Học xong ở Mỹ, trước mặt Hai Trung có 2 sự lựa chọn. Một là trở về để... vô khám hoặc chết trên xứ sở Việt Nam nghèo khó với cuộc chiến đang ngày càng leo thang chưa biết khi nào dừng. Hai là đàng hoàng ở lại Mỹ với lý do "chỉ huy bị bắt, đã đứt liên lạc" rồi tiếp tục học hành, làm báo, kết hôn, hưởng thụ cuộc sống giàu có không bom đạn.Trên đường Hai Trung đi, đầy rẫy những hấp lực...
Nhìn danh sách những tài liệu mà lưới tình báo 2T chuyển về, bất cứ một cơ quan tình báo nào cũng phải "thèm thuồng" một điệp viên "có cỡ" như thế:
Từ năm 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược...; giai đoạn 1965 - 1968: Mọi kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh Cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968; giai đoạn 1969 - 1973: tuyệt đối bí mật và chuyển giao kịp thời những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA Mỹ; giai đoạn 1973 - 1975: Thu hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miền Nam"...
Trong khi đó, trên chặng đường đi của một điệp viên có quá nhiều hấp lực và điều kiện sa ngã. Dẫn 2T làm dẫn chứng điển hình, bản tổng kết của Cục tình báo Trung ương miền chỉ rõ: "Cán bộ điệp báo hoạt động lẻ loi, đơn tuyến, tự kiểm soát, nên yêu cầu "chuẩn" là không để bị sai sót và không để bị thoái hoá".
"3 cửa Tình, Tiền, Tù"
Có những điều khi người ta tin là lý tưởng sống, họ sẽ theo suốt cuộc đời, bất chấp sợ hãi lẫn những hấp lực dọc đường đi.
Trên đường Hai Trung đi, đầy rẫy những hấp lực. Nhưng 23 năm trong lòng địch, chưa một lần ông vấp- Ảnh: Tư liệu
Năm 1957, Trần Văn Trung đặt chân tới nước Mỹ. Mất 2 năm theo học để hiểu người Mỹ, Trung cũng kịp để lại ấn tượng về một cậu sinh viên hào hoa, hài hước và cực kỳ thông minh với kết quả học tập có thể điều khiển theo ý mình.
Nhưng học thôi chưa đủ, cậu sinh viên Việt Nam ấy còn rất biết... chơi. Những gì văn minh nhất của nước Mỹ, Hai Trung đều tự học và áp dụng trở lại với chính những người ngoại quốc cùng làm, cùng chơi sau này. Rất cưng chiều... chó và tôn trọng phụ nữ, Hai Trung lúc nào cũng lịch thiệp, nhã nhặn với các quý bà, quý cô, bởi “lời của phụ nữ là lời của Chúa rồi”.
Năm 1959, trước bức thư báo tin dữ từ quê nhà, Trung quyết định về nước, mặc dù người Mỹ sẵn sàng đài thọ để Trung theo học tiếp 2 năm cuối với số tiền học bổng 350 USD mỗi tháng - mơ ước của những du học sinh tại Mỹ lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, tiền chỉ là chuyện nhỏ. Có một điều ít ai biết rằng, cậu sinh viên hào hoa khi ấy đang được một cô gái Mỹ... đem lòng yêu thương và đề nghị kết hôn. Cô là con gái của một tỷ phú. Nhưng đó đã vĩnh viễn là bí mật của riêng ông.
Lúc này, trước mặt Hai Trung có 2 sự lựa chọn. Một là trở về để... vô khám hoặc chết trên xứ sở Việt Nam nghèo khó với cuộc chiến đang ngày càng leo thang chưa biết khi nào dừng, hai là đàng hoàng ở lại Mỹ với lý do “chỉ huy bị bắt, đã đứt liên lạc” rồi tiếp tục học hành, làm báo, kết hôn, hưởng thụ cuộc sống giàu có không bom đạn. Ở lại đất Mỹ, tính mạng của ông sẽ được bảo đảm an toàn trước sức mạnh của quyền lực, tiền bạc và tình yêu.
Nhưng lòng dũng cảm và trung thành của người lính trong ông đã quyết định: Trở về!
Người hùng bị săn đuổi
Năm 1969, Phạm Xuân Ẩn chính thức là người của tạp chí Time sau một thời gian dài cộng tác. Những ưu đãi đặc biệt của Time dành cho thông tín viên người Việt số 1 như Phạm Xuân Ẩn luôn có một lực hấp dẫn lớn về quyền lợi như: cứ 2 năm làm cho tạp chí này, Ẩn cùng vợ có quyền nghỉ phép 1 tháng đi Mỹ chơi, báo chịu mọi phí tổn. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ nhận về mình quyền lợi đó.
Thậm chí, khi đã chắc chân ở Time, hàng loạt lời mời vẫn tới tấp bay tới: Harper, cháu của Philip Potter (trùm CIA ở Huế) tìm tới mời Trung về làm việc bán thời gian, sẵn sàng trả lương cao, hoạt động trong hàng ngũ Trần Quốc Bửu. Trung tìm hiểu, biết được thực chất công việc là chống phá phong trào cách mạng nên đã kiên quyết từ chối.
Vị thiếu tướng tình báo huyền thoại đã đi trọn con đường dài 23 năm ẩn mình trong lòng địch hậu, với lời dặn của anh Hai (đồng chí Dương Minh Sơn, Tư Tùng) khi dạy nghiệp vụ những ngày đầu: "Bác Hồ dạy chúng ta: Những người cán bộ tình báo phải đấu tranh cho được 3 cửa: Tình, Tiền, Tù" - Ảnh: Tư liệu
Từ chối người Mỹ xong, Trung lại bị “săn lùng” bởi cơ quan tình báo của Tưởng Kiến Quốc. Francis Cao, đại diện của tình báo Đài Loan thuyết phục Trung cộng tác, với đề nghị sẽ giới thiệu với Wang Tchen (về sau là Tham mưu phó hành quân ở Đài Loan), nhưng Trung thấy không có lợi cho cách mạng nên cũng không nhận lời.
Biết Trung là “con cá vàng” không thể để lọt mất, người Mỹ nhất định không chịu bỏ cuộc. Một đại diện khác của CIA xuất hiện: David Huston, đệ tử ruột của Edward Lansdale.
Từ năm 1961, theo lời đề nghị giúp đỡ của Jim Robinson (thông tín viên của hãng NBC), Trung sống và làm việc cận kề với David Huston. Mối giao hảo thân tình trên tư cách đồng nghiệp nhờ vả kèm cặp đã khiến Hai Trung không hề đặt vấn đề tìm hiểu về David Huston là ai.
Mãi về sau, khi David quay trở lại Việt Nam với tư cách là bí thư của Lansdale, Trung mới giật mình. Hoá ra, hai nhân vật tình báo ở hai bên chiến tuyến sống cùng nhau trong suốt thời gian dài mà vẫn giữ kín bình phong. Tuy nhiên, Huston “cáo già” bao nhiêu thì Hai Trung còn “cao thủ” hơn bấy nhiêu. Ông tiếp tục cuộc hành trình bí mật của riêng mình sau khi thận trọng điều tra và cảnh giác để giữ an toàn tuyệt đối.
Về sau, ông tự trào nhìn lại "một tên CIA nằm bên cạnh gần 1 năm trời mà không đặt nghi vấn gì kể cũng là quá yếu và quá sơ hở rồi. Chớ để nó phát hiện ra thì chắc không còn ngồi đây mà tổng kết nữa".
Thời điểm 1969, trở lại Việt Nam, biết Trung là người quan hệ rộng, lại là người từng giúp đỡ mình, David Huston lại tiếp tục tìm đến đặt vấn đề mời Trung kinh doanh theo hình thức Mỹ bỏ vốn, mở trang trại nuôi bò sữa ở Bình Long, còn Trung quản lý. Lời để nghị cực kỳ hấp dẫn: "lời mình ăn, lỗ Mỹ chịu", chỉ kèm điều kiện là ông chủ điền trang nhận giùm một số người Thượng và người Kinh vào làm việc.
Thấy việc đi với CIA về phương diện kinh tế không có lợi cho công việc phục vụ cách mạng, Trung khéo léo từ chối.
Chưa chịu thua, David Huston lại tấn công tiếp, rủ Trung mở nhà máy cá hộp xuất khẩu, Trung cũng chỉ lắc đầu quầy quậy với lý do "kinh doanh không phải là thứ Trung ham".
CIA Mỹ chào thua. Lập tức, tình báo Anh nhảy vào. Fordaz, trùm tình báo Anh lúc bấy giờ ở Sài Gòn (nhân vật về sau nổi tiếng khi tham gia lật đổ Mossadegh ở Iran), mời Trung đến, đặt vấn đề trao đổi thông tin 2 chiều, có thù lao. Lại thêm một lần lắc đầu nữa.
Hết tình báo, tới lượt các tờ báo, hãng thông tấn khác vào cuộc... chào mời. Merton Pery, trưởng đại diện của Newsweek ở Sài Gòn cũng tới mời Trung cộng tác. Trong khi Time trả lương cho Trần Văn Trung 450 USD mỗi tháng, tiền ăn theo giá chính thức của ngân hàng 118 đồng tiền Sài Gòn ăn 1 USD, thì Newsweek sẵn sàng trả cho Trung 500 USD/ tháng, chấp nhận tính theo giá đô la chợ đen, quy đổi ra tiền Sài Gòn cao gấp nhiều lần.
Tính toán, thấy Newsweek là tờ báo có xu hướng đối lập với chính quyền Mỹ, dễ "gây thù chuốc oán" khi viết bài, Trung từ chối luôn lời mời hấp dẫn này. Nhưng tôn trọng tình đồng nghiệp, Trung giới thiệu những người khác có khả năng vào vị trí đó.
Bám chặt vào bình phong báo chí, Hai Trung đung đưa "làm xiếc" trên sợi dây quyền lực, giữa sự hỗn độn của các phe nhóm tranh giành ảnh hưởng và mong muốn người Mỹ để mắt nhiều hơn tới họ. Từ Việt Tấn Xã, tới Reuters, The New York Herarld Tribune, The Christtian Science Monitor rồi Time Magazine, Trung chấp nhận một mức lương đủ sống, đủ để làm việc và đủ để phục vụ cho cách mạng. Với ai, với phe nhóm nào, ông cũng luôn hồ hởi đón tiếp nhưng có khoảng cách đủ để an toàn, để người khác hiểu "thằng đó chỉ khoái làm báo, khoái chuyện thời sự chính trị chứ không làm chính trị, khoái tiếu lâm, chứ hoàn toàn vô hại".
Nguồn tiền lương nhận về, Hai Trung chia làm 3 phần: 1 phần nuôi gia đình; 1 phần để giao tiếp, thiết lập, mở rộng quan hệ xã hội; phần còn lại để giúp đỡ tổ chức, dần tích luỹ sẵn để phòng công tác lâu dài.
Cũng trong cảnh tranh tối tranh sáng các phe nhóm thi nhau lục đục giành ăn thời kỳ đó, Hai Trung "đã không còn sợ bọn nguỵ nó nghi ngờ gì nữa vì chẳng có thằng nào ở lâu một chỗ, thì giờ đâu mà củng cố trả thù".
Nhìn lại mình sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại tá Trần Văn Trung tâm sự: "Làm cho một tạp chí lớn (Time), Trung có thể mướn nhà cửa lớn, sắm xe tốt để có một lối sống của giới thượng lưu, làm hội viên các họi kỵ mã, du thuyền, Cercle Sportif, Lion Club, Rotary Club... để phát triển nguồn tin mạnh hơn nữa, nhưng Trung sợ mất thời giờ, mất phẩm chất lần lần mà không biết được, không những cho bản thân mà cho cả vợ con.
Một khi ta giải phóng hoàn toàn, đi nước ngoài thì không nói gì, nếu ở lại trong nước thì không tài nào sửa chữa được thói quen, tật xấu, tâm lý của mình và gia đình mình với một nếp sống tư sản cao như thế được".
Vị thiếu tướng tình báo huyền thoại đã đi trọn con đường dài 23 năm ẩn mình trong lòng địch hậu, với lời dặn của anh Hai (đồng chí Dương Minh Sơn, Tư Tùng) khi dạy nghiệp vụ những ngày đầu: "Bác Hồ dạy chúng ta: Những người cán bộ tình báo phải đấu tranh cho được 3 cửa: Tình, Tiền, Tù".
Kỳ 17: Niềm tin tuyệt đối giữa những người đồng đội
Kỳ 17: Niềm tin tuyệt đối giữa những người đồng đội
Lo lắng cho người chị giao liên vất vả, sung sướng khi chuyển được tài liệu an toàn, day dứt khi đồng đội vì mình phải hy sinh hạnh phúc... - những tâm trạng ấy cứ đan xen lẫn lộn trong cuộc sống hàng ngày của Hai Trung.
Người ta nói làm tình báo phải sống dưới nhiều gương mặt, và gương mặt hạnh phúc nhất của Hai Trung là khi được sống mở lòng với niềm tin tuyệt đối vào những người đồng đội mà ông đã từng... không biết là ai.
“Chỉ có trẻ con mới không sợ chết”
Tháng 11/1975, Trung tướng Trần Văn Quang (từng giữ các chức Cục trưởng Cục tác chiến, Phó Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông giữ chức chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam từ 1992 đến 2002) khi gặp 2T tại Sài Gòn đã đặt câu hỏi: "Trong suốt thời gian hoạt động của anh, cái gì và khi nào làm anh thích thú nhất?”. 2T trả lời: "Thưa Trung tướng, đó là mỗi khi tôi lấy được một tài liệu quan trọng, một tin tức có giá trị cao nhất mà tôi đã mất công theo dõi lâu ngày, đáp ứng đúng như cầu của cấp lãnh đạo. Thậm chí, có khi mất ăn mất ngủ để lấy cho được tài liệu. Và một khi lấy được rồi tôi thấy sung sướng đến mức ăn thì thấy ngon nhưng ngủ không được, độ 1-2 hôm rồi mới trở lại sinh hoạt bình thường".
Điệp viên luôn là đối tượng bị săn đuổi của mọi thế lực an ninh, tình báo địch giăng ra, trùng trùng điệp điệp - Ảnh: Tư liệu
Cái 1-2 hôm “mới trở lại bình thường”đó là quãng thời gian cần thiết để tài liệu được chuyển an toàn ra căn cứ, đến tay lãnh đạo và có phản hồi ngược lại với điệp viên qua giao thông viên.
Trong bài học đầu tiên với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ông vẫn còn rất nhớ, mỗi một bản tin kịp thời ra tới căn cứ sẽ tiết kiệm được xương máu cho cả đội quân. Với gần 500 bản tài liệu mật trong cả cuộc đời làm tình báo, ông đã cứu được biết bao đội quân không phải đổ máu, theo như cách mà Đại tá Anh hùng Ba Minh từng định nghĩa đầy đơn giản: "Góp sức ít mà đánh được địch nhiều".
Vì mức độ lợi hại như thế, điệp viên luôn là đối tượng bị săn đuổi của mọi thế lực an ninh, tình báo địch giăng ra, trùng trùng điệp điệp.
Nếu như cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến bị động, họ buộc phải chống lại những kẻ xâm lược, thì những chiến sỹ tình báo lại luôn phải là những người chủ động. Trong mọi hoàn cảnh, họ phải chủ động tấn công để lấy tài liệu, tin tức, giữa mạng lưới đồ sộ của mật vụ, an ninh Mỹ, an ninh Việt Nam Cộng hoà.
"Điệp viên là con người và chẳng có người nào là không sợ chết, ngoại trừ trẻ con chưa ý thức được chết là gì. Nhưg vì một lý tưởng cao cả, vì một động cơ nào đó thức đẩy ý thức con người dám chất nhận chết là vấn đề khác", Hai Trung lý giải sự chọn lựa của bản thân rất rành mạch.
Không ai biết ai mà nên nghĩa nên tình
14 năm, người giữ nhiệm vụ liên lạc giữa cơ cán đi sâu 2T với tổ chức là một giao thông viên tuổi đã cao: Chị Nguyễn Thị Ba, người thường được thân mật gọi tên là chị Ba già.
Dưới bình phong một bà già bán hàng mỹ ký ở chợ (từ 1961 - 1965), rồi kể cả sau này liên tục phải di chuyển sang nơi khác, bà Ba (2T vẫn quen gọi là chị Mười) cứ miệt mài trong vai trò người giao thông thầm lặng, làm tốt nhiệm vụ của mình dù trời mưa hay nắng, dù trong bất cứ thời điểm khốc liệt nào.
Họ sống thầm lặng, chiến đấu thầm lặng, và chấp nhận hy sinh cũng rất thầm lặng, để cho những chiến công của ông được vinh danh đến ngàn đời - Ảnh: Tư liệu
Lúc đầu theo lịch, cứ nửa tháng có một chuyến giao hàng, cho tới thời kỳ cao điểm mỗi tuần lên tới ba chuyến, vậy mà "suốt thời gian dài hơn 10 năm, chị Ba không thất hẹn lần nào cả. Chỉ có Trung thất hẹn vài lần vì công tác đột xuất".
Thời đó, Hai Trung không biết cụ thể chị là ai, mọi việc đều do tổ chức chỉ huy. Mãi sau giải phóng, Hai Trung mới biết là chị Ba có 2 người con, chồng ra Bắc tập kết từ năm 1954, đứa con gái lớn đã gửi vào cứ, còn đứa nhỏ tên Thắng ở cùng với chị.
Hai mẹ con sống cô đơn trong nội thành, chỉ để làm nhiệm vụ giao liên. Vì thế, lúc còn nhỏ, chị hay đưa con đi cùng trong những chuyến “nhận hàng” từ Hai Trung.
Nhưng đến khi 11-12 tuổi, Thắng đã đủ lớn để nhớ được khuôn mặt Hai Trung. Một lần, tình cờ thấy ông đi dọc đường, cậu bé về khoe ngay với mẹ. Giật mình, chị Ba đành đứt ruột xa con, gửi Thắng vào trong cứ để giữ an toàn tuyệt đối cho điệp viên số 1 của lưới.
"Việc chị Ba gửi Thắng vào vùng giải phóng, mẹ chấp nhận xa con khiến Trung nhớ mãi", Trần Văn Trung xúc động kể lại sau này.
Nhưng những điều kỳ lạ về nghĩa tình đồng đội chưa dừng lại ở đấy. 14 năm chiến đấu cùng nhau, sẵn sàng vào sinh ra tử vì nhau, song những người đồng đội ấy lại... không hề biết gì về nhau.
Hai Trung chỉ biết chị Ba hay đi cùng một cậu bé, không tên tuổi, không nơi cư trú. Hết. Còn chị Ba chỉ biết Hai Trung là người chuyển tài liệu, thi thoảng lỡ hẹn với chị Ba. Hết.
Không một thông tin thừa. Không một chút tò mò, không một phút hồ nghi. Họ chỉ biết, đây là những con người kiên trung, được Đảng tin cậy giao nhiệm vụ. Và nghĩa vụ của những người lính - những người con yêu nước là hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, không được phép gây một chút hiểm nguy lên vai những người đồng đội.
Cứ thế, họ đã đi cùng nhau trên quãng đường chông gai đầy cạm bẫy cho tới khi kết thúc cuộc chiến tranh dài gian khổ.
Sau này, vì thương chị Ba nhiều tuổi phải đi lại vất vả, Hai Trung từng đánh liều hẹn gặp chị Ba ngay tại cổng trường lúc Hai Trung đi đón con. Hoặc có lần, vì xót cho chị phải cuốc bộ xa xôi nên Hai Trung tự mình đưa chị đi trong nội thành trên chính chiếc xe hơi của ông.
Những lần đó, Hai Trung đều hiểu mình đang phạm phải nguyên tắc nghề nghiệp: gặp chị Ba ở trường tức là để chị biết rằng Hai Trung có con đang học ở đó, chở chị Ba bằng xe riêng tức là để chị Ba biết biển số xe, từ đó có thể lộ tung tích của mình...
Gần 20 năm trong nghề, nay đã chui sâu leo cao trong lòng địch, ông biết rõ mình không được phép mắc lỗi, dù nhỏ nhất. Song Hai Trung vẫn cứ làm, bởi ông tin người đồng đội ấy, cũng như ông đã từng tin tưởng rằng anh Hai, anh Ba sẽ không bao giờ khai ra khi các anh bị bắt trong những năm tháng đầu chống Mỹ.
Niềm tin ấy, ai có thể lý giải nổi? Các thế hệ sau có lẽ chỉ có thể diễn đạt một cách vụng về rằng, trước những nguyên tắc tuyệt mật, những người đồng đội chỉ có thể yêu thương và sẵn sàng chết vì nhau nhờ một LÝ TƯỞNG VÀ NIỀM TIN TUYỆT ĐỐI!
Đến cuối năm 1974, chị Ba được rút ra cứ vì đã đến tuổi nghỉ ngơi, chuẩn bị ra Bắc đoàn tụ gia đình. Nhưng khi Đảng đề nghị, chị lại tự nguyện trở vào thành liên lạc với Hai Trung, bởi lúc này đang là giai đoạn quyết định.
Chuyến chuyển hàng cuối cùng giữa chị Ba già và "người Việt trầm lặng" Trần Văn Trung là chuyến hàng mang kế hoạch quân sự 1975 của chế độ cũ ra căn cứ. Hoà bình lập lại, chị Nguyễn Thị Ba được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những chiến công vô cùng thầm lặng đó.
Còn tiếp nữa những anh hùng biến... giỏ rác thành sức mạnh thần kỳ
Xưa nay, điệp viên luôn được xây dựng như một hình mẫu độc lập, nhưng những di cảo còn lại của điệp viên huyền thoại Phạm Xuân Ẩn thì lại khẳng định rằng "điệp báo và giao thông là hai chân của một thế đứng. Dù nhiệm vụ khác nhau nhưng y êu cầu về nghiệp vụ và phẩm chất cách mạng phải ngang tầm nhau. Khâu này ở lưới của Hai Trung chẳng những rất cân đối mà còn có giá trị tương hỗ, chi viện lẫn nhau cả về tình cảm và ý chí cách mạng".
Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn- Ảnh: QĐND
Chính sự chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cả tình cảm và ý chí cách mạng đó đã khiến Trần Văn Trung luôn cố gắng bằng mọi cách đảm bảo rằng mỗi chuyến liên lạc đều có một tài liệu hay bản tin có giá trị để giao liên mang về.
"Mỗi chuyến liên lạc là một nỗ lực xương máu của chiến sỹ từ cụm tới ven biên, về hộp thơ vùng tạm chiếm tới nội đô", do vậy, với ông, "giao liên là khâu quan trọng nhất và khó khăn nhất trong lưới. Không tổ chức tốt thì chỉ huy không điều khiển được điệp viên và tin tức tài liệu lấy được chỉ... bỏ vào giỏ rác nếu không chuyển về an toàn và kịp thời".
Ngoài những con người như chị Tám Thảo, chị Ba già..., Hai Trung còn nhận được sự tiếp sức từ hơn 40 con người nữa. Trong số họ, có những người thậm chí ông còn không bao giờ biết tên. Họ sống thầm lặng, chiến đấu thầm lặng, và chấp nhận hy sinh cũng rất thầm lặng, để cho những chiến công của ông được vinh danh đến ngàn đời.
--- * --- Cụm tình báo có bí số H63 với 45 chiến sỹ đã dệt nên một huyền tích mới về tình yêu Tổ quốc, sự trung thành, lòng dũng cảm và mưu trí của những con người thời đại Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ địch càn quét, giăng bẫy dày đặc như khoảng thời gian 1968 – 1969, những chiến sỹ ấy đã mở 3 mạch máu giao thông thông suốt, bám trụ ngay tại vùng đất nhuốm đầy lửa máu và bom đạn Phú Hoà Đông để đêm đêm lên máy chuyển tin ra Hà Nội. 27 người trong cụm H63 đã hy sinh suốt 14 năm (1961 – 1975) để đảm bảo liên lạc cho gần 500 bản tài liệu có giá trị chiến lược và chiến thuật của Hai Trung. Những ngày dữ dội nhất Mậu Thân 1968, Cụm trưởng Cụm H63, người đàn ông đặc biệt hóm hỉnh, gan dạ, mưu trí và có tài bắn hai tay hay súng Tư Cang đã vào nội đô Sài Gòn, trực tiếp sát cánh cùng điệp viên số 1 của Cụm là Hai Trung, chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân lịch sử.
Cùng nhau, họ đã lập nên những kỳ tích chiến công như huyền thoại trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đẹp đến mức mà những người chỉ huy ở cấp cao nhất từng ngợi ca: "Tập thể xung quanh điệp viên 2T là một tập thể trong sáng, anh hùng".