Xưa có người có hai con trai. Con trai lớn thông minh, khôn ngoan, gặp khó khăn đến đâu cũng biết đường xoay xở. Còn em thì ngu xuẩn, không biết gì, học gì cũng chẳng vào. Ai cũng phải kêu: "Thằng này chỉ ăn hại bố". Việc gì cũng đến người anh làm cả. Nhưng anh lại có tính dát. Tối đến, bố sai đi lấy cái gì mà phải qua bãi tha ma hay nơi nào rùng rợn là anh ta từ chối: "Con chịu thôi, bố ạ. Con run lắm, con không đi đâu".
Buổi tối, người nhà ngồi sưởi thường kể những chuyện sởn vẩy ốc, thỉnh thoảng có người nói: "Rùng cả mình". Người em ngồi một xó chẳng hiểu gì nghĩ bụng:
- Họ cứ nói mãi: "Rùng cả mình! Rùng cả mình!". Mình chẳng thấy rùng mình gì cả. Hẳn đó là một thuật mà mình không biết tí gì.
Một hôm, ông bố bảo người em:
- Này, bây giờ mày đã lớn, lại khỏe mạnh, con phải đi học lấy một nghề mà kiếm ăn. Trông anh con đấy, nó chịu khó như thế, mà con thì chả được việc gì.
Anh ta đáp:
- Thưa bố, con định học lấy một nghề. Con không biết rùng mình. Nếu bố bằng lòng thì con xin học nghề ấy.
Người anh nghe thấy em nói thế, cười và nghĩ thầm:
- Trời ơi, thép xấu thì uốn sao thành được lưỡi câu.
Ông bố thở dài, nói:
- Chắc con sẽ học được rùng mình thôi, nhưng nghề ấy thì kiếm ăn làm sao được.
Sau đó ít lâu, một hôm, người coi nhà thờ đến chơi nhà. Ông bố kể cho khách nghe nỗi khổ tâm của mình vì con út ngu xuẩn, không biết làm gì, học gì cũng không vào. Ông nói:
- Đấy, ông xem, tôi hỏi nó muốn học nghề gì kiếm ăn, thì nó bảo muốn học rùng mình.
Ông khách đáp:
- Nếu chỉ học có thế thôi, thì tôi xin dạy cho nó ngay. Ông cho nó lại đằng tôi, tôi làm cho nó bớt ngu đi cũng chóng thôi.
Ông bố những mong cho con hết ngớ ngẩn, đồng ý ngay. Thế là chú ngốc đến nhà thờ làm công việc kéo chuông.
Vài hôm sau, vào khoảng nửa đêm, thầy đánh thức tớ dậy sai lên gác kéo chuông. Ông nghĩ bụng: "Mày sắp học được rùng mình đến nơi đây". Ông lẻn lên gác chuông trước. Khi anh ngốc trèo lên đến nơi, quay lại sắp cầm dây chuông, thì thấy một cái bóng trắng trên cầu thang, gần chỗ treo chuông. Anh ta quát lên:
- Ai đó?
Nhưng cái bóng cứ đứng im, không đáp mà cũng không nhúc nhíc. Anh ta lại quát:
- Muốn sống nói mau, không thì bước ngay! Đêm khuya, có việc gì mà đến đây?
Nhưng người coi nhà thờ vẫn không động đậy để anh ngốc tưởng là ma. Anh ngốc lại thét lên:
- Mày đến đây làm gì? Nếu mày là người ngay thì nói lên, nhược bằng không thì tao quẳng xuống chân cầu thang bây giờ.
Người coi nhà thờ nghĩ bụng: "Nó chẳng dám đâu", nên cứ đứng im. Hỏi đến lần thứ ba cũng không thấy trả lời, anh ngốc lấy đà, du con ma xuống chân cầu thang. Ma lăn qua mười bậc, rồi nằm sóng sượt ở một xó. Anh ngốc kéo chuông xong, lẳng lặng đi xuống
nằm ngủ kỹ.
Vợ người coi nhà thờ chờ mãi không thấy chồng về, đâm lo, đi đánh thức anh ngốc dậy hỏi:
- Mày có biết ông nhà ở đâu không? Ông lên gác chuông trước mày đấy mà!
Anh ta đáp:
- Thưa bà không ạ. Nhưng ở gần chỗ gác chuông thấp thoáng có bóng người, con hỏi mãi không nói, đuổi cũng không đi, con cho là ăn trộm, liền đẩy xuống chân cầu thang. Bà thử lên xem có phải ông nhà không. Nếu phải thì con thật ân hận.
Vợ vội lên thì thấy chồng gẫy chân nằm ở xó cầu thang rên rỉ. Bà cõng chồng xuống, rồi đến nhà bố chú ngốc, làm om lên:
- Con ông gây tai vạ, nó đẩy ông nhà tôi xuống chân cầu thang, làm gãy mất một chân. Xin ông rước đồ ăn hại ấy ra khỏi nhà tôi đi.
Ông bố choáng người chạy bổ đến, mắng con một trận rồi bảo:
- Sao mày lại nghịch quái ác thế? Quỉ ám mày hay sao?
Con đáp:
- Thưa bố, bố hãy nghe con. Quả thật con oan, giữa đêm mà ông ấy đứng đó như tính chuyện gì đen tối, con không biết là ai. Con đã bảo ông ấy ba lần là hãy lên tiếng nếu không thì đi đi cơ mà.
Ông bố đáp:
- Trời ơi, mày chỉ làm khổ tao. Bước đi cho khuất mắt tao, tao không muốn thấy mặt mày nữa.
Con nói:
- Con xin vâng lời bố. Nhưng bố hãy để sáng trời đã. Con sẽ đi học thuật rùng mình để kiếm ăn.
Bố nói:
- Mày muốn học nghề gì thì mặc xác mày. Đây tao cho mày năm mươi đồng tiền mà đi chu du thiên hạ, nhưng chớ có cho ai biết là quê mày ở đâu và tên bố mày là gì, mà nhọ mặt tao.
Con nói:
- Thưa bố, bố muốn sao, con xin làm vậy. Nếu chỉ có thế thì cũng dễ nhớ thôi.
Anh ta bỏ vào túi năm mươi đồng tiền, rồi sáng sớm ra đường cái đi, lẩm bẩm luôn mồm: "Ước gì ta biết được rùng mình, ước gì ta học được rùng mình...". Một người đánh xe đi qua nghe thấy, liền hỏi:
- Tên anh là gì?
- Tôi không biết.
Người đánh xe lại hỏi:
- Anh ở đâu đến?
- Tôi không biết.
- Cha anh là ai?
- Tôi không thể nói được.
- Anh cứ luôn mồm lẩm bẩm cái gì thế?
- Ấy, tôi muốn học rùng mình mà chẳng ai dạy cho.
- Thôi đừng nói lẩn thẩn mãi, đi theo tôi, tôi tìm chỗ cho mà ngủ.
Hai người cùng đi, đến tối thì tới một quán trọ, định ngủ lại đó. Vào hàng, anh ta lại nói bô bô lên:
- Ước gì tôi biết được rùng mình, ước gì tôi học được rùng mình.
Chủ quán nghe nói bật cười bảo:
- Mày thèm khát cái đó thì đến đây vừa đúng lúc đấy.
Vợ chủ quán ngắt lời chồng:
- Chà, mặc người ta. Lắm cu cậu ngổ ngáo đã toi mạng. Nếu đôi mắt xinh đẹp kia mà không còn được nhìn ánh sáng nữa thì thật đáng tiếc.
Anh ta nói:
- Tôi đã cất công ra đi là để cốt học môn ấy, thì dù khó đến đâu tôi cũng chẳng quản.
Anh ta quấy rầy mãi, ông chủ quán phải kể cho nghe rằng ở gần đây có một lâu đài có ma, chỉ ngủ đấy ba đêm liền khắc biết thế nào là rùng mình. Vua đã hứa ai cả gan làm việc ấy, sẽ gả công chúa cho. Trong lâu đài lại có cả vàng bạc châu báu do mà quỉ giữ ,
ai lấy được tha hồ mà giàu. Đã có nhiều người vào, nhưng không thấy một ai trở ra.
Sáng hôm sau, anh đến yết kiến vua, tâu: "Nếu bệ hạ cho phép, tôi xin ngủ ba đêm ở lâu đài có ma". Vua ngắm anh ta hồi lâu, thấy anh ta có duyên, bèn bảo:
- Ta cho phép nhà ngươi mang theo vào lâu đài ba đồ vật chứ không được mang sinh vật.
Anh nói:
- Tôi xin cái gì để đốt lửa sưởi, một bàn thợ tiện và một ghế thợ chạm có dao.
Ban ngày, vua sai người mang những thứ đó đến lâu đài. Chập tối thì anh đến, đốt một đống lửa to trong một gian phòng, đặt dao cạnh ghế thợ chạm, và ngồi bên bàn thợ tiện. Anh nói:
- Ước gì ta biết rùng mình! Nhưng ở đây rồi cũng đến toi công thôi.
Nửa đêm, anh định thổi cho lửa bùng lên, chợt thấy tiếng kêu ở góc buồng: "Meo! Meo! Bọn mình rét đến buốt xương". Anh nói:
- Đồ chúng bay ngốc quá! Sao lại kêu như thế? Có rét thì lại đây mà sưởi.
Anh vừa dứt lời thì có hai con mèo to tướng nhảy vọt đến ngồi chồm chỗm hai bên anh, quắc mắt bừng như lửa nhìn anh một cách dữ tợn. Lát sau, chúng sưởi đã ấm người, bảo anh:
- Mày có muốn chơi bài không?
Anh đáp:
- Có chứ. Nhưng các cậu hãy cho tớ xem chân đã.
Hai con mèo giơ móng ra. Anh nói:
- Ôi chao, móng các cậu dài quá. Hẵng gượm, để tớ cắt bớt đi cái đã.
Thế là anh tóm cổ chúng, đặt chúng lên ghế thợ chạm và cho chân chúng vào kẹp, rồi nói:
- Chân các cậu làm tớ mất cả hứng chơi bài với các cậu.
Anh giết chúng, rồi quẳng xác qua cửa sổ xuống nước. Anh vừa giết chúng xong, sắp quay về ngồi bên lửa, thì thấy rất nhiều mèo đen, chó mực đeo xích sắt nung đỏ, từ bốn bề xông đến, mỗi lúc một đông, anh không biết đứng vào chỗ nào nữa. Chúng cất tiếng kêu
ghê gớm, chực dập đống lửa cho tắt. Anh để mặc chúng làm ồn một lúc. Nhưng khi anh thấy chúng hăng quá, anh bèn lấy dao ra, xông vào quát lên: "Đồ súc sinh cút ngay!". Một số con chạy trốn, anh giết những con còn lại, quẳng xác qua cửa sổ. Rồi anh lại về chỗ đống lửa, thổi lên để sưởi. Lát sau, anh buồn ngủ díp mắt lại. Anh nhìn quanh thì thấy ở góc phòng có một cái giường to. Anh nói: "May quá", rồi lên giường nằm. Anh vừa nhắm mắt thì thấy giường rung chuyển chạy khắp lâu đài. Anh nói:
- Được lắm, cứ việc mà tế lên nữa đi.
Giường chạy nhanh như xe tứ mã nhảy qua ngưỡng cửa cầu thang và xông vào các phòng. Bỗng giường vấp, làm đổ lổng chổng mọi thứ lên người anh. Anh gỡ mình ra, quẳng cả chăn gối, nói: "Bây giờ đứa nào muốn nằm giường thì đi mà nằm!", rồi lại bên đống lửa ngủ đến sáng.
Sớm hôm sau, vua đến lâu đài, thấy anh nằm dài dưới đất ngỡ là anh đã bị ma giết. Vua than:
- Anh chàng xinh trai này chết thật uổng quá.
Anh nghe tiếng nhổm dậy, nói:
- Tâu bệ hạ, chưa đến nỗi thế ạ.
Vua ngạc nhiên đên vui mừng, hỏi anh về chuyện xảy ra đêm qua. Anh đáp:
- Tâu bệ hạ rất bình yên. Thế là được một đêm, còn hai đêm nữa rồi cũng đến thế thôi ạ.
Khi anh về quán trọ, chủ quán trố mắt ra nhìn, nói:
- Tôi không ngờ anh còn sống. Thế anh đã học được rùng mình chưa?
Anh đáp:
- Khổ lắm, chỉ mất công toi. Giá ai dạy cho tôi thì hay quá.
Tối đến, anh lại đên tòa lâu đài cổ để ngủ đêm thứ hai. Anh đến ngồi bên lửa rồi lại nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!".
Nửa đêm, anh thấy tiếng động, trước còn khe khẽ, rồi to dần, sau rõ hẳn. Im một lát, sau có tiếng thét lớn, một nửa thân người rơi từ ống khói lò sưởi xuống trước mặt anh. Anh kêu lên:
- Còn nửa nữa đâu?
Thế là có tiếng ầm ầm, rồi nửa nữa hiện ra, đồng thời có những tiếng hú và tiếng rên. Anh nói:
- Chờ một tí, rồi tao thổi lửa cho mà sưởi.
Sau khi đã nhóm lửa, anh ngoảnh mặt lại thì thấy hai nửa người ban nãy đã liền lại với nhau thành một người ghê gớm ngồi vào chỗ của anh. Anh nói:
- Không phải là chuyện thách thức nhau đâu, ghế này là ghế của tao chứ.
Người ấy định cứ ngồi lì ở đấy, nhưng anh hẩy mạnh nó ra, chiếm lại chỗ cũ. Rồi có nhiều người khác cứ lần lượt rơi từ ống khói lò sưởi xuống. Chúng mang đến chín xương ống chân và hai đầu lâu để chơi ki với nhau. Anh cũng muốn chơi, liền bảo:
- Này các cậu cho tớ chơi với nhé.
- Được thôi nhưng phải có tiền.
Anh đáp:
- Tiền thì có đủ, nhưng những hòn lăn của các cậu không được tròn lắm.
Rồi anh để mấy cái đầu lâu lên bàn tiện mà tiện lại cho thật tròn. Anh nói:
- Như thế này nó lăn dễ hơn. Bây giờ ta tha hồ mà chơi.
Anh chơi và thua mất ít tiền. Khi đồng hồ đánh mười hai tiếng, tất cả bọn người kia biến mất. Anh nằm lăn ra đất, ngủ yên đến sáng. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi thăm việc đã xảy ra đêm hôm trước. Anh nói:
- Tâu bệ hạ, tôi đã đánh ki và thua mất ít tiền.
Vua hỏi:
- Nhà ngươi có thấy rùng mình không?
Anh đáp:
- Thưa không ạ. Tôi đánh vui lắm. Tôi chỉ ước gì biết thế nào là rùng mình.
Đêm thứ ba, anh lại ngồi ở ghế dài mà phàn nàn: "Ta muốn biết rùng mình mà chẳng được". Đến khuya, sáu người khổng lồ khênh một cỗ quan tài hiện ra. Anh liền nói:
- Hừ! Chắc đây là em họ mình mới chết được vài hôm nay.
Anh ta đưa ngón tay ra hiệu gọi: "Lại đây, chú em ơi!". Sau khi sáu người kia đặt quan tài xuống, anh tới giở tấm ván thiên lên xem thì thấy xác một người. Anh sờ vào mặt người chết thấy lạnh giá. Anh nói: "Để tôi sưởi cho chú một tí". Anh về chỗ đống lửa, hơ nóng tay, rồi ấp vào mặt người chết. Nhưng người chết vẫn lạnh như đồng. Anh khiêng người chết ra, đem lại gần đống lửa, cho ngồi vào lòng, xát hai cánh tay vào cho máu lại tuần hoàn. Thấy thế cũng không ăn thua, anh nghĩ rằng hai người nằm chung một giường chắc ấm hơn. Anh bèn đặt xác chết lên giường, lấy chăn phủ lên, rồi nằm kề bên cạnh. Lát sau, người chết đã ấm, bắt đầu cựa quậy. Anh liền nói:
- Thấy chưa, chú nó ơi. nếu anh không sưởi ấm cho chú thì chú đã đi đứt rồi nhé.
Người chết liền quát lên:
- Tao sắp bóp cổ mày đây.
Anh nói:
- Sao! Mày giả nghĩa tao như thế à? Tao lại bỏ mày vào săng ngay vậy.
Tức thì anh nhấc nó lên ném vào săng, đóng nắp lại. Thế là sáu người ban nãy lại đến khiêng cái săng đi ngay. Anh nói:
- Nhất định ở đây ta không thể học được rùng mình.
Vừa lúc đó, một lão khổng lồ tóc bạc râu dài có vẻ hung dữ bước vào. Lão nói:
- Thằng nhãi kia, mày sắp được biết thế nào là rùng mình, vì mày sắp chết!
Anh đáp:
- Đâu lại chóng thế? Còn xem tao có muốn chết không mới được chứ.
Con quái đáp:
- Mày có bằng lòng hay không, tao cũng sắp bắt mày đây.
Anh nói:
- Khoan, khoan, mày đừng có làm bộ. Tao cũng khỏe bằng mày, có khi còn khỏe hơn kia đấy.
Con quái nói:
- Ừ để xem sao, nếu mày khỏe hơn tao, tao sẽ để cho mày yên. Nào, ta đấu sức đi.
Nó dẫn anh qua những lối tối tăm đến một lò rèn, lấy một chiếc búa, đập lên đe, đe thụt hẳn xuống đất. Anh nói:
- Tao đập còn khỏe hơn mày.
Anh đi đến một cái đe khác. Con quái đứng sát ngay bên cạnh đe để biết sức đập mạnh đến đâu. Bộ râu bạc hắn thõng xuống lòng thòng. Anh vớ lấy búa, nện mạnh xuống đe, lôi cả râu bạc của nó vào đó. Anh nói:
- Bây giờ tao tóm được mày rồi, thế là mày sắp phải chết.
Tức thì anh cầm thanh sắt đánh cho nó một chập. Nó rên rỉ van lạy anh tha cho nó, nó sẽ cho nhiều của. Anh nhấc búa lên để nó ra. Nó dẫn anh về lâu đài, đưa anh vào một cái hầm, trỏ cho anh ba tráp đầy vàng, và bảo:
- Một tráp dành cho kẻ nghèo, tráp thứ hai cho vua, tráp thứ ba cho anh.
Bây giờ, đồng hồ vừa đánh nửa đêm. Lão kia biến mất. Còn anh ở lại trong đêm tối. Anh nghĩ bụng: "Ta phải lần đường ra". Sờ soạng hồi lâu lại thấy buồng cũ anh liền nằm ngủ bên đống lửa. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi anh:
- Chắc ngươi đã rùng mình được rồi chứ?
Anh đáp:
- Như vậy thực là hay, nhưng tôi vẫn chưa biết thế nào là rùng mình.
Người ta lấy ở hầm lên chỗ vàng mà con quái vật biếu anh. Lễ cưới được cử hành. Tuy vui duyên mới, vị phò mã vẫn cứ nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!". Công chúa thấy chồng nói dai, đâm ra bực mình. Thị tỳ tâu với công chúa:
- Con sẽ xin giúp một tay làm cho phò mã rùng mình.
Ả ta ra con suối chảy qua vườn thượng uyển lấy một thùng nước đầy cá bống mang về cung. Đêm ấy, phò mã đang ngủ say, công chúa khẽ kéo chăn ra, đổ thùng nước lạnh đầy cá lên người chồng. Cá quẫy khắp lên người, phò mã choàng dậy , reo lên:
- Mình ơi, tôi rùng mình quá thể. Thế là tôi đã biết thế nào là rùng mình rồi.
Truyện này kể ra nghe có vẻ như chuyện bịa, các cháu ạ. Nhưng quả là có thật, vì truyện do ông tôi kể lại, mà kể một cách thích thú lắm. Ông tôi thường bảo:
- Các cháu ạ, truyện này tất là có thật, nếu không có thì làm sao kể lại được!
Đầu đuôi câu chuyện thế này:
Một buổi sáng chủ nhật mùa thu, lúa mạch đen đang độ đâm bông. Mặt trời đã lên cao. Ngọn gió ấm áp thổi lướt trên các thân rạ. Chim sơn ca hót trên không. Ong vo vo ngoài đồng lúa. Thiên hạ ăn mặc quần áo đẹp đi lễ nhà thờ, mọi người đều vui vẻ, kể cả chú Nhím nhà ta.
Chú Nhím đứng trước cửa nhà, hai tay buông thõng, ngó ngang ngó dọc trong gió sớm, khẽ hát lên một bài, nghêu ngao như họ hàng nhà Nhím thường hát vào buổi sáng chủ nhật. Đang nghêu ngao hát thì chú chợt nảy ra ý là trong khi đợi vợ rửa ráy mặc quần áo cho con cái, hãy tạt ra đồng dạo chơi xem củ cải mọc ra sao. Chả là củ cải mọc ngay cạnh nhà mà, chú và cả nhà thường ăn nên coi là của riêng của nhà mình.
Nghĩ là làm liền. Nhím đóng cửa lại rồi ra đồng. Chưa đi khỏi nhà bao xa, vừa định vòng qua bụi tường vi ngay trước đồng để băng sang ruộng củ cải, thì Nhím gặp ngay thỏ cũng đi việc ấy, nghĩa là cũng muốn xem cải bắp của mình ra sao. Nhím thấy thỏ thân mật chào. Nhưng thỏ vốn ỷ mình là bậc thượng lưu, tính kiêu kỳ, không đáp lễ Nhím, mà còn lên mặt khinh khỉnh nói:
- Thế nào! Trời còn sớm quá chạy ra đồng làm gì thế, chú mày?
Nhím đáp:
- Tôi đi dạo chơi một tí!
Thỏ cười bảo:
- Dạo chơi gì cái đồ này! Ta cho là ngươi nên dùng chân vào việc khác còn hơn!
Câu ấy làm cho Nhím bực lắm, vì gì thì chú cũng chịu được, nhưng đừng động đến đôi chân chú, tuy rằng trời đất sinh ra chú vốn bị khoèo chân.
Nhím bảo thỏ:
- Dễ ngươi tưởng là mày hơn tao về đôi chân đấy hẳn!
Thỏ đáp:
- Hẳn đi chứ l?!
Nhím nói:
- Thì hãy thử xem cái đã nào. Tao cuộc là chạy thi thế nào tao cũng được mày.
Thỏ nói:
- Tức cười chưa! Đôi chân thì khoèo mà...! Nhưng thôi tao cũng chiều mày, nếu mày tha thiết thế. Cuộc gì nào?
- Một đồng vàng và một chai rượu mạnh đấy.
- Được, đập tay nào. Bắt đầu nhé!
- Ấy không, làm gì mà hấp tấp thế! Trong bụng tao đã có tí gì đâu? Để tao về nhà ăn mấy miếng lót dạ cái đã. Nửa giờ nữa, tao sẽ lại đây.
Nói rồi Nhím đi. Thỏ hớn hở thích lắm. Nhím đi đường nghĩ bụng:
- Thỏ ta cậy có hai chân dài, nhưng mình sẽ có cách được nó. Nó là con người thượng lưu nhưng chẳng qua là đồ ngu ngốc, thế nào cũng bị mình cho một vố. Nhím về nhà bảo vợ:
- Nhà nó ơi, mặc quần áo vào nhanh lên ra đồng với tôi.
Vợ hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Tôi đánh cược với thỏ lấy một đồng tiền vàng và một chai rượu mạnh. Tôi định chạy thi với nó, nhà cũng phải dự cuộc mới được.
Vợ Nhím kêu lên:
- Ối trời ôi! Nhà mất trí, điên rồi hay sao? Sao nhà lại dám thi chạy với thỏ?
Nhím bảo:
- Mình im cái mồm đi, đấy là chuyện của tôi. Đừng có giây đến chuyện đàn ông. Thôi mặc quần áo rồi đi.
Cô Nhím không biết làm sao, đành theo chồng đi. Đi đường, Nhím bảo vợ:
- Này, nhà nghe tôi cẩn thận nhé! Chúng tôi sẽ chạy thi dọc theo cánh đồng dài đấy nhé. Thỏ chạy trong một luống, tôi chạy trong một luống, mà chạy từ trên xuống. Nhà chỉ việc đứng ở đây, chỗ cuối luống. Thỏ chạy từ phía kia tới thì nhà kêu lên gọi: tao đã ở đây rồi!
Đến cánh đồng, Nhím chỉ chỗ cho vợ đứng rồi trèo lên. Tới đầu cánh đồng đã thấy Thỏ đợi đấy rồi. Thỏ bảo:
- Chạy được chưa nào?
Nhím đáp:
- Được. Nào chạy!
Hai con đứng mỗi con vào một luống. Thỏ đếm: "Một, hai, ba!" rồi chạy xuống như bay. Nhím chỉ chạy vài bước rồi rúc vào luống cày ngồi im. Thỏ chạy xuống tới đầu cánh đồng thì vợ Nhím kêu lên:
- Tao ở đây rồi!
Thỏ giật mình, ngạc nhiên lắm. Nó đinh ninh là chính Nhím gọi nó vì vợ Nhím giống chồng như hệt, điều đó ai cũng biết. Thỏ nghĩ bụng:
- Có cái gì không ổn đây.
Nó kêu:
- Chạy lần nữa. Nào ta chạy ngược lên!
Rồi nó lại chạy như bay, tai đập cả vào đầu. Vợ Nhím vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thỏ chạy lên tới nơi, Nhím gọi:
- Tao ở đây rồi!
Đến lần thứ bảy mươi tư thì thỏ đành bỏ dở cuộc, nằm lăn ra giữa đồng. Nhím thắng cuộc liền lấy đồng tiền vàng và chai rượu mạnh, gọi vợ ra khỏi luống, cùng nhau vui vẻ về nhà. Nếu hai vợ chồng Nhím chưa chết thì ắt là còn sống, các cháu ạ!
Như vậy là ở cánh đồng Buctêhut, Nhím chạy thi đã được Thỏ, và từ đó, không có Thỏ nào dám nghĩ đến chuyện chạy thi với Nhím Buctêhut nữa.
Ở một nhà xay bột kia có một bác thợ xay nghèo, không có vợ con gì cả. Bác có ba gã giúp việc. Ba gã ở với bác được vài năm thì một hôm, bác bảo họ:
- Ta đã có tuổi nên muốn được ngồi bên lò sưởi nghỉ ngơi. Chúng mày hãy ra đi, đứa nào kiếm được con ngựa hay nhất mang về sẽ được hưởng chiếc nhà xay và sẽ phụng dưỡng ta cho đến khi ta nhắm mắt.
Gã thứ ba vốn là một cố nông đi ở, bị bọn kia coi là ngốc nghếch, không đáng được hưởng chiếc nhà xay. Mà chính gã ta cũng chẳng màng tới. Cả ba cùng ra đi. Gần tới làng, hai gã đầu bảo chú ngốc tên là Hanxơ:
- Thôi, mày ở lại đây thôi, suốt đời mày chẳng kiếm nổi con ngựa thổ tả nào đâu.
Nhưng chú Hanxơ cứ đòi đi cùng. Đến đêm, bọn họ tới một cái hang và ngủ lại đó. Hai gã tinh khôn đợi đến lúc Hanxơ ngủ thì dậy lên đường, kệ chú nằm đó, lấy làm đắc sách. - Được, nhưng rồi bọn bay cũng chẳng ăn thua gì đâu!
Lúc mặt trời mọc, Hanxơ tỉnh giấc, thấy mình nằm trong hang sâu. Chú nhìn quanh rồi kêu la:
"Trời ơi là trời! Mình ở đâu đây?". Chú đứng dậy, loay hoay cố trèo khỏi cái hang rồi mò vào rừng. Chú nghĩ bụng: "Mình bị bỏ rơi ở đây một mình, làm sao mà mò cho ra được ngựa!".
Chú vừa đi vừa nghĩ như vậy bỗng gặp một con miu lông đốm nhiều màu. Miu thân mật gọi chú:
- Chú Hanxơ ơi, chú đi đâu đấy?
- Hừ! Bộ mày giúp gì được tao!
Miu đáp:
- Tôi biết tỏng chú muốn gì rồi. Chú muốn có một con ngựa đẹp chứ gì. Cứ theo tôi, hầu hạ tôi trung thành trong bảy năm thì tôi sẽ cho chú một con ngựa đẹp tuyệt trần.
Hanxơ nghĩ bụng:
- Đúng là mèo thần. Nhưng để xem nó nói có thật không. Mèo đưa chú tới tòa lâu đài bị phù chú của nó. Ở đây có tuyền mèo con hầu hạ nó. Lũ mèo lên xuống thang gác rất nhanh nhẹn,
lúc nào cũng vui vẻ. Buổi tối, lúc ngồi vào bàn ăn, có ba con chơi nhạc: một con chơi đàn tiếng trầm, một con kéo vĩ cầm, con thứ ba phồng mồm thổi kèn. Ăn xong, dọn bàn ghế rồi miu nói:
- Chú Hanxơ ơi! Lại đây nhảy với tôi.
Chú đáp:
- Chịu thôi, tôi không nhảy với mèo đâu. Tôi chưa bao giờ nhảy như vậy.
Miu bảo lũ mèo con:
- Thôi đưa chú đi ngủ vậy.
Lập tức, một con cầm đèn đưa chú vào phòng ngủ, một con cởi giầy, một con tháo tất cho chú, rồi một con thổi tắt đèn. Sáng hôm sau, lũ mèo lại đến giúp chú dậy. Con thì đi tất, con thì đi giầy, con thì rửa cho chú, con thì lấy đuôi chùi mặt cho chú. Chú Hanxơ nói:
- Thật là thú vị.
Nhưng dù sao chú vẫn phải hầu hạ con miu và ngày nào cũng phải chẻ củi. Chú được phát rìu bằng bạc, cưa bằng vàng, chùa bằng đồng. Chú ở nhà chẻ củi, được ăn uống ngon lành, nhưng không thấy ai khác ngoài con miu lông đốm nhiều màu và lũ mèo con hầu hạ. Một hôm, miu bảo chú:
- Chú hãy đi cắt cỏ ở đồng nhà ta rồi phơi khô cỏ đi.
Nói rồi, miu đưa cho chú một chiếc hái bằng bạc và một hòn đá mài bằng vàng, lại dặn chú trả lại mọi thứ cho tử tế. Hanxơ vâng lời đi làm ngay. Làm xong việc, chú mang hái, đá mài, cỏ về nhà hỏi miu xem đã được lĩnh công chưa. Miu đáp:
- Chưa được đâu. Chú còn phải làm một việc nữa đã. Đây có gỗ xây dựng bằng bạc, chiếc rìu, chiếc thước vuông và các thứ cần thiết khác đều bằng bạc cả. Chú hãy đi làm cho tôi một ngôi nhà nhỏ đi.
Hanxơ làm nhà rồi bảo mọi việc đã xong mà vẫn chưa được lĩnh ngựa. Quanh đi quẩn lại, bảy năm đã qua nhanh như chưa đầy sáu tháng. Miu hỏi chú có muốn xem ngựa của mình không.
Hanxơ đồng ý.
Miu mở chiếc cửa nhà con. Cửa mở thì thấy mười hai con ngựa. Trời ôi! Con nào con nấy trông hiên ngang, bóng lộn khiến lòng chú mừng rơn. Miu cho chú ăn rồi bảo:
- Thôi chú về nhà đi. Tôi không cho chú ngựa đâu. Nhưng trong ba hôm nữa, chính tôi sẽ đến và mang ngựa cho chú.
Hanxơ liền lên đường. Miu chỉ cho chú đường về nhà xay. Miu chẳng cho chú được một chiếc áo mới nào, bắt chú vẫn mặc nguyên chiếc áo ngoài cũ rách bươm mà chú mặc khi mới tới. Qua bảy năm chiếc áo này đã trở thành quá ngắn. Chú về nhà thì đã thấy hai gã xay bột kia về rồi. Mỗi tên mang theo một con ngựa, nhưng một con thì mù, một con thì què. Chúng
hỏi chú:
- Hanxơ, ngựa mày đâu?
- Ba ngày nữa sẽ đến sau.
Chúng cười bảo:
- Hừ! Hanxơ, mày mò đâu ra cho được con ngựa ra hồn cơ chứ. Hanxơ vào buồng. Bác thợ xay không cho chú ngồi vào bàn ăn vì sợ chú ăn mặc rách rưới quá có ai vào sẽ bị ngượng mặt. Họ để riêng cho chú một ít thức ăn. Đến tối đi ngủ, hai tên kia không cho chú nằm giường, chú đành phải chui vào chuồng ngỗng nằm trên ít rơm cộm. Sáng dậy thì thấy ba ngày đã trôi qua. Có một cỗ xe sáu ngựa tới, con nào cũng choáng lộn, trông thật đẹp. Lại có một người
hầu mang đến một con thứ bảy cho chú xay bột nghèo khó. Một nàng công chúa đẹp tuyệt vời từ trên xe xuống, đi vào nhà xay, đó là con mèo nhỏ lông đốm nhiều màu mà chú Hanxơ nghèo khó đã hầu hạ trong bảy năm qua. Nàng hỏi bác thợ xay xem gã học nghề nhỏ nhất, gã cố nông đi ở, hiện ở đâu. Bác đáp:
- Chúng tôi không dám để nó trong nhà xay vì nó rách rưới quá. Nó đương nằm ở chuồng ngỗng ấy.
Công chúa truyền cho gọi chú lên ngay. Bọn họ đi tìm chú đến. Chú phải túm chiếc áo ngoài lại để che thân. Người hầu liền lấy những bộ quần áo lộng lẫy ra rồi đưa chú đi tắm rửa, mặc vào cho chú. Công việc xong xuôi thì trông chú đẹp hơn bất cứ ông hoàng nào.
Sau đó, công chúa đòi xem những con ngựa mà các gã xay bột kia mang về: một con thì mù, một con thì què. Nàng bảo người hầu mang con ngựa thứ bảy vào. Bác thợ xay trông thấy bảo là chưa từng có con ngựa nào đẹp thế bước vào nhà bác. Nàng nói đó là ngựa của gã xay bột thứ ba. Bác thợ xay nói:
- Nếu vậy thì chú ấy được hưởng cái nhà xay.
Công chúa bảo là ngựa đã có rồi, còn bác cứ giữ lấy cái nhà xay. Rồi nàng dắt chú Hanxơ trung hậu lên xe đi thẳng. Hai người đi tới ngôi nhà nhỏ mà chú đã xây dựng bằng các dụng cụ bằng bạc. Nhà đó đã biến thành một tòa lâu đài đồ sộ, đồ đạc ở trong tuyền bằng vàng, bằng bạc. Hai người lấy nhau. Chú Hanxơ trở nên giàu có, tiền của suốt đời không tiêu hết. Xem thế thì biết chớ nên nói là kẻ nào có vẻ ngu ngốc thì không làm nên trò trống gì.
Câu chuyện kết thúc rồi mà ngỡ như trong một giấc mơ, phải không các em? Các em không nên coi thường người khác cho dù người đó có vẻ ngu ngốc. Trong dân gian có câu: "không biết mèo nào cắn mỉu nào", câu nói đó thật đúng trong câu trên này, đúng không nào?
Xưa có một gã con trai học nghề thợ khóa. Một hôm anh thưa cha, muốn ra ngoài thiên hạ để thi thố tài năng. Người cha bảo:
- Được con ạ, cha cũng bằng lòng thôi.
Ông đưa con lên đường và cho con một ít tiền. Anh con trai đi tìm việc làm. Nhưng chỉ ít lâu sau, anh thấy chán nghề và thích đi săn. Đang lang thang, anh gặp một bác thợ săn mặc quần áo màu lục, hỏi anh từ đâu đến và định đi đâu. Anh bảo anh là thợ khóa, giờ không thích nghề ấy nữa, muốn học săn bắn, không biết bác có sẵn lòng nhận anh làm học trò không. Bác thợ săn đáp:
- Ồ, có chứ! Nếu chú thích thì cứ đi với tôi.
Anh đi theo, ở với bác mấy năm liền và được bác truyền nghề cho. Ít lâu sau, anh lại xin đi để tìm dịp thử tài. Bác thợ săn trả công cho anh một khẩu súng hơi. Súng này đặc biệt là bắn gì trúng nấy.
Anh đến chỗ kia có khu rừng rậm, đi cả ngày vẫn chưa hết. Tối đến, để tránh thú dữ, anh leo ngồi trên ngọn cây cao. Khoảng nửa đêm, anh thấy ở xa có ánh lửa le lói. Anh nhìn kỹ qua đám cành lá, cố nhớ chỗ ấy. Anh lại lấy mũ ném về phía ánh lửa, đánh dấu đường. Xong anh tụt xuống nhặt mũ rồi cứ hướng ấy thẳng đường đi tới. Càng đi tới, ánh lửa càng rõ. Lúc đến gần, anh thấy một đống lửa rất to, ba gã khổng lồ đương xiên một con bò nướng. Bỗng một
gã bảo:
- Tớ phải nếm xem sắp chín chưa.
Gã xé một miếng, sắp đưa vào miệng thì bị anh thợ săn bắn một phát, thịt văng đi mất. Gã nói:
- Ôi chao, thế mà gió cũng thổi bay được miếng thịt mình cầm đấy!
Gã xé miếng khác. Gã ghé răng vừa định cắn, lại bị anh thợ săn bắn luôn phát thứ hai, thịt văng mất nốt. Gã cáu quá, tát gã ngồi bên quát:
- Cậu giằng của tớ à?
Gã kia cãi:
- Tớ có giằng đâu, chắc tay thiện xạ nào bắn văng đi đấy.
Gã khổng lồ xé miếng thịt thứ ba, nhưng gã cầm chưa chắc tay đã lại bị bắn văng luôn nốt.
Mấy gã bảo nhau:
- Người bắn rơi miếng ăn của ta nhất định phải là tay thiện xạ. Thật là cần được một người như thế!
Cả ba gã gọi ầm ĩ:
- Này nhà thiện xạ ra đi nào! Ra đây sưởi ấm ăn no, bọn tớ không làm gì cậu đâu! Nhưng nếu cậu không chịu ra, để bọn tớ phải đi tìm thì lúc ấy xong đời cậu.
Anh bèn bước ra, nói anh là tay thợ săn lành nghề, bắn gì trúng nấy. Chúng bảo nếu anh muốn đi với chúng, chúng sẽ cho đi. Chúng kể cho anh biết, ở trước cửa rừng có một nàng công chúa xinh đẹp, chúng đang muốn cướp nàng ấy. Anh nói:
- Được, việc ấy dễ thôi!
Chúng lại bảo:
- Nhưng còn điều này: ở đấy có con chó nhỏ, cứ thấy người đến gần là nó sủa. Mà hễ nó sủa là kinh động cả triều đình. Cậu có bắn chết con chó ấy được không?
Anh bảo:
- Được chứ, có khó gì cái trò mọn ấy.
Sau đó anh xuống thuyền qua sông. Lúc thuyền vào gần bờ, con chó chạy ra định sủa. Anh bắn nó chết ngay. Bọn khổng lồ thấy thế mừng lắm, chắc mẩm phen này sẽ cướp được công chúa. Nhưng anh muốn vào xem tình hình ở trong động tĩnh thế nào đao. Anh bảo chúng cứ đứng đợi, chờ anh gọi.
Anh vào trong lâu đài, thấy thật yên tĩnh. Anh mở cửa phòng đầu tiên, thấy trên tường treo thanh kiếm bạc, có đính ngôi sao vàng và khắc tên vua. Trên bàn cạnh đấy, có lá thư niêm phong gắn xi. Anh xé thư đọc. Thư viết: "Ai lấy được kiếm thì chém ai cũng chết". Anh lấy kiếm đeo rồi lại đi. Sang đến căn phòng công chúa ngủ, thấy nàng đẹp quá, anh nín thở ngắm mãi, bụng nghĩ: "Người con gái ngây thơ thế, sao ta nỡ để vào tay mấy người khổng lồ hung
bạo và nham hiểm?". Anh nhìn quanh, thấy một đôi hài dưới gầm giường. Hài bên phải đính một ngôi sao có tên vua. Hài bên trái cũng đính một ngôi sao có tên công chúa. Cổ nàng quấn chiếc khăn lụa lớn thêu kim tuyến, vạt bên phải thêu tên vua với một ngôi sao, vạt bên trái thêu tên nàng với một ngôi sao, chữ vàng rực rỡ. Anh lấy kéo cắt vạt khăn bên phải bỏ túi. Anh bỏ túi cả chiếc hài bên phải thêu tên vua. Trong lúc ấy, người con gái vẫn ngủ say, người
như vùi trong áo. Tiện tay anh cắt một mảnh áo đút nốt vào túi kia. Anh làm rất nhẹ nhàng, không động đến người nàng. Xong anh ra đi, để nàng ngủ yên.
Lúc anh đến cổng, bọn khổng lồ đợi ở ngoài tưởng anh đem công chúa ra. Anh gọi chúng vào bảo: người thiếu nữ đó ở tay anh rồi. Anh không mở được cổng, nhưng cổng có lỗ hổng, chúng phải chui mà vào. Đợi gã thứ nhất lại, anh túm tóc kéo đầu nó, chặt một nhát, đoạn kéo cả người nó vào trong nốt. Xong anh gọi đứa thứ hai, chặt đầu nó rồi đến đứa thứ ba và rất mừng là cứu được công chúa khỏi tay kẻ thù. Anh xẻo lưỡi mấy đứa, bỏ túi. Khi ấy anh nghĩ bụng: "Hay ta về cho cha biết những việc ta làm đã, rồi ta lại đi quanh thiên hạ, nhất định sẽ gặp vận".
Vua ở trong lâu đài thức dậy thấy xác ba đứa khổng lồ, vội chạy sang phòng công chúa hỏi ai đã giết lũ giặc. Công chúa thưa:
- Tâu vua cha, con ngủ say nên không biết.
Công chúa tỉnh dậy, định mang hài thì chiếc bên phải đã mất. Nàng nhìn khăn thấy mất vạt bên phải, nhìn áo cũng thấy mất một mảnh. Vua cha hội cả triều thần, binh tướng, hỏi ai đã giết lũ khổng lồ, cứu công chua. Có tên đại úy chột mắt, xấu trai đứng ra nhận liền. Vua bèn phán gả công chúa cho gã để thưởng công. Công chúa thưa:
- Tâu vua cha, thà con bỏ nhà ra đi, chứ con không thể lấy tên ấy được!
Vua truyền nếu nàng không vâng lời thì bắt nàng cởi trả hoàng y, mặc quần áo nông thôn rồi đuổi đi. Nàng phải tới một hàng nồi kia để ngồi bán nồi đất. Công chúa trả hoàng y, đến nhà hàng nồi hỏi mượn trước một số nồi, hẹn chiều bán xong sẽ trả tiền. Vua lại bắt nàng phải dọn hàng ngay ở góc đường. Xong vua thuê mấy chiếc xe, sai đánh chạy qua giữa đám nồi đất cho vỡ hết. Công chúa vừa dọn hàng thì đoàn xe kéo đến, cán vỡ tất. Nàng khóc nói:
- Trời ơi, giờ biết lấy gì đền nhà hàng!
Vua muốn dùng cách ấy để buộc nàng lấy viên đại úy. Nhưng nàng lại đến hàng nồi, hỏi mượn thêm chuyến hàng nữa. Nhà hàng không chịu, bắt nàng phải nộp lại đủ số tiền lần trước đã. Nàng về kêu khóc với cha, nói nàng muốn đi xa. Vua phán:
- Ta sẽ cho dựng một cái lán nhỏ trong rừng, ngươi vào đó mà ở. Ngươi sẽ phải nấu ăn cho bất kỳ ai mà không được lấy tiền.
Lán dựng xong, ngoài cửa treo tấm biển đề: "Hôm nay không lấy tiền, mai sẽ lấy". Công chúa đến đấy ở. Tin truyền đi chỗ nọ có người con gái nấu ăn không lấy tiền, biển treo ngoài cửa đề rõ ràng như thế.
Tin đồn đến tai anh thợ săn. Anh nghĩ bụng: "Đấy là dịp tốt cho mình, mình nghèo xơ xác, một xu không có". Anh khoác súng, đeo túi đi. Trong túi còn nguyên những thứ đã lấy ở lâu đài làm vật chứng. Vào rừng, anh tìm thấy cái làn có biển đề: "Hôm nay không lấy tiền, mai sẽ lấy". Anh vẫn đeo thanh kiếm dùng để giết ba gã khổng lồ, bước vào xin ăn. Anh mừng rỡ thấy người con gái đẹp quá, cứ như tranh vẽ. Nàng hỏi anh từ đâu lại và định đi đâu. Anh đáp:
- Tôi ngao du thiên hạ.
Nàng thấy tên cha mình trên đốc kiếm, hỏi anh đã lấy nó ở đâu. Anh hỏi nàng có phải là công chúa không. Nàng đáp:
- Đúng.
Anh bảo:
- Chính tôi ngày ấy đã chặt đầu ba đứa khổng lồ bằng thanh kiếm này.
Anh lấy xâu lưỡi trong túi ra làm chứng, lại cho nàng xem cả chiếc hài, vạt khăn và mảnh áo. Nhận ra người cứu mình, công chúa vui mừng khôn xiết. Sau đấy, hai người về gặp vua. Công chúa dẫn vua về phòng riêng của mình ngày trước, đoạn tâu để vua rõ: Chính anh thợ săn mới là người đã cứu mình và giết lũ khổng lồ. Vua thấy vật chứng rành rành, không ngờ gì nữa mới phán: "Giờ mọi sự đã rõ ràng là điều rất tốt. Ta thuận cho chàng thợ săn làm phò mã". Công chúa nghe phán mừng vô hạn.
Sau đấy người ta cho anh thợ săn ăn mặc giả làm khách lạ. Vua truyền bày tiệc cưới. Khách vào bàn tiệc, tên đại úy ngồi bên trái công chúa, anh thợ săn ngồi bên phải công chúa. Tên đại úy cứ tưởng anh là khách mời đến. Ăn uống xong, vua phán người có điều muốn hỏi để tên đại úy thử đoán xem: "Có kẻ dám nhận đã giết ba đứa khổng lồ, người ta mới hỏi lưỡi mấy đứa ấy đâu, nó ra tìm thấy đầu lâu không có lưỡi, thì thế nào?"
Tên đại úy tâu:
- Tất mấy đứa kia không có lưỡi.
Vua phán:
- Nói sai rồi. Phàm động vật, giống nào lại không có lưỡi.
Vua hỏi tiếp:
- Với kẻ nói sai, nên xử lý thế nào?
Tên đại úy đáp:
- Tâu, phải đuổi nó ra ngoài cõi.
Vua phán: "Thế là nó tự kết án nó rồi". Người sai đuổi tên ấy ra ngoài cõi.
Công chúa lấy anh thợ săn. Phò mã cho đón cha mẹ đến để phụng dưỡng. Cả nhà đoàn tụ êm ấm. Sau khi vua mất, phò mã lên nối ngôi.
Câu chuyện kể về anh chàng thợ săn tài giỏi và tấm lòng trung thực của nàng công chúa. Những kẻ gian dối rồi cũng bị lôi ra ánh sáng, người có công, trung thực sẽ được đền bù xứng đáng.
Ngày xưa, một bác bần nông có tuổi và ngoan đạo chết. Bác đến trước cổng Trời. Một lãnh chúa rất giàu, chết cùng một lúc với bác, cùng đến cổng Trời lúc bác đến. Thánh Pêtrux mang chìa khóa đến mở cửa đón ông ta vào. Hình như thánh không thấy bác bần nông nên đóng sập cửa lại. Đứng bên ngoài, bác bần nông nghe rất rõ tiếng đàn hát đón chào lãnh chúa lên trời.
Cuối cùng yên tĩnh trở lại. Thánh Pêtrux đến, mở cửa Trời cho bác nông dân vào. Bác tưởng là cũng sẽ có đàn hát đón chào. Nhưng bốn bề lặng ngắt. Dĩ nhiên vẫn có cuộc tiếp đón thân mật; các thiên thần ra đón bác. Nhưng không có ca hát. Bác bần nông hỏi Thánh Pêtrux tại sao người ta không ca hát đón bác như đón vị lãnh chúa. Bác thấy hình như ở trên trời cũng bất công như ở trần gian.
Thánh Pêtrux bèn trả lời:
- Không phải đâu, chúng tôi quý bác như bất cứ một người nào khác. Bác sẽ được hưởng thú vui trên trời này như vị lãnh chúa giàu có kia. Nhưng bác phải hiểu là những người bần nông như bác thì ngày nào cũng có người lên trời. Nhưng lãnh chúa giàu có thì hàng trăm năm họa có một người.
Câu chuyện muốn nói lên rằng: ở bất cứ đâu cũng có người tốt kẻ xấu cho dù đó là thiên đàng, nơi mà mọi người quan niệm ở đó có nhiều hạnh phúc, công bằng nhất.