòng mình, cố nhiên trí óc chàng không thể nghĩ khác được: hoặc đấy là lời khuyên xác đáng (của một nhà kinh doanh như thế), am hiểu công việc, biết rõ tay Liagavyi ấy (cái họ kỳ lạ!) hoặc là ông già chơi xỏ chàng! Hỡi ôi, ý nghĩ sau cùng này mới đúng. Sau này, mãi về sau, khi thảm hoạ đã xảy ra, ông già Xamxonov mới vừa cười vừa thú nhận là ông ta chơi xỏ "viên đại uý" ông ta là con người độc ác, lạnh lùng, hay giễu cợt và có những ác cảm bệnh hoạn. Phải chăng vẻ hân hoan của viên đại uý hay niềm tin ngu ngốc của "gã bán trời không văn tự" cho rằng Xamxonov, có thể bị dụ hoặc bởi cái trò phi lý như "kế hoạch" của gã, hay sự ghen tuông của ông già về Grusenka ("thằng lỏi" này nhân danh nàng đến đưa ra lý do như thế để xoay tiền) - tôi không biết lý do gì đã thôi thúc ông già, nhưng lúc mà Mitia đứng trước ông ta, cảm thấy chân tay bủn rủn và ngơ ngẩn kêu lên rằng thế là chết mình rồi thì chính lúc ấy ông già nhìn chàng với vẻ độc ác vô cùng và nghĩ ra cách chơi xỏ chàng.
Mitia đi khỏi, Kuzma Kuzmir giận tái người quay lại bảo con trai phải làm sao từ nay không còn thấy bóng vía thằng khốn khó ấy nữa, cấm cửa hắn, nếu không thì…
Lão không nói hết câu doạ dẫm, những người con trai mặc dù đã nhiều lần thấy lão nổi cơn lôi đình: cũng vẫn giật mình khiếp sợ. Suốt một giờ sau lão già vẫn run lên vì giận, đến tối lão phát ốm và cho đi mời "thầy lang".
Chú thích: (1) Tiếng Latin: mai danh ẩn tích (N.D). (2) Kaftan - áo dài kiểu cổ của đàn ông Nga (N.D). (3) Một Xagien bằng 2,13 mét (N.D)