Đoàn người rời sơn cốc, ai ai cũng có vẻ vội vàng, theo con đường mòn, xuống núi.
Phía sau, không xa lắm, tiếng lục lạc của con lạc đà khua vang.
Nó chạy đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, nép sát mình vào chàng, tỏ ra thân thiết như đôi cố hữu gặp nhau sau bao nhiêu năm tháng xa cách.
Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ bàn tay lên gáy nó, nhiều cảm khái rạt rào nơi ánh mắt, chàng thốt:
– Lão bằng hữu ơi! Suýt tý nữa là ta không còn trông thấy lão hữu nữa rồi!
Lần này, ta thoát chết là nhờ lão hữu đấy!
Xà Cơ Giang Phàm gật đầu:
– Nó đúng là một con vật thông linh đó, Quan công tử! Liễu Y Ảo chỉ cầm thanh kiếm của công tử, nó ở gần đó, ngẩng mũi lên ngửi một lúc, là đuổi theo ngay. Liễu Y Ảo có thân pháp khá lắm đấy chứ, song nàng vẫn bị con thú đuổi theo kịp ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Kiếm? Thanh kiếm của tại hạ ở đâu?
Giang Phàm đáp:
– Chính Liễu Y Ảo giữ. Có lẽ nàng đã mang theo bên mình.
Lý Trại Hồng kinh hãi:
– Thế thì nguy! Nếu thanh Bạch Hồng Kiếm về tay Liễu Y Ảo, thì sự tình càng thêm rối lắm! Nàng có thanh kiếm đó trong tay còn khó trị hơn là ba con Độc Xà.
Giang Phàm thấy Lý Trại Hồng và Quan Sơn Nguyệt cùng lộ vẻ khẩn trương, vừa lạ lùng vừa sợ hãi, hỏi:
– Thanh kiếm đó có điểm gì đặc biệt?
Quan Sơn Nguyệt thất vọng vô cùng:
– Nó chỉ là một thanh kiếm cổ, ngoài cái chỗ chém sắt như chém bùn, nó còn lắm hiệu dụng huyền diệu.
Giang Phàm lắc đầu:
– Tôi không thấy cái giá trị của nó! Lúc Liễu Y Ảo mang nó về, nàng hết sức trân trọng nó, nhưng Xà Thần đem nó ra thực nghiệm, thì ai ai cũng thất vọng vì nó không đâm thủng nổi cái lớp da rắn của Liễu Y Ảo mặc bên ngoài. Tôi nhận thấy, nó còn tầm thường hơn thanh đoản kiếm của Lê phu nhân đã bị Xà Thần bẻ gãy đó. bởi thanh kiếm của Lê phu nhân, ít nhất cũng chém tét một vài chiếc vảy của Xà Thần.
Lý Trại Hồng nhìn Nguyệt Hoa Phu Nhân một chút, đoạn hỏi:
– Thanh kiếm của phu nhân có cái tên là Hắc Đái phải không?
Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:
– Phải!
Bà hỏi lại:
– Làm sao Tiên Tử biết được?
Lý Trại Hồng thở dài:
– Đáng tiếc! Đáng tiếc thật! Hắc Đái Kiếm so với Bạch Hồng Kiếm, còn quý hơn nhiều ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân thở ra:
– Quý bao nhiêu nó cũng chẳng còn! Thì, tiếc làm gì một vật đã mất? Tiên Tử chưa thấy thanh kiếm bên mình đứa con kia của già ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi:
– Thanh kiếm của Lưu Ảo Phu ra sao?
Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:
– Thanh kiếm hắn mang, có cái tên là Tử Sính ...
Lý Trại Hồng kêu lên:
– Tử Sính? Một trong năm thanh kiếm quý? Tại sao những thanh kiếm đó lại lần lượt xuất hiện trên giang hồ?
Lúc hội kiến với Ôn Kiều, Quan Sơn Nguyệt có nghe bà nói đến mấy thanh kiếm báu, và điều đó thì Lý Trại Hồng cũng đã biết như chàng. Cả hai cùng biết, họ kinh ngạc vì sự tái xuất hiện của những thanh kiếm đó, còn Nguyệt Hoa Phu Nhân thì hầu như chưa rõ lai lịch của những thanh kiếm đó cho nên bà xem thường.
Bây giờ, thấy cả hai có vẻ kinh hãi, bà hết sức lấy làm lạ, bởi trên đời thiếu chi kiếm báu, thì nơi này có một thanh, nơi khác có một thanh, điều đó có gì lạ mà cả hai phải kinh ngạc? Bà hỏi:
– Năm thanh kiếm báu? Những thanh kiếm đó ra sao?
Lý Trại Hồng giải thích:
– Tiên sư từng được một quyển kiếm phổ, trong quyển kiếm phổ đó có ghi tên năm thanh kiếm lạ, đó là thanh Tử Sính, Thanh Sách, Hắc Đái, Hoàng Diệp và Bạch Hồng, trong số năm thanh kiếm đó, Bạch Hồng Kiếm kém giá trị nhất ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân lẩm nhẩm tên năm thanh kiếm.
Lý Trại Hồng tiếp:
– Trong năm thanh kiếm, phu nhân có đến hai ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:
– Không, cô nương nói sai! Chừng như, trừ thanh Bạch Hồng ra, bốn thanh kia đều ở trong tay già!
Lý Trại Hồng trố mắt, mường tượng không tin lắm.
Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:
– Bốn thanh kiếm đó do Lưu Dật Phu từ hải ngoại mang về, lão nhặt ở đâu thì già không hiểu rõ lắm, nhưng đặc điểm của mỗi thanh thì già có hiểu được phần nào. Lão nói, năm thanh kiếm đó có màu sắc khác biệt, gồm thanh, tử, hắc, bạch và hồng, lấy màu mà đặt tên. Nếu có đủ năm thanh, rồi liên hiệp năm người mà tạo nên một kiếm trận, thì trên đời nầy chẳng một ai phá nổi kiếm pháp liên thủ mà cũng liên hoàn đó ...
Bà dừng lại một chút, rồi tiếp luôn:
– Sở dĩ lão ta kết thù với người đời là vì lão phát hiện ra, thanh kiếm thứ năm ở trong tay một nữ nhân, lão muốn chiếm đoạt thanh kiếm đó cho có đủ số, lão phát động cuộc tranh chấp với nữ nhân, kết quả, kiếm không đoạt được, mà một bàn tay phải bị tiện lìa ...
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đúng rồi! Nữ nhân đó, chính là Ôn lão tiền bối.
Nguyệt Hoa Phu Nhân liếc mắt thoáng qua chàng.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, biết mình đã lỡ lời, hấp tấp cúi đầu, tránh tia mắt của phu nhân.
Nguyệt Hoa Phu Nhân hiểu rõ tâm trạng của chàng, điểm nhẹ một nụ cười gọi chàng:
– Không có gì làm cho con phải khó khăn cả. Linh Cô đã nói hết sự tình với mẹ rồi. Trong tương lai, nếu có xảy ra cuộc xung đột giữa mẹ và bà ấy, con chẳng có mảy mai liên quan nào, như thế, con khỏi phải áy náy.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi gì đó, song Lý Trại Hồng đã cất tiếng:
– Bốn thanh kiếm đó, hiện giờ ở đâu, phu nhân?
Đáng lẽ nàng chỉ hỏi hai thanh kia thôi, bởi phu nhân sử dụng một thanh, Lưu Ảo Phu giữ một thanh, như nàng đã biết, chỉ còn lại hai thanh thôi.
Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:
– Thanh kiếm Thanh Sách thì được chôn theo Lưu Dật Phu trên đỉnh Vọng Nguyệt Phong. Tử Sính Kiếm do già giữ, còn Hắc Đái Kiếm thì được giao cho Đạn Kiếm, Đạn Kiếm chết rồi, già lấy thanh kiếm mang luôn bên mình. Không ngờ ngày nay nó lại bị Xà Thần hủy diệt!
Lý Trại Hồng lại hỏi:
– Thanh Hoàng Diệp Kiếm ở đâu?
Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:
– Ở tại cung Quảng Hàn, già ít có dịp dùng đến kiếm, cũng như các loại vũ khí khác. Do đó, già phó thác cho tỳ nữ là Chữ Trà gìn giữ. Hiện tại, thanh Hoàng Diệp còn lưu lại Quảng Hàn Cung.
Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:
– Vô luận làm sao, tôi tha thiết yêu cầu phu nhân, phu nhân phải phái người về gấp Quảng Hàn Cung, lấy thanh Hoàng Diệp Kiếm mang đến đây, giao cho công tử sử dụng. Chứ nếu không thì trong những ngày sắp tới, tất cả chúng ta sẽ khó tránh khỏi nguy hại.
Nguyệt Hoa Phu Nhân day qua Quan Sơn Nguyệt:
– Có cần thiết không con?
Quan Sơn Nguyệt đáp nhanh:
– Cần lắm chứ, mẹ! Nếu không có một thanh kiếm báu, thì kiếm pháp Đại La của con cầm như vô dụng rồi!
Lý Trại Hồng thấp giọng:
– Trong năm thanh kiếm lạ đó, chỉ có Tử Sính và Thanh Sách là hai thanh có oai lực phi thường, tốt hơn hết là làm cách nào lấy được thanh Thanh Sách ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không thể được! Tại hạ không thể vì một thanh kiếm mà quật mồ một người, dù người đó là kẻ thù!
Lý Trại Hồng muốn nói chi đó, lại thôi.
Nguyệt Hoa Phu Nhân thấy nàng cứ quan sát bà ta mãi, biết ngay là nàng muốn nói điều gì cố kỵ đối với bà, bà liền điểm một nụ cười, thốt:
– Đừng ngại, cô nương! Cô nương muốn nói gì, cứ nói, dù già có bất đồng ý kiến, thì cũng chẳng sao, bởi chúng ta còn thảo luận lại mà!
Lý Trại Hồng liền thốt:
– Giả như chỉ đối phó với Tạ Linh Vận và Liễu Y Ảo, thì Quan công tử dùng thanh Hoàng Diệp Kiếm, cũng thừa sức thủ thắng. Nhưng, trong tương lai, Quan công tử còn phải đương đầu với Lưu Ảo Phu, nếu công tử không có một thanh kiếm tương đương với kiếm địch, thì hậu quả sẽ tai hại không biết như thế nào mà lường. Dù toàn thể chúng ta có tiếp trợ Quan công tử, tôi thấy chẳng có nhiều hy vọng đánh bại Lưu Ảo Phu.
Quả nhiên, Nguyệt Hoa Phu Nhân động tâm ngay. Bà trầm gương mặt, suy nghĩ một lúc lâu.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Tại hạ nhận thấy không cần thiết lắm, Lý Tiên Tử ạ! Có thanh Hoàng Diệp Kiếm cũng đủ lắm rồi. Lúc tại hạ giao đấu với Đạn Kiếm tại cung Quảng Hàn, tại hạ dùng thanh Bạch Hồng Kiếm, thanh kiếm nầy kém hẳn thanh Hắc Đái, thế mà tại hạ còn thắng được. Suy theo đó, tại hạ cho rằng kiếm thuật mới là đáng kể, chứ vũ khí dù sao cũng chỉ là vấn đề phụ thuộc mà thôi.
Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:
– Nguyệt con! Mẹ nghĩ, Lý Tiên Tử nói cũng có lý lắm. Con không thể dựa vào trường hợp giao đấu với Đạn Kiếm mà có sự nhận xét nông cạn như vậy. Đấu với Đạn Kiếm, là con và hắn tỷ thí cái tài, song phương còn nhân nhượng nhau nên không có vấn đề quyết liệt. Trái lại, giữa con và Ảo Phu, có mối thù hận truyền kiếp, nếu song phương động thủ là phải có một mất một còn. Ảo Phu vì thù cha, quyết diệt trừ con, đã đành, nó lại còn hận riêng mẹ, oán luôn con. Nó cho rằng mẹ tha thiết với con, con giành trọn cảm tình của mẹ, hiện tại mẹ cầm như đã mất hẳn nó rồi, thì còn lại một con, khi nào mẹ lại chịu mất luôn con?
Quan Sơn Nguyệt hiểu rõ ý của mẹ, nhưng chàng vẫn cương quyết khước từ:
– Không thể được, mẹ ạ! Lưu Dật Phu có mối thù với phụ thân con, vấn đề đó thuộc về lớp trước, mà chừng như sự hiềm khích giữa nhau cũng chẳng được rõ rệt cho lắm, người ta nói, nhân tử là sự tận, ngày nay hai người ấy đã chết rồi, thì nên để cho họ được yên nơi suối vàng, con không muốn khơi lại niềm đau buồn của họ, huống chi, oan gia nên mở chứ không nên buộc ...
Nguyệt Hoa Phu Nhân thoáng đỏ mặt.
Lý Trại Hồng chen vào:
– Công tử nói thế, là do lòng nhân, dựa vào đạo nghĩa mà nói, chứ Lưu Ảo Phu không tưởng như vậy đâu!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Tại hạ hiểu rồi, Tiên Tử ạ! Hắn còn một nguyên nhân khác, chính cái nguyên nhân đó khiến hắn bằng mọi cách, diệt trừ tại hạ cho kỳ được.
Lý Trại Hồng trầm giọng:
– Bởi thế, công tử phải hết sức đề phòng hắn bất cứ trong phút giây nào, bất cứ tại nơi nào ...
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Hắn đã hai lần toan sát hại tại hạ, tự nhiên tại hạ phải hiểu thâm ý của hắn. Lúc đấu kiếm tại Quảng Hàn Cung, hắn giở thói bạo tàn, rồi khi tại hạ đến Vọng Nguyệt Lầu, hắn lại thực hiện mưu độc!
Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:
– Thật sự, nó quyết ý hại con sao? Cho đến nay mẹ còn hoài nghi đó con!
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Có thể là âm mưu đó không phải do hắn, nhưng biết đâu hắn chẳng góp ý kiến với người chủ mưu? Dù sao thì việc cũng đã rồi, nếu có điều đáng trách là tại con không cẩn thận thôi. Con nhẹ dạ tin lời liều đầu Tiểu Hồng mới ra nông nổi đó!
Nguyệt Hoa Phu Nhân trở lại vấn đề cũ:
– Bây giờ, con đã thoát nạn, thế là mẹ được yên tâm. Đối với nó, mẹ nghĩ dù thế nào thì con cũng cần phải có thanh kiếm Thanh Sách ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Không nên đâu mẹ! Vô luận Lưu Ảo Phu có ác ý như thế nào đối với con, con cũng không thể chấp nhận việc khai quật mộ phần của phụ thân hắn mà đoạt thanh kiếm nơi tay người chết để đối phó với hậu nhân là hắn!
Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:
– Con muốn thế, tùy con! Nếu Ảo Phu có tư cách như con thì trên thế gian nầy, mẹ là người có hạnh phúc nhất.
Lý Trại Hồng phụ họa:
– Có một người con như Quan công tử, phu nhân có quyền hãnh diện!
Quan Sơn Nguyệt vốn trực tính, không chịu nổi những lời tán tụng đó, dù chính mẹ chàng thốt, dù chính một người quen thuộc gần như thân mật của chàng thốt lên, không muốn đứng đó nghe thêm, chàng bước đến cạnh con Minh Đà, ve vuốt nó.
Giang Phàm nhìn chàng, lòng nao nao với một ý niềm mới mẻ, một ý niềm mà suốt mấy năm dài, ở tại Thiên Xà Cốc, nàng chẳng hề nghe dao động lần nào.
Nàng tự lẩm nhẩm:
– Xà Thần từng khuyến cáo ta đừng bao giờ ly khai sơn cốc trở lại trần gian bởi có rất nhiều nam nhân chực chờ lừa gạt những thiếu nữ đang độ xuân thì, nhất là khi thiếu nữ có nhiều nhan sắc. Lão nói, những nam nhân trên đời, đều là những tên bại hoại, tất cả đều đáng chết, nhưng từ lúc ta hân hạnh được tiếp xúc với Quan công tử, ta nhận thấy Xà Thần xét đoán sai!
Tuy là tự lẩm nhẩm với mình, Giang Phàm cũng không hạ thấp giọng lắm, và những lời nói của nàng lọt vào tai Lý Trại Hồng trọn vẹn. Lý Trại Hồng điểm nhẹ nụ cười thốt:
– Không phải Xà Thần hoàn toàn không có đạo lý đâu! Bất quá, cô nương có số đỏ, nên vừa xuất ngoại là được hiệp đoàn với một nam tử tốt nhất trong thiên hạ, rồi cô nương lại tưởng tất cả nam tử đều tốt như vậy! Tôi xin mượn lời khuyến cáo của Xà Thần, để cảnh cáo cô nương, là chẳng phải bất cứ nam nhân nào cũng đều tốt như Quan công tử đâu! Nếu cô nương không dè dặt, thì cái hậu quả sẽ đến với cô nương nhanh chóng!
Giang Phàm lắc đầu:
– Chắc chắn là không bao giờ tôi lầm lạc một nam nhân nào cả, lẽ thứ nhất là tôi sẽ không tin ai, lẽ thứ nhì là tôi chẳng chịu ly khai Quan công tử, vĩnh viễn tôi theo Quan công tử dù phải đi khắp bốn phương trời, dù phải đi suốt đời, tôi sẽ không hề chú ý đến bất cứ nam nhân nào khác, ngoài Quan công tử!
Từ lúc ly khai Thiên Xà Cốc, họ vừa đi vừa nói chuyện, thỉnh thoảng người này tiến đến cạnh người kia, thỉnh thoảng họ quây quần với nhau một chỗ để rồi sau đó qua năm ba câu chuyện, họ lại tách rời nhau.
Những gì Giang Phàm nói, Quan Sơn Nguyệt ở cách xa xa, không nghe rõ.
Giang Phàm thốt xong, liền lướt tới, kèm bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, rồi cả hai nói gì với nhau mấy câu, họ hạ thấp giọng nên những người ở phía sau chẳng biết họ nói gì.
Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày, nhìn qua Lý Trại Hồng một thoáng, đoạn trầm giọng, bảo:
– Đối với đời, nàng chỉ là một cô bé nhỏ dại, chưa biết mảy mai thế thái nhân tình, cô nương không nên nói những lời như thế với nàng.
Lý Trại Hồng thở dài:
– Nhưng, hiện tại, nàng sắp sửa vào đời, tôi cần phải nói những điều đó với nàng, phu nhân ạ!
Nguyệt Hoa Phu Nhân lấy làm lạ:
– Tại sao?
Lý Trại Hồng đáp:
– Nàng như con chim non lìa tổ, song lại có tài cao, nhưng khi lạc lõng giữa dòng đời, nàng sẽ bị dụ hoặc dễ dàng, người ta lợi dụng cái tài cao của nàng, nếu chúng ta không cảnh cáo nàng ngay từ bây giờ, thì trong tương lai rất có thể nàng sẽ trở thành con người bại hoại nguy hiểm!
Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm ngâm một chút:
– Tiên Tử có ý nghĩ rất tốt, song dù sao thì chúng ta cũng phải nhớ đến cái tâm tánh của Nguyệt nhi, giả như sau nầy nàng bị khích thích qua thời gian tiếp cận với Nguyệt nhi, biết đâu cái kết quả sẽ chẳng phản ngược lại ý nghĩ của Tiên Tử?
Lý Trại Hồng cười nhẹ:
– Điều đó chẳng đáng cho phu nhân bận tâm lo ngại. Bởi, có tôi bên cạnh nàng, tôi sẽ chỉ điểm cho nàng hiểu những gì cần phải tránh. Nàng đã bắt đầu có cảm tình với Quan công tử, chúng ta nên lợi dụng tình cảm của nàng, đào tạo nàng thành một người trung thành kiên quyết, dám làm bất cứ việc gì có lợi cho công tử. Nàng sẽ góp phần lớn lao trong công việc tạo dựng sự nghiệp cho công tử sau nầy.
Cả hai bàn bàn luận luận với nhau, sắp xếp một kế hoạch cho những ngày sẽ đến. Dĩ nhiên, những gì họ bàn luận với nhau, phải là bí mật, nên họ chỉ thì thầm cho nhau nghe thôi.
Một lúc sau, họ về đến ngôi nhà trọ, đúng lúc Nhàn Du Nhất Âu và Nhập Hoạch đang kinh hoàng gần như cuồng loạn về sự thất tung của bao nhiêu người.
Bây giờ thì đương nhiên là cả hai phải mầng, càng mầng hơn nữa là có thêm Quan Sơn Nguyệt.
Nghe Nguyệt Hoa Phu Nhân thuật lại tao ngộ vừa qua, Nhàn Du Nhất Âu và Nhập Hoạch tưởng chừng mình nghe kể một thần thoại từ xa xưa nào đó. Nếu chẳng có Xà Cơ Giang Phàm, nếu chẳng có sợi dây đai bằng con rắn kỳ quái quanh mình Giang Phàm, cả hai nhất định không tin là có sự thật như vậy.
Nguyệt Hoa Phu Nhân sai Nhập Hoạch trở về Quảng Hàn Cung lấy thanh kiếm Hoàng Diệp cho Quan Sơn Nguyệt sử dụng.
Việc kế đó là dọ thám hành động Tạ Linh Vận tại Ngũ Đài Sơn.
Đáng lý ra, Quan Sơn Nguyệt tự mình đảm trách việc đó, song mọi người sợ chàng đến đó, hành tung sẽ bị lộ, Tạ Linh Vận kịp thời phòng bị, chẳng những chàng không thu thập được chi tiết nào hữu ích, mà còn làm cho sự tình thêm khó khăn, đối phương đề phòng rồi khó mà tranh thủ thắng lợi một cách dễ dàng. Bởi thế, chàng đang ẩn mặt tại sơn thôn này, để cho Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt thay thế chàng, đi Ngũ Đài Sơn một chuyến.
Sở dĩ cả hai được chọn, là vì trong Long Hoa Hội, họ có địa vị thấp nhất, nếu đến Ngũ Đài Sơn, họ có bị phát giác hành tung, thì cũng chẳng đến đổi nào, bởi Thiên Ma Giáo chẳng bao giờ ngán sợ họ mà làm khó gì cho lắm.
Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng nhân lúc rảnh này, mua vải cắt may y phục cho Giang Phàm dùng tạm.
Cắt may y phục cho một người thường, đối với cả hai, chẳng phải là việc khó làm. Nhưng, con rắn độc kia không thể rời xa Giang Phàm, thì bộ y phục của nàng cũng phải bao phủ luôn con rắn, và điều quan trọng là phải nghĩ cách làm sao cho con rắn thoát ra dễ dàng, khi cần dùng đến nó. Cả hai nghĩ mãi, sau cùng mới thỏa thuận là cứ may y phục thường cho Giang Phàm, còn về con rắn thì họ may cho nó một cái đãy, cột dưới vai của nàng.
Quan Sơn Nguyệt thì hoặc đàm đạo với Nhàn Du Nhất Âu, hoặc thủ thỉ với con Minh Đà, như đàm thoại với một lão hữu. Chàng cũng có đem điều hay lẽ phải giáo huấn Giang Phàm, giúp nàng dần dần khôi phục các thói quen của một con người mà hơn mười mấy năm dài tại Thiên Xà Cốc, nàng đã quên lãng mất.
Tuy nhiên, chàng luôn luôn nhớ đến Trương Thanh, không một việc làm nào hàng ngày có thể giúp chàng khuây niềm tưởng nhớ Trương Thanh.
Lúc còn sống chung với nhau, có nhau bên cạnh thường xuyên, chàng không lưu ý cho lắm đến nàng. Sau thời gian xa cách, cũng có lúc chàng nhớ đến nàng, nhưng niềm nhớ nhung không thắm thiết sâu đậm lắm.
Bỗng dưng mà chàng biết được nàng yêu chàng, nàng đau khổ vì chàng đến đổi phải lâm nạn, chàng xót xa biết bao. Giờ đây, chàng mới nghe con tim rạo rực, giờ đây chàng mới thấy ray rức phi thường về sự thiếu vắng nàng.
Hiện tại, có phải là nàng đang bị Lưu Ảo Phu quản thúc chăng? Nếu đúng như vậy, thì hẳn là Lưu Ảo Phu có cho nàng biết chàng đã chết rồi! Nghe tin chàng chết, nàng sẽ ra sao?
Chàng thầm nghĩ:
“Nàng có đau khổ chăng? Có khóc vì ta chăng? Hay nàng cải biến tâm ý, quên ta mất rồi, để dành trọn vẹn con tim cho Lưu Ảo Phu?”.
Từ lúc tiếp thọ Minh Đà Lệnh, xuất đạo trên giang hồ đến nay, lần thứ nhất Quan Sơn Nguyệt mới biết ưu tư về vấn đề tình ái! Càng ưu tư, chàng càng hận Lưu Ảo Phu. Chàng tự nguyện sẽ chẳng dung tha Lưu Ảo Phu nếu Trương Thanh có bề gì, bởi chàng cho rằng nàng có ra sao đi nữa, thì cũng do Lưu Ảo Phu uy hiếp mà thôi.
Rồi chàng lại nghĩ:
“Giả như Trương Thanh thay lòng đổi dạ, quên chàng mà yêu Lưu Ảo Phu, thì chàng sẽ làm sao? Chàng có nên từ nơi tay Lưu Ảo Phu, đoạt Trương Thanh về cho chàng chăng?”.
Cuối cùng, chàng lắc đầu, tự nhủ thầm:
“Không! Ta không nên làm thế, giả như ta gặp cả hai sum họp với nhau, thì ta nên âm thầm bỏ đi xa, thật xa, để cho họ hưởng hạnh phúc bên nhau, còn ta thì bên trong sống với những kỷ niệm ngày nào, bên ngoài thì trọn vẹn hy sinh cho quảng đại quần chúng.”.
Trên thế gian nầy, trừ trường hợp bị phản bội, có ai cam tâm để cho ngoại nhân cướp đoạt tình yêu, không mảy mai phản ứng, âm thầm tìm nơi ẩn tránh, chịu đau khổ mà nhường hạnh phúc cho người? Chẳng qua, trong mấy lúc sau nầy, Quan Sơn Nguyệt dần dần biến đổi tánh tình, hiện tại thì chàng có tâm quảng đại, không thích bất cứ cuộc tranh chấp nào, kể cả sự tranh chấp một con tim, trừ những lúc chẳng đặng đừng mà thôi.
Không kể Lưu Ảo Phu dù là con của kẻ thù, hắn vẫn là huynh đệ đồng mẫu với chàng, chàng còn nhận thấy Lưu Ảo Phu say mê Trương Thanh vô cùng, nếu Trương Thanh sống chung với hắn, thì nàng sẽ được hắn nuông chiều săn sóc chu đáo. Chàng cho rằng Trương Thanh về với chàng, chưa chắc là hạnh phúc hơn là về với Lưu Ảo Phu. Do đó, chàng quyết định nhượng bộ để Trương Thanh được hạnh phúc mãi mãi.
Sinh hoạt của những người còn lại, cứ như thế diễn tiến đều đều qua mười ngày rồi.
Sơn thôn từ thuở nào, vẫn an tịnh, dân cư sống như cái máy, trăm ngàn như một, mọi hoạt động tiếp diễn đều nhịp. Bỗng, hôm nay, một biến cố đến với địa phương an tịnh nầy, thực ra thì biến cố đó chẳng phải đến với cư dân, mà chính là đến với bọn người đang tạm trú trong vùng. Dù muốn dù không, dân cư cũng bị ít nhiều ảnh hưởng qua cuộc nhiệt náo của bọn người tạm trú đó.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đi Ngũ Đài Sơn dọ thám, mang về một cái tin làm chấn động tâm tư mọi người.
Từ lâu, Tây Môn Vô Diệm nhận chức phó giáo chủ Thiên Ma Giáo, nhưng ngôi vị đó gần đây đã thay đổi người rồi. Tây Môn Vô Diệm nhượng vị lại cho Lưu Ảo Phu!
Ngoài cái tin kinh khủng đó, lại có thêm những sự kiện khác.
Sự kiện thứ nhất, là năm thị giả tại Quảng Hàn Cung cũng đến tận sơn trang nầy, và chính Thị Thơ gọi Cầm Khiêu và Tử Kỳ cùng đến luôn.
Nhập Hoạch thì vâng lịnh Nguyệt Hoa Phu Nhân, trở về Quảng Hàn Cung, dọc đường lại gặp Chữ Trà.
Sự kiện thứ hai nầy cũng làm cho mọi người kinh ngạc không ít, bởi Chữ Trà có nhiệm vụ gìn giữ Quảng Hàn Cung trong lúc Nguyệt Hoa Phu Nhân vắng mặt, bây giờ nàng ly khai nơi đó, hẳn chẳng phải là không duyên cớ. Cái duyên cớ đó, không cần đợi ai nói, Chữ Trà đương nhiên thuật lại cho mọi người biết liền.
Đó là một hôm, Lưu Ảo Phu bổng trở về, quật mộ cha, lấy thanh kiếm Thanh Sách, với ý định hiến dâng cho Tạ Linh Vận.
Ỷ trượng vào thanh Hoàng Diệp Kiếm, Chữ Trà chống cự, song nàng làm sao địch lại Lưu Ảo Phu, nàng bị hắn đánh bỏ chạy xuống núi. Lưu Ảo Phu phóng hỏa thiêu hủy Quảng Hàn Cung.
Cái tin cuối cùng, liên quan đến Trương Thanh, sau khi nghe nói là Quan Sơn Nguyệt tử nạn rồi, nàng khóc suốt ngày đêm, bất thình lình, ba hôm sau nàng thất tung một cách bí mật. Không ai biết nàng đã đi đâu, và thất tung trong trường hợp nào.
Những tin tức đó, đến với bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân và Quan Sơn Nguyệt, như những tiếng sét nổ ngang đầu.
Sau cơn kinh khủng, họ bình bịnh trở lại, và cùng nhau thảo luận kế hoạch, ứng phó với tình hình mới. Dĩ nhiên, cuộc thảo luận của họ nhắm vào mục tiêu chánh, là bắt buộc phải khai diễn trường ác chiến vói Thiên Ma Giáo, bằng mọi giá, phải thủ thắng trước Tạ Linh Vận. Đạt mục tiêu đó rồi, những vấn đề khác là phụ thuộc, họ sẽ lần lượt giải quyết, cái phần phụ thuộc đối với họ không khó khăn lắm.
Giả như chính họ không đến tận Ngũ Đài Sơn, thì trước sau gì Tạ Linh Vận cũng đưa lực lượng đến tìm họ.
Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ, trong năm thanh kiếm báu, thì Hắc Đái bị Xà Thần bẻ gãy, Bạch Hồng bị Liễu Y Ảo chiếm đoạt, Hoàng Diệp may mắn vẫn còn nơi tay Chữ Trà. Nhưng, hai thanh lợi hại nhất là Tử Sính và Thanh Sách thì lại ở trong tay Lưu Ảo Phu! Và, cứ như tin tức vừa thu hoạch, thì Thanh Sách Kiếm lại được Lưu Ảo Phu tặng cho Tạ Linh Vận. Thế là hai tay đại kình địch của chàng, có mỗi người một thanh kiếm quý!
Sự kiện đó, dù muốn dù không, cũng đã gây nên khó khăn cho chàng nhiều, trên xa chỗ tưởng của chàng.
Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu là hai tay kiếm thủ lợi hại, nếu họ có kiếm báu nơi tay, thì phần linh diệu sẽ được phát huy trọn vẹn, trong khi Quan Sơn Nguyệt chỉ có thanh kiếm hạng thứ, là Hoàng Diệp do Chữ Trà vừa mang đến.
Quan Sơn Nguyệt cảm thấy một cơn bão lớn đang dấy động ở chân bờ, trong một sớm một chiều sẽ quét đến nơi, cuốn cả bọn của chàng đưa vào tử diệt ...
Sơn thôn nầy lộ liễu quá, chẳng phải là nơi tạm trú an toàn, nếu nấn ná tại đây, giả như bọn Tạ Linh Vận kéo đến, Quan Sơn Nguyệt khó thủ thắng nổi, bởi chàng mất hẳn địa lợi.
Ở không tiện, thì tốt hơn hết là ra đi, mà đi đâu cũng không bằng kéo nhau thẳng đến Ngũ Đài Sơn.
Chàng nghĩ, sớm muộn gì cũng phải có cuộc chiến, thì tốt hơn nên chiến ngay trong lúc nầy, lúc mà đối phương có lẽ chưa chuẩn bị hoàn toàn lực lượng cũng như chiến lược.
Từ Chiết Sơn đến Ngũ Đài Sơn, đường dài độ vài trăm dặm, nếu một mình chàng dùng Minh Đà làm cước lực, thì bất quá chàng chỉ mất một ngày thôi, song chàng không thể giục Minh Đà giở hết tốc độ, bởi sau chàng còn có đoàn ngựa của những người thân của chàng. Thành ra, người đợi người, nhanh phải chờ chậm, do đó hành trình phải kéo dài lâu.
Qua khỏi huyện Ngũ Đài, là đến khu núi, tuy đến đó rồi, đoàn người vẫn còn cách đỉnh chánh Ngũ Đài Sơn khá xa.
Khi đoàn người giẫm chân lên sơn lộ rộng rãi, Quan Sơn Nguyệt nghĩ rằng Thiên Ma Giáo hẳn phải đặt thuộc hạ canh giữ dọc theo đường, từng chặng, hoặc lộ liễu, hoặc ẩn nấp, đề phòng những sự xâm nhập bất ngờ vào nội địa của họ.
Quả nhiên, bọn chàng đi không lâu, bỗng thấy Kỳ Hạo cởi con Hắc Đà của hắn, hiện ra chận đầu. Long Hoa Hội đã giải tán, thì cái chức Thiên Tề Ma Quân của hắn cũng chẳng còn nữa, như tất cả mọi chức vụ trong ba bảng Tiên, Ma và Quỷ đều được giải trừ, tuy nhiên hắn vẫn còn giữ nguyên vẹn thần khí của thuở nào. Sở dĩ hắn còn dương dương tự đắc, là vì Tạ Linh Vận đã truyền «Tu La Kiếm Pháp» cho hắn.
Tạ Linh Vận tín nhiệm hắn đến độ đem sở học bí truyền chỉ điểm cho hắn như vậy, hẳn là trong Thiên Ma Giáo, địa vị của hắn không thấp lắm.
Người thấy người, người chưa đối thoại với nhau, nhưng hai con thú đã phản ứng rồi. Con Hắc Đà của Kỳ Hạo vừa trông thấy con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt liền quay đầu chạy đi, con Minh Đà liền đuổi theo ngay lập tức.
Thì ra, trên đỉnh Thần Nữ Phong, hai con vật cũng như chủ nhân chúng, cũng có giao tranh với nhau. Hắc Đà bại, Minh Đà thắng, bại gặp thắng phải sợ chạy liền, thắng gặp bại thì hùng hổ sấn đuổi.
Kỳ Hạo không làm sao kềm giữ con thú được, nổi giận nhảy xuống đường, phóng chân tung một ngọn cước vào mông nó, đồng thời mắng:
– Súc sanh vô dụng quá chừng!
Minh Đà chừng như thích thú lắm, ngẩng cao đầu, rống lên oang oang.
Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, vỗ tay vào cổ Minh Đà, thốt:
– Khá lắm đó, lão bằng hữu! Có như vậy mới đáng mặt anh hùng, độc chiếm nhất phương, chứ nếu để cho cái thứ vô dụng nghinh ngang thì còn oai vọng chi nữa!
Chàng mượn câu nói với Minh Đà, để ngầm mỉa mai Kỳ Hạo, chứ thú gì lại có thú xưng hùng xưng bá, độc chiếm nhất phương?
Kỳ Hạo phản ứng liền:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi chớ vội hợm mình, thú thì hùng mãnh đó, nhưng chắc gì ngươi được như thú? Ngươi có gan dẫn xác đến đây, thì ta bắt buộc phải nhọc công giáo huấn ngươi một phen!
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Muốn khiêu chiến ta, ít nhất ngươi cũng phải có đủ tư cách. Thử hỏi ngươi có còn cái thân phận Phi Đà Lệnh Chủ chăng mà cho rằng mình xứng đáng khiêu chiến một Lệnh Chủ khác?
Kỳ Hạo biến sắc, quát vang:
– Câm! Câm ngay! Ngươi có can đảm, cứ xuống lưng lạc đà đi, ta sẽ chong biết liền, Kỳ Hạo nầy lợi hại như thế nào.
Lúc đó, con Hắc Đà đã trở lại cạnh hắn, hớn với tay lấy một chiếc bọc dài trên mình Hắc Đà.
Chiếc bao đó đựng một loại vũ khí hình thức kỳ quái. Vũ khí đó, hắn phỏng theo hình thức chiếc Kim Thần của Quan Sơn Nguyệt mà chế luyện, toàn thân đen bóng, một chân thay cho cáng, đầu kia tợ đầu quỷ, có răng lòi, mắt trợn, trông hết sức dữ dằn.
Hắn đặt cho vũ khí đó một cái tên, là Độc Cước Quỷ Vương.
Rút chiếc Độc Cước Quỷ Vương ra khỏi bao, hắn vừa vung lên, vừa hét:
– Xuống lưng lạc đà đi, Quan Sơn Nguyệt! Chúng ta trao đổi nhau vài ba trăm chiêu xem nào!
Quan Sơn Nguyệt cười ngạo nghễ:
– Hiện tại, ta không thừa thời giờ đùa cợt với ngươi, ngươi trở về giáo sở, gọi Tạ Linh Vận đến đây hội diện với ta.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Muốn gặp bổn Giáo chủ, ngươi phải qua lọt cửa ải nầy, do ta trấn đóng.
Quan Sơn Nguyệt dửng cao đôi mày, toan nhảy xuống lưng Minh Đà, Cầm Khiêu vội lên tiếng:
– Công tử hãy để thuộc hạ thu thập tên đó cho!
Kỳ Hạo nổi giận, quát:
– Cút đi nơi khác! Ngươi là cái quái gì mà dám chường mặt trước mắt ta?
Cầm Khiêu cười đáp:
– Quan công tử là tiểu chủ nhân của ta, còn ngươi chung quy cũng chỉ là một tên thuộc hạ của Thiên Ma Giáo chủ, thuộc hạ đối phó với thuộc hạ, chẳng thuận lý sao? Giả như Giáo chủ xuất hiện, thì tự nhiên là ta chẳng dám chường mặt, bởi đã có chủ nhân của ta ứng phó. Đừng cao mặt buông tiếng nói ngông cuồng, làm mất tư cách con nhà võ!
Nư giận bốc bừng, Kỳ Hạo vung chiếc Quỷ Vương quét qua một vòng, đồng thời lướt tới, từ bên trên giáng xuống đầu Cầm Khiêu.
Cầm Khiêu vốn có chuẩn bị trước, miệng vừa thốt, tay cũng vừa rút chiếc vũ khí của y từ trong chiếc bọc bên mình.
Vũ khí của y, là một chiếc đàn bằng gỗ, thùng đàn rất lớn, cần đàn cũng rất dài.
Chiếc Quỷ Vương vừa giáng xuống, chiếc đàn gỗ cũng vừa hất lên.
Quan Sơn Nguyệt thấy Cầm Khiêu dùng đàn gỗ nghinh đón Quỷ Vương bằng đồng đen của Kỳ Hạo, chàng thoáng biến sắc mặt, lo sợ cho Cầm Khiêu sơ thất. Nhưng, Tư Kỳ trấn an chàng ngay:
– Công tử không phải lo ngại, chiếc đàn đó tuy bằng gỗ, song nó có hiệu dụng vô cùng, vũ khí của Kỳ Hạo tuy bằng kim loại, cũng chẳng làm gì hư hại đến chiếc đàn nổi!
Hai vũ khí chạm nhau, chiếc Quỷ Vương của Kỳ Hạo giáng xuống các dây đàn. Một loạt âm vang rền dội lên, ai ai cũng cảm thấy chấn động cảm màn tai.
Con Hắc Đà của Kỳ Hạo cụp đuôi phóng chân chạy, con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt kinh hoảng lùi lại mấy bước, những con ngựa thì hí vang rền, có con rung chân, phải khuỵu xuống, có con quay đầu định chạy đi, có con nhảy chồm chồm. Trong thoáng mắt, cục trường nhốn nháo, loạn lên.
Trong cơn hỗn loạn đó, những ai ở trên lưng ngựa, đều phải xuống đường, chỉ còn độc một Quan Sơn Nguyệt là ngồi yên trên lưng Minh Đà thôi.
Quan Sơn Nguyệt cau mày, gọi Cầm Khiêu:
– Làm thế nầy thì mọi người đi sao được đến tận Ngũ Đài Sơn? Phải biết, từ đây đến đó, ít nhất cũng còn cách độ mấy mươi dặm đường, mà các con ngựa thì quá khủng khiếp rồi, chúng không thể tiếp tục hành trình!
Kỳ Hạo bật cười ha hả:
– Đi đến Ngũ Đài Sơn? Đừng nuôi mộng, Quan Sơn Nguyệt! Ngũ Đài Sơn là lãnh thổ của Thiên Ma Giáo, đâu phải chốn hoang vu mà các ngươi hòng xâm nhập?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Đùa nhảm! Tạ Linh Vận là cái quái gì lại có thể ngăn cấm bọn ta chứ?
Kỳ Hạo vẫn cười vang:
– Giáo chủ của ta đâu có thừa thời giờ tiếp đón ngươi tại Ngũ Đài Sơn?
Người đã sai phái thuộc hạ dọn một khoảng đất trống nơi đỉnh Hoài Đài, và Phó Giáo chủ của ta đang cùng các vị Hộ Pháp trong bổn giáo ở tại đó, chờ các ngươi đến nạp mạng. Muốn đến đó, ngươi phải vượt qua vị trấn đóng của ta. Muốn gặp Giáo chủ, ngươi còn phải vượt qua căn cứ do Phó Giáo chủ trấn đóng. Liệu ngươi đủ sức xung phá hai vị trí ấy chăng, mà hòng bái kiến Giáo chủ ta?
Cầm Khiêu nổi giận vung đàn đánh tiếp một chiêu.
Kỳ Hạo cử chiếc Quỷ Vương đón chận. Hắn biết, dây đàn là vật rất mềm, Quỷ Vương chạm vào đó, chẳng những dây không đứt trái lại giây còn có phản lực hất chiếc Quỷ Vương trở lại rất mạnh. Do đó, hắn không nhắm vào dây đàn như trước, hắn lại vút chiếc Quỷ Vương vào lưng đàn, đinh ninh là Quỷ Vương sẽ đập nát lưng đàn, vì trên đời làm gì có thứ gỗ nào chịu nổi sức đập của kim khí?
Nhưng, Cầm Khiêu rất cẩn thận, sử dụng một vũ khí như vậy, hẳn là y phải hiểu cái nhược điểm của vũ khí.
Kỳ Hạo không đập vào dây đàn, thì Cầm Khiêu chỉ cần xoay bàn tay, lật phía dây đàn ra, hứng chiếc Quỷ Vương.
Kỳ Hạo thấy rõ, song không làm sao biến chiêu kịp, đành để chiếc Quỷ Vương chạm vào dây đàn như trước.
Âm vang lại dấy lên.
Lần nầy, mọi người đã có chuẩn bị sẵn rồi, ai ai cũng vận công, định tụ ngươn thần vững chắc, nên chẳng ai bị chấn động. Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy khó chịu ít nhiều.
Qua hai lần xuất thủ, Cầm Khiêu vẫn không bức thoái nổi Kỳ Hạo, đoàn người vẫn bị ngăn chận như thường.
Luận về ngôi thứ tại Long Hoa Hội, thì Nhàn Du Nhất Âu có thân phận trên Kỳ Hạo. Lão ta bực tức, vội bước tới, gọi Cầm Khiêu:
– Tiên sanh lùi lại đi, để lão phu thu thập gã cuồng đồ đó cho!
Cầm Khiêu chưa kịp nhúc nhít, Xà Cơ Giang Phàm đã bước ra cất tiếng nói:
– Lão tiên sanh có xuất thủ cũng chẳng xong đâu!
Nhất Âu trố mắt:
– Tại sao?
Giang Phàm mỉm cười:
– Ra trận với hai bàn tay không, lão tiên sanh sẽ làm gì được?
Nhất Âu cười nhẹ:
– Đối phó với một gã cuồng đồ như vậy, lão phu lại phải dùng đến vũ khí nữa sao? Năm xưa, cha của hắn dùng kiếm khiêu chiến với lão phu, lão phu vẫn với hai tay không, đánh bại cha hắn trong vòng năm chiêu, đoạt kiếm của cha hắn dễ như lấy đồ trong túi! Cha hắn còn bị lão phu đánh bại, thì hắn có nghĩa gì đối với lão phu?
Giang Phàm vẫn cười:
– Xưa khác, nay khác, lão tiên sanh ạ! Tôi chỉ sợ dùng tay không giao chiến với hắn, lão tiên sanh sẽ mất mạng trong chiêu đầu ...
Nhất Âu khi nào chịu kém, cao giọng đáp:
– Thì cứ để lão phu đánh thử với hắn! Thắng thì tốt, không thắng sẽ có biện pháp khác.
Lão lướt tới, vung tay đánh ra một chưởng.
Kỳ Hạo cười lạnh, vung Quỷ Vương quét ngang bàn tay lão.
Hai bên sắp sửa chạm nhau, một bóng xanh xẹt tới, chận trước mặt Nhất Âu, bóng đó phất ống tay áo, quấn quanh chiếc Quỷ Vương của Kỳ Hạo.
Nhất Âu nổi giận, quát:
– Giang Phàm cô nương có ý tứ gì chứ?
Giang Phàm điềm nhiên thốt:
– Lão tiên sanh đừng phẫn nộ. Dùng tay không, bằng xương bằng thịt, chạm vào kim khí, là một hành động kém trí, hà huống chiếc Quỷ Vương của hắn lại có tẩm độc! Sao lão tiên sanh khinh thường mạng sống của mình quá như vậy?
Nhất Âu sững sờ.
Cầm Khiêu vụt kêu lên một tiếng thất thanh, buông rơi cây đàn, rồi chân y nhủn lại, người cũng nhủn luôn, cuối cùng y ngã ngồi xuống đất. Bàn tay cầm đàn của y vốn trắng, bây giờ biến thành đen sì.
Tư Kỳ kinh hãi, vội bước tới, toan dìu Cầm Khiêu, Giang Phàm kêu to:
– Đừng chạm vào mình Cầm Khiêu tiên sanh! Cứ để đó cho tôi!
Nàng bước đến cạnh Cầm Khiêu, nhẹ vỗ vào chiếc bọc đeo ở đầu vai nàng.
Con rắn quái dị từ trong bọc thò đầu ra há miệng ngoạm vào một chỗ trên mình Cầm Khiêu.
Quan Sơn Nguyệt biến sắc, sợ Giang Phàm sơ suất, hại luôn Cầm Khiêu mất mạng, vì chàng hiểu con rắn đó là loài độc hại vô cùng.
Giang Phàm điểm một nụ cười, khoát tay:
– Công tử không phải lo ngại! Tiểu Ngọc sẽ hút chất độc ...
Quả nhiên, con rắn vươn mình rồi thun lại, thun rồi vươn, độ ba lượt, bàn tay đen sì của Cầm Khiêu trắng trở lại như cũ.
Chừng như tinh thần của y phấn khởi hơn trước.
Khi con rắn há miệng, rời cổ tay của y, y toan nhặt lấy chiếc đàn gỗ bên cạnh, nhưng Giang Phàm vội kêu lên:
– Đừng đụng đến chiếc đàn! Chất độc còn vấy trên đó đấy!
Cầm Khiêu rút tay về, tỏ vẻ luyến tiếc:
– Giang cô nương ơi! Chiếc đàn đó, tại hạ xem nó còn trọng hơn sanh mạng của tại hạ ...
Giang Phàm điềm nhiên:
– Chẳng sao đâu, bất quá, chỉ cần nhờ đến con rắn một lần nữa, song nó không thích làm thôi!
Nàng nhìn con Ngọc Xà, tay vẩy, miệng lí nhí những gì chẳng ai nghe rõ, mà dù có nghe được cũng chẳng hiểu nổi.
Đúng như sự lo ngại của nàng, con Ngọc Xà quơ quơ chiếc đầu rồi quay mình trở lại. Rõ ràng là nó từ khước.
Nhưng, Giang Phàm dùng Xà ngữ, thuyết phục nó một lúc nữa, sau cùng nó mới chịu bò đến cạnh chiếc đàn, le lưỡi liếm quanh thân đàn.
Trông thấy cái cảnh đó, Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ, rút chiếc Kim Thần cầm tay, đồng thời nhảy xuống lưng Minh Đà, quắc mắt nhìn Kỳ Hạo quát:
– Sao ngươi dùng thủ đoạn hèn hạ thế, Kỳ Hạo?
Kỳ Hạo còn kinh hãi về việc Giang Phàm giải trừ chất độc của chiếc Quỷ Vương, cứu nạn cho Cầm Khiêu, nghe Quan Sơn Nguyệt quát mắng, hắn tức uất gầm lên như sấm:
– Quan Sơn Nguyệt! Cái nhục bại do nhát kiếm của ngươi tại đỉnh Thần Nữ Phong, ta không làm sao quên được, từ ngày đó ta tìm đủ mọi cách để báo thù, sở dĩ ta chế tạo ra món vũ khí nầy, là để chờ dịp rửa hận đó. Nếu ngươi không sợ chất độc của chiếc Quỷ Vương, thì cứ đến!
Quan Sơn Nguyệt do dự.
Kỳ Hạo khích:
– Ngươi sợ à? Dù chất độc có vấy vào mình ngươi thì đã có cái nàng ấy, nàng sẽ cứu ngươi! Chết đi đâu mà ngươi ngán chứ!
Lúc đó, con Ngọc Xà đã liếm hết chất độc nơi cây đàn, nó chậm chạp quay trở về bên Giang Phàm.
Giang Phàm chụp nó, bỏ vào chiếc bao. Nàng vỗ về nó:
– Làm nhọc ngươi quá, thật ra ta có lỗi với ngươi đó! Bây giờ thì ngươi nghỉ được rồi!
Cầm Khiêu nhặt chiếc đàn lên, thốt lời cảm tạ Giang Phàm.
Giang Phàm lắc đầu:
– Tôi có công lao chi đâu mà tiên sanh cảm tạ? Hãy cảm tạ con Ngọc Xà đấy, chất độc đã ngấm vào máu của tiên sanh, nó cắn cổ tay tiên sanh, nhả vào đó một tí nhớt, nhớt của nó hòa với huyết của tiên sanh, giải trừ chất độc dễ dàng và nhanh chóng. Cứu tiên sanh, nó không nhọc nhằn chi cho lắm, có điều liếm hết chất độc nơi chiếc đàn, thì nó hao phí một phần lớn nhớt của nó, nó phải nghỉ tối thiểu là một khắc thời gian mới khôi phục được nguyên lực.
Kỳ Hạo nghe thế, khoan khoái vô cùng, bật cười ha hả:
– Ngươi có nghe chứ, Quan Sơn Nguyệt? Giả như bây giờ ngươi trúng độc, thì ít nhất ngươi cũng phải chờ một khắc nửa, con Ngọc Xà mới cứu ngươi được.
Mà chất độc của ta thì có hiệu lực rất nhanh, làm gì ngươi đợi cứu kịp?
Cầm Khiêu kinh hãi, thốt:
– Nếu biết thế, khi nào tại hạ tiếc một chiếc đàn?
Giang Phàm mỉm cười:
– Tại sao? Nó quý hơn sanh mạng tiên sanh mà?
Cầm Khiêu giậm chân:
– Chúng ta đâu có thể đứng tại đây mà chờ thêm một khắc nữa!
Giang Phàm cười nhẹ, nói:
– Chúng ta còn thừa thời gian mà! Đợi thêm một khắc nữa cũng chẳng sao!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, thầm kêu khổ. Cái điều làm cho chàng tức uất, là Giang Phàm chơn thật quá chừng, bởi ai lại đi nói những sự đó trước mặt địch nhân bao giờ? Khi nào Kỳ Hạo để yên cho họ chờ đợi trong một khắc đó?
Kỳ Hạo lộ vẻ đắc ý, cử chiếc Quỷ Vương đánh tới một vòng, như dọa nạt đối phương.
Nhưng, Giang Phàm đã tiến lên, ngăn chặn trước mặt hắn, gằn giọng:
– Nếu ngươi muốn động thủ trong thời gian một khắc nầy, thì ta sẽ thay mọi người, đối phó với ngươi. Ta không sợ chất độc nơi Quỷ Vương của ngươi đâu.
Trước đó, nàng phất ống tay áo, hất dội chiếc Quỷ Vương cứu Nhàn Du Nhất Âu, Kỳ Hạo đã biết nội lực của nàng rất mạnh, hơn nữa, nàng lại không sợ độc, thực sự thì hắn không muốn động thủ với nàng, song hắn lại tiếc cái cơ hội may mắn nầy, nếu bỏ đi thì đến lúc nào mới có nữa? Bên trong, hắn do dự, bên ngoài, hắn vờ thản nhiên, cất tiếng cười sang sảng:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi đường đường là một nam tử hán, không lẽ lại nấp sau lưng một nữ nhân, nhờ nữ nhân che chở?
Quan Sơn Nguyệt bực tức, toan liều mạng với Kỳ Hạo, Lý Trại Hồng vội ngăn lại:
– Nhẫn nại một chút, công tử! Phải nghĩ đại cuộc là trọng, mọi người đều hy vọng nơi công tử, đừng để đối phương dùng lời khích rồi sanh tánh làm liều, hỏng cả công việc của chúng ta!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thôi thì đành vậy, cục diện nầy xin nhờ Giang cô nương thu thập cho!
Giang Phàm mỉm cười:
– Tôi sẵn sàng mà, công tử! Tôi nghĩ, gã đó hẳn phải là một kẻ bại hoại không tưởng nổi, nhất định gã phải được giáo huấn kỹ một phen. Gã đã dùng độc hại người, thì khi tôi bắt được gã rồi, tôi sẽ cho con Tiểu Ngọc cắn gã, gã sẽ thưởng thức cái độc của Tiểu Ngọc để thấm thía cái độc mà gã gieo vào người khác.
Nàng bước tới, khoảng cách thu hẹp dần dần.
Nhưng, Kỳ Hạo không dám đứng nguyên một chỗ, chờ nàng. Hắn lùi lại, nàng tiến một bước, hắn lùi một bước, nhất định giữ khoảng cách còn nguyên như cũ.
Giang Phàm cười hì hì:
– Cứ để ta đến gần ngươi đi chứ! Lùi như vậy mà thoát khỏi tay ta sao?
Ngươi có biết miệng hùm, gan sứa là nghĩa gì chăng? Ta nghe ngươi khoe khoang, thật tình ta buồn cười quá đi thôi! Đường đường là nam tử, lại khiếp vía trước nữ nhân, xem sao được chứ?
Kỳ Hạo đỏ mặt. Bất giác, khí hùng bừng dậy, hắn dừng chân ngay. Hắn dừng chân, nhưng chẳng phải bất động để nhìn nàng thu hẹp khoảng cách, hắn vung chiếc Quỷ Vương, hét:
– Tiện tỳ! Ngươi khinh người thái quá!
Giang Phàm vẫn cười:
– Thì ngươi còn chờ gì mà chẳng đem sở học ra thi thố cho ta xem? Vào cuộc đi, ta sẵn sàng đùa với ngươi một chút, khi nào ta mệt, còn có con Tiểu Ngọc thay ta.
Kỳ Hạo vận dụng toàn lực, quét chiếc Quỷ Vương tới, cuốn gió bật kêu một tiếng vù, khí thế rất hùng mạnh, chẳng kém một hòn giả sơn bật gốc cuốn đi.
Giang Phàm phất ống tay áo như trước, nàng đứng nguyên bất động, chỉ có ống tay áo theo đà phất lên thôi.
Song, ống tay áo có áp lực phi thường, Kỳ Hạo văng ra xa ngoài nửa trượng.
Nàng cười hắc hắc:
– Công lực của ngươi tầm thường quá, thế mà dám ngăn đường chận lối, đã vậy lại còn khoe khoang, khoác lác! Ngươi ngu xuẩn vô cùng, chẳng biết sống chết là gì!
Nàng ung dung phất nhẹ ống tay áo, lại có thể đẩy một Kỳ Hạo về phía hậu, thủ pháp đó thần diệu vô cùng, chẳng những Kỳ Hạo sửng sốt, mà đến cả Quan Sơn Nguyệt và bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng hết sức kinh dị.
Đã hai lần, nàng hóa giải dễ dàng chiêu độc của đối phương, nàng thủ thắng là do thực tài, chứ chẳng phải vì may mắn, điều đó ai ai cũng thấy rõ!
Nhưng, trước Giang Phàm, Kỳ Hạo không còn là một kẻ hung mãnh nữa, hắn như con chuột trước một con mèo.
Đứng vững chân rồi, Kỳ Hạo vận dụng khí lực, hắn cắn mạnh răng, vung chiếc Quỷ Vương lướt tới.
Bằng một cử động vô cùng ngoạn mục, Giang Phàm ung dung phất ống tay áo lên. Tay áo quấn quanh chiếc Quỷ Vương, nàng xoay cổ tay nửa vòng đồng thời hét:
– Cút!
Chiếc Quỷ Vương bị bật lên không, mang luôn Kỳ Họa theo, tay áo tháo ra, người và Quỷ Vương bị bắn đi xa thêm mấy trượng nữa, chẳng khác nào một vật bám ở nơi cần vụt, bị chiếc cần phóng đi.
Ngờ đâu, chỗ hắn rơi xuống, lại đúng là nơi Quan Sơn Nguyệt đang đứng, trong tình thế đó, hắn phải rơi ngay xuống đầu Quan Sơn Nguyệt.
Lý Trại Hồng hoảng sợ, kêu lên:
– Tránh gấp, công tử!
Đồng thời gian, nàng lướt lên, đưa tay chụp Kỳ Hạo giữa không trung.
Kỳ Hạo nhếch môi điểm nụ cười dài, vừa rơi xuống vừa giáng mạnh chiếc Quỷ Vương, áp lực ngang một hòn núi đổ.
Làm như thế là Lý Trại Hồng liều lĩnh cực độ, song vì gấp cứu Quan Sơn Nguyệt, nàng bất chấp hiểm nguy. Nàng lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, nên hy sinh, bây giờ đến lượt Quan Sơn Nguyệt lo sợ ngược lại cho nàng.
Không chậm trễ, chàng nhún chân tung bổng mình, chiếc Kim Thần trong tay bay lên, nghinh chận Quỷ Vương, không cho giáng xuống người Lý Trại Hồng.
Tuy chàng xuất thủ hơi chậm, nhưng chiếc Kim Thần khá dài, chàng vừa vung lên, là che được phía trước của Lý Trại Hồng ngay.
Một tiếng chạm vang lên, âm thinh rền dội kinh hồn, lửa nháng thành ngàn sao, bắn ra bốn phía. Kỳ Hạo như con chim đang lao vút trúng phải tên bất ngờ, đà tên đi mạnh lôi cuốn chim trở lên không, hắn lộn người mấy lượt từ trên cao rơi xuống đất.
Không để cho hắn đứng vững chân lấy tư thế phản công, Quan Sơn Nguyệt vọt theo liền, chiếc Kim Thần rít gió quét ngang một vòng.
Trong cơn bối rối, Kỳ Hạo hấp tấp đưa Quỷ Vương ra đón chận.
Lần này, Quan Sơn Nguyệt dụng lực đầy đủ, Kim Thần chạm Quỷ Vương, tiếng vang không còn ngân oong oong dài dài như trước nữa, trái lại một tiếng rốp khô khan bật lên, Quỷ Vương bị Kim Thần đánh gãy, nó không gãy hai, gãy ba, mà nó lại vỡ vụn ra thành nhiều mảnh chứ không thành đoạn.
Vốn có phản ứng nhanh, Kỳ Hạo lạng người sát mặt đất, lăn đi mấy vòng ra xa trường, tránh chiêu thứ ba của Quan Sơn Nguyệt.
Khi hắn đứng lên, bàn tay cầm Quỷ Vương của hắn đầm đìa máu đỏ. Chiếc Quỷ Vương của hắn nát vụn phần ngoài, còn phần trong thì hắn nắm cứng, dư lực của Kim Thần còn mạnh, bắn luôn đoạn vũ khí nơi tay hắn bay đi, bứt đứt hai ngón tay cái và trỏ của hắn. Do đó, chỗ ngón đứt máu tuôn ròng ròng.
Kỳ Hạo nghiến răng đưa tay kia xé một chéo áo cột bàn tay thọ thương, bật cười ghê rợn:
– Khá lắm đó, Quan Sơn Nguyệt! Trong một thời gian ngắn, vũ công của ngươi tiến triển phi thường! Lần trước, trên đỉnh Thần Nữ Phong, công lực của ngươi còn kém quá, ngươi không thể sánh được với ta, bất quá ngươi thủ thắng là nhờ kiếm thuật tinh vi thôi. Giờ đây, tài nghệ và công lực của ngươi đều lợi hại cả, ta thành thật khen ngươi đó!
Chính Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng hiểu tại sao đột nhiên mà công lực của chàng lại tăng gia quan trọng như vậy.
Tại đỉnh Thần Nữ Phong, chàng cũng dùng chiếc Kim Thần, mà Kỳ Hạo thì dùng chiếc mâu dài. Mâu là một loại vũ khí không nặng bằng Quỷ Vương được, thế mà lúc đó, chàng hầu như không ngăn chận mâu nổi, giờ đây, chàng lại có thể đánh gãy chiếc Quỷ Vương. Đúng là một sự kiện lạ lùng!
Huống chi, quyết chí báo thù, Kỳ Hạo phải ngày đêm luyện tập chứ! Trong thời gian qua, dù không nhiều, cũng ít, hắn phải tiến bộ, công lực của hắn phải hơn xưa! Đáng lẽ ngày nay hắn phải lợi hại hơn xưa, thì chàng lại đánh bại hắn dễ dàng! Còn lúc hắn ở cái mức bình thường thì chàng rất chật vật lúc đối phó với hắn!
Tuy bại, Kỳ Hạo không khiếp hãi, hắn vẫn giữ thái độ ngạo nghễ như thường, hắn cười lạnh, tiếp:
– Dù cho tài nghệ của ngươi có vượt tiến đến mức độ nào, nhất định hôm nay ngươi phải mắc kế của ta, không kể những gì đang chờ đợi ngươi ở đoạn đường sắp tới, chỉ nội cái chiếc Quỷ Vương của ta cũng đủ sát hại ngươi rồi.
Chiếc Quỷ Vương của ta có tẩm chất độc «Vô Ảnh Hóa Huyết Tán», người ta chạm nó một lần, cũng đủ chết, ngươi lại chạm đến hai lần, chất độc ngấm vào phế phủ. Ta phải lập tức mang cái tin nầy về cho giáo chủ của ta, sau đó, ta chỉ còn trở lại đây để thu dọn xác chết của ngươi.
Thốt xong, hắn quay mình bước nhanh.
Quan Sơn Nguyệt biết rõ, hắn gấp đi là vì sợ Giang Phàm tấn công tiếp.
Nhưng, chàng không thể đuổi theo hắn, bởi chàng còn bận lo nghĩ đến bản thân.
Hướng sang Giang Phàm, chàng hỏi gấp:
– Con rắn của cô nương còn giải độc được chứ?
Giang Phàm lắc đầu:
– Không! Nhớt của nó đã cạn khô rồi, nếu bắt nó liếm trọn chiếc Kim Thần thì có khác nào giết nó! Công tử cẩn thận một chút là được, đừng để vũ khí chạm vào người khác.
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Không phải tại hạ lo cho chiếc Kim Thần! Tại hạ sợ chất độc vấy nơi mình tại hạ!
Giang Phàm cười nhẹ:
– Làm gì có độc trong mình công tử được? Uống cái mật con Độc Giác Hàn Xà, là uống thêm rất nhiều dược liệu có máu rắn độc khác, công tử đã trở thành bách độc bất xâm rồi, Kỳ Hạo không hại công tử nổi với độc dược của hắn, chỉ trừ một vài con rắn độc có thứ nhớt xung khắc thôi. Mà loại rắn đó thì hy hữu trên đời ...
Quan Sơn Nguyệt sững sờ.
Bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng đều thở phào, trút bỏ niềm lo sợ nặng trĩu nơi lòng.
Lý Trại Hồng tặc lưỡi:
– Phải chi cô nương nói sớm một chút! Tôi suýt bị tên ác tặc đó hãm hại!
Giang Phàm cười hì hì:
– Tại cô nương nóng nảy đó chứ! Tôi cố ý tung hắn đến gần Quan công tử, vũ khí của hắn kỳ quái quá, chỉ có một mình công tử đánh gãy được thôi! Điều cần là hủy diệt cái vật kỳ quái đó để tránh cho mọi người khác phải khổ. Cái sức hút độc của con Tiểu Ngọc thì có hạn, giả như nhiều người trúng độc của hắn thì làm sao giải cứu được?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Hà tất phải có tại hạ xuất thủ? Một mình cô nương cũng đủ trừ diệt hắn rồi!
Giang Phàm lắc đầu:
– Không! Công tử đừng thấy tôi thắng thế mà mầng! Thực ra, công lực của tôi còn kém hắn một bực, bất quá tôi mượn công lực của hắn đánh hắn, để tự bảo vệ thì thừa mà để hạ hắn thì thiếu. Huống chi, hắn lại có vũ khí độc môn. Tôi biết, công tử uống cái mật con Độc Giác Hàn Xà rồi, khí lực gia tăng kinh khủng ...
Quan Sơn Nguyệt tỉnh ngộ:
– Thảo nào! Tại hạ hết sức lấy làm lạ khi nhận ra khí lực của mình gia tăng thập bội, tự hỏi tại sao lại có sự kiện đó ...
Giang Phàm tiếp:
– Công phu của tôi, chỉ đủ để tự vệ, cho nên tôi tung Kỳ Hạo đến cho công tử ra tay, kết quả, chiếc Quỷ Vương của hắn bị hủy diệt ngay!
Rồi nàng tiếp:
– Rất tiếc, lúc công tử uống mật rắn, lại mang thương thế trầm trọng, mật rắn vì chữa trị thương thế mà thành ra mất đi phần lớn linh diệu. Chứ nếu không thì, công tử nghiễm nhiên trở thành tay vô địch trong thiên hạ rồi.
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Được như thế nầy, tại hạ mãn nguyện lắm rồi, cô nương. Tại hạ không mơ vọng là đệ nhất cao thủ trong thiên hạ đâu! Với công lực hiện tại, tại hạ cũng có thể làm điều lợi ích cho thế nhân! Tại hạ định, sau nầy tự phế vũ công, sống cuộc đời bình thường.
Mọi người nghe lòng man mác làm sao! Cái cao khiết của chàng khiến tất cả đều kính phục. Nhàn Du Nhất Âu vụt thốt:
– Đi chứ! Chúng ta dần đà quá lâu rồi đó! Có thể là hiện tại, Tạ Linh Vận đang đắc ý vì Quan thế huynh trúng độc của Kỳ Hạo mà không đề phòng, chúng ta phải lợi dụng cơ hội may mắn này, xuất kỳ bất ý công kích hắn, có hy vọng thành công nhiều hơn.
Lý Trại Hồng cười nhẹ:
– Đi đâu làm chi cho mệt, thế nào chúng cũng kéo nhau đến đây mà! Tôi sợ là chúng còn đến gấp nữa đấy! Đến để thu dọn thi hài của Quan công tử, như Kỳ Hạo đã nói!
Nhất Âu «hừ» một tiếng:
– Bằng vào đâu, Lý Tiên Tử dám quả quyết như vậy?
Lý Trại Hồng giải thích:
– Kỳ Hạo đã biết là con Ngọc Xà của Giang cô nương không thể giải cứu Quan công tử trước một khắc thời gian, hắn đinh ninh là Quan công tử trúng độc của hắn rồi, thì khi nào hắn dám chậm trễ mà không lợi dụng ngay lúc con Ngọc Xà còn bất lực? Cho nên hắn phải đưa Tạ Linh Vận đến gấp.
Giang Phàm cau mày:
– Hắn nghĩ thế là lầm! Tôi vẫn có thể hy sinh con rắn để cứu Quan công tử như thường. Có điều, việc chưa tất yếu lắm, do đó tôi để cho con rắn dưỡng sức, nó khôi phục tình cảnh cũ rồi, sẽ giúp ích chúng ta nhiều hơn!
Lý Trại Hồng cười vuốt:
– Ai ai cũng hiểu là cô nương khẳng khái hy sinh cho công tử, nhưng Kỳ Hạo làm gì biết được điều đó? Hắn phải đưa Tạ Linh Vận đến gấp, trước khi cô nương giải cứu Quan công tử. Ngoài ra, hắn còn lược thuật tình hình cho Tạ Linh Vận biết, tôi đoán chắc là chúng đến đây với số đông, một số đông thừa áp đảo bọn chúng ta!
Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình:
– Hẳn là có Lưu Ảo Phu trong số đó?
Lý Trại Hồng gật đầu:
– Đương nhiên! Lưu Ảo Phu là Phó Giáo chủ mà!
Nguyệt Hoa Phu Nhân căm hận:
– Nhất định là già phải hạ sát tên súc sanh đó!
Đồng thời, bà liếc mắt sang Quan Sơn Nguyệt.
Chàng điểm phớt một người, hiểu rõ cái ý của mẹ như thế nào. Bà nói vậy chứ cái tâm của bà nghĩ khác, bà tỏ ra quyết liệt để chờ chàng xoa dịu lại, sự quyết liệt của bà mở đường cho việc cầu tình, bà hy vọng sau này, khi đối chiến với Lưu Ảo Phu chàng sẽ nương tay đôi chút. Chắc chắn là bà muốn chính chàng đối chiến với Lưu Ảo Phu hơn là bà phải làm cái việc đó, vì tự bà, làm thế nào bà nương tay được khi đứa con đã gây quá nhiều tội lỗi?
Chàng thốt:
– Bất cứ tội lỗi gì hắn đã gây ra, làm thiệt hại đến con, con sẵn sàng quên đi cho hắn, bởi dù sao thì hành động của hắn còn lệ thuộc vào tự ái của một cá nhân. Riêng về cái việc hắn gia nhập Thiên Ma Giáo, tiếp trợ Tạ Linh Vận buông thói bạo tàn, sát hại dân lành, thì con không thể dễ dãi với hắn được. Bởi hắn đã trở thành một mối hại cho thế nhân. Trong đường lối hành hiệp, con có bổn phận diệt hung, trừ ác. Hẳn mẹ cũng phải công nhận sự kiện đó.
Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, không nói gì nữa.
Lúc đó, từ đầu kia đường, một đoàn người tiến đến, nhân số rất đông. Đi đầu, là Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu, phía sau là Tây Môn Vô Diệm và Thị Tràng, kế đó là Kỳ Hạo và Kích Trúc Sanh, một trong bốn lịnh chủ tại Long Hoa Hội từng bị Quan Sơn Nguyệt đánh bại trên đỉnh Thần Nữ Phong. Có cả tỳ nữ Tiểu Hồng, liễu đầu đã lừa Quan Sơn Nguyệt rơi xuống hố sâu. Dĩ nhiên, có một số thuộc hạ trong Thiên Ma Giáo, đi theo để gây thanh thế.
Nhìn qua ngôi thứ trong đoàn, tất cũng biết là Thị Tràng và Tiểu Hồng rất được trọng dụng trong Thiên Ma Giáo, cả hai có thân phận đáng kể lắm.
Các mục tiêu của đoàn người, là Quan Sơn Nguyệt, cho nên khi song phương đã ở trong tầm mắt của nhau, thì cánh Tạ Linh Vận đều chú ý đến chàng, bao nhiêu cặp mắt đều hướng về chàng, mường tượng họ chẳng cần nhìn đến những ai khác.
Tất cả đều phải kinh ngạc, thấy Quan Sơn Nguyệt còn đứng vững như núi, thay vì chàng phải chết, hay ít nhất cũng nằm dài và bên cạnh chàng, Giang Phàm làm mọi cách để giải cứu chàng. Và, trong khi đó thì bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng phải lo lắng đến điên người. Không, tất cả mọi người trong cánh Quan Sơn Nguyệt đều bình tịnh hướng mắt về chúng, riêng Quan Sơn Nguyệt thì chàng quắc đôi mắt với hào quang sáng rực, trông như một thiên thần, chực chờ một lũ ma.
Bọn Tạ Linh Vận cùng quay nhìn Kỳ Hạo, người nào cũng lộ vẻ phẫn nộ.
Hẳn là chúng cho rằng Kỳ Hạo bịa chuyện.
Trong trường hợp đó, Kỳ Hạo bối rối, bực tức, sợ hãi, gãi đầu, gãi tai, sau cùng hắn chỉ tay về đống sắt vụn bên đường, thốt:
– Giáo chủ xem kìa, những mảnh vụn của chiếc Quỷ Vương đó, thuộc hạ khi nào dám nói ngoa với Giáo chủ ...
Tạ Linh Vận «hừ» nhạt một tiếng, tập trung ý chí trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt cười mỉa:
– Còn lại bao nhiêu người trong căn cứ, sao ngươi không kéo tất cả ra đây luôn? Ta thấy còn ít đó!
Tạ Linh Vận bĩu môi:
– Chưa nhiều bằng số của ngươi đâu!
Hắn trầm giọng, tiếp luôn:
– Quần đấu hay độc đấu?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút. Bỏ bọn thuộc hạ hạ đẳng của Tạ Linh Vận ra, bởi bọn đó có đông bao nhiêu, cũng chỉ làm cái việc hò hét trợ oai, chứ chẳng phải thực sự là đấu thủ đáng chú ý, thì người trong cánh Tạ Linh Vận ít hơn người của chàng. Nhưng, chàng dù có đông người, một cuộc quần đấu không hy vọng tạo thắng lợi. Bởi bên địch có hai thanh kiếm đáng sợ, là Tử Sính Kiếm và Thanh Sách Kiếm, còn bên chàng độc một mình chàng có thanh Hoàng Diệp Kiếm, mà thanh nầy còn kém hai thanh kiếm của địch. Giả như địch cầm chân chàng, để cho các người kia dùng Thanh Sách Kiếm và Tử Sính Kiếm càn quét lực lượng chàng thì nguy mất. Chàng cho rằng, độc đấu là có lợi hơn. Chàng đáp:
– Rắn, chỉ có đầu là lợi hại, ngươi là giáo chủ Thiên Ma Giáo, là đầu con rắn, ta chỉ muốn chặt đầu rắn, là thành công. Mình rắn còn ngo ngoe, bất quá để dẫy chết mà chẳng còn làm hại thế nhân nữa. Vậy thì, ta cùng ngươi giao đấu là đủ rồi, cần chi phải xua cả bọn vào cuộc chiến?
Tạ Linh Vận bật cười ha hả:
– Cái ý của ngươi rất thích hợp với ta đó! Lập ra Thiên Ma Giáo, là vì muốn bành trướng thế lực, nên cần tuyển dụng thêm một số người. Ta xem bọn người của ngươi đều là tay hữu dụng cả. Tất cả các người đó, đều ỷ vào một mình ngươi, ta giết được ngươi rồi, là họ sẽ lập tức cúi đầu quy phục ta, như vậy ta không cần dụ dỗ, cũng có một số người về với ta, chịu sự sai khiến của ta.
Quan Sơn Nguyệt sợ những kẻ khác nói ra nói vào, Tạ Linh Vận đổi ý, vội thốt:
– Phải đó, Tạ Linh Vận! Chúng ta đồng ý rồi, thì cứ theo sự thỏa thuận đó mà hành động! Hôm nay ta cùng cương quyết cuộc tử chiến, một trong hai chúng ta chết đi là vấn đề cầm như giải quyết!
Tạ Linh Vận lắc đầu:
– Cái lý, thì hẳn là ta phải động thủ với ngươi. Song, hiện tại còn mấy người, muốn tranh sống chết với ngươi ...
Lưu Ảo Phu nóng nảy, không chờ Tạ Linh Vận dứt câu, vội bước tới, cao giọng gọi:
– Quan Sơn Nguyệt! Trả Trương Thanh lại đây cho ta!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Ngươi nói gì?
Lưu Ảo Phu phẫn nộ:
– Ngươi đừng vờ vĩnh! Chính ngươi đã cướp đoạt Trương Thanh, mang đi giấu ở một nơi ...
Quan Sơn Nguyệt vỡ lẽ ra, Lưu Ảo Phu đổ cho chàng cái trách nhiệm về sự thất tung của Trương Thanh, bây giờ hắn đòi người! Chàng nổi giận hét:
– Tại Quảng Hàn Cung, ngươi bày mưu độc hãm hại ta, sau đó ngươi bắt luôn Trương Thanh mang đi, mãi đến hôm nay, ta chưa hề gặp lại nàng, ta không tìm ngươi đòi người, ngươi lại vu khống cho ta, thế là đạo lý gì chứ?
Lưu Ảo Phu sững sờ, hỏi:
– Thế ra, cái người bao mặt trong đêm đó, chẳng phải là ngươi?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Giả như ta muốn đến Ngũ Đài Sơn, thì ta cứ đến đường đường chánh chánh, quyết chẳng bao giờ hành động âm thầm, lén lút, phải bao mặt, phải chờ đêm, ta cứ đi thẳng đến tổng đàn, tìm ngay Giáo chủ của ngươi mà hỏi ...
Lưu Ảo Phu sững sờ một lượt nữa.
Tạ Linh Vận cười lạnh, chen vào:
– Lưu lão đệ đừng nghe lời hắn, hắn có tài nói quỷ nói ma, khó tin lắm đấy!
Cứ theo lời người phòng thủ tại tổng đàn, thì tên bao mặt đó cầm một thanh kiếm giống hệch thanh Bạch Hồng trong số năm thanh kiếm lạ. Thử hỏi, ngoài hắn ra, còn ai có thanh Bạch Hồng Kiếm chứ?
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:
– Người đó cầm thanh kiếm Bạch Hồng?
Lưu Ảo Phu lắc đầu:
– Ta cũng chẳng biết rõ, bởi hôm đó, ta không có mặt tại tổng đàn, chứ nếu ta có mặt, thì khi nào Trương Thanh lại bị cướp được?
Tạ Linh Vận mỉm cười:
– Thanh kiếm Bạch Hồng là vật của ngươi, mà vật phải tùy thân, ngươi còn vờ làm chi? Giáo đồ của ta đã nhận được thanh kiếm, thì người bao mặt chính là ngươi chứ còn ai nữa?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Bạch Hồng Kiếm mười hôm trước đây đã bị Liễu Y Ảo đánh cắp rồi, nếu cái người đến Ngũ Đài Sơn cướp Trương Thanh, có cầm Bạch Hồng Kiếm, thì người đó đúng là Liễu Y Ảo, không còn nghi ngờ gì nữa!
Lưu Ảo Phu trố mắt:
– Liễu Y Ảo là ai?
Tạ Linh Vận cười nhẹ:
– Nàng là tiểu sư muội của ta, Lưu lão đệ cứ yên trí, nếu thật sự nàng cướp Trương Thanh, thì ta bảo đảm là sẽ đưa Trương Thanh về cho lão đệ, chỉ ngại có một điều, là dù đưa nàng về đây, nàng vẫn không chịu hòa hợp với lão đệ như thường.
Lưu Ảo Phu trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, ánh mắt ngời vẻ căm hờn.
Tạ Linh Vận lại cười, tiếp:
– Hà huống, lão đệ đã cho nàng biết là tiểu tử họ Quan chết rồi, nếu nàng trông thấy hắn, thì sao cho khỏi nàng oán hận lão đệ đã nói dối với nàng ...
Lưu Ảo Phu khoát tay:
– Giáo chủ khỏi phải nói nữa, thuộc hạ hết sức lấy làm lạ, chẳng hiểu tại sao tiểu tử thoát chết được tại Đại Trúc Hà? Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng quan hệ cho lắm, bởi hôm nay thế nào thuộc hạ cũng giết hắn. Bất quá, hắn chết chậm độ mươi ngày thôi, miễn là hắn có chết, thuộc hạ tránh được cái lời nói dối với Trương Thanh.
Một tiếng xoảng vang lên, hắn rút thanh Tử Sính Kiếm ra khỏi vỏ, kiếm chớp ngời ngời.
Nguyệt Hoa Phu Nhân lướt tới liền, đồng thời bà hét:
– Súc sanh còn nhận ra già?
Lưu Ảo Phu bây giờ mới để ý đến bà, hắn không tưởng là mẹ hắn có mặt trong đoàn người của Quan Sơn Nguyệt. Nhưng, hắn chỉ sửng sốt trong giây lát thôi, rồi hắn lạnh lùng đáp:
– Nếu mẹ ngăn trở con giết Quan Sơn Nguyệt, thì chắc chắn là con không còn nhận mẹ nữa.
Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, vừa giận mà cũng vừa thê thảm. Trong tình cảnh nầy, bà không còn nương tình nữa được, bà rút thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi mình, cầm sẵn trong tay, đoạn trầm giọng:
– Súc sanh, chính ta phải hạ sát ngươi, chứ chẳng đợi người nào khác!
Lưu Ảo Phu lùi lại một bước, gằn từng tiếng:
– Con hy vọng mẹ đừng bức bách con, dù rằng kiếm pháp của con, phần lớn là do mẹ truyền dạy, song mẹ đừng quên cha con có lưu lại mấy pho bí kíp.
Hiện tại, mẹ không thắng nổi con đâu!
Nguyệt Hoa Phu Nhân giận quá đến rung người:
– Thế thì cứ để già chết dưới tay ngươi, cho ngươi vui dạ!
Lưu Ảo Phu «hừ» lạnh:
– Dù con có lỡ tay giết mẹ, cũng chẳng có gì quá đáng đó mẹ. Bởi mẹ đâu có là vợ của cha con nữa, mẹ đã không còn là vợ của cha con từ lâu lắm rồi kia mà!
Nguyệt Hoa Phu Nhân hét lớn:
– Súc sanh! Ngươi đúng là một súc sanh! Là con, ngươi ăn nói với mẹ như thế đó à?
Lưu Ảo Phu cười mỉa:
– Nếu mẹ muốn cho con đừng phạm tội bất hiếu, thì xin mẹ bước qua một bên đi, để cục diện nầy cho những kẻ có liên quan thậm dự!
Quan Sơn Nguyệt hướng về Nguyệt Hoa Phu Nhân, gọi:
– Mẹ! Hãy trao kiếm cho con!
Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:
– Không! Cứ để cho mẹ giải quyết. Trước thì mẹ sợ con gây trọng thương cho hắn, bây giờ thì trái lại, mẹ sợ hắn sát hại con. Tốt hơn, để mẹ ra tay, hắn không còn là con của mẹ nữa!
Lưu Ảo Phu cười lạnh:
– Thì con cũng chẳng còn là con của mẹ lâu rồi! Sở dĩ con di táng hài cốt của cha đi nơi khác, đồng thời thiêu hủy Quảng Hàn Cung, là vì cái địa phương đó còn hơi hướm của Vạn Tân Nguyệt, và lão cũng có góp công với mẹ, tạo nên căn cứ đó, dù sao thì lão tặc ấy cũng lưu lại kỷ niệm ở nhiều nơi trên Đại Ba Sơn!
Nguyệt Hoa Phu Nhân tức uất đến có thể chết ngay được.
Quan Sơn Nguyệt định giật thanh kiếm nơi tay bà, song bà đẩy chàng ra, rồi thuận tay vung mạnh. Hoàng Diệp Kiếm theo đà tay bay sang Lưu Ảo Phu.
Lưu Ảo Phu cử kiếm hất vẹt kiếm của phu nhân ra ngoài, trong khi đó Tạ Linh Vận bước tới, thốt:
– Dù sao thì lão đệ không tiện xuất thủ như vậy! Hãy nhường cái trận này cho ta!
Lưu Ảo Phu thoái hậu liền, nhưng đảo bước đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt, cao giọng gọi:
– Thất phu! Có can đảm cứ vào!
Quan Sơn Nguyệt không thể làm sao hơn, đành cử chiếc Độc Cước Kim Thần nghinh đón Tử Sính Kiếm của Lưu Ảo Phu.
Cuộc chiến khai diễn cực kỳ ác liệt giữa bốn người phân làm hai mặt trận.
Cuộc chiến của bốn người biểu hiện rõ rệt sự tranh chấp giữa chánh và tà, một cuộc chiến quyết định an nguy của vũ lâm, kiếp vận của giang hồ.
Thiên Ma Giáo do dư đảng Long Hoa Hội lập thành, tự nhiên có cái hơi hướm gian tà, lại chính là Tạ Linh Vận lãnh đạo, thì cái gian tà đó càng rõ rệt hơn nữa.
Một bên, là chánh và phó giáo chủ, bên kia dù chưa có thân phận gì mới mẻ, song lại là những cột trụ của số người khuông phò chánh nghĩa, là niềm hy vọng của những ai còn biết tôn trọng đạo lý, công bằng.
Bởi những người lâm chiến có địa vị quan trọng như vậy, ai ai cũng chú ý theo dõi từng động tác một của họ. Nhưng, cuộc chiến giữa Lưu Ảo Phu và Quan Sơn Nguyệt mới là cái mục tiêu chính của bao nhiêu cặp mắt bên cánh Quan Sơn Nguyệt.
Lưu Ảo Phu sử dụng thanh kiếm Tử Sính, một trong năm thanh kiếm quái dị, hy hữu, có hiệu năng thần diệu, giá trị trên hẳn thanh kiếm Bạch Hồng, chặt sắt như chặt vào bùn, vũ khí thường không chịu đựng nổi cái chạm của nó.
Thoạt đầu, ai ai cũng lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, chính chàng cũng hơi ngán thanh kiếm đó, nhưng trong cái thế chẳng đặng đừng, bắt buộc chàng phải nghinh chiến đó thôi. Ngờ đâu, gặp chiếc Độc Cước Kim Thần của chàng, thanh kiếm Tử Sính như mất hết hiệu năng, trở thành vô dụng. Chẳng rõ chiếc Kim Thần của chàng được chế luyện bằng loại kim khí gì, gọi rằng Kim Thần chứ không hẳn là bằng vàng. Tử Sính Kiếm chạm vào, kêu cốp cốp, thế mà chẳng sao cả, bất quá chỉ lưu lại một vết trầy trụa vậy thôi. Cho nên muốn chém đứt chiếc Kim Thần của chàng, Lưu Ảo Phu phải chém hằng ngàn, hằng vạn nhát kiếm. Song, chém được một ngàn, một vạn nhát kiếm, tất phải sử dụng một ngàn, một vạn chiêu thức, đó là không kể những chiêu hụt.
Trên thế gian, có cao thủ nao đánh đủ hằng ngàn, hằng vạn chiêu chăng?
Nhất định là không có rồi, và như vậy thì Lưu Ảo Phu không hy vọng gì phá hủy vũ khí của Quan Sơn Nguyệt.
Ngoài ra, nào phải Quan Sơn Nguyệt chỉ đón đỡ hoặc tránh né mà thôi đâu?
Chàng vẫn phản công chứ!
Lưu Ảo Phu gặp cái bất lợi đó, thì Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng hơn gì, bởi chiếc Kim Thần quá nặng, chàng không thể dùng nó mà xuất phát những chiêu thức học được lúc sau nầy, do đó chàng cũng không tạo được một ưu thế.
Tuy nhiên, Quan Sơn Nguyệt không mong cầu gì hơn là cầm cự được với Lưu Ảo Phu, miễn sao chàng giữ được thế quân bình là đủ. Chàng tin tưởng là nếu cuộc chiến kéo dài, thì Lưu Ảo Phu sẽ bại vì mệt mỏi. Chàng sinh ra, với một thần lực phi thường, sức chịu đựng dẻo dai, cuộc chiến càng về khuya, công lực của chàng càng gia tăng, chứ không hề giảm, như thế là Lưu Ảo Phu phải bị chàng hạ.
Cuộc chiến giữa Nguyệt Hoa Phu Nhân và Tạ Linh Vận cũng không kém phần ác liệt, cả hai đều là kiếm thủ hữu danh, họ gặp kẻ đồng tài nên sử dụng toàn những chiêu thức ngụy dị, hiểm độc.
Thực tình mà nói, Nguyệt Hoa Phu Nhân cầm cự được với Tạ Linh Vận, là nhờ kiếm thuật của bà có phần cao minh hơn Tạ Linh Vận, chứ thanh kiếm Hoàng Diệp của bà kém thanh Thanh Sách của Tạ Linh Vận một bậc. Bà phải chật vật né tránh những cái chạm mà Tạ Linh Vận cố tình gây nên, với mục đích hủy diệt kiếm của bà.
Người trong cuộc chiến khẩn trương đã đành, người ngoài cuộc cũng khẩn trương không kém. Ai ai cũng mong phe mình thắng thế, ai ai cũng sợ phe mình thất bại, nhưng chẳng một ai xông vào can thiệp, vì một sự tiếp trợ trong trường hợp nầy, đều có cái phản tác dụng tinh thần, là hạ thấp giá trị của người lâm chiến. Họ không tham chiến trực tiếp, song họ cũng cân nhắc lực lượng song phương.
Bên cánh Tạ Linh Vận, nhân số không nhiều, một Thị Tràng vẫn còn ở ngoài vòng. Thuộc hạ chân chánh của Tạ Linh Vận hiện tại, chỉ có một Tây Môn Vô Diệm, Kích Trúc Sanh và Kỳ Hạo.
Là người trong Long Hoa Hội, họ phải hiểu thực lực của nhau, Tây Môn Vô Diệm thì biết rõ không thủ thắng nổi trước Lý Trại Hồng, còn Kích Trúc Sanh thì đã có lần bị Nhàn Du Nhất Âu đánh bại.
Còn lại một Kỳ Hạo, đành rằng cầm cự nổi với Quan Sơn Nguyệt qua một cuộc đấu khá lâu, song bên cánh địch còn thừa đến hai người, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt, hai người nầy liên thủ là hắn không hy vọng đắc ý.
Đã vậy, còn có Xà Cơ Giang Phàm trong bọn của Quan Sơn Nguyệt, nàng có tài nghệ như thế nào, Kỳ Hạo thừa hiểu, nếu nàng xuất trận, thì hắn mong gì thủ thắng?
Giả như Thị Tràng có nóng nảy mà vào cuộc, thì bên cánh địch vẫn còn Nhập Hoạch, một Nhập Hoạch cũng đủ sức cầm chân Thị Tràng kia mà!
Đó là không kể đến bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ cũng có mặt trong đoàn.
Nhàn Du Nhất Âu thấy rõ ưu điểm của cánh nhà, liền bước tới Lý Trại Hồng, thốt:
– Lý Tiên Tử! Giả như chúng ta muốn diệt trừ vây cánh của Tạ Linh Vận, thì đây là cơ hội tốt nhất cho chúng ta hạ thủ đó. Tạ Linh Vận bị phu nhân cầm chân, chúng ta còn sợ ai nữa?
Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút, toan biểu hiện sự đồng ý, nhưng bên đối phương chừng như đã có cảnh giác trước rồi. Thị Tràng khẽ chớp thân mình, vung kiếm bước tới, đồng thời cao giọng thách:
– Nếu các ngươi muốn khởi diễn một cuộc hỗn chiến, thì ta không hề phản đối, tuy nhiên, nếu có tên nào tự cho rằng tài nghệ cao siêu, tên đó cứ bước ra, so mấy chiêu với ta xem ai hơn ai kém.
Lý Trại Hồng nhìn sang bọn Nhập Hoạch, như ngầm bảo:
“Nàng ấy là người của Quảng Hàn Cung, đồng bạn của các ngươi ngày trước, chính các ngươi phải xuất đầu đối phó mới hợp lý.”.
Tư Kỳ vốn nóng tính, bước ra liền, cao giọng mắng:
– Con xú phụ kia, ngươi là người của Quảng Hàn Cung, lại sanh lòng phản bội phu nhân, ta không thể tha thứ cho ngươi được. Hãy bước lại đây, cúi đầu nhận tội!
Vũ khí của Tư Kỳ là một chiếc bàn cờ, y cầm bàn cờ vụt sang Thị Tràng, một góc bàn cờ nhắm ngay đầu Thị Tràng lao tới.
Thị Tràng cười lạnh một tiếng, vung kiếm gạt chiếc bàn cờ vẹt ra ngoài.
Tư Kỳ giật mình. Y hết sức lấy làm lạ, trong cung Quảng Hàn, luận tài nghệ của bảy thị giả, thì người có kiếm thuật cao hơn hết, là Đạn Kiếm. Đạn Kiếm chết rồi thì chỉ còn Nhập Hoạch trổi hơn nội bọn. Vũ công của Thị Tràng, bất quá chỉ hơn mỗi một mình Chữ Trà mà thôi. Nhưng tại sao Thị Tràng có thể phát xuất một chiêu kiếm có oai lực phi thường? Chẳng lẽ ngày nay vũ công của nàng tiến triển đến mức độ vượt xa toàn thể bọn thị giả?
Đứng bên ngoài, Cầm Khiêu và Thị Thơ cũng có nhận xét như Tư Kỳ, cả hai sợ Tư Kỳ sơ thất, không hẹn mà đồng vào cuộc ngay. Cầm Khiêu vung đàn, Thị Thơ vung bút, tiến công Thị Tràng, trong khi đó, Tư Kỳ cũng vụt chiếc bàn cờ đánh tiếp.
Thị Tràng không hề nao núng, ung dung cử kiếm hất ba món vũ khí của đối phương lộn trở về.
Nhập Hoạch tức uất, dùng hai tay không gia nhập cuộc chiến liền, tuy chẳng có vũ khí, nàng vẫn tỏ ra lợi hại chẳng kém ba người kia.
Thế là một trận chiến mới, được khai diễn với số người quá chênh lệch, một bên bốn, một bên một.
Thị Tràng bình tịnh giao đấu, thanh kiếm của nàng loang loáng như ngàn ánh sao sa, nàng hóa giải thế công của đối phương rất dễ dàng, thành thử cả bốn người bị dồn về thế thủ, mà lại thủ một cách rất khó khăn.
Nhất Âu thấy cuộc hỗn chiến đã khai diễn rồi, cũng rút kiếm cầm tay, tiến tới trước mặt Kích Trúc Sanh, cười nhẹ một tiếng, thốt:
– Ngươi nghĩ sao, chẳng lẽ chúng ta chẳng có công việc gì để làm?
Kích Trúc Sanh không màng đến lão, chính Kỳ Hạo lại bước ra đánh chận:
– Ngươi quyết tâm muốn chết, thì ta cũng chịu khó thành toàn ý nguyện của ngươi!
Nhất Âu nổi giận:
– Cút đi nơi khác ngay, ngươi xứng đáng chi đó mà dám ngông nghênh trước mặt lão phu?
Kỳ Hạo cười mỉa:
– Ngươi đừng tưởng đây là Thần Nữ Phong, và nên thức ngộ là Long Hoa Hội đã cáo chung từ lâu rồi! Trong Thiên Ma Giáo, ta có thân phận cao hơn Kích Trúc Sanh một bậc đấy, ngươi khiêu chiến lão ấy, thì người cấp trên của lão vẫn có đủ tư cách đối phó với ngươi, nếu không nói là nhiều hơn! Ta đích thân đối phó với ngươi, là ta tự hạ mình, chính ngươi có vinh dự hơn nhiều!
Vẻ bất bình hiện lộ rõ rệt nơi gương mặt của Kích Trúc Sanh, song lão ta không hề mở miệng phản đối. Lão không phản đối, là mặc nhiên nhìn nhận mình có địa vị thấp hơn Kỳ Hạo, Kỳ Hạo đã nói đúng sự thật.
Nhất Âu sửng sốt một chút, sau cùng gọi Kích Trúc Sanh:
– Ngươi không sính bằng một tiểu tử như thế à? Đã không được trọng dụng thì ngươi còn chui đầu vào Thiên Ma Giáo mà làm gì cho chúng khinh? Ta thật tình bất mãn thay cho ngươi đó! Ngươi cam chịu khuất phục dưới sự điều khiển của bọn vô dụng như vậy, thì đúng là một sự lạ lùng.
Kích Trúc Sanh thẹn đỏ mặt. Nhưng, lão ta vẫn im lặng, chẳng thốt một tiếng nào, bất quá lão chớp đôi mắt mấy lượt vậy thôi.
Nhất Âu thở dài, tiếp:
– Mỗi người có một chí hướng, ngươi làm sao thì làm, ta không có quyền can thiệp vào công việc của ngươi, song nghĩ lại ngày nào Hoàng Hạc tiến cử ngươi đảm nhận chức đại hội chủ trong Long Hoa Hội, ta không khỏi chạnh lòng trước sự xuống dốc của ngươi hiện tại!
Kỳ Hạo biết là Nhàn Du Nhất Âu đang khiêu khích Kích Trúc Sanh để thực hiện kế ly gián, không cho lão kéo dài cuộc đối thoại với Kích Trúc Sanh nữa, hắn vội vung kiếm chém tới.
Nhất Âu không dám khinh thường, cử kiếm ngăn chặn liền.
Tây Môn Vô Diệm không đợi Lý Trại Hồng khiêu chiến, tự động lướt tới, tuốt kiếm khỏi vỏ, gọi:
– Lý sư tỷ! Chúng ta cũng nhập môn một lượt, vì các người thì có nhan sắc nên được ưu đãi, nuông chiều, liệt ngay vào Tiên Bảng, còn tôi xấu xí nên bị bỏ rơi, phải nhập vào Quỷ Bảng, tôi làm sao chịu nổi sự bất công đó? Tôi bất phục từ phút giây đầu tiên, tôi ôm hận mãi, chực chờ cơ hội để phát tiết khí hận phần nào. Thì, cái cơ hội đó giờ đây đã đến, tôi muốn lãnh giáo một vài chiêu của sư tỷ, thử xem Tiên Bảng hơn Quỷ Bảng ở điểm nào!
Lý Trại Hồng không đáp, vung kiếm bước ra, song phương mở thêm một mặt trận nữa, cũng ác liệt như các mặt trận kia.
Chiến cuộc đã khai diễn toàn diện rồi, gồm năm mặt trận với mười ba người tham gia, tuy nhiên bốn mặt trận kia thì gay go, nặng nề, chỉ có mặt trận của Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm, tuy vẫn ác liệt, nhưng song phương rất ung dung, tiến thoái nhẹ nhàng.
Họ xuất toàn chiêu độc, song chẳng phải vì tư thù thâm sâu mà họ bắt buộc phải tử đấu với nhau, bất quá họ muốn so tài hơn kém, bởi họ là đồng môn sư tỷ muội, họ như hiểu rõ tài nghệ của nhau, người nầy công thì người kia phá. Trông vào họ, ai cũng có cảm nghĩ là họ luyện tậm với nhau vậy thôi.
Nhìn qua cục diện, chỉ thấy mặt trận của Thị Tràng là nhiệt náo hơn hết. Một mình nàng, chống lại bốn người, kiếm pháp không rối loạn, tỏ rõ cái oai phong của kẻ có thực tài.
Thực ra, nàng có bản lĩnh khá cao, chỉ vì tại Quảng Hàn Cung, nàng không hề biểu thị mức thành tựu cho bất cứ ai biết được, do đó các thị giả kia đánh giá nàng một cách lầm lẫn, họ khinh thường nàng, nàng cam tâm ẩn nhẫn, không một lời phản kháng.
Tự nhiên nàng chưa phải là thánh nên phải căm hận khi bị người miệt thị, nàng ôm mối hận đó suốt thời gian qua, hằng chực dịp phát tiết khí uất. Và cái dịp đó đã đến với nàng hôm nay, cũng như cái dịp chờ đợi của Tây Môn Vô Diệm đã đến rồi. Thì, có bao nhiêu sở năng, nàng mang ra thi thố trọn vẹn. Cho nên, những chiêu thức do nàng phát xuất, đều hàm sút sát cơ, nếu đối phương không nhờ đông người, người nầy chiếu cố đến người kia, tiếp trợ nhau, thì hẳn là đối tượng của nàng phải bị hạ từ lâu lắm rồi.
Song phương còn thừa lại bốn người, đứng ngoài vòng chiến.
Bên cánh Tạ Linh Vận, là Kích Trúc Sanh, bên cánh Quan Sơn Nguyệt, là Vạn Lý Vô Vân, Nhất Luân Minh Nguyệt và thêm Giang Phàm.
Vì sống biệt lập với thế nhân hơn mười mấy năm dài, Giang Phàm thuần phác như trẻ thơ ngây, đến độ nàng quên mình thuộc cánh nào, đứng một góc riêng biệt, nàng nhìn cuộc chiến thấy ai thắng thế nàng vỗ tay reo hò tán thưởng, bất cần người thắng thế ở bên cánh nầy hay cánh kia.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt cùng có ý nghĩ như nhau, là cả hai xuất thủ, thì đối tượng của họ là Kích Trúc Sanh, nhưng qua lời trách cứ của Nhàn Du Nhất Âu, họ thấy thương hại Kích Trúc Sanh, thất cơ phải chịu phận thấp dưới tay người. Cho nên, mọi người đã tham gia cuộc chiến, riêng cả hai còn đứng nguyên tại chỗ.
Nhưng, Kích Trúc Sanh khi nào chịu để yên cho họ? Lão khích:
– Người ta đều có công việc làm cả, sao hai người không thử hoạt động như họ xem sao?
Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:
– Chúng ta đâu phải lánh nhọc tìm nhàn? Thực sự thì chúng ta không thấy cái hứng động thủ với ngươi.
Kích Trúc Sanh hơi thẹn, vì thẹn nên sanh hận, lão cao giọng trách:
– Nhất Âu còn có thể có cái thái độ khinh ngạo được, chứ các ngươi là cái quái gì mà cũng dám giở thói cao hãnh?
Nhất Luân Minh Nguyệt bật cười ha hả:
– Đành rằng chúng ta chẳng ra cái quái gì, song ít nhất chúng ta cũng chẳng phải khuất mình cúi mặt trước một tiểu bối hậu sanh, mặc cho hắn nặng nhẹ khinh khi tùy thích! Ta nghĩ, với mái tóc pha sương đó, ngươi lại để cho một tiểu tử lấn áp, thì cái kiếp đời của ngươi tủi hổ quá chừng! Ngươi hẳn cũng tức uất chứ, bởi tức uất nên ngươi tìm nơi phát tiết, phải không? Ngươi hãy đi tìm nơi khác mà phát tiết, chứ chúng ta thì thật tình chẳng dám lãnh giáo ngươi đâu!
Kích Trúc Sanh trầm gương mặt:
– Các ngươi nói mà có suy nghĩ hay chăng? Cái gã Quan Sơn Nguyệt kia, có bao nhiêu niên kỷ? Sao các ngươi gầm đầu mà đi theo gã như kẻ mù được dắt dìu trên mọi nẻo đường? Ta nghĩ, các ngươi ngày trước có thọ giáo với Hoàng Hạc, nên xem Quan Sơn Nguyệt như bạn đồng môn! Các ngươi là hậu bối của Hoàng Hạc chắc!
Vạn Lý Vô Vân cười vang:
– Kỳ Hạo sánh được với Quan công tử của ta sao chớ? Hà huống, chúng ta vì cái việc công ích, họp đoàn cùng Quan công tử, mở chiến dịch diệt ác trừ hung.
Việc làm của chúng ta là một sự hợp tác, không hơn không kém, không ai phải tuân mạng lịnh của ai, đó là chúng ta chưa nói đến cái việc Quan công tử trong lối xử sự hằng ngày, tôn kính chúng ta là bật tiền bối, chẳng hề buông lời vô lễ! Còn ngươi, là cái gì bên cạnh Kỳ Hạo nếu không là một thuộc hạ của hắn, tùy thời, tùy khắc, theo cái hứng mà hắn ra lịnh sai khiến ngươi, bất chấp ngươi niên cao kỷ trọng? Bằng cớ là vừa rồi, hắn gọi ngay cái tên của ngươi, chúng ta tưởng ngươi đã chấp nhận hắn là bạn vong niên rồi đấy!
Kích Trúc Sanh biến sắc mặt sanh rờn, song đôi mắt của lão ta lại đỏ lên.
Bất thình lình, lão cử chiếc vũ khí có hình dáng cực kỳ ngụy dị, màu đen sì, trông giống cái bát sành, phía sau có một cái cán.
Vạn Lý Vô Vân cười lớn:
– Kích Trúc Sanh! Ta thấy ngươi càng ngày càng đáng thương hại quá chừng. Thế Thiên Ma Giáo không nuôi ăn ngươi sao, mà ngươi phải vác bát xin cơm ven theo đường?
Kích Trúc Sanh rung người lên, dù lão có muốn nói gì cũng chẳng nói thành lời, bởi môi lão rung, lão líu lưỡi lại.
Lão đưa bàn tay tả lên, dùng ngón áp út móc vào chiếc vòng nhỏ nơi cán vũ khí, lảy nhẹ.
Một tiếng vang quái dị chấn dội màng tai, từ lòng chiếc bát bay ra một điểm đen, điểm đen lao vút tới, nhắm vào mặt Vạn Lý Vô Vân bắn vào.
Vạn Lý Vô Vân khẽ phất ống tay áo lên. Lão chẳng biết điểm đen đó là vật gì, song thấy cái đà bay của nó không mạnh lắm, nên tưởng rằng tay áo phất nhẹ của lão cũng đủ gạt bắn nó ra ngoài.
Nhưng, sự thực trái ngược với ức đoán của lão, điểm đen đó, chừng như vô hình mà cũng chừng như hữu thể, xuyên qua ống tay áo, chạm đúng giữa sống mũi của lão.
Không kịp kêu lên một tiếng, Vạn Lý Vô Vân ngã ngửa về phía hậu.
Nhất Luân Minh Nguyệt nhìn xuống, thấy Vạn Lý Vô Vân tắt thở rồi. Bất giác, lão sôi giận, quên mất sợ hãi, quay đầu trừng mắt nhìn Kích Trúc Sanh, hét:
– Ngươi dùng thủ pháp gì ...
Kích Trúc Sanh lại đưa cao chiếc bát, bật cười âm trầm:
– Ta dùng cái món nầy đây, ngươi có thấy qua chứ?
Nhất Luân Minh Nguyệt sững sờ!
Một chiếc bát tầm thường quá, chẳng có đặc điểm gì cả, thế mà Vạn Lý Vô Vân bị sát hại nhanh chóng, chẳng kịp có một phản ứng gì!
Kích Trúc Sanh bật cười dài, trong tiếng cười, ẩn ước có sự thê thảm, hận uất, hòa lẫn niềm đắc ý. Rồi lão ngưng cười, tiếp:
– Ta nghĩ là ngươi không nhận ra đâu, vậy ngươi hãy nghe ta nói đây! Nó là chiếc nhạc khí rất cổ, ngày xưa chỉ có mỗi một Cao Tiệm Ly biết sử dụng mà thôi.
Nếu trước kia, Cao Tiệm Ly được thủ pháp bằng ta ngày nay, thì Tần Chánh đã chết nghèo trước khi gồm thâu lục quốc rồi, có đâu sau nầy dựng nên nghiệp đế, đốt sách chôn nho?
Vạn Lý Vô Vân chết, mọi người rụng rời, bộ pháp, thủ pháp chậm lại ngay, song phương cùng lùi lại, giữ một khoảng cách làm đường phân đôi mặt trận. Họ dừng tay từ lúc Kích Trúc Sanh bắt đầu giải thích lai lịch vũ khí quái dị của lão.
Mọi người nghe xong, hết sức hãi hùng.
Quan Sơn Nguyệt buộc miệng kêu lên:
– Chiếc Trúc ...
Kích Trúc Sanh cao giọng:
– Phải, cái hiệu của ta do nơi nhạc khí đó mà thành!
Ai ai cũng trầm lặng, suy tư.
Sau khi Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng, việc bất thành phải bị giết, thì có Cao Tiệm Ly nối tiếp.
Nghe đồn Cao Tiệm Ly có biệt tài sử dụng nhạc khí đó, Tần bạo chúa một hôm vời y vào cung, bảo y cho thưởng thức tài nghệ. Nhân lúc Tần quân xuất thần vì nhạc điệu kỳ diệu, Cao Tiệm Ly bấm nút cơ quan nơi nhạc khí, bắn viên đạn sắt, bởi y mù mắt, nên nhắm không chuẩn đích, thành thử phải mang hận mà về theo Kinh Kha dưới suối vàng. Đoạn dã sử đó mọi người đều biết, song chẳng ai hình dung được loại nhạc khí đó như thế nào, bởi nó thất truyền từ sau ngày Cao Tiệm Ly chết. Không ngờ, ngày nay, Kích Trúc Sanh lại luyện được!
Quan Sơn Nguyệt mỉa:
– Cao Tiệm Ly dùng nhạc khí đó, hành thích bạo chúa, tuy không thành công nhưng danh lưu hậu thế, còn ngươi, may mắn luyện được, lại mang nó ra mà phục vụ tà đạo, như vậy ngươi không thấy thẹn với người xưa, chẳng hổ với người nay sao? Người ta nhờ nó mà thành hiệp danh, còn ngươi dùng nó để biến mình thành ma quái.
Kích Trúc Sanh bật cười ha hả:
– Tiểu súc sanh! Ngươi đừng đem cái giọng đạo lý mà thuyết phục ta! Ta lập thân, hành sự, bình sanh bất luận thiện ác, ta cứ do cái tâm mà làm, tâm thích làm sao, ta làm làm vậy, làm việc gì mà có sướng cho ta, là ta làm. Kẻ nào chỉ trích, ta có cách đối phó với kẻ đó ngay! Đừng ai khinh thường ta!
Nhất Luân Minh Nguyệt cao giọng:
– Tạ Linh Vận đối xử với ngươi như vậy, có xứng đáng với ngươi chăng?
Hắn trọng ngươi hay khinh ngươi?
Kích Trúc Sanh biến sắc mặt.
Tạ Linh Vận cấp tốc đề cao cảnh giác, vận công giới bị.
Nhưng, Kích Trúc Sanh khôi phục thần sắc như bình thường, rồi cười nhạt, thốt:
– Tại hội Long Hoa, các ngươi khinh ngạo ta, mỉa mai chế diễu ta, tất cả đều rẻ rúng, lạnh nhạt đối với ta, chỉ mỗi một mình Giáo chủ là xem trọng ta, ta cảm kích vô cùng, Giáo chủ là người tri kỷ của ta lúc đó, thì hôm nay dù ta không được biệt đãi lắm, cũng chẳng sao, việc trước bù việc sau mà!
Tạ Linh Vận thở phào, hấp tấp thốt:
– Kích Trúc Sanh! Nhân huynh trầm tịnh đáng phục! Nếu tiểu đệ biết được nhân huynh có tuyệt kỹ như vậy, thì vô luận làm sao, tiểu đệ cũng trọng dụng nhân huynh từ lâu rồi! Tiểu đệ tin rằng nhân huynh sẵn sàng tha thứ chỗ sơ suất của tiểu đệ! Trong lúc khai cơ lập nghiệp, tiểu đệ tự nhiên phải cần có người tài ba như nhân huynh tiếp trợ ...
Kích Trúc Sanh cười nhạt:
– Giáo chủ không cần phải giải thích. Nếu thuộc hạ không minh bạch, thì khi nào lại chịu lưu lại trong Thiên Ma Giáo đến ngày nay!
Tạ Linh Vận thở phào lượt nữa:
– Nếu sớm biết tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh, thì tiểu đệ nhất định ...
Kích Trúc Sanh khoát tay:
– Chẳng phải thuộc hạ giấu giếm chút nghề mọn, chẳng qua thuộc hạ không phô trương là vì chưa đến thời cơ ra sức tiếp trợ Giáo chủ đó thôi. Vừa rồi, vì tức khí mấy lão khả ố đó mà bắt buộc thuộc hạ phải xuất đầu lộ diện ...
Nhất Luân Minh Nguyệt kêu lên:
– Cái công phu của ngươi đó, có gì là cho cao cường đâu? Ta xem rất thường! Vừa rồi ta mắng ngươi, bây giờ ta cũng mắng ngươi, thử xem ngươi sẽ làm chi ta!
Kích Trúc Sanh lạnh lùng cử cao chiếc nhạc khí, lảy ngón tay nơi cái khoen nhỏ. Một điểm đem bay ra, vút thẳng đến Nhất Luân Minh Nguyệt.
Lần nầy, mọi người đều có phòng bị. Không để cho điểm đen bay đến gần, bọn Quan Sơn Nguyệt năm sáu người cùng xuất thủ một lượt, mỗi người cử vũ khí của mình ngăn đón.
Nhưng không, chẳng hiểu tại sao, điểm đen vẫn xuyên lọt như thường. Nó xuyên lọt mấy món vũ khí, tự nhiên nó phải đến tận đích, trừ ra cái đích xê dịch đi nơi khác.
Cái đích không xê dịch, chẳng rõ Nhất Luân Minh Nguyệt không xê dịch, vì khinh thường, hay vì không kịp, lão ta rú lên một tiếng thảm, đưa hai tay lên mặt, hai tay chà xát, vuốt mạnh gương mặt, đồng thời ngã ngửa về phía hậu.
Lão vặn mình mấy lượt, rồi nằm bất động.
Điều làm cho mọi người kinh khiếp, là nơi khoảng giữa sống mũi của Nhất Luân Minh Nguyệt, một viên đạn sắt bám dính, mường tượng sống mũi của lão ta có thêm một con mắt thứ ba.
Cái thủ pháp giết người của Kích Trúc Sanh cực kỳ quái dị, không ai có thể phòng ngự, dù có giới bị cẩn mật.
Tạ Linh Vận vô cùng kinh dị, nhưng liền theo đó, y điểm nhanh một nụ cười, khuất lấp vẻ kinh dị. Y hướng qua Kích Trúc Sanh, tán:
– Tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh thần diệu thật! Một chiếc Trúc nơi tay, huynh đài nghiễm nhiên trở thành vô địch trong thiên hạ! Thiên Ma Giáo có một tay bản lĩnh cao cường như huynh đài, thì còn lo gì mà thiên hạ chẳng quy về một mối!
Y khích:
– Hạ tất cả luôn đi, Kích Trúc huynh! Nếu cái bọn kia bị tận diệt thì từ nay chúng ta ăn no, ngủ yên, chẳng còn phải lo sợ hằng ngày nữa!
Ngờ đâu, Kích Trúc Sanh thu chiếc Trúc về, rồi lạnh lùng thốt:
– Điều đó thì Giáo chủ miễn cho, thuộc hạ không thể tuân mạng!
Tạ Linh Vận sửng sốt:
– Tại sao thế, Kích Trúc huynh?
Kích Trúc Sanh cười nhẹ:
– Thú rừng hết, chó săn hết, điều đó, tưởng mọi người hiện diện tại đây đều biết rõ. Khi giáo chủ được cao gối mà nằm yên, thì thuộc hạ hẳn cũng sâu mồ mà bất động trong lòng đất lạnh.
Tạ Linh Vận hấp tấp hỏi:
– Tại sao Kích Trúc huynh lại nói như thế?
Kích Trúc Sanh vẫn cười:
– Biết Giáo chủ, không ai bằng thuộc hạ. Tuy sự nhận xét do thuộc hạ vừa nêu lên, có phần nào bất kính thật, song nó đúng với sự thật. Thuộc hạ tin rằng, Giáo chủ không thể nào phủ nhận được!
Tạ Linh Vận sững sờ, thừ người ra đó, chẳng nói được tiếng nào.
Kích Trúc Sanh tiếp luôn:
– Bất quá, thuộc hạ xin nói câu nầy, là Giáo chủ yên trí, tuy thuộc hạ có cái tâm bất kính, song ý niệm của thuộc hạ mãi mãi trung thành. Lưu mạng sống cho một vài cường địch của Giáo chủ, là tự thuộc hạ tìm biện pháp bảo vệ sanh mạng của mình đó. Địch còn, là thuộc hạ còn, bởi Giáo chủ không thể làm một việc bất lợi cho Giáo chủ là trừ diệt kẻ nguy hiểm như thuộc hạ. Hẳn Giáo chủ cũng nhớ việc xưa chứ? Ngô Phù Sai chưa chết, là Văn Chủng vẫn còn được Câu Tiễn tôn trọng, thuộc hạ chẳng dám sánh mình với người xưa, song trường hợp xưa và nay chẳng khác nhau mảy mai, Giáo chủ ạ.
Lão cười chua chát, một lúc sau lão lại tiếp:
– Còn một sự kiện nầy nữa, ngoài cái nghề phóng đạn sắt giết người, thuộc hạ chẳng có một tài năng nào khác, như vậy là chẳng bao giờ thuộc hạ trở thành một lãnh tụ trong thiên hạ. Và, cũng như vậy là Giáo chủ khỏi phải sanh tâm tật đố. Giáo chủ cứ yên trí về thuộc hạ, mà đừng hoạch định mưu kế phòng bị thuộc hạ, vô ích.
Bây giờ, Tạ Linh Vận mới lấy lại bình tịnh, y bật cười ha hả, thốt:
– Kích Trúc huynh khéo lo ngại viển vông thì thôi! Tiểu đệ thấy rằng, mình còn nhờ huynh đài rất nhiều, có thể bảo là nhờ trọn đời cũng vẫn chưa đủ, thì có lý đâu lại toan tính hãm hại nhân huynh bất ngờ? Bất quá, trước kia, vì hồ đồ cho nên tiểu đệ xem thường nhân huynh. Tiểu đệ xin hứa là từ nay sẽ chẳng còn dám bạc đãi nhân huynh nữa, cái cơ nghiệp nầy, thành tựu được bao nhiêu, từ hôm nay kể như là của chung của hai chúng ta vậy!
Kích Trúc Sanh cười lạnh:
– Không cần phải thế, Giáo chủ ạ! Giáo chủ là bậc nhất thế anh hào, hùng tài đại lược, tuy nhiên cộng sự với Giáo chủ, thì nên cộng cái hoạn nạn, tuyệt đối không nên cộng cái phú quý. Có khi nào Giáo chủ an tâm ngủ ngon giấc khi bên cạnh mình luôn luôn có mặt một kẻ mà Giáo chủ sợ hãi nhất trần đời chăng?
Lão nghiêm giọng, tiếp:
– Nếu Giáo chủ không lòng khinh rẻ thuộc hạ, thì thuộc hạ ước mong có một địa vị ngang với Lưu lão đệ. Giáo chủ thì chẳng có thể có hai, song Phó Giáo chủ thì thêm một người nữa, cũng chẳng hại gì!
Tạ Linh Vận gật đầu nhanh:
– Có khó khăn gì điều đó đâu, Kích Trúc huynh! Khi chúng ta trở về tổng đàn, tiểu đệ sẽ ra lịnh triệu tập toàn thể thuộc hạ, tuyên bố là từ nay Kích Trúc huynh là vị tân nhậm ...
Kích Trúc Sanh ngăn chận:
– Thế thì xin Giáo chủ trở về tổng đàn ngay!
Tạ Linh Vận giật mình:
– Về tổng đàn ngay bây giờ? Còn bọn kia?
Y đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.
Kích Trúc Sanh quét ánh mắt ngang qua bọn Quan Sơn Nguyệt một vòng, tỏ thái độ cực kỳ ngạo nghễ, buông gọn:
– Thuộc hạ nghĩ, họ vẫn sợ chết như mọi người, thì khi nào họ dám khiêu khích thuộc hạ? Tạm thời, thuộc hạ cấp cho họ một khoảng đất an toàn, là họ phải ở cách xa tổng đàn ít nhất cũng một dặm đường, bên ngoài khoảng đất đó, họ sẽ được bình an vô sự, giả như họ không thích sống nữa, thì cứ vượt khoảng cách đó, thuộc hạ sẽ vì Giáo chủ mà ngăn chặn họ cho!
Lão cười lớn, giọng cười ghê rợn làm sao, rồi lão tiếp:
– Thuộc hạ nghĩ là họ không có can đảm mạo hiểm đâu!
Sau nầy thì sao, chẳng rõ, chứ hiện tại thì bọn Quan Sơn Nguyệt đã gờm Kích Trúc Sanh lắm rồi. Điều đó thì Tạ Linh Vận hiểu lắm, y bật cười ha hả, thốt:
– Đúng vậy! Ngày nào Kích Trúc huynh còn ở trong Thiên Ma Giáo, thì ngày đó nhất định là chẳng có một ai dám xâm nhập vào nội địa của chúng ta.
Y tiếp tục cười, âm thinh càng phút càng vang dội, rồi y chuyển mình trở về tổng đàn.
Tây Môn Vô Diệm và Kỳ Họa theo sau.
Lưu Ảo Phu còn đứng bất động tại chỗ.
Kích Trúc Sanh «hừ» lạnh:
– Lưu lão đệ còn lưu luyến cái gì ở đây nữa chứ?
Lưu Ảo Phu đưa mắt thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, đáp:
– Vấn đề giữa tại hạ và Quan Sơn Nguyệt, nhất định phải được giải quyết ngay trong ngày nay.
Kích Trúc Sanh mỉm cười:
– Tại hạ sắp sửa tiếp nhậm chức Phó Giáo chủ Thiên Ma Giáo, nếu không có Lưu lão đệ chứng kiến cuộc tấn phong, thì còn hứng thú gì cho tại hạ nữa?
Chẳng lẽ Lưu lão đệ không muốn cho tại hạ được vui một vài phút giây à?
Lão đưa tay mò mò trong mình, mường tượng là sắp sửa lấy chiếc Trúc cầm sẵn.
Cử chỉ đó, đúng là một sự uy hiếp rõ ràng, Lưu Ảo Phu hận trong lòng, song ngoài mặt thì lờ đi, vẫy tay gọi Thị Tràng:
– Về thôi! Tạm thời chúng ta buông tha cho họ, cho họ sống thêm một vài ngày nữa cũng chẳng sao!
Hắn và Thị Tràng bước đi rồi, Kích Trúc Sanh bật cười vang.
Vừa lúc lão toan chuyển bước, Quan Sơn Nguyệt cấp tốc tiến lên, quát:
– Khoan đã!
Chàng gằn giọng tiếp luôn:
– Ta không tin chiếc Trúc của ngươi là một vật lợi hại!
Kích Trúc Sanh không dừng, không quay đầu, cứ bước tới, vừa đi vừa đáp:
– Nếu ngươi không tin, thì hãy theo ta mà thực nghiệm xem, chỉ cần ngươi đặt chân vào phần đất cấm như ta vừa nói, là ngươi sẽ được giáo huấn kỹ, và ngươi mang bài học đó xuống cửu tuyền mà nghiền ngẫm.
Quan Sơn Nguyệt bước tới liền.
Những người kia không thể yên tâm để cho chàng đi một mình như vậy, nên cùng bước theo chàng.
Bây giờ, Kích Trúc Sanh mới chịu dừng chân, rồi quay mình lại, «hừ» một tiếng:
– Đúng là các ngươi không thích sống nữa rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt ngạo nghễ:
– Phải! Ta đang muốn chết đây, chỉ sợ ngươi không có biện pháp làm cho ta mãn nguyện thôi!
Kích Trúc Sanh quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Ảo Phu và Thị Tràng đi đã xa, lập tức lấy trong tay áo ra một cuộn giấy, rồi nhanh tay bắn sang Quan Sơn Nguyệt, sau cùng vừa quay mình phóng chân chạy đi, vừa buông gọn:
– Vội gì mà tìm cái chết gấp thế, khi tuổi còn xanh?
Cuộn giấy rất nhỏ, Kích Trúc Sanh bắn nhanh, khoảng cách rất gần, cuộn giấy rơi vào lòng bàn tay của Quan Sơn Nguyệt, những người phía sau lưng chàng chẳng trông thấy kịp. Quan Sơn Nguyệt sững sờ.
Nhất Âu thấy chàng thừ người ra đó, trong khi Kích Trúc Sanh thoát đi, lão hết sức lấy làm lạ, vội bước tới, hỏi:
– Việc gì thế, Quan công tử? Sao lại để cho lão ấy thoát đi?
Quan Sơn Nguyệt khoát tay, đoạn mở cuộn giấy ra xem. Xem xong, chàng cấp tốc bỏ cuộn giấy vào miệng, nhai nát, rồi nuốt luôn vào bụng.
Hành động của chàng gây hoang mang cho tất cả mọi người.
Chàng không biểu hiện một thái độ nào cả, chỉ vẫy tay bảo mọi người lùi lại, rồi buông gọn:
– Chúng ta đi thôi! Sau nầy trở lại đối phó với bọn họ cũng chẳng muộn.
Thần thái của chàng nghiêm trọng quá, không ai dám hỏi gì, dù có hỏi, vị tất chàng chịu nói ra những gì đã ghi trên mảnh giấy đó.
Họ trở lại con đường cũ, lên lưng ngựa ra roi đi.
Quan Sơn Nguyệt cỡi Minh Đà đoạn hậu. Một nụ cười khoan khoái nở trên vành môi.
Khi mọi người ly khai sơn khu Ngũ Đài, Quan Sơn Nguyệt gọi tất cả dừng chân lại tại một cánh rừng nghĩ mệt.
Nguyệt Hoa phu nhân lấy làm lạ về thái độ của Quan Sơn Nguyệt, bà nhẫn nại mãi đến bây giờ mới buộc miệng hỏi:
– Con bày cái trò gì thế Nguyệt nhi?
Quan Sơn Nguyệt chưa vội đáp lời phu nhân, nhìn qua bọn Nhập Hoạch bốn người bảo:
– Cảm phiền bốn người của sư tỷ phân nhau ra canh phòng khu rừng này, tuyệt đối không nên để cho bất cứ ai vào đây. Phải biết tai mắt của Thiên Ma Giáo có khắp mọi nơi, mà hiện tại thì chúng ta sắp thảo luận về một vấn đề cực kỳ quan trọng, giá như sự tình bị bại lộ thì hậu quả sẽ vô cùng tai hại, không thể lường trước được.
Bọn Nhập Hoạch đang muốn nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì, nhưng chàng đã yêu cầu như vậy thì họ còn ở lại làm sao được? Họ phân nhau ra, mỗi người trấn đóng một phía.
Còn lại bao nhiêu người, Quan Sơn Nguyệt tập trung lại một chỗ rồi cáo tố với họ một sự việc mà nghe rồi ai ai cũng không tin nổi là có như vậy.
Sự việc chàng cáo tố là điều ghi chép trên mảnh giấy do Kích Trúc Sanh bắn sang cho chàng.
Những dòng chữ như thế này:
«Các vị đã lọt vào vùng hiểm địa, nếu Tạ và Lưu dùng sức mà không thủ thắng nổi thì họ còn có mưu độc hảm hại các vị. Lão phu thọ nhận sự ủy thác của Hoàng Hạc vờ đầu thuận Tạ Linh Vận để âm thầm giám thị hành động của y. Bây giờ các vị hãy rời khỏi nơi này, ít nhất cũng ngoài năm mươi dặm cách Ngũ Đài Sơn. Lão phu sẽ sai người đến với các vị.» Lý Trại Hồng tỏ vẻ hoài nghi trước hơn ai hết:
– Làm gì có việc đó?
Nhàn Du Nhất Âu trầm ngâm một chút:
– Cũng có thể có như vậy lắm, chứ nếu không thì tại sao trong số đông người Hoàng Hạc không chọn ai mà chỉ chọn lão ta thay mặt hành quyền Hội chủ?
Vã lại, suy qua thái độ của lão hôm nay ...
Lý Trại Hồng vội chận lời:
– Cái thái độ của lão ta hôm nay lại càng làm cho chúng ta thêm mất tin tưởng nơi lão, có gì lạ đâu mà phải lưu ý. Với ngón nghề đó, nếu lão có tâm thành thực hiện sự ủy thác của Hoàng Hạc, lão phải hạ sát Tạ Linh Vận chứ, sao lại giết hai người của chúng ta?
Bỗng một giọng nói từ đâu đó vang lên:
– Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt chết là đáng đời của họ lắm rồi, các vị thương tiếc làm chi? Họ là những gian tế do Tạ Linh Vận an trí bên cạnh các vị để giám thị từng hành động, báo cáo cho hắn tường tận hầu liệu cách đối phó.
Mọi người thất sắc. Ai ai cũng hãi hùng về sự tiết lộ đó mà cũng hãi hùng về sự xuất hiện của người vừa phát âm.
Bọn Nhập Hoạch canh phòng cẩn mật ở bên ngoài thì người đó làm thế nào lọt vào đây mà nghe ngóng câu chuyện?
Người đó từ trên tàng cây đáp xuống, là một lão hòa thượng mặc áo cà sa bằng bố màu xanh, râu dài quá rốn.
Người đó là Khổ Hải Từ Hàng.
Nhàn Du Nhất Âu thở phào, kêu lên:
– Lão trọc! Lúc nào ngươi cũng là một con quỷ ẩn ẩn hiện hiện, chẳng ai biết ngươi ở đâu, chẳng ai biết ngươi đến lúc nào đi lúc nào.
Khổ Hải Từ Hàng điểm nhẹ một nụ cười, nhập bọn với các người hiện diện, tham gia cuộc thảo luận liền:
– Các vị hành động vội vàng quá, bần tăng không làm sao theo kịp các vị để ngăn trở, bần tăng chỉ còn có cách thông tri với Kích Trúc Sanh, bảo lão ấy tìm phương liệu lý, ngầm tiếp trợ các vị. May mắn thay lão ta làm được việc, vì thế bần tăng không cần ra mặt nữa.
Lý Trại Hồng trố mắt:
– Sự việc hôm nay lão trọc đã mục kích trọn vẹn?
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Bần tăng theo dõi các vị đến Ngũ Đài Sơn chứng kiến mọi diễn tiến. Khi các vị sắp sửa rút lui, bần tăng nhanh chân đến khu rừng này trước, chờ các vị để giải thích những gì các vị thắc mắc.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Thế thì lão thiền sư chính là người mà Kích Trúc Sanh nói rằng sẽ đến đây?
Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:
– Không! Bất quá bần tăng được biết phần nào về tình hình, giải đáp sơ lược cho các vị không còn hoài nghi về Kích Trúc Sanh nữa vậy thôi. Còn như Tạ Linh Vận thực sự âm mưu như thế nào, thì chúng ta phải chờ nghe người do Kích Trúc Sanh phái đến đây gặp các vị tường thuật rõ ràng. Bần tăng tuy có liên lạc với Kích Trúc Sanh, song không hề trực tiếp hội diện với lão ta.
Dừng lại một chút, nhà sư tiếp luôn:
– Chúng ta phải khâm phục Hoàng Hạc Tán Nhân là bậc kỳ tài, đã thấy trước cái dã tâm của Tạ Linh Vận nên đã an bày một người bên cạnh hắn lúc Long Hoa Hội còn cường thịnh. Nhờ thế mà Kích Trúc Sanh không hề bị Tạ Linh Vận hoài nghi.
Nhất Âu «ạ» lên một tiếng:
– Thảo nào! Kích Trúc Sanh được Hoàng Hạc tiến cử vào hội rồi là bám sát Tạ Linh Vận, nửa bước không rời. Lúc đó lão phu có ý hoài nghi ...
Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:
– Thực ra, nếu ngươi biết rõ Độc Cô Minh hơn một chút thì ngươi không hoài nghi như vậy. Lão ấy trí tuệ cao thâm, nếu nhận ai là bằng hữu thì nhất định người đó phải có một giá trị độc đáo. Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận là Kích Trúc Sanh âm trầm đáng ngợi, chứ nếu không thì làm sao qua mặt được Tạ Linh Vận?
Lý Trại Hồng chen vào:
– Được rồi! Thôi bỏ qua việc đó đi, bây giờ chúng ta thảo luận tiếp về việc của Kích Trúc Sanh có liên quan đến trường hợp hiện tại.
Khổ Hải Từ Hàng cười khổ đáp:
– Muốn biết gì hơn nữa thì phải đợi người do Kích Trúc Sanh sai phái đến đây tỏ cho nghe, chứ bần tăng nói làm sao được. Bần tăng chỉ nhắc lại đoạn cố sự thôi. Năm xưa Hoàng Hạc Tán Nhân và Hương Đình Tiên Tử đã thấu đáo dã tâm của Tạ Linh Vận, cả hai tự lượng sức mình không làm sao diệt trừ hắn được, do đó phải dùng đến cái kế lâu dài hơn, cho Kích Trúc Sanh liên kết với hắn, trở thành kẻ tâm phúc của hắn, sau đó tìm cách đưa Quan Sơn Nguyệt thế huynh vào hội, cuối cùng cho Quan thế huynh học kiếm pháp Phục Ma nơi sư mẫu. Học với sư mẫu, vừa lãnh hội nhanh lại vừa thấu triệt tận cùng ảo diệu hơn với bất cứ người nào trong hội.
Lý Trại Hồng bực dọc:
– Điều đó thì chúng ta ai ai cũng hiểu cả rồi, lão trọc cần gì phải nhắc lại?
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Tiên Tử nói thế là sai. Hiểu một việc, hiểu đại khái chưa hẳn là hiểu, cần nhất là phải thấu triệt vấn đề. Kiếm pháp Phục Ma tuy có thể khắc chế được Tạ Linh Vận, chỉ là việc tạm thời. Quan thế huynh cần phải tập luyện ít nhất cũng đôi ba năm để đạt mức thành tựu thân và kiếm hợp nhất, được như vậy rồi mới phát huy toàn oai lực của kiếm pháp. Lúc định đưa Quan thế huynh vào hội, Hoàng Hạc cứ tưởng là hội sẽ được duy trì ít nhất cũng đôi ba năm, như thế Quan thế huynh thừa thời gian học tập. Khi Quan thế huynh thành tài rồi, Hoàng Hạc sẽ có cách an bày tình thế. Ngờ đâu Tạ Linh Vận quật khởi cuộc tranh chấp trước, Kích Trúc Sanh bắt buộc phải bám theo hắn luôn để tiếp tục giám thị hành động của hắn. Cũng may nhờ có Quan thế huynh xuất hiện đảm đương việc khó, chứ không thì hậu quả chẳng biết ra sao mà tưởng.
Quan Sơn Nguyệt bây giờ mới thức ngộ sự tình ngày trước:
– Lúc ấy tại hạ hết sức lấy làm lạ, chẳng biết tại sao mình đã học được kiếm pháp khắc chế, lại xuất toàn công lực mà vẫn không hạ nổi Tạ Linh Vận. Thì ra mình học nghệ chưa tinh! Rất tiếc ân sư và Ôn lão lão không cảnh cáo điều đó trước.
Khổ Hải Từ Hàng mĩm cười:
– Nói trước làm sao được? Phàm trong mọi cuộc tranh đấu, đấu thủ bằng vào dũng khí, dũng khí lại phát xuất từ tự ái, và tự ái phát sinh tự tin. Nếu cảnh cáo Quan thế huynh trước thì vô tình làm tiêu tan cả dũng khí và tự tin, hơn thế huynh còn bị chạm tự ái, do đó có thể hành động liều lĩnh gây tai hại cho nhiều người. Cho nên sư mẫu và Hoàng Hạc phải thận trọng. Cũng may thế huynh tuy chẳng thành công lớn nhưng cũng giải thoát tai nạn cho tất cả.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Khổ Hải Từ Hàng tiếp luôn:
– Rất tiếc sau đó Quan thế huynh vội ly khai Thần Nữ Phong, để rồi lai lịch bị tiết lộ, Lưu Ảo Phu sanh thù, còn Tạ Linh Vận thừa cơ hội cấu kết vi cánh. Tâm cơ của Tạ Linh Vận chẳng kém Hoàng Hạc, hắn an bày Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt bên cạnh các vị, làm hậu tuyến cho hắn.
Nhất Âu trố mắt:
– Hắn làm sao?
Khổ Hải Từ Hàng tiếp:
– Trước hết hắn tìm cách trục xuất Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt khỏi hội, tạo một lý do căm thù cho cả hai, các vị phải tin lý do đó, tin luôn hai lão ta. Tự nhiên các vị sẵn sàng đón tiếp hai lão ta với vòng tay mở rộng. Nếu chẳng có Kích Trúc Sanh, thì còn lâu lắm các vị mới khám phá ra vai trò thực sự của hai lão ấy bên cạnh các vị.
Nhất Âu nổi giận:
– Hai lão đó khả ố thật!
Khổ Hải Từ Hàng cười thảm:
– Khả ố hay khả ái thì họ đã chết rồi. Tử giả biệt luận. Điều đáng nói là Kích Trúc Sanh hành động cực kỳ chu đáo, rất đúng lúc. Chính Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt mật báo về lai lịch của Nguyệt Hoa phu nhân đến tổng đàn Thiên Ma Giáo, và cũng nhờ thế mà Kích Trúc Sanh mới phát hiện ra thân phận của cả hai.
Lý Trại Hồng kêu lên:
– Đáng sợ! Đáng sợ thật!
Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:
– Đương nhiên là đáng sợ rồi. Bởi ngày nào hai lão ấy còn sống là ngày đó các vị như ở trong lòng bàn tay Tạ Linh Vận, hắn biết rõ từng cử động một của các vị. Biết được lai lịch của Quan thế huynh, Tạ Linh Vận lập tức tìm Lưu Ảo Phu, khuyến dụ Lưu Ảo Phu theo về với hắn. Và hắn đã thành công quan trọng khi hai thanh kiếm tối lợi hại trong năm thanh đã về với Thiên Ma Giáo.
Ai ai cũng hãi hùng trước sự tiết lộ của Khổ Hải Từ Hàng. Tất cả đều trầm ngâm. Lâu lắm, Lý Trại Hồng tặc lưỡi thốt:
– Kích Trúc Sanh có thủ đoạn như vậy, sao không dùng tuyệt kỷ đó hạ sát Tạ Linh Vận? Thế có phải là giản dị chăng?
Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:
– Các vị bị lão ta lừa rồi. Xử dụng công phu đó, lão chỉ có thể sát hại Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt thôi chứ không mang nó ra mà đối phó với Tạ Linh Vận được. Nếu không vậy thì lão ta đã giết Tạ Linh Vận từ lâu rồi, đâu để chi đến ngày nay mà phải tiêu hao tâm lực như thế.
Nhất Âu lộ vẻ không tin:
– Thủ đoạn của lão, toàn thể bọn chúng ta đều mục kích và đồng thời vung vũ khí nghinh đón thế, mà vẫn không ngăn chận được phi đạn của lão Tạ Linh Vận tài ba gì đó mà có thể tự bảo toàn?
Khổ Hải Từ Hàng giải thích:
– Phi đạn của lão thực tế là một loại khí công, nó chỉ có hình mà không có thể, các vị làm sao ngăn chận một cái bóng lướt đi được?
Quan Sơn Nguyệt mơ hồ quá, vội chen vào:
– Nơi sống mũi của Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đều có một viên đạn sắt rõ ràng chứ nào phải là vật hữu hình vô thể.
Khổ Hải Từ Hàng lại cười:
– Âm hưởng trong chiếc Thiết Trúc tạo nên một áp lực bắn khí công bay đi chạm mình đối phương rồi kết tụ lại. Vạn Lý Vô Vân chết vì bất mãn, Nhất Luân Minh Nguyệt chết vì khiếp sợ, cả hai chỉ cố nhìn cái bóng lướt đi mà quên mất việc vận khí chống đỡ cho nên phải chết giản dị như vậy.
Mọi người im lặng, Khổ Hải Từ Hàng lại tiếp:
– Chí như Tạ Linh Vận đã đạt đến mức thành tựu như vậy, hắn chẳng cần vận khí chống đỡ, tự nhiên từ nơi mình hắn có phản ứng thích đáng chống đỡ rồi.
Thực ra thì chẳng phải là một phi sa, Kích Trúc Sanh biết là phi sa vô hiệu đối với Tạ Linh Vận cho nên lão không hạ thủ. Tuy nhiên Tạ Linh Vận không hiểu cái đạo lý đó nên cứ khiếp sợ như thường.
Quan Sơn Nguyệt dậm chân:
– Nếu đúng như lời thiền sư vừa nói thì Kích Trúc Sanh đang ở trong cảnh cực kỳ nguy hiểm bởi Tạ Linh Vận là tay gian hoạt nhất trần đời, chẳng khi nào hắn chịu để cho một thuộc hạ khống chế hắn như vậy. Thế nào rồi hắn cũng khám phá ra sự thực.
Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:
– Bần tăng cũng biết vậy nên có khuyến cáo Kích Trúc Sanh tuyệt đối phải dè dặt, đừng khinh thường hiện lộ công phu, trừ trường hợp bất khả kháng. Hiện tại thì đại khái chưa đến đổi đáng ngại lắm.
Quan Sơn Nguyệt không đồng ý:
– Thiền sư luận như thế chứ tại hạ thì thấy đáng ngại ngay từ bây giờ. Tạ Linh Vận sẽ thu thập hai xác chết đó, nghiện cứu kỷ vết thương, hắn sẽ phát hiện ra điều bí ẩn không khó khăn lắm. Kích Trúc Sanh dù cao cường đến đâu cũng chỉ kết tụ phi sa thành đạn chứ chưa có thể biến sắt thành kim cương, thì với bằng cớ trước mắt Tạ Linh Vận suy đoán sự thực dể dàng.
Mọi người đều cho là phải. Ai ai cũng lo sợ cho Kích Trúc Sanh.
Khổ Hải Từ Hàng hấp tấp thốt:
– Chúng ta quên mất hai xác chết, không thủ tiêu ngay lúc ly khai Ngũ Đài Sơn hay ít nhất cũng hủy diệt vết thương. Cầu trời cho Kích Trúc Sanh thức ngộ gấp điều đó!
Mọi người lo sợ cho Kích Trúc Sanh vô cùng.
Không lâu lắm, có tiếng vó ngựa từ xa xa bên ngoài rừng vọng vào, vó ngựa nện rất gấp chứng tỏ kỵ sĩ có việc khẩn cấp.
Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên, dứng dậy vừa nhanh về hướng đó vừa thốt:
– Đại khái có lẽ là người của Kích Trúc Sanh đến.
Những người khác cũng đứng lên cùng bước theo chàng. Họ đi ra song chẳng thấy bóng dáng một người nào đi vào, họ đi mãi đến vị trí của Nhập Hoạch.
Lúc đó Nhập Hoạch cầm một cái bọc nơi tay, đứng thừ người ra tại chỗ.
Trên đường dài ngoài một dặm có bóng ngựa sải mờ mờ.
Nguyệt Hoa phu nhân cất tiếng:
– Ai đã đến đây thế Nhập Hoạch?
Nhập Hoạch chưa hết bàng hoàng đáp:
– Thị Tràng!
Đến lượt tất cả mọi người đều sững sốt.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp kêu lên:
– Thị Tràng? Nàng ấy đến đây làm gì?
Nhập Hoạch tiếp:
– Nàng ta đến còn từ xa quăng cái bọc này cho tôi rồi quay ngựa đi liền. Tôi không kịp hỏi nàng một lời, làm sao biết ý tứ của nàng?
Quan Sơn Nguyệt biến sắc nhanh tay chụp lấy cái bao, trong bao còn có một cái bao khác bằng giấy dầu. Chàng hét lên:
– Thế là Kích Trúc Sanh nguy rồi!
Máu vấy loang lổ nơ chỗ cật cái bao, không cần trông thấy vật ở trong bao bọn Nguyệt Hoa phu nhân cũng biết là gì ngay.
Tuy nhiên Quan Sơn Nguyệt phải mở bao ra, làm việc đó chàng rung tay quá mạnh.
Đúng là đầu của Kích Trúc Sanh! Ngoài ra còn có một vật khác, vật đó chính là cây Trúc của Kích Trúc Sanh vấy máu bê bết.
Trong lòng ống Trúc có một mảnh bố xẻ từ tà áo của Kích Trúc Sanh, trên bố có mấy chữ viết bằng máu, đương nhiên là máu của Kích Trúc Sanh. Những hàng chữ như sau:
«Lấy một đổi hai kể như lỗ, cái trí của ta vẫn còn kém Hoàng Hạc, nhưng từ nay liên lạc giữa song phương đã đứt đoạn rồi thì giai đoạn dùng trí của chúng ta bắt đầu, bên nào cao trí là thắng cuộc. Cảnh cáo cho các vị biết, Tổng Đàn Thiên Ma Giáo kiên cố như tường đồng vách sắt, các vị không nên ngông cuồng thực nghiệm mất mạng oan uổng. Trong ba hôm nữa bổn Giáo chủ ước hội Quan Sơn Nguyệt ở một nơi, Quan Sơn Nguyệt có dám đến chăng?» Những dòng chữ đó bao hàm ý thách thức rõ ràng.
Phía sau mảnh bố có một dòng chữ nhỏ:
«Bổn Giáo chủ sẽ cùng đi với Phó Giáo chủ đến nơi ước hội, Quan Sơn Nguyệt có thể đem theo một người, nhưng quá số đó thì sẽ gặp tai nạn dọc đường.» Khổ Hải Từ Hàng đào một cái huyệt nhỏ, lấy đầu của Kích Trúc Sanh và cây Thiết Trúc bỏ vào huyệt lấp đất lại. Lão vừa khóc vừa niệm Phật hiệu.
Nhàn Du Nhất Âu và Lý Trại Hồng cũng xúc động tâm tình tuông dòng lệ thảm.
Quan Sơn Nguyệt ngưng trọng thần sắc thốt:
– Suy theo tình hình thì Tạ Linh Vận đã sớm biết thân phận của Kích Trúc Sanh, hắn để mặc cho Kích Trúc Sanh hành động rồi âm thầm theo dõi, Kích Trúc Sanh bị hắn lợi dụng mà lão chẳng hề hay biết. Chứ nếu không thì làm sao hắn phát hiện được cái hư ảo vô dụng của phi sa? Và làm gì hắm dám hạ độc thủ?
Nguyệt Hoa phu nhân lộ vẻ ưu tư:
– Con người đó đáng sợ thật! Nguyệt nhi ...
Quan Sơn Nguyệt ngẩn đầu lên:
– Mẫu thân muốn nói đến cuộc ước hội của hắn? Đương nhiên là con phải đến đó.
Khổ Hải Từ Hàng quệt tay áo qua đôi mắt ướt nhòa lệ thảm, thốt:
– Luận về đấu trí thì chúng ta không thắng nổi Tạ Linh Vận đâu. Quan thế huynh phải hết sức thận trọng bởi hiện tại thì thế huynh là cây trụ kình thiên của bọn này, trụ ngã rồi thì tất cả phải ngã theo.
Quan Sơn Nguyệt cương quyết:
– Chính vì thế mà tại hạ nhận thấy cần phải đến nơi ước hội với Tạ Linh Vận đó, thiền sư. Thực lực của chúng ta, thực mà nói, đi từ ưu thế đến khó khăn dần dần bị dồn vào nguy cảnh, tại hạ phải làm một cái gì để vùng dậy, trước hết giữ sự quân bình giữa song phương rồi sau đó sẽ thực hiện những dự định khác.
Lý Trại Hồng cau mày:
– Hắn không chỉ định địa phương nào cả, thì công tử biết nơi nào mà đến?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Dù vậy tại hạ cũng có thể suy đoán ra. Hắn có ý trắc nghiệm cơ trí của tại hạ đó, khi nào tại hạ lại chịu kém. Tại hạ phải chứng minh là chẳng bao giờ kém hắn bất cứ về phương diện nào.
Lý Trại Hồng hỏi:
– Công tử đoán là ở tại địa phương nào? Tất cả có nên cùng đến đó chăng?
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Điều đó thì tuyệt đối không nên làm. Hắn chỉ chấp thuận cho tại hạ đem theo một người thôi. Tại hạ tưởng là không nên di động, bởi di động thì chúng ta thế nào cũng phải bị hắn âm mưu hãm hại, ngoài ra hắn còn khinh miệt chúng ta là hèn khiếp.
Chàng day qua Nguyệt Hoa phu nhân gọi:
– Mẫu thân!
Nguyệt Hoa phu nhân tưởng đâu chàng sẽ chọn bà cùng đi với chàng, nhưng chàng tiếp luôn:
– Mẫu thân cho con mượn thanh kiếm Hoàng Diệp.
Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:
– Con không muốn cho mẹ cùng đi?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không mẹ ạ! Con chỉ cần mẹ cho mượn thanh kiếm thôi. Còn như ngươi sẽ cùng đi với con thì hiện tại con xin giấu tên, chẳng phải con nghi ngờ gì người của chúng ta mà chẳng dám tuyên bố sớm, con chỉ dè dặt đối với bọn Tạ Linh Vận thôi, bởi rất có thể chúng âm mưu thế nào đó nếu sớm biết người nào sẽ cùng đi với con.
Dừng lại một chút chàng tiếp:
– Bây giờ chúng ta nghỉ ngơi. Sáng mai trừ người sẽ cùng đi với con, mẹ và các vị khác lập tức trở về Quảng Hàn Cung tái tạo lại những gì Lưu Ảo Phu đã hủy hoại, mình dùng nơi đó làm căn cứ chống lại bọn Tạ Linh Vận đồng thời bảo trì những kỷ niệm của cha con lúc sinh tiền.
Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ lại một chút đoạn trao kiếm cho chàng.
Quan Sơn Nguyệt tiếp nhận thanh kiếm rồi thở dài, tiếp luôn:
– Còn một điều này nữa mẹ. Con tưởng cần phải nói rõ với mẹ là gặp Lưu Ảo Phu lần này con sẽ chẳng nương tay với hắn như bao nhiêu lần trước. Bởi đây chẳng còn là việc riêng tư trong gia đình của chúng ta nữa mà là công cuộc diệt trừ Tạ Linh Vận, ngày nay hắn đã là người của Thiên Ma Giáo thì chúng ta chẳng thể dung tha hắn được nữa. Hắn còn là bọn hung ác kia vẫn còn, dù Tạ Linh Vận có chết đi. Với hắn, Thiên Ma Giáo vẫn còn tồn tại và chúng vẫn còn nhiễu hại dân lành như thường. Hắn đã không còn là đứa con cưng của mẹ nữa. Hắn đã hoàn toàn đối lập với mẹ con ta chẳng khác nào một cừu địch, chúng ta không diệt trừ hắn thì hắn vẫn quyết tâm hảm hại chúng ta như thường.
Nguyệt Hoa phu nhân sa sầm gương mặt, niềm khổ sở hiện lên rõ rệt.
Chừng như lệ thảm trào dâng, bà thốt qua nghẹn ngào:
– Con cứ niệm ý mà hành động. Từ lâu hắn không còn là con của mẹ nữa!
Lý Trại Hồng hỏi:
– Quan công tử định lúc nào mới khởi hành?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ mấy phút:
– Đêm nay, tại hạ sẽ âm thầm ước hội người cùng đi, cả hai âm thầm ly khai các vị. Do đó, tại hạ có lời cáo biệt mọi người ngay bây giờ, để lúc đi khỏi phải thất lễ mà cũng không làm kinh động các vị.
Nhất Âu chen vào:
– Công tử chọn ai? Cứ nói ra đi, có chi đâu mà ngại? Bọn Tạ Linh Vận không thế nào hiểu được đâu. Còn bọn lão phu thì chắc chắn là tôn trọng sự quyết định của công tử, không ai dám dị nghị.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tiền bối thứ cho, tại hạ xin giấu kín. Có điều người mà tại hạ chọn, tại hạ không hài danh nhưng người đó vẫn hiểu như thường. Tại hạ tin rằng khi tại hạ đăng trình thì người đó sẽ đón tại hạ ở một nơi nào đó trên đường.
Chàng làm ra vẽ thần bí quá, thần sắc của chàng hơi nghiêm nên chẳng ai hỏi dồn.
Lúc đó hoàng hôn đã xuống, bóng đêm dần dần bao trùm phủ lên vạn vật, mọi người đều ngồi nghỉ một lúc.
Bọn Nhập Hoạch, Thị Thơ cũng bỏ chỗ nấp trở về nhóm tụ với đồng bọn.
Tuy nhiên chẳng ai chợp mắt được. Ai ai cũng lo ngại cho Quan Sơn Nguyệt trong chuyến đi này chàng sẽ gặp dữ nhiều lành ít.
Chỉ có mỗi một Quan Sơn Nguyệt là tựa mình vào thân cây ngủ say. Niềm tự tin tạo cho chàng sự ổn định, tâm thần lắng dịu thì tự nhiên chàng ngủ dễ.
Huống chi chàng cần lấy sức để đương đầu với mọi bất trắc trong những ngày sắp đến.
Nguyệt Hoa phu nhân suy tư viễn vông một lúc rồi cũng nhắm mắt lại dưỡng thần. Nhưng không lâu lắm, có tiếng động quanh mình làm bà bừng tỉnh nhận ra Quan Sơn Nguyệt cùng con Minh Đà đã mất dạng, đến cả những người khác cũng mất dạng luôn, trừ năm thị giả còn ở lại đó với bà. Bà hấp tấp hỏi Nhập Hoạch:
– Công tử đâu rồi?
Nhập Hoạch mỉm cười:
– Đi rồi.
Phu nhân lại hỏi:
– Các người kia?
Nhập Hoạch đáp:
– Họ đi trước công tử. Họ suy đoán hướng công tử sẽ đi, họ đi trước để đón công tử dọc đường, hy vọng được công tử chọn làm bạn đồng hành trong chuyến đi này.
Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ một chút:
– Thế thì chúng ta ở đây chờ, trừ cái người được công tử chọn, còn thì hẳn là phải trở lại đây.
Bà hỏi:
– Tại sao các người không làm thử như họ?
Nhập Hoạch thở dài:
– Tỳ tử đoán được hướng của công tử sắp đi, song nghĩ mình bất tài, dù có đi theo công tử vị tất sẽ giúp được gì hữu ít cho công tử? Như thế thì thử mà làm gì? Thà ở đây hầu hạ phu nhân vẫn hơn.
Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:
– Ngươi biết cái hướng đi của công tử?
Nhập Hoạch mỉm cười, song cắn môi không đáp.
Phu nhân hấp tấp hỏi:
– Hướng nào? Địa phương nào?
Nhập Hoạch lại cười:
– Địa phương đó phu nhân và Lý Tiên Tử có đi ngang qua.
Nguyệt Hoa phu nhân suýt nhảy dựng lên:
– Thiên Xà Cốc? Có thể là nơi đó sao?
Nhập Hoạch nghiêm sắc mặt:
– Chẳng những có thể mà chắc chắn là như vậy đó. Phu nhân và Lý Tiên Tử đã thuật rõ hình thế Thiên Xà Cốc cho mọi người nghe. Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đã thông tri với Tạ Linh Vận rồi, hắn ta biết được trên đời này có một dị nhân như Xà Thần thì khi nào hắn bỏ qua.
Nguyệt Hoa phu nhân trầm ngâm một lúc:
– Hắn không bỏ qua thì hắn sẽ làm gì chứ? Võ công của Xà Thần cao thâm không lường nổi, hắn và Lưu Ảo Phu mong gì chiếm ưu thế với Xà Thần mà hòng nuôi ảo vọng?
Nhập Hoạch lắc đầu:
– Nào phải họ tìm đến đó tranh chấp với Xà Thần đâu? Mục đích của họ là dẩn dụ Xà Thần vào Thiên Ma Giáo, với sự tiếp trợ của Xà Thần họ sẽ an như bàn thạch, chẳng còn sợ một ai trên cõi đời này.
Nguyệt Hoa phu nhân khoát tay:
– Ngươi khéo lo sợ viễn vông. Ta tin rằng chẳng khi nào Xà Thần nhẹ dạ để cho họ lợi dụng.
Nhập Hoạch cãi:
– Phu nhân phải biết Tạ Linh Vận là con người cực kỳ giảo hoạt, nếu có chủ ý gì nhất định là hắn thực hiện cái chủ ý đó cho bằng được, hắn có trăm ngàn phương cách giúp hắn thành công. Tỳ tử vọng đoán như vậy. Phu nhân cứ chấp nhận sự vọng đoán đó, sai thì ít trúng thì nhiều, dù sai cũng chẳng hại gì, bằng như trúng thì chúng ta ngay từ bây giờ ít ra cũng đề cao cảnh giác.
Phu nhân thốt gấp:
– Thế thì chúng ta hoãn việc trở về Quảng Hàn Cung để cùng đến Thiên Xà Cốc. Ta sợ công tử đơn thân độc lực không làm sao ứng phó nổi với số người của Tạ Linh Vận, bởi biết đâu hắn chẳng thất tín mà đem theo viện thủ ngoài cái số hắn ước định.
Vừa lúc đó nhiều bóng người từ xa lao vút đến. Những người đó là Lý Trại Hồng, Nhàn Du Nhất Âu và Khổ Hải Từ Hàng, chỉ có Xà Cơ Giang Phàm vắng mặt. Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ thốt:
– Phu nhân cứ yên trí. Quan công tử chẳng thể thất bại với bọn ma đầu đâu.
Nguyệt Hoa phu nhân đảo mắt nhìn những người mới về bất giác cau mày, kêu lên:
– Giang cô nương ...
Lý Trại Hồng gật đầu tiếp:
– Mỗi người chúng tôi đoán định một phương hướng, đi trước chờ Quan công tử, ngờ đâu lại gặp Giang cô nương cùng ngồi lưng Minh Đà với Quan công tử, cho nên bọn tôi thông báo với nhau đồng trở lại đây.
Nguyệt Hoa phu nhân lẩm bẩm:
– Nàng đi theo Nguyệt Nhi để làm gì? Nàng có khác nào một đứa trẻ con chưa từng trải sự đời? Nàng giúp ích gì được cho Nguyệt Nhi?
Lý Trại Hồng mỉm cười:
– Giả như nơi ước hội là Thiên Xà Cốc thì trong tất cả chúng ta đây chẳng ai bằng Giang cô nương. Nàng vừa có võ công cao vừa am tường địa thế tại Thiên Xà Cốc, chính điều đó mới đáng kể phu nhân ạ. Còn như sự đời thì Quan công tử đâu cần gì có sự chỉ giáo của nàng? Hẳn là Quan công tử cần một kẻ hướng đạo nên chọn nàng đó.
Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ mông lung.
Khổ Hải Từ Hàng cất tiếng:
– Trong chuyến đi này nhất định là Quan công tử đoạt thắng lợi, chúng ta không lo ngại gì cả. Phu nhân hãy y theo lời công tử chúc phó, trở lại Đại Ba Sơn trùng tu Quảng Hàn Cung chờ tiếp nhận tin lành của công tử. Nếu Thiên Ma Giáo ỷ vào số người đông toan lấn hiếp thì bần tăng sẽ liên lạc với bằng hữu hiện tản mác bốn phương, triệu tập họ tạo thành một lực lượng, sau đó đường đường chánh chánh đối địch với bọn Tạ Linh Vận. Phu nhân thừa biết là bao giờ chánh cũng khắc tà.
Lặng lẽ ly khai đồng bọn, vượt qua đoạn đường, Quan Sơn Nguyệt bỗng nghe một tiếng động khẽ phía sau lưng, mường tượng một cành cây khô nhỏ rơi nhẹ trên lưng Minh Đà.
Bất giác, chàng giật mình quay đầu nhìn lại, thấy Giang Phàm với một nụ cười tươi điểm trên gương mặt đẹp. Chàng thở phào buông gọn:
– Biết lắm! Thế nào rồi cô nương cũng theo tại hạ!
Giang Phàm hỏi:
– Công tử đợi tôi?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Phải! Tại hạ thấy cô nương cùng nhiều người nữa, động thân trước tại hạ.
Tại hạ chỉ sợ họ đoán được phương hướng, rồi đón đường ...
Giang Phàm chận hỏi:
– Tại sao công tử sợ?
Quan Sơn Nguyệt giải thích:
– Nếu mọi người cùng đoán đúng, cùng đón tại hạ thì thật là khó xử! Trong khi tại hạ muốn chọn cô nương, mà người khác đòi đi theo thì làm sao tại hạ cự tuyệt?
Giang Phàm mỉm cười:
– Thực ra, ai ai cũng đoán được phương hướng đi của công tử, song mỗi người lại rẽ về một phía, cốt đánh lạc hướng nhau, cuối cùng rồi họ cũng trở lại con đường nầy. Họ trở lại rồi, phát hiện ra có tôi theo phía sau, tất cả cùng trở lại.
Dừng lại một chút, nàng tiếp:
– Họ trở lại, vì họ nghĩ là vũ công của họ chẳng sánh với tôi được, hơn nữa, họ cho rằng tôi chất phác, đầu óc tầm thường, không đủ tư cách làm một viện thủ bên cạnh công tử, sau cùng họ thấy tôi cũng đoán được hướng đi của công tử, điều đó chứng minh tôi không quá ngu xuẩn như họ tưởng, cho nên họ yên tâm, nhường hẳn cho tôi cùng theo công tử.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Kỳ quái! Tại sao tất cả đều có ý nghĩ là tại hạ sẽ đến Thiên Xà Cốc?
Thực ra, chính tại hạ cũng chẳng dám quả quyết, Tạ Linh Vận ước hội nơi đó!
Giang Phàm mỉm cười:
– Ngoài Xà Thần ra, còn nhân vật nào trên đời nầy làm cho Tạ Linh Vận động tâm? Giả như công tử cho rằng chúng ta suy đoán sai, thì chẳng cần phải đi đâu cả, bởi dù cho chúng đi tìm ai ngoài Xà Thần, bọn ta cũng chẳng có gì phải sợ cả.
Quan Sơn Nguyệt cười theo:
– Cô nương nói đúng! Tại hạ đồng ý với cô nương về điểm đó.
Giang Phàm bỗng nghiêm sắc mặt:
– Công tử chớ vội đắc ý, nếu đúng là chúng đến Thiên Xà Cốc, thì công tử phải đề phòng trường hợp Xà Thần bị chúng thuyết phục. Chống đối với ai thì chúng ta còn có hy vọng thủ thắng, chứ đương đầu với Xà Thần thì phần bại về chúng ta là cái chắc!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Chẳng lẽ Xà Thần có bản lĩnh cực kỳ ghê gớm?
Giang Phàm cười nhẹ:
– Ghê gớm bao nhiêu, điều đó chúng ta không cần biết, có điều chúng ta nên ghi nhớ để luôn luôn đề cao cảnh giác, là chúng ta kém lão rất xa!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thốt:
– Thuyết phục người, có ba cách. Thứ nhất, dùng oai. Thứ hai, dùng lợi.
Cuối cùng là dùng đức. Oai không bức hiếp nổi Xà Thần, lợi không dụ lão động tâm được, mà đức thì làm gì Tạ Linh Vận có thừa chứ? Ba cách đó, đem ra mà dùng với Xà Thần, cầm như vô ích!
Giang Phàm mỉm cười:
– Công tử quên một điều, là Xà Thần chẳng phải là một con người hoàn toàn, cái hình hài của lão ta đã nói lên điều đó, hẳn công tử cũng thấy rõ, thì còn lâu lắm, lão mới là một thánh nhân. Không là người hoàn toàn, lão vẫn có khuyết điểm, vẫn có dục vọng, nếu biết đúng thị hiếu của lão ta ...
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:
– Lão ta có thị hiếu như thế nào?
Giang Phàm lại cười:
– Sao công tử lại hỏi tôi?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Cô nương từng sống chung với Xà Thần tại Thiên Xà Cốc trong nhiều năm, hẳn phải biết rõ lão ta ...
Giang Phàm suy tư một chút, rồi nói:
– Thật khó nói quá! Xà Thần chẳng biểu hiện tánh tình gì rõ rệt, bất quá lão ta từng tỏ ra là căm hận nam nhân, thích nữ nhân, nhưng cái thích đó lại bị hạn chế nhiều, bởi bẩm chất của lão ta không đầy đủ như người bình thường, nên lão không làm sao tiếp cận nữ nhân được. Tôi đang tìm hiểu tại sao bọn Tạ Linh Vận tìm đến đó, và sẽ áp dụng phương pháp gì để thuyết phục lão!
Quan Sơn Nguyệt cũng không tài gì hiểu được cách thức mà bọn Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu sẽ đem dùng với Xà Thần. Chàng cho rằng, cả hai không hy vọng lắm trong việc thu phục Xà Thần nên không vội gì phải kiêm trình, cứ cho Minh Đà từ từ tiến tới.
Chàng thầm tính, từ Ngũ Đài Sơn đến Thiên Xà Cốc, dù đi rất chậm, trong hai hôm cũng đến nơi. Nếu Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu đi ngay từ cái lúc giết Kích Trúc Sanh, sai Thị Tràng mang thơ ước hội đến chàng, thì cả hai đến Thiên Xà Cốc sớm được một ngày. Trong thời gian một ngày đó, cả hai sẽ làm được gì?
Qua khẩu khí của Tạ Linh Vận trong mảnh giấy do Thị Tràng mang đến, Quan Sơn Nguyệt nhận thấy hắn tự tin cực độ. Hắn bằng vào đâu mà dám tin tưởng là sẽ thành công?
Giang Phàm thấy chàng ưu tư mãi, liền an ủi:
– Không nên quá lo, công tử ạ! Bởi chắc gì Tạ Linh Vận sẽ đến Thiên Xà Cốc?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Tại hạ hy vọng đoán sai, song khổ thay, tại hạ có ngàn vạn lý do để tin tưởng rằng Tạ Linh Vận đến nơi đó! Nếu hắn ước hội một nơi khác, hoặc tìm một người nào, ngoài Xà Thần, thì chẳng bao giờ hắn làm ra vẻ bí mật, hắn đã chỉ rõ địa phương đó cho tại hạ biết rồi.
Giang Phàm trấn an chàng:
– Dù đúng là Thiên Xà Cốc đi nữa, công tử bất tất phải quá lo lắng. Biết đâu đến đó rồi, chúng chẳng bị Xà Thần giết chết?
Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:
– Nếu được vậy thì là một đại phúc hạnh cho chúng ta!
Giang Phàm nói:
– Nói cho cùng mà nghe, giả như chúng có phương pháp thuyết phục Xà Thần, thì còn có Linh Cô đó chi? Vị tiểu cô nương đó tuy còn ít tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn khéo phi thường. Nó sẽ tìm mọi cách ngăn chận Xà Thần hiệp tác với bọn Tạ Linh Vận.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, nhận ra tình thế chưa đến đổi quá nghiêm trọng, nhất là câu nói vừa rồi của Giang Phàm mang lại cho chàng một hy vọng lớn lao. Chàng thấy an tâm ngay.
Linh Cô rất thông minh, nó lại là ái đồ của Lâm Hương Đình, trung thành với sư phó, tự nhiên nó cũng không đợi trời chung với Tạ Linh Vận, có mặt nó tại Thiên Xà Cốc, thì Tạ Linh Vận khó mà thành công trong việc mua chuộc Xà Thần.
Y có trăm ngàn thủ đoạn, cũng không làm sao thi thố được.
Từ bi quan, Quan Sơn Nguyệt lạc quan liền, nhưng niềm lạc quan hiện ra không lâu, rồi chàng bi quan trở lại như cũ. Bởi, Linh Cô dù thông minh, Tạ Linh Vận vẫn là kẻ gian hoạt, đã biết là có Linh Cô tại Thiên Xà Cốc, mà hắn vẫn còn quyết đến đó, hẳn hắn phải có một chủ trương. Cái chủ trương đó bao gồm một biện pháp loại trừ Linh Cô nữa. Thế là chẳng những nguy cho chàng, mà còn nguy cho Linh Cô nữa.
Vì quá bi quan, chàng cứ trầm trầm gương mặt.
Giang Phàm mỉm cười thốt:
– Tốt hơn hết, là chúng ta phải đến gấp, Minh Đà có cước lực phi thường, hẳn là thừa sức đưa chúng ta đến Thiên Xà Cốc trước bọn Tạ Linh Vận. Chúng ta đến trước thì bọn Tạ Linh Vận khó mà hội diện được với Xà Thần.
Quan Sơn Nguyệt nhướng cao đôi mày, mắt sáng lên, đáp với niềm hứng khởi:
– Phải đó, Giang cô nương! Đề nghị của cô nương rất hợp lý. Chúng ta không nên để mất thời gian vô ích.
Chàng giục Minh Đà gia tăng tốc lực.
Minh Đà quả thật là con thần vật, chở hai người với chiếc Độc Cước Kim Thần, nặng ngàn cân, vẫn chạy nhanh như thường.
Đi được nửa ngày đường, Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm cảm thấy đói.
Người đông, Minh Đà không chạy nhanh được, gia dĩ nó có hình vóc to lớn, sắc lông trắng như tuyết, trên lưng nó lại có đôi thiếu niên nam nữ anh tuấn diễm kiều, người người không khỏi động tính hiếu kỳ quy tụ càng đông hơn, để nhìn bọn họ.
Đường như tắc nghẽn, đi bộ còn khó khăn, nói chi cỡi thú?
Có kẻ bạo miệng hỏi mua con Minh Đà, vì kẻ ấy tưởng là Quan Sơn Nguyệt mang con vật đến thị tứ để bán.
Quan Sơn Nguyệt dùng lời từ tốn, đối đáp qua loa với mọi người, đồng thời cố điều động con Minh Đà chen qua nhóm người hiếu kỳ đó, tiến tới từng bước một.
Bọn người thích con Minh Đà, cứ bám sát phía sau, lải nhải mãi.
Quan Sơn Nguyệt bực dọc vô cùng, song chẳng lẻ dụng võ với những người không có tội gì ngoài cái hiếu kỳ trơ trẽn?
Bên đường, có một ngôi quán, để tránh thiên hạ càng phút càng gây phiền phức, chàng cùng Giang Phàm xuống lưng Minh Đà, cột con thú lại nơi cửa, rồi cả hai vào quán.
Thời gian vào ngọ, họ cũng đã đói, nên cả hai định ăn uống qua loa rồi sẽ tiếp tục hành trình. Vừa ăn, Giang Phàm vừa hằn học:
– Mấy người đó lạ quá, người ta đã bảo là không bán, mà lại cứ theo nài nỉ mãi, thật là bực vô cùng. Tôi suýt động thủ, sửa trị họ một phen, cho họ chừa bỏ cái tánh quấy nhiễu khách qua đường.
Quan Sơn Nguyệt cười khổ:
– Lỗi tại chúng ta, cô nương ạ! Nơi đây mỗi tháng đều có cuộc tụ họp như vậy một lần, người quanh vùng đều mang các sản phẩm thực vật đến bán, mua.
Có cả những nhà chăn nuôi cũng đưa thú đến bán. Cho nên, họ tưởng là chúng ta cũng mang lạc đà đến đây bán như họ. Họ dám nêu giá mua rất cao là vì biết rõ giá trị của con vật. Cô nương thấy không, họ dám trả đến năm sáu trăm lượng bạc, với số bạc đó, họ có thể mua mấy mẫu đất, canh tác thu hoa lợi đủ sống một đời!
Giang Phàm «hừ» một tiếng:
– Họ mua nó làm gì chứ? Chẳng lẽ họ bắt nó kéo cày như trâu? Chẳng lẽ họ dùng nó để kéo xe thay ngựa?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Biết đâu người ta có chỗ dùng nó, ngoài cái việc kéo cày, kéo xe! Trong thiên hạ, thiếu chi ngựa quý, song đâu phải mỗi người đều có duyên may gặp gỡ như nhau? Cho nên, gặp được một con thú quý rồi, họ không thể bỏ qua, họ tìm mọi cách, chiếm hữu cho kỳ được, bất luận là hợp pháp hay không hợp pháp.
Chả trách họ lẽo đẽo theo chúng ta, nài mãi con Minh Đà. Cô nương biết không, ân sư tại hạ trông thấy con Minh Đà trong đoàn du mục, người thích ngay, và không tiếc mười hạt minh châu đánh đổi lấy nó đấy. Đừng tưởng bất cứ lạc đà nào cũng vượt sa mạc ngang nhau. Lạc đà là con vật đành là có đặc điểm vượt sa mạc, nhưng con Minh Đà của tại hạ có nhiều đặc điểm hơn các con lạc đà khác, không kể thể sắc và vóc của nó phi thường. Bọn này trầm trồ Minh Đà hẳn cũng là sành cái khoa xem thú đấy ...
Vừa lúc đó, một hán tử trung niên từ bên ngoài bước vào quán. Hắn vận y phục y sư du phương, hắn đến thẳng trước chiếc bàn của Quan Sơn Nguyệt, vòng tay cung kính hỏi:
– Các vị là chủ nhân của con Minh Đà?
Giang Phàm đinh ninh là hán tử muốn mua con vật, nên lạnh lùng đáp:
– Phải ngươi định đưa ra cái giá nào đó chăng?
Hán tử mỉm cười:
– Con vật có cái giá trị rất cao, tại hạ mua sao nổi mà dám nói đến việc mua bán?
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Huynh đài có điều chi chỉ giáo chắc?
Hán tử cười:
– Tại hạ nhờ trời, biết qua nghề mọn luân lạc bốn phương, dùng nghề mọn kiếm cái ăn cái uống hàng ngày ...
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Con Minh Đà của tại hạ khỏe mạnh như thường, chỉ sợ tại hạ không cần phải kêu gọi đến sở năng của huynh đài.
Hán tử cười:
– Minh Đà là thần vật, giá trị ngàn vàng, tại hạ hy vọng các vị đừng tiếc một vài lượng bạc, mà thành ra phải hối hận sau này. Cứ như tại hạ quan sát, thì hiện tại nó đã nhiễm một cái tật ...
Quan Sơn Nguyệt không tin, chận lại:
– Làm gì có việc đó, huynh đài!
Chàng không thể nào tin được. Minh Đà, là con vật thông linh, chẳng khi nào nó nhiễm bịnh thông thường, giả như nó có bịnh, thì nó cũng tự đi tìm thảo dược mà chữa trị rồi, hoặc giả, chàng cũng thấy được một hiện tượng nào đó của chứng bịnh nơi con vật chứ?
Hán tử cười nhẹ:
– Nếu không tin, tôn giá cứ bước ra ngoài mà xem lại, chứng bịnh của nó đã chuyển sang giai đoạn nghiêm trọng rồi đó. Tối đa, nó chỉ còn có thể sống vài ba hôm nữa thôi ...
Quan Sơn Nguyệt dù không tin cũng phải kinh hãi, hấp tấp bước ra ngoài, trông thấy con Minh Đà bình yên đứng tại cửa, chàng thở phào thốt:
– Nó có sao đâu!
Hán tử đi theo chàng, đáp:
– Trên mình nó, có dấu hiệu nhiễm độc rồi, hiện tại thì bất quá chỉ là một điểm nhỏ, sau vài hôm, độc chất sẽ phát tác ...
Quan Sơn Nguyệt bất mãn, gạt ngang:
– Nói nhảm! Làm gì có dấu hiệu nhiễm độc!
Tuy nói thế, chàng lại lo. Đồng thời đôi mắt của con Minh Đà lờ đờ đi.
Chàng hấp tấp hỏi:
– Lão bằng hữu có sao không?
Minh Đà như hiểu tiếng người, chớp chớp mắt tỏ vẻ đau đớn lắm.
Hán tử đứng một bên, thốt:
– Tôn giá nhìn mũi con vật xem, hai lỗ mũi của nó hẳn là phải khô lắm!
Không cần nhìn, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận ra như vậy, bởi thường thường, lỗ mũi của Minh Đà ướt át, hiện tại thì chẳng có một điểm lấm tấm ướt nào cả. Lỗ mũi khô, là trong cơ thể của nó, nhiệt độ lên cao.
Chàng khẩn cấp ra mặt, tự thốt:
– Sao lạ thế? Có khi nào nó sanh bịnh đâu?
Hán tử cười nhẹ:
– Minh Đà ngày đi ngàn dặm, cầm như một con thuyền vững chắc giữa sa mạc mênh mông, mà thuyền thì phải vượt sông, lướt biển, chỉ có sa mạc mới là hoàn cảnh thích hợp với nó thôi. Mang nó vào Trung Nguyên, có khác nào tôn giá đẩy một con thuyền lên cạn, bỏ khô, tự nhiên có lúc thuyền phải nứt nẻ, rồi từ từ tự hoại? Lỗi tại tôn giá, chứ nào phải tại nó hay tại ai?
Quan Sơn Nguyệt không đồng ý:
– Nó ở Trung Nguyên từ lâu lắm rồi, chẳng hề sanh bịnh, sao bây giờ lại thế nầy?
Hán tử lại cười:
– Dù nó là con vật quý báu, chung quy nó cũng thuộc loài vật, nó sánh sao được với người mà có tánh đồng hóa nhanh chóng và dễ dàng với thủy thổ của vùng khác lạ? Chính cái khí hậu bất hợp gây nên tình trạng đó! Sở dĩ bịnh chưa phát tác trong thời gian qua, là nhờ nó có sức chịu đựng phi thường, nhưng bịnh vẫn ẩn nhục trong mình nó từ ngày lạ xứ, bịnh chực chờ dịp phát sanh. Nay thì cái dịp đã đến cho bịnh rồi. Hẳn tôn giá cũng hiểu đạo lý như vậy.
Hắn nói quá đúng, Quan Sơn Nguyệt bắt buộc phải tin. Chàng gọi gấp:
– Tiên sanh có cách cứu nó chứ?
Hán tử đáp:
– Cái mạng của nó chưa dứt, nên xui khiến tại hạ đến tận địa phương nầy, gặp nó trong tình trạng đó. Bất quá, muốn cứu nó, phải cứu gấp, nếu để chậm trễ thì dù là thánh cũng chẳng làm sao chữa trị nổi!
Quan Sơn Nguyệt vội vòng tay:
– Vậy tại hạ tha thiết yêu cầu tiên sanh cứu mạng nó, dù tốn hao bao nhiêu vàng bạc, tại hạ chẳng nề hà!
Hán tử đưa tay xoe xoe mấy lọn râu dưới cằm, cười hì hì, tiếp:
– Bình sanh tại hạ nhờ cái nghề chữa trị bịnh loài vật mà có cái ăn cái mặc, tự nhiên gặp dịp này, thì ...
Quan Sơn Nguyệt biết là đối phương dàn cảnh bằng vài câu mở đầu để đòi hỏi một giá cao, song chàng cần gì điều đó, giả như hắn cứu con vật khỏi cơn nguy, dù chàng có dốc cạn túi, cũng chẳng sao. Chàng thốt nhanh:
– Lão tiên sanh cứ nêu lên một con số, tại hạ nhất định không từ chốt, hoặc bớt một bớt hai!
Hán tử vụt cười ha hả:
– Tôn giá đã nói thế, thì cần gì phải thảo luận hơn nữa? Tại hạ xin bắt đầu chữa trị cho con vật. Có điều, ở đây ồn ào hỗn tạp quá ...
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Thế tiên sanh muốn đến địa phương nào?
Hán tử đưa tay chỉ:
– Phía trước kia, có một con sông nhỏ, bên bờ sông có một khu rừng nhỏ, nơi đó vừa thanh lịch, vừa mát mẻ, chúng ta hãy đến đó.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu, mở dây cột, dẫn Minh Đà đi liền. Chàng để ý, thấy Minh Đà bước đi có vẻ khó khăn lắm, niềm thương cảm dâng lên, tràn ngập tâm tư.
Giang Phàm lập tức theo sau.
Nhiều kẻ hiếu kỳ còn bám sát phía sau.
Giang Phàm bực tức vô cùng, xô đẩy những kẻ ở gần nhất trở lại, đồng thời luôn miệng hét:
– Dang ra! Trở lại đi! Có cái gì đâu mà cứ theo xem mãi như vậy chứ?
Nàng có cần gì dụng lực quá mạnh, bất quá nàng chỉ phát xuất một thành công lực thôi, nhưng với một thành của nàng, bọn phàm phu tục tử đó chịu làm sao nổi?
Người gần ngã, đẩy người kế ngã, bọn ngoài xa cũng ngã theo luôn, tất cả ngã dồn đống. Bây giờ, họ mới biết là nàng lợi hại, chẳng còn ai dám theo nữa.
Thực ra, Quan Sơn Nguyệt không muốn cho nàng sanh sự, sợ nàng quá mạnh tay, gây ra án mạng, song lúc đó chàng quá bận tâm vì con Minh Đà, nên cứ để mặc nàng làm sao thì làm. Cũng may, không có điều chi quan trọng xảy ra.
Khu rừng bên bờ sông nhỏ cách chỗ thị tứ độ nửa dặm đường, đến nơi đó rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn sợ bọn hiếu kỳ gây phiền phức như trước nữa.
Và Giang Phàm cũng chẳng nhọc công xua đuổi ai cả.
Nói là con sông nhỏ, thực ra thì chỉ là một con suối, cạnh suối là khu rừng táo, cành trụi lá, trông xơ xác tiêu điều vô cùng.
Trước hết, hán tử bảo Quan Sơn Nguyệt lấy những vật trên lưng lạc đà xuống, sau đó, chàng bảo lạc đà nằm im.
Rồi hắn lấy chiếc rương nhỏ đeo bên mình, mở nắp ra, chọn một chiếc bình đựng thuốc bột, đổ một phần vào chén nước, hòa cho ta, đoạn rót vào miệng lạc đà. Số thuốc còn lại, hắn bỏ vào một cái bát lớn chứa đầy nước, hòa thuốc tan ra, rồi lấy một đầu cành non có mấy lá, nhúng vào nước thuốc, rảy lên khắp mình con vật.
Quan Sơn Nguyệt đứng yên, xem hắn làm. Khi hắn rảy nước thuốc gần cạn bát, chàng cúi mình xuống nhìn vào đôi mắt của Minh Đà, đôi mắt đó mất hẳn cái vẻ lờ đờ, tinh thần con vật đã được khôi phục lại phần nào.
Xong công việc rồi, hán tử thở phào thốt:
– Bây giờ, chỉ còn để cho nó ngơi nghỉ một lúc, là chúng ta không còn lo ngại nữa.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Nó phải nghỉ như vậy, độ bao lâu?
Hán tử chớp mắt mấy lượt:
– Cứ theo y lý, thì Minh Đà phải nghỉ độ ba hôm, nhưng tại hạ thấy các vị có vẻ khẩn cấp quá, chừng như đang xúc tiến một việc gì quan trọng trong thời gian ngắn phải hoàn thành, thì sau một ngày, các vị có thể tiếp tục hành trình.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Đi gấp như vậy, chứng bịnh của nó có tái phát chăng?
Hán tử bất mãn vì câu hỏi đó, trầm gương mặt đáp:
– Từ bao lâu rồi, những con vật nào qua tay tại hạ chữa trị, đều mạnh luôn.
Chứng cũ không hề tái phát.
Quan Sơn Nguyệt cười vuốt:
– Đa tạ tiên sanh cứu mạng cho nó. Bây giờ, xin tiên sanh cho biết, tại hạ phải đền ơn tiên sanh bao nhiêu?
Hán tử cười nhẹ:
– Nếu chữa trị cho một con vật tầm thường, thì tại hạ chỉ lấy năm ba lượng thôi. Nhưng, Minh Đà là vật quý, ngày đi ngàn dặm, cái giá phải cao hơn, vậy tôn giá cứ liệu định!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, nói:
– Ngàn lượng bạc, tiên sanh có chê rằng ít chăng?
Giang Phàm kêu lên:
– Chi mà nhiều thế? Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Mạng sống của Minh Đà, ngang với mạng sống của tại hạ đó, cô nương!
Tại hạ với nó tương ý vào nhau qua nhiều năm tháng rồi, nó là một lão hữu của tại hạ, tuy không nói được tiếng người, nó vẫn hiểu cái ý của tại hạ như một tri kỷ!
Dù tôi phải trả cái giá cứu mạng nó hơn số đó, cũng chẳng quá đáng chút nào!
Chừng như hán tử có phần nào thông cảm, nên nghiêm giọng thốt:
– Tại hạ chẳng hề cầu mong quá phận, song các hạ đã nêu lên cái số rồi, thì tại hạ chẳng dám bất tuân! Không ngờ bỗng nhiên mà phát tài như thế nầy ...
Quan Sơn Nguyệt lột chiếc bao bố bên ngoài Độc Cước Kim Thần, đoạn cười lạnh, tiếp:
– Vì bận xuôi ngược mãi trên khắp nẻo đường, tại hạ cần thu gọn hành trang để tiện bề di chuyển, cho nên không mang theo bạc vàng vụn lẻ, có bao nhiêu vàng đều đánh lại thành cái hình nầy, vậy tiên sanh tùy tiện chặt lấy một đoạn.
Hán tử giật mình:
– Chặt nó? Tại hạ đâu có sẵn khí cụ, mà cũng chẳng có cân, làm sao bây giờ? Giả như có cách chặt nó, nhưng không cân thì biết thế nào là đúng số? Vậy tôn giá còn bao nhiêu vàng nơi mình, cứ trao cho tại hạ, dù có thiếu phần nào cũng chẳng sao.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, lạnh lùng nói:
– Không được! Tại hạ nói một là một, hai là hai, thà trao ra có thừa, tại hạ bằng lòng hơn là trả thiếu. Chiếc Kim Thần nầy, nặng một ngàn lẻ hai cân, tổng số là một vạn sáu ngàn lẻ ba mươi hai lượng. Tiên sanh cứ liệu xem phần nào suýt soát cái số do tại hạ đề nghị mà chặt, hơn chút ít chẳng sao.
Hán tử sững sờ. Giây lát sau, hắn thốt:
– Tôn giá không có vàng vụn lẻ, thì thôi vậy, cầm như tại hạ chữa không công cho con Minh Đà, lưu lại một chút nhân tình với một thân chủ lạ trong cơn bình thủy tương phùng.
Hắn quay mình, toan bước đi.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh một tiếng, cử cao Kim Thần, từ trên giáng xuống đầu hắn.
Hắn dịch nhanh chân sang một bên, né tránh. Nhưng, chiếc rương bên hông của hắn bị Kim Thần chạm vào, vở tung. Những lọ, hủ rơi xuống đất, thuốc bột, thuốc hoàn, rơi rớt chung quanh chân hắn. Hắn biến sắc mặt, kêu lên:
– Tại hạ khổ công, tốn thuốc, đã chẳng lấy tiền, mà còn bị thiệt hại như thế nầy, tại sao các hạ đối xử tàn nhẫn với tại hạ chứ?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Lưu tánh mạng ngươi lại đó, đền bù vào cái chỗ ngươi ám toán con vật của ta!
Hán tử càng biến sắc hơn trước, phóng chân chạy đi ngay.
Giang Phàm nhanh hơn, đã vọt mình tới, chận đầu hắn.
Trong cơn khẩn cấp, hán tử đánh ra một chưởng, nhưng Giang Phàm không xem ra gì, thản nhiên vươn tay điểm vào yếu huyệt nơi yết hầu của hắn, tay nàng đưa ra nhẹ nhàng, song lại rất nhanh.
Quan Sơn Nguyệt biết rõ là nàng hạ độc thủ, vội kêu lớn:
– Hãy để hắn sống sót, Giang cô nương!
Ngón tay của Giang Phàm còn cách yết hầu của hán tử chỉ trong gang tấc, nàng nghe Quan Sơn Nguyệt bảo thế, vội chuyển thế từ chỉ sang chưởng, rồi bàn tay đó xoay ngược lên, tát vào mặt hán tử. Cái thế tát của nàng không mạnh lắm, chừng như thủ pháp của nàng không cần dụng lực, dù vậy, hiệu dụng vô cùng, hán tử bị cú tát đó mất thăng bằng, chập chờn lùi lại bốn năm bước.
Dĩ nhiên, chưởng thế do hắn xuất phát, tấn công Giang Phàm, phải rơi vào khoảng không.
Giang Phàm đánh sau, thế đánh lại cải biến, như vậy mà vẫn trúng đích, đủ biết thủ pháp của nàng nhanh vô tưởng.
Trước kia, Quan Sơn Nguyệt không dám đặt niềm tin nơi nàng, bây giờ chàng nhận ra, nàng cũng là tay lợi hại lắm. Bất giác chàng thở phào.
Về phần hán tử, hắn chỉ đề phòng Quan Sơn Nguyệt thôi, chứ Giang Phàm thì hắn rất khinh thường, cho rằng bất quá nàng cũng chỉ là một nữ nhân, mà nữ nhân thì có gì đáng sợ đâu?
Trước sự phản công của Giang Phàm, hắn hết sức sợ hãi, sau khi lấy lại bình tĩnh, hắn vung cả hai tay vừa lướt tới vừa đánh luôn ra hai chưởng. Kình lực phát huy không quan trọng lắm, song ẩn ước trong gió chưởng có mùi tanh.
Giang Phàm cười hì hì, đứng nguyên tại chỗ, thản nhiên chờ đón chưởng kình của hắn. Nàng thốt:
– Ta xem ra, cái sở trường của ngươi, là dụng độc. Toàn thân ngươi đều độc cả, độc từ đầu óc, tâm tưởng, độc đến hành động, luôn gió chưởng của ngươi cũng có độc! Nhưng gặp ta rồi, chính ngươi mới là kẻ bị hại vì cái độc của ngươi!
Hán tử có vẻ không tin, cứ điều động song chưởng bay tới. Chưởng ảnh của hắn càng gần Giang Phàm, mùi tanh càng bốc nặng, điều đó chứng tỏ hắn có gia tăng công lực.
Giang Phàm vẫn bất động như thường. Nàng cứ để mặc cho gió chưởng quét ngang mình, cho chất độc trong gió nhiễm vào mình.
Gió chưởng qua ngang nàng, cuốn vút đi cho hết dư lực, Giang Phàm vẫn còn đứng nguyên tại chỗ, chất độc không gây một ảnh hưởng gì nơi nàng cả.
Hán tử biến sắc mặt lượt nữa. Cái sở trường của hắn đã vô hiệu rõ ràng thì hắn cầm chắc sự thất bại trong tay rồi.
Hắn đứng đờ ra đó, đôi chân như chôn sâu dưới đất, quên mất đi là phải chạy, bởi hắn còn lưu lại đó làm gì nữa?
Hắn gương tròn đôi mắt kinh khiếp nhìn Giang Phàm.
Quan Sơn Nguyệt cầm chiếc Độc Cước Kim Thần, bước tới, thốt:
– Bằng hữu! Ta tin rằng ngươi là một thuộc hạ của Tạ Linh Vận, trong Thiên Ma Giáo, bất quá từ trước đến nay, ta chưa có dịp gặp ngươi vậy thôi. Vậy ngươi nên cho ta biết tên họ đi!
Hán tử trầm lặng một lúc lâu, rồi buông gọn:
– Mã Bá Ưu!
Nghe hắn xưng danh, Quan Sơn Nguyệt phì cười:
– Cái danh rất phù hợp với sự thật! Ngày xưa, Bá Nhạc sành khoa xem tướng ngựa, ngựa quý gặp lão ta tỏ vẻ mầng rỡ, như hiền tài gặp minh chúa. Còn ngươi chuyên ám toán ngựa, lạc đà, những con thú gặp ngươi, con nào cũng rầu, cũng lo. Ngươi lấy cái tên Bá Ưu là phải!
Mã Bá Ưu thẹn quá hóa giận, cao giọng đáp:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi đừng hượm mình là cao thượng, như thánh, như thần, đối với con vật của ngươi, ta còn nương tay đấy nhé. Giả như ta quyết giết nó, thì nó làm sao sống sót được với ta, hơn nữa, khi nào ta lại tìm đến ngươi mà thảo luận mà chữa trị cho nó? Biết như thế để mà mầng, ngươi không nên oán trách ta mới hợp lý!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Ta công nhận điều đó, con vật của ta rất thông linh, chẳng phải bất cứ ai cũng có thể hạ độc thủ nơi nó, ngươi làm được thì kể ra ngươi cũng là một tay khá lắm! Tuy nhiên, ngươi hạ độc rồi, lại tự hiến dâng sự chữa trị, thì mâu thuẫn quá rõ rệt, ngươi làm thế là có dụng ý gì?
Mã Bá Ưu cười lạnh:
– Giáo chủ có ước hẹn với ngươi ba hôm, sẽ gặp nhau tại một địa điểm, ngươi lại định đến nơi đó sớm hơn một ngày, tự nhiên ta phải có cách ngăn chận ngươi, cầm chân ngươi lại, không cho ngươi đến sớm.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Ngươi tưởng phương pháp đó làm chậm trễ được hành trình của ta sao?
Mã Bá Ưu cười nhẹ:
– Được hay không, ngươi đã thấy rồi đó, dù sao thì ngươi cũng biết là ta đã thành công, con Minh Đà của ngươi không thể nào di động trước ngày mai và như vậy là ngươi phải bỏ phí một ngày rồi. Ngươi có đến nơi, thời gian tròn vẹn, không sớm như ngươi muốn, mà cũng chẳng quá muộn để bỏ lỡ mất cuộc ước hội.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Nếu ta lưu con Minh Đà lại đây, ta mua ngựa mà đi, thì cái kế hoạch của ngươi chẳng mang lại một kết quả nào.
Mã Bá Ưu lắc đầu:
– Ta biết, ngươi không thể làm như vậy, đã là Minh Đà Lệnh Chủ mà mất con Minh Đà, thì ngươi còn cái thể thống gì nữa chứ? Mất con Minh Đà, chẳng bao giờ ngươi dám chường mặt trên giang hồ, điều đó thì ai ai cũng hiểu như vậy.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Ta đã quyết tâm diệt trừ Thiên Ma Giáo, nhằm mục đích đó, ta có thể dùng mọi thủ đoạn, thì vấn đề thân phận, danh dự không còn nữa, nếu ngươi tưởng rằng ta đắn đo, cân nhắc thì đúng là lầm lớn vậy!
Mã Bá Ưu sững sờ. Giây lát sau, hắn cười âm trầm thốt:
– Cứ kể như ta thất bại trong phần việc giao phó đi, cũng chưa chắc gì ngươi được an toàn mà đi đến nơi đến chốn, kịp thời gian ước muốn. Bởi dọc đường, còn rất nhiều người khác chờ đợi ngươi, làm cái việc chậm trễ ngươi như ta.
Quan Sơn Nguyệt không nao núng, buông giọng sang sảng:
– Thế thì càng hay, ta nhân dịp nầy, đấu trí với Tạ Linh Vận.
Chàng day qua Giang Phàm, bảo:
– Giang cô nương chế ngự hắn đi, tại hạ muốn cho hắn nếm mọi đau khổ trên đời, cho những kẻ chờ đợi ta ở phía trước kia, mở to mắt nhìn vào gương của hắn mà tưởng tượng trước cái lối giáo huấn của tại hạ dành cho chúng. Tại hạ muốn thấy can đảm của bọn thuộc hạ Tạ Linh Vận to đến đâu!
Giang Phàm gật đầu, bước về phía Mã Bá Ưu.
Mã Bá Ưu biến sắc mặt, cấp tốc xuất thủ. Hắn vươn ngón tay điểm vào sườn Giang Phàm.
Giang Phàm cười nhẹ, không làm một phản ứng nào.
Mã Bá Ưu trong cơn cấp bách, vận dụng công lực đúng mười thành, ngón tay của hắn vừa chạm vào y phục của Giang Phàm, bỗng hắn nhảy dựng lên.
Nơi chỗ hắn định điểm vào, là chiếc túi, trong túi có con rắn độc. Con rắn nghe tiếng gió, liền thò đầu ra ngoài túi, đúng lúc ngón tay hắn điểm vào, nó há mồm ngoạm lấy ngón tay đó.
Con vật thuộc loại thông linh, nó nghe Quan Sơn Nguyệt bảo Giang Phàm chỉ chế ngự Mã Bá Ưu thôi, nên nó ngoạm mà không nhả đủ lượng độc vào ngón tay của hắn. Nhờ thế, Mã Bá Ưu không chết ngay tức khắc.
Nhảy dựng lên, Mã Bá Ưu rơi xuống và đứng không vững, phải nhào, nhào rồi lăn lộn, trừ chiếc đầu ra, phần còn lại của cơ thể hắn, từ cổ xuống chân, sưng phù lên. Trong thoáng mắt, thân hình hắn phồng lên như quả cầu. Dĩ nhiên, hắn phải đau đớn không tưởng nổi!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười thốt:
– Ta mang ngươi theo dọc đường, đồng bọn của ngươi chờ đợi ta, dù có quáng manh cũng trông thấy cái quả cầu thịt, thấy là chúng phải hiểu cái hại chờ ngược lại chúng, nếu chúng dám hạ thủ đoạn gì đối với ta!
Chàng cười lớn hơn một chút, tiếp:
– Thôi, mình lên đường chứ, bằng hữu! Dần đà mãi, đã mất của tại hạ khá nhiều thời giờ rồi đó nhé! Cố gắng mà chịu đựng vậy, bằng hữu ơi!
Minh Đà đang nằm im trên mặt đất, với dáng ủ rũ thảm thương lúc đó, vụt đứng lên. Nó mạnh mẽ như thường.
Tuy đau đớn vô cùng, trước cảnh đó, Mã Bá Ưu không khỏi kinh ngạc, trố mắt nhìn con Minh Đà, như không tin là nó chẳng việc gì.
Quan Sơn Nguyệt cười mỉa, tiếp:
– Con vật của Minh Đà Lệnh Chủ là thần vật, bọn tiểu quỷ các ngươi làm gì hại nó được, nó vẫn an toàn, trái ngược lại ngươi tiếp thọ cái khổ! Ngươi hại nó một, ngược lại ngươi phải lãnh khổ mười. Phàm nợ vay thì luôn luôn trả nặng hơn vốn! Cái đạo lý đó, nếu ngươi chẳng hiểu, thì đúng là ngu ngốc nhất đời.
Day qua Giang Phàm, chàng tiếp:
– Chúng ta đi, cô nương!
Chàng chụp áo Mã Bá Ưu, mang hắn đến cạnh Minh Đà và lấy giây cột hắn trên cổ con thú, đoạn nhặt những vật đã tháo gỡ ra trước đó cho Mã Bá Ưu chữa trị nó, đặt trở lại trên lưng nó xong rồi chàng và Giang Phàm nhảy lên mình nó.
Cuộc hành trình hướng về Thiên Xà Cốc lại tiếp tục.