Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con. Con trai tên là Hênxen, con gái tên là Grêten. Nhà không đủ ăn. Một năm, trời làm đói kém, miếng bánh hàng ngày cũng chẳng có. Tối hôm ấy, chồng nằm trằn trọc mãi, thở dài bảo vợ:
- Chả biết rồi sao đây? Lương thực cạn rồi, lấy gì nuôi con?
Đói khổ khiến người mẹ đâm ra nhẫn tâm. Hết đường xoay xở, vợ bảo chồng:
- Thầy nó ạ, biết sao đây! Ngày mai, sớm tinh mơ, tôi với nhà đưa chúng vào rừng rậm, đốt lửa lên, cho mỗi đứa một mẩu bánh rồi bỏ chúng đấy mà đi làm. Chúng không biết đường mà về, thế là rảnh.
Chồng đáp:
- Nhà nó ạ, tôi chịu không làm thế được đâu. Nỡ nào đem bỏ con vào rừng cho thú đói ăn thịt!
- Thầy nó thật là điên. Không làm thế thì chết đói cả bốn mạng, chỉ còn việc bào gỗ đóng săng mà thôi.
Người vợ lèo nhèo mãi, kỳ đến lúc chồng phải làm theo ý mình.
Chồng nói:
- Nhưng tôi vẫn thương xót chúng nó lắm!
Hai đứa trẻ đói quá không ngủ được, nghe được hết. Grêten khóc sướt mướt, bảo Hênxen:
- Anh em mình chết đến nơi rồi.
Hênxen đáp:
- Em đừng lo buồn, anh sẽ có cách thoát chết.
Chờ lúc bố mẹ ngủ rồi, nó dậy mặc áo, mở cửa, lén ra ngoài. Trăng sáng. Sỏi trắng ở trước nhà lóng lánh như bạc. Hênxen nhặt sỏi bỏ đầy túi áo, rồi về nhà bảo Grêten:
- Em ơi, cứ yên trí mà ngủ đi.
Rồi nó lại đi ngủ.
Tang tảng sáng, mặt trời chưa mọc thì mẹ đã đến đánh thức hai con:
- Đồ lười! Dậy đi, còn phải vào rừng lấy củi chứ!
Rồi mẹ đưa cho mỗi con một mẩu bánh dặn:
- Chúng mày cầm lấy mà ăn trưa. Chớ có ăn nghiến ngấu
trước, không còn nữa mà cho đâu.
Grêten bỏ bánh vào túi áo và Hênxen đã bỏ đá đầy túi rồi. Cả nhà cùng nhau đi vào rừng.
Đi được một lát, Hênxen chốc chốc lại dừng lại ngoảnh về mé nhà. Bố thấy vậy bảo:
- Hênxen, sao mày cứ lùi lại nhìn gì mãi thế? Liệu đấy, đừng có dềnh dàng.
Hênxen đáp:
- Con nhìn con mèo trắng của nhà ngồi trên mái từ biệt con đấy.
Mẹ nói:
- Đồ ngốc! Không phải con mèo đâu, đấy là ống khói phản chiếu ánh mặt trời đấy.
Hênxen lùi lại không phải để nhìn mèo, mà cốt để rắc sỏi trắng ra đường.
Khi đến giữa rừng, bố nói:
- Chúng mày hãy đi nhặt củi, còn bố đốt lửa để chúng mày khỏi rét.
Hênxen và Grêten đi nhặt củi khô xếp thành đống. Khi ngọn lửa đã cao, củi cháy nỏ, mẹ nói:
- Thôi bây giờ chúng mày nằm gần lửa mà nghỉ. Tao và bố đi đẵn củi, xong sẽ quay về đón.
Hai đứa trẻ ngồi bên lửa. Đến trưa, chúng lấy bánh ra ăn. Nghe thấy tiếng bổ vào cây, chúng tưởng bố chúng ở gần đấy. Nhưng không phải tiếng rìu của bố, mà đó chỉ là tiếng cành cây bị gió đập vào cây khô. Chúng ăn xong, mắt díp lại vì mệt, liền ngủ một giấc say. Khi chúng thức dậy thì trời đã tối như mực. Grêten khóc nói:
- Bây giờ làm thế nào mà ra khỏi rừng được?
Hênxen dỗ em:
- Em cứ đợi một lát, chờ trăng lên, chúng mình sẽ tìm được lối về nhà.
Khi trăng mọc, Hênxen cầm tay em theo vết sỏi lóng lánh như tiền mới mà lần về nhà. Chúng gõ cửa. Mẹ mở, thấy Hênxen và Grêten liền nói:
- Đồ khốn kiếp, sao chúng mày ngủ kỹ ở trong rừng thế? Tao cứ tưởng chúng mày không muốn về nữa.
Bố thấy con về thì mừng lắm vì trong thâm tâm bố không muốn bỏ con. Sau đó ít lâu, trời lại làm đói kém khắp nơi. Một đêm hai anh em nghe thấy mẹ nằm trên giường nói với bố:
- Mọi thứ lại hết sạch rồi. Chỉ còn có nửa cái bánh ăn nốt là hết nhẵn. Phải tống chúng nó đi. Lần này ta đem bỏ chúng vào rừng sâu hơn trước để chúng không tìm được lối về. Bằng không thì không còn cách nào thoát.
Người chồng không đành lòng nghĩ bụng:
- Thà chia nhau với con ăn miếng bánh cuối cùng còn hơn.
Vợ không nghe, chửi chồng thậm tệ, cho là đã chót thì phải trét, lần trước đã theo ý mụ thì lần này cũng phải theo. Hai đứa trẻ chưa ngủ, nghe hết những chuyện bố mẹ bàn nhau. Khi thấy bố mẹ đã ngủ rồi, Hênxen dậy định ra ngoài nhặt sỏi như lần trước. Nhưng mẹ nó đã khóa cửa mất rồi, nó không ra được. Nó dỗ em gái:
- Em ạ, đừng khóc nữa, em cứ ngủ yên đi, anh sẽ có cách.
Sáng sớm tinh mơ, mẹ kéo cổ chúng dậy, cho mỗi đứa một mẩu bánh bé hơn lần trước. Dọc đường đi đến rừng, Hênxen cho tay vào túi bẻ vụn bánh mì ra và chốc chốc lại dừng lại rắc bánh xuống đất.
Bố hỏi Hênxen:
- Sao mày cứ hay dừng chân ngoảnh lại thế? Đi đi.
Hênxen đáp:
- Con nhìn con chim bồ câu của con nó đậu trên mái nhà để chào con kia kìa.
Mụ đàn bà nói:
- Đồ ngốc, không phải là chim bồ câu đâu mà là cái ống khói có mặt trời chiếu vào đấy.
Dù sao, dọc đường, Hênxen cũng rắc được hết bánh. Mụ đàn bà dẫn hai con vào tít chỗ rừng sâu mà từ thủa cha sinh mẹ đẻ mụ chưa tới bao giờ. Sau khi đốt lửa cháy to lên, mụ nói:
- Chúng mày ngồi đó. Lúc nào mệt thì ngủ đi một tí. Tao với bố mày đi đẵn gỗ, chiều tối xong sẽ quay lại đón chúng mày.
Đến trưa Grêten chia bánh cho anh vì bánh của anh đã rắc ở dọc đường rồi. Ăn xong, chúng ngủ. Tối đến, chẳng ai đến đón hai đứa bé đáng thương cả. Đêm tối như mực, hai đứa thức giấc, Hênxen dỗ em gái:
- Em ạ, chờ cho trăng lên, trông rõ bánh anh đã rắc, thì ta lại tìm thấy đường về.
Trăng vừa mọc lên thì hai đứa đứng dậy đi, nhưng chẳng thấy tí bánh nào vì hàng ngàn con chim trong rừng đã ăn mất cả rồi.
Hênxen bảo em:
- Thế nào rồi chúng ta cũng sẽ tìm được đường. Nhưng chúng không tìm ra đường. Chúng đi suốt cả đêm, suốt cả ngày hôm sau, mà không ra được khỏi rừng. Hai anh em bụng đói như cào mà chỉ nhặt được ít quả dại ở dưới đất. Chúng mệt quá, bước không nổi, nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây. Chúng xa nhà đã ba ngày rồi.
Chúng lại đi, đâm sâu mãi vào rừng, và nếu không gặp ai cứu giúp thì đến chết đói, chết mệt thôi. Giữa trưa, chúng thấy một con chim đẹp, trắng như tuyết đậu trên cành hót hay lắm. Chúng liền dừng lại để nghe. Chim hót xong xòe cánh bay trước mặt chúng. Chúng theo chim đến tận một túp nhà con; chim đến đậu trên mái nhà ấy. Chúng lại gần thấy nhà xây bằng bánh mì, lợp bằng bánh ngọt, cửa sổ bằng đường trắng tinh. Hênxen nói:
- Thôi ổn rồi. Chúng ta được bữa ăn ngon đấy. Anh ăn một góc mái nhà, còn em ăn một mảnh cửa sổ, ngọt đấy.
Hênxen giơ tay bẻ một mảnh mái nhà để nếm thử và Grêten đứng bên cửa kính nhấm nháp một mảnh. Bỗng trong nhà có tiếng người nhẹ nhàng vọng ra:
- Ai gặm nhà ta đấy?
Hai đứa trẻ đáp:
- Gió đấy! Gió đấy! Con trời đấy!
Rồi hai đứa cứ việc ăn, không e ngại gì cả. Hênxen thích ăn mái nhà, bẻ một miếng tướng, và Grêten cũng gỡ lấy cả một khung kính tròn xuống. Bỗng cửa mở, một bà lão bé nhỏ chống nạng rón rén bước ra. Hai anh em sợ rụng rời, đánh rời hết cả các thứ cầm trong tay. Bà
lão lắc lư đầu, nói:
- Các cháu yêu dấu, ai đưa các cháu đến đây? Các cháu đừng sợ, cứ vào. Ở đây với bà, bà không làm gì đâu.
Bà lão dắt hai đứa vào, cho ăn ngon: sữa, bánh tráng đường, táo và hạnh đào. Rồi bà sửa soạn hai cái giường nhỏ xinh đẹp trắng tinh cho hai đứa trẻ ngủ. Hai đứa bé ngỡ là ở trên thiên đàng. Nhưng mụ già chỉ giả bộ tử tế ngoài mặt đó thôi. Đó là một mụ phù thủy gian ác rình bắt trẻ con nên làm nhà bằng bánh kẹo để nhử chúng. Khi thấy hai đứa bé vừa tới, mụ đã cười nham hiểm mà nói đùa:
- Chúng mày vào tay bà rồi, có bay lên trời cũng chẳng thoát được tay bà.
Sáng sớm, mụ dậy trước hai đứa, thấy chúng ngủ thật đáng yêu, má hồng phinh phính, mụ lẩm bẩm:
- Thật là món ngon.
Mụ đưa đôi tay khô héo ra nắm lấy Hênxen đem nhốt vào một cái cũi nhỏ, đóng cửa chấn song lại. Thằng bé kêu gào mãi mụ cũng mặc kệ. Rồi mụ đánh thức Grêten dậy bảo:
- Đồ con gái lười chảy thây, đi dậy lấy nước làm một bữa ngon cho anh mày. Nó ở trong cũi kia, tao muốn nó chóng béo. Khi nào nó thực béo, tao sẽ ăn thịt.
Grêten khóc thảm thiết, nhưng nào có ích gì, vì mụ phù thủy sai gì phải làm nấy. Hênxen được ăn thức ăn nấu nướng ngon lành còn Grêten phải ăn thừa. Sáng nào mụ già cũng lê đến bên cũi bảo Hênxen:
- Giơ ngón tay tao xem đã béo chưa.
Hênxen chỉ đưa cho mụ xem một cái xương nhỏ. Mắt kém, mụ tưởng đó là ngón tay thật, lấy làm lạ sao không thấy béo. Được một tháng vẫn không thấy Hênxen béo lên chút nào mụ đâm ra sốt ruột, không muốn chờ nữa. Mụ gọi Grêten:
- Con Grêtên đâu? Nhanh lên, đem nước lại đây, thằng Hênxen dù béo hay gầy, ngày mai tao cũng cứ làm thịt đem nấu.
Khốn nạn con bé vừa xách nước vừa khóc, nước mắt dòng dòng hai má. Nó kêu la:
- Lạy trời phù hộ cho chúng con. Thà để thú dữ ăn thịt trong rừng thì hai anh em cũng được cùng nhau chết.
Mụ già bảo:
- Thôi đừng kêu khóc nữa mà vô ích.
Mới bảnh mắt, Grêten đã phải đặt nồi, lấy nước và dóm bếp. Mụ già bảo:
- Hãy nướng bánh trước đã. Tao đã dóm lò và nhào bột rồi.
Mụ đẩy Grêten đáng thương tới bên lò. Ngọn lửa trong lò đã bắt đầu bốc lên. Mụ già bảo:
- Mày bò vào lò xem đủ nóng chưa, để cho bánh vào nướng.
Mụ định khi Grêten vào lò rồi thì đóng nắp lại, quay ăn một thể. Nhưng Grêten biết ý nói:
- Cháu không biết làm thế nào mà vào được.
Mụ già nói:
- Đồ ngu như bò, lò có cửa khá rộng cơ mà. Trông đây này, tao vào cũng còn lọt nữa là mày.
Mụ lại gần lò và thò đầu vào. Grêten liền đẩy mạnh mụ vào, đóng cửa sắt lại, rồi cài then ở ngoài. Mụ già rú lên khủng khiếp nhưng Grêten đã bỏ chạy để mặc mụ chết thiêu. Em chạy thẳng đến cũi vừa mở cửa cho anh vừa reo:
- Anh ơi, anh em ta thoát rồi, con mụ phù thủy đã chết rồi.
Cửa vừa mở thì Hênxen nhảy ra như con chim trong lồng được thả. Hai anh em vui mừng, ôm nhau hôn. Bây giờ chúng không còn sợ gì nữa, chúng đi xem nhà mụ già thì thấy ở xó nào cũng có những hòm đầy ngọc. Hênxen vừa ních đầy túi vừa nói:
- Của này quí hơn sỏi.
Còn Grêten nói:
- Em cũng phải lấy về nhà mới được.
Lấy đầy túi rồi, em nói:
- Bây giờ hai anh em ta đi ra khỏi khu rừng của mụ phù thủy đi.
Đi được vài giờ, chúng đến bên một cái đầm lớn. Hênxen nói:
- Anh không thấy có cầu, qua sao được?
Grêten bảo:
- Một chiếc thuyền nhỏ cũng chẳng có. Nhưng kia có vịt trắng đang bơi, để em nhờ nó giúp.
Rồi em bảo vịt rằng:
- Vịt ơi vịt, Grêten và Hênxen đây. Kè chẳng có, cầu cũng không. Hãy cõng anh em tôi qua với.
Vịt đến. Hênxen cưỡi lên lưng vịt và bảo em lên ngồi cạnh
mình. Em đáp:
- Thôi anh ạ, ngồi thế nặng quá. Để vịt cõng từng người một.
Vịt tốt bụng cõng làm hai chuyến. Đến bờ bên kia, hai anh em nhận dần ra đường lối trong rừng quen thuộc, và nhìn thấy nhà ở đằng xa. Chúng liền chạy ba chân bốn cẳng, nhảy bổ vào nhà, ôm ghì lấy cổ bố mẹ. Từ ngày bỏ con trong rừng, bố mẹ không lúc nào vui. Grêten dốc túi ngọc xuống đất và Hênxen thò tay vào túi lấy ra từng nắm ngọc. Từ đó, cả nhà hết lo và cùng nhau sống một cuộc đời hạnh phúc.
Ngày xưa có một người đàn bà góa sống cô quạnh trong một túp lều gianh. Trước cửa là một cái vườn có hai cây hoa hồng, một cây ra hoa đỏ, một cây ra hoa trắng. Bà có hai cô con gái, trông đẹp như hai cây hồng. Vì vậy bà đặt tên hai con là Bạch Tuyết và Hồng Hoa.
Hai cô bé rất ngoan ngoãn, hay làm, trần gian thực hiếm có. Bạch Tuyết dịu dàng, thùy mị hơn Hồng Hoa. Hồng Hoa hay chạy nhảy ngoài đồng, hái hoa, bắt bướm. Còn Bạch Tuyết thì luôn ở nhà với mẹ, hoặc giúp việc nội trợ, hoặc đọc sách cho mẹ nghe. Hai chị em yêu nhau lắm, đi đâu cũng dắt tay nhau. Khi Bạch Tuyết nói:
- Chị em chúng ta không rời nhau...
Thì Hồng Hoa nói tiếp:
- ...suốt đời.
Bà mẹ lại nói thêm:
- Hai chị em có gì cũng phải chia nhau nhé.
Hai chị em thường vào rừng hái quả dại. Thú rừng thân mật đến hai chị em, không đụng chạm đến hai em. Thỏ ăn lá trong lòng bàn tay hai em. Hoẵng gặm cỏ bên cạnh hai em. Hươu nhảy nhót gần hai em. Chim trên cành hót vui tai hai em. Hai em không bao giờ bị nạn. Khi nào nhỡ muộn không về được, thì hai em nằm sát nhau trên thảm rêu, ngủ lại trong rừng đến sáng, mẹ biết vậy nên cũng chẳng lo ngại gì.
Bạch Tuyết và Hồng Hoa quét tước nhà cửa sạch sẽ lắm, nhìn vào thật thích mắt. Mùa hè thì Hồng Hoa làm công việc nội trợ, sáng nào cũng đặt trước giường mẹ một bó hoa trong đó có một bông hoa hồng trắng và một bông hoa hồng đỏ hái ở hai cây hồng của nhà. Mùa đông thì Bạch Tuyết đốt lửa và móc nồi lên bếp lửa. Nồi bằng đồng đánh sáng nhoáng như vàng. Tối đến, khi tuyết xuống, thì mẹ lại bảo:
- Bạch Tuyết ơi, con ra cài then cửa lại.
Rồi ba mẹ con ngồi bên lửa. Mẹ đeo kính, lấy quyển sách to ra đọc. Hai con vừa xe chỉ vừa nghe. Một chú cừu con nằm bên, đằng sau có một con chim gáy đậu, đầu rúc vào cánh. Một buổi tối, mẹ con đang quây quần êm ái như thế, thì có tiếng gõ cửa. Mẹ bảo:
- Hồng Hoa, con chạy mau ra mở cửa, chắc có khách bộ hành tìm chỗ trú đêm đấy.
Hồng Hoa ra mở cửa, tưởng là thấy một người nghèo khổ. Nhưng không, một con gấu thò đầu to kệch và đen xì vào. Em hét lên một tiếng, lùi lại. Đồng thời cừu con kêu be be, chim gáy vỗ
cánh và Bạch Tuyết trốn vào sau giường mẹ. Gấu nói:
- Đừng sợ, tôi không làm gì đâu, tôi rét cóng, chỉ muốn sưởi nhờ một tí thôi.
Bà mẹ bảo gấu:
- Tội nghiệp, lại gần lửa mà sưởi, cẩn thận kéo cháy lông nhé.
Rồi bà gọi con:
- Bạch Tuyết, Hồng Hoa lại đây, gấu không làm gì các con đâu, nó không có ý xấu đâu.
Hai em chạy lại, rồi dần dần cừu con và chim gáy hết sợ cũng đến. Gấu nói:
- Các em rũ tuyết ở lưng xuống hộ tôi.
Hai em đi lấy chổi quét lông cho gấu. Gấu nằm gần lửa, kêu gừ gừ ra vẻ khoái lắm. Chẳng mấy chốc hai em hết sợ, bắt đầu đùa nghịch với người khách ngờ nghệch.
Hai em giật giật lông gấu, để chân lên lưng gấu, lăn gấu xuống đất, hoặc lấy cành cây quật gấu; hễ gấu gừ gừ, hai em lại cười khanh khách. Gấu cứ để hai em nghịch, nhưng khi hai em nghịch quá thì gấu bảo:
- Bạch Tuyết, Hồng Hoa để cho anh sống với. Hai em đừng đánh chết người yêu của hai em nhé.
Khi cả nhà đi ngủ, bà mẹ bảo gấu:
- Gấu cứ nằm bên lửa mà sưởi cho ấm kẻo ở ngoài lạnh giá. Trời vừa tảng sáng thì hai em mở cửa cho gấu ra, gấu đạp tuyết vào rừng.
Từ đó, tối nào đúng giờ ấy gấu cũng đến nhà nằm bên bếp lửa và để cho trẻ tha hồ trêu mình. Cả nhà thân với gấu, chờ cho con vật lông đen đến rồi mới cài then cửa.
Mùa xuân trở lại, cây cỏ xanh tươi. Một hôm gấu bảo Bạch Tuyết:
- Bây giờ anh phải đi. Mùa hè này anh không thể đến đây được, em ạ.
Bạch Tuyết hỏi:
- Anh đi đâu, anh gấu thân yêu?
- Anh phải vào rừng giữ của kẻo những thằng lùn tai ác ăn trộm mất. Mùa đông, khi đất có băng phủ, thì bọn lùn phải chịu ở dưới đất, không nhoi lên được, nhưng nay mặt trời sưởi mềm đất, thì chúng lại nhoi lên tìm cách ăn trộm của anh; cái gì đã vào tay chúng, chúng cất vào sào huyệt của chúng thì khó lòng mà lấy lại được.
Bạch Tuyết buồn rầu vì phải từ giã gấu. Lúc em mở then cửa cho gấu ra, gấu vướng phải móc cửa, hơi trầy da. Em nhìn thấy hình như có vàng sáng nhoáng dưới da gấu nhưng em không chắc lắm. Gấu rảo bước rồi khuất bóng sau rừng.
Cách đấy ít lâu, mẹ sai hai con gái vào rừng kiếm củi. Hai em trông thấy một cái cây to ai đã hạ xuống và có vật gì nhảy nhót hết chỗ này đến chỗ kia trong đám cỏ gần gốc cây. Hai em lại gần, nhận ra một thằng lùn, mặt già khọm, bộ râu bạc dài vướng vào keo cây, nhảy nhót như một chó con bị xích, không sao thoát được. Nó quắc đôi mắt đỏ ngầu nhìn hai em, thét rằng:
- Sao chúng bay cứ đứng đực đấy ra mà nhìn, không đến cứu tao?
Hồng Hoa hỏi:
- Bác đã làm gì đến nỗi thế?
Thằng lùn đáp:
- Đồ ngu, mày lại còn thóc mách, tao muốn bổ cây này lấy củi nhỏ đun bếp. Tao không dùng củi to, củi to làm cháy mất món ăn. Chúng tao ăn nhỏ nhẻ chứ đâu có ngốn như đồ tham ăn tục uống chúng mày. Tao đã chêm nêm được rồi, nhưng không ngờ nêm trơn quá, thình lình tuột ra mất. Gỗ ập lại nhanh như chớp, tao không kịp rút chòm râu bạc đẹp đẽ ra, nên tao bị giam ở đây. Thế mà chúng bay còn cười, đồ nhãi còn hơi sữa, đồ ngu ngốc không biết xấu mặt.
Hai em cố hết sức giúp thằng lùn nhưng không thể gỡ râu nó ra được. Hồng Hoa nói:
- Để tôi đi gọi người đến.
Thằng lùn hộc lên:
- Đồ điên! Ai cần? Có hai chúng mày đã là quá lắm rồi. Chúng bay không nghĩ ra cách gì khác nữa à?
Bạch Tuyết nói:
- Bác đừng sốt ruột, tôi sẽ có cách cứu bác.
Rồi em lấy kéo nhỏ ở túi ra, cắt ngọn râu thằng lùn. Được thoát nạn, nó đi lấy một cái bị đầy vàng ở đám rễ cây và càu nhàu:
- Đồ mất dạy! Chúng bay cắt mất một mẩu râu đẹp của ông. Quỉ sứ sẽ làm tội chúng mày.
Rồi nó đeo bị vàng lên vai, đi thẳng, không thèm nhìn hai em.
Sau đó ít lâu, Bạch Tuyết và Hồng Hoa đi câu cá ăn. Khi đến gần bờ suối, hai em trông thấy cái gì như một con châu chấu to đang muốn nhảy nhót như muốn đâm xuống nước. Hai em chạy lại thì nhận ra thằng lùn trước. Hồng Hoa hỏi:
- Bác làm sao đây? Bác muốn nhảy xuống suối à?
Thằng lùn gào lên:
- Tao đâu có ngu thế. Mày mở mắt ra mà trông, con cá khốn nạn này nó muốn lôi tao xuống sông đấy.
Nguyên thằng lùn đang ngồi câu cá, bỗng không may bị gió cuốn râu mắc vào dây câu. Một con cá to cắn câu, thằng lùn yếu sức không lôi nổi con cá lên, con cá khỏe hơn kéo thằng lùn xuống. Nó bám lấy cỏ lấy sậy, nhưng không ăn thua. Lúc nó sắp bị cá lôi xuống thì hai em đến kịp, giữ được nó lại. Hai em gỡ cho râu nó, nhưng không ăn thua, vì râu cuốn chặt vào dây câu. Chỉ còn cách là lấy kéo cắt một đoạn râu nữa. Thằng lùn thấy thế kêu om lên:
- Đồ ranh con! Chúng bay làm nhơ nhuốc mặt người ta thế à! Ở đằng kia, chúng bay đã cắt râu tao, bây giờ chúng bay lại cắt đoạn râu đẹp nhất của tao, làm tao không dám để anh em trông thấy mặt nữa. Tao cầu cho chúng bay phải chạy cho đến mòn gót giầy.
Rồi nó đi lấy túi ngọc trai để trong đám sậy và không nói thêm nửa lời, lẩn sau một hòn đá.
Cách đó ít lâu, mẹ sai hai con gái ra tỉnh mua kim chỉ và băng. Con đường qua một bãi hoang rải rác có những tảng đá to. Hai cô bé thấy một con chim to liệng trên đầu mình hồi lâu, rồi xà xuống bên một tảng đá. Tức thì có tiếng kêu oe óe thảm thiết. Hai cô chạy đến thì sợ quá vì thấy con phượng hoàng đã quặp chặt lấy thằng lùn mà hai cô đã nhẵn mặt. Chim định tha nó đi. Hai cô bé níu chặt lấy thằng lùn, co kéo mãi làm cho con chim phải buông mồi ra. Nhưng khi hết sợ thì thằng lùn lại nhè mồm ra mắng hai em:
- Đồ chúng bay vụng quá, không biết nhẹ tay hơn một chút. Kéo mạnh quá làm cho chiếc áo mỏng của người ta rách tan tành như thế này à.
Rồi nó cắp túi ngọc của nó, len lỏi qua đá vào hang. Hai em đã quen với thói bạc bẽo của nó rồi nên không để ý, lên đường ra tỉnh mua bán.
Lúc trở về, hai em lại qua bãi hoang, thì bắt gặp thằng lùn đang đổ những viên ngọc ra một chỗ đất sạch, vì nó không ngờ có người đi qua đó muộn thế. Dưới ánh nắng chiều hôm, ngọc lóng lánh muôn sắc. Hai em đứng lại xem. Thằng lùn mắng:
- Chúng bay đứng đực ra đấy làm gì?
Mặt nó vốn bềnh bệch nay đỏ lên vì tức giận. Nó toan chửi rủa nữa thì bỗng có tiếng gầm gừ kinh hồn, rồi một con gấu đen ở rừng đi ra. Thằng lùn hoảng hồn chồm dậy, định trốn về hang, nhưng không kịp vì gấu đã tới ngay bên. Nó sợ quá van lạy gấu:
- Lạy ngài, xin ngài tha cho con, con sẽ biếu tất cả châu báu của con là những viên ngọc đẹp kia. Xin ngài để cho con sống, ngài ăn thịt kẻ nhỏ bé gầy gò như con thật chẳng bõ dính mồm. Ngài xơi thịt hai con ranh kia thì hơn: thịt chúng mềm như thịt cun cút vậy.
Nhưng gấu không biết nghe, tát cho thằng quái gian ác một cái chết tươi. Hai cô bé chạy trốn, nhưng gấu bảo:
- Bạch Tuyết, Hông Hoa ơi, đừng sợ, chờ anh đi cùng với.
Hai em nhận ra tiếng gấu bèn đứng lại. Khi gấu đến gần hai em thì bộ lông gấu bỗng rơi xuống, gấu biến thành một chàng thanh niên đẹp trai mặc áo toàn vàng. Chàng nói:
- Anh là hoàng tử. Thằng lùn kia đã lấy của cải của anh, rồi phù phép cho anh hóa ra gấu, phải lang thang trong rừng cho đến khi nó chết mới được giải thoát. Thế là ác giả ác báo.
Bạch Tuyết lấy Hoàng tử và Hồng Hoa lấy em hoàng tử. Rồi bốn người chia nhau của cải thu thập được ở trong hang thằng lùn. Bà mẹ già sống lâu, yên vui gần con cái. Bà đem hai cây hồng, trồng trước cửa sổ. Năm nào, hai cây cũng ra hoa trắng, hoa đỏ rất đẹp.
Xưa có một ông vua ốm thập tử nhất sinh, ai cũng cho là không thể sống được nữa. Ba con trai thấy vậy, buồn lắm.
Một hôm, ba người đang đứng trong vườn khóc, thì thấy một ông cụ hiện đến hỏi vì sao mà buồn. Ba người thưa với cụ rằng vua cha ốm nặng thuốc nào cũng không chữa khỏi, thế nào cũng chết. Cụ nói:
- Lão biết một thứ nước trường sinh. Nếu nhà vua được nước ấy mà uống thì sẽ khỏi. Nhưng thứ nước ấy khó tìm lắm.
Người con cả nói:
- Nhất định tôi đi tìm cho bằng được.
Hoàng tử bèn đến xin phép vua đi tìm nước trường sinh, vì chỉ có nước ấy mới chữa được vua khỏi. Vua phán:
- Ta thà chết còn hơn để con phải nguy hiểm!
Nhưng Hoàng tử nằn nì mãi, vua cha cũng phải chấp thuận. Chàng nghĩ bụng: "Nếu ta lấy được nước này về, cha ta sẽ yêu ta nhất và sẽ nhường ngôi cho ta". Thế là chàng lên đường.
Chàng ruổi ngựa đi mãi và gặp một người lùn. Người đó hỏi chàng đi đâu mà vội thế. Chàng xẵng giọng đáp:
- Đồ lùn ngu xuẩn không việc gì đến mày!
Rồi chàng lại đi.
Ngươi lùn tức giận, phù phép hại chàng. Chàng đi vào khe núi rất hẹp, càng tiến sâu núi càng xiết chặt, không đi được nữa. Quay ngựa cũng không được, xuống yên cũng không xong, chàng đành ngồi nguyên chỗ. Ở nhà, vua cha mong đợi mãi mà không thấy con trở về.
Hoàng tử thứ hai lại tâu vua:
- Thưa cha, cha để con đi tìm nước trường sinh.
Chàng nghĩ bụng anh chết rồi thì bây giờ ngôi báu sẽ về mình. Trước vua không cho, nhưng sau cũng đành phải chiều ý con. Chàng cũng đi theo con đường của anh và cũng gặp người lùn. Người ấy cũng giữ chàng lại và hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế? Chàng đáp:
- Đồ lùn oát con, không việc gì đến mày!
Rồi chàng đi thẳng, không ngoảnh cổ lại.
Người lùn cũng lại phù phép hại chàng. Cũng như anh, chàng lại đi vào khe núi, không tiến thoái được nữa. Đó là hình phạt đối với kẻ kiêu ngạo.
Thấy hai anh không về, Hoàng tử thứ ba cũng lại xin phép vua cha đi tìm nước trường sinh. Cuối cùng, vua cha đành để cho đi. Chàng cũng gặp người lùn và khi người ấy hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế, thì chàng dừng ngựa lại, ôn tồn đáp:
- Cha tôi hấp hối, tôi đi tìm nước trường sinh.
Người lùn hỏi:
- Chàng có biết ở đâu không?
- Thưa không ạ.
- Vì chàng cư xử lễ độ, không kiêu căng như hai anh chàng nên ta mách chàng tìm nước trường sinh. Trong sân một tòa lâu đài bị phù phép, có một cái giếng phun nước trường sinh. Ta sẽ cho chàng một que sắt và hai cái bánh để giúp chàng vào. Chàng lấy que sắt đập ba cái vào cửa sắt thì cửa sẽ mở tung ra. Ở trong có hai con sư tử há mồm đứng rình. Chàng vứt cho mỗi con một cái bánh thì nó yên. Rồi mau mau đi lấy nước trường sinh trước khi chuông đánh
mười hai tiếng, vì nếu không thì cửa sập lại, chàng sẽ bị giam ở trong.
Hoàng tử cám ơn người lùn, lĩnh que và bánh rồi lên đường. Chàng đến nơi và thấy mọi việc xảy ra đúng như lời người lùn đã bảo. Chàng lấy que sắt đập ba cái thì cửa mở tung và sau khi ném bánh cho sư tử ăn, chàng vào lâu đài.
Chàng vào một phòng lớn trang hoàng rực rỡ, có những vị hoàng tử bị phù phép đang ngồi. Chàng tháo nhẫn đeo ở ngón tay các vị ấy và lấy một chiếc bánh và một thanh kiếm ở đó.
Trong một phòng khác, chàng gặp một nàng công chúa đẹp tuyệt vời. Khi trông thấy chàng, nàng mừng rỡ hôn chàng và bảo chàng biết rằng chàng đã giải thoát cho nàng khỏi phù phép.
Nàng hẹn chàng một năm nữa sẽ đến gặp nàng, bấy giờ sẽ làm lễ cưới, và nàng sẽ dâng ngôi cho chàng. Nàng trỏ cho chàng chỗ có nước trường sinh và khuyên chàng lấy cho mau trước khi nghe thấy chuông đánh mười hai tiếng.
Chàng đi nữa thì đến một phòng có một chiếc giường rất đẹp, mới trải khăn. Chàng đã mệt nhoài, nên muốn nghỉ một lúc. Chàng nằm xuống rồi ngủ mất. Chàng tỉnh dậy thì đồng hồ đánh mười một giờ ba khắc. Chàng vùng dậy, chạy đến giếng. Ở đó có một cái bình, chàng lấy cốc múc nước rồi vội vã ra về. Khi chàng đến cửa thì nghe thấy mười hai tiếng chuông, rồi cửa sập mạnh đến nỗi chàng mất một miếng gót chân.
Nhưng chàng đã lấy được nước thần rồi nên mừng lắm lên đường về. Chàng lại qua chỗ người lùn. Thấy chàng mang thanh kiếm và chiếc bánh, người ấy nói: “Chàng đã lấy được những bảo bối rất quí: kiếm có thể phá tan nhiều đạo quân, còn bánh thì ăn không bao giờ hết”.
Nhưng Hoàng tử muốn các anh cùng về để trông thấy mặt cha, bèn nói:
- Bác lùn thân mến ơi, bác có biết bây giờ hai anh tôi ở đâu không? Hai anh tôi đi tìm nước trường sinh trước tôi mà chưa thấy về.
Người lùn nói:
- Ấy chỉ vì họ kiêu ngạo nên ta phù phép khiến họ bị kẹp giữa hai quả núi đấy.
Hoàng tử van lạy mãi, người ấy mới chịu tha cho hai anh, nhưng người ấy dặn chàng:
- Chàng phải đề phòng cẩn thận, họ xấu bụng lắm đấy.
Chàng gặp hai anh, vui mừng khôn xiết, kể cho hai anh biết chuyện mình tìm thấy nước trường sinh, lấy được một cốc đầy, giải thoát cho một nàng công chúa xinh đẹp; nàng sẽ đợi chàng một năm để cưới và dâng chàng ngôi báu.
Ba anh em cùng đi, đường về qua một nước đang bị cảnh chiến tranh đói kém. Vua nước đó cho là nhân dân cùng khổ thế thì phen này đến mất hết cơ đồ sự nghiệp. Hoàng tử đến yết kiến ông vua ấy, cho mượn chiếc bánh để toàn dân ăn no, thanh kiếm để dẹp tan quân giăc, nhân dân yên hưởng thái bình. Sau đó Hoàng tử lấy lại chiếc bánh và thanh kiếm,
rồi ba anh em lại lên đường. Ba anh em đi qua hai nước nữa cũng bị cảnh chiến tranh và
nạn đói. Hoàng tử cho vua các nước ấy mượn chiếc bánh và thanh kiếm, thế là cứu được ba nước.
Sau đó, ba anh em lên thuyền vượt biển về nước. Trong khi đi, hai ngươi anh bàn nhau: "Thằng út nó lấy được nước trường sinh về chứ không phải bọn ta. Cha sẽ cho nó nối ngôi,
còn chúng mình thì mất phần". Hai tên sinh lòng đố kỵ bàn mưu hãm hại em. Chúng chờ cho em ngủ thật say, rót nước trường sinh ở bình của em ra, đổ nước bể thay vào.
Tới nhà, Hoàng tử út vội lấy bình nước dâng cha uống cho khỏi bệnh. Vua vừa uống vài ngụm nước bể mặn chát thì bệnh lại tăng lên. Vua đang rền rĩ, thì hai con lớn đến tố cáo vu cho em mưu đầu độc cha. Chúng nói là chúng đã lấy được nước trường sinh thật mang về đưa cha. Cha vừa uống nước đó thì thấy khỏi bệnh ngay và lại khỏe như thời còn trẻ. Hai anh chế nhạo em:
- Chính mày đi lấy nước trường sinh về. Mày có công, còn chúng tao được hưởng. Lẽ ra mày phải khôn ngoan tỉnh táo hơn: khi qua bể, mày ngủ say, chúng tao lấy trộm của mày đấy. Sang năm, một trong chúng tao sẽ đến tìm công chúa đẹp kia. Nhưng mày khôn hồn thì đừng có nói lộ ra; cha chẳng tin mày đâu. Nếu mày hở ra một câu thì mày sẽ toi mạng. Muốn sống thì phải câm mồm.
Vua ngỡ là chính con út hại mình, nên tức giận, họp triều định quyết định xử bắn con một cách bí mật. Một thị vệ được phái đi săn cùng hoàng tử. Hoàng tử không nghi ngờ gì cả. Khi chỉ còn hai người trong rừng, Hoàng tử thấy y có vẻ buồn rầu, bèn hỏi:
- Sao ngươi có vẻ buồn thế?
- Kẻ bầy tôi không thể nói được.
- Ngươi cứ việc nói, ta lượng thứ cho.
- Trời ơi, hoàng thượng truyền cho kẻ hạ thần bắn Hoàng tử đấy.
Hoàng tử sợ hãi nói:
- Ngươi hãy để ta sống. Ngươi hãy mặc áo bào của ta để ta mặc áo của ngươi.
- Vâng, vâng, kẻ hạ thần không nỡ bắn hoàng tử.
Hai người đổi áo cho nhau. Người thị vệ về nhà, còn Hoàng tử trốn vào rừng.
Một thời gian sau, có ba xe tải nặng vàng ngọc đến cung vua tạ ơn hoàng tử thứ ba đã giúp ba ông vua thanh kiếm để dẹp giặc và chiếc bánh để cứu nhân dân khỏi chết đói.
Vua cha nghĩ: "Có lẽ con ta không có tội tình gì", rồi bảo quần thần:
- Ước gì con ta còn sống! Ta tiếc rằng đã sai giết nó.
Người thị vệ thưa:
- Tâu hoàng thượng, Hoàng tử còn sống. Kẻ hạ thần đã không đang tâm giết hoàng tử.
Rồi y kể đầu đuôi câu chuyện cho vua nghe. Lòng vua nhẹ hẳn đi. Ngài cho loan báo khắp các nước cho phép con về và hứa sẽ tha tội cho.
Trong khi đó công chúa đã sai làm trước cung điện của nàng một con đường lát vàng sáng nhoáng. Nàng dặn quần thần rằng ai cưỡi ngựa đi thẳng vào con đường ở giữa thì đúng là chồng thật, cứ để người ấy vào. Còn người nào đi bên cạnh mà vào thì không phải là người chồng thật, đừng cho vào.
Thời gian một năm sắp qua, Hoàng tử anh cả vội vã lên đường để đến nhận là mình đã cứu công chúa, hòng lấy công chúa và lên ngôi vua. Y ruổi ngựa đi. Tới trước cung điện, y thấy con đường lát vàng đẹp đẽ, nghĩ thầm: "Giẫm lên đó thì tiếc quá". Y bèn tránh cho
ngựa đi sang mé bên phải. Nhưng khi y đến cổng thì quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, và không cho vào.
Liền ngay đó, Hoàng tử thứ hai đến. Ngựa vừa đặt chân lên con đường vàng thì y nghĩ là không nên làm hỏng con đường đẹp thế. Y cho ngựa đi sang bên trái. Khi y đến cổng, quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, xin mời quay về ngay.
Thời gian một năm qua, Hoàng tử thứ ba ra khỏi rừng để đi tìm người yêu, mong tìm nguồn an ủi bên nàng. Chàng ra đi chỉ nghĩ đến nàng, tới gần cung điện mà cũng không để ý đến con đường lát vàng. Vì vậy chàng cho ngựa đi ngay giữa đường, tới cổng thì cửa mở toang.
Công chúa mừng rỡ đón chàng, nhận chàng là ân nhân và là chủ đất nước.
Lễ cưới linh đình. Sau đó, nàng báo cho chàng biết là vua cha đang gọi chàng về tha tội cho chàng. Chàng về cung, dự định sẽ tâu để vua biết là hai anh đã lừa chàng thế nào. Tuy vậy, chàng vẫn giữ kín chuyện.
Vua cha muốn làm tội hai người anh, nhưng họ đã xuống tàu vượt bể, không bao giờ về nữa.
Ngày xửa ngày xưa, có hai Hoàng tử đi phiêu lưu, sống lang bạt không về nhà nữa. Người em út, thường gọi là "Chú Ngốc", lên đường đi tìm hai anh.
Tìm mãi gặp hai anh thì chàng ta lại bị hai anh giễu cợt: khôn ngoan như chúng tao mà còn chẳng đi đến đâu, huống hồ là cái thứ mày ngốc nghếch thế mà cũng đòi đua chen với đời.
Ba anh em cùng đi thì gặp một tổ kiến. Hai anh muốn phá đi xem trong khi hoang mang kiến bò đi lung tung ra sao và tha trứng đi như thế nào. Nhưng chú Ngốc nói:
- Xin các anh để chúng yên thân, em không để các anh quấy nhiễu chúng đâu.
Ba anh em lại đến một cái hồ đầy vịt đang bơi. Hai anh muốn bắt một đôi làm thịt ăn, nhưng chú Ngốc không chịu:
- Xin các anh để chúng yên thân, em không để các anh quấy giết chúng đâu.
Ba anh em lại đến một tổ ong đầy mật chảy rào cả ra ngoài thân cây. Hai anh muốn đốt lửa ở gốc cây hun cho ong chết để lấy mật, nhưng chú Ngốc ngăn lại, nói:
- Xin các anh để chúng yên thân, em không để các anh hun chúng đâu.
Ba anh em đi mãi đến một lâu đài vắng tanh, chỉ có ngựa bằng đá ở trong chuồng chứ không thấy một bóng người nào. Họ dạo qua tất cả các phòng, đến trước một cái cửa đóng có ba khóa. Giữa cửa có đục một cửa sổ nhỏ, qua đó có thể dòm vào trong buồng được. Họ trông thấy một người bé nhỏ, tóc hoa râm, ngồi trước một cái bàn. Họ gọi một lần, hai lần, nhưng người ấy không thưa. Họ gọi đến lần thứ ba thì người ấy đứng dậy mở cửa đi ra. Người ấy chẳng nói chẳng rằng, dẫn họ đến trước một cái bàn bày la liệt thức ăn.
Khi họ đã ăn uống xong rồi, người ấy dẫn mỗi ông hoàng vào một buồng ngủ riêng. Sáng hôm sau, người ấy vào buồng người anh cả, dẫn anh ta đến một cái bảng đá trên có ghi ba việc phải làm để giải thoát cho lâu đài bị phù phép. Việc thứ nhất là vào rừng, tìm ở dưới đám rêu một nghìn viên ngọc của công chúa. Nếu trước khi mặt trời lặn mà không tìm được đủ số ngọc thì người đi tìm sẽ biến thành đá.
Người anh cả đi tìm nhưng tìm một ngày chỉ được có một trăm viên ngọc. Thế là anh ta hóa đá. Hôm sau đến lượt người anh thứ hai đi tìm ngọc. Anh ta cũng không hơn gì anh cả mấy, chỉ tìm được có hơn hai trăm viên ngọc và cũng hóa đá.
Sau cùng đến lượt chú Ngốc đi mò ngọc dưới rêu. Tìm ngọc đâu phải là dễ, công việc chậm chạp lắm. Chú ngồi khóc trên một tảng đá. Bỗng Chúa kiến mà chú đã cứu thoát trước kia cùng với năm nghìn kiến quân, đến giúp chú, tìm đủ số ngọc trong chốc lát và xếp thành đống.
Việc thứ hai là mò ở đáy bể lên cái chìa khóa buồng ngủ của công chúa. Chú Ngốc vừa đến bờ bể thì tức khắc đàn vịt mà chú đã cứu bơi lại gần chú, lặn xuống nước và mò chìa khóa lên.
Việc thứ ba khó nhất: phải tìm ra trong ba công chúa đang ngủ cô nào ít tuổi nhất và đáng yêu nhất. Ba nàng công chúa đều giống nhau như đúc, chỉ khác nhau ở chỗ, trước khi ngủ ba nàng ăn thức ngọt khác nhau: cô nhớn ăn một thìa đường, cô thứ hai uống một hớp nước đường, cô thứ ba uống một thìa mật ong.
Ong Chúa mà chú Ngốc đã cứu thoát khỏi ngọn lửa đến giúp chú: ong bay đi ngửi mồm ba nàng công chúa, rồi đậu lên môi công chúa đã ăn mật ong để ông hoàng Ngốc nhận ra. Tức thì tòa lâu đài thoát khỏi giấc ngủ triền miên và những người đã hóa ra đá lại trở thành người.
Chú Ngốc cưới nàng công chúa ít tuổi nhất và đáng yêu nhất, rồi được nối ngôi vua. Còn hai anh chú Ngốc được lấy hai nàng công chúa kia.
Ngày xưa có một người đàn ông góa vợ và một người đàn bà góa chồng. Người đàn ông có một con gái, người đàn bà cũng có một con gái. Hai đứa bé quen nhau thường rủ nhau đi chơi rồi về nhà người đàn bà góa. Bác ta bảo đứa con gái người đàn ông:
- Này cháu ạ, cháu về bảo bố là bác muốn lấy bố. Như thế, thì rồi sáng nào cháu cũng được rửa mặt bằng sữa và uống rượu vang, con bác thì chỉ rửa mặt bằng nước lã và uống nước lã thôi.
Cô gái về nhà kể lại cho bố nghe. Người đàn ông nghĩ bụng:
- Không biết nên làm thế nào đây nhỉ! Lấy vợ thì sướng đấy và cũng khổ đấy.
Sau cùng, bác phân vân không biết nên quyết định thế nào, liền tháo một chiếc ủng ra bảo con:
- Con cầm lấy chiếc giầy ủng này. Ở đế có một cái lỗ thủng. Con đem lên buồng xép trên gác treo lên đinh to rồi đổ nước vào. nếu giầy giữ được nước thì bố lại cưới vợ, nếu nước chảy thì thôi.
Cô gái làm theo lời bố dặn. Nước làm cho da căng lấy kín chỗ thủng, giầy đầy nước. Cô đến bảo cho bố biết việc xảy ra. Bố bèn đích thân đến, thấy đúng thế. Bác liền đến nhà bà góa hỏi làm vợ. Lễ cưới được tổ chức.
Sáng hôm sau, khi hai cô dậy thì trước mặt cô con riêng người đàn ông đã có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, còn trước mặt cô con riêng người đàn bà thì chỉ có nước lã. Sáng ngày thứ hai, trước mặt cô con riêng của người đàn ông cũng như cô con riêng của người đàn bà đều có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Sang đến ngày thứ ba, trước mặt cô con riêng của người đàn ông có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Còn trước mặt cô con gái người
đàn bà có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, và cứ thế tiếp mãi.
Người đàn bà ghét cay ghét đắng con chồng, chỉ tìm cách hành hạ nó mỗi ngày một thêm khổ sở. Mụ lại đố kỵ vì con chồng thì xinh đẹp, dễ thương, con gái mụ thì xấu xa ghê tởm.
Một hôm mùa rét, tiết trời băng giá, tuyết phủ đầy núi và thung lũng, mụ làm một chiếc áo bằng giấy, gọi con chồng lại bảo:
- Mày mặc chiếc áo này mà vào rừng hái cho tao một rổ dâu đầy, tao thèm dâu lắm.
Cô gái đáp:
- Trơi ơi, mùa đông làm gì có dâu! Đất giá lạnh, tuyết phủ hết. Mà sao lại bắt con mặc áo giấy mà đi? Ở ngoài rét, hơi thở giá lạnh. Gió thổi như cắt da, buốt như gai đâm vào thịt.
Mẹ ghẻ bảo:
- À, mày lại cãi tao à? Muốn sống thì đi ngay có lấy được đầy rổ dâu thì hãy vác mặt về.
Rồi mụ đưa cho cô một mẩu bánh mì rắn mà bảo:
- Ăn cả ngay đấy nhé!
Mụ nghĩ bụng, con chồng ra ngoài sẽ bị chết vì đói rét, thế là rảnh mắt mụ mãi mãi.
Cô gái vâng lời, mặc áo giấy vào, mang rổ ra đi. Tuyết phủ mênh mông. Không nhìn thấy một gốc cây xanh nhỏ. Cô vào rừng thấy một ngôi nhà nhỏ, có ba người lùn đứng trông ra. Cô khẽ gõ và cửa chào họ. Họ bảo cô vào. Cô vào buồng, ngồi bên chiếc ghế dài bên lò sưởi. Cô định sưởi và ăn sáng. Những người lùn bảo:
- Cho bọn tôi xin một tí.
Cô vui lòng chia mẩu bánh mì làm hai, cho họ một nửa. Họ hỏi cô:
- Trời mùa đông thế này, cô mặc chiếc áo mỏng manh vào rừng làm gì?
Cô đáp:
- Trời ơi, tôi phải hái cho được một rổ dâu đây, có lấy được thì mới dám về nhà.
Cô ăn xong bánh, họ đưa cho cô một cái chổi mà bảo:
- Cô cầm ra chỗ cửa sau mà quét sạch tuyết đi.
Khi cô ra ngoài rồi, ba người lùn bảo nhau:
- Cô ấy ngoan và tốt bụng quá, chia bánh cho chúng ta, vậy thì nên cho cô ấy cái gì nhỉ?
Người thứ nhất nói:
- Tôi ban cho cô ấy sắc đẹp ngày một lộng lẫy hơn.
Người thứ hai nói:
- Tôi ban cho cô ấy điều này: Cứ nói một tiếng thì một đồng tiền vàng ở miệng rơi ra.
Người thứ ba nói:
- Tôi ban cho cô ấy điều này: Một ông vua sẽ đến lấy cô làm vợ.
Cô bé làm theo lời mấy người lùn. Cô đem chổi ra sau ngôi nhà nhỏ quét tuyết. Các bạn có biết cô bé thấy gì không? Toàn dâu chín là dâu chín; dâu hiện ra đỏ thắm trên nền tuyết trắng. Cô mừng rỡ nhặt đầy rổ. Rồi cô cảm ơn những người lùn, bắt tay chào từng người rồi chạy về nhà đưa cho dì ghẻ thứ mà bà hạch. Cô bước vào, vừa mở mồm ra thì một đồng tiền rơi ra ở miệng. Cô liền kể lại việc xảy ra trong rừng; cứ nói một tiếng là có một đồng tiền vàng rơi ở miệng ra, chẳng mấy chốc mà phòng đầy tiền vàng. Cô em con dì ghẻ kêu lên:
- Kìa trông có kẻ làm cao, vứt tiền như rác kìa!
Trong thâm tâm, cô ta ghen ghét, nên cũng muốn vào rừng tìm dâu. Mẹ bảo:
- Không được đâu, con gái nhỏ yêu dấu của mẹ ạ! Trời rét lắm. Con của mẹ đến chết rét mất.
Nhưng cô không để cho mẹ được yên, nên cuối cùng mẹ cũng phải chịu may cho cô một chiếc áo lộng lẫy để cô mặc, đưa cho cô bánh mì bơ và bánh ngọt đem theo đi ăn đường.
Cô vào rừng, đến đúng ngôi nhà nhỏ. Ba người lùn cũng đang đứng trông ra. Nhưng cô không buồn quay lại nhìn họ, cũng chẳng buồn chào hỏi họ, cứ thế lật đật bước vào phòng, ngồi bên lò sưởi lấy bánh mì bơ và bánh ngọt ra ăn. Những người lùn hỏi cô:
- Cho chúng tôi ăn một tí nào.
Cô đáp:
- Mình tôi ăn còn chẳng đủ còn đâu mà chia cho người khác.
Cô ăn xong. Họ bảo:
- Đây có cái chổi, cô cầm lấy ra quét sạch đằng sau nhà.
Cô đáp :
- Úi chà, tôi có là đầy tớ của các người đâu.
Cô thấy họ chẳng định cho cô gì cả liền đi ra cửa. Những người lùn bàn nhau:
- Con bé này hư, độc ác, đố kỵ, ai có gì cũng ghen, ta cho nó gì đây?
Người thứ nhất bảo:
- Tôi cho nó điều này: Mỗi ngày một xấu thêm.
Người thứ hai nói:
- Tôi cho nó điều này: Cứ nói mỗi một tiếng là một con cóc nhảy ở mồm ra.
Người thứ ba nói:
- Tôi muốn nó chết bất đắc kỳ tử.
Cô gái ra ngoài tìm dâu, nhưng chẳng được quả nào, càu nhàu đi về. Cô vừa mở mồm định kể lại cho mẹ chuyện xảy ra trong rừng thì nói mỗi tiếng là có một con cóc nhẩy ở miệng ra, khiến mọi người ghê tởm.
Dì ghẻ càng tức giận hơn nữa, chỉ tìm cách làm cho đứa con riêng của chồng, đang mỗi ngày một đẹp hơn, đau đớn ê chề.
Mụ lấy một cái nồi bắc lên lửa để luộc sợi. Luộc xong, mụ buộc sợi lên vai cô gái đáng thương, đưa cho cô một chiếc rìu, bắt cô ra sông đã đóng băng đào một cái lỗ để chuốt sợi. Cô ngoan ngoãn vâng lời, đi đào một cái lỗ trong đám băng. Cô đang mải cuốc thì có một cỗ xe đẹp lộng lẫy chạy đến, trong có vua ngồi. Xe ngừng lại, vua hỏi:
- Em ơi, em là ai, làm gì ở đây?
- Tâu bệ hạ, em là một cô gái nghèo khổ đang chuốt sợi.
Nhà vua động lòng thương, thấy cô đẹp quá, liền bảo:
- Em có muốn lên xe cùng đi với ta không?
Cô đáp là cô rất vui lòng, vì cô mừng là được đi rảnh mắt mẹ ghẻ và con gái mụ. Cô liền lên xe đi với vua.
Đến cung điện, lễ cưới được tổ chức linh đình, theo đúng lời ban của những người lùn. Hơn một năm sau, bà hoàng hậu trẻ tuổi sinh ra được một đứa con trai. Mẹ ghẻ được tin ấy cùng với con đi đến cung điện, giả vờ thăm hỏi. Nhưng vua vừa đi khỏi, không có ai ở đấy, mụ đàn bà độc ác nắm lấy đầu hoàng hậu, còn con mụ hắn nắm lấy chân bà, chúng vứt bà qua cửa sổ xuống dòng nước chảy cạnh đó. Đứa con gái xấu xí của mụ nằm vào chỗ bà hoàng hậu ở giường, mụ già trùm khăn kín đầu nó. Khi vua về định nói với vợ thì mụ kêu lên:
- Bệ hạ hãy gượm đã, bây giờ chưa được đâu. Hoàng hậu đương ra mồ hôi như tắm, bệ hạ hãy để cho hoàng hậu nghỉ yên ngày hôm nay.
Vua không ngờ có chuyện ác gì nên mãi sớm hôm sau mới lại đến. Vua định nói chuyện với vợ. Hoàng hậu giả cứ vừa trả lời thì cứ mỗi một tiếng là có một con cóc chứ không phải một đồng tiền vàng ở trong miệng ra. Vua hỏi sao vậy thì mụ già bảo đó là tại mồ hôi đổ ra nhiều quá, nhưng rồi sẽ hết thôi.
Nhưng đến đêm, gã phụ bếp thấy một con vịt bơi qua đường cống vào nói:
- Nhà vua làm gì thế?
Không ai trả lời, vịt lại nói:
- Khách khứa của ta làm gì thế?
Gã phụ bếp lên tiếng đáp:
- Họ ngủ say cả.
Vịt lại hỏi:
- Con nhỏ ta làm gì?
Gã đáp:
- Đang ngủ say trong nôi.
Vịt liền hiện nguyên hình thành bà hoàng hậu cho con bú, rũ chiếc giường nhỏ của nó, đắp chăn cho nó, rồi lại biến thành vịt bơi qua cống mà đi. Bà đến ba đêm nữa. Đêm thứ ba, bà bảo gã phụ bếp:
- Ngươi đi tâu vua mang gươm đến vung ba lần trên đầu ta ở ngưỡng cửa.
Gã phụ bếp chạy đi bảo vua. Vua mang gươm lại vung trên đầu bóng ma hoàng hậu ba lần. Đến lần thứ ba, vợ vua hiện ra trước mặt, vui tươi, khỏe mạnh hơn lúc nào hết. Vua mừng lắm, nhưng giấu hoàng hậu trong một phòng, mãi đến hôm chủ nhật, đứa bé làm phép rửa tội. Lễ rửa tội xong, vua bảo:
- Một kẻ khiêng người khác ra khỏi giường, ném xuống nước thì đáng tội gì?
Mụ già đáp:
- Tốt nhất là bỏ tên côn đồ ấy vào một cái thùng cho lăn từ trên núi xuống.
Vua phán:
- Ngươi đã tự kết án đó.
Vua sai đi lấy một chiếc thùng, bỏ mẹ con mụ vào đóng lại, thả từ trên núi cho lăn xuống. Thế là xong đời hai mẹ con độc ác.