Ghi chú đến thành viên
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 01-04-2008, 02:51 PM
XuyVuu's Avatar
XuyVuu XuyVuu is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Mar 2008
Bài gởi: 451
Thời gian online: 3 tuần 4 ngày 16 giờ
Xu: 0
Thanks: 453
Thanked 24 Times in 13 Posts
Truyền thuyết cổ đại Trung Hoa

Tam Hoàng Ngũ Đế
Tam: Ba, số 3, thứ ba. Hoàng: vua. Ngũ: năm. Đế: vua.

Người Tàu cho rằng, khởi thủy của lịch sử nước Trung hoa bắt đầu từ Tam Hoàng và Ngũ Đế.

Tam Hoàng là ba vị vua đầu tiên của nước Tàu.

Ngũ Đế là năm vị vua nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung hoa, đưa dân tộc nầy thoát khỏi tình trạng ăn lông ở lỗ, biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết.

Đó là thời kỳ sơ khai tối cổ của nước Tàu, văn minh chưa có hay mới bắt đầu có nhưng rất thô sơ, dân chúng rất thưa thớt, sống từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có dấu tích gì còn sót lại, nên người đời sau rất khó nghiên cứu để biết rõ các triều đại tối cổ nầy.

Những từ ngữ: Tam Hoàng, Ngũ Đế, và hiệu của các vị vua, do người đời sau đặt ra để hệ thống hóa các tư liệu về cổ sử. Còn Đế hiệu thì lấy tên đất mà đặt ra, gọi là Địa hiệu, hoặc lấy công đức đối với dân mà đặt ra, gọi là Đức hiệu.

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nước Tàu thời tối cổ, viết sách lưu lại, vẫn chưa thống nhất với nhau về Tam Hoàng là những vị vua nào, và Ngũ Đế gồm những vị vua nào. Có nhiều thuyết đưa ra nêu trong các sách, đôi khi lại trái ngược nhau, khiến người sau nghiên cứu, không biết đâu là sự thật.

Sau đây xin trình bày về Tam Hoàng và Ngũ Đế theo hai quyển sách:

o

Tam Hoàng Thiên Kinh,
o

Thượng Thư Đại truyện và Ngũ Đế Bản Kỷ.

I. Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh:

Phần đầu của sách nầy giải thích về sự tạo dựng Trời Đất và loài người, tóm lược sau đây:

Ban đầu Trời Đất là một khối Hỗn mang như quả trứng gà, ông Bàn Cổ được sanh ra trong ấy. Mười tám ngàn năm sau, Trời Đất mới khai tịch, khí Dương thanh nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục hạ xuống thành Đất. Bàn Cổ ở trong ấy, một ngày biến đổi 9 lần, Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, Đất mỗi ngày dày thêm một trượng, Bàn Cổ mỗi ngày lớn một trượng, v.v....

Bàn Cổ sanh ra nhơn loại, và là vị vua đầu tiên của nhân loại, nên gọi Ngài là Thiên Hoàng.

Nối tiếp Thiên Hoàng là Địa Hoàng và Nhân Hoàng.

Hợp chung ba vị vua lại gọi là Tam Hoàng.

Thiên Hoàng là Bàn Cổ, mà Bàn Cổ chính là Đấng Thái Thượng Đạo Quân, nên trong Kinh Tiên Giáo có câu:

"Khai Thiên, Địa, nhơn, vật chi tiên."
"Cửu Hoàng Tỹ Tổ."

Nối tiếp Tam Hoàng là Tam Vương. Tam Vương gồm:

- Ngũ Long, - Hữu Sào, - Toại Nhân.

Nối tiếp Tam Vương là Ngũ Đế. Ngũ Đế gồm:

- Phục Hy, - Thần Nông, - Hoàng Đế,
- Đường Nghiêu, - Ngu Thuấn.

Vậy theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh thì:
* TAM HOÀNG gồm: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng.
* TAM VƯƠNG gồm: Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân.
* NGŨ ĐẾ gồm: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
II. Theo sách Thượng Thư Đại Truyện và Ngũ Đế Bản Kỷ:

Ban đầu, Trời Đất là một khối Hỗn mang hình giống như quả trứng gà. Bàn Cổ sanh ra trong ấy. Sau đó, khí Dương nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục kết thành Đất.

■ Sau đời Bàn Cổ là Tam Hoàng.
Tam Hoàng gồm:
-Toại Nhân, - Phục Hy, - Thần Nông.

■ Nối tiếp Tam Hoàng là Ngũ Đế:
Ngũ Đế gồm:
- Hoàng Đế, - Chuyên Húc,
- Đế Cốc, - Đường Nghiêu, - Ngu Thuấn.

■ Nối tiếp Ngũ Đế là Tam Đại.
Tam Đại gồm:
- Nhà Hạ, do vua Hạ Võ lập ra.
- Nhà Thương, do vua Thành Thang mở ra.
- Nhà Châu, do vua Văn Vương lập ra.
III. Theo sự khảo cứu của các nhà Sử học hiện nay:

Các đời vua vào thời tối cổ nước Tàu thì không thể xác định được, chỉ có thể nghiên cứu các vị vua từ Phục Hy trở về sau, tính theo năm Tây lịch, kể ra sau đây:
- Phục Hy : năm 2852 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Thần Nông : năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Hoàng Đế : năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Thiếu Hiệu : năm 2597 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Chuyên Húc : năm 2513 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Đế Cốc : năm 2453 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Đế Chí : năm 2365 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Đường Nghiêu : năm 2341 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Ngu Thuấn : năm 2268 trước Tây lịch kỷ nguyên.
- Hạ Võ : năm 2205 trước Tây lịch kỷ nguyên.

Trong số các vị vua kể trên, có năm vị vua được dân chúng nhắc đến nhiều nhất, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương nầy đắc đạo tại thế, có huệ nhãn, nhìn biết được các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế:

- Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế
- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn.
IV. Công đức của Tam Hoàng - Ngũ Đế:

1. Ngũ Long:

Vua Ngũ Long dạy dân lột da thú làm áo quần, lấy lá cây làm nón che đầu.

2. Hữu Sào: (Hữu là có, Sào là tổ chim)

Vua Hữu Sào dạy dân làm ổ trên cây để ở, tránh nạn thú dữ hãm hại, sau dạy dân đốn gỗ làm giàn cất gác, lợp nhà, thế cho hang lỗ trước kia. Con người bây giờ không còn ăn chung ở lộn với các loại thú cầm.

3. Toại Nhân: (Toại là khoan gỗ lấy lửa, Nhân là người)

Toại Nhân là người tìm ra được lửa, dạy dân chúng dùng lửa để nấu chín thức ăn cho khỏi tanh hôi. Việc tìm ra lửa là một phát minh vô cùng quan trọng, vì nó giúp con người nấu nướng thức ăn, khỏi phải ăn thịt sống như cầm thú.

Nhờ Hữu Sào, con người thoát khỏi cảnh ở hang lỗ.

Nhờ Toại Nhân, con người có lửa, tách khỏi cầm thú.

4. Phục Hy:

Vua Phục Hy có mẹ tên là Hoa Tư. Ngày kia, bà thong thả dạo cảnh trong núi, bỗng thấy một vị cừ nhân đi qua, để lại vết chân rất sâu và lớn. Bà Hoa Tư tình cờ bước theo dấu chân ấy của linh Thần, bèn cảm động tâm thần, chợt thấy hồng quang chiếu vào bụng, liền thọ thai, 16 tháng sau, sanh ra Phục Hy tại xứ Thành Kỷ (bây giờ là Hiệp Tây).

Phục Hy còn có tên là Thiếu Hạo, khổ người cao lớn, cao 1 trượng 6 thước, có nhiều đức tốt, được dân chúng tôn lên làm vua năm Ngài 18 tuổi.

Phục Hy định kinh đô tại Huyển Khưu, lấy Mộc đức trị dân. Ngài có bốn bề tôi lương đống là: Cộng Công, Bá Hoàng, Châu Nương, Hào Anh, cùng với em gái là Bà Nữ Oa, giúp việc trị nước an dân, trên thuận mạng Trời, dưới hòa mọi người. Các bộ tộc lân bang, bát man, phi cầm tẩu thú đều mến đức, đến chầu Ngài. Ngài là vị vua có tuệ nhãn, biết được các lẽ bí mật của cõi vô hình.

Một ngày kia, nghe dân báo có một con quái vật đầu rồng mình ngựa, mới nổi lên trên sông Hoàng Hà làm nước sông dâng cao lụt lội. Ngài liền đến đó, thấy quái vật, Ngài biết nó là con Long Mã, một loài thú linh.

Ngài nhìn nó nói rằng:

- Nếu phải nhà ngươi đem vật báu đến dâng ta thì hãy lại gần đây.

Long Mã như biết nghe tiếng người, từ từ đi khơi khơi trên mặt nước vào bờ, đến trước Phục Hy, quì xuống. Nhà vua gỡ lấy bảo kiếm trên lưng, và nhìn thấy trên lưng Long Mã có một bức đồ gồm 55 chấm đen trắng. Sau đó, Long Mã trở ra giữa sông, rồi biến mất. Mực nước sông Hoàng Hà sụt xuống, trở lại như trước.

Vua Phục Hy vẽ lại những chấm đen trắng trên lưng Long Mã, tạo thành bức đồ gọi là Hà Đồ, rồi nhà vua quan sát các hiện tượng thiên nhiên trong Trời Đất, sáng chế ra Tiên Thiên Bát Quái Đồ, để giải thích sự hình thành vũ trụ.

Vua Phục Hy lại chế ra lịch cho dân dùng, định năm tháng và mùa tiết cho dân gieo trồng cấy gặt.

Về âm nhạc, vua Phục Hy chế ra đàn sắt, đàn cầm và ca khúc Giá Biện. Phục Hy chế ra lưới đánh cá. Câu Mang phỏng theo lưới đánh cá ấy mà làm ra lưới bắt chim. Nhờ các sáng chế nầy mà dân chúng dễ kiếm sống hơn trước.

Sách Cổ Sử Khảo (được dẫn trong sách Dịch Sử) viết rằng: Phục Hy đặt ra giá thú. Bà Nữ Oa là Thần Bà Mối đặt ra hôn nhân.

Sách Trung quốc Sử lược của Phan Khoang viết: "Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến, làm lưới để săn và đánh cá, nuôi tằm, vẽ Bát quái chỉ cái lẽ Âm Dương biến hóa của vạn vật, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó mới có các danh từ gia tộc."

Phục Hy làm vua được 97 năm thì băng. Em gái là Nữ Oa lên kế vị. Bà có tài luyện Ngũ Vân Thạch bổ Thanh Thiên. Tương truyền, Bà Nữ Oa làm vua được 130 năm thì mất.

5. Thần Nông:

Vua Thần Nông hiệu là Viêm Đế, tên là Thạch Niên, con của ông Thiếu Điền và bà An Đăng. Tương truyền bà nằm mộng thấy rồng đoanh và sanh ra Ngài tại thạch thất trong núi Liệt Sơn. Vua Thần Nông có khổ người to lớn, bề cao 8 thước 7 tấc, được tôn làm vua, lấy Hỏa đức cai trị dân, được thiên hạ phục tòng, long chầu hổ bái. Thật là đời thái bình Thánh đức.

Thần Nông thấy dân chúng giết thú vật ăn thịt quá nhiều, lòng chẳng nỡ, liền đi tìm kiếm các giống ngũ cốc, rồi chế ra cày bừa, dạy dân cày cấy gieo trồng ngũ cốc, gặt lấy hạt rồi nấu chín mà ăn. Vua Thần Nông tổ chức cho dân họp chợ, trao đổi hàng hóa để mọi người dân có đủ đồ dùng. Nhờ vua Thần Nông mà dân chúng bắt đầu định cư định canh, từ bỏ dần đời sống du mục.

Ngài thấy dân chúng bệnh hoạn ốm đau, Ngài ra công tìm kiếm các loại cây thuốc để trị bịnh cho dân. Tương truyền, vua Thần Nông có chiếc roi thần, Ngài vụt roi vào cây thì Ngài biết được tính chất trị bịnh của từng cây thuốc.

Cũng có thuyết nói rằng, vua Thần Nông phải nếm các cây thuốc để định dược tính của nó. Có khi trong một ngày, nhà vua phải nếm đến 70 loại cây thuốc khác nhau, có nhiều cây độc khiến Ngài nhiễm bịnh. Ngài phải suy nghĩ tìm cách trị bịnh cho mình có kết quả, rồi đem kinh nghiệm ấy truyền dạy cho dân. Ngày kia, Ngài nếm phải một cây thuốc rất độc, làm cho Ngài bị đứt ruột mà chết. Dân chúng hay được đều than khóc thương tiếc Ngài. Ngài mất ở Trường Sa, thọ 140 tuổi, làm vua được 120 năm.

Ngài là vị vua dám hy sinh tánh mạng của mình để tìm ra dược tính của cây thuốc mà trị bịnh cho dân. Dân chúng rất nhớ ơn Ngài, tôn Ngài là Tổ của nghề làm ruộng và Tổ của nghề chế thuốc trị bịnh. Thật là một vị Đại Đức Chơn Vương.

6. Hoàng Đế tức Hiên Viên Huỳnh Đế:

Vua Hoàng Đế hiệu là Hiên Viên, con của bà Phù Bửu. Mẹ Ngài nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thọ thai sanh ra Ngài. Thuở nhỏ, Ngài rất thông minh, có tánh thần linh, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức.

Theo sách Ngũ Đế Bản Kỷ, thì sau đời vua Thần Nông, các bộ tộc mạnh nổi lên tranh giành quyền hành, mà bộ tộc Xuy Vưu là hùng mạnh hơn cả, nhưng rất tàn ác. Những bộ tộc nào không tùng phục Xuy Vưu thì bị Xuy Vưu đem binh đến đánh tiêu diệt. Các bộ tộc liên kết với nhau chống lại Xuy Vưu, tôn thủ lãnh bộ tộc Hữu Hùng Thị ở huyện Tân Trịnh lên làm Thống lãnh đánh lại Xuy Vưu.

Trận đánh dữ dội xảy ra ở Trác Lộc, sương mù bao phủ dày đặc làm cho không nhận định được phương hướng, Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây hãm, không biết đường nào đánh ra cho thoát. Tương truyền Bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện đến giúp Hữu Hùng Thị chế tạo xe hai bánh chỉ Nam để định phương hướng, và dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị biết hướng và cách đánh ra, khiến cho Xuy Vưu thảm bại và bị giết chết. Thủ lãnh Hữu Hùng Thị được các bộ tộc tôn lên làm vua, xưng hiệu là Hiên Viên Hoàng Đế, lấy Thổ đức trị dân.

Hoàng Đế (Huỳnh Đế) chế tạo được thuyền bè để đi lại và chở hàng hóa trên sông, làm nhà cửa để ở tránh mưa gió.

Sách Hoài Nam Tử chép rằng: Hoàng Đế sai bề tôi là ông Thương Hiệt chế ra chữ viết. Thương Hiệt quan sát hình tượng các vật trên mặt đất, hợp với các Thiên tượng mà chế tác ra văn tự tượng hình. Khi văn tự chế thành thì tiếng sấm nổ vang, quỉ Thần đều run sợ, Trời mưa xuống những hạt lúa trắng ban cho dân ăn mạnh khỏe.

Tuy chữ viết rất thô sơ nhưng cũng ghi lại được những sự việc quan trọng của các đời trước, những kinh nghiệm, kiến thức, sự tích để truyền bá và lưu lại. Nhờ đó, văn minh được tỏa sáng từ thời trước qua thời sau, sách vở xuất hiện, giáo dục bắt đầu phát triển, đạo lý được đề cao, trí thức được bồi dưỡng.

Sách Lã Thị Xuân Thu viết rằng: "Hoàng Đế sai ông Linh Xuân chế tác ra Nhạc luật; sai ông Đại Nhiễu chế ra Can, Chi, Giáp Tý, để làm lịch pháp, tính ngày, tháng, năm và giờ. "

Sách Đế Vương Thế ký chép, vua Hoàng Đế sai ông Kỳ Bá viết ra sách thuốc để dạy nghề y dược trị bịnh cho dân.

Hoàng Đế phân chia nước ra làm Châu, Quận, xây cất cung điện, chế ra áo mão cho các quan, phân biệt theo ngũ sắc.

Đặc biệt Hoàng Hậu của vua Hoàng Đế là bà Luy Tổ biết được cách trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, nhờ đó mà Hoàng Đế mới chế tạo áo mão cho các quan.

Sách Thương Quân viết: "Đời Thần Nông, con trai cày mà ăn, con gái dệt mà mặc, không dùng hành chính mà dân được trị, không dấy binh đao mà làm vua thiên hạ. Vua Thần Nông mất rồi thì các bộ tộc nổi lên, mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít, nên vua Hiên Viên Huỳnh Đế mới bày ra nghĩa vua tôi, trật tự trên dưới, lễ cha con, anh em, và sự phối hợp vợ chồng."

Xem thế thì thời vua Hoàng Đế xảy ra một biến chuyển quan trọng trong lịch sử về chánh trị và xã hội của nước Tàu.

Từ thời vua Thần Nông, dân chúng bắt đầu định cư để làm ruộng, nên có quan niệm tư sản. Đã có tư sản ắt có tranh giành, nên vua Hoàng Đế phải lập luật pháp và dùng hình phạt. Vua thâu điền thổ làm của công, đặt ra phép tỉnh điền để chia ruộng đất cho dân. Vua phong các bộ tộc làm chư Hầu được thế tập. Số chư Hầu lúc đó rất đông.

Vua Hoàng Đế sai khai thác mỏ đồng ở núi Thủ Sơn, đúc thành một cái đỉnh rất lớn hình trái bầu, gọi là Đỉnh hồ, cao một trượng 3 thước, có thể chứa 10 thạch lúa. Chung quanh đỉnh có chạm hình rồng bay và hình các thú lạ.

Khi chiếc đỉnh hoàn thành, nhà vua cầu Ngũ Long thiên võ, liền có Hùynh Long hạ giáng, chấm râu vào đỉnh.

Vua Hiên Viên Huỳnh Đế và Hoàng Hậu đều lo trau giồi tâm tánh, hằng tu nhơn tích đức.

Ngày kia, Đức Nguơn Thủy đang ngồi nơi Cung Ngọc Hư núi Côn Lôn, nhận thấy lòng thành của vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, nên sai học trò là Quảng Thành Tử xuống trần khai tâm và dạy đạo cho vua. Quảng Thành Tử vâng lịnh thầy, cỡi mây lành bay xuống thành vua trong đêm trăng sáng, gọi vua và Hoàng Hậu ra trước lầu Vọng Nguyệt dạy rằng:

- Lòng thành của hai vị thấu đến Ngọc Hư, nên ta vâng lịnh đến đây hướng dẫn và truyền pháp cho hai vị tu luyện. Hai vị hãy ráng dọn mình cho trong sạch, sắm sẵn một đỉnh đồng đặt trên lầu cao, khi nào cần hỏi điều chi thì đốt trầm hương trong đỉnh mà đảnh lễ cầu nguyện, tức thì ta hay được sẽ đến.

Nói xong, Quảng Thành Từ dùng phép khai quang cho vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, rồi truyền cho phép luyện đạo.

Vua và Hoàng Hậu sau khi được hưởng phép Khai quang thì trí não quang minh sáng suốt, lời dạy bao nhiêu đều ghi nhớ rõ ràng. Từ đó hai vị chuyên tâm tu hành, việc triều đình thường giao cho các quan đầu triều lo liệu.

Khi nhà vua tu thuần thục rồi, liền đốt trầm hương nơi đỉnh đồng để cầu thầy là Quảng Thành Tử đến truyền đạo tiếp.

Lần lựa ngày tháng trôi qua, vua và Hoàng Hậu tu luyện đạt đến mức cao, Quảng Thành Tử hiện đến dạy rằng:

- Hai vị đã tu hành sắp đến ngày chứng quả, kể từ ngày mai, hãy ra lịnh cho bá quan văn võ miễn lai trào. Hai vị cố gắng giữ lòng thanh tịnh, trong vài ngày, ta sẽ đến.

Vua Hiên Viên và Hoàng Hậu lãnh ý, liền ra lịnh cho các quan bãi chầu trong 3 ngày, khiến các quan lấy làm lạ không biết lý do gì, nhưng cứ tuân theo chiếu chỉ.

Đến ngày thứ ba, các quan kéo đến ngọ môn xem vua có ra lịnh mới chi không, bỗng thấy một luồng gió cuốn trên không, mùi hương sực nức bay khắp cung điện, kế thấy từ trên lầu cao, vua và Hoàng hậu ngồi trên lưng rồng vàng, có mây lành đỡ dưới, bay thẳng lên Trời, rồi từ từ khuất vào đám mây.

Cả thảy bá quan và dân chúng đều biết rằng, vua Hiên Viên và Hoàng Hậu Luy Tổ đã tu hành lâu năm, nay đắc đạo, có Huỳnh Long bay xuống, rước về Trời.

Cho nên thơ cổ có câu: "Vân ám đỉnh hồ long khứ viễn" nghĩa là: mây che đỉnh hồ, rồng bay xa, để chỉ việc vua Hiên Viên và Hoàng Hậu đắc đạo, có rồng bay xuống rước lên Trời.

Nghiêu - Thuấn là vua Nghiêu và vua Thuấn, hai vị vua hiền vào thời thượng cổ nước Tàu, mà sử sách đời sau ca tụng là hai vị Thánh vương, dùng đức trị dân khiến cho dân chúng hưởng được thái bình an lạc. Cho nên có câu nói: Nghiêu Thiên Thuấn nhựt, nghĩa là Trời Nghiêu ngày Thuấn, để chỉ đời tháibình hạnhphúc dưới hai trào vua: Nghiêu và Thuấn.

Vua Nghiêu lên ngôi năm 2356 trước Tây lịch kỷ nguyên, làm vua được 70 năm, rồi truyền ngôi lại cho vua Thuấn năm 2255 trước Tây lịch.
I. Đường Nghiêu (-2356):

Vua Nghiêu họ Đường, làm tới chức Hầu, nên gọi là Đường Hầu, sau lên làm vua, đóng đô ở đất Đào, nên lập quốc lấy hiệu là Đào Đường.

Đức tính của vua Nghiêu thì cung kính, thông minh, văn chương rõ rệt, ý tứ sâu xa, tự nhiên mà không miễn cưỡng, lại hay kính cẩn khiêm nhường, đức trạch khắp bốn cõi, đến cả trên Trời dưới đất.

Vua Nghiêu ở ngôi được 70 năm thì một hôm vua Nghiêu gọi quan Tứ Nhạc đến bảo rằng: (Tứ Nhạc là chức quan đại thần coi tất cả chư Hầu bốn phương)

- Hỡi quan Tứ Nhạc! Trẫm ở ngôi được 70 năm, ngươi có thể theo mệnh lệnh của Trẫm, Trẫm nhường ngôi cho.

Quan Tứ Nhạc thưa rằng:

- Hạ thần đức kém, không xứng ngôi vua.

Vua Nghiêu lại nói:

- Các ngươi tiến cử một người đã hiển đạt hay là con nhà ti tiện, quí hồ có đức vọng là hơn.

Các quan đồng ý tâu rằng:

- Ở dân gian có người tên Ngu Thuấn.

- Phải, Trẫm cũng có nghe nói, nhưng người ấy thế nào?

Quan Tứ Nhạc thưa rằng:

- Người ấy là con của một người lòa, cha ngoan cố, mẹ ghẻ lắm điều, người em dị bào tên là Tượng có tánh ngạo ngược, thế mà Thuấn một lòng hiếu thảo, khiến cho họ biết hối lỗi, quay trở lại làm thiện, không xảy ra sự gian ác gì.

Vua Nghiêu nói:

- Ta thử xem sao, gả hai con gái ta cho người ấy xem cách tề gia đối với hai con gái ta thế nào?

Nói rồi sửa soạn hành trang, đưa cả hai con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh đến sông Vị (một nhánh của sông Hoàng Hà) để làm vợ Ngu Thuấn. Vua Nghiêu răn hai con gái:

- Phải kính cẩn giữ cho trọn đạo.

Sau ba năm dò xét, vua Nghiêu kêu ông Thuấn bảo:

- Lại đây, ngươi Thuấn, ta hỏi công việc và xét lời nói của ngươi đều có thành tích. Đến giờ đã ba năm, ngươi đáng lên ngôi vua thay ta.

Ông Thuấn tự khiêm là người đức kém, chưa đáng lên ngôi vua, xin nhường cho người đức tốt, nhưng vua Nghiêu không chịu.

Ngày mùng 1 tháng giêng, vua Thuấn nhận mệnh lên ngôi vua ở miếu thờ Đức Văn Tổ.

Vua Nghiêu dặn vua Thuấn:

- Doãn chấp quyết trung (hãy giữ cái đạo Trung).

Như vậy, vua Nghiêu lên làm vua năm 16 tuổi, ở ngôi 70 năm, thử tài đức của ông Thuấn 3 năm, tuổi già không thính chính 28 năm, thọ 117 tuổi.
II. Ngu Thuấn (- 2255):

Vua Thuấn ở đất Ngu nên lấy họ là Ngu, nối ngôi vua Nghiêu.

Vua Thuấn định lại 4 mùa, tháng ngày cho đúng nhau, đặt lại luật âm nhạc, cách đo chiều dài, cách đong, cách cân đều theo một luật, sửa lại Ngũ Lễ.

Rồi vua Thuấn đi tuần thú bốn phương, thăm viếng các nước chư Hầu, tế lễ các Thần núi. Vua Thuấm đặt ra lệ, cứ 5 năm, vua đi tuần thú bốn phương một lần.

Các vua chư Hầu ở bốn phương, lần lượt mỗi năm một nước lại chầu, tâu bày việc cai trị trong nước mình. Vua Thuấn theo đó mà xét công trạng, chư Hầu nào xứng đáng thì thưởng xe lộ xa và áo huyền cổn.

Vua Thuấn lên ngôi năm 30 tuổi, nay vua được 93 tuổi, làm vua được 63 năm, nay bắt chước vua Nghiêu, muốn nhường ngôi lại cho người hiền là ông Vũ.

Ông Vũ nói:

- Tôi đức trạch không khắp, chắc dân không theo. Thầy Cao Dao gây nhiều đức vọng khắp dân gian, dân đều cảm phục. Dám xin nhà vua nghĩ lại. Tôi thường nghĩ chỉ có ông Cao Dao.

Vua Thuấn nói:

- Thầy Cao Dao! Bầy tôi và dân bây giờ không có ai phạm đến chánh trị của ta, ấy là vì có ngươi làm quan Sĩ Sư, xử 5 tội hình rất minh xác, để giúp về sự giáo hóa trong 5 bậc thường mà mong cho được thạnh trị. Xử việc hình mà vẫn mong cho dân không bị hình phạt, nên nhân dân hòa hiệp theo đạo trung. Thực là cái công của nhà ngươi.

Vua Thuấn lại nói thêm với ông Vũ:

- Lại đây thầy Vũ! Trời ra tai nước lụt, có ý răn ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành công, ấy là tài của ngươi, chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không tự mãn, ấy là đức tốt của ngươi. Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên hạ ai cùng ngươi tranh công. Ta quí các đức tốt của ngươi, khen cái công to của ngươi. Lịch số của Trời nay đến lượt nhà ngươi. Ngươi đáng lên ngôi vua.

Sáng ngày mùng 1 tháng Giêng, vua Vũ chịu mệnh ở miếu thờ Đức Thần Tông (vua Nghiêu), tổng xuất các quan, lên ngôi vua, nối ngôi vua Thuấn, mở ra nhà Hạ,

Vua Thuấn theo lời dặn dò của vua Nghiêu, dặn lại vua Vũ: Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt, doãn chấp quyết trung. Nghĩa là: Cái tâm của người thì hiểm nghèo, cái tâm của đạo thì kín nhiệm, phải giữ cái tâm mình cho tinh thuần và chuyên nhất, mới giữ được đạo Trung.

Nơi mặt ngoài của cái bao lơn tròn trước Tòa Thánh Tây Ninh, có một bức tranh tạc hình vua Nghiêu và ông Thuấn đang cày ruộng, đề tựa là: Vua Nghiêu - Vua Thuấn, lấy tích ông Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn, để tượng trưng chữ CANH.

Theo Nho giáo, ba vị vua: Nghiêu, Thuấn, Vũ là ba vị Thánh vương có công lao vĩ đại đối với dân chúng, nên được dân chúng tôn lên làm ba vị Đại Đế, được cúng tế rất long trọng vào ngày rằm của ba nguơn trong một năm, kể ra:

- Rằm tháng Giêng, Thượng Nguơn, tôn vua Nghiêu là: Thượng Nguơn Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế Thắng Hội, gọi tắt là: Thượng Nguơn Thiên Quan Tứ Phước.

- Rằm tháng Bảy, Trung Nguơn, tôn vua Thuấn là: Trung Nguơn Xá Tội Địa Quan Đại Đế Thắng Hội, cũng gọi là: Trung Nguơn Địa Quan Xá Tội.

- Rằm tháng Mười, Hạ Nguơn: tôn vua Hạ Vũ là: Hạ Nguơn Giải Ách Thủy Quan Đại Đế Thắng Hội, cũng gọi là: Hạ Nguơn Thủy Quan Giải Ách.



Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của XuyVuu

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Từ khóa được google tìm thấy
ca truyen rhuyet, hiên viên đại đế, hiên viên hoàng đế, hien vien hoang de, hien vien huynh de, hienvienhoangde, hoang de hien vien, hoang de hjen vien, hoang de trung hoa.pdf, , , lã thị xuân thu pdf, , sự tích huỳnh đế, sự tích ngũ đế, sự tích vua thuấn, su tich co tam, su tich co that, su tich huỳnh đế, su tich huynh de, su tich ngu de, su tich ong huynh de, su tich ong ngu de, su tich tam hoang, su tich tam hoang ngu sw, su tich thu co dai, su tich trung hoa, su tich ve huynh de, su tich vua hiên viên, su tich vua huynh de, su tich vua nghieu, su tich vua nghieu thuan, su tich vua nhơn hoàng, tam hoang ngu de pdf, thuyết ngũ đế, truen thuyet trung hoa, truyên thuyet vien co, truyền thuyết cổ, truy, truyen co dai trung quoc, truyen dai trung hoa, truyen dai trung hoa.com, truyen tam hoang ngu de, truyen thiet vien co, truyen thuat co dai, truyen thuyết ngu kinh, truyen thuyet ca ngu, truyen thuyet co, truyen thuyet co dai, truyen thuyet co that, truyen thuyet hien vien, truyen thuyet hoa co tu, truyen thuyet ngu de, truyen thuyet ngu long, truyen thuyet tam hoang, truyen thuyet tan coi, truyen thuyet trung hoa, truyen thuyet trung quoc, truyen thuyet ve ngu de, truyen thuyet ve vien co, truyen thuyet vien c9o, truyen thuyet vien co, truyen vua huynh de, truyendaitrunghoa, truyenthuyetco dai, vua hien vien huynh de, vua huynh dê tam hoang, www.truyen daitrunghoa, xem su tich ong huynh de

Ðiều Chỉnh


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™