Xưa có hai vợ chồng người thợ xay bột sống rất sung sướng. Họ có tiền của, mỗi năm lại sung túc thêm. Nhưng hoạn nạn thường đến bất ngờ. Của đến mau, của cũng đi mau, rút cục đến cái nhà xay bác ở cũng không chắc còn là của bác. Bác buồn lắm. Làm lụng cả ngày, tối về đặt mình xuống giường cứ trằn trọc, lo phiền.
Một hôm, bác dậy sớm tinh sương ra ngoài hóng mát cho thoải mái. Khi bác qua cái đập nước chỗ ao gần nhà có tiếng ùng ục. Bác ngoảnh lại nhìn thấy giữa ao có một người đàn bà đẹp từ từ nổi lên. Người ấy đưa bàn tay mềm mại vén mớ tóc dài xõa xuống hai vai, phủ lên tấm thân ngà ngọc. Bác biết ngay nó là con nam ở ao, sợ quá không biết nên đứng lại hay chạy trốn. Nhưng con nam cất giọng êm ái gọi tên bác và hỏi tại sao bác buồn. Mới đầu bác không dám mở mồm. Nhưng sau bác thấy con nam nói rất thân mật, mới định thần lại, kể cho nó nghe rằng trước bác được sống sung túc mà nay thì nghèo quá, không biết làm thế nào.
Con nam bảo bác:
- Bác cứ yên tâm, tôi sẽ làm cho bác giàu có sung sướng hơn trước; nhưng bác phải hứa cho tôi cái gì vừa mới đẻ ở nhà bác.
Bác nghĩ bụng: "Chắc lại con chó hay con mèo con gì đó", rồi bác hứa cho nó.
Con nam lại hụp xuống nước, còn bác yên tâm và vui vẻ rảo bước về nhà. Bác vừa về đến nhà thì con ở đã chạy ra báo cho bác biết tin mừng vợ mới đẻ con trai. Bác nghe tin như sét đánh ngang tai, vì bác thấy rõ con nam đã biết trước và đã đánh lừa bác. Mặt cúi gằm, bác lại gần giường vợ. Vợ hỏi sao con kháu thế mà bác không vui thì bác kể lại cho vợ nghe sự việc vừa xảy ra và lời bác đã hứa với con nam. Rồi bác nói tiếp:
- Nếu mất đứa con thì giàu có mà làm gì! Biết làm sao bây giờ. Bà con chạy lại mừng bác cũng không mách được phương kế nào.
Nhưng thần tài lại về nhà bác. Bác làm gì trúng nấy: ban đêm hình như hòm xiểng trong nhà cứ đầy lên, tiền bạc trong tủ biết sinh sôi nảy nở. Chẳng bao lâu bác giàu có hơn trước, nhưng vui là vui gượng vì nghĩ đến lời hứa với con nam, bác lại đau lòng. Mỗi khi đi qua gần ao, bác lại sợ nó nổi lên đòi nợ. Bác cấm tiệt con không được lai vãng gần ao và dặn con rằng:
- Con chớ có vọc tay xuống ao, kẻo có bàn tay thò ra nắm lấy con mà lôi xuống đáy.
Rồi năm tháng trôi qua không thấy con nam hiện lên. Bác đã bắt đầu yên tâm. Con bác đã thành một thanh niên. Bác cho con học nghề săn bắn. Khi anh đã thành một thợ săn giỏi, thì được vào làm việc cho người chúa làng.
Trong làng có một cô gái xinh đẹp, phúc hậu, vừa ý anh. Ông chủ thấy thế, bèn cho anh một ngôi nhà nhỏ. Cưới xong, hai vợ chồng chung sống yên vui ở đó, yêu nhau rất mực. Một hôm, anh đuổi một con hoẵng, từ rừng ra đến cánh đồng, thì bắn chết được nó. Sau khi moi ruột con vật, anh vô tình đến cái ao nguy hiểm để rửa tay vấy máu. Anh vừa nhúng tay xuống nước thì con nam hiện lên mỉm cười ôm lấy anh bằng đôi tay ướt sũng, lôi anh xuống rất nhanh trong khi sóng cuồn cuộn.
Tối đến, không thấy anh về, vợ anh lo sợ, đâm bổ đi tìm. Chợt nghĩ đến chồng thường nói phải đề phòng con nam ám hại, không đến gần ao, chị ngờ ngay đến chuyện xảy ra. Chị chạy đến ao, thấy túi đi săn của chồng, biết chắc là chồng đã bị nạn. Chị vật mình than khóc, gào tên người yêu, nhưng thật uổng công. Chị lại chạy sang bờ ao bên kia, gọi chồng, la mắng con nam, nhưng không có tiếng đáp lại. Chỉ có nửa vành trăng sáng soi trên mặt nươc im lìm. Tội
nghiệp người vợ cứ ở bờ ao, lúc thì kêu gào thảm thiết, lúc thì khe khẽ rên rỉ. Mãi sau kiệt sức, chị ngã xuống đất và ngủ thiếp đi.
Chị nằm mơ thấy mình đang trèo núi, trong lòng lo sợ. Hai bên là đá tảng cực lớn, chân dẫm phải đá sắc và gai chảy máu, mưa đập vào mặt, gió ào ào thổi tung mớ tóc dài. Khi đến đỉnh núi thì thấy phong cảnh khác hẳn. Bầu trời xanh biếc, không khí êm dịu, sườn núi thoai thoải. Trên cánh đồng cỏ xanh, muôn hoa đua sắc, có một túp lều xinh xinh. Chị đến gần, mở cửa, chỉ thấy một bà cụ già tóc bạc thân mật vẫy chị. Đúng lúc ấy, chị thức giấc. Trời đã sáng. Chị nhất định làm theo giấc mộng.
Chị ra sức trèo núi, quả nhiên thấy y như đêm qua. Bà lão tiếp chị thân mật, và trỏ ghế mời chị ngồi, rồi nói:
- Chắc con đã gặp nạn nên mới phải tìm đến chiếc lều hẻo lánh của ta.
Chị vừa khóc vừa kể lại sự việc đã xảy ra. Bà lão nói:
- Thôi con đừng khóc nữa, ta sẽ giúp con. Đây ta cho con một cái lược vàng. Con chờ khi trăng tròn thì đến ngồi bên bờ ao, lấy lược này ra mà chải tóc mây. Chải xong, con để lược đó, thì sẽ có chuyện lạ xảy ra.
Chị ta về nhà mong mãi mới đến ngày trăng tròn. Chị đợi khi mặt trăng sáng xuất hiện trên trời. Chị đến ngồi ở bờ ao, lấy lược vàng ra chải làn tóc mây dài. Chải xong, chị để lược trên bờ. Tức thì chị nghe thấy tiếng sóng cuồn cuộn từ đáy ao lên, dâng lên bờ, cuốn cái lược đi. Lược vừa tới đáy ao thì mặt nước reo ra làm đôi, rồi đầu chồng chị nổi lên. Anh không nói không rằng, chỉ rầu rầu nhìn vợ. Ngay lúc đó, một ngọn sóng nữa ào ào chạy đến, phủ kín đầu anh. Tất cả đều biến mất, ao lại yên lặng như trước, chỉ còn trăng in đáy nước.
Chị chán nản về nhà, nhưng lại chiêm bao thấy túp lều bà lão. Sáng hôm sau, chị lại đến kể lể nỗi đau buồn cho bà nghe. Bà bèn cho chị một cái sáo bằng vàng mà bảo:
- Con chờ đêm trăng nào tròn lại đến ngồi bờ ao thổi sáo thật hay, rồi đặt lên trên cát, thì con sẽ thấy có chuyện lạ xảy ra.
Chị làm theo lời bà cụ dặn. Chị vừa mới đặt sáo xuống thì sóng đâu từ đáy ao đã ào ào nổi
lên, cuốn sáo đi mất. Tức thì nước rẽ ra. Không phải chỉ có đầu mà nửa mình chồng chị nổi lên. Anh tha thiết giơ tay hướng về chị, nhưng một ngọn sóng lại ầm ầm xô đến phủ lên anh, rồi cuốn anh xuống. Người đàn bà đáng thương than rằng:
- Trời ơi, thấy chồng mà rồi lại mất thì thấy mà làm gì!
Chị lại buồn tê tái, nhưng rồi lại chiêm bao đến nhà bà lão. Chị lại ra đi. Bà lão cho chị một cái guồng xe chỉ bằng vàng, và an ủi chị rằng:
- Không uổng công đâu, con ạ. Con hãy chờ hôm nào trăng tròn, đem guồng này ra ngồi bờ ao mà xe chỉ cho đến khi được một cuộn to. Xong việc, con để guồng đó, rồi sẽ thấy có chuyện lạ xảy ra. Chị làm đúng như lời bà cụ dặn. Khi trăng tròn bắt đầu mọc, chị lấy guồng đem ra bờ ao chú tâm xe chỉ cho đến khi hết sợi, chỉ đầy cuộn. Chị đặt guồng xuống bờ ao, thì nước từ đáy ầm ầm dâng lên, một ngọn sóng lớn đến cuốn guồng đi. Tức thì đầu rồi tất cả người chồng chị theo sóng nhô lên. Anh vội nhảy lên bờ, cầm tay vợ rồi cùng vợ đi trốn, nhưng hai vợ chồng vừa mới chạy được vài bước thì nước ao dâng lên ầm ầm, ngập cả cánh đồng, thật là khủng khiếp. Hai vợ chồng tưởng chết đến nơi, nhưng vợ cầu cứu bà lão. Tức thì vợ biến ra cóc, chồng biến ra ếch. Hai anh chị bị một ngọn sóng đuổi kịp nhưng không chết, mỗi người dạt đi một nơi, xa nhau lắm.
Khi nước đã rút, hai vợ chồng ở lại trên cạn và lại hiện nguyên hình thành người. Nhưng họ không biết số phận của nhau ra sao, vì mỗi người ở một xứ xa lạ, có núi cao, thung lũng sâu chia cách, người địa phương không biết họ ở đâu đến. Trong bao năm, hai vợ chồng cùng phải đi chăn cừu để sinh sống. Họ chăn cừu qua hết rừng nọ lại đến đồng kia, lòng luôn buồn rầu, thương tiếc.
Rồi một hôm, mùa xuân trở lại tốt tươi tưng bừng trên mặt đất, hai vợ chồng đi chăn cừu tình cờ đi về hướng của nhau. Trên dốc đồi xa xa, anh thấy một bầy cừu, bèn dẫn cừu mình đến. Đôi bên cùng đến một thung lũng mà không nhận được ra nhau, nhưng đều mừng là không phải sống lẻ loi nữa. Từ đó ngày nào hai người cũng chăn cừu gần nhau, tuy không trò chuyện cùng nhau, nhưng cũng thấy vui.
Một buổi tối, khi trăng tròn đã mọc, cừu đã ngủ, anh chăn cừu lấy sáo thổi một bài du dương nhưng rất não nùng. Chàng thổi xong, thấy người bạn gái khóc thảm thiết, bèn hỏi:
- Tại sao em khóc?
Nàng đáp:
- Trời ơi, xưa kia cũng trăng sáng như hôm nay, em cũng thổi bài này thì thấy đầu chồng nổi lên mặt nước.
Anh nhìn chị, rồi hình như có ai đó đã vén bức màn che mắt, anh nhận được ra người vợ yêu quí của mình. Còn chị, nhờ ánh trăng chiếu vào mặt anh, cũng nhận được ra chồng mình. Thế là hai vợ chồng ôm nhau hôn. Họ sung sướng hay không, chắc không cần phải nói.
Một buổi sáng mùa hè, một chú thợ may ngồi trên phản bên cửa sổ chăm chú khâu, có vẻ khoan khoái lắm. Chợt có bà nông dân đi qua phố rao hàng:
- Có ai mua mứt ngon không đây! Có ai mua mứt ngon không đây!
Chú thợ may nghe bùi tai, thò đầu ra cửa sổ gọi:
- Lại đây, bà ơi, lại đây tôi mua nào.
Bà hàng khệ nệ mang thúng trèo ba bậc thanh lên tới chỗ chú thợ may ngồi. Bà giở cho chú xem tất cả các bình mứt. Chú xem hết bình nọ đến bình kia, giơ lên ngắm nghía, dí mũi vào ngửi, rồi mãi sau mới nói:
- Mứt ngon đấy, bà cân cho tôi vài hào nào, hay nửa lạng cũng được.
Bà hàng cân rồi đi. Bà tức lắm vừa đi vừa làu nhàu vì cứ tưởng là vớ được món khách bở.
Chú thợ may reo lên:
- Lạy Chúa, ăn mứt này Chúa ban cho mình có sức có lực.
- Ăn được đấy! Nhưng mình phải khâu xong cái áo này đã rồi hãy chén.
Chú để bánh bên mình, khâu nốt, hứng lên, mũi khâu mỗi lúc một dài. Trong khi đó, mùi mứt thơm xông đến tận một bức tường gần có đầy ruồi đậu. Ruồi kéo đến đông đặc xà xuống bánh. Chú thợ may nói:
- Ơ kìa, ai mời chúng mày đấy?
Rồi chú đuổi các vị khách không mời mà đến ấy đi. Ruồi không hiểu tiếng người nên không chịu bay đi, chúng lại kéo đến đông hơn. Chú thợ may cáu tiết lên, vớ lấy một mảnh dạ, quật túi bụi, vừa quật vừa mắng:
- Đợi đấy, tao cho chúng mày biết tay.
Chú đập ruồi rồi đếm, được đúng bảy con nằm lăn kềnh chết thẳng cẳng. Chú tự phụ về sự anh dũng của mình và nói:
- Mình thật là cừ, phải làm cho cả tỉnh biết việc này mới được.
Chú vội may ngay một cái thắt lưng, thêu mấy chữ to: "Một đòn chết bảy". Rồi chú lại nói thêm:
- Sao lại chỉ một tỉnh thôi nhỉ! Phải làm cho cả thiên hạ biết việc này mới được!
Lòng chú rộn ràng vui như mở cờ. Chú đeo thắt lưng định đi chu du thiên hạ, vì chú cho anh dũng như chú mà chẳng lẽ cứ ở cái hiệu may quèn này mãi thì phí đi mất. Trước khi chú ra đi, chú lục lọi khắp nhà để xem còn có gì mang đi được. Nhưng chú chỉ thấy có miếng phó mát cũ liền nhét vào túi. Trước cửa, chú thấy một con chim bị mắc vào bụi cây, chú đút chim vào túi nốt. Rồi chú anh dũng lên đường.
Chú nhẹ mà nhanh nên đi không biết mỏi. Đường đi đến một quả núi. Lên đến đỉnh, chú thấy một anh khổng lồ thảnh thơi ngồi nhìn quanh. Chú thợ may hiên ngang tiến lại nói:
- Chào anh bạn. Anh bạn ngồi nhìn thế giới bao là đấy ư? Ấy mình cũng vừa lên đường đi chu du thiên hạ đây. Cậu có muốn đi cùng với mình không?
Anh khổng lồ nhìn chú thợ may một cách khinh bỉ và nói:
- Đồ tiểu yêu, đồ khốn kiếp!
Chú thợ may đáp lại:
- Sao lại nói năng thế!
Rồi chú cởi khuy áo, chỉ thắt lưng cho anh khổng lồ xem:
- Mình là người thế nào, cậu cứ đọc đây thì biết.
Anh khổng lồ đọc thấy "Một đòn chết bảy", nghĩ là chú đánh một cái chết bảy người, nên cũng nê nể. Khổng lồ muốn thử sức chú, cầm một hòn đá bóp chảy ra nước và nói:
- Cậu khỏe thì thử bóp như tớ xem.
Chú thợ may nói:
- Có vậy thôi à! Thật là trò trẻ con.
Chú móc túi lấy miếng pho mát bóp chảy ra nước rồi nói:
- Thấy chưa, có hơn không nào?
Anh khổng lồ lặng người đi, không ngờ một người nhỏ bé mà khỏe đến như vậy. Anh ta liền nhặt một hòn đá, ném lên mất hút trên không và bảo:
- Này, cậu thử làm như tớ xem sao.
Chú thợ may nói:
- Ném khá đấy. Nhưng đá cậu ném đi lại rơi xuống đất thôi. Mình ném một hòn không rơi xuống cơ.
Chú thò tay vào túi lấy chim, tung lên không. Chim được thả thích quá, bay miết đi không về nữa. Chú thợ may hỏi:
- Thế nào anh bạn, anh thấy cái trò ấy thế nào?
Anh khổng lồ đáp:
- Cậu ném được đấy, nhưng để xem cậu mang nặng có ra trò không?
Anh dẫn chú thợ may đến một cây sồi to đổ nằm trên mặt đất và nói:
- Cậu có khỏe thì giúp tớ mang cây này ra khỏi rừng.
Chú thợ may bé nhỏ đáp:
- Được thôi. Cậu hãy vác thân cây, mình sẽ khiêng cành, lá, nặng hơn nhiều.
Anh khổng lồ khiêng thân cây trên vai; chú thợ may leo ngay lên một cành ngồi. Anh khổng lồ không quay đầu nhìn lại được, phải vác cả cây kèm thêm chú thợ may nữa. Chú thợ may ngồi sau thích chí, huýt sáo điệu: Có ba bác phó may cưỡi ngựa ra đi, có vẻ coi việc vác cây như trò trẻ con. Anh khổng lồ vác nặng, lê đi một lúc mệt quá kêu:
- Này cẩn thận nhé, tớ ném cây xuống đấy.
Chú thợ may nhảy phắt xuống, vòng tay ôm cây như đương vác, bảo anh khổng lồ:
- Cậu chỉ được cái to xác, vác có cái cây mà cũng không xong.
Hai người lại tiếp tục đi. Đi qua một cây anh đào, anh khổng lồ vin ngọn cây có nhiều quả chín xuống cho chú thợ may ăn. Chú thợ may yếu quá không giữ nổi, anh khổng lồ vừa buông tay ra thì cây bật tung cả chú thợ may lên. Chú ngã nhưng không đau. Anh khổng lồ hỏi:
- Sao vậy, cậu không đủ sức giữ một cái sào à?
Chú thợ may đáp:
- Sức khỏe thì tớ có thừa. Thế cậu cho một tay đánh một đòn chết bảy lại thèm làm cái trò ấy à? Mình nhảy vọt qua cây vì mình thấy có bọn đi săn đứng dưới bắn vào bụi. Cậu có giỏi thì nhảy thử như tớ xem nào.
Anh khổng lồ cố nhảy nhưng không vượt qua được cây, bị mắc vướng vào cành lá, thành ra chú thợ may vẫn được cuộc. Anh khổng lồ nói:
- Này cậu gan dạ như vậy thì đi với tớ về hang ngủ đi. Chú thợ may nhận lời theo liền. Đến hang thì thấy có mấy người khổng lồ khác ngồi bên lửa, mỗi người cầm một con cừu thui
ăn. Chú thợ may nghĩ bụng: nơi này rộng rãi hơn cửa hiệu của mình.
Anh khổng lồ chỉ một cái giường bảo chú đi nằm mà ngủ. Chú thấy giường to quá, không nằm vào giữa mà co ro ở một góc. Đến nửa đêm, anh khổng lồ tưởng là chú đã ngủ say, liền lấy một thanh sắt to phang mạnh xuống giường cho là xong đời thằng tiểu yêu. Sáng dậy, bọn khổng lồ kéo vào rừng và quên bẵng chú thợ may đi. Bỗng họ thấy chú hớn hở và hiên ngang đi tới. Họ sợ quá, tưởng chú đánh chết cả lũ, vội chạy ba chân bốn cẳng.
Chú thợ may lại tiếp tục đi, mũi nghếch lên trời. Chú đi mãi tới khu vườn thuộc cung điện nhà vua. Chú thấy người mền mệt, nằm lăn ra bãi cỏ đánh một giấc. Trong khi chú ngủ, người đi qua lại đều ngắm nghía chú và đọc thấy trên thắt lưng chú mấy chữ: "Một đòn chết bảy". Họ bảo nhau:
- Chà! Giữa lúc thiên hạ thái bình thế này, vị hổ tướng này đến đây làm gì? Chắc là một dũng sĩ vô địch đây.
Họ liền tâu lên vua, họ nghĩ là nếu có đánh nhau thì sẽ cần đến dũng sĩ này, nhất định phải giữ lại, chớ để đi nơi khác mất. Vua nghe lời, cử người đến đợi chú thợ may dậy thì vời. Sứ giả đến đợi mãi cho đến lúc chú dậy, vươn vai mở mắt, mới trình bày ý định nhà vua. Chú thợ may đáp:
- Thì ta đến đây cũng vì việc ấy. Ta sẵn sàng phục vụ nhà vua.
Triều đình đón tiếp chú linh đình và xếp cho chú ở một nơi lịch sự. Nhưng các dũng sĩ khác chỉ lăm le nuốt sống chú và muốn tống khứ chú đi khỏi. Bọn họ bàn nhau:
- Lôi thôi với nó thì nguy, vì nó đập một cái chết bảy. Bọn mình chẳng đứa nào sống sót được.
Bọn họ quyết định cùng kéo vào yết kiến vua xin về. Họ tâu vua:
- Tâu bệ hạ, bọn hạ thần không thể ở cùng một người đánh một đòn chết bảy.
Nhà vua buồn, thấy vì một người mà bọn bầy tôi trung thành phải bỏ đi. Vua chỉ ước chưa gặp chú thợ may thì hay và muốn tống khứ chú đi. Nhưng vua không dám bảo chú sợ chú giết mình, giết cả dân mình rồi lên ngôi. Vua nghĩ mãi mới tìm ra được một kế. Vua sai sứ đến bảo chú nếu quả chú là một tráng sĩ, thì vua truyền cho làm một việc. Ở một khu rừng trong nước có hai tên khổng lồ sống bằng nghề trộm cướp, giết người, đốt nhà; không ai dám bén mảng lại gần chúng vì sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu chú giết được hai tên khổng lồ ấy thì vua sẽ gả con gái độc nhất cho và cho một nửa nước làm của hồi môn. Vua sẽ cắt thêm một trăm kỵ sĩ đi theo giúp.
Chú thợ may nghĩ bụng: "Thật là xứng với người như mình". Được một nàng công chúa đẹp và một nửa nước có phải là chuyện thường đâu! Chú liền đáp:
- Được được, ta sẽ trị hai thằng khổng lồ, ta không cần một trăm kỵ sĩ. Một người đánh một đòn chết bảy thì sợ quái gì hai tên.
Chú thợ may ra đi, một trăm kỵ sĩ kéo theo sau. Đến bên rừng, chú bảo các kỵ sĩ:
- Các chú đợi đây, để một mình ta sửa hai thằng khổng lồ.
Chú nhảy vào rừng tìm ngược tìm xuôi. Một lúc sau, chú thấy hai tên khổng lồ ngủ ở gốc cây, tiếng ngáy rung chuyển cả cành lá. Chú thợ may không để phí thì giờ, nhặt đầy hai túi đá rồi trèo lên cây. Chú bò ra một cành đúng ngay trên đầu hai tên đang ngủ, rồi ném đá hết hòn nọ đến hòn kia vào ngực một tên. Tên này mãi chẳng cảm thấy gì, nhưng sau tỉnh dậy, hích bạn hỏi:
- Sao cậu lại đánh tớ?
Tên kia đáp:
- Cậu mơ ngủ à? Mình có đụng đến cậu đâu!
Hai tên lại nằm ngủ. Chú thợ may liền ném một hòn đá vào tên thứ hai. Tên này nói:
- Thế là cái gì? Sao cậu lại ném mình.
Tên kia càu nhàu nói:
- Mình có ném cậu đâu.
Chúng cãi nhau một lúc. Nhưng vì chúng quá mệt nên chẳng bao lâu mắt lại nhắm nghiền lại. Chú thợ may lại tiếp tục trò ấy, chọn hòn đá to nhất, lấy hết sức bình sinh ném vào ngực tên khổng lồ thứ nhất. Tên này kêu lên:
- Thế này thì quá lắm!
Rồi hắn điên tiết, nhảy xổ vào bạn, đẩy bạn vào một cáí cây làm cây rung chuyển. Tên kia trả miếng cũng không kém; hai tên nổi nóng, nhổ cây phang nhau mãi đến lúc cả hai cùng lăn ra chết. Chú thợ may nhỏ bé lúc đó mới nhảy xuống. Chú nói:
- Cũng may mà chúng không nhổ cái cây mình ngồi, nếu không thì mình phải nhảy sang cây khác như con sóc. Nhưng được cái là mình nhanh nhẹn.
Chú rút gươm, chém vài nhát thật mạnh vào ngực hai tên khổng lồ, rồi đến nói với các kỵ sĩ:
- Công việc đã xong xuôi rồi. Ta đã kết liễu đời chúng. Nhưng quả là có gay go. Chúng bí quá đã nhổ cây chống đỡ, nhưng ăn thua gì với một người đánh một đòn chết bảy như ta.
Các kỵ sĩ hỏi:
- Anh không bị thương à?
Chú đáp:
- Việc quái gì. Chúng không đụng được tới lỗ chân lông ta.
Bọn kỵ sĩ không tin phi ngựa vào rừng thấy hai tên khổng lồ nằm trong vũng máu, chung quanh cây cối bị nhổ ngổn ngang. Chú thợ may bắt vua phải thưởng cho các thứ vua đã hứa. Vua tiếc lời hứa, lại nghĩ đến kế giết chú thợ may. Vua bảo chú:
- Nhà ngươi muốn lấy con gái ta và nửa nước của ta thì phải làm một việc anh dũng nữa. Ngươi phải bắt cho được con kỳ lân phá hoại rừng của ta. Hai thằng khổng lồ thần còn chẳng sợ, thần sợ gì một con kỳ lân. Việc của thần là: Đánh một đòn chết bảy.
Chú liền đem một cái dây thừng, một cái rìu, dặn những người đi theo đứng ở ngoài, rồi đi thẳng vào rừng. Chú cũng không mất lâu công tìm kiếm, kỳ lân chẳng mấy chốc nhảy xổ đến định húc chú. Chú nói:
- Khoan, khoan đã nào, cậu làm gì mà vội vã thế?
Chú đợi cho con vật lại gần sát liền nhảy ra sau một gốc cây. Kỳ lân đâm đầu húc vào cây, sừng cắm sâu vào thân cây, không rút ra được nữa bị mắc ở đấy. Chú thợ may nói:
- Thế là mình tóm được cu cậu rồi nhé.
Chú ở sau thân cây đi ra, lấy thừng buộc cổ kỳ lân, lấy rìu đẽo cây gỡ sừng ra. Mọi việc xong xuôi chú dẫn con vật đến nhà vua. Nhưng vua vẫn không giữ lời hứa, bắt chú làm một việc thứ ba nữa. Trước khi cưới, chú thợ may phải bắt được cho vua một con lợn rừng phá hoại trong rừng, vua sẽ cho thợ săn giúp đỡ chú. Chú thợ may nói:
- Được, được, trò trẻ con thôi.
Chú không đem thợ săn vào rừng. Bọn họ mừng lắm vì lợn rừng đã nhiều lần đón tiếp họ không được thú vị lắm. Con vật vừa nhìn thấy chú thợ may liền sùi bọt mép, nghiến răng, đâm xổ vào định quật chú xuống đất. Chàng hảo hán chạy tót vào một cái nhà thờ gần đấy, rồi nhảy qua cửa sổ mà ra. Lợn chạy theo vào, chú chạy vòng ra đóng cửa lại. Con vật tức điên lên, nhưng nặng nề quá không tài nào nhảy qua cửa sổ được. Chú thợ may liền gọi các người đi săn đến, để họ trông thấy tận mắt con thú bị nhốt. Vị hảo hán ra mắt nhà vua; vua đành phải làm theo lời hứa gả con gái cho anh ta và chia cho một nửa nước. Nếu vua mà biết chú chẳng phải là một dũng sĩ mà chỉ là một anh chàng thợ may thì hẳn là vua chẳng bao giờ giữ lời hứa.
Lễ cưới được tổ chức linh đình, nhưng kém vui. Chú thợ may lên làm vua. Được ít lâu, hoàng hậu trẻ tuổi đang đêm nghe thấy chồng nói mê: "Này này cậu ơi, khâu ngay cho tớ cái áo này, vá ngay cho tớ cái quần này, nếu không tớ sẽ lấy thước quật vào vai cho bây giờ". Nàng biết ngay đức ông chồng mình gia thế ra sao. Sáng hôm sau, nàng đến tìm cha than thân trách phận, xin vua cha đánh tháo cho khỏi tay một anh chồng chỉ là bác phó may. Vua an ủi con nói: “Đêm nay, con ngủ cứ để ngỏ cửa. Quân hầu của ta sẽ đứng rình ở ngoài, đợi nó ngủ là vào trói gô nó lại, khiêng xuống tàu chở đi thẳng”.
Công chúa nghe kế ấy bùi tai. Nhưng tên hầu cận nhà vua nghe được hết. Vốn rất mến chủ mới, hắn kể lại tất cả. Chú thợ may nói:
- Ta sẽ phải chặn trước.
Tối hôm ấy, chú đi nằm với vợ như thường lệ. Khi nàng đã tưởng chú đã ngủ rồi, nàng dậy mở cửa rồi đi nằm lại. Chú giả tảng ngủ rồi hét to lên:
- Này này cậu ơi, khâu ngay cho tớ cái áo này, vá ngay cho tớ cái quần kia, nếu không tớ sẽ cho cậu mấy cái tát tai bây giờ! Ta từng đánh một đòn chết bảy, giết hai thằng khổng lồ, săn một con kỳ lân, bắt một con lợn rừng, thì ta còn sợ gì bọn núp ở ngoài phòng kia!
Bọn kia nghe chú thợ may nói vậy, sợ xanh mắt, bỏ chạy ba chân bốn cẳng như bị ma đuổi. Không tên nào dám nho nhoe cả. Thế là chú thợ may giữ ngôi vua cho đến hết đời.
Xưa có một anh thợ may, dáng người nhanh nhẹn, tính tình dễ thương. Anh đi tập nghề, đến cánh rừng kia vì không biết đường nên bị lạc. Tối đến, giữa chốn hoang vu lạnh lẽo ấy, anh chỉ còn cách cố tìm ra một chỗ trú thân. Nằm trên đám rêu mềm mà ngủ thì quả có khoái, nhưng lại sợ thú dữ. Sau cùng anh quyết định leo lên cây.
Anh chọn một cây sến thật cao, leo lên tận ngọn. Gió thổi ào ào trên ngọn cây như muốn cuốn anh đi. Anh run rẩy ngồi trong bóng tối thế khoảng vài giờ. Chợt anh nhìn thấy ánh đèn ở cách đấy không xa lắm. Anh nghĩ bụng: "Chắc có nhà, đến nhất định tối hơn ở trên mấy cái cành này". Anh cẩn thận tụt xuống đi lại phía ánh đèn. Anh đến một ngôi nhà nhỏ, ghép toàn lau sậy. Anh mạnh dạn gõ cửa. Cửa mở, anh thấy dưới ánh đèn một ông già dáng người nhỏ bé, tóc hoa râm, mặc cái áo chắp hàng trăm mụn vải màu sắc sặc sỡ. Ông cụ cất giọng khàn khàn hỏi:
- Anh là ai, đến có việc gì?
Anh đáp:
- Tôi chỉ là một người thợ may nghèo, gặp tối giữa rừng, xin cho trú nhờ đêm nay.
Ông cụ xẵng giọng quát:
- Bước ngay đi chỗ khác mà xin trọ, ta không muốn dây với những đứa cầu bơ cầu bất.
Nói xong ông cụ định quay vào. Nhưng anh thợ may đã kịp túm lấy áo của cụ, van nài rất tha thiết. Ông cụ vốn không phải người ác như đã cố tình làm ra mặt, cũng mủi lòng và đồng ý cho anh vào.
Cụ lại cho anh ăn và dọn cho anh một cái ổ rơm tươm tất ở góc nhà. Anh thợ mệt quá chẳng cần đợi ai ru, đánh một giấc thẳng cho đến sáng. Giá như không có tiếng huyên náo đánh thức anh thì chưa chắc anh đã dậy. Tiếng kêu, tiếng trống inh ỏi từ bên ngoài lọt qua vách mỏng vào nhà. Không biết sao anh thợ may lúc ấy lại bạo thế. Anh nhảy phắt dậy, mặc vội quần áo rồi xông ra. Anh thấy ngay gần nhà có con bò rừng đen đang đánh nhau dữ dội với một con hươu đẹp. Hai con vật quần nhau rung chuyển cả mặt đất, tiếng rống, tiếng kêu rền trời. Đánh đã lâu mà không phân biệt được thắng bại. Sau cùng hươu húc rõ mạnh vào bụng đối thủ. Bò rống lên khủng khiếp, rồi quì xuống. Hươu bồi thêm mấy sừng nữa, bò chết hẳn.
Anh thợ may thấy hai con vật đánh nhau, lạ lắm. Anh còn đang đứng đờ ra đấy, thì hươu đã xông thẳng vào chỗ anh. Nó không để anh kịp chạy, xốc anh lên cặp sừng lớn. Anh chưa kịp
nghĩ gì, nó đã lao vun vút qua cây, qua đá, qua thung lũng, qua bãi, qua rừng. Anh chỉ còn biết cố nắm lấy cặp sừng cho vững, phó mặc số phận và thấy mình như bay bổng. Sau cùng hươu dừng lại trước một vách đá, đoạn hất anh xuống.
Anh thợ may, phần chết nhiều hơn phần sống, lúc lâu sau mới tỉnh. Đợi anh nghỉ một lúc, con hươu từ nãy vẫn đứng bên mới lấy sừng húc mạnh vào một cái cửa trong vách đá. Cửa bật tung. Lửa từ trong hắt ra, tiếp đấy hơi nước nghi ngút che lấp cả hươu. Anh không biết làm thế nào, hướng về đâu để thoát được cảnh địa ngục mà trở về trần gian. Anh còn đang hoang mang, bỗng nghe trong vách có tiếng gọi:
- Vào đây, đừng sợ, không hại người đâu!
Anh còn run thật, nhưng như có sức mạnh vô hình thúc giục, anh đẩy cổng sắt bước vào. Bên trong có gian phòng rất lớn. Trần, vách, nền nhà hết thảy đều lát đá vuông vắn, nhẵn thín, phiến nào cũng khắc một dấu hiệu rất kỳ lạ. Anh kinh ngạc lắm, ngắm mãi. Anh vừa định bước vào thì nghe thấy tiếng gọi lần thứ hai:
- Hãy lại chỗ phiến đá ở giữa phòng, có vận may rất lớn đang chờ ngươi.
Anh thêm mạnh dạn, làm theo lời dặn. Phiến đá dưới chân anh bắt đầu chuyển động rồi từ từ tụt sâu xuống. Lúc nó đứng lại, anh thợ may thấy mình đang ở trong một gian phòng khác, cũng rộng như gian trên. Nhưng ở đây càng có nhiều thứ kỳ lạ hơn. Tường đục nhiều lỗ, trong xếp những bình pha lê trong suốt đựng rượu màu hoặc chứa một thứ khói xanh biêng biếc. Trên nền nhà, kê hai cái hòm thủy tinh đối mặt nhau khiến anh càng tò mò. Anh lại xem một cái, thấy trong là mô hình một tòa nhà rất đẹp, kiểu lâu đài, quanh đủ hết nhà phụ, nhà kho, chuồng gia súc và nhiều thứ khác nữa. Mọi vật đều bé nhỏ, xinh xắn, làm rất công phu, phải là bàn tay tài nghệ chính xác cao độ mới tạo nên được.
Anh còn đang mải xem vật báu không chán mắt thì lại có tiếng gọi, anh quay lại xem hòm thứ hai. Anh kinh ngạc biết bao khi thấy trong ấy là một người con gái đẹp tuyệt vời. Nàng nằm im như ngủ, suối tóc tơ vàng tựa như một cái áo khoác cực kỳ quí giá quấn quanh người. Đôi mắt nhắm nhưng sắc mặt vẫn hồng và hơi thở nhịp nhàng vẫn nhẹ rung một dải băng, chứng tỏ nàng còn sống. Anh còn đang ngắm người đẹp, trống ngực rộn ràng bỗng thấy cặp mắt nàng hé mở. Người con gái đã thấy anh, cô gái giật mình mừng lắm. Cô kêu lên:
- Trời, ta sắp thoát rồi! Hãy mau giúp em ra khỏi cái ngục này. Chỉ cần chàng tháo chốt quan tài là em ra được.
Anh bình tĩnh làm theo lời dặn. Nắp quan tài được nạy lên, người đẹp đi ra góc phòng lấy một tấm áo choàng khoác lên người. Đoạn nàng ngồi xuống một phiến đá, gọi chàng lại, hôn môi chàng rất âu yếm và bảo:
- Ân nhân ơi, em đợi chàng từ lâu rồi. Lòng trời đức độ đã khiến chàng đến đây cứu em. Chàng là người chồng mà trời định sẵn cho em. Chàng là người yêu của em, là chủ mọi của cải trên đời này. Chàng sẽ sống vô cùng êm ấm và hạnh phúc. Chàng hãy ngồi nghe em kể chuyện. Em vốn là con một hầu tước rất giàu. Bố mẹ em đã chết từ khi em còn nhỏ tuổi. Lúc trăng trối bố mẹ em có giao em lại cho người anh lớn nuôi dạy. Hai anh em ăn ở hòa thuận, từ ý nghĩ đến sở thích đều giống nhau, nên cả hai đã nhất quyết không lập gia đình riêng để sống bên nhau đến trọn đời. Trong nhà không mấy khi ngơi khách. Xóm giềng bè bạn đến luôn và ai cũng được hai anh em ân cần quý mến. Bỗng một tối kia, có người khách lạ phi ngựa đến lâu đài. Hắn nói là không thể đến kịp trạm sau được nữa, xin cho ngủ nhờ. Hai anh em bằng lòng, đãi hắn rất hậu. Tối, ba người vừa ăn vừa trò chuyện, hắn kể chuyện rất tài. Anh em thích quá mới nói hắn ở thêm vài hôm nữa. Hắn từ chối lấy lệ rồi nhận lời. Mãi khuya mới ăn xong, người lạ được đưa về phòng. Còn em lúc ấy đã quá mệt nên cũng về buồng riêng ngủ. Em vừa chợp mắt bỗng lại tỉnh, nghe vẳng có tiếng nhạc du dương, quyến rũ. Em không hiểu được tiếng nhạc từ đâu đến nên định gọi con hầu ở phòng bên. Nhưng lạ thay có trái núi đè lên ngực em, họng em cũng như bị bóp nghẹt, muốn kêu mà không thốt ra được tiếng nào. Trong khi ấy, dưới ánh đèn khuya em thấy rõ gã lạ mặt bước vào, mặc dầu hai lần cửa vẫn khóa. Gã hóa phép ra tiếng nhạc nọ để đánh thức em, rồi gã chui qua lỗ khóa vào, gã muốn tỏ tình cùng em. Thấy quá ghê tởm phép yêu ấy của gã, em không thèm đáp. Gã đứng lúc lâu, có muốn đợi tình hình thay đổi lợi hơn. Nhưng em vẫn im lặng. Gã nổi giận dọa sẽ trả thù. Gã bảo gã có cách trị sự kiêu kỳ của em, xong gã bỏ ra ngoài. Suốt đêm lo quá, mãi đến gần sáng mới chợp mắt. Sáng dậy, em định chạy sang phòng anh em để kể các chuyện, nhưng không thấy anh đâu nữa. Người hầu cho biết anh em đã cưỡi ngựa đi săn cùng người lạ mặt
từ tờ mờ sáng. Em cảm thấy ngay là có tai họa, vội thay xiêm áo, sai thắng ngựa thật nhanh, rồi đem một người hầu theo, thúc cho ngựa phi nước đại vào rừng. Giữa đường, người hầu bị ngã ngựa què một chân, nên không thể theo em được nữa. Mình em phóng ngựa đi tiếp và mấy phút sau thì thấy gã kia, tay cầm sợi thừng buộc cổ một con hươu đẹp, đi lại. Rõ ràng lúc ấy mắt hươu mở to đương ngấn lệ. Gã không trả lời em mà chỉ cười rộ lên. Em giận quá, rút khẩu súng ngắn bên người ngắm con quỷ ấy bắn một phát. Nhưng đạn chạm ngực nó rồi lại bật lại, trúng ngực em. Em ngã nhào xuống, thấy gã lẩm bẩm câu gì đó rồi em ngất đi. Lúc tỉnh lại em thấy mình đang nằm trong cỗ quan tài thủy tinh ở một cái hầm. Thằng yêu đạo kia xuất hiện lần nữa, nó bảo nó đã biến anh em thành một con hươu. Tòa lâu đài của em với cả cơ nghiệp đã bị nó hóa phép thu nhỏ lại, giam vào một hòm thủy tinh khác, gia nhân cũng bị nó biến ra khói hết, nhốt trong các bình. Nếu em chiều lòng nó, nó sẽ giải phép cho ngay, không khó. Nó chỉ cần mở nắp bình và nắp hòm là các vật lại nguyên hình ngay. Nhưng cũng như khi trước, em không thèm đáp. Nó bỏ đi, để em nằm lại ở trong ngục này trong giấc ngủ triền miên. Nhưng lúc hồn phách mơ màng, cũng có khi em thấy một chàng trai đến cứu mình. Hình ảnh ấy an ủi em nhiều, và hôm nay lúc em hé mắt thấy anh, tức là giấc mơ kia đã thành sự thật. Chàng hãy giúp em thực hiện nốt phần tiếp của giấc mơ kia. Trước tiên chúng ta hãy khuân cái hòm thủy tinh có lâu đài trên phiến đá lớn này.
Hai người khiêng hòm lên phiên đá. Nó từ từ chuyển, đưa họ vượt miệng hầm lên tầng trên, từ đấy có lối ra ngoài rất dễ. Ra ngoài rồi, người con gái mở nắp hòm và thật kỳ lạ: lâu đài, nhà cửa, sân vườn cứ to dần ra rất nhanh, chẳng mấy chốc bằng thật. Họ lại quay xuống hầm dưới khuân nốt các bình lên. Người con gái tháo nắp bình, khói bay biến thành người sống, gia nhân của họ lại đông đủ như trước. Cỏ cây lại hớn hở khi thấy cô đã trừ được yêu đạo, người anh bị hóa thành hươu cũng trở lại hình người và từ trong rừng đi ra, sung sướng với hạnh phúc của em gái. Ngày hôm ấy, đám cưới được tổ chức như lời cô đã hứa. Cô lấy anh thợ may.
Hanxơ đi ở đã được bảy năm. Một hôm, chú thưa với chủ:
- Thưa ông, tôi ở với ông đã hết hạn rồi, xin ông trả tiền công cho tôi để tôi về nhà với mẹ.
Chủ đáp:
- Chú đã hầu hạ ta hết lòng. Vậy ta cứ tùy công mà thưởng cho chú.
Chủ cho Hanxơ một khối vàng to bằng cái đầu chú. Hanxơ rút khăn tay trong túi ra bọc vàng vác trên vai lên đường về nhà. Hanxơ đang đi lững thững thì gặp một người hớn hở cưỡi một con ngựa phóng tới. Hanxơ nói bô bô:
- Chà! Cưỡi ngựa hay chắc thú lắm: ngồi trên mình ngựa như ngồi trên ghế bành, không vấp vào sỏi, đỡ hại giày, đi cứ băng băng.
Người cưỡi ngựa nghe tiếng, dừng ngựa lại hỏi chú:
- Thế sao chú lại đi bộ?
- Đó là sự bất đắc dĩ. Tôi hiện mang về nhà một khối vàng, nhưng đi cứ phải cúi đầu vì nó nặng trĩu cả vai.
- Nếu chú thích thì chúng ta đổi nhau: tôi đưa chú con ngựa, chú đưa tôi khối vàng nhé.
- Tôi rất đồng ý, nhưng tôi bảo cho anh biết trước rằng khối vàng của tôi nặng đấy. Rồi anh đến lê ra đường thôi.
Người kia xuống ngựa, cầm lấy vàng và giúp Hanxơ lên yên. Sau khi trao dây cương cho Hanxơ, người ấy bảo:
- Muốn ngựa chạy nhanh thì phải tắc lưỡi và nói: "Hốp! Hốp!".
Hanxơ ngồi trên mình ngựa, không phải mang nặng nữa, khoan khoái lắm. Một lúc sau, chú chợt có ý nghĩ cho ngựa chạy nhanh hơn. Chú liền tắc lưỡi kêu: "Hốp! Hốp!" để thúc ngựa. Ngựa bèn tế nước đại; Hanxơ không kịp trở mình, bị quật xuống hố bên vệ đường. Nếu không gặp một bác nông dân đang xua một con bò cái giữ ngựa lại thì ngựa cứ thế phóng mãi.
Hanxơ lồm cồm bò dậy, mình mẩy thâm tím. Chú buồn bã nói với người dắt bò:
- Cưỡi con ngựa kiểu này nó lắc nó quăng mình xuống đất, có phen gãy cổ. Khó chơi lắm. Từ nay tôi xin chừa... Tôi thích bò của bác hơn: có thể ung dung đi sau nó, mà ngày nào cũng được sữa, bơ, pho mát ăn. Ước gì tôi được con bò như của bác!
Bác nông dân nói:
- Nếu chú thích bò thì tôi đổi bò cho chú, tôi lấy ngựa.
Hanxơ mừng lắm đồng ý. Người kia lên ngựa, phóng đi. Hanxơ ung dung đánh bò đi, hớn hở về việc đổi chác hời.
- Giờ mà có miếng bánh, mà hẳn bánh mì thì mình chẳng bao giờ lo thiếu, tha hồ mà ăn với bơ và pho mát. Lúc nào khát, thì chỉ việc vắt sữa bò uống. Ta còn ước gì hơn nữa!
Đến một quán hàng, Hanxơ dừng lại và trong lúc cao hứng, chén sạch cả lương thực mang theo để ăn bữa trưa và bữa tối. Còn ít tiền, chú dốc nốt ra mua nửa cốc bia. Đánh chén xong, chú lại đuổi bò đi về phía quê mẹ.
Càng gần trưa, trời càng nóng. Hanxơ phải qua một bãi hoang dài, đi mất đến hơn một tiếng. Chú thấy nóng quá, khô cả mồm. Chú nghĩ: "Ta đã có cách: vắt sữa bò uống". Chú buộc bò vào thân một cây khô. Chú không có gầu, bèn lấy mũ ra để hứng sữa. Chú loay hoay mãi mà chẳng được giọt nào. Chú lúng ta lúng túng, bò sốt ruột quá đá thốc cho một cái vào đầu, chú loạng choạng ngã lăn ra bất tỉnh hồi lâu. May sao vừa lúc ấy có một người đồ tể xe một con lợn con qua đó. Bác ta kêu lên:
- Chà chà! Bị vố đau nhỉ!
Rồi bác đỡ Hanxơ dậy. Hanxơ kể lại sự tình. Bác đồ tể đưa cho Hanxơ một cái chai và bảo:
- Uống lấy một hớp cho lại người. Bò của chú đã già, kiệt sữa rồi, chỉ còn cách là cho đi kéo xe hay là đem thịt thôi.
Hanxơ vò đầu vò tai than:
- Khổ quá! Nào ai có ngờ! Bò này mà mang về nhà làm thịt thì tuyệt. Thịt ngon biết mấy! Nhưng tính tôi không thích ăn thịt bò mấy, không được ngọt. Chà! Giá được con lợn non béo tốt như thế kia thì ngon cha chả là ngon, ấy là chưa kể đến dồi.
Bác đồ tể nói:
- Này chú, chiều ý chú, tôi bằng lòng đổi cho chú lấy bò.
Hanxơ nói:
- Bác tốt bụng quá. Trời phù hộ cho bác.
Chú trao bò, cởi lợn ở xe xuống dòng dây dắt đi, vừa đi vừa mừng thầm gặp mọi sự như ý, mắc phải cái gì cũng gỡ được ngay. Chú lại gặp một gã cắp con ngỗng trắng đẹp. Hai bên chào hỏi nhau. Hanxơ kể cho gã nghe chú gặp may thế nào, lần nào đổi chác cũng được hời. Gã kia nói là y đem con ngỗng đi làm lễ rửa tội. Gã nắm cánh ngỗng nói tiếp:
- Chú nhắc mà xem ngỗng có béo không. Vỗ trong hai tháng trời đấy. Ngỗng này quay ăn thì lúc cắn mỡ phọt ra cả hai bên mép.
Hanxơ nhắc thử con ngỗng, rồi nói:
- Anh nói đúng đấy, nhưng lợn của tôi cũng chẳng tồi đâu.
Gã kia lắc đầu, ngơ ngác nhìn quanh, rồi nói:
- Này chú, việc con lợn xem ra mờ ám đấy. Ông lý ở làng mà tôi vừa đi qua mới mất con lợn. Tôi e rằng... con lợn ấy hiện đang ở trong tay chú. Người ta đã cho đi tìm khắp nơi, nếu họ tóm được chú dắt đúng con lợn ấy thì nguy cho chú, ít nhất chú cũng bị giam vào ngục tối.
Hanxơ run sợ nói:
- Trời ơi, làm sao thoát cơn hoạn nạn được. Anh ở đây thông hiểu tình hình, thôi anh lấy con lợn, đưa cho tôi con ngỗng.
Gã kia nói:
- Nếu đổi như vậy thì thật là liều, nhưng tôi thật quả không đành lòng để chú bị tai họa.
Rồi gã cầm lấy dây đuổi con lợn đi theo đường tắt. Còn Hanxơ, con người tốt bụng, thì tay cắp ngỗng, bụng hết lo, cứ thế về quê.
Chú nghĩ bụng: "Kể ra thì mình đổi chác cũng vẫn có lợi: nào là thịt quay ngon, nào là mỡ ăn được ba tháng với bánh mì, nào là lông trắng muốt tuyệt đẹp để nhồi gối, ngủ êm như ru. Mẹ sẽ mừng lắm đấy!".
Khi đi qua làng bên, Hanxơ thấy một người thợ mài dao, vừa quay đá vừa hát:
Tôi mài kéo, phiến đá mài của tôi quay tít.
Tôi mắc áo tay tôi theo chiều gió.
Hanxơ dừng lại xem, rồi nói:
- Vừa mài vừa hát vui vẻ như thế, chắc là sung sướng lắm nhỉ?
- Chứ còn gì nữa! Nghề tôi là nghề hái ra tiền. Người thợ mài giỏi lúc nào sờ vào túi cũng có tiền. Thế nhưng mà chú mua con ngỗng đẹp kia ở đâu?
- Nào tôi có mua đâu! Tôi đổi lợn đấy.
- Thế lợn?
- Tôi đã đổi bò cái lấy lợn đấy.
- Thế bò cái?
- Tôi đã đổi một con ngựa lấy bò cái đấy.
- Thế ngựa?
- Tôi đã đổi một khối vàng to bằng đầu tôi lấy ngựa đấy.
- Thế vàng?
- Tôi đi ở bảy năm được ngần ấy vàng đấy.
- Chú kể cũng đã kéo xoay xở đấy, nhưng giá trong túi lúc nào cũng loảng xoảng tiền thì mớí thật là sung sướng.
- Làm thế nào được như vậy?
- Muốn thế chú phải làm nghề mài dao như tôi. Chỉ cần có phiến đá mài, còn đồ lặt vặt khác thì dễ kiếm thôi. Tôi còn vừa vặn một viên đá mài, mẻ mất một tí, nhưng thôi, cứ đưa tôi con ngỗng là được. Chú có đồng ý không?
- Còn phải hỏi làm gì? Trong túi lúc nào cũng có tiền là sướng nhất trần gian, còn ao ước gì hơn nữa?
Hanxơ liền đổi ngỗng lấy đá mài.
Người thợ mài nhặt ở ngay gần đấy thêm một hòn đá thường nữa khá nặng, đưa cho Hanxơ mà nói: “Đây tôi thêm cho chú hòn đá này tốt lắm, để làm đe tha hồ mà đập: có thể để đinh cũ cong lên đó mà giọt cho thẳng. Chú bê cẩn thận mà mang đi nhé”.
Hanxơ mừng rỡ, mắt sáng lên, quẩy đá ra đi nghĩ bụng: “Trời cho ta cái số trăm sự đều may, cứ như đứa trẻ sinh đúng ngày lành tháng tốt vậy”.
Nhưng hôm đó, Hanxơ dậy từ lúc sớm tinh sương nên cảm thấy mệt nhọc. Bụng lại cồn cào vì khi chú ăn mừng đổi được bò đã ăn hết cả lương thực. Hanxơ mang đá nặng lê không được. Bước một bước lại dừng một bước. Chú chỉ mong không phải vác gì là sướng. Như con ốc bò,
chú men đến cái suối định nghỉ một tí và uống ít nước lạnh. Chú đặt đá cẩn thận bên bờ suối, cạnh người, cúi xuống uống nước. Bỗng chú vô ý đụng vào đá, cả hai hòn đều rơi tòm xuống đáy nước. Thấy vậy chú mừng quýnh. Hanxơ reo lên:
- Sướng quá đi mất, trên trần gian không có ai sướng bằng ta. Được trút hết gánh nặng, bụng thênh thênh, chú vui bước đi về nhà mẹ.
Xưa có một chú bé chăn dê nghèo, bố mẹ đều chết cả, quan trên đưa chú cho một nhà giàu nuôi dạy. Song vợ chồng nhà này rất cay nghiệt. Của cải đã có thừa mà họ vẫn tham lam bủn xỉn. Hễ có ai ăn mất của họ một tí bánh mì là họ đã tức giận rồi. Chú bé phải làm cật lực mà được ăn rất ít mà thường là ăn đòn nhiều hơn.
Một hôm, chủ giao cho chú trông con gà mái và một đàn gà con. Gà mẹ đuổi con lạc qua một bụi tầm xuân. Bỗng một con diều hâu từ trên cao bổ xuống, quặp lấy gà mẹ bay đi mất. Chú bé lấy hết hơi sức gào: "Kẻ cắp! kẻ cắp! Bắt lấy quân kẻ cắp!". Nhưng nào có ích gì. Diều hâu đâu có chịu tha mồi về trả. Chủ nghe tiếng kêu vội chạy ra. Lúc biết là mất gà, hắn ta giận điên lên đánh chú bé tới tấp, đến nỗi mấy ngày sau chú vẫn không nhúc nhích được.
Giờ chú phải trông đàn gà vắng mẹ. Khó khăn càng nhiều hơn vì lũ gà cứ bỏ chạy lung tung. Chú bèn nghĩ ra một cách, chú lấy dây buộc chằng lũ gà lại với nhau. Chú tưởng thế là diều hâu không thể bắt được một con gà nào nữa. Nhưng chú đã lầm to, mấy hôm sau, chú vừa ngủ thiếp đi vì mệt và đói thì con chim độc ác kia lại đến, sà xuống bắt một con gà con. Vì con nọ đã buộc chằng vào con kia nên diều hâu vớ được trọn cả một đàn. Nó tha tít lên ngọn cây
nuốt hết sạch. Vừa khi ấy tên nhà giàu cũng về tới nhà. Thấy tai họa xảy ra, hắn phát khùng, lại đánh chú bé một trận không tiếc tay, đến nỗi chú phải nằm liệt giường mấy ngày liền.
Khi chú đã đi lại được, hắn bảo: "Mày đần độn quá không thể nào trông coi cái gì hết, thôi để sai vặt vậy".
Hắn giao cho chú một làn nho đến biếu viên thẩm phán, kèm theo một bức thư. Giữa đường, vừa đói vừa khát, chịu chẳng nổi, chú bé đánh liều ăn mất hai chùm nho. Lúc chú đem nho đến nhà tên thẩm phán, viên quan này bóc thư ra xem, rồi lại thấy thiếu mất hai chùm nho liền bảo:
- Thiếu mất hai chùm.
Chú bé thật thà thú nhận là giữa đường đói và khát quá chú đã trót ăn mất số nho đó rồi. Viên thẩm phán viết thư cho người nông dân đòi phải nộp đủ số nho như đã viết trong thư.
Lần này chú bé lại phải đem nho với một lá thư khác đi. Và dọc đường, đói khát quá, cực chẳng đã, cũng như lần trước, chú lại ăn mất hai chùm. Song lần này, để giấu bức thư khỏi lộ, chú đã lục làn lấy thư ra, chặn dưới một hòn đá rồi ngồi đè lên trên. Thế mà viên thẩm phán vẫn cứ hỏi chú về số nho bị thiếu. Chú kêu lên: "Trời ơi, sao mà ông biết được! Đến bức thư cũng không thể biết chuyện ấy cơ mà, vì tôi đã chặn một hòn đá lên rồi".
Viên thẩm phán phì cười về sự ngây ngô của chú. Ông ta biên thư cho tên nhà giàu khuyên hắn nên đối xử tốt hơn với chú bé nghèo, phải cho chú ăn uống đầy đủ và dạy cho chú biết phân biệt phải trái. Con người nhẫn tâm nói: "Rồi ta sẽ dậy cho mày phân biệt. Nếu mày muốn ăn thì mày cũng phải chịu làm. Mày làm sai trái, ta sẽ dạy mày bằng roi vọt".
Hôm sau hắn giao cho chú bé một việc khó. Chú phải băm mấy bó rơm làm thức ăn cho ngựa. Hắn đe chú: "Trong năm tiếng nữa, ta trở về, nếu mày vẫn chưa băm xong chỗ rơm này thì ta sẽ đánh cho mày một trận bò lê bò la". Hắn cùng vợ, đầy tớ trai, đầy tớ gái đi phiên chợ hàng năm và chỉ để lại cho chú bé có một mẩu bánh mì con.
Chú bé ngồi trên đống rơm ra sức băm. Được một lúc thấy nóng, chú cởi áo ngoài ra quẳng lên đống rơm. Trong bụng chỉ lo làm không kịp, chú ra sức băm. Giữa lúc hăng hái, chú quên khuấy băm nát cả tấm áo của chú lẫn trong rơm. Đến lúc nhớ ra thì đã muộn rồi, không còn làm thế nào được nữa. Chú kêu lên: "Trời ơi, chết tôi rồi. Con người cay nghiệt kia có bao giờ dọa suông đâu! Hắn về mà thấy mình làm thế này thì hắn sẽ đánh mình chết mất. Thà tự tử trước còn hơn".
Đã có một lần chú bé nghe thấy mụ chủ bảo: "Ở dưới gầm giường có niêu thuốc độc". Sự thật mụ ta chỉ nói để dọa những kẻ tham ăn vì niêu đó đựng mật ong. Chú mới bò vào gầm giường lôi cái niêu ra đánh hết nhẵn. Chú tự bảo: "Không hiểu sao người ta vẫn bảo cái chết là cay
đắng mà mình ăn lại chỉ thấy ngọt. Trách nào mụ chủ cứ muốn được chết".
Chú ngồi lên cái ghế, bình tĩnh đợi chết. Nhưng chú không thấy mình lả đi, trái lại nhờ món ăn rất bổ kia, chú lại cảm thấy mình khỏe ra. Chú tự bảo: “Chắc không phải là thuốc độc. Song mình còn nhớ có lần lão chủ bảo: Trong hòm quần áo có chai thuốc diệt ruồi. Nhất định nó là thuốc độc thật và phải uống thứ thuốc đó mới chết được”. Song đó cũng không phải là thuốc diệt ruồi thật mà chính là rượu nho.
Chú lôi cái chai ra tu sạch. Chú bảo: "Thứ thuốc độc này cũng ngọt". Nhưng chỉ một lúc sau rượu bắt đầu ngấm. Chú thấy người ngây ngất lại nghĩ bụng: chắc chết đến nơi rồi. Chú tự nhủ: "Có lẽ mình sắp chết, phải đi ngay ra nghĩa địa tìm sẵn lấy một cái huyệt mới được". Chú bước đi lảo đảo, đến nghĩa địa nằm trong một cái huyệt mới đào. Mỗi lúc, chú thấy mình càng thêm choáng váng.
Gần đó có một quán ăn, trong quán đang có đám cưới. Nghe tiếng nhạc, chú bé cứ ngỡ mình đã lên tới thiên đàng. Sau đó chú lịm đi hoàn toàn. Chú bé không bao giờ tỉnh lại nữa, hơi rượu nóng và sương đêm giá buốt làm chú chết thật. Chú mãi mãi ở lại nơi chú đã nằm xuống.
Tên nhà giàu nghe tin chú bé chết sợ lắm, hắn chỉ lo bị tòa án xét xử. Hắn lo sợ quá ngã xuống đất ngất đi. Mụ vợ khi ấy đang rang lúa mạch dưới bếp vội chạy lên tìm cách chạy chữa cho chồng. Nào ngờ ngọn lửa bốc vào lòng chảo, rồi cháy lan ra khắp nhà. Vài giờ sau chỉ còn lại một đống tro tàn. Những năm cuối cùng của đời họ, cả hai người đều bị lương tâm cắn rứt và sống rất nghèo nàn cực khổ.