Kỳ 11: "Điệp viên tay mơ" thành người Việt trầm lặng
Những câu chuyện từ thuở chính thức nhận lời bác sĩ Thạch "làm điệp viên chiến lược" (1952) cho tới năm 1954 đã được chính Hai Trung mổ xẻ: "Thời gian làm tình báo đến giữa năm 1954, Hai Trung đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động nguyên tắc, đặc biệt là quan hệ giữa người và người, nhưng anh ta vẫn là một điệp viên tài tử miệng còn hôi sữa, nhưng rất nhiệt tình, có nhiều tin".
Nắm rõ từng bước đi đầu tiên của Mỹ - Diệm
Những năm chui vào phòng 5 Bộ Tổng tham mưu, là bí thư của Phạm Xuân Giai, cấp bậc thượng sỹ đồng hoá (dân sự chuyển ngạch - NV), Trung làm điệp viên như một... cái máy, cứ thấy có tài liệu nào ghi chữ "phổ biến hạn chế", "mật", "tuyệt mật" là "vồ lấy vồ để", vồ như vồ gà, rồi đem tất cả về cho "anh Ba".
Đặc biệt, Trung khoái tìm các tài liệu chiêu hồi, tài liệu chiến tranh tâm lý.
Phạm Xuân Ẩn hồi mới từ Mỹ trở về Sài Gòn- Ảnh: Tư liệu
Trong cái cảnh tranh tối tranh sáng của buổi "giao ban" giữa hai đế quốc Mỹ - Pháp về quyền và vai trò ảnh hưởng đối với mảnh đất Nam Việt Nam thì những kẻ làm thuê luôn tìm mọi cách bảo vệ quyền ảnh hưởng cũng như vai trò của "ông chủ". Tất nhiên, bảo vệ “ông chủ” cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho bản thân họ.
Cuối năm 1954, Phạm Xuân Giai và Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh dự tính làm cuộc đảo chính Diệm - người đang được ông chủ Mỹ hậu thuẫn ghê gớm trong việc xây dựng lực lượng.
Cuộc đảo chính thất bại. Hinh và Giai "té" ra nước ngoài. Trung khốn đốn vì bị đám tướng lĩnh của Diệm nghi ngờ, điều tra. Nhưng cái vẻ lành lành, cộng thêm một chuyện may mắn tình cờ vào đúng thời gian đảo chính đã giúp Trung có được hai chữ "vô can".
Mỹ bắt đầu thế chân Pháp, nhưng mọi chuyện không dễ dàng vì trong hàng ngũ sĩ quan còn rất nhiều người theo Pháp. Hai Trung do biết cả tiếng Anh, tiếng Pháp nên được chuyển qua làm người liên lạc cho phái bộ Mỹ và đám sĩ quan Việt Nam Cộng hoà – những người đang được Mỹ lôi kéo và gấp rút đào tạo.
Có mặt tại quân trường Thủ Đức trong khoảng thời gian này với vai trò người phiên dịch, Hai Trung có thời gian tiếp cận, giúp đỡ những sĩ quan cốt cán từ những ngày đầu trong chế độ Diệm, khi 6 sư đoàn khinh quân đầu tiên được người Mỹ thành lập và huấn luyện.
Tất nhiên, khi hoàn thành xong công việc bình phong, Hai Trung không bao giờ trở về tay không. Toàn bộ tư liệu, tài liệu giảng dạy đều được Trung "cuỗm sạch" mang về cho anh Ba.
Dấn thân với đủ loại người
Những thành công bước đầu khiến chàng trai trẻ mạnh dạn hơn trong việc đề xuất với cấp chỉ huy: Xin tiếp cận với các trùm an ninh Pháp như Cousseau, Savanni, thông qua sự giới thiệu của Đàm Quang Thiện và Đái Đức Tuấn (Tchya).
Tính bộp chộp của tuổi trẻ ở Trung khiến anh Ba phải nhanh chóng ngăn lại: "tích cực thế là tốt, nhưng phải biết mục tiêu mà đánh, phải so sánh lực lượng, không phải đụng chỗ nào cũng tấn công cả".
Để dạy thêm cho Trung, anh Ba bảo Trung mời một người đến nhà nói chuyện về thời cuộc, ông sẽ xuất hiện vô tình để xem cách Trung khai thác thông tin như thế nào. Nhân vật được chọn là Cao Hoài Phong, con trai Cao Hoài Sang - lúc bấy giờ là đương kim quyền Đức hộ pháp Cao Đài. Bài học về cách khai thác thông tin sau buổi nói chuyện giúp Trung hiểu thêm về "tầm cỡ" của một điệp viên phải như thế nào.
Vì vậy, suốt quãng thời gian năm 1955-1956, Trung vừa "vồ" tài liệu, vừa tiếp tục thắt chặt các mối quan hệ với giới sĩ quan trong việc giúp đỡ họ phỏng vấn, xin visa, đưa tiễn sang Mỹ, theo dõi làm báo cáo về học viên, thông báo cho gia đình ra đón khi học viên về nước.
Thậm chí, Hai Trung còn chẳng ngại giúp họ xách đồ khi người nhà sĩ quan từ Mỹ về đang lo mừng tủi ôm nhau. Đôi khi, nhiều viên sĩ quan “vô ý” xách về vài kiện hàng quá tiêu chuẩn, Hai Trung lại tự mình đi “xin” giúp bên hải quan, bởi ông đã có mối giao hảo từ trước.
Cũng từ đó, Trung dần lặn sâu vào giới sĩ quan quân sự người Việt - lớp "Mỹ con" được Mỹ đào tạo để thay thế sĩ quan thân Pháp, đồng thời tiếp tục phát triển mối quan hệ tin cậy với những nhân viên CIA đang có mặt tại Nam Việt Nam như Đại tá Lansdale - Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), tiến sĩ Parker – Giám đốc cơ quan Văn hoá Á châu (The Asia Foundation)... để từng tháng, từng năm tích luỹ kinh nghiệm, để cuối cùng trở thành "một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", như lời mà Jean Claude Pomonti đã viết về ông.
Trở thành “đạo diễn” người Việt trầm lặng
Kinh nghiệm tích luỹ dần, cho đến năm 1956, Hai Trung biết tin người Mỹ muốn lập một lực lượng đặc biệt (biệt kích) cho quân đội Việt Nam Cộng hoà, tương tự lực lượng đặc biệt của Mỹ, chuyên thọc sâu vào hậu phương đối phương, đánh nhanh rút gọn nhằm mục đích phá hoại.
Phạm Xuân Ẩn trên đường phố Sài Gòn- Ảnh: Tư liệu/TT
Kế hoạch này do Cơ quan huấn luyện lục quân hỗn hợp (CATO) tiến hành, được sự đồng ý của cấp cao nhất ở phái đoàn Mỹ là Thượng tướng Samuel William.
Tuy nhiên, sự hục hặc giữa phòng Quân huấn của Bộ Tổng Tham mưu và các sỹ quan CATO khiến kế hoạch này bị xếp xó.
Nắm rõ được nội tình, Trung khéo léo đến gặp thẳng Thiếu tướng Trần Văn Đôn - Tổng Tham mưu trưởng, đề nghị tướng Đôn nên "chấp nhận kế hoạch của họ nhưng triển khai là việc của ta". Nghe Hai Trung lý giải, tướng Đôn đồng ý ngay với chiêu thức này để không làm mất mặt người Mỹ.
Còn về phía Mỹ, trước đó Hai Trung đã nhận lời giúp đỡ nên việc được chuẩn y kế hoạch khiến Trung tá George Melvin - Trưởng phòng Huấn luyện quân sự Mỹ, người trực tiếp soạn thảo kế hoạch - hứng khởi ra mặt. Melvin còn mời Trung vào ăn trưa ở nhà ăn của cố vấn Mỹ, với đủ khuôn mặt các nhân vật CIA đình đám: Edward Lansdale, Rufus Philipps...
Tất nhiên, kế hoạch đậm chất cao bồi kiểu Mỹ đó đã thất bại. Mãi tới năm 1973, khi gặp lại Trung ở Sài Gòn, Melvin vẫn liên mồm chửi Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà là "bọn ngu", trong khi ông ta không hề biết rằng, người đạo diễn vụ “tranh ăn” đó là một đại tá tình báo của Hà Nội.
Rút vào thầm lặng, phân tích và thiết lập quan hệ, tự tạo dựng bình phong và gây dựng lòng tin, cuối năm 1957, sau đám tang cha, Trần Văn Trung rời Sài Gòn qua Mỹ theo yêu cầu "học Mỹ để đánh Mỹ" của tổ chức.
Anh mang theo nhiệt huyết, hoài bão, và kiến thức về nhiệm vụ đã được dạy dỗ qua 5 người thầy mà mãi tới sau năm 1975, Đại tá Trần Văn Trung mới có điều kiện biết được tên thật của họ.
Gần đây nhất, trong phần kết của cuốn sách viết về Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn với tựa đề "Một người Việt Nam thầm lặng - Câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti đã bộc lộ những nghi ngờ rằng cuộc sống của điệp viên huyền thoại này sau năm 1975 đã có nhiều khó khăn, thậm chí có sự cấm đoán trong việc tiếp xúc với các mối quan hệ của mình.
Nhưng chắc rằng, trước khi viết ra những lời nhận xét đó, nhà báo này chưa bao giờ được biết tới những bí mật từ thuở còn trẻ của Hai Trung: từ những câu chuyện về tình anh em đồng chí, những kỷ niệm đi biểu tình ngoài đường của cậu thanh niên Việt Minh Hai Trung cho tới những kinh nghiệm xương máu phải ẩn mình thật kỹ để bảo vệ cách mạng, những bài học về cái đuôi ngộ nghĩnh...
Đó là những điều mà chỉ những người có chung một dòng máu, một nghề nghiệp mới thấu hiểu được nhau.
Trong suốt cuộc đời mình, không ít lần trái tim kiên cường của nhà tình báo Hai Trung đã phải rung lên đầy xúc động, chỉ bởi một cái hôn vào má tạm biệt của người chỉ huy trước khi lên đường đi Mỹ, một dáng giao liên mảnh mai đi về tuyến lửa hay một lời căn dặn ấm áp nghĩa tình: Đảng và nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn.
Kỳ 12: "Tướng Givral" – Lý tưởng và tài năng bậc thầy Từng có những phản ứng khác nhau kể từ năm 1978, khi những đồng nghiệp, và cả những người một thời ở "phía bên kia" biết được Phạm Xuân Ẩn, tên thật là Trần Văn Trung, thường gọi là Hai Trung, vốn là điệp viên tầm cỡ của Hà Nội: Giận dữ, bàn luận, phân tích... nhưng hơn tất thảy, là họ kính phục tài năng, con người và lý tưởng cống hiến của ông.
Lý tưởng – "viên gạch" đầu tiên cho chiến thắng
Sống trong lòng địch hơn 20 năm, tiếp xúc với đủ mọi loại người, Hai Trung quá hiểu những người mà ông đang âm thầm chiến đấu. Ông hiểu tại sao nhiều người trong số họ cứ điên cuồng cầm súng theo Mỹ để tàn sát đồng bào. Có người vì bị ép, có người vì túng bấn, có người vì muốn nhanh chóng nắm quyền lực nhờ núp bóng quan thầy...
Phạm Xuân Ẩn là bậc thầy trong làm báo-Ảnh: Tư liệu
Tiền, tình, địa vị, cuộc sống giàu sang theo tiêu chuẩn Mỹ là những cạm bẫy khôn lường. Chính vì thế, người chiến sĩ tình báo luôn tự mình phải học.
Khi đã chui sâu leo cao rồi, ông không thể trực tiếp nghe giảng những bài học dễ thương như cái "đuôi con" tiểu tư sản thuở nào. Thay vào đó, ông tìm cách học lại từ chính những tài liệu của kẻ địch. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà sau khi giải phóng, ông vẫn còn lưu giữ cẩn thận một tài liệu nghiên cứu có ghi "Tam giác thắng", được viết vào năm 1968, không đề tên tác giả.
Với luận điểm "Tất cả mọi phương pháp để thắng cộng sản", người viết vạch ra những nguyên nhân khiến cho chế độ miền Nam Việt Nam không bao giờ được nhân dân ủng hộ, từ đó chỉ ra đường đi, nước bước để lên dây cót tinh thần cho binh sĩ, nhằm củng cố vị trí chính trị trong mắt người dân. Tuy nhiên, lập luận vòng vo, cuối cùng chính tác giả đó cũng phải thừa nhận rằng, cái chính thể VNCH thua cộng sản vì một lý do lớn nhất: Thiếu một chủ thuyết lý tưởng để đi tới cái đích cuối cùng.
Tháng 6/2007, khi Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết gặp mặt đông đảo Việt kiều và báo giới tại quận Cam (Mỹ), Nguyễn Cao Kỳ (cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hoà, viên tướng râu kẽm một thời dẫn đầu phi đội máy bay của miền Nam Việt Nam ném bom Quảng Trị) đã phải tâm phục khẩu phục: "Tôi cũng từng tham vọng thống nhất đất nước. Nhưng hôm nay phải ngả mũ với những người đã làm được điều đó".
Còn Hai Trung – người anh hùng tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam – đã khiến cả thế giới phải ngả mũ như thế nào?
Bậc thầy trong nghiệp: làm báo và tình báo
Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội công bố: Nhà báo lừng danh Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên hạng nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ngay lập tức, Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh đã gào lên "Ông Ẩn là một kẻ đáng ghét. Tôi muốn giết ông ta!". Trong khi đó, nhiều đồng nghiệp khác của ông thì bàng hoàng. Lý trí bảo họ phải tin vì Phạm Xuân Ẩn thừa tài năng để làm được điều đó. Nhưng trong lòng họ lại muốn nghi, bởi họ không dám nghĩ rằng một chiến sĩ cộng sản lại sống có trái tim với tất cả mọi người như vậy.
Đã quá nhiều người biết và viết về ông với khả năng hài hước, luôn là trung tâm của mọi cuộc tranh luận nảy lửa về tin tức, về nghề nghiệp. Thú vị hơn nữa, mỗi khi kết thúc cuộc nói chuyện với ông, phóng viên nào cũng có một món quà tự mang về cho chính mình: khi thì là một bản tin chính xác nhất cho hãng, khi thì là khám phá mới về văn hoá Việt Nam, đôi khi lại còn là một bài học về cách làm người - sống để đức cho con cháu.
Nhờ đó, cánh phóng viên tuyệt đối tôn trọng ông. Ngay cả chính những phóng viên chiến trường lúc bấy giờ ở Việt Nam cũng đã nghiêng mình gọi ông là "nguồn cung cấp tin tốt nhất tại Sài Gòn" (Thomas A.Bass) khi cùng bàn luận tại quán cà phê Givral, nơi lần đầu tiên ông được phong "tướng" bởi những đồng nghiệp đủ mọi quốc tịch: "Tướng Givral"!
H.D.S Greenway (thường được biết đến với cái tên David) là phóng viên có mặt ở Khe Sanh năm 1971, sau này cũng nhớ lại: "Tôi chứng kiến nhiều người lính bị thương được đưa từ Lào về. Tôi mô tả họ như những người sống sót từ các đơn vị dẫn đầu cuộc tấn công", nhưng ông Ẩn nói không phải, "đơn vị dẫn đầu đã bị xoá sổ. Những gì anh đang chứng kiến là những người sống sót khi đang cố gắng hỗ trợ nhưng cũng bị thất bại. Tôi nghĩ lại về chuyện này: Có vẻ như ông Ẩn được thông tin khá chi tiết. Đó chính là sự đánh giá mà bạn chỉ có thể có được khi biết rõ cả 2 bên đang làm gì trong chiến đấu".
Trên thực tế, chiến dịch Lam Sơn 719 thất bại thảm hại, khi quân đội Việt Nam Cộng hoà mở cuộc tiến công Lào với quy mô lớn năm 1971 thì Phạm Xuân Ẩn đang ở Sài Gòn. Chính ông là người đã đọc và chuyển về Hà Nội nội dung của chiến dịch Hạ Lào trước khi nó được thi hành. Ông giữ bí mật tuyệt đối cho nghề tình báo mà ông theo đuổi hai thập kỷ qua.
Thời Phạm Xuân Ẩn còn làm cho báo Time- Ảnh: Tư liệu
Còn với tư cách đồng nghiệp một người làm báo, ông đã cho Greenway một lời khuyên chính xác về bản chất của sự kiện. Lời khuyên có giá trị giữ gìn danh tiếng cho Greenway (người mà năm 1973 đã rời khỏi tờ Time và sau này trở thành biên tập viên của tờ Boston Globe), bởi cũng trong thời gian này, chính Jean Claude Pomonti cũng bị đánh lừa bởi "những thành công của chiến dịch" trong những bản tin mà phóng viên này chuyển về Pháp.
Đó chỉ mới là khúc gút của câu chuyện về nghề làm báo của Phạm Xuân Ẩn trong việc tôn trọng đồng nghiệp và tinh thần tương hỗ của những phóng viên, thông tín viên của các hãng lớn ở Sài Gòn đang có sự cạnh tranh khốc liệt về tin tức. Ông nói rằng, ông tuyệt đối tuân thủ "tinh thần thể thao" trong nghề nghiệp mà báo chí Mỹ đã dạy cho ông.
Chính vì vậy, những đồng nghiệp của ông thời bấy giờ đã phải kính trọng nhà tình báo - nhà báo cộng sản này, dẫu cho nhiều tác phẩm mà họ viết về ông, dù muốn hay không, cũng cố áp đặt góc nhìn có hơi hướng chính trị lên những sự kiện liên quan đến cuộc đời vị thiếu tướng tình báo đầy giai thoại và huyền thoại này.
Bí mật sau những bản tin
Tháng 7/1964, tất cả các nhà báo ở Sài Gòn cố gắng tìm kiếm nguồn xác minh thông tin "Mỹ có đổ quân và bao giờ Mỹ đổ quân vào Nam Việt Nam?". Câu trả lời liên quan đến thượng tầng chóp bu của chính giới Mỹ. Tất nhiên, chóp bu của Mỹ tại Sài Gòn là toà đại sứ.
Một buổi tối, tại quán bar La Cigale, viên bí thư của đại sứ Cabot Lodge ngật ngưỡng bước vào với bộ quần áo chim cò, khoác vai một cô gái đẹp. Không phải những lần "tung tin để nhận tin", trao đổi tin tức như trước, viên bí thư chỉ mong một đêm ăn chơi tới bến vì "một tuần nữa tôi về nước rồi".
Sau mỗi bản tin của nhà báo Phạm Xuân Ẩn là một bí mật
Trong đêm đó, bản tin của Reuters đánh đi từ Sài Gòn: "Một tuần nữa, Mỹ thay đại sứ ở Nam Việt Nam". Sự nhanh nhạy nghề nghiệp của Phạm Xuân Ẩn giúp cho Reuters có bản tin độc quyền trước các hãng, dù sau đó chính ông đã phải mất thời gian bị an ninh Việt Nam Cộng hoà thẩm vấn để tìm hiểu nguồn tin, được ông kiên quyết bảo vệ vì "chính người Mỹ dạy tôi như vậy".
Nhưng có một câu chuyện chưa bao giờ được kể: Sau khi bản tin của Reuters đánh đi, Phạm Xuân Ẩn đã nhấc máy gọi cho đồng nghiệp "có cái tin như vậy, coi thử sao", không phải để tìm kiếm người "chia lửa" những rắc rối phát sinh, mà bởi nguyên tắc "thi đấu thể thao" giữa những người làm cùng nghề, mà ông đã thấm nhuần. Trước và sau câu chuyện này, ông vẫn thường xuyên làm như vậy.
Đúng 1 tuần sau khi bản tin được phát đi, Maxell Taylor sang Nam Việt Nam thay cho H.C. Logde, khẳng định sự chính xác của bản tin mà Hai Trung đã gửi. Đồng thời khẳng định chắc chắn Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường quân số ở Nam Việt Nam.
Thời điểm đó, Hai Trung nhận định: "Mỹ không đổ quân vào thì bọn ngụy chỉ có chết mà thôi. Vì vào đầu năm 1965, cho đến khi Mỹ đổ quân thì mỗi tuần chúng bị mất một quận lỵ và 1 tiểu đoàn quân chính quy". Nhận định này bắt nguồn từ vị trí của một nhà báo có nhiều nguồn tin và đầu óc của một điệp viên chiến lược biết phân tích từ chiều hướng chiến lược từ những nguồn tin rời rạc đó.
Trong một trang hồ sơ tuyệt mật, Hai Trung tự nhìn lại quãng thời gian phục vụ cho Reuters: "Trong quãng thời gian 1960 đến 1964, Reuters luôn là hãng thông tấn có những bản tin tốt nhất, nhanh nhất gửi đi từ Sài Gòn".
Và tất nhiên, trong những bản tin đó đều có bàn tay, khối óc của Phạm Xuân Ẩn.
Ghi điểm trong đảo chính
Trước vụ đảo chính năm 1963 đúng 3 năm, trong đêm 11/11/1960, lính dù của Diệm cũng đã từng đảo chính. Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lực lượng dù, người được tạp chí Time mệnh danh là "chuyên gia đảo chánh" và cũng là một trong bốn người được Diệm “thương như con”, được cho là cầm đầu.
Khi đó, Phạm Xuân Ẩn đã là nhân viên chính thức của Reuters, đồng thời ăn lương tại Sở nghiên cứu chính trị văn hoá xã hội (Phủ Tổng thống) của trùm mật vụ Trần Kim Tuyến và ở cả Việt Tấn Xã.
Thời điểm đảo chính xảy ra lúc 4 giờ sáng. Ngay sau khi xác minh thông tin từ cả phe đảo chính (Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông) lẫn phe Diệm - Nhu, chính Phạm Xuân Ẩn đã đến tận nhà báo động cho Trần Kim Tuyến: "Đảo chính thật rồi. Ông không dắt vợ con trốn đi, nằm nhà chờ lính dù đến bắt hả". Với Lê Văn Thái, nhân viên của Tuyến, ông cũng đích thân đến báo động để Thái đi trốn.
Tuy nhiên, sáng sớm hôm sau, sau khi tìm cách gửi điện tín tin tức đi, thấy thái độ chần chờ của Nguyễn Chánh Thi trước cửa Phủ Tổng thống, Phạm Xuân Ẩn hỏi ngay: "Lính dù vây chặt rồi, sao không tiến vào đi đại tá?". Lập tức, Thi văng miệng: "Đ.má, mày làm nhà báo mà còn nóng hơn tao làm nhà binh!". Linh tính nghề nghiệp đã báo cho ông: "câu chuyện còn dài".
Trên thực tế, đúng là Nguyễn Chánh Thi có ý định đảo chính thật, nhưng kế hoạch của ông ta không phải vào ngày đó, chẳng qua bị đám sĩ quan gí súng ngắn vào đầu ép phải làm. Sự chần chừ của Thi trong việc chờ thương thuyết đã khiến Phạm Xuân Ẩn mạnh dạn khẳng định: cuộc đảo chính sẽ thất bại!
Rốt cuộc, đúng như dự đoán. cuộc đảo chính thất bại chỉ trong vòng vài ngày ngắn ngủi như Reuters nhận định. Ẩn chính thức "lên điểm" trong mắt của hãng tin này, đồng thời trở thành ân nhân của của Tuyến lẫn Thái vì "có ơn" cứu mạng.
Quan trọng hơn, nội tình cuộc đảo chính của “con” đối với “cha” mà Hai Trung báo cáo đã giúp cho Hà Nội cũng có những bản báo cáo chính xác về phương hướng chiến lược của Mỹ - Diệm trong thời gian ngắn sau này.
Kỳ 13: “Tướng Givral” - Đạo đức của "người biết chửi"
Làm việc cho Mỹ là thế, nhưng Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ ngán... chửi. Tất nhiên là ông chửi Mỹ, chửi những kẻ làm tay sai rao bán đất nước. Và tất nhiên là ông cũng chửi công khai. Ấy thế mà ai cũng phải chịu nhịn, bởi ông chửi đúng quá!
Vừa được chửi, vừa được việc
Như chính ông thừa nhận, "căn bệnh" thích... chửi Mỹ đã ăn sâu vào máu, nên rất khó sửa. Bằng chứng, không chỉ ám chỉ trong những bản tin về sự kiện binh biến ngày 11/11/1960, mà ngay trong đêm đó, Phạm Xuân Ẩn đã "nóng máu" với Thiếu tá Scheer (phụ tá tuỳ viên quân lực toà đại sứ Mỹ).
"Nghề tình báo, hay nghề báo, chỉ khác nhau ở một chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi?" - Phạm Xuân Ẩn- Ảnh: Tư liệu
Chuyện là, khi gửi tin bằng đường bưu điện không xong, trong đêm, ông cùng Trưởng văn phòng Reuters mò qua toà đại sứ Mỹ nhờ Scheer đánh giùm qua đường dây của sứ quán về hãng.
Khi trở lại, tất nhiên, ông phải tường thuật thông tin lại cho Scheer để làm quà, nhưng Scheer không hề chuyển bản tin của ông Ẩn đi với lý do "ngài đại sứ không đồng ý dùng đường dây của sứ quán giúp một hãng thông tấn tư nhân".
Nóng mặt vì mất thời gian, hơn nữa, tin của Reuters đã chậm hơn các hãng khác, Ẩn quát luôn vào mặt Scheer: "Người Mỹ các ông cóc chơi được!", rồi hầm hầm bỏ về.
Cuộc đảo chính kết thúc, Phòng thông tin Mỹ (USIS) mời phóng viên các hãng thông tấn nước ngoài đến họp báo mật về vụ Nguyễn Chánh Thi. Phạm Xuân Ẩn cũng tới, nhưng bị Anspacher (Giám đốc USIS) cản lại, không cho vào.
Trung điên tiết. Sau đó chính Reuters đã phát đi bản tin tiếp theo với nội dung lật mặt bản chất: "Cuộc đảo chính là giả, chỉ nhằm mục đích "rung cây nhát khỉ" do người Mỹ giật dây nhằm mục đích "doạ" Diệm phải thay đổi phương pháp cầm đầu bộ máy". Bản tin từ Reuters do Trung viết đã làm Mỹ bẽ mặt trước công luận.
Sau này, để chuộc lỗi với ông, cả Scheer lẫn Anspacher đã nhiều lần nhờ người bắn tin: Họ làm thế vì không biết Ẩn làm cho Reuters, cứ nghi Ẩn là người của Trần Kim Tuyến. Mâu thuẫn đó cũng được dàn hoà về sau, nhưng mối ác cảm về sự phân biệt đối xử của người Mỹ với thân phận kẻ làm thuê người Việt, dù là làm cho hãng tin nước ngoài, đã xúc phạm đến lòng tự trọng của Phạm Xuân Ẩn.
Bởi, ông vốn đã không muốn luồn cúi làm tay sai của Mỹ, nay lại phải chơi với nhiều gã xấu tính.
Ác cảm đó trong ông còn kéo dài về sau, kể cả khi Ẩn đã rời Reuters (1965), qua làm cho nhiều tờ báo khác, cuối cùng dừng lại lâu nhất là tạp chí Time (11 năm, từ 1965-1975).
Người “biết chửi có đạo đức”...
Sau những sự cố như thế, Phạm Xuân Ẩn càng khẳng định những nhìn nhận của mình về bản chất quân Mỹ là đúng. Thế nên, ông chẳng sợ gì, vẫn tiếp tục giữ "căn bệnh" "thích chửi Mỹ, xúi người ta chửi Mỹ, xúi Beverly (Beverly Deepe, phóng viên của The NewYork Herarld Tribune, đồng nghiệp thân thiết - NV) viết báo chửi Mỹ và những tên tay sai chỉ biết bịt mắt, bịt mũi, bịt tai theo đuôi Mỹ".
Tài ở chỗ, chửi nhiều thế mà ông chưa bao giờ chửi sai, và cũng chưa xúi ai chửi sai, chưa từng viết một dòng thông tin nào sai lên mặt báo, dù là với Reuters, The NewYork Herarld Tribune, The Christian Science Monitor hay Time Magazine.
Điều đó đã được chính David Greenway khẳng định: "Chúng tôi nghĩ đây là chuyện đùa... Những người biên tập viên của tờ báo Time đã không nghe chúng tôi. Không có phóng viên nào trong tờ báo Time đã thao túng tin tức. Ông ấy không có sự may mắn nào hơn chúng tôi", khi một vài đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn buộc tội ông là đã thao túng những tin tức và những câu chuyện trên tạp chí Time với tư cách là "nhân vật có ảnh hưởng", khi biết ông là điệp viên của Hà Nội.
Còn Richard Pyle, cựu Tổng biên tập của tờ A.P Sài Gòn thì nhìn nhận thẳng thắn: "Ông Ẩn còn cứu tờ Time khỏi sự khó xử vì đã xuất bản những câu chuyện sai sự thật. Đó là sự tài tình của ông ấy... Không tiết lộ làm thế nào mà ông ấy biết hay không biết điều gì, ông ấy sẽ cho anh biết anh có đi đúng đường không".
Tất nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể thừa nhận sự thật rằng, đồng nghiệp mà họ ngưỡng mộ lại là một điệp viên cao cấp của phía bên kia, đặc biệt với những người làm nghề mà giới phương Tây vẫn xem là độc lập (tương đối) và thường được mệnh danh là Quyền lực thứ Tư này.
Peter Arnett (người được biết đến như một phóng viên chiến tranh có hạng của Thông tấn xã AP, CNN… từng đưa tin về cuộc chiến tranh Việt Nam. Gần đây nhất ông có mặt ở Baghdad để đưa tin về cuộc chiến vùng Vịnh, đã phỏng vấn Saddam Hussein; sau đó qua Afghanistan, phỏng vấn Osama Bin Laden năm 1997) đã chỉ trích ông Ẩn: "Mặc dù tôi biết ông ta như một người Việt Nam yêu nước, tôi vẫn cảm thấy như bị phản bội xét về nghề báo chí. Có nhiều lời cáo buộc trong suốt cuộc chiến tranh là chúng tôi đã bị những người cộng sản thâm nhập... Nhưng sau đó tôi biết rằng đó là công việc của ông ấy".
Còn ông Ẩn, năm 2003, xuất hiện trên Truyền hình Việt Nam trong chương trình "Người đương thời", vị thiếu tướng lẫy lừng vẫn mỉm cười rất tươi để nhắc lại quan điểm nghề nghiệp của ông: "nghề tình báo, hay nghề báo, chỉ khác nhau ở một chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi?"
Đó cũng như chính điều mà Thomas A. Bass, báo The New Yorker đã viết: "Ẩn là một người "Việt Nam thầm lặng". Ông nói rằng ông không bao giờ dối ai, rằng ông cung cấp cho báo Time chính những bài phân tích chính trị mà ông đã gửi cho ông Hồ Chí Minh. Ông là con người bị xẻ đôi với lòng trung chính cao độ, một người sống trong sự giả dối nhưng lại luôn nói sự thật."
Hơn hết thảy, Frank McCulloch, Tổng biên tập tờ Time ở châu Á, người đã thuê ông Ẩn làm việc cho tạp chí Time đã nhìn thấu suốt mọi câu chuyện: "Liệu tôi có giận dữ khi biết câu chuyện về ông ấy? Hoàn toàn không. Tôi nghĩ đó là Tổ quốc của ông ta. Nếu ở vào hoàn cảnh như vậy, tôi sẽ làm điều tương tự".
... Cùng hàng ngàn câu hỏi tại sao?
Với những người làm báo, khi đứng trước một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật, luôn có một câu hỏi mà họ phải tự đặt ra: "Tại sao?”. Tại sao thế này, tại sao thế kia?
Nhưng muốn lý giải chỉ bằng một mệnh đề hỏi như vậy sẽ chẳng bao giờ đủ, bởi mỗi con người luôn có những lý do cho con đường đi của riêng mình. Vì thế, những câu hỏi sẽ chỉ được giải đáp theo đúng nguyên nghĩa của mệnh đề "Tại sao?" theo cách mà người được hỏi muốn trả lời.
Thomas A. Bass, báo The New Yorker đã viết: "Ẩn là một người "Việt Nam thầm lặng". Ông nói rằng ông không bao giờ dối ai, rằng ông cung cấp cho báo Time chính những bài phân tích chính trị mà ông đã gửi cho ông Hồ Chí Minh. Ông là con người bị xẻ đôi với lòng trung chính cao độ, một người sống trong sự giả dối nhưng lại luôn nói sự thật." - Ảnh: Phạm Xuân Ẩn với tư cách nhà báo đang tìm hiểu thông tin (Tư liệu)
Muốn được giải thích nhiều hơn, hay muốn hiểu được nhiều hơn, chỉ có thể đặt mình vào chính họ. Nhưng sống như họ, hay ngắn ngủi hơn là cố gắng sống như họ, trong từng giai đoạn cụ thể của cuộc đời họ, cũng chưa chắc có thể hiểu, bởi trong từng góc sâu của mỗi người cũng có những điều không thể lý giải.
Ngay từ khi ông Ẩn còn sống, rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu từng muốn “giải mật” về ông: Tại sao ông lại làm điều đó? Tại sao ông có được sự hiểu biết như vậy? Tại sao trước những hấp lực này, quyến rũ kia, ông vẫn đi trọn vẹn con đường mà ông đã chọn, dù những người nghĩ rằng họ là bạn ông, là đồng nghiệp với ông đã có thể có những nhận định hay lựa chọn khác?
Joseph Fouché – mưu sĩ chiến lược của Napoleon, cha đẻ của ngành anh ninh chính trị - cũng từng nhận định: “Tôi có mối quan hệ với những người có ảnh hưởng đối với những luồng công luận, có ảnh hưởng với các h ọc thuyết và có ảnh hưởng với các tầng lớp giai cấp trong xã hội. Hệ thống quan hệ này đã cho tôi những kết quả sâu sắc. Thông qua sự thổ lộ, tâm tư và những buổi nói chuyện chân tình của họ mà tôi biết tình hình thật sự của nước Pháp còn hơn là hàng đống báo cáo của vô số nhân viên mật báo mà tôi đã trả tiền”.
Đứng ở giữa trung tâm quyền lực của nước Pháp khi ấy, Fouché đã dõi con mắt của mình ở mọi ngóc ngách của cuộc sống, để rồi lý giải ra rằng: con người ở nước phát triển hay thế giới lạc hậu thì đều có những nhu cầu vật chất. Trong số những tham vọng cá nhân vô hạn và không thể thoả mãn được, có 2 động cơ chính cho tham vọng, đó là quyền lực và quang vinh.
Là người thông hiểu cả hệ thống tư bản Anh - Mỹ - Pháp, Phạm Xuân Ẩn đã học lại toàn bộ lý luận đó để áp dụng trở lại với chính những con người trong hệ thống ấy. Ông tự xây cho mình mối quan hệ tốt với đủ mọi tầng lớp có ảnh hưởng trong xã hội, để rồi từ đó ông hiểu nội tình chế độ tay sai còn hơn chính những người luôn tự đắc tuyên bố muốn xây một xã hội dân chủ dựa trên những đồng đôla Mỹ.
Chính vì thế, ông biết chắc rằng, sẽ chẳng có ai trong hệ thống kia sẽ hiểu được những gì chất chứa trong lòng ông. Bởi mấy ai biết rằng, năm 1957, để sang Mỹ học, Trung đã được đào tạo bởi 5 người thầy khác nhau, trong quãng thời gian dài tới 5 năm.
Đến trước khi lên đường theo diện tự túc, "anh Hai" - một trong những người thầy của Trung - đã phải chạy vạy, vay mượn cơ sở mấy ngàn đồng trong hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu để đóng tiền vé máy bay thế thân cho Trung .
Xúc động nhất, ngay giờ phút ra đi, chính anh Ba, một người anh Việt Nam thứ thiệt, đã ôm và hôn Trung vào hai bên má. Cái ôm của tình đồng chí ấm áp đến nỗi mà Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn khi già rồi vẫn nhớ như in rằng: "Từ bé đến giờ, Trung toàn bị đánh. Chưa từng có ai ôm Trung như anh Ba cả. Cái ôm đó khiến Trung suýt khóc khi lên đường".
Liệu những đồng nghiệp, và cả những đối thủ của Trung, đã bao giờ sống đủ ở Việt Nam để hiểu được câu nói "Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy" chưa? Sau này, chính những người thầy của Trung đã nghiến răng chấp nhận hy sinh, chịu đòn roi tra tấn dã man trong nhà ngục Chín Hầm khét tiếng để không bao giờ để lộ tin tức về người học trò của mình.
Đi cùng ông suốt 23 năm trời còn có những người đồng đội đã khiến ông luôn ngưỡng mộ, kính phục như Tám Thảo, Ba Già, Hai Thương, Tư Cang.... Những người đồng chí của Trần Văn Trung, mà trong một bản đánh giá chưa từng công khai, đã viết lại những nhận định của cấp cao nhất về lưới tình báo 2T (bí số của Phạm Xuân Ẩn): "Tập thể xung quanh 2T là một tập thể trong sáng, anh hùng".
Phạm Xuân Ẩn – ông và đồng đội – đã cùng làm nên huyền tích để chính những thế hệ sau của ông luôn giữ lời thề: Đất nước này, nếu có nguy nan thì họ sẽ là những người đầu tiên chấp nhận họng súng kê thẳng vào đầu mình để siết cò. Bởi, cha anh họ đã luôn làm như vậy.
Việt Hà - Hà Trường - Thế Vinh
* Một phần nội dung trong phần viết này được trích dẫn tham khảo từ "Nhà tình báo - người đã từng yêu quý chúng ta" của Thomas A. Bass)
Kỳ 14: "Nghệ thuật ẩn mình" của một điệp viên Hơn 30 năm sau, Phạm Xuân Ẩn đã nói với những người phỏng vấn ông: "Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi". Sự an toàn của ông, không hề đơn giản, nó có cả một "nghệ thuật ẩn mình".
Thiếu tướng Trần Văn Trung (2T) phân tích rằng: "Điệp viên đơn tuyến là người sống cô độc, dù anh ta có vợ con bên cạnh cũng thế. Xung quanh anh ta là một xã hội anh ta không chấp nhận được, nhưng bắt buộc phải sống ở đó. Hoạt động của anh ta là hoạt động của một người phạm pháp trong xã hội đó. Bề ngoài và công khai anh ta phải chứng minh cho các mối quan hệ của anh ta là anh ta chấp nhận và bảo vệ xã hội đó, nhưng thâm tâm là lật đổ chế độ đó đi".
"Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi".
Vì vậy, nếu điệp viên bị bắt, cầm chắc cái chết, hoặc thương tật vĩnh viễn suốt đời. "Trường hợp trốn thoát chỉ là hãn hữu, không nên kỳ vọng", Hai Trung chú dẫn.
Muốn không bị bắt, "điệp viên phải như cá nằm sâu dưới đáy biển, nổi lên là chết".
Còn Phạm Xuân Ẩn thì “nổi lềnh bềnh” trên mặt nước, thậm chí danh tiếng còn nổi ra ngoài biên giới Việt Nam, bởi ông làm nghề phải tiếp xúc với đủ dạng người, mỗi ngày.
Trong cuốn sách Making of a Quagmire ("Một thế sa lầy đang thành hình") năm 1965 nói về Chiến tranh Việt Nam của David Haberstam, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn tại báo Time, Haberstam đã miêu tả Phạm Xuân Ẩn như là "cái đinh chốt của một mạng lưới tình báo nhỏ nhưng hạng nhất" của các phóng viên.
Khi biết về câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn, và trả lời về thái độ cá nhân, ông nói: "Đây là một câu chuyện đầy mưu mô, khói và gương, nhưng tôi vẫn quý mến Ẩn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị Ẩn phản bội. Anh ta đã phải sống với việc là một người Việt Nam trong một thời điểm gian nan trong lịch sử của họ...".
Ông nhận xét: "Câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn nhắc lại tất cả những câu hỏi căn bản do Graham Green từng nêu ra trong tác phẩm The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng): Thế nào là sự trung thành? Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là sự thật? Anh là ai khi anh nói những sự thật ấy?".
Cuối cùng, Halberstam kết luận: "Có một mâu thuẫn đối với Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hình dung được. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy ông là một con người bị xẻ làm đôi ở giữa".
Không chỉ David Haberstam, mà còn rất nhiều người khác, cả những đồng nghiệp của ông lẫn những học giả quan tâm đến lưới tình báo 2T đã muốn phân tích rằng: Trong con người Thiếu tướng Hai Trung là một sự giằng xé giữa lý tưởng và hiện thực, giữa đồng đội và đồng nghiệp, giữa thật và giả...!
Trong khi đó, cuộc sống của 2T suốt 15 năm (1960-1975), như ông tự bạch "chỉ có giả dối bề ngoài: Thấy địch chết phải tuôn nước mắt cá sấu mà khóc. Thấy chiến sỹ ta bị sát hại phải nuốt hận để mừng thì không có gì khổ tâm cho bằng".
Nhưng ông vẫn luôn sống thật, rất thật, để những người phía bên kia chiến tuyến, lẫn những người không có cùng chung một góc nhìn về tư tưởng, phải kính trọng ông.
Sự kiện "đình đám" nhất mà giới báo chí phương Tây đổ xô vào phân tích, khi muốn dẫn tới kết luận Trần Văn Trung "gặp khó khăn" với những người đồng đội, là việc mà ông đã giúp đỡ Trần Kim Tuyến di tản khỏi miền Nam Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975.
Nhưng trước đó, từ 1960, chính Phạm Xuân Ẩn đã cứu thoát Trần Kim Tuyến trong cuộc binh biến của lính dù được xem là do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.
Chiếc xe này đã giúp sức cho "nghệ thuật ẩn mình" của nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn!Việc cứu Tuyến trong thời điểm đó, như Hai Trung nhìn nhận, Mỹ đã "ghét" Diệm tới cực điểm khi Diệm tái đắc cử Tổng thống với việc đạo diễn tới 90% số phiếu ủng hộ, để tiếp tục chiêu bài "quốc gia" và "đồng minh, chiến hữu" trong khi hoàn toàn phụ thuộc vào tiền, viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ, chưa từng được xem xét dưới góc độ khó khăn.
Sự kiện này, chính Hai Trung đã chiêm nghiệm: “Bất cứ một ngành nghề nào và bất cứ công tác nào cũng phải chú trọng đến mối quan hệ giữa người và người. Đối với ngành tình báo, nhất là đối với 1 điệp viên hoạt động ở vùng địch hậu thì quan hệ giữa người và người là rất quan trọng vì điệp viên phải giao dịch hằng ngày với đủ hạng người, nhất là với địch. Còn con người thì lúc nào cũng phức tạp. Nhất là con người mà điệp viên phải tiếp xúc, vì họ không phải là đồng chí, cũng không phải là đồng bào tối của điệp viên... Con người thì lại hay thay đổi hơn là môi trường xung quanh của người".
Cũng từ quan điểm đó, ông chọn chữ THẬT để sống, để tiếp xúc, thiếp lập quan hệ lẫn làm việc, khai thác thông tin. Điều gì đã nói, là phải nói cho THẬT. Cả trong cách bông phèng khôi hài thì ông vẫn rất thật, bởi ông là một người hài hước.
Điều đó, cũng chính là cách mà hơn 30 năm sau, ông đã nói với những người phỏng vấn ông: "Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi".
Một chi tiết từng được Thomas A. Bass nhắc đến: Khi các bản báo cáo của Trần Văn Trung gửi ra Hà Nội, những cấp trên của ông từng vui mừng thốt lên: "Chúng ta đang ở ngay trong phòng chỉ huy cuộc chiến tranh của Mỹ".
498 bản tin, có phân tích và nhận định của cá nhân, trên quan điểm của một điệp viên nằm sâu trong lòng địch, từ 1961 - 1975, có thể chỉ là những con số thống kê vô hồn.
Nhưng lời nhận xét của những người có trách nhiệm đánh giá về giá trị tin tức do Hai Trung chuyển về có thể hé lộ một phần ánh sáng của câu chuyện: "Từ năm 1961 đến tháng 4/1975, lưới đồng chí 2T đã phục vụ được nhiều tài liệu nguyên bản, những chủ trương chiến lược của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và Việt Nam hoá chiến tranh.
Trong mỗi thời kỳ chiến lược, đồng chí đã phát hiện sớm những ý đồ chuyển hướng chiến lược của địch. Những kế hoạch quân sự từng thời kỳ và các biện pháp chiến lược của địch; những kế hoạch quân sự hằng năm; những ý đồ chủ trương lên thang xuống thang của Mỹ - ngụy đều được báo cáo kịp thời và chính xác... góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước".
Sẽ rất khó có lời đánh giá nào cao hơn về công lao đóng góp của Trần Văn Trung.
Nhưng ai cũng muốn biết, Hai Trung đã có những tài liệu nào và đã có như thế nào?
Cú thoát hiểm ngoạn mục
Đầu năm 1961, Hai Trung vừa bắt lại được liên lạc thông qua Tám Thảo. Ngay sau đó, Trung chuyển vào căn cứ tài liệu McGarr "Technics and Tactics of Counter Insurgency".
Tận dụng mối quan hệ rộng rãi của mình, Hai Trung thường xuyên thu thập tin tức và tài liệu từ các tướng lĩnh quân đội Mỹ và VNCH - Ảnh: Tư liệu
Bản tài liệu do tướng Mỹ Lionel McGarr, chỉ huy trưởng MANAG soạn với nội dung "tập trung chống cộng sản và du kích về quân sự; còn những vấn đề chính trị, hành chính và kinh tế cũng chỉ tập trung nhằm mục đích chống cộng". Tài liệu này Hai Trung được Trần Kim Tuyến, Lê Văn Thái (Sở nghiên cứu chính trị - văn hoá - xã hội) đưa cho để nghiên cứu, góp ý, sau đó sao y bản chính gửi ra căn cứ.
Rất bất ngờ, tài liệu bí mật quân sự của Mỹ do Hai Trung lấy về được tóm tắt lại rồi đem đăng trên tạp chí Quân đội giải phóng, để phổ biến rộng rãi ý đồ của địch một cách... nhanh nhất.
Mà tài liệu chính là điệp viên. Bởi, bất cứ cơ quan tình báo nào cũng dễ dàng truy ra tung tích của tài liệu, nguồn xuất phát, từ đó dò tìm ra điệp viên, nếu bắt được tài liệu.
Chỉ có 3 nguồn để có bản tài liệu này: Bộ tổng tham mưu, The Asia Foundation và tình báo VNCH, hoặc từ Sở nghiên cứu chính trị của Tuyến.
2T mò sang Bộ tổng tham mưu thăm hỏi, nhưng không thấy động tĩnh. Chỉ thấy quan thầy lo sốt vó.
Bỏ qua BTTM, chỉ còn 2 nguồn. Trung đến gặp Đặng Đức Khôi, tung tin thăm dò "chắc là tài liệu ngụy tạo nội bộ nhằm hại nhau, hoặc do Việt Cộng tung ra nhằm ly gián".
Để phối kiểm cho chắc ăn, Trung sang Sở nghiên cứu chính trị gặp Tuyến, Thái, thấy hai người này "thở" ra giọng điệu giống hệt Khôi.
Thời điểm đó, Sở nghiên cứu chính trị (được Ngô Đình Nhu bảo kê) chịu sự "cạnh tranh" khốc liệt của Đoàn công tác đặc biệt miền Trung dưới tay Ngô Đình Cẩn nhằm "hất cẳng" sự ảnh hưởng của ông anh trai đang là Cố vấn của Tổng thống Diệm.
Trong khi đó, người Mỹ cũng tỏ ra không thích thú gì khi có một cơ quan mật vụ có quyền lực bao trùm cả miền Nam Việt Nam, vốn đang được nuôi sống bởi đô la, vũ khí, viện trợ Mỹ nhưng lại không chịu tuyệt đối tuân theo sự chỉ huy của cố vấn Mỹ.
Mối ngờ vực bao trùm lên toàn bộ nhữg kẻ có cùng lợi ích, theo cách này hay cách khác, trong sự liên quan tới Mỹ. Nhưng tất cả đều gạt Hai Trung ra ngoài bởi quan hệ thân cận hữu hảo của "người của Phủ Tổng thống", "người của ông Tuyến", "người của CIA", "người bảo vệ tuyệt đối nguồn tin do Mỹ dạy" mà Trung đã tạo dựng.
Tất nhiên, không chỉ riêng Sở nghiên cứu chính trị có bản tài liệu này. Nhưng sự việc vẫn cần một đầu mối chịu trách nhiệm. Sau đó ít lâu, Trần Lệ Thích, nhân viên trực tiếp dưới quyền Khôi, một người từng tham dự đọc tài liệu, sợ quá không chịu nổi áp lực, xin thôi làm ở The Asia Foundation (cơ quan núp bóng của CIA), qua Mỹ làm cho Đài VOA (Đài tiếng nói Hoa Kỳ).
Hai Trung tự dỡ bỏ lệnh "nằm im" mà cấp trên chỉ đạo, tiếp tục dấn thân vào sâu hơn để tìm kiếm những bản tài liệu tuyệt mật về ý đồ, mục tiêu chiến lược của đối phương.
Người của nhiều phía
Tới tháng 5/1961, mâu thuẫn gay gắt giữa Diệm và người Mỹ phần nào được giải quyết, sau một vài động thái Diệm nghe lời Mỹ trong việc dỡ bỏ dần lối cai trị "gia đình trị", tạo hình thức dân chủ giả tạo thông qua bầu cử, sử dụng nhiều "Mỹ con" hơn trong bộ máy.
Ngay lập tức. John F. Kennedy (Tổng thống Mỹ) sai Lyndin B. Jonhson (Phó Tổng thống) và em gái Kennedy sang Việt Nam, tuyên bố công khai ra mặt ủng hộ Diệm.
Đó là hệ quả tất yếu sau sự kiện tháng 11/1960, Mỹ làm xong động tác "rung cây nhát khỉ" khi dùng Nguyễn Chánh Thi vào cuộc "đảo chính giả cầy" nhằm doạ anh em Diệm.
Thomas A. Bass từng nhắc đến: Khi các bản báo cáo của Trần Văn Trung gửi ra Hà Nội, những cấp trên của ông từng vui mừng thốt lên: "Chúng ta đang ở ngay trong phòng chỉ huy cuộc chiến tranh của Mỹ!".
Sự vụ đình đám khiến gia đình Diệm vui mừng càng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ quan thầy VNCH, khi Tuyến nổi xung chửi luôn cả Mỹ: "Thằng Mỹ ngu quá, có ủng hộ thì cũng nói vừa thôi. Nó nói thế thì mình làm sao mà khuyên ông cụ sửa đổi đường lối gì được. Đây rồi không vừa ý Mỹ thì nó lai dở trò nữa mà xem".
Sự uất ức của ông thầy tu xuất Trần Kim Tuyến từ thời điểm đó, đã khiến về sau, Tuyến mạnh dạn dám bắt tay với một nhân vật khác (mà Tuyến không hề biết là nhân vật đặc biệt của Hà Nội, VietNamNet sẽ tiếp tục đề cập trong loạt bài sau - NV) để lật anh em Diệm - Nhu; rồi tới cả Nguyễn Khánh. Nhưng đó là một câu chuyện khác.
Sự rối ren, lủng củng, mâu thuẫn nội bộ của một chế độ "ăn bám" giúp Trung "lặn" sâu hơn vào tầng sâu của bí mật để tìm kiếm những bí mật khác.
Cũng trong năm 1961, kế hoạch Khu trù mật thất bại theo kế hoạch dinh điền, buộc Mỹ - Diệm phải tìm cách thay đổi. Kế hoạch Ấp chiến lược ra đời. Hai Trung là một trong sốt ít những nhà báo thân cận với chính quyền (tay sai và ông chủ) được mời đi thị sát đầu tiên trại thí điểm về Ấp chiến lược ở Tân Hiệp, Tân An (Long An). Về sau, chính 2T bị phê bình đã không báo cáo ngay việc này.
Thời điểm đó, kế hoạch Ấp chiến lược được Mỹ "trình" qua cho Diệm. Văn phòng Ngô Đình Nhu trực tiếp tiếp nhận, soạn thảo bản đối ứng bổ sung của kế hoạch nguy hiểm này. Người phụ trách phần việc là Nguyễn Văn Khoa, anh rể của cha Nguyễn Ngọc Lan, đang là cố vấn của Nhu. Khoa vốn học trường mà Ngô Đình Thục, người được Diệm, Nhu đặc biệt kính nể trong gia đình, từng theo học.
Từ văn phòng Nhu, kế hoạch này "bay" về Sở nghiên cứu chính trị - văn hoá - xã hội với yêu cầu tìm hiểu thêm mô hình tổ chức Kiburt (ấp chiến đấu của Israel) để nghiên cứu, đề xuất bổ sung. Người trực tiếp phụ trách phần việc là Lê Văn Thái.
Thái vốn tiếng Anh không tốt, kế hoạch Ấp chiến lược lại khá đầy đặn. Để "gửi" lại người Mỹ phê duyệt lần cuối trước khi thực thi, Thái gọi Trung lên giao lại để góp ý và nhờ dịch sang tiếng Anh. Mừng như mở cở, Trung ôm luôn về đọc qua, sao một bản gửi ra ngay căn cứ, còn bản gốc mang sang cho Pete Robert (ngư ời của đại sứ quán Anh) nhờ "dịch giùm".
Tất nhiên, người Anh đã không thể không nhiệt tình khi nhìn thấy "món quà" bản kế hoạch chiến lược "khủng" này "rơi" từ phía người bạn Hai Trung sang, nên dốc sức dịch giúp rất nhanh chỉ trong vòng 1 tuần. Trong mối quan hệ tìm kiếm ảnh hưởng, việc Robert lưu giữ bản dịch là điều dễ hiểu, còn con đường đi tới đâu thì Trung cũng không quan tâm.
Xong nhiệm vụ với Thái, Trung đem tài liệu đã dịch về nhà "ngâm" tới khi Thái giục cuống lên, mới đưa ra.
"Món quà" của Trung khiến người Anh rất đỗi nhiệt tình khi sau đó tiếp tục giúp đỡ với kế hoạch Ấp chiến đấu. Lê Văn Thái tiếp tục tin tưởng vào trình độ của một nhân viên mẫn cán. Còn Hà Nội thì đã có nguyên bản kế hoạch "dồn dân lập ấp, tát nước bắt cá", lập vùng trắng tách Việt Cộng với dân chúng... đặc biệt nguy hiểm do những cái đầu siêu đẳng về chiến lược của cả Mỹ lẫn Diệm dành thời gian, công sức vẽ ra.
Việc phá Ấp chiến lược những năm 1962 - 1963, sử sách đã ghi lại rất rõ.