TP - Ngày 28/3/1975, Đại tướng Fred Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đến Sài Gòn để thị sát tình hình VNCH theo yêu cầu của Tổng thống Mỹ Ford.
Trở về Mỹ, ông làm một bản phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình thực tế của VNCH kèm theo những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn.
Trong một bản phúc trình của tướng Weyand lên Tổng thống Ford
Sau khi thị sát chiến trường Nam Việt Nam và họp với chính quyền VNCH, tướng Weyand soạn một bản báo cáo dài 14 trang để phúc trình cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesinger.
Ngày 5/4/1975 (tức ngày 6/4 giờ Sài Gòn), đang trên đường bay về Washington, tướng Weyand được lệnh đổi hướng bay thẳng về Palm Springs (bang Nevada) để phúc trình ngay về tình hình VNCH cho Tổng thống Ford và Ngoại trưởng Kissinger đang đợi tại đó.
Nghe thuyết trình của Weyand xong, Kissinger đi họp báo. Trên đường tới Trung tâm báo chí, Kissinger buột miệng: “Sao chúng không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng”! (nguyên văn tiếng Anh: Why don’t these people die fast? The worst thing that could happen would be for them to linger on”).
Trong tóm lược của bản phúc trình về tình hình Nam Việt Nam và đề nghị những biện pháp hỗ trợ khẩn cấp của Nhà Trắng cho chính quyền Thiệu, tướng Weyand viết:
Tướng Weyand từng có mặt ở chiến trường Nam Việt Nam với nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh sư đoàn 25 Mỹ, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiền phương Lực lượng Đặc nhiệm, Tư lệnh phó Bộ Tư lệnh Quân Viễn chinh Mỹ tại VNCH và, sau cùng, là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Yểm trợ Mỹ (MACV) tại Việt Nam trước khi về Mỹ sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973). Tướng Weyand thăm và tìm hiểu tình hình VNCH từ ngày 28/3 đến 4/4/1975.
“Tình hình quân sự hiện nay đang nguy ngập… Chính phủ VNCH đang cận kề một thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, VNCH đang lên kế hoạch tiếp tục chống giữ với những nguồn lực còn lại của họ và, nếu có được một thời gian để lấy lại sức, họ sẽ xây dựng lại được khả năng của họ tương xứng với sự hỗ trợ vật chất của Mỹ. Tôi tin rằng chúng ta thiếu họ món nợ hỗ trợ đó… Chúng ta đã giơ tay ra cho Nam Việt Nam và họ đã nắm lấy. Giờ đây, họ đang cần đến bàn tay giúp đỡ ấy nhiều hơn bao giờ hết…
“Uy tín của Mỹ, trên cương vị là một nước đồng minh của VNCH, đang bị thử thách tại Nam Việt Nam. Để giữ được uy tín đó, ta phải làm một nỗ lực tối đa để hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam trong lúc này. (Bản phân tích chi tiết hơn được trình bày trong phúc trình đính kèm). Kính trình. Fred C. Weyand”.
Mỹ bỏ rơi Thiệu?
Mở đầu bản phúc trình chi tiết, tướng Weyand viết: “Tôi đã hoàn tất công việc, đã phân tích những dự tính của chính quyền VNCH để có thể phản công Bắc Việt, đã cam kết với Tổng thống Thiệu về sự hậu thuẫn kiên trì của Tổng thống trong cơn khủng hoảng này, và đã xem xét cân nhắc các lựa chọn và các cách thức hành động mà Mỹ có thể thực hiện để trợ giúp VNCH.
Tình hình quân sự của VNCH đang lâm vào tình trạng nguy ngập, và sự tồn tại của Nam Việt Nam là rất mong manh. Chính quyền VNCH đang bên bờ vực của một thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, VNCH dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay và, nếu có thời gian lấy lại sức, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự viện trợ khẩn cấp về trang bị vũ khí, khí tài của phía Mỹ. Tôi cam đoan là chúng ta có bổn phận phải cống hiến sự hỗ trợ này cho họ”.
Và tướng Weyand đề xuất, “mức độ hỗ trợ hiện tại của Mỹ chắc chắn dẫn đến sự thất bại của chính quyền VNCH. Nếu muốn đạt một cơ hội thành công, cần có thêm ngay lập tức 722 triệu dollar để giúp VNCH có được thế phòng thủ tối thiểu chống lại sự tấn công của quân đội Bắc Việt. Sự viện trợ bổ sung này của Mỹ là phù hợp với tinh thần của Hiệp định Paris.
Việc sử dụng hỏa lực của không quân Mỹ để tăng cường khả năng cho Nam Việt Nam chống lại cuộc tấn công của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ trên cả hai bình diện quân sự và tâm lý đối với VNCH, đồng thời sẽ mang lại một thế hòa hoãn cần thiết trên chiến trường”.
Đặc biệt, về các lựa chọn hành động của Mỹ, tướng Weyand phân tích: “Điều mà Mỹ làm hoặc có thể không làm trong những ngày tới đều sẽ định đoạt những biến cố sẽ xảy ra trong vài tuần tới. Một mình Mỹ không thể cứu vãn được Nam Việt Nam nhưng Mỹ cũng có thể, cho dù có vô tình, đẩy VNCH xuống hố chôn”.
Weyand đề nghị cụ thể với Nhà Trắng hai loại hành động. Những hành động ngắn hạn- một phần về mặt vật chất nhưng chủ yếu là về mặt tâm lý - cần thiết để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép được Bắc Việt tạm ngừng tấn công.
Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng, trong tình thế hiện tại, thời giờ là điều tối cần. Những hành động dài hạn - về mặt vật chất nhưng lại có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ- nếu muốn VNCH có hy vọng tồn tại hoặc thương thảo một hiệp ước khác thay vì đầu hàng.
Điều kiện tiên quyết và cấp bách theo tướng Weyand là Nam Việt Nam phải cảm thấy được Mỹ ủng hộ. “Cảm giác này rất quan trọng về mọi mặt. Cảm giác người Mỹ giảm thiểu ủng hộ hay nói cách khác, bỏ rơi Nam Việt Nam, sẽ khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm giác này khiến quân đội VNCH bắt đầu triệt thoái một cách lộ liễu tại các tỉnh phía bắc.
Cảm giác này là do, ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris, 1,6 tỷ dollar được đệ trình Quốc hội về viện trợ cho Nam Việt Nam cho năm tài khóa 1974 chỉ được giải ngân có 1 tỷ 126 triệu dollar (bằng 70 phần trăm yêu cầu); 500 triệu dollar còn lại bị Quốc hội khước từ.
Đối với tài khóa năm 1975 này, khoản viện trợ 1,6 tỷ dollar được đề nghị để duy trì khả năng tự vệ của quân đội VNCH, nhưng cũng chỉ có 700 triệu dollar được chấp thuận (chỉ bằng 44 phần trăm yêu cầu). Những hành động này đã làm phát sinh khủng hoảng lòng tin vào Mỹ của VNCH”-Weyand viết.
Ý định mang B-52 vào lại Nam Việt Nam
Tướng Weyand kết luận, điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của VNCH nằm trong khả năng của chính quyền Thiệu có ổn định được tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống lại sức tấn công của Bắc Việt hay không.
Song khả năng này lại tùy thuộc phần lớn vào khả năng thuyết phục giới quân sự và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chặn đứng được Bắc Việt.
“Tuy đó là trách nhiệm chính của chính phủ VNCH, các hành động của Mỹ lại mang tính quyết định trong việc lấy lại niềm tin. Hành động mà Mỹ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho cuộc chiến Việt Nam là sử dụng không quân Mỹ để chặn đứng thế tấn công hiện tại của Bắc Việt.
Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, sự tấn công này sẽ gây tổn thất lớn cho quân đội Bắc Việt và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với họ. Cuộc không kích này cũng sẽ khiến Hà Nội phải suy nghĩ lại.
Tướng lĩnh quân đội VNCH mọi cấp bậc đều lặp đi lặp lại mức độ quan trọng của việc Mỹ cho sử dụng pháo đài bay B-52 phản công chống lại quân đội Bắc Việt, và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức được các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không kích này”-Tướng Weyand đề xuất với Tổng thống Ford.
Về kế hoạch di tản, tướng Weyand đề nghị, do có những biến chuyển cực kỳ nhanh chóng từ các biến cố ở Nam Việt Nam, Tổng thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lý do thận trọng, Mỹ phải lập tức có ngay một kế hoạch di tản đại qui mô cho 6.000 người Mỹ đang có mặt ở Nam Việt Nam và hàng vạn người Việt trong chính quyền Thiệu mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ.
“Bài học tại Đà Nẵng cho thấy việc di tản này đòi hỏi tối thiểu một sư đoàn lính Mỹ được yểm trợ bởi không quân tác chiến để đập tan pháo binh và hỏa lực phòng không của Bắc Việt.
Khi tình thế đòi hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rõ ràng về ý định của Mỹ sẽ dùng tới vũ lực để đảm bảo tính mạng cho số người (cả Mỹ và Việt) được di tản.
Nhà Trắng phải được Quốc hội Mỹ cho toàn quyền sử dụng các hình phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công việc di tản. Thế giới vẫn đánh giá sự trung tín của Mỹ với tư cách là đồng minh của VNCH. Nhưng để duy trì sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay” - Tướng Weyand viết.
Nhưng ở thời điểm đó, ông Ford khó mà làm được những điều tướng Weyand đề xuất, ngoại trừ kế hoạch di tản. Ông ta đang phải sửa soạn một chiến dịch để ra tranh cử chức tổng thống vào năm 1976, và các cố vấn của ông Ford tại Nhà Trắng đều khuyên ông: “Hãy đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến Việt Nam”.
Ông Ford chắc phải nghe cố vấn vì có lẽ ông ta mặc cảm là chưa hề được dân chúng Mỹ bầu lên vị trí người đứng đầu cơ quan hành pháp Mỹ - chức Tổng thống.
Từ một Hạ nghị sĩ, ông Ford được Nixon cất nhắc lên làm Phó Tổng thống tháng 12/1973, sau khi Phó Tổng thống Agnew từ chức.Sau đó, ông nhảy vọt lên chức Tổng thống khi Nixon phải ra đi do vụ scandal Watergate vào tháng 9/1974.
TP - Ngày 2/4/1975, Tổng thống Thiệu miêu tả kế hoạch của mình với Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley và trùm CIA Sài Gòn Polgar về những nỗ lực tử thủ và ổn định tình thế cho VNCH, song nó đã bị "nhốt vào rọ" và bị trì hoãn thực hiện bởi các chính trị gia đầy đố kỵ của Nam Việt Nam.
CIA không ủng hộ đảo chính
Thiệu lập bộ tư lệnh hành quân lưu động nằm trong Bộ Tổng tham mưu của tướng Cao Văn Viên. Nhưng các tướng lĩnh thất trận ở cao nguyên và Huế như Phạm Văn Phú, Lâm Quang Thi, Hồ Văn Kỳ Thoại, Nguyễn Văn Khánh… lại bị phạt giam lỏng tại đây để viết kiểm điểm.
Còn các chính trị gia lại khẩn trương xúc tiến thiết lập một chính phủ Nam Việt Nam gồm nhiều thành phần có đủ sức nặng và cùng chung mối quan tâm đến việc đàm phán với Bắc Việt về chuyện ngừng bắn.
Hôm sau, Polgar báo cáo về tổng hành dinh CIA rằng tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ liên kết với Chủ tịch Thượng viện VNCH Trần Văn Lắm tập hợp một danh sách nhân sự dự kiến cho chính phủ như vậy.
Đúng lúc Thiệu có thể đàn áp ý định này (tướng Đặng Văn Quang và tướng Nguyễn Khắc Bình - Tư lệnh cảnh sát quốc gia, thậm chí cho Polgar biết kế hoạch chi tiết đàn áp các phần tử đối lập), thì Dân biểu ở Thượng viện VNCH lại nhất trí yêu cầu phải có một nhà lãnh đạo mới thay thế Thiệu.
Đề cập bóng gió về chủ đề này với Đại sứ Martin, Polgar cho rằng Thiệu thiếu khôn ngoan và linh hoạt để xử lý những thành phần bất đồng trong chính phủ VNCH. Hơn nữa, nếu Tổng thống Thiệu tiếp tục tại vị, Bắc Việt sẽ đi đến một chiến thắng quân sự. Giám đốc CIA Colby tỏ ra nóng nảy, chỉ thị Polgar không được can dự vào bất kỳ hoạt động nào nhằm lật đổ Thiệu.
Lúc này, tướng Charles Timmes được CIA giao cho vai trò liên lạc viên giữa CIA và nhóm tướng lĩnh trẻ của quân đội VNCH, mà ông Timmes đã kết làm bạn trong những ngày tháng ông là trưởng phái đoàn cố vấn Mỹ chiến trường (năm 1962-1964, tướng Timmes được chọn làm người đứng đầu phái đoàn cố vấn Mỹ ở VNCH).
Khi biết tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đang tìm cách đảo chính Thiệu, tướng Timmes chở Đại sứ Martin trên chiếc Volkswagen của ông tới gặp tướng Kỳ tại nhà (trong sân bay Tân Sơn Nhất), và hai người cố làm cho tướng Kỳ tin rằng họ sẽ ủng hộ ông ta làm tổng thống tương lai nếu ông biết kiên nhẫn chờ đợi và đừng chống lại Thiệu. Nhưng có nhiều dấu hiệu khác cho thấy một cuộc đảo chính có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Và Đại sứ Martin lẫn CIA không ủng hộ tướng Kỳ làm đảo chính.
Sáng 8/4, một máy bay A-37 của viên phi công VNCH đảo ngũ theo Bắc Việt đánh bom Dinh Độc lập. May mắn là bom chỉ làm sập văn phòng của tướng Quang, cố vấn an ninh của Thiệu. Trước việc quân đội Bắc Việt tiếp tục khai thác lợi thế của họ trên chiến trường, phản ứng yếu ớt của VNCH cũng như Phái bộ Mỹ y như là "một chú hươu ngơ ngác chôn chân khi ngọn đèn pha sáng chói rọi vào mắt".
Cùng ngày 8/4, bộ phận CIA ở Tây Ninh báo cáo rằng Bắc Việt đã quyết định một chiến dịch tấn công thần tốc để giải phóng miền Nam cho dù chính quyền Thiệu sụp đổ hay là được Mỹ tăng viện. Tức là sẽ không có việc đàm phán cũng chẳng có chuyện thành lập một chính phủ liên hiệp, mà "quân đội Bắc Việt sẽ tấn công Sài Gòn trong thời gian thích hợp".
Ngày định đoạt
Trong lúc ấy, Polgar nhận thấy Phái bộ Mỹ vẫn giống như một "con tàu không bánh lái" mặc dù Đại sứ Martin đã trở lại Sài Gòn điều hành. Ngày 9/4, Polgar than phiền về việc quá lãng phí thời gian để tranh cãi về tính hợp lệ của những tin xấu đổ về từ các nguồn tin tình báo của mình, và lưu ý rằng, gia đình những người Việt làm cho Mỹ và công chức chính quyền VNCH ùn ùn mang theo đồ đạc dồn ứ ở cảng Sài Gòn, trong khi hai tàu Mỹ rời cảng lại rỗng không vì Tòa Đại sứ Mỹ không cho lệnh chuyên chở.
Đại sứ Martin một mặt vẫn cố gắng lái Washington vào việc viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, mặt khác, tìm cách duy trì cảm giác mọi hoạt động vẫn bình thường ở Sài Gòn dù trên thực tế tình hình mỗi ngày một tồi tệ.
Cùng trong báo cáo này, Polgar nhận định, quân đội Bắc Việt sẽ tấn công nhằm vào các tỉnh lỵ gần Sài Gòn để tạo đòn quyết định đánh chiếm Sài Gòn trước tháng sáu. Polgar cũng lưu ý, trong vòng hai tuần gần nhất, nội các Thiệu chẳng có hoạt động điều hành gì cả, thậm chí, suốt một tuần liền, Đại sứ Martin không trông thấy mặt Thiệu.
Đại sứ Martin đồng ý với nhận định, ông Thiệu đang ngồi ở vị trí quá sức của ông ta nhưng không thể đẩy ông ta đi khi chưa tìm được một "giải pháp thay thế sống còn". Polgar kết luận sẽ không có chuyện "tránh được một cuộc đổ máu vô ích chỉ bằng việc Thiệu từ chức và một chính phủ liên hiệp đủ tin cậy đề nghị thực thi điều khoản Hiệp định Paris về sự đầu hàng trong trật tự" sau khi Mỹ rút đi.
Đúng lúc ấy, mật lệnh của Giám đốc CIA Colby được đánh sang Sài Gòn: Những người Việt làm cho CIA đều phải rời khỏi Nam Việt Nam ngay; nếu thiếu phương tiện tại chỗ, Colby sẽ điều thêm máy bay thương mại sang Sài Gòn. Nhưng chính Polgar lại vẫn hoài nghi về tính khẩn cấp của mệnh lệnh này.
Tại bữa tiệc tối ở văn phòng CIA Sài Gòn, Chip Schofield nhân viên Phái bộ Mỹ hỏi Polgar rằng "trong hoàn cảnh nào thì yêu cầu di tản Phái bộ Mỹ?". Lúc đó (ngày 9/4) quân đội Bắc Việt bắt đầu tấn công Xuân Lộc (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Polgar thừa nhận việc mất Biên Hòa và con đường cao tốc duy nhất từ Sài Gòn xuống Vũng Tàu đã bị chặn. Kế hoạch di tản trong một kết cục như thế là phi thực tế.
Ông ta còn lo ngại, bất cứ một thông báo nào về cuộc di tản tổng thể đưa ra lúc này đều sẽ gây hoảng loạn cho Phái bộ Mỹ. Vì thế, trong mọi trường hợp Polgar phải ngăn cản một chính phủ liên hiệp dù chỉ để che đậy một cách mong manh kết cục phải đầu hàng sắp ập đến với Nam Việt Nam, có vậy mới ngăn ngừa được những rắc rối xảy đến cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ.
Quan điểm này trái ngược với báo cáo của Polgar ngày 9/4 gửi cho tổng hành dinh dự báo về một cuộc tấn công mang tính quyết định của quân đội Bắc Việt. Sau đó, Polgar nhanh chóng được chỉ định bắt đầu với vai trò trọng yếu chính thức trong nỗ lực đàm phán để có một giải pháp cho phép người Mỹ và quân đội VNCH triệt thoái trong trật tự, và có lẽ chỉ cần duy trì một bộ phận nhỏ của Phái bộ Mỹ.
Một lý do gây tâm lý bi quan về sự thành công của kế hoạch di tản là áp lực của quân đội. Phó văn phòng CIA Sài Gòn LaGueux -người chứng kiến từ trên máy bay cảnh tháo chạy thê thảm khỏi Cao nguyên và Đà Nẵng của quân đội VNCH- thực sự hoảng sợ cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ nếu diễn ra trong một tình trạng hỗn loạn như vậy.
Polgar đồng ý với sự nhìn nhận này của LaGueux rằng cuộc di tản khỏi Sài Gòn trong trật tự của tất cả người Mỹ và, mọi thỏa hiệp, dàn xếp của Nam Việt Nam không chắc thành công trong hoàn cảnh đang hỗn loạn tương tự như vậy. Bởi thế Polgar ủy quyền cho LaGueux chuẩn bị một kịch bản di tản trong trường hợp xấu nhất gửi về Washington.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị T.Ư Đảng quyết định: Thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4, không để chậm. Với phương châm "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Từ thời khắc này, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt.
Ngày 8/4/1975, tại Sở Chỉ huy Miền, ông Lê Đức Thọ công bố quyết định ngày 6/4 của Bộ Chính trị thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sài Gòn - Gia Định. Đại tướng Văn Tiến Dũng là Tư lệnh; ông Phạm Hùng (Bí thư T.Ư Cục miền Nam) là Chính ủy.
Các ông Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện là Phó Tư lệnh; ông Lê Quang Hòa là Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị; ông Lê Ngọc Hiền là quyền Tham mưu trưởng.
Ông Lê Đức Thọ tham gia T.Ư Cục và Đảng ủy mặt trận. T.Ư Cục phân công ông Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư T.Ư Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là ở Sài Gòn; ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên Thường vụ T.Ư Cục, chỉ đạo việc tiếp quản thành phố.
(Nguồn: Tổng Hành dinh trong mùa xuân đại thắng của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
TP - Cuối tháng 1/1972, Polgar được CIA cử sang Sài Gòn thay Ted Shackley làm trưởng văn phòng CIA Sài Gòn.
Tham gia CIA từ khi cơ quan tình báo này thành lập (1947), sinh ra và lớn lên ở Hungary nên, ngoài tiếng mẹ đẻ, Polgar giỏi tiếng Đức và tiếng Anh. Do vậy ông ta hoạt động cho CIA chủ yếu ở Đức và Đông Âu.
Cuộc gặp gỡ gượng gạo
Lần đầu tiên hoạt động tại Nam Việt Nam, Polgar kế thừa mạng lưới mà Shackley dày công thiết kế trước khi được tổng hành dinh CIA cất nhắc lên chức Trưởng phân ban Đông Á, trở thành sếp trực tiếp của Polgar. Nhờ khả năng và kinh nghiệm, Polgar dần trở thành nhân vật quan trọng thứ hai trong tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, chỉ sau Bunker.
Tháng 4/1973, Đại sứ Bunker cùng Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu bay sang Mỹ trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của người đứng đầu chính quyền VNCH. Polgar tháp tùng Bunker đến San Clemente (bang California), nơi Tổng thống Mỹ Nixon tiếp Thiệu tại biệt thự riêng bên bờ biển.
Tại đây, Polgar được Ngoại trưởng Kissinger mời bữa ăn sáng thân mật. Không rõ nội dung bàn luận giữa hai người trong bữa ăn sáng ấy nhưng, ngay buổi chiều, Martin người vừa được Nixon quyết định bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam thay thế Bunker (nhưng chưa chính thức nhậm chức) đột ngột gõ cửa phòng Polgar.
Martin xa gần muốn biết nội dung trao đổi của Kissinger với Polgar. Cuộc trao đổi ngắn nhưng Polgar trực tiếp cảm nhận phong cách "lôi cuốn và mưu lược" vẫn được đồn thổi của Martin. Polgar đảm bảo với Martin rằng, với tư cách là Trưởng văn phòng CIA ở Sài Gòn, sẽ làm việc hết mình cho ngài tân Đại sứ.
Dù cuộc gặp đầu tiên giữa hai người rất gượng gạo nhưng, sau đó, mối quan hệ giữa họ trở nên tốt đẹp hơn nhiều ở Sài Gòn và như một cặp bài trùng mãi cho đến những ngày cuối cùng trước khi Sài Gòn sụp đổ mới nảy sinh bất đồng.
Trở lại Sài Gòn, Polgar tình cờ gặp tướng Szuecs (thành viên trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế Giám sát Hiệp định Paris) tại sân bay Tân Sơn Nhất, khi đang được một bác sỹ quân y người Hungary thăm khám.
Biết rõ CIA đang điều hành một bệnh viện tại Sài Gòn, vị bác sĩ này lại đang loay hoay kiếm biệt dược trị sốt rét cho các thành viên phái đoàn Hungary trong Trại Davis. Viên thư ký thứ nhất của đoàn Hungary đến và, qua giới thiệu, họ nhận nhau là đồng nghiệp vì đều là tình báo.
Sau đó, gần gũi hơn qua một cuộc nhậu, nhưng Polgar tạm không sử dụng "mối quan hệ Hungary" này mãi cho đến khi lâm vào tình huống cấp bách giữa tháng 4/1975. Như vậy, vô tình, đại diện phe cộng sản trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế đem đến cho CIA Sài Gòn cơ hội tuyển mộ một nguồn tin quan trọng mà sau này Polgar coi đó "là sự tuyển mộ giật gân nhất của CIA tại Nam Việt Nam".
Ông Đại sứ Cà phê
Tháng 7/1973, thời điểm mà sau này Polgar gọi là "khoảng lặng trước cơn bão", Graham Martin đến Sài Gòn chính thức nhậm chức Đại sứ Mỹ tại VNCH. Lúc đầu Thiệu rất dè dặt vì, với bản tính đa nghi, biết Martin từng chống việc Mỹ mang quân vào Việt Nam (năm 1965), rồi sau đó lại chống việc Mỹ đem không quân vào Thái Lan hồi còn làm Đại sứ ở Thái Lan, Thiệu lo ngại ông ta sẽ là một Cabot Lodge thứ hai (Đại sứ Cabot Lodge là người đứng sau cuộc đảo chính Diệm năm 1963).
Năm 1967, Martin bị Ngoại trưởng Dan Rusk cho về Mỹ ngồi chơi xơi nước vì quá bướng bỉnh chống việc Mỹ mang không quân vào Thái Lan. Nhưng là bạn của Tổng thống Nixon, Martin được Nixon phục chức, bổ làm Đại sứ Mỹ tại Italia một năm sau khi Nixon thắng cử.
Tuy nhiên, sau đó Thiệu nhận ra rằng Martin là một người ủng hộ Nam Việt Nam. Lý do chính là Martin muốn bảo vệ uy tín của Mỹ trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Ông là con một mục sư đạo Tin lành dòng Baptist khá nghiêm ngặt ở Mars Hill thuộc bang Bắc Carolina.
Martin có một cháu trai tên là Glenn (phi công trực thăng quân đội Mỹ) tử trận tại cao nguyên Nam Việt Nam. Martin nghiện thuốc lá nặng và làm việc rất khuya, lúc nào cũng trầm lặng, kín đáo. Ông rất ít giao thiệp với các vị đại sứ khác, trừ Đại sứ Pháp Merillon vì hai tòa đại sứ nằm sát nhau.
Nhân viên sứ quán thấy Martin khó gần và cho rằng ông còn lạnh lùng hơn cả Bunker có biệt danh là "Đại sứ tủ lạnh". Tổng thống Thiệu gọi Martin là "ông Cà phê" vì hồi ấy Sài Gòn có cà phê Pháp nhãn hiệu Martin nổi tiếng.
Martin dường như không thay đổi gì cách tiếp cận của Phái bộ Mỹ đối với quyền lợi cơ bản của Mỹ ở Nam Việt Nam. Tiếp tục công việc và bằng tính toán của riêng mình, Polgar trở thành người "gần cận và tâm phúc nhất của Đại sứ Martin".
Mối quan hệ của hai người ngày càng tốt đẹp mặc dù Polgar quan hệ thân thiết với các nhà báo Mỹ, điều mà Martin vốn không thích (vì ông từng làm báo địa phương ở Mỹ). Vai trò của Polgar lúc đó mở rộng sang việc giúp đỡ Martin trong việc lựa chọn một cấp phó mới, và sau cùng là cân nhắc hộ Martin kế hoạch di tản những quan chức cao cấp của Sứ quán.
Martin cũng sử dụng CIA Sài Gòn vừa là kênh thông tin vừa là công cụ gây ảnh hưởng lên giới tướng lĩnh chính quyền Sài Gòn, y hệt cách mà ông Bunker - người tiền nhiệm của Martin - đã làm. Như những gì LaGueux - cấp phó của Polgar- chứng kiến, một trong những lý do là CIA Sài Gòn biết giữ kín những tính toán bí mật của Đại sứ Martin ngay cả trong các quyết định riêng theo thẩm quyền của văn phòng này.
CIA Sài Gòn dùng các mối quan hệ của mình để giám sát và phần nào kiềm chế Tổng thống Thiệu. Các kênh đặc biệt này là Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cố vấn an ninh cho Thiệu là Tướng Đặng Văn Quang. Thỉnh thoảng CIA cũng sử dụng Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát kiêm Giám đốc Cơ quan Tình báo quốc gia của chính quyền Thiệu. Vai trò của CIA Sài Gòn sau Hiệp định Paris chỉ là tranh thủ tìm một hướng mới khả dĩ cho người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong danh dự.
Nước cờ di tản mới của Polgar
Sau khi mất Biên Hòa, trực giác dẫn dắt Polgar lao vào một cuộc thương lượng cho ngày đầu hàng của VNCH. Trong bản báo cáo đầy thất vọng ngày 10/4, Polgar tiên đoán người Mỹ sẽ thất bại trong việc gây áp lực với Hà Nội.
Thiệu đã mất hết tín nhiệm, còn Thủ tướng Khiêm thì không có may mắn trong việc tập hợp một chính phủ liên hiệp với ý định thuyết phục Hà Nội chấp thuận việc đầu hàng muộn hơn của VNCH. Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn chẳng may mắn hơn Khiêm khi ông ta được đề nghị thay Khiêm làm Thủ tướng.
"Thế là cuộc chiến đã kết thúc"-Polgar buồn rầu nghĩ, khác hẳn với nhận thức hồi cuối tháng 2/1975 khi chính ông ta cho rằng "một viễn cảnh khá cho một kết cục tương đối thuận lợi" vì cho phép người Mỹ rút khỏi cuộc chiến Việt Nam trong danh dự. Nhưng các biến cố trong tháng 3/1975 làm thay đổi tất cả.
Polgar đề ra bốn việc phải làm ngay là tăng tốc cuộc di tản người Mỹ nhưng phải tránh gây hoảng loạn; phát đi thông điệp mạnh mẽ tới Liên Xô và Pháp để dàn xếp việc Bắc Việt ngừng tấn công; chủ động thay thế Thiệu bằng một chính phủ liên hiệp; và thu xếp một cuộc di tản trong trật tự cho quan chức, sĩ quan VNCH và gia đình họ.
Theo Polgar, bốn việc này mà thành công thì ít nhất người Mỹ cũng đã gia ơn cho VNCH, đồng thời khiến Hà Nội hoàn thành việc loại bỏ Thiệu và sự có mặt của Mỹ tại Nam Việt Nam mà không cần phải đưa xe tăng vào Sài Gòn.
Tổng thống Ford đã có tờ trình về cuộc di tản của người Mỹ và người Việt trong chính quyền VNCH nên, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley muốn Polgar hiểu rằng Washington rất quan tâm đến việc di tản của nhân viên CIA và mạng lưới chân rết người Việt ở Nam Việt Nam.
Polgar đảm bảo với Shackley rằng cho đến ngày 11/4 thì mọi chuyện vẫn trong vòng kiểm soát. Nhưng kịch bản bi quan của cuộc di tản do Phó văn phòng CIA Sài Gòn LaGueux thảo ra đến tay tổng hành dinh CIA vào ngày 12/4, trong đó nhận định cuộc di tản trong trật tự cho tất cả người Mỹ và người Việt làm việc cho Mỹ sẽ khó mà thực hiện được nếu không có sự can thiệp của quân đội Mỹ, bởi vì bản thân cuộc di tản sẽ gây ra cú sốc về tâm lý và chính trị cực kỳ lớn.
CIA Sài Gòn cho rằng, nước Mỹ rõ ràng phải có trách nhiệm di tản ít nhất 250 ngàn người, chưa kể hàng ngàn sĩ quan quân đội VNCH và công chức chính quyền Sài Gòn cùng gia đình họ. Nhưng không có cơ sở khẳng định chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ để yên cho Mỹ thực hiện cuộc di tản đại quy mô này diễn ra.
Trong bất kỳ trường hợp nào, sự sụp đổ của VNCH đều làm cho Sài Gòn náo loạn vì binh lính VNCH thất trận và sự hoảng sợ của dân chúng sẽ không cho phép thực hiện được cuộc di tản quy mô lớn một cách trật tự chỉ trong vòng hai đến ba ngày.
Polgar lường trước rằng, sự hoảng loạn là hậu quả lập tức của bất kỳ cố gắng nào để thu xếp một cuộc di tản quy mô lớn cho hơn một triệu người miền Nam Việt Nam, trong đó hơn một nửa phải thỉnh cầu để được di tản.
Polgar có bằng chứng rằng một bộ phận quân đội VNCH đang phải giữ các nhân viên dân sự người Mỹ ở Nam Việt Nam như là một điều kiện giúp đảm bảo cho sự an toàn và chắc chắn được di tản của chính họ. Sự lo ngại này khiến cho tổng hành dinh CIA và CIA Sài Gòn bắt đầu theo đuổi một chiến lược khác, mà sau này mới biết là không thích hợp.
Ngày 17/4/1975, Kissinger gửi mật điện thúc giục Đại sứ Martin: "Hãy ra đi cho mau, và ngay lập tức", nhưng Martin cố tình câu giờ vì sợ chính quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào người Mỹ, nếu người Mỹ di tản quá sớm bỏ rơi Nam Việt Nam. Ông ta sốt ruột phái người ra Hà Nội rồi khẩn thiết yêu cầu Kissinger đàm phán với Hà Nội để cố gắng có được 2 tuần thu xếp một cuộc di tản trong trật tự. Trong lúc nước sôi lửa bỏng ấy, Polgar không điều hành được các nhân viên CIA mà chỉ lo đôn đáo gặp ký giả Browne của tờ Time và nguồn tin người Hungary trong Trại Davis, khiến ông Martin nổi đóa dọa "thiến" Polgar.
Kissinger điện cho Polgar vào ngày 19/4 yêu cầu trợ giúp thân nhân của các nhân viên thuộc cả hai Hội đồng an ninh quốc gia. Polgar tuân theo nên cử Chip Schofield-một chuyên gia thông thạo cả tiếng Việt và tiếng Quảng Đông, tới Chợ Lớn để tìm Sino- con rể người Việt của một quan chức hội đồng an ninh quốc gia tên là Ken Quinn.
Schofield rất lo lắng cho gia đình người vợ Việt của ông ta, do không nhận được sự bảo đảm từ CIA Sài Gòn, nên ông ta yêu cầu Polgar gửi đến cho họ máy bay vận tải C-130. Đó là yêu cầu chính đáng nên Polgar phải đồng ý. Những chuyến bay đầu tiên đến và toàn bộ trung tâm tùy viên quân sự không chính thức đã di tản sang căn cứ không quân Clark ở Philippines.
Theo ước tính của Lầu Năm Góc, sẽ phải cần tới ba sư đoàn lính Mỹ để hỗ trợ cho cuộc di tản của người Mỹ và người Việt làm cho Mỹ, nếu tình hình Sài Gòn tồi tệ hơn dự đoán.
Trước đó, ngày 17/4, Đại sứ Martin nhận bức điện tối mật từ Kissinger, trong đó có đoạn “Tôi vừa họp xong để duyệt xét tình hình VNCH. Ông Đại sứ phải biết rằng Ủy ban Đặc biệt Washington hầu như không có ai ủng hộ việc di tản người Việt và việc dùng quân lực Mỹ yểm trợ việc di tản của bất cứ người Việt nào. Quan điểm chung của các giới quân sự, Bộ Quốc phòng và CIA là phải rút ra cho nhanh và ngay lập tức”. Lệnh khẩn cấp ấy khiến Martin phản ứng.
Martin báo động cho Kissinger là nếu chỉ cho di tản người Mỹ thôi thì rất nguy hiểm. Nhưng Kissinger trả lời: “Mặc dù đồng ý với lo ngại của Đại sứ, điều hết sức cần thiết là Đại sứ phải xúc tiến cho nhanh việc di tản những công dân Mỹ khỏi Nam Việt Nam. Làm sao để vào ngày 22/4, tất cả số công dân Mỹ ở Nam Việt Nam chỉ còn lại cao nhất là 2.000 người mà thôi”.
Có nghĩa là trong vòng chỉ năm ngày, Martin phải di tản khoảng 4.000 người Mỹ. Polgar gửi CIA báo cáo về sự di chuyển nhanh chóng của quân đội Bắc Việt đe dọa trực tiếp Sài Gòn, trong khi quân đội VNCH không còn cơ tồn tại.
Ngày 19/4, lúc Martin đang cuống lên thì lại nhận thêm mật lệnh mới từ Kissinger rằng, Tổng thống Ford đã chấp thuận yêu cầu phải giảm số người Mỹ xuống chỉ còn 1.250 vào ngày 22/4 (đây là số lượng được tính toán để trực thăng có thể bốc đi trong vòng một ngày).
Trong khi Polgar lên danh sách và yêu cầu phân ban CIA Đông Á thu xếp một cuộc di tản cho 3.000 người Việt cộng tác với CIA bằng trực thăng thì Shackley, Trưởng phân ban Đông Á của CIA chỉ thông báo lệnh của Washington là phải giảm số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn tối đa là 1.100 vì các chuyến bay thương mại đến Sài Gòn đã bị ngừng.
Tin tức tình báo của CIA cho thấy dấu hiệu về việc sân bay Tân Sơn Nhất có thể đã nằm trong tầm pháo kích của quân đội Bắc Việt, vì vậy Washington thay thế máy bay thương mại bằng trực thăng để đưa người Mỹ di tản. Trực thăng sẽ đậu xuống tòa Đại sứ Mỹ và những nóc các tòa nhà cao tầng ở trung tâm Sài Gòn.
Nhà Trắng đồng ý hỗ trợ hậu cần cho việc di tản năm vạn người Việt. Số người này phải thuộc diện có rủi ro cao độ như Bộ Ngoại giao Mỹ vạch rõ: “Những nhân viên làm việc cho Mỹ và gia đình của họ; thân nhân của công dân Mỹ; viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH”.
Trước đó, Quốc hội Mỹ không đồng ý chi tiền cho cho cuộc di tản 174.000 người Việt, vì “sẽ phải cần đến một lực lượng quân đội Mỹ rất lớn trong một cuộc chiến khá dài”. Điều này cũng chính là nỗi lo sợ nhất của Đại sứ Martin.
Thời điểm ấy có rất nhiều kế hoạch điên rồ được đưa ra khiến Martin phải cố ngăn chặn. Để trợ giúp cho cuộc di tản yên ổn, Mỹ có bốn dự định: thứ nhất, mang thủy quân lục chiến vào Sài Gòn để di tản 6.000 người Mỹ và một số ít người Việt; hai, tác động với phía VNCH để tránh tình trạng hỗn loạn vào giờ chót; ba, nhờ cậy Liên Xô dàn xếp với Hà Nội để không cản trở việc Mỹ di tản; bốn, sắp xếp một giải pháp chính trị để có một thời gian chuyển tiếp.
TP - Nhà Trắng úp mở việc thảo luận về “tình huống đặc biệt cần thiết” với Liên Xô, đồng nghĩa với việc đánh tiếng cho ông Thiệu phải từ chức.
Kissinger điện mật cho Martin nói rằng, Tổng Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev nhắn là “Hà Nội đã tìm được mục tiêu chính trị cuối cùng nên không quan tâm đến việc làm bẽ mặt Mỹ nữa”.
Đến nước này thì Thiệu phải ra đi thôi. Nhưng hai ngày 20 và 21/4 ở Sài Gòn lại rơi vào thứ Bảy và Chủ nhật nên Martin rất khổ để gặp được Thiệu.
Ngày 21/4, tại Sài Gòn, Martin bắn tiếng cho Thiệu rằng nên từ chức, với cách nói như đây chỉ là theo ý riêng cá nhân của ông ta. Martin cho Thiệu xem bản đồ của CIA về tình hình rất bi đát của VNCH để thuyết phục Thiệu.
Dàn xếp vừa xong, Martin lại nhận được mật điện rất lạ từ Kissinger, với ý muốn trì hoãn việc Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu, lờ đi không thi hành.
Sáng 21/4, Polgar lại tiếp xúc với Toth, đại tá quân đội Hungary ở Trại Davis (trong sân bay Tân Sơn Nhất) với yêu cầu làm rõ những điều kiện của phía Bắc Việt với Mỹ để cuộc đàm phán ngừng bắn được bắt đầu. Toth bảo Polgar, việc đó ông ta phải hỏi Đại sứ Hungary tại Hà Nội và cam đoan nếu có thông tin sẽ báo ngay cho Polgar.
Chiều hôm đó, Toth báo lại với Polgar là Đại sứ Hungary không trả lời được, nhưng Polgar vẫn cho rằng việc Thiệu từ chức là điều kiện tiên quyết để Bắc Việt chấp nhận đàm phán ngừng bắn.
Sau cuộc gặp Đại sứ Martin, Thiệu họp với các tướng lĩnh trong Dinh Độc Lập thông báo nội dung Martin đề cập và nói đại ý, nếu các tướng lĩnh coi Tổng thống là chướng ngại vật cho đàm phán ngừng bắn thì ông sẽ từ chức.
Chẳng ai phát biểu gì cả! Thiệu buộc phải tuyên bố từ chức để Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Chiều 21/4, Thiệu lên truyền hình thông báo quyết định từ chức, lòng đầy cay đắng.
Sáng 25/4, bốn ngày sau khi tiếp nhận chức Tổng thống, ông Trần Văn Hương gọi điện cho Martin phàn nàn rằng người ta nói ông chỉ điều hành một nội các Thiệu mà không có Thiệu. Ông Hương yêu cầu Đại sứ Martin dàn xếp để Thiệu ra nước ngoài. Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Sài Gòn vì nếu không, cộng sản sẽ nói “tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu”.
Thiệu ngập ngừng nhưng nửa tiếng sau gọi điện cho Martin nói đồng ý và nhờ Martin thu xếp chuyến ra đi lặng lẽ khỏi Nam Việt Nam. Để hợp pháp hóa chuyến đi của Thiệu, ông Hương ký văn bản đề cử Thiệu làm đặc sứ VNCH sang Đài Bắc viếng Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5/4. Martin một mặt nhờ Polgar bố trí, một mặt điều chiếc máy bay C-118 thuộc quyền sử dụng của ông từ Bangkok bay sang Sài Gòn trong đêm 25/4.
Chiều muộn, Polgar và tướng Timmes đón Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà cựu Thủ tướng Khiêm (từng là Đại sứ VNCH tại Đài Bắc) nằm trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị bốn chiếc công xa màu đen của Tòa Đại sứ Mỹ cắm cờ ngoại giao, chở mọi người ra sân bay Tân Sơn Nhất. Martin yêu cầu tất cả lái xe đều là người Mỹ, nên chiếc Mercedes cũ chở Thiệu do Frank Snepp, nhân viên phân tích tình báo của CIA Sài Gòn lái.
Đoàn xe chạy đến chân cầu thang máy bay, Đại sứ Martin đợi sẵn ở đó để tiễn Thiệu. 14 người, tất cả là đàn ông lặng lẽ lên máy bay. Buồn thảm và cam chịu, Thiệu vẫn cố giữ phong độ, quay lại cám ơn Đại sứ Martin dàn xếp chuyến đi. Polgar điện về tổng hành dinh CIA. “Đúng 21 giờ 20 giờ Sài Gòn, cựu Tổng thống Thiệu, cựu Thủ tướng Khiêm di tản khỏi Nam Việt Nam”.
Polgar cam đoan Thiệu không thể mang 16 tấn vàng (thời giá lúc đó tương đương 170 triệu dollar) sang Đài Bắc trong chuyến bay đó. Số vàng này thuộc ngân khố dự trữ quốc gia của VNCH và hồi cuối tháng 3/1975, Thiệu có ý định đem nó ra thế chấp để vay tiền từ Arập Xê út để mua vũ khí cho quân đội.
Đại sứ Martin đã thu xếp giúp để chuyển vàng ra gửi ngân hàng nước ngoài cho an toàn. Ban đầu, Martin thu xếp để chuyển 16 tấn vàng này sang gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ có tên Bank of International Settlement nhằm thế chấp cho khoản vay mua vũ khí từ châu Âu, nhưng tin này lộ ra nên không hãng hàng không thương mại nào nhận chở.
Martin lại thu xếp chuyển nó sang gửi tại ngân hàng Dự trữ Liên bang New York. Nhưng trong khi Mỹ chưa ký được hợp đồng bảo hiểm cho chuyến bay chở số vàng này rời Nam Việt Nam thì ông Thiệu đã ra đi.